SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 1: GIAI ĐOẠN THAI NHI
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THAI NHI
Sự phát triển trước khi sinh bắt đầu khi tinh trùng và trứng thụ tinh thành công
để tạo thành một sinh vật mới kết hợp một số đặc điểm của bố mẹ. Theo Rogers
Taun Annissa (2010), thai nhi phát triển qua ba giai đoạn:
1. Quý Thứ Nhất (Ba tháng đầu)
Từ tuần lễ 0 đến 13 được xem là quan trọng nhất trong việc chăm sóc thai
nhi và lây nhiễm những độc tố từ mẹ và môi trường
- Tháng thứ nhất
Cấu trúc não bộ căn bản, tim, phổi, hệ tiêu hóa và hệ thần kinh phát
triển vào cuối tháng thứ nhất
Bắt đầu có tay chân
- Tháng thứ 2
Cơ quan bên trong trở nên phức tạp hơn
Mắt, mũi, miệng được thành hình
Có thể dò được tim thai (nhịp tim)
Trước đó bé được gọi là phôi thai, giờ thì cho đến 8 tuần, bé được gọi là
bào thai
- Tháng thứ 3
Hình thành cánh tay, bàn tay, chân, bàn chân, móng, tóc và mí mắt
Chỉ tay xuất hiện
Giới tính bắt đầu rõ ràng (mặc dù tuần thứ 14 mới thấy qua siêu âm
được)
Phát triển hệ xương
Có thể cười, cau mày, bú và nuốt
Cuối quý thứ nhất, bé dài khoảng 7.5cm và cân nặng 28 gram
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
2. Quý Thứ Hai
Tuần thứ 14 đến tuần 27 đánh dấu sự tiếp tục tăng trưởng và phát triển
Tất cả các bộ phận đều tiếp tục phát triển, cơ quan và các hệ thống rõ ràng
và hoàn chỉnh hơn
- Ngón chân và ngón tay tách rời nhau
- Móng tay và móng chân hoàn thiện
- Có sự chuyển động phối hợp
- Tóc, lông mi, lông mày xuất hiện
- Tim đập đều
- Chu kỳ thức - ngủ được thiết lập
Cuối quý thứ hai, bé dài 28 đến 35cm và cân nặng từ 1 đến 700gr.
3. Quý Thứ Ba
Tuần 18 đến 40 hay 38 đánh dấu những giai đoạn phát triển sau cùng
- Phát triển toàn diện, các cơ quan hoạt động
- Mô mỡ xuất hiện dưới da
- Bào thai ngọ ngoạy nhiều cho đến khi được sinh ra
- Phản ứng lại với âm thanh
Cuối quý thứ 3, bé dài khoảng 40cm và cân nặng trên dưới 2,7 kg.
Ta có thể nhận thấy rằng sự phát triển phức tạp và quan trọng nhất của bào
thai xảy ra trong ba tháng đầu. Vì lý do đó trong ba tháng này, cần phải
chăm sóc thai nhi cẩn thận và tránh những chất độc do bà mẹ và môi trường
đem lại. Vì các cơ quan và các hệ thống quan trọng như tim, mắt, tứ chi, tai,
răng và hệ thần kinh trung ương phát triển trong 9 tuần đầu nên những tổn
thương thể lý và cấu trúc có thể xuất hiện trong suốt giai đoạn này. Sau 9
tuần, tổn thương vẫn có thể xuất hiện nhưng ít nghiêm trọng hơn.
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ TRƯỚC
KHI SINH VÀ SAU NÀY
1. Sức khỏe thể chất, cảm xúc, tâm lý của cha mẹ
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Nhân viên công tác xã hội phải đối phó với những vấn đề tâm sinh xã hội
khi làm việc với phụ nữ mang thai. Trước hết và trên hết, một số thân chủ
phải quyết định tiếp tục hay ngưng mang thai. Để giúp thân chủ có quyết
định về vấn đề này, nhân viên công tác xã hội có thể giúp thân chủ khám
phá niềm tin tôn giáo và tâm linh của mình, những trạng thái cảm xúc
khác nhau dẫn đến những quyết định khác nhau. Bên cạnh đó, nhân viên
công tác xã hội cũng giúp cho thân chủ chuẩn bị vai trò làm cha mẹ, nhận
con nuôi hay phá thai.
- Nếu thân chủ quyết định tiếp tục mang thai, nhân viên công tác xã hội
phải đánh giá sức khỏe thể chất của cả bố lẫn mẹ để giúp người mẹ có
sức khỏe tốt và dưỡng thai tốt để tránh vấn đề hậu sản. Tiến trình này bao
gồm khám phá những yếu tố như tuổi tác chế độ dinh dưỡng, bệnh tật,
stress, thể dục, và việc sử dụng các hóa chất của thân chủ.
- Độ tuổi sinh con của người phụ nữ là 20 đến đầu 30 tuổi, các bà mẹ vị
thành niên hoặc các bà mẹ tuổi trung niên, có nhiều khả năng sinh con
khuyết tật. Độ tuổi của bố 30 - 40. Tinh trùng làm trứng thụ tinh gia tăng.
Nam giới lớn tuổi có nhiều khả năng sinh con thừa 1 nhiễm sắc thể 21
dẫn đến hội chứng Down.
- Chế độ dinh dưỡng của người mẹ kém, làm việc và nghỉ ngơi không hợp
lí hoặc bị ốm đau bệnh tật, căng thẳng sẽ khiến trẻ bị suy dinh dưỡng
ngay khi còn ở bào thai và người mẹ có nhiều khả năng sinh non, sinh
con không đủ tháng, ảnh hưỏng đến sự phát triển của hệ thần kinh trung
ương của trẻ. Thường các bà mẹ có mức tăng cân ở cuối thai kì thấp,
dưới 6kg, chắc chắn là bào thai đã bị suy dinh dưỡng, khi sinh ra cân
nặng của trẻ sẽ rất thấp. Lý tưởng là cuối thai kỳ (tức sau 9 tháng 10
ngày), bà mẹ phải tăng cân được 12kg trở lên (3 tháng đầu chỉ tăng 1kg,
3 tháng thứ hai tăng 5kg, 3 tháng cuối mỗi tháng tăng 2kg). Số cân nặng
này chia cho bào thai, rau thai, nước ối, và máu hết 7,5kg, 5kg còn lại
được chuyển vào mô mỡ dự trữ để tiết sữa nuôi con.
- Suy dinh dưỡng xảy ra ở 3 tháng cuối của thai kì làm cho bộ não trẻ
chậm phát triển, sau này trẻ sẽ kém thông minh. Trẻ bị suy dinh dưỡng
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
bào thai khi chào đời dễ bị hạ thân nhiệt, hạ đường máu gây rối loạn nhịp
thở, hạ canxi máu gây co giật. Nếu được nuôi dưỡng đúng, trẻ sẽ phát
triển bình thường và đạt mức cân nặng như những trẻ khác sau 2-3 tháng.
Ngược lại, nuôi dưỡng không tốt, trẻ tiếp tục bị suy dinh dưỡng, trẻ ốm
đau, quặt quẹo, còi cọc, chậm phát triển trí tuệ, kém thông minh.
- Thêm nữa, một số thân chủ có lịch sử gia đình có bệnh hay có vấn đề về
di truyền cũng cần được đi kiểm tra tính di truyền. Nhân viên công tác xã
hội hỗ trợ thân chủ bằng cách dạy cho họ biết tiến trình phát triển của
thai nhi và những hành vi nào thân chủ cần có để bảo vệ sức khỏe bà mẹ
và con trẻ.
- Những yếu tố khác cần xem xét bao gồm mức độ phát triển, mức độ cảm
xúc, chức năng nhận thức, tâm lý sẵn sàng làm cha mẹ, niềm tin tôn giáo,
hoàn cảnh kinh tế, những vấn đề về tương quan gia đình (cụ thể là nếu có
bạo lực gia đình thì đó là một vấn đề), tiếp cận các nguồn hỗ trợ và các
tài nguyên khác, và sự chuẩn bị làm cha làm mẹ.
2. Những hiểm nguy đối với sự phát triển của bào thai
Vì có nhiều vấn đề có thể xảy ra với bào thai, cho nên việc chăm sóc tiền
sinh sản và sức khỏe bà mẹ hết sức quan trọng khi làm việc với thân chủ đang
mang thai. Nhân viên công tác xã hội có thể giúp thân chủ ngăn ngừa được
những hiểm nguy và hỗ trợ thân chủ trong việc đối phó các vấn đề.
Một số hiểm nguy đối với sự phát triển của bào thai gồm có:
- CÁC CHẤT KÍCH THÍCH
Rượu
Nicotine
Các chất bất hợp pháp như cocaine, thuốc phiện, heroin
- CHẤT ĐỘC HẠI TRONG MÔI TRƯỜNG
Chất phóng xạ
Thuốc trừ sâu
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Hóa chất như chì, thủy ngân, pcb (polycholorinated biphenyls) có
trong máy biến thế và hội hoạ
Tia X
- CÁC YẾU TÔ LIÊN QUAN ĐẾN CHA MẸ
Bệnh tật ví dụ như rubella, giang mai, mồng gà, AIDS, vi rút cự bào
Chế độ dinh dưỡng kém
Stress
Tuổi tác (quá trẻ hoặc quá lớn tuổi)
Gien bất thường
3. Các biến chứng khi sinh
Nhìn chung, thời kỳ mang thai đầy đủ kéo dài từ 38 đến 40 tuần. Bé sinh
trước 36 tuần gọi là sinh non. Dù trẻ được 21 tuần trở xuống trong bụng mẹ có
thể sống sót nhưng trẻ sinh sớm sẽ có nhiều vấn đề về lâu về dài. Trẻ sinh non
thường có trọng lượng thấp, 2.500gr trở xuống. Trong 1 năm đầu trẻ sinh non
phát triển chậm hơn trẻ sinh đủ tháng. Khi trẻ 2 - 3 tuổi, sự khác biệt với trẻ
bình thường biến mất nếu được chăm sóc tốt về y tế và điều kiện gia đình hỗ
trợ tốt.
- Trẻ sinh thiếu cân hay sinh non là do nhiều yếu tố như mẹ hút thuốc,
bệnh tật hay mang thai khi quá trẻ hay quá lớn tuổi, lạm dụng ma túy, suy
dinh dưỡng, stress trầm trọng. Chúng có thể bị các vấn đề như tổn thương
não bộ, bại não. Hậu quả lâu dài của thiếu cân là khả năng nguy cơ tử
vong cao, hen suyễn, tiểu đường, suy dinh dưỡng, đau tim, có vấn đề học
tập, khuyết tật, rối loạn và nhược cơ.
- Cũng cần lưu ý rằng, khi trẻ lọt lòng mẹ, thở là điều quan trọng nhất.
Trong khoảnh khắc sau khi sinh trẻ sơ sinh phải lấy oxy từ chính phổi
của mình. Nếu thiếu oxy (do rối nhau, dây rốn nối với nhau bị kẹp hoặc
phổi của bé không phản ứng tốt) tế bào bắt đầu chết, nhất là tế bào não gây
giảm thiểu trí năng và liệt não.
Tóm lại: Nhân viên công tác xã hội cần có những kiến thức nhất định về
bào thai, sinh con và hậu sản. Thân chủ thường dựa vào những hiểu biết của
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
nhân viên công tác xã hội để quyết định. Nhân viên công tác xã hội có thể hỗ
trợ và giáo dục thân chủ nhiều trong giai đoạn mang thai. Mặc dù hầu hết các
kiến thức về phát triển của thai nhi được trình bày trên đây lấy từ mô hình y tế
và tâm sinh xã hội, nhân viên công tác xã hội có thể phối hợp các thông tin từ
nhiều lý thuyết khác trong tiến trình can thiệp để giúp hiểu rõ hơn việc mang
thai và sự phát triển của bào thai ảnh hưởng thế nào đến thân chủ, và các mối
tương quan xã hội của họ.
III. PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP
H là một nữ sinh 18 tuổi vừa mới phát hiện có thai hai tháng tuổi. Cha của đứa
bé là bạn trai 19 tuổi của H. Họ quen nhau được một năm. Cả hai đang học đại
học, có nhiều bạn bè và học hành tốt. Cha mẹ của H có cái nhìn bảo thủ về gia
đình, hẹn hò, hôn nhân, tôn giáo và vai trò của các thành viên trong gia đình. Vì lý
do đó, H sợ, không biết cha mẹ sẽ phản ứng ra sao nếu họ phát hiện em đang mang
thai. Thật ra cha mẹ của em còn không biết là em đang hẹn hò nữa. Khi không thể
chế ngự được những triệu chứng có vẻ như bệnh cảm, H mua que thử và biết mình
có thai. Em rất hoảng loạn, nửa muốn giữ lại thai nhi, nửa sợ rằng giữ lại thì cha
mẹ sẽ chối bỏ mình và không hỗ trợ gì. Bạn trai của H nói với em rằng nó sẽ
không giúp gì cho em nếu em quyết định giữ đứa bé lại. H cũng không muốn bỏ
học, vì thế em đang cố gắng khám phá mọi chọn lựa với bạn là nhân viên công tác
xã hội.
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN THAI NHI
- Quá trình hình thành và phát triển của thai nhi theo từng quý trong đó quý thứ
nhất đóng vai trò quan trọng bậc nhất
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ trước khi sinh và sau này: sức
khỏe thể chất, tâm lý của cha mẹ, môi trường không an toàn và các biến chứng
khi sinh là những điều cần lưu ý trong giai đoạn này
- Thực hành phân tích trường hợp một em gái 18 tuổi có thai được hai tháng nhằm
nêu bật nhu cầu bảo đảm sức khỏe thể chất, tâm lý và cảm xúc của thân chủ này
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 2: GIAI ĐOẠN TỪ 0 ĐẾN 6 TUỔI
I. THỜI KỲ SƠ SINH (0-2 THÁNG TUỔI)
Từ 0 - 2 tháng, trẻ rất yếu ớt, nếu tách khỏi người lớn thì không thể tồn tại được.
Não bộ của trẻ nặng khoảng 400gram, lượng tế bào thần kinh khá đầy đủ nhưng
các sợi dây thần kinh hoạt động còn rất hạn chế. Trong thời gian này, trẻ có một số
đặc điểm sau:
1. Sự phát triển các giác quan
- Bộ máy thị giác và thính giác của trẻ sơ sinh trong thời gian đầu hoạt
động chưa hoàn thiện, chỉ khi ở khoảng cách gần nhất mới gây ra phản
ứng nhìn và những âm thanh chói tai mới gây ra phản ứng nghe nơi trẻ.
Tuy nhiên hai bộ máy này cùng với sự phản ứng đối với các vật kích
thích bên ngoài sẽ được hoàn thiện nhanh chóng trong những tuần lễ và
những tháng đầu tiên dựa trên cơ sở trưởng thành của hệ thần kinh.
Trọng lượng của não tăng lên nhanh chóng, các dây thần kinh lớn lên và
hoàn thiện hơn giúp các giác quan và khả năng vận động phát triển.
- Sự phát triển này còn diễn ra dưới ảnh hưởng của những ấn tượng bên
ngoài mà đứa trẻ tiếp nhận được. Điều kiện cần thiết cho sự trưởng thành
của não trong thời kì sơ sinh là luyện tập các giác quan cho trẻ bằng cách
tạo nhiều cơ hội để các tín hiệu muôn hình muôn vẻ bên ngoài xâm nhập
vào não bộ của trẻ thông qua các giác quan đó. Nếu đứa trẻ bị rơi vào
tình trạng “biệt lập cảm tính” (không có đủ số lượng ấn tượng kích thích
bên ngoài) thì sự phát triển của nó bị chậm lại một cách rõ rệt.
2. Các phản xạ cơ bản
Hầu hết trẻ sơ sinh được chuẩn bị tốt để tương tác với thế giới xung quanh
thông qua một tập hợp các phản xạ không điều kiện đa dạng như:
Tên Phản xạ Ý nghĩa
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Tên Phản xạ Ý nghĩa
Ngón chân xòe ra khi bàn chân bị cù từ gót Có thể là tàn dư của Phản xạ Babinski đến ngón chân (Trẻ bị tổn thương cột sống sự tiến hóa không có phản xạ này)
Chớp mắt Mắt bé nhắm khi quá sáng hoặc quá ồn Bảo vệ mắt
Bé duỗi thẳng cánh tay ra ngoài rồi sau đó Giúp bé bám chặt Phản xạ Moro hướng vào bên trong (như ôm) để phản ứng mẹ với tiếng ồn
Bé nắm chặt đồ vật khi người khác đặt vào Dấu hiệu nắm bắt tự Lòng bàn tay lòng bàn tay ý
Phản xạ cơ bản Khi khều má bé, bé ngoảnh mặt sang bên má
bị khều rồi há miệng Giúp bé tìm núm vú (Phản xạ tìm
kiếm)
Phản xạ bú Bé bú khi người khác đưa đồ vật vào miệng Cho phép nuôi ăn
Bé rút bàn chân khi lòng bàn chân bị người Bảo vệ bé tránh kích Phản xạ rút chân khác dùng kim gút cù nhẹ. (Trẻ bị tổn thương thích khó chịu dây thần kinh hông không có phản xạ này)
Nếu bé không có được những phản xạ cơ bản trên, người chăm sóc phải để
ý và tìm hiểu nguyên nhân để có hướng can thiệp càng sớm càng tốt.
3. Các trạng thái cơ bản
Trong tháng đầu tiên, trẻ dành 80% thời gian để ngủ. Trẻ ngủ từ 18 - 20 giờ
mỗi ngày. Chu kỳ thức ngủ của trẻ sơ sinh khoảng mỗi 4 tiếng (ngủ 3 tiếng,
thức 1 tiếng), sau đó lại bắt đầu một chu kỳ mới. Trong giai đoạn này, trẻ có 6
trạng thái cần phải quan tâm:
- Ngủ ngon, say, hơi thở đều, mắt nhắm nghiền tốt
- Ngủ không sâu, người co giật, hơi thở mạnh không đều cần dỗ dành
- Ngủ lơ mơ, chập chờn không tốt, cần để ý nguyên nhân
- Thức tỉnh táo, nằm yên không ngọ nguậy nhiều tốt
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Thức và cử động nhiều, ngọ nguậy khó chịu có thể chậm tăng cân và
ảnh hưởng đến tâm lý
- Kêu khóc, gào thét cao độ, gồng người trẻ gặp vấn đề bất an, khó chịu
Tiếng khóc là biểu hiện sự giao tiếp đầu tiên của trẻ với người lớn. Có ba
loại tiếng khóc dễ phân biệt (Holden, 1988):
- Tiếng khóc cơ bản bắt đầu thật khẽ sau đó dần dần mãnh liệt hơn diễn ra
khi trẻ đói hoặc mệt
- Tiếng khóc bực bội mãnh liệt hơn tiếng khóc cơ bản
- Tiếng khóc đau đớn bắt đầu bằng một loạt tiếng khóc đột ngột, kéo dài,
tiếp theo là sự tạm ngưng và thở hổn hển
Qua tiếng khóc, trẻ cho người lớn biết nó đói hoặc mệt, giận dữ hoặc đau.
4. Sự phát triển tâm lý
- Nhu cầu gắn bó
Đối tượng đầu tiên mà trẻ chú ý tới trong môi trường xung quanh là
gương mặt người lớn. Ở trẻ hình thành phức cảm hớn hở. Đây là phản xạ
xúc cảm có kèm theo sự vận động và âm thanh phát ra từ đứa trẻ. Khi
phát hiện ra người lớn, trẻ chủ động dùng loại phản xạ này để tác động
đến họ. Đặc biệt, đối với mẹ, trẻ có nhu cầu gắn bó đặc biệt. Ngay từ khi
lọt lòng mẹ, trẻ đã bắt được tín hiệu sự gắn bó giữa mẹ - con qua xúc
giác. Trẻ mút, bám, khóc, mỉm cười, rúc đầu vào ngực mẹ, tìm vú và
muốn được áp sát vào mẹ được ôm ấp vỗ về.
Thông qua những tín hiệu phát ra từ mẹ và con, nhiều công trình đã tổng
kết được 4 kiểu quan hệ mẹ con:
Kiểu thứ nhất: Tín hiệu phát ra ở cả mẹ và con đều mạnh, nghĩa là
nhu cầu gắn bó mẹ con điều tỏ ra bức thiết, mối quan hệ gắn bó mẹ
con được thiết lập dễ dàng (kiểu này phổ biến ở những cặp mẹ con
sinh nở bình thường, xuất phát từ lòng ước ao mong đợi của người
mẹ đón chờ sự ra đời của đứa con). Kiểu này thuận lợi cho sự phát
triển tâm lí của trẻ sau này.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Kiểu thứ hai: Tín hiệu phát ra từ mẹ thì mạnh, nhưng từ con lại yếu.
Thường đây là những trẻ thiếu tháng hoặc khuyết tật bẩm sinh. Người
mẹ không nên giao tiếp với con quá mạnh mẽ hoặc hối hả, mà nên nhẹ
nhàng, từ tốn, nên thường xuyên trò chuyện với trẻ, kiên trì chờ tín
hiệu con đáp lại.
Kiểu thứ ba: Tín hiệu của con mạnh, nhưng của mẹ lại yếu. Kiểu này
thường xẩy ra ở những người mẹ mang tâm trạng riêng tư, phiền
muộn chán chường dẫn đến thái độ thờ ơ với con, không muốn âu
yếm vỗ về nó. Theo đó tín hiệu của đứa con phát ra cũng yếu dần đi,
có khi mất hẳn, trẻ rơi vào trạng thái ủ ê mệt mỏi, thu mình lại.
Kiểu thứ tư: Tín hiệu phát ra đều yếu ở mẹ và con. Đây thực sự là tai
họa, cần có sự tác động của thầy thuốc và những người xung quanh.
Tạo được sự gắn bó mẹ con ngay từ những ngày đầu trẻ mới ra đời là
cách phòng ngừa tốt nhất, tránh cho trẻ nguy cơ chậm phát triển và
những lệch lạc về sinh lí cũng như tâm lý sau này. Nhu cầu gắn bó mẹ -
con là cơ sở cho nhu cầu giao tiếp về sau của trẻ với những người xung
quanh. Mẹ là nguồn gây ấn tượng và là người tổ chức ấn tượng bên
ngoài cần thiết cho sự phát triển thần kinh và các giác quan tâm lí cho
trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy những đứa trẻ thiếu sự yêu thương của
người mẹ từ nhỏ thường sống trong tình cảnh cô đơn, lo lắng và sợ hãi
sẽ mặc cảm trong giao tiếp với người khác.
- Nhu cầu tiếp nhận ấn tượng thế giới bên ngoài
Nhu cầu tiếp thu ấn tượng từ thế giới bên ngoài là cơ sở của các nhu
cầu xã hội khác như nhu cầu giao tiếp và nhu cầu nhận thức sau này
của trẻ. Nhu cầu này gắn liền với phản xạ định hướng. Trẻ nhìn theo
các vật sáng di động, nó phản ứng với âm thanh, đặc biệt giọng nói
của người mẹ. Trẻ có thể nín khóc để lắng nghe tiếng hát ru, giọng
dịu dàng của người lớn. Trẻ tập trung nghe âm thanh, nhìn ánh sáng,
màu sắc. Trẻ sơ sinh tháng thứ hai đã bắt đầu chú ý đến khuôn mặt
người lớn, trẻ thường mỉm cười khi người lớn cúi xuống trò chuyện
với nó. Người lớn cần đưa các ấn tượng bên ngoài đến trẻ. Nếu đứa
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
trẻ bị "đói ấn tượng" nó sẽ chậm phát triển một cách nghiêm trọng
(hội chứng "nằm viện").
5. Khủng hoảng tuổi sơ sinh
- Khủng hoảng tuổi sơ sinh là một bước chuyển biến giữa hình thức sống
kí sinh trong bụng mẹ - một môi trường tương đối ổn định, sang hình
thức sống bên ngoài trong môi trường với vô số kích thích. Đối với trẻ, ra
đời là một cú sốc, mặc dù chúng không có một ý thức nào về việc này.
Các nhà phân tâm học gọi đó là tổn thương đầu tiên mà trẻ phải chịu
đựng và nó có tác động rất mạnh đến cả cuộc đời sau này của con người.
Đó là một sự đảo lộn hoàn toàn sự cân bằng, kéo theo sự biến đổi sâu
sắc. Không chỉ chịu mọi sức ép và những những cơn co thắt, mà trẻ còn
chịu một trạng thái nặng nề đột ngột từ một môi trường chất lỏng qua
môi trường không khí, cũng như đột ngột bị nhiễm lạnh. Nhu cầu oxy
làm cho hoạt động hô hấp bắt đầu, việc hít không khí lần đầu có lẽ là đau
đớn, kèm theo tiếng khóc đầu tiên.
- Vì thế sau khi ra đời, trẻ cần một giai đoạn thích nghi, cần được ở trong
bầu không khí tâm lí bình yên, được bảo vệ, che chở ấm áp tình cảm của
người mẹ. Thiếu sự an toàn, cảm xúc của trẻ sẽ bị rối loạn. Cần lưu ý,
trong tháng đầu tiên, nên hạn chế cho trẻ tiếp xúc với người lạ để tránh bất
an và vi khuẩn cho trẻ.
II. THỜI KỲ HÀI NHI (3 - 12/15 THÁNG)
1. Sự phát triển vận động
- Sự phát triển vận động thô
Sự vận động thô ở trẻ được diễn tiến như sau:
Thời điểm xuất hiện Phát triển vận động các vận động
1 tháng tuổi Nâng cằm
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
2 tháng tuổi Nâng ngực
3 tháng tuổi Với tay về phía đồ vật như là vẫy
4 tháng tuổi Ngồi có người đỡ
5 tháng tuổi Nắm đồ vật trong tay
7 tháng tuổi Ngồi không cần đỡ
8 tháng tuổi Tự ngồi, không cần sự trợ giúp
9 tháng tuổi Bò úp bụng, đứng bám tay
Bò bằng bàn tay và đầu gối, 10 tháng tuổi đi được nhờ người lớn giữ hai tay
11 tháng tuổi Tự đứng
12 tháng tuổi Đi được nhờ người lớn giữ một tay
- Sự phát triển vận động tinh
Trẻ ba tháng bắt đầu cầm đồ chơi lắc. Khi 4 tháng trẻ sử dụng cả hai
bàn tay cầm đồ chơi, nhưng chưa phối hợp hai tay. Khoảng 5 tháng
tuổi đứa trẻ có thể kết hợp cử động của hai bàn tay, trẻ dùng tay phải
cầm đồ chơi, tay trái vuốt ve. Động tác cầm nắm là hành động có tính
định hướng đầu tiên, là bước ngoặt trong sự phát triển của trẻ năm
đầu đời. Hành động cầm nắm có vai trò quan trọng trong sự phát triển
tâm lí của trẻ: Bàn tay trở thành cơ quan xúc giác, bàn tay biết "khám
phá". Sự cầm nắm được thực hiện dưới sự kiểm tra của mắt: Trẻ nhìn
theo tay, theo dõi tay chuyển động về phía đồ vật. Khi tác nhân kích
thích lọt vào mắt trẻ, hình ảnh chưa có. Hình ảnh chỉ xuất hiện khi có
sự tiếp xúc giữa sự sờ mó bằng tay lên chính đồ vật. Cầm nắm đồ vật
cũng là sự phối hợp hoạt động của tay và mắt. Nhờ động tác cầm nắm
mà đôi tay phát triển, bắt đầu có sự đặt ngón cái đối diện với các ngón
còn lại.
Trẻ 4 - 7 tháng, xuất hiện hành động dịch chuyển, lay động đồ vật, gõ
lắc tạo ra âm thanh. Khoảng 7 - 10 tháng, hình thành các động tác
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
phối hợp: cầm nắm hai vật cùng một lúc, đẩy chúng ra xa. Cuối thời
kỳ hài nhi (10 - 11 tháng đến 14 tháng) xuất hiện hành động chức
năng: đặt cạnh, xếp chồng, lồng hộp, xâu chuỗi, xỏ các vật. Cầm nắm,
hướng tới đồ vật, là những hành động kích thích tư thế ngồi của trẻ.
Khi trẻ ngồi được, trước mắt trẻ xuất hiện nhiều đồ vật khác nhau. Trẻ
bị lôi cuốn, nó với tới đồ vật, nhưng để chạm đến đồ vật được, nó
phải nhờ sự giúp đỡ của người lớn. Nhờ vậy, giao tiếp có được sắc
thái mới, nó trở thành sự giao tiếp có chủ đích (vì đồ vật).
2. Sự phát triển hoạt động giao tiếp
- Giao tiếp xúc cảm trực tiếp (2 - 6 tháng): Trẻ tìm kiếm sự quan tâm, âu
yếm của người lớn (biểu hiện của nhu cầu giao tiếp) bằng cách nhìn
chằm chằm vào người lớn, cử động chân tay, phát ra những âm thanh nho
nhỏ, vui vẻ khi người lớn đến gần nói chuyện (hóng chuyện)… Người
lớn ở bên trẻ cần trò chuyện, mỉm cười, kể chuyện cho trẻ nghe, đừng
băn khoăn về việc trẻ không hiểu hết những điều người lớn nói.
- Giao tiếp tình huống công việc (bắt đầu từ nửa sau của năm thứ nhất): trẻ
không chỉ thỏa mãn bởi giao tiếp với người lớn bằng những cái vuốt ve
mà còn cần người lớn hợp tác với nó trong công việc. Trẻ tìm kiếm người
lớn, đòi hỏi một sự quan tâm từ phía họ. Trẻ mong chờ người lớn tỏ thái
độ với những gì nó làm, và chủ động tham gia vào công việc của nó
(làm/chơi cùng nó).
- Trong thời kì hài nhi, giao tiếp cảm xúc trực tiếp với người lớn được coi
là điều kiện tiên quyết để trẻ trở thành người. Nhờ hoạt động chủ đạo này
trẻ có những cảm xúc tích cực, có đời sống tâm lí ổn định. Qua giao tiếp
với người lớn, sự phát triển ngôn ngữ cũng dần được hình thành. Bên
cạnh đó, trong quá trình giao tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn nắn,
đánh giá hành vi của trẻ (bằng nụ cười bằng lòng hay vẻ mặt không đồng
ý) và trẻ nhận ra hành vi của mình đúng hay không đúng để từ đó học
được thói quen tốt và cách ứng xử phù hợp.
3. Cấu trúc tâm lý mới của tuổi hài nhi
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Một loạt các hành động ở tuổi hài nhi thúc đẩy sự phát triển tâm lý nơi trẻ.
Việc cầm nắm đồ vật cho phép trẻ thực sự làm chủ thế giới ngay bên
cạnh, đem lại những vận động cho bàn tay, những kinh nghiệm (tự ăn/bị
bỏng, bị kẹp), và ý muốn vận động. Có hành động với đồ vật mới giúp trẻ
tìm hiểu các đối tượng, các thuộc tính của chúng và có được những ấn
tượng mới. Các hoạt động ngồi, đứng, bò rồi đi có giá trị phá vỡ tình
huống phát triển cũ. Khi trẻ biết đi, cái chính không phải là sự mở rộng
không gian tiếp xúc của trẻ, mà là trẻ đã tách mình khỏi người lớn, thể
hiện sự di chuyển độc lập đầu tiên. Bây giờ không phải mẹ dẫn dắt trẻ, mà
là trẻ dẫn mẹ đến nơi nó muốn. Hoạt động này giúp trẻ mở rộng tầm nhìn,
gia tăng khả năng hành động, và có được những kinh nghiệm đủ loại. Tuy
nhiên cần lưu ý để xa những vật nguy hại khỏi tầm tay của trẻ.
- Việc phát ra các từ vựng đầu tiên cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Đó là thứ
ngôn ngữ tự cảm và chỉ có những người thân mới hiểu, ngôn ngữ này đặc
thù ở cấu trúc, nó hình thành từ những âm của từ. Các nhà tâm lý học gọi
nó là "tiếng vú em". Ngôn ngữ này là tiêu chí chứng tỏ tình huống xã hội
của sự phát triển cũ đã bị phá vỡ.
III. THỜI KỲ ẤU NHI (1 - 3 TUỔI)
1. Phát triển thể chất
- Khi trẻ em 3 tuổi, não của nó cân nặng 1.200 gram, gần bằng não người
lớn (1300 - 1400 gram). Tư thế đứng thẳng người và những bước đi ban
đầu từ cuối năm thứ nhất bây giờ đã vững chãi hơn. Trẻ không chỉ đi
được mà còn chạy nhảy trong một không gian ngày càng mở rộng. Khả
năng di chuyển có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển tâm lý, dẫn tới
khả năng giao tiếp với thế giới bên ngoài rộng rãi hơn, độc lập hơn, tự
chủ hơn. Trẻ 3 tuổi đã bắt đầu có khả năng tự phục vụ và tham gia vào
các mối quan hệ qua lại với những người lớn xung quanh.
2. Cấu trúc tâm lý
- Sự phát triển ngôn ngữ
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Giai đoạn ấu nhi là giai đoạn ngôn ngữ ở trẻ phát triển rất nhanh theo
hướng tăng vốn từ, và hiểu cấu trúc ngữ pháp qua giao tiếp với người
lớn và qua các hoạt động với đồ vật. Từ vựng của trẻ vừa có ý nghĩa chỉ
đối tượng cụ thể vừa có ý nghĩa khái quát hóa. Tạo hình và đồ chơi có
vai trò lớn trong quá trình này. Trong tạo hình, trẻ chỉ hình vẽ thay cho
đồ vật thật, trong vui chơi trẻ gọi ghế là ngựa... Ngôn ngữ làm phát triển
trí tuệ, giải phóng trẻ khỏi sự phụ thuộc vào tri giác. Ngôn ngữ tham gia
vào quá trình trí nhớ, tư duy và tưởng tượng của trẻ.
- Sự phát triển tư duy
Ở trẻ ấu nhi tư duy chủ yếu là tư duy trực quan hành động. Những biểu
hiện tư duy gắn rất chặt với hành động trong những tình huống cụ thể.
Trẻ biết sử dụng mối liên hệ giữa đối tượng để đạt tới mục đích. Chẳng
hạn trẻ kéo cái rổ để lấy quả cam đựng trong đó, kéo cái khăn trải bàn
để lấy cái ly. Trẻ cũng khám phá ra rằng những đối tượng khác nhau có
thể được sử dụng bằng cách thức giống nhau. Ví dụ có thể dùng cây
gậy để khều quả cam ở gầm giường, chọc quả chuối ở trên cao, hoặc
hích trái banh từ góc này sang góc khác v.v. Tính khái quát ban đầu
của công cụ, và của kinh nghiệm hành động xuất hiện từ đây, làm nền
tảng quan trọng cho sự phát triển tư duy sau này.
- Quá trình xuất hiện "Cái tôi" và tiền đề của sự hình thành nhân cách
của trẻ ấu nhi
Theo Lewis (1987) sự phát triển cái tôi xuất hiện khi trẻ 20 - 24
tháng. Chúng bắt đầu nhận ra ảnh của mình trong ảnh đám trẻ con
cùng tuổi. Trẻ 28 tháng bắt đầu xác lập chủ sở hữu trên đồ chơi khi
chơi chung với bạn. Nếu nó lấy máy bay chơi trước mà bạn đến gần
định lấy thì nó vội giằng lấy và nói: "Cái này của tôi mà". Cuối tuổi
ấu nhi, trẻ bắt đầu nhận biết được mình là ngôi thứ nhất. Trẻ trò
chuyện đúng ngôi, ngay cả khi ở trong tình huống có nhiều ngôi khác
nhau (lúc này trẻ xưng con, xưng em và cả xưng tao). Đối với người
lớn, sự xuất hiện cái tôi của trẻ còn biểu hiện ở thái độ trẻ bắt đầu
“bướng”, đòi nằng nặc để theo ý mình, có ý chống đối (không chịu
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
ăn, chịu ngủ...). Tuy nhiên, các nhà tâm lý cho rằng tính chống đối
của trẻ có chọn lọc, chỉ xảy ra đối với người lớn độc đoán, muốn hạn
chế sự tự do, tính độc lập của trẻ. Nếu biết khuyến khích tính độc lập
của trẻ một cách hợp lý thì những khó khăn trong quan hệ giữa trẻ và
người lớn sẽ được khắc phục, khủng hoảng sẽ nhanh chóng qua đi.
Cùng với sự hình thành của "cái tôi", tính tự ý thức cũng manh nha ở
thời kỳ này. Trẻ thường tự cố gắng trong hành động để được người
lớn khen thưởng. Trẻ mong muốn người lớn thừa nhận, khen ngợi
những nỗ lực của nó. Lời ngợi khen và tán thưởng của những người
xung quanh là nguồn cổ vũ quan trọng giúp trẻ hình thành tình cảm tự
hào, sự tự khẳng định mình. Chúng còn giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với những chuẩn mực mà người lớn qui định.
Từ đó, trẻ phát triển cái tốt, cái đúng và hạn chế cái xấu, cái sai. Đây
là điều kiện góp phần hình thành nhân cách sau này của trẻ.
3. Hoạt động chủ đạo
Ở độ tuổi này, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ vật. Hoạt động
này giúp trẻ học biết được đặc điểm và phương thức sử dụng đồ vật. Hoạt
động với đồ vật gồm hai loại hành động:
- Hành động thiết lập mối tương quan: Là hành động đưa hai hoặc nhiều
đối tượng (hoặc các bộ phận của chúng) vào mối tương quan nhất định
trong không gian. Ví dụ trẻ có thể xếp chồng được các khối gỗ thành
hình tháp. Khi xếp trẻ phải tính đến những thuộc tính của các đối tượng
và thiết lập mối tương quan của chúng sao cho khối gỗ to nhất ở dưới
cùng và khối gỗ nhỏ dần ở phía trên. Trẻ có thể xâu chuỗi hạt theo thứ tự
các màu xanh - đỏ - vàng. Đây là những hoạt động khá phức tạp đối với
trẻ. Ban đầu chúng thường xếp lung tung và nhờ người lớn giúp bằng
cách làm mẫu. Về sau, trẻ tự làm theo lối thử – phạm lỗi rồi dần làm
được. Nhờ thế, các chức năng tâm lý như trí nhớ, tư duy, trí tưởng tượng
phát triển mạnh.
- Hành động công cụ: Là hành động trong đó một đồ vật nào đó được sử
dụng như một công cụ để tác động lên đồ vật khác. Ví dụ trẻ dùng muỗng
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
để xúc cơm, dùng que để khều banh. Việc sử dụng công cụ đòi hỏi bàn
tay thao tác khéo léo và giúp trẻ biết được mục đích của hành động và
chức năng của công cụ. Ví dụ sau khi trẻ uống nước trong ly, trẻ mới
hiểu mục đích sử dụng ly là để uống nước.
Trong khi học biết cách thức sử dụng các đồ vật sinh hoạt hằng ngày, trẻ
cũng học được những qui tắc hành vi xã hội. Một đứa trẻ khi giận dỗi có thể
ném cái ly nước xuống sàn, nhưng bằng kinh nghiệm của mình (thông qua
thái độ của người lớn) dần dần nó nhận ra đó là một hành vi không đúng,
không phù hợp với qui tắc sử dụng đồ vật và lần sau, "lỡ" có làm như vậy, nó
tỏ ra sợ hãi khi nhìn vào mặt người lớn. Những qui tắc ứng xử xã hội sẽ được
hình thành dần dần như vậy.
4. Khủng hoảng tuổi lên 3
Khủng hoảng 3 tuổi là khủng hoảng về quan hệ xã hội. Mọi khủng hoảng
quan hệ xã hội đều là khủng hoảng đề cao "cái tôi" của bản thân. Trong tác
phẩm "Về nhân cách trẻ 3 tuổi", V.Keler mô tả sự khủng hoảng tuổi lên 3 với
các hiện tượng cơ bản sau:
- Bướng bỉnh: trẻ kiên quyết tìm cách thỏa mãn đòi hỏi của bản thân,
khăng khăng giữ quyết định của mình
- Ngang ngạnh: Gần giống với sự bướng bỉnh nhưng nó có đặc điểm đặc
trưng là tính công khai và tính thiếu cá tính. Trẻ phản kháng lại trật tự
trong gia đình, lăn ra ăn vạ, đập đầu, đạp tứ tung để đạt được mục đích
- Tự tiện: đây là xu hướng giải thoát khỏi người lớn. Trẻ muốn tự làm mọi
thứ giống người lớn. Trước mặt người lớn trẻ tỏ ra ngoan ngoãn, sau lưng
người lớn trẻ lén làm mọi thứ.
- Vô lễ với người lớn: Trẻ có thể nói người lớn “Đồ ngu” hay xưng “mày,
tao” với người lớn
- Chống đối: Tất cả hành vi của trẻ đều thể hiện sự chống đối, dường như
trẻ luôn nằm trong trạng thái chiến tranh với người xung quanh, ẩu đả với
người lớn. Có trẻ sẵn sàng cắn lại người lớn để không phải làm theo
mệnh lệnh của họ
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Chuyên quyền: ở những gia đình có độc nhất một trẻ, chúng ta sẽ gặp
phải xu hướng chuyên quyền ở trẻ. Trẻ tỏ ra có áp lực chuyên quyền
trong quan hệ với tất cả mọi cái xung quanh và nó đưa ra hàng loạt các
phương thức chuyên quyền. Trẻ có thể khóc ré lên, hoặc khóc tỉ tê, hoặc
làm bộ mếu, hoặc dãy đành đạch... để điều khiển người lớn theo ý mình.
Những lúc như vậy, trẻ thường liếc trộm người lớn xem phản ứng của
người lớn để điều chỉnh phương thức chuyên quyền của mình.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
IV. TUỔI MẪU GIÁO (3 - 6 TUỔI)
1. Sự phát triển thể chất
Ở trẻ từ 3 đến 6 tuổi có sự phát triển nhanh chóng về mặt sinh học. Trọng
lượng của não tăng nhanh chóng (từ 1.100 gram lên 1.300 gram), xương chắc
chắn hơn, cơ quan hô hấp và tuần hoàn, và các bộ máy nhận cảm phát triển
mạnh
2. Sự phát triển tâm lý
Đây là giai đoạn phát triển của cảm giác, tri giác, tưởng tượng, tư duy, ngôn
ngữ mạnh mẽ.
- Theo Piaget, khi trẻ lên 4 tuổi, có một sự chuyển biến trong tư duy. Tư
duy của trẻ lúc này có mang màu sắc của sự suy luận dựa trên những
biểu tượng cụ thể về thế giới khách quan. Những suy luận này gắn chặt
với hành động, bị chi phối bởi những ý nghĩ chủ quan, còn chưa xác
đáng. Ví dụ: nước biển mặn vì người ta bỏ muối vào, những người mặc
áo bơ-lu trắng đều là bác sĩ… Tuy nhiên đây là công cụ mạnh mẽ giúp trẻ
nhận thức thế giới xung quanh, tích lũy phong phú các biểu tượng bảo
đảm cho việc chuyển sang loại tư duy tiền thao tác ở giai đoạn sau.
- Vào 5 - 6 tuổi ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh, đạt chất lượng
cao cả về mặt phát âm, vốn từ và những hình thức ngữ pháp. Điều cần
lưu ý là quá trình tưởng tượng phát triển rất mạnh ở lứa tuổi này, thể hiện
trong trò chơi, trong các bức vẽ, trong các câu chuyện "bịa" của trẻ. Các
trò chơi phân vai theo chủ đề giúp trẻ tưởng tượng ra nhiều nhân vật đặc
sắc.
- Trí tưởng tượng của trẻ đầu tuổi mẫu giáo chủ yếu là không chủ định.
Những gì làm trẻ xúc động mạnh sẽ trở thành đối tượng của tưởng tượng.
Do ảnh hướng của trò chơi, trẻ "sáng tác" những truyện cổ tích, nhiều trẻ
khi "sáng tác" mà chưa biết câu truyện của mình sẽ nói về cái gì. Trí
tưởng tượng có chủ định hình thành ở trẻ mẫu giáo lớn trong quá trình
phát triển các dạng hoạt động sáng tạo (vẽ, nặn, thiết kế trong xây dựng
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
và kể chuyện). Trong các hoạt động này có sự điều chỉnh hành vi của trẻ
bằng ngôn ngữ (Trẻ tự nghĩ ra khúc cuối của một câu chuyện, sáng tác
truyện theo chủ đề, vẽ tranh theo mục đích đặt ra từ trước).
3. Sự phát triển về mặt tương tác môi trường xã hội
Trẻ mẫu giáo bắt đầu đi học nên mối liên hệ xã hội của trẻ có những thay
đổi quan trọng. Hoạt động cùng nhau ở giai đoạn trước được thay thế bằng
việc thực hiện những nhiệm vụ độc lập theo những lời chỉ dẫn của người lớn.
Trẻ phải hoàn thành một số nghĩa vụ sơ đẳng đối với bản thân và những người
xung quanh. Trẻ một mặt ngày càng tách mình ra khỏi người lớn, mặt khác
muốn bắt chước để xử sự như người lớn. Trẻ phân biệt được đồ vật của mình,
việc làm của mình với đồ vật, việc làm của người khác: "Cái này của con, cái
đó của mẹ", "Mình làm việc này, bạn làm việc khác”. Như vậy, trong suốt
tuổi mẫu giáo "cái tôi" phát triển mạnh và dần dần trở thành ý thức về bản
thân.
4. Sự hình thành nhân cách
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý ổn định và tuổi mẫu giáo là tuổi
xây nền nhân cách. Nhìn vào trẻ, người ta có thể biết được cá tính của nó ra
sao. Nhân cách của trẻ được hình thành qua bắt chước và qua sự giáo dục của
người lớn. Nếu người lớn chuẩn mực, trẻ bắt chước được điều hay. Nếu người
lớn giáo dục đúng cách, trẻ sẽ có nhiều đức tính tốt.
Tính cách của trẻ mẫu giáo thể hiện qua:
- Hành động hợp đích: Trẻ ráng ăn để được đi chơi
- Các loại tình cảm cấp cao khác với con vật ở cấp thấp:
Tình cảm đạo đức: những rung cảm, xúc cảm của con người trên
những hành vi đạo đức. Trẻ có thái độ tương ứng đối với hành vi - tốt
thì khen ngợi, tự hào; xấu thì chê bai, căm ghét. Trẻ bắt đầu có tiếng
nói lương tâm, lương tri (trẻ ghét các nhân vật ác trong phim, trong
kịch). Nếu bị hạn chế, sự phát triển nhân cách về sau sẽ tệ hại. Ví dụ
trẻ dỗ dành bạn bằng cách cho đồ chơi và bị bố mẹ mắng là ngu thì
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
tình cảm đạo đức bị giập tắt. Về sau, trẻ có thể vô cảm, không có tình
người
Tình cảm trí tuệ: Trẻ thích tìm hiểu thế giới xung quanh, tự khám phá,
đặt nhiều câu hỏi (búp bê có mỏi mắt không, tại sao con gà lại chỉ có
hai chân trong khi con chó lại có bốn chân!?!)
Tình cảm thẩm mỹ: Trẻ đều cảm nhận được và có thái độ trước cái
đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái hào hùng. Đẹp - trầm trồ, xấu - gớm,
anh hùng - ngưỡng mộ, làm theo, hài - cười, bi - buồn
5. Hoạt động vui chơi
Vui chơi là hoạt động chủ đạo ở tuổi mẫu giáo. Trong trò chơi, trẻ thể hiện
ước vọng làm người lớn. Chúng phân vai theo chủ đề (ví dụ trò bác sĩ - bệnh
nhân, cô giáo - học trò, ba - mẹ - con…) và mô phỏng theo đời sống lao động
của người lớn cùng với những mối quan hệ xã hội của họ. Chính trong khi vui
chơi, trẻ nhận ra những nghĩa vụ, quyền hạn của con người trong xã hội, học
các đức tính tốt và các kỹ năng (ví dụ sự đồng cảm, lòng nhân ái, tính tự lập,
hợp tác, chủ động, lãnh đạo….). Các hoạt động mang tính mỹ thuật, tạo ra sản
phẩm nhất định (ví dụ như vẽ, nặn, ghép hình, xây dựng….) cũng rất quan
trọng, góp phần hình thành và phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo, óc thẩm mỹ
và nhân cách ở giai đoạn này.
6. Hoạt động học tập và lao động
- Ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập đang ở thời kì sơ khai. Trẻ được
tiếp thu một lượng tri thức chung về thế giới xung quang do trực tiếp
nhìn, nghe, qua tranh ảnh, chuyện kể… Những tri thức này làm nảy sinh
tính ham hiểu biết, hứng thú nhận thức nơi trẻ mà biểu hiện của nó là
việc trẻ không ngừng đặt câu hỏi. Tuy nhiên cần chú ý rằng hoạt động
học tập của trẻ ở giai đoạn này chưa đặt nặng vấn đề cung cấp kiến thức
và mà chỉ chuẩn bị cho trẻ các kỹ năng học tập về sau (lắng nghe, chú ý,
giữ trật tự….). Vì thế không nên thúc giục trẻ học quá sớm.
- Trẻ mẫu giáo thực hiện các nhiệm vụ lao động đơn giản: lao động tự
phục vụ (để dép lên kệ, xếp ghế, lau mặt, đánh răng,..), lao động phụ giúp
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
người lớn (bê thức ăn, dọn bàn…), chăm sóc cây cối, vật nuôi, làm các
đồ vật và đồ chơi đơn giản (bằng giấy, vải vụn, hột hạt…). Lao động có
những ý nghĩa nhất định cho sự phát triển nhân cách về sau. Qua lao
động trẻ học cách hợp tác, quan tâm và chia sẻ trách nhiệm. Trẻ ham làm
thì chừa thói xấu, lười biếng, ỷ lại và biết được giá trị sức lao động
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN TỪ 0 ĐẾN 6 TUỔI
Ngoài việc lưu ý đến những sự phát triển thể chất ở từng độ tuổi, cần quan tâm
đến những điểm sau:
- Thời kỳ sơ sinh (0 - 2 tháng tuổi): trẻ cần một giai đoạn thích nghi, cần được ở
trong bầu không khí tâm lí bình yên, được bảo vệ, che chở ấm áp tình cảm của
người mẹ. Thiếu sự an toàn, cảm xúc của trẻ sẽ bị rối loạn.
- Thời kỳ hài nhi (3 - 12/15 tháng): giao tiếp cảm xúc trực tiếp với người lớn được
coi là điều kiện tiên quyết để trẻ trở thành người - phát triển những cảm xúc tích
cực, có đời sống tâm lí ổn định, hình thành ngôn ngữ, học được thói quen tốt và
cách ứng xử đúng.
- Thời kỳ ấu nhi (1 - 3 tuổi): Trẻ thường tự cố gắng trong hành động để được người
lớn khen thưởng, thừa nhận. Lời ngợi khen và tán thưởng của những người xung
quanh là nguồn cổ vũ quan trọng giúp trẻ hình thành tình cảm tự hào, sự tự khẳng
định mình và giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với những
chuẩn mực đạo đức.
- Tuổi mẫu giáo (3 - 6 tuổi): Vui chơi là hoạt động chủ đạo góp phần hình thành và
phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo, óc thẩm mỹ và nhân cách ở giai đoạn này.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 3: GIAI ĐOẠN NHI ĐỒNG
(TUỔI HỌC SINH CẤP I)
Tuổi nhi đồng là ở độ tuổi 7 đến 12 tuổi. Đây là lúc sự trưởng thành và phát triển
của thể chất, nhận thức và kỹ năng vận động tiếp tục hình thành và ổn định. Trong
suốt giai đoạn này, trẻ tham gia vào thế giới bên ngoài với chúng bạn càng lúc càng
nhiều và trẻ quan tâm đến sự thành đạt và tự kiểm soát mình.
I. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT
- Trẻ cấp 1 gia tăng chiều cao, trọng lượng, cơ bắp và các kỹ năng phối hợp.
Bộ xương vẫn tiếp tục phát triển, trong đó cột sống có những thay đổi lớn: độ
cong ở cổ, ở ngực, ở thắt lưng hình thành tạo ra độ mềm dẻo, linh hoạt hơn
trong cử động. Các dây chằng, cơ bắp được tăng cường. Các đốt ngón tay
được hoàn thiện. Cơ tim phát triển mạnh và được cung cấp đủ máu nên trong
não trẻ có sẵn năng lượng hoạt động khá hơn tuổi mẫu giáo. Trọng lượng của
não tăng gần bằng người lớn với cấu trúc hoàn thiện, đặc biệt thùy trán rất
phát triển, tạo điều kiện cho việc hình thành những chức năng tâm lý bậc cao.
Răng cố định và xương trở nên cứng cáp hơn. Cần lưu ý rằng vệ sinh răng
miệng và thói quen dinh dưỡng trong thời gian này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
cuộc sống sau này của trẻ.
- Trẻ tiếp tục phát triển các kỹ năng vận động như chạy, nhảy, leo trèo và các
hoạt động khác sử dụng ngón tay và bàn tay. Mặc dù trẻ có thể ngồi yên và
tham gia công việc, chúng cần các hoạt động thể chất để tiếp tục phát triển
các kỹ năng vận động. Vi tính, ti vi và các phương tiện điện tử khác làm
giảm đi sự phát triển các kỹ năng tinh xảo của trẻ và làm cho trẻ béo phì và
sinh ra những vấn đề khác sau này. Đây là lúc trẻ cần có sự quân bình giữa
hoạt động thể chất và trí tuệ cũng như có chế độ dinh dưỡng và những thói
quen tích cực để gia tăng sức khỏe về lâu về dài.
II. SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Về mặt nhận thức, trẻ tiếp tục phát triển kỹ năng phản hồi và khả năng suy
nghĩ linh hoạt và phức tạp hơn trước. Trẻ nhớ lâu, tập trung và có khả năng
suy đoán được chi tiết của công việc được giao. Khả năng nối kết thông tin
mới với những kiến thức có sẵn có khuynh hướng gia tăng trong giai đoạn
này. Trẻ cũng có khả năng hiểu sự việc ở mức độ sâu xa hơn và so sánh,
đánh giá thông tin ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên khả năng chú ý ở
trẻ còn kém, dễ bị cuốn hút điều mới lạ, dễ phân tán, hay liên tưởng nên hay
hỏi chuyện khác trong khi học.
- Đời sống xúc cảm, tình cảm của học sinh nhỏ khá phong phú, đa dạng và cơ
bản là mang tính tích cực. Trẻ sống hồn nhiên, hướng thiện. Trẻ rất vui mừng
vì có bạn, tự hào vì được gia nhập Đội, hãnh diện vì được giáo viên giao cho
những công việc cụ thể. Trẻ tiếp tục phát triển khả năng tự đánh giá bản thân
và cảm xúc. Ban đầu, trẻ đánh giá bản thân dựa vào những đặc điểm bên
ngoài như tuổi tác, màu mắt, màu tóc. Về sau, trẻ nhìn vào những đặc điểm
bên trong để đánh giá bản thân. Ví dụ trẻ mô tả mình là tử tế, thông minh,
rộng rãi, hay được yêu mến. Khả năng hiểu và bày tỏ những cảm xúc phức
tạp như tự hào, tội lỗi, ganh tị gia tăng không ngừng. Thêm vào đó, những
trạng thái cảm xúc này có khuynh hướng trở thành một phần bản thân trẻ.
Trẻ cũng nhận ra trách nhiệm của bản thân trong việc tạo ra và kiểm soát
những cảm xúc khác nhau. Trẻ hiểu hơn rằng cảm xúc liên quan với sự kiện
và hành động và chúng tìm cách che giấu một số cảm xúc hay bày tỏ cảm
xúc theo phương cách được xã hội chấp nhận.
- Sự phát triển nhân cách của học sinh nhỏ chủ yếu diễn ra và bị chi phối bởi
hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập. Qua học tập, tập dần với việc tự điều
khiển mình tuân theo những qui định của trường lớp. Tuy nhiên, ý chí của trẻ
còn non nớt. Trẻ thiếu tính độc lập, dễ bắt chước, làm theo người khác, khả
năng tự chủ kém, dễ phạm lỗi, kiên trì yếu, dễ bỏ cuộc (chỉ nhìn những gì
trước mắt). Trẻ nhận thức bản thân theo ý kiến của người khác (biết nhà
mình giàu hay nghèo, biết thân phận), trẻ hình dung bản thân mình theo nhận
xét của những người xung quanh. Đối với trẻ, ý kiến của người lớn, đặc biệt
của giáo viên là cơ bản nhất, quan trọng nhất và không thể chống đối lại. Vì
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
thế, trẻ sẽ gặp khó khăn và hoang mang khi đứng trước những ý kiến khác
biệt hoặc mâu thuẫn về chính bản thân mình.
III. HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO
- Học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh nhỏ. So với lứa tuổi mẫu giáo,
hoạt động học tập giai đoạn này vừa đòi hỏi trí tuệ tiếp thu những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo vừa cần nơi trẻ một năng lực, một ý chí nhất định để tự kiềm
chế bản thân, vượt khó khăn, cố gắng thực hiện những yêu cầu của giáo viên.
Do những qui định chặt chẽ về mục đích, mục tiêu của giáo dục, trẻ không
thể thích thì làm, không thích thì thôi như thời mẫu giáo nữa. Ngược lại, nó
phải biết thích ứng với những tình huống xã hội mới ở lớp học, và trong giao
tiếp với thầy cô và bạn bè.
- Qua học tập, trí tuệ của trẻ phát triển, trẻ gia tăng óc quan sát, trí nhớ, tư duy,
tưởng tượng. Tuy nhiên, trong năm đầu khả năng trí tuệ này chưa thật tinh tế.
Trẻ dễ viết thiếu nét, đọc nuốt chữ, nhầm lẫn những chi tiết gần giống nhau
như oa - ao. Cấu trúc lớp học, tương quan với thầy cô cũng đổi khác rất
nhiều, do đó, trẻ cần cha mẹ hỗ trợ trong khoảng một học kỳ đến 1 - 5 năm
để có thể thích nghi và đáp ứng nhiệm vụ học tập.
IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHI ĐỒNG
1. Nhóm bạn cùng trang lứa
Đây là một phần của môi trường gần gũi với trẻ có những ảnh hưởng lâu dài
đến sự phát triển của trẻ. Qua những tương quan đồng đẳng tích cực, trẻ phát
triển những tương quan thân thiết và nảy sinh sự đồng cảm và thuận thảo. Trái
lại, những tương quan bạn cùng lứa có thể để lại những hậu quả tiêu cực trên
sự phát triển của trẻ. Cảm giác bị gạt bỏ, thù địch, đơn độc và trầm uất là kết
quả của những tương quan xấu với bạn bè có thể ảnh hưởng đến quan hệ sau
này của trẻ với người khác.
2. Hình thức kỷ luật của cha mẹ
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Khi trẻ càng ngày càng lớn thì cha mẹ càng phải đương đầu với những vấn
đề mới xung quanh việc kỷ luật và nuôi dạy con cái. Về mặt thể chất, nhận
thức, và cảm xúc, trẻ trở nên có khả năng thực hiện những công việc mới và
nhận lãnh những thách đố mới. Theo Piaget, chúng hiểu lý lẽ hơn và biết suy
nghĩ đến hành động của mình và của người khác. Erikson thì cho rằng trẻ từ 5
- 6 tuổi trở lên làm việc rất chăm chỉ, chúng tò mò, nhiệt tình và muốn hiểu rõ
môi trường. Đối với cha mẹ, kỷ luật ở giai đoạn này xem ra có vẻ dễ dàng hơn
giai đoạn trước vì khả năng nhận thức của trẻ cho phép trẻ hiểu được những
quy định và hậu quả. Công việc chính của cha mẹ trong giai đoạn này là giúp
trẻ phát triển những kỹ năng cần thiết để cư xử có trách nhiệm và độc lập
đồng thời hướng dẫn hỗ trợ trẻ đối phó với hoàn cảnh hiểm nguy mà trẻ
không thể thấy trước. Việc đánh đập trẻ hay những hình phạt thể chất sẽ để lại
những hậu quả xấu. Trẻ có khuynh hướng có những hành vi gây hấn, và bạo
lực do học hỏi hành vi của người khác
3. Các phương tiện truyền thông đại chúng
- Những cảnh bạo lực trên tivi và việc sử dụng các phương tiện khác như
video games, internet cùng với những nội dung không lành mạnh tác
động lên hành vi của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ xem những cảnh
bạo lực nhiều sẽ dễ có những hành vi gây hấn, chống đối xã hội hay cảm
giác sợ hãi, bất an. Trẻ có khuynh hướng cho rằng bạo lực không phải là
vấn đề nghiêm trọng. Ở tuổi này, trẻ chưa có khả năng phân biệt giữa
thực và ảo nên dễ bắt chước những hành vi trong phim ảnh. Chúng không
hiểu rằng diễn viên trên tivi đang sắm vai và những cảnh trong phim là
để giải trí mà lại cho rằng những hành vi bạo lực như thế là rất phổ biến
và được xã hội chấp nhận.
- Chứng béo phì và tiểu đường có liên quan đến số giờ trẻ xem tivi, chơi
video hoặc lướt web. Gia đình và các nhà giáo dục cần giúp trẻ dung hòa
giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông và các dạng giải trí khác
cùng với các hoạt động thể chất và những tương tác với nhóm bạn cùng
trang lứa.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
V. PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP
S là một bé gái 8 tuổi, con nuôi của đôi vợ chồng không có khả năng sinh con.
Cha mẹ S đem em đến bạn là nhân viên công tác xã hội vì thấy em có vấn đề về
hành vi. Họ phàn nàn rằng em không chịu làm những gì họ bảo, không theo kịp
chúng bạn trong lớp và không chơi với bạn cùng lứa. Cha mẹ S cũng cho biết em
không có bạn thân và dành nhiều thời gian chơi một mình. S không quan tâm mấy
đến các hoạt động phù hợp với lứa tuổi mình và em thường thu mình lại và không
tham gia các gì. Họ lo rằng em sẽ chậm phát triển và sẽ ở lại lớp nếu cứ tiếp tục
như thế.
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN NHI ĐỒNG (TUỔI HỌC SINH CẤP 1)
- Sự phát triển thể chất: Não gần bằng người lớn, gia tăng chiều cao, trọng lượng,
cơ bắp và các kỹ năng phối hợp cần các hoạt động thể chất để tiếp tục phát
triển các kỹ năng vận động
- Sự phát triển tâm lý: có khả năng suy đoán, hiểu sự việc ở mức độ sâu xa hơn; so
sánh, đánh giá thông tin ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đời sống xúc cảm, tình
cảm khá phong phú, đa dạng và cơ bản là mang tính tích cực
- Học tập là hoạt động chủ đạo, giúp trẻ tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
rèn luyện ý chí nhất định để tự kiềm chế bản thân, vượt khó khăn
- Những yếu tố tác động: nhóm bạn cùng trang lứa, hình thức kỷ luật của cha mẹ,
các phương tiện truyền thông đại chúng
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 4: GIAI ĐOẠN THIẾU NIÊN
(TUỔI HỌC SINH CẤP 2)
I. SỰ PHÁT TRIỂN SINH LÝ VÀ THỂ CHẤT
- Đây là giai đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì ở nam (từ 13 -15
tuổi) và nữ (khoảng 11 - 13 tuổi). Ở em gái, ngực, lông ở nách và ở bộ phận
sinh dục phát triển, kinh nguyệt cũng bắt đầu xuất hiện. Ở các em trai, ngực
bắt đầu nở nang, những dấu hiệu phụ của bộ phận sinh dục phát triển và xuất
hiện sự xuất tinh. Những thay đổi rất cơ bản ở trên làm cho các em nhận ra
rằng mình không còn là trẻ con nữa.
- Ngoài ra, ở thiếu niên còn có những thay đổi thể chất có ảnh hưởng, hoặc
thậm chí gây ra sự mất căn bằng, những khó khăn tạm thời trong cuộc sống
và hoạt động của các em. Các em ở tuổi này phát triển mạnh về chiều cao,
người ta thường gọi là "sự nhảy vọt về tầm vóc". Cuối tuổi thiếu niên, tỉ lệ cơ
thể xấp xỉ tỉ lệ đặc trưng của người lớn. Tuy nhiên sự phát triển cơ bắp không
theo kịp với chiều cao nên trong giai đoạn đầu, ở các em có sự mất cân đối
về chiều cao và chiều ngang của cơ thể.
- Tim phát triển nhanh hơn các mạch máu nên gây ra sự mất cân bằng và các
rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch, biểu hiện dưới dạng tim
đập nhanh, huyết áp cao, thường chóng mặt, nhức đầu, sức làm việc giảm.
Các em làm việc rất hăng say, nhiệt tình nhưng sức chưa bền, chưa dẻo dai.
Tuyến nội tiết hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng và tuyến sinh
dục), gây sự mất cân bằng của hệ thần kinh trung ương, dễ gây nên những
cơn xúc động mạnh, gây những phản ứng vô cớ, những hành vi bất thường.
Ở tuổi thiếu niên, các quá trình thần kinh hưng phấn của vỏ não mạnh và
chiếm ưu thế, nên nhiều khi các em không làm chủ được bản thân, không
kiềm chế được xúc động mạnh. Nhìn chung, các em dễ bị kích thích, dễ nổi
nóng, gây gổ, khi hiếu động khi lại uể oải, thờ ơ. Bị lôi kéo, các em có thể sa
vào các "nhóm tự phát", các "băng đảng" có những hoạt động không lành
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
mạnh, thậm chí vi phạm pháp luật vì những hành vi thiếu suy nghĩ. Vào
những lúc như vậy, cách xử sự thiếu khéo léo thiếu phù hợp của người lớn có
thể gây tổn thương về mặt tâm lý, gây những "cơn sốc" (Stress) dễ dẫn trẻ
đến chỗ tuyệt vọng và hành động thiếu suy nghĩ ở tuổi thiếu niên.
II. ĐỜI SỐNG CẢM XÚC – Ý CHÍ
- Như ở trên đã trình bày, tuổi thiếu niên là lứa tuổi của dậy thì và phát dục. Sự
dậy thì đã kích thích chúng quan tâm đến người khác giới, và nảy sinh những
rung cảm giới tính mới lạ. Quan hệ với bạn khác giới ở tuổi thiếu niên không
"hồn nhiên", "vô tư" như các học sinh nhỏ. Những rung động giới tính thông
thường được trẻ 13 - 15 tuổi biểu hiện một cách thẹn thùng, kín đáo, tế nhị
với nhau. Nhìn chung những rung cảm giới tính ban đầu ở tuổi thiếu niên là
trong sáng. Các em chỉ mong thỏa mãn tâm trạng này bằng một mối thiện
cảm nho nhỏ, một lời nói dịu dàng, một cử chỉ quan tâm, một nụ cười trìu
mến... Tâm trạng này sẽ qua đi nhanh chóng nếu chúng được sống trong một
môi trường lành mạnh, người lớn biết hướng sự chú ý của các em vào hoạt
động học tập, lao động có ích, những mối quan hệ bạn bè vô tư, trong sáng.
Những sự can thiệp thô bạo của người lớn sẽ làm cho thiếu niên cảm thấy bị
chế giễu, xúc phạm và thường dẫn đến hậu quả không tốt đẹp thậm chí tai hại
cho nó.
- Đối với người lớn, thiếu niên thường tỏ ra bướng bỉnh chống đối nếu người
lớn vẫn tiếp tục cư xử với chúng như một đứa trẻ. Những biểu hiện thường
gặp là chúng xa lánh phủ định người lớn, và cho rằng người lớn không thể
hiểu được mình. Sự xung đột có thể kéo dài cho đến khi nào người lớn thay
đổi cách nhìn nhận, đánh giá về thiếu niên, tôn trọng sự độc lập, ý thức vươn
lên làm người lớn của chúng, có quan hệ bạn bè, bình đẳng, hợp tác với tư
cách là người đi trước có kinh nghiệm hơn dẫn dắt cho chúng.
- Ý chí của học sinh thiếu niên có những thay đổi và mang màu sắc mới.
Chúng thường cố gắng bắt chước người mẫu lý tưởng mà mình chọn làm
thần tượng. Sự phấn đấu vươn lên theo hình mẫu lý tưởng giúp thiếu niên
hình thành những phẩm chất ý chí như sức mạnh, tính can đảm, lòng dũng
cảm, sức chịu đựng gian khổ, tinh thần vượt khó khăn để đạt mục đích.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
III. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
- Tuy đã mang những sắc thái mới và có sự phân hóa đáng kể, hoạt động học
tập vẫn chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển tâm lý, và nhân cách ở
thiếu niên. Đối với nhiều em, sự hấp dẫn của nhà trường tăng lên vì nơi đây
trẻ có thể giao tiếp rộng rãi với các bạn cùng tuổi. Giờ học không chỉ đơn
thuần là học tập, mà còn là một tình huống tương tác với bạn bè, với giáo
viên bằng những cử chỉ, những đánh giá và những rung cảm có ý nghĩa. Do
đó, đối với không ít em, sự say mê học tập bị giảm sút, có chút xao lãng
trong việc học và chuẩn bị bài.
- Việc học tập ở các lớp THCS đòi hỏi các em phải nắm vững một khối lượng
tri thức lớn, phải có nhận thức và tư duy cao hơn. Những tri thức mang tính
khái niệm, tính khái quát, tính lôgíc đòi hỏi ở thiếu niên động não, tập trung
chú ý, ghi nhớ và tưởng tượng. Tuy nhiên, nội dung học tập ở tuổi thiếu niên
mở rộng hơn ở tuổi học sinh nhỏ. Chúng tiếp thu kiến thức mang tính độc lập
và có mục đích hơn, không chỉ ở trong nhà trường, mà còn bằng nhiều kiểu
nhiều cách, nhiều nguồn khác nhau. Động cơ hoạt động học tập của chúng có
liên quan đến dự định nghề nghiệp tương lai.
- Tương quan với giáo viên cũng khác hơn trước rất nhiều. Không giống thời
tiểu học, giờ đây mỗi giáo viên dạy một môn học với phong cách, trình độ tri
thức, cách giao tiếp riêng. Học sinh so sánh và đánh giá các giáo viên theo
những thông số khác nhau và có mức độ hứng thú học tập cũng khác tùy theo
từng môn học, và tùy từng giáo viên.
IV. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
- Đây là thời kỳ “cái tôi" hình thành và phát triển mạnh mẽ. Tự ý thức là một
trong những phẩm chất nhân cách nổi bật ở tuổi thiếu niên. Khác với học
sinh nhỏ, thiếu niên có nhu cầu hiểu biết những đặc điểm của bản thân, suy
nghĩ về chính mình và tự đánh giá về mình để đi đến chỗ hài lòng hay bất
mãn với chính mình. Chúng thường tự phân tích bản thân và xem đó như là
một phương tiện cần thiết để điều chỉnh, tổ chức những mối quan hệ đối với
hoạt động, với bạn bè, với người lớn.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Ngoài khả năng tự đánh giá, thiếu niên phát triển khả năng đánh giá người
khác. Chúng thường đánh giá bạn bè, thầy cô, cha mẹ và những người xung
quanh cả về hình thức lẫn nội dung. Những sự đánh giá này nói chung khá
chính xác và hơi khắt khe. Nó thường biểu lộ không phải trên lời nói mà chủ
yếu ở cách ứng xử, ở nghĩa vụ đối với chính những người mà các em đánh
giá: các em thường hài lòng, sung sướng hoàn thành tốt những nhiệm vụ khi
được những người các em đánh giá cao trao đổi hoặc giao nhiệm vụ. Ngược
lại, miễn cưỡng, hoàn thành tắc trách những việc mà những người các em
đánh giá là thiếu uy tín giao cho. Nhiều khi chính sự đánh giá này giúp các
em tìm được mẫu người lý tưởng trong thực tế cuộc sống để noi theo.
- Trong sự phát triển nhân cách của mình, thiếu niên bắt đầu suy nghĩ đến
nghề nghiệp tương lai trong đó các em tính đến khả năng của bản thân và
hoàn cảnh sống của gia đình. Các em thu thập những thông tin, bàn luận về
những nghề nghiệp khác nhau và thử ướm khả năng, hoàn cảnh của mình vào
các nghề mình thích thú.
- Do khả năng đánh giá và tự đánh giá, thiếu niên hình thành và phát triển một
phẩm chất nhân cách quan trọng là sự tự giáo dục. Các em quan tâm và tự
kiểm tra sự tiến bộ của mình. Chúng có thể buồn hay lên án bản thân vì chưa
thực hiện được nhiệm vụ, kế hoạch đề ra. Chúng tự tác động bản thân, tự
sáng tạo nhằm đạt được những nhiệm vụ, những mục đích có ý nghĩa.
- Trong giai đoạn chuyển tiếp thành người lớn, trong quá trình hình thành và
khẳng định cái "tôi" có ý nghĩa xã hội, thiếu niên gặp không ít những khó
khăn. Chúng cần sự hỗ trợ tích cực của người lớn và xã hội. Chúng cần môi
trường giáo dục thuận lợi khích lệ và hướng dẫn chúng dần dần vượt qua
những trở ngại, giải quyết mâu thuẫn để trưởng thành và chuyển sang giai
đoạn phát triển mới.
V. NHỮNG ĐIỂM KHÁC CẦN LƯU Ý Ở TUỔI THIẾU NIÊN
1. Dậy thì sớm và trễ
- Nhìn chung, các nghiên cứu cho thấy rằng phát triển sớm hay trễ đều có
những ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực lên trẻ. Đối với em trai, phát triển
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
sớm thường làm gia tăng khả năng thể chất là làm cho trẻ được sự kính
trọng và khâm phục của các bạn đồng lứa. Trẻ phát triển sớm sẽ thích
nghi tốt hơn và tự tin hơn so với trẻ chậm phát triển. Trái lại, trẻ nam
phát triển chậm với thân hình nhỏ con thường dễ có những hành vi gây
sự chú ý cho người khác và bị cho là thiếu trưởng thành và không phù
hợp. Mặt khác, trẻ phát triển sớm cũng có thể cảm nhận nhiều áp lực hơn
so với trẻ nam phát triển chậm vì người khác mong đợi chúng cư xử có
trách nhiệm và làm gương cho những trẻ khác.
- Đối với nữ, hậu quả của phát triển sớm hay chậm không rõ lắm. Tuy
nhiên một số nghiên cứu cho thấy trẻ nữ phát triển sớm gặp một số vấn
đề ở trường, chúng nổi tiếng trong đám con trai và tỏ ra độc lập hơn so
với trẻ nữ chậm phát triển. Trẻ nữ phát triển sớm cũng có nguy cơ cao
về vấn đề lo lắng, trầm cảm, sử dụng chất gây nghiện, khám phá tình
dục và có những rối loạn chức năng trong việc đối phó với stress và các
vấn đề ở trường hơn các trẻ chậm phát triển khác.
2. Quan hệ tình dục ở tuổi thiếu niên
Các công trình nghiên cứu khoa học về tâm sinh lý ở tuổi dậy thì đều cho
thấy hiện nay lớp trẻ vị thành niên có sự phát dục ngày càng sớm và mạnh
hơn so với các thế hệ trước đây. Nhu cầu sinh lý, tò mò, thích khám phá
muốn khẳng định mình, và do những ảnh hưởng của môi trường sống… đã
khiến cho nhiều thiếu niên quan hệ tình dục từ rất sớm. Tác hại của việc quan
hệ tình dục ở tuổi này thật vô lường: sức khỏe suy giảm hoặc các bệnh lây
qua đường tình dục, học tập sa sút, mang thai ngoài ý muốn, phá thai, vô
sinh, khủng hoảng tâm lý…
3. Rối loạn chuyện ăn uống
Ở tuổi này, trẻ thiếu niên thường gặp rối loạn chuyện ăn uống, được thể
hiện ở một trong hai hình thức, đó là chứng háu ăn hoặc biếng ăn.
- Chứng biếng ăn: Rối loạn chuyện ăn uống dẫn đến gầy còm. Chứng
biếng ăn có khuynh hướng xuất hiện đầu và giữa tuổi vị thành niên. Mặc
dù trẻ nam cũng bị rối loạn nhưng trẻ nữ thường phổ biến hơn gấp 10 lần.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Biếng ăn tác động vào những trẻ trung lưu và thượng lưu thuộc gia đình
có giáo dục và thành đạt. Chứng biếng ăn có liên quan đến những áp lực
từ môi trường, và do di truyền. Thông thường chứng biếng ăn bắu đầu
sau thời gian ăn kiêng và sau khi trải nghiệm chuyện gì đó căng thẳng.
Ăn kiêng ở dạng ăn uống khắt khe, tập thể dục quá sức và đôi khi nôn
thức ăn ra hoặc uống thuốc nhuận trường. Các triệu chứng của chứng
biếng ăn là lo lắng, trầm cảm, ốm tong, và những hành vi tự buộc mình
ép xác. Chứng biếng ăn sẽ sinh ra nhiều vấn đề về thể chất như khô da,
còi cọc, còi xương, mất kinh, lông mọc trên cơ thể và trên mặt, dễ cảm
lạnh, vấn đề về tim mạch, và nặng hơn là tử vong. Phương pháp trị liệu
hữu hiệu cho chứng biếng ăn là thuốc chống suy nhược và trị liệu tâm lý
dựa vào gia đình.
- Chứng háu ăn: Háu ăn là do ăn uống chè chén no say liên tục và thanh
lọc cơ thể bằng việc tập thể lực, nôn ra hoặc sử dụng thuốc nhuận trường.
Háu ăn thường xảy ra cuối thời vị thành niên hay đầu thời thành niên và
có thể kéo dài đến cuối tuổi thành niên. Giống người biếng ăn, người háu
ăn bị ám ảnh về sự gầy nhom và có cái nhìn méo mó về bản thân. Tuy
nhiên không giống người biếng ăn, người háu ăn thường có trọng lượng
trung bình, cảm thấy xấu hổ về hành vi của mình và hiểu biết bản chất rối
loạn của những thói quen của mình. Vì nhiều người háu ăn che dấu hành
vi và có khuynh hướng giữ cho cân nặng trung bình hay trên trung bình
một chút, nên chứng háu ăn khó phát hiện hơn chứng biếng ăn. Những
người háu ăn cũng chịu những vấn đề tâm lý như trầm cảm, rối loạn hành
vi và nghiện ngập. Về thể lý, chứng háu ăn gây ra mất nước, chóng mặt,
tim mạch, giảm men răng và các chứng khác. Phương pháp trị liệu hữu
hiệu nhất là thuốc chống suy nhược, trị liệu nhận thức - hành vi dựa vào
gia đình
4. Việc sử dụng các chất gây nghiện và hậu quả của nó
- Tỉ lệ trẻ nghiện thuốc, rượu và ma túy ngày càng tăng. Thiếu niên dùng
rượu và ma túy vì những lý do khác nhau. Phần lớn là muốn “nếm thử
mùi vị”, dùng một lần hoặc vài lần để thỏa mãn tính tò mò, để biểu lộ sự
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
chống đối, sự dũng cảm, hoặc để đồng nhất hóa với băng nhóm. Một số
khác cảm thấy cha mẹ không thực sự quan tâm, hiểu và chấp nhận mình
nên tìm đến ma túy để được khuây khỏa.
- Trẻ nghiện ngập có tỉ lệ bạo lực, gây tai nạn, quan hệ tình dục sớm, mang
thai ngoài ý muốn, các bệnh lây qua đường tình dục, học vấn thấp… cao
hơn so với các trẻ khác.
5. Nghiện game ở tuổi thiếu niên
Theo nghiên cứu của các chuyên gia tâm lý học thuộc Trường đại học Iowa,
Mỹ, trẻ ở độ tuổi từ 8 - 18 tuổi là lứa tuổi có tỷ lệ và nguy cơ mắc chứng
"nghiện game" cao nhất trên thế giới hiện nay. Biểu hiện của "chứng bệnh"
này khá dễ nhận biết. Khi nghiện game, trẻ thường chểnh mảng học hành và
mọi việc xung quanh, chỉ tập trung vào việc tìm kiếm các trò chơi trên mạng
và có thể ngồi hàng giờ, thậm chí hằng ngày trên máy vi tính. Các trò chơi
nhập vai trực tuyến khiến thiếu niên tự cô lập với thế giới bên ngoài, tương
quan xấu với người khác, rối loạn hành vi và cảm xúc, sa sút việc học, ảnh
hưởng đến sức khỏe, thậm chí tự tử.
VI. PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP
A là một bé gái 14 tuổi khi thì sống với người mẹ đơn thân khi sống với gia
đình một người bạn. Em gặp khó khăn trong tương quan với mẹ và đã vài lần đe
dọa bỏ nhà ra đi. Em học yếu và dành nhiều thời gian rong chơi trên đường phố và
nhập bọn với trẻ vô gia cư. Vấn đề của em bắt đầu khoảng một năm khi mẹ của em
phát hiện ra rằng em cố tình nôn ra sau khi ăn tối. Bị mẹ chất vấn, em bắt đầu giận
dữ, tránh né mẹ và càng ngày càng thân thiết với bạn đường phố hơn.
A gây chú ý cho bạn - một nhân viên công tác xã hội ở một trung tâm cộng
đồng có chương trình cho trẻ tuổi teen vô gia cư. Khi tiếp xúc với A, bạn để ý đến
tình trạng xanh xao gầy gò, trạng thái cảm xúc trầm uất, sự tự ti mặc cảm, và mức
độ phát triển có vẻ chậm của em. Dù không có bằng chứng nhưng bạn cũng quan
tâm đến việc em đang có quan hệ tình dục với một số bạn trai là trẻ đường phố.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
A từ chối nói đến vấn đề tình dục, tránh thai hay các bệnh do quan hệ tình dục
gây nên. Em nói với bạn rằng em sẽ không bao giờ dính thai hay bị nhiễm trùng.
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN THIẾU NIÊN (TUỔI HỌC SINH CẤP 2)
- Sự phát triển sinh lý và thể chất: tuổi dậy thì với sự phát triển của cơ quan sinh
dục, sự nhảy vọt về tầm vóc, tim phát triển nhanh, tuyến nội tiết hoạt động mạnh
→ thanh niên nhận ra mình không còn là trẻ con. Họ nhiệt tình nhưng sức bền và
dẻo dai chưa tốt, dễ bị kích động
- Đời sống cảm xúc: rung cảm giới tính, dễ xung đột với người lớn, chọn thần
tượng
- Hoạt động học tập: bị phân hóa đáng kể, học đi đôi với tương tác với người khác
- Sự phát triển nhân cách: cái tôi hình thành và phát triển mạnh mẽ, khả năng đánh
giá và tự đánh giá nổi lên
- Những điểm cần lưu ý: dậy thì sớm và trẻ, quan hệ tình dục sớm, rối loạn
chuyện ăn uống, việc sử dụng các chất gây nghiện và hậu quả của nó, nghiện
game ở tuổi thiếu niên
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 5: GIAI ĐOẠN THANH NIÊN
(THỜI KỲ ĐẦU CỦA GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH)
Đến nay, chưa có sự thống nhất hoàn toàn về thuật ngữ cũng như giới hạn lứa tuổi
của giai đoạn phát triển độ tuổi này. Nhìn chung, giai đoạn thanh niên được xác định
là khoảng từ 16 đến 24 - 25 tuổi.
I. HOÀN CẢNH XÃ HỘI CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
- Vai trò xã hội của thanh niên thay đổi một cách cơ bản: vai trò độc lập và
mức độ trách nhiệm đối với gia đình ngày càng rõ rệt. Thanh niên tham gia
lao động, có ý thức với việc chọn nghề nghiệp tương lai. Nhiều em đã làm ra
của cải vật chất, có vai trò khá quyết định đối với một số việc trong gia
đình... Quyền lợi xã hội của thanh niên được hiến pháp qui định: quyền bầu
cử, quyền công dân, có trách nhiệm thực sự trước xã hội như nghĩa vụ quân
sự, chịu trách nhiệm về tội hình sự trước những hành vi của mình. Như vậy
xã hội coi họ là một thành viên chính thức, một người trưởng thành.
- Tuy nhiên, đối với nhiều em, do đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa tham
gia trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nên nhiều thanh niên chưa hoàn toàn
là một người tự lập về mọi mặt so với những người cùng độ tuổi phải vào đời
sớm.
II. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT
- Đây là thời kỳ mà sự phát triển thể chất của con người đang đi vào giai đoạn
hoàn chỉnh. Trọng lượng não đạt mức tối đa, số lượng nơ-ron thần kinh lên
tới mức cao nhất (14 - 16 tỉ), với chất lượng hoàn hảo. Số lượng xi-nap của
các tế bào thần kinh đảm bảo cho một sự liên lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế
và linh hoạt giữa vô số các kênh làm cho hoạt động của não bộ trở nên
nhanh, nhạy, chính xác đặc biệt so với các lứa tuổi khác. Trọng lượng cơ thể
phát triển nhanh, các tố chất thể lực như sức mạnh, sức bền, sự dẻo dai được
tăng cường. Cơ bắp, sức lực phát triển mạnh, dễ dàng đạt những thành tích
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
trong thể thao. Các em có một cơ thể đẹp, khỏe, cân đối. Nhiều em cảm nhận
được sức khỏe thể chất ở mức tối ưu và không mắc bệnh tật, đau ốm gì.
- Tuy nhiên, giai đoạn thanh niên cũng là lúc mà nhiều hậu quả tiêu cực do
lối sống gây ra (ví dụ như stress, hút thuốc, ăn quá mức, lạm dụng những
chất gây nghiện, thiếu tập thể dục, thói quen ngủ ít) bắt đầu được tích lũy
và sinh ra bệnh tình sau này
III. SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC
- Nhiều tiến trình phát triển nhận thức xuất hiện ở giai đoạn đầu đời sẽ bắt đầu
trở nên bền vững suốt giai đoạn tuổi thanh niên. Khác với tuổi vị thành niên,
thanh niên có thể phức tạp hơn và thực tế hơn trong cách nghĩ vì họ đã có
một số kinh nghiệm nào đó với những hoàn cảnh thực tế. Họ phát triển khả
năng sử dụng lý lẽ và logic trong suy tư. Họ bắt đầu nối kết thông tin mới với
những kinh nghiệm trong quá khứ để gia tăng kiến thức
- Phát triển tính cách và cảm xúc
Thanh niên tiếp tục phát triển về mặt trí tuệ và tương tác trong khi học
biết khám phá cảm xúc của mình. Trong nhiều nước, họ sống tự lập,
tự lo cho bản thân, và có trách nhiệm đối với hành vi của mình. Đồng
thời họ cũng học cách quân bình giữa sự độc lập và tương tác với
người khác trong những tương quan thân thiết. Đây cũng là lúc người
ta tiếp tục phát triển nhân cách và hình thành quan điểm, giá trị riêng
và niềm tin vào thế giới. Mặc dù những khái niệm này một phần nào
đó đã được bạn đồng trang lứa, gia đình và những thế lực bên ngoài
khác định hình, thanh niên cũng học cách không để mình bị những ý
kiến của người khác điều khiển.
- Theo Erikson, tuổi thanh niên là lúc cá nhân tìm kiếm sự gần gũi trong
những tương quan. Họ học cách hy sinh cho người khác mà không đánh mất
bản thân. Một số thanh niên có thể cảm thấy mình không thể tương quan mật
thiết với người khác hay gặp khó khăn trong việc duy trì tương quan mà vẫn
không đánh mất bản thân. Với những trường hợp như thế, nhân viên công tác
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
xã hội có thể giúp thân chủ xây dựng hình ảnh bản thân, thiết lập những ranh
giới lành mạnh và học các kỹ năng giao tiếp.
IV. CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO
- Ở đầu tuổi thanh niên, học tập vẫn đóng vai trò quan trọng. Hoạt động học
tập ở đây đòi hỏi sự phát triển khả năng nhận thức cao, tư duy lý luận, suy
đoán lôgic, cũng như khả năng trừu tượng, khái quát hóa, sự năng động, tính
độc lập, gắn liền với xu hướng học lên cao, chọn nghề, hay vào đời.
- Sau khi tốt nghiệp trung học, nhiều người trẻ phân vân giữa việc lên đại học
hay đi làm. Một số không có đủ tiền để đi học, một số khác không biết chọn
lựa thế nào vì không được trường trung học hay cha mẹ hướng dẫn. Thanh
niên còn hiểu biết rất ít về các tính chất thật sự của các ngành nghề, yêu cầu
đối với người lao động trong các ngành nghề và còn kém hiểu biết hơn nữa
về khả năng tương lai của mình. Từ đó, xuất hiện nhiều mâu thuẫn xã hội và
tâm lý trong việc chọn nghề.
- Bên cạnh đó, thanh niên quan tâm nhiều hơn đến tình hình kinh tế chính trị,
xã hội trên thế giới và trong nước. Các em thường có sự đánh giá, trao đổi
với nhau và tỏ thái độ của mình về những vấn đề đó. Các em còn tham gia
những hoạt động xã hội nhất định tùy thuộc vào hứng thú, sở trường, điều
kiện cụ thể của cá nhân (ví dụ hoạt động tự nguyện giúp đồng bào, trẻ em bị
thiệt thòi). Việc tham gia những hoạt động này có ảnh hưởng tích cực đến sự
phát triển tâm lý, nhân cách, giúp các em có được đời sống nội tâm phong
phú và thu lượm được nhiều kinh nghiệm xã hội.
- Bao trùm lên tất cả các hoạt động phong phú, đa dạng của sinh viên các
trường đại học là những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối quan
hệ xã hội đan xen với nhau.
- Những mối giao lưu này mang tính phức hợp giữa cá nhân người sinh viên
với các bạn bè cùng lứa, cùng giới, khác giới, các tổ chức, các nhóm xã hội
trực tiếp và gián tiếp (các phương tiện thông tin, truyền thông) v.v... Hoạt
động giao lưu này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển đời sống tâm lý,
nhân cách của sinh viên.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Tóm tắt ý chính:
GIAI ĐOẠN THANH NIÊN – THỜI KỲ ĐẦU CỦA GIAI ĐOẠN TRƯỞNG
THÀNH
- Hoàn cảnh xã hội của sự phát triển: vai trò xã hội của thanh niên thay đổi,
trở nên độc lập và có trách nhiệm đối với gia đình qua lao động. Quyền bầu
cử và trách nhiệm trước pháp luật
- Sự phát triển thể chất: giai đoạn hoàn chỉnh, sức khỏe tối ưu. Tuy nhiên cần
lưu ý lối xống tiêu cực có thể để lại hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe sau
này
- Sự phát triển nhận thức: phức tạp và thực tế hơn trong cách nghĩ cách làm,
khám phá cảm xúc cá nhân ở mức độ cao, phát triển nhân cách và hình thành
quan điểm riêng, học cách tương quan gần gũi với người khác mà không
đánh mất bản thân
- Hoạt động chủ đạo: học đại học hoặc đi làm
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 6: GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH
Người trưởng thành thường được xác định là từ trên 20 đến 40 tuổi. Dấu hiệu xác
định con người bước vào tuổi trưởng thành gồm: đã học xong, có việc làm ổn định đủ
nuôi sống bản thân và gia đình mà không phụ thuộc vào cha mẹ, xây dựng gia đình
riêng, có chỗ ở ổn định. Đây là quãng đời tương ứng với giai đoạn thứ 6 trong 8 giai
đoạn phát triển của nhà tâm lý học người Mỹ, Erik Erikson
I. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT
- Về mặt thể chất, khoảng 4 - 5 năm đầu của giai đoạn này, con người vẫn tiếp
tục hoàn thiện sự phát triển của mình để đạt đến mức cao nhất của các chức
năng sinh lí và sự khéo léo tinh nhạy của các giác quan ở tuổi 24 - 25 (nữ
sớm hơn nam khoảng 2 năm). Sau tuổi 25, mọi sự phát triển về thể chất đều
dừng lại và khoảng 30 tuổi thì bắt đầu có sự đi xuống. Một số cách sống tiêu
cực ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của người trưởng thành như hút
thuốc, nghiện rượu, chè chén say sưa, ít sử dụng dịch vụ y tế và áp lực công
việc...
II. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
- Đây là giai đoạn lập thân và lập nghiệp. Nhu cầu gắn bó với người khác, và
tình yêu nam nữ đích thực xuất hiện. Tình yêu nam nữ ở giai đoạn này không
chỉ dừng lại ở sự thơ mộng, lãng mạn mà còn có sự gắn kết lâu dài để trở
thành vợ chồng, thành những gia đình bền vững. Trong tình yêu, người
trưởng thành biểu lộ những bản sắc riêng và tính trách nhiệm. Họ có khả
năng trao tặng, dâng hiến bản thân cho người mình yêu quí nhưng vẫn không
đánh mất sắc thái của mình. Chính vì nhu cầu gắn kết trong tình yêu nam nữ
có vị trí đặc biệt quan trọng cho nên vấn đề tâm lý tiềm tàng của giai đoạn
này là sự cô độc, thất vọng, thậm chí tuyệt vọng nếu thất bại trong việc tìm
kiếm tình yêu và sự gắn bó.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến cấu trúc của tình yêu và đã xây dựng các
học thuyết mô tả các kiểu tình yêu và xác định kiểu này sẽ có khả năng dẫn
đến những quan hệ thành công. Một trong những học thuyết này là của
Robert Sternberg (1988) trong đó mô tả các kiểu và những dạng phối hợp của
tình yêu.
SỰ THÂN MẬT (mến)
Tình yêu lãng mạn
Tình yêu có thỏa thuận
SỰ RÀNG BUỘC, CAM KẾT
SỰ ĐAM MÊ (cuồng dại)
(tình yêu trống rỗng)
Tình yêu khờ dại
Tình yêu trọn hảo (phối hợp mọi yếu tố) Không yêu (thiếu các yếu tố trên)
- Theo Sternberg, tình yêu mê đắm hay cuồng dại là loại tình yêu “từ đầu đến
chân” trong đó cá nhân luôn bận tâm suy nghĩ về người kia. Người ta cảm
thấy bị thu hút mạnh mẽ và có khuynh hướng lý tưởng hóa nhau. Tình yêu
thân mật, hay mến nhau là một loại tình yêu bắt nguồn từ cảm giác gần gũi
nhau. Các cặp có cảm tưởng thân thiết với nhau, và ý thức được “cái chúng
tôi” và họ tôn trọng lẫn nhau. Những cặp cảm nghiệm được tình yêu thân mật
thích dành thời gian bên nhau. Sự ràng buộc, cam kết hay tình yêu trống rỗng
không có yếu tố gần gũi. Những cặp này có tương quan đều đặn, kiên trì và
có thể dự đoán được, trong đó cả hai tin tưởng và dâng hiến cho nhau nhưng
họ không nhất thiết chia sẻ những cảm xúc sâu sắc thân mật với nhau như
trong tình yêu đam mê. Tình yêu trống không có thể được mô tả là các cuộc
hôn nhân trống rỗng trong đó các cặp ở với nhau vì nhiều lý do chứ không
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
phải vì cảm giác thân mật gần gũi. Ví dụ một số cặp có thể ở với nhau vì giữ
thể diện hoặc vì những lý do tài chánh.
- Học thuyết của Sternberg cũng mô tả các kiểu tình yêu phối hợp mọi yếu tố
khác nhau. Ví dụ tình yêu lãng mạn có thể là một dạng phối hợp của tình yêu
gần gũi và tình yêu đam mê. Tình yêu lãng mạn là tình yêu của những người
xích lại gần nhau vì cảm giác gần gũi và sự thu hút mãnh liệt. Tình yêu lãng
mạn thường bắt đầu bằng sự si mê cuồng dại. Trái lại những cặp với tình yêu
có thỏa thuận thì ở dạng phối hợp của tình yêu gần gũi và tình yêu trống
rỗng. Họ càm thấy gần với nhau và sẵn sàng cam kết với nhau nhưng tương
quan này thiếu yếu tố si mê. Hầu hết các tương quan lãng mạn dần chuyển
thành tình yêu có thỏa thuận một khi sự si mê phai tàn. Không có gì phải
ngạc nhiên khi tình yêu có sự thỏa thuận thường đem lại những cuộc hôn
nhân lâu dài hơn hết.
- Tình yêu khờ dại là sự phối hợp giữa tình yêu đam mê và tình yêu cam kết.
Đây là thứ tình yêu ngu dại trong đó người ta nhanh chóng dính chặt với
nhau một cách mãnh liệt và vội vã tiến đến hôn nhân. Tình yêu trọn hảo là sự
nối kết cả 3 yếu tố. Đó là thứ tình yêu lý tưởng nhưng khó có được và khó
duy trì. Trái lại không yêu là sự vắng mặt 3 yếu tố. Đây có thể được gọi là
quan hệ nhất thời hay chẳng qua chỉ là những tương quan người với người
mà thôi.
- Mặc dù học thuyết của Sternberg không thể nói trước được liệu các cặp sẽ
sống với nhau hay sẽ chia tay nhưng học thuyết này đã cho ta hiểu rõ tính
chất của những loại tương quan khác nhau. Việc hiểu biết này có thể giúp
nhân viên công tác xã hội nắm bắt được những mong đợi về tình yêu và
những quan hệ gần gũi cũng những động cơ của một số mối tương quan của
con người.
- Đời sống gia đình của những cặp vợ chồng trẻ ở độ tuổi này cũng có nhiều
vấn đề. Từ hai cá thể có thể khác nhau về tính cách, hoàn cảnh, điều kiện
sống giờ đây cùng chung sống và hòa hợp thành một gia đình thì không phải
là chuyện đơn giản. Vì thế, những cặp vợ chồng trẻ cần trang bị cho mình
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
những hiểu biết nhất định về tâm lý giới tính, về đời sống gia đình, văn hóa
vợ chồng, tính trách nhiệm và những vấn đề khác.
- Việc sinh ra và nuôi dạy con cái cũng là khía cạnh rất quan trọng của đời
sống gia đình. Người trưởng thành phải thích nghi với vai trò và trách
nhiệm mới với những nghĩa vụ nặng nề hơn. Điều này chi phối không ít đến
cuộc sống và tâm lực của người làm cha, làm mẹ ở giai đoạn này bên cạnh
sự phấn đấu cho chính bản thân mình.
- Cùng với việc lập thân, người trưởng thành cũng tập trung cho lập nghiệp. Ở
giai đoạn này, đại đa số đã có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Người ta
không chỉ lao động mà còn sáng tạo và tìm được niềm vui trong công việc.
Việc làm không chỉ đem lại ý nghĩa to lớn cho cá nhân người trưởng thành,
gia đình của họ mà còn là sự đóng góp cho xã hội. Qua việc làm, người
trưởng thành có được một vị thế được xã hội công nhận, họ cảm thấy mình
có giá trị, có ích cho gia đình và cho đời.
- Nếu người 35 - 40 tuổi mà chưa có nghề nghiệp ổn định thì sẽ cảm thấy bất
an, hụt hẫng, bi quan, tự ti, chán nản hoặc bất mãn. Trạng thái tâm lý này có
thể dẫn người ta đến trầm uất, nghiện ngập và rơi vào các tệ nạn xã hội.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý Ở TUỔI TRƯỞNG THÀNH
1. Bạo hành gia đình
Bạo hành gia đình có thể được định nghĩa là một hành động bạo ngược
trong bất cứ mối tương quan nào của một người để đạt được hay bảo vệ được
quyền hành hay sự kiểm soát của mình đối với một người thân. Bạo hành có
thể là những hành động liên quan đến thân thể, tình dục, tình cảm, kinh tế,
tâm lý hay những hành động hăm dọa ảnh hưởng đến một người khác. Như
vậy bạo hành bao gồm bất cứ thái độ nào nhằm hăm dọa, lôi kéo, làm nhục,
cô lập, làm sợ hãi, khủng bố, đe dọa, đổ lỗi, xúc phạm, làm thương tổn, hay
gây thương tích cho ai.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Bạo hành thân thể: đánh, đập, xô đẩy, túm lấy, cưỡng đoạt, cắn, nắm
đầu v.v. Bạo hành trên thân thể cũng bao gồm không chăm lo sức khỏe,
hay ép buộc uống rượu hoặc dùng ma túy
- Bạo hành tình dục: ép buộc hay thử ép buộc nạn nhân trong mọi tiếp
xúc về thể xác mặc dù nạn nhân đã tỏ ý không bằng lòng. Bạo hành về
tình dục bao gồm sự cưỡng dâm, xúc phạm bộ phận sinh dục trên cơ thể,
hãm hiếp sau khi bạo hành đã xảy ra, hay có thái độ thấp hèn trong vấn
đề tình dục như muốn người phối ngẫu hành dâm với người khác cho họ
xem, hay có thói quen đánh đập, cắn, cấu... trong khi tình tự.
- Bạo hành tình cảm: hủy hoại giá trị và lòng tự trọng của con người.
Điều này bao gồm chỉ trích liên tục, hạ thấp tài năng người khác, lăng
mạ, hay làm tổn hại đến mối liên hệ vợ chồng và con cái.
- Bạo hành kinh tế: làm hay thử làm cho người khác phải phụ thuộc mình
về tài chánh bằng cách duy trì sự kiểm soát các nguồn tài chánh, không
cho quyền sử dụng tiền, hay cấm đoán đi học hoặc đi làm
- Bạo hành tâm lý: gây sợ hãi bằng cách hăm dọa; hăm dọa tự hủy hoại
bản thân mình, người bạn đời của mình, con cái, gia đình hay bạn bè của
người đó; hủy hoại thú vật nuôi trong nhà và tài sản; cô lập không cho
liên lạc với gia đình, bạn bè, trường học hay sở làm
Nguyên nhân của bạo hành gồm:
- Thái độ chấp nhận bạo hành của nạn nhân
- Kinh nghiệm bị bạo hành bị ngược đãi khi còn nhỏ
- Việc lạm dụng rượu và chất kích thích
- Những căng thẳng trong công việc hoặc thất nghiệp
2. Ly hôn
Lý do ly hôn do nam và nữ đưa ra khá trùng nhau. Bao gồm: Vấn đề giao
tiếp, không hạnh phúc cơ bản, không hợp nhau, vấn đề tình dục, vấn đề tài
chính, lạm dụng tình cảm bố mẹ vợ (chồng), không chung thủy, lạm dụng
rượu, đánh đập... Cảm giác sau ly hôn: Giận dữ, thất vọng, cô độc, bị bỏ rơi
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
và bị phản bội... Dẫn đến mất quân bình, trầm cảm, khó khăn về kinh tế và
phá vỡ các mối quan hệ xã hội khác. Nói chung hậu quả kéo dài sau 5 năm
(trầm trọng hơn vợ hoặc chồng mất).
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH
- Sự phát triển thể chất: đạt đến mức cao nhất của các chức năng sinh lí và
sự khéo léo tinh nhạy của các giác quan ở giai đoạn đầu nhưng từ 30 tuổi
trở đi thì có dấu hiệu giảm sút
- Sự phát triển tâm lý: Lập thân và lập nghiệp – nhu cầu gắn bó với người
khác phái và kết nghĩa vợ chồng, nhu cầu có việc làm và thu nhập ổn định.
Nếu hai nhu cầu này không được đáp ứng sẽ có thể dẫn đến trầm uất, và
nghiện ngập
- Một số vấn đề cần lưu ý: bạo hành gia đình, ly hôn
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 7: GIAI ĐOẠN TRUNG NIÊN
Đối với nhiều người, giai đoạn trung niên có thể được xem là giai đoạn thưởng
thức, hài lòng với cuộc sống. Vào lúc này, bước vào lứa tuổi 40, nhiều người đã vượt
qua thành công những thách đố ở giai đoạn trước và đã đạt được một số mục tiêu giáo
dục, nghề nghiệp và tương quan. Qua giai đoạn 60 tuổi, nhiều người vẫn còn sung sức.
Tuy nhiên, đối với một số người, tuổi trung niên có thể là lúc bị stress nặng nề do
các vấn đề như bệnh tật, ly dị, và những khó khăn trong công việc gây nên.
I. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT Ở TUỔI TRUNG NIÊN
- Một trong những thay đổi rõ nét ở tuổi trung niên đó là tình trạng thể chất.
Mặc dù ở một số người thì những thay đổi này đến từ từ, đối với nhiều người
khác thì do lối sống và do di truyền mà những thay đổi này đến nhanh hơn và
đáng lưu ý hơn. Ví dụ nhiều người bắt đầu có thể nhìn thấy những nếp nhăn
trên mặt, tóc bạc hay rụng dần. Nhiều ông hói đầu và nhiều bà mập vòng
bụng và ngực chảy xệ. Vì những thay đổi này mà một số người tìm đến thẩm
mỹ viện để làm cho mình trông trẻ trung. Nhiều phụ nữ cho rằng ở tuổi trung
niên người phụ nữ trông già hơn nam giới và bị đối xử tiêu cực hơn. Nếu như
tóc bạc và nếp nhăn ở người đàn ông được xem là “đạo mạo” thì ở phụ nữ bị
xem là “nhan sắc về chiều”. Đàn ông cao tuổi được xem là hấp dẫn, thu hút
hơn đàn bà lớn tuổi.
- Bên cạnh đó, một số bệnh thường xuất hiện thời trung niên là tiểu đường, cao
huyết áp, tim mạch và thấp khớp. Lượng cholesterol tăng lên rõ rệt: trung
bình từ 198 ở tuổi 35 - 40 tăng lên 221 ở tuổi 45 và sau đó tiếp tục tăng theo
tuổi. Chức năng hoạt động của thận giảm đi khoảng 10%, dung lượng của
phổi cũng bắt đầu giảm. Hoạt động của hệ thần kinh trung ương cũng xuống
cấp, nhất là vào giai đoạn cuối, từ 55 đến 60 tuổi.
1. Mãn kinh ở nữ giới
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Mãn kinh là việc chấm dứt chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ và thời điểm
mãn kinh thì tùy vào từng người. Tuy nhiên tuổi mãn kinh trung bình là
51. Có người mãn kinh rất sớm, ngoài 30 nhưng cũng có những người
cho đến tuổi 60 mới mãn kinh. Thời kỳ mãn kinh kéo dài khoảng 2 đến 5
năm. Trong suốt thời gian đó, cơ thể phụ nữ có nhiều thay đổi.
- Mãn kinh bắt đầu khi chu kỳ kinh nguyệt của người nữ bất thường: kinh
kỳ khi có khi không, máu ra ít hơn, ngừng kinh nguyệt. Trong suốt giai
đoạn này buồng trứng ngừng hoạt động, mức độ estrogen và hooc môn
nữ giảm, ống dẫn trứng thu ngắn lại và nhỏ hơn, tử cung nhỏ hơn và
cứng hơn, âm đạo ngắn hơn và ít đàn hồi hơn. Phụ nữ có thể cảm nhận
chất nhờn ở âm đạo giảm đi và làm cho quan hệ tình dục không thoải mái
hay gây đau. Những triệu chứng khác có thể là đau đầu, mất ngủ, ra máu,
rụng tóc, lên cân, da dẻ thay đổi, lông mọc ở những chỗ không mong
muốn và lông mặt gia tăng.
- Những phản ứng tâm lý đối với mãn kinh tùy thuộc vào từng phụ nữ, vào
cá tính, kỹ năng đối phó, hệ thống hỗ trợ và thái độ đối với cuộc sống và
tuổi già của phụ nữ. Một số người đón nhận những thay đổi diễn ra trong
thời mãn kinh một cách hoan hỉ vì được giải thoát những phiền nhiễu và
tốn kém do kinh nguyệt gây ra và họ không còn lo sợ phải mang thai nữa.
Trái lại cũng có những phụ nữ cảm nghiệm nỗi lo sợ, trầm cảm, tự khinh
thị mình vì đã mãn kinh và không còn sinh nở, hấp dẫn nữa.
2. Khủng hoảng nghiêm trọng ở nam giới
- Bằng chứng cho thấy rằng nam giới cũng gặp thời kỳ khủng hoảng trầm
trọng hay một thay đổi trong lối sống tương tự như việc mãn kinh ở nữ
giới vậy. Sự thay đổi này được xem là giai đoạn “mãn kinh nơi nam giới”
hay “mãn hooc môn nam” với những thay đổi về thể lý. Theo nghiên cứu
của các chuyên gia ở ĐH Y khoa St. Louis (Mỹ), cứ 10 đàn ông trong độ
tuổi từ 40-60 có khoảng 10% mắc bệnh tắt dục, trong số này chỉ có 5%
tìm cách điều trị. Nguyên nhân chủ yếu là do suy giảm testosteron (nội
tiết tố sinh dục nam).
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Thông thường, sau 32 tuổi, nam giới bắt đầu suy giảm testosteron và cứ
10 năm tiếp theo, testoteron lại giảm đi khoảng 10%. Hiện tượng thường
thấy là ham muốn tình dục giảm, thay đổi về tâm sinh lý, khối lượng
cũng như năng lượng cơ bắp giảm, tăng tích mỡ vùng ngực và bụng, xuất
hiện hiện tượng loãng xương, giòn và mỏng xương, đau lưng, dễ mắc
bệnh tim mạch cao, trầm cảm và suy giảm trí nhớ.
- Không giống phụ nữ, hội chứng “mãn kinh” ở đàn ông xảy ra với tần suất
chậm dần đều. Ngoài suy giảm testosteron dẫn đến hiện tượng “mãn
kinh” ở nam giới còn có một số nguyên nhân khác như do tuổi tác, béo
phì, do mắc một số loại bệnh nan y như trầm cảm, rối loạn tự miễn, tiểu
đường, sa sút trí tuệ...
- Việc khủng hoảng trầm trọng ở nam giới là giai đoạn giữa tuổi 35 và 60
khi nhiều người đàn ông đánh giá lại nghề nghiệp, tương quan gia đình
và những chọn lựa chính yếu trong cuộc đời mình. Người thành đạt cảm
thấy mãn nguyện, kẻ thất bại thấy chua xót, nuối tiếc một thời tuổi trẻ và
những cơ hội đã bỏ lỡ. Họ muốn làm lại nhưng thấy đã quá muộn và cảm
thấy tương lai ảm đạm. Một số người trải nghiệm những triệu chứng thể
chất như lo lắng, trầm cảm trong giai đoạn này. Ngoài ra nhiều người
cũng nhận ra những triệu chứng của tuổi già như rụng tóc, lên cân, suy
giảm năng lượng, suy giảm độ dẻo dai của cơ bắp, và giảm hooc môn
nam, suy giảm chức năng tính dục. Những triệu chứng này có thể tạo ra
cảm giác lo lắng và trầm cảm, thất vọng, chán chường, thờ ơ, lãnh đạm
với cuộc sống.
II. SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC Ở TUỔI TRUNG NIÊN
- Ngược với khía cạnh thể chất thì khả năng nhận thức, trí tuệ của người trung
niên không có dấu hiệu đi xuống. Khi người ta không sử dụng những kĩ năng
trí tuệ hay khi họ có vấn đề sinh học họ mới có dấu hiệu suy giảm nhận thức.
Ví dụ họ sẽ giảm trí nhớ và suy nghĩ chậm chạp hơn. Tuy nhiên có thể nói
rằng người ở tuổi trung niên có thể có nhận thức tốt hơn tuổi thanh niên.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Ví dụ những người làm những công việc đầu óc nếu tiếp tục học tập hay đọc
sách thì khả năng trí tuệ (ví dụ như từ vựng) sẽ gia tăng. Lại nữa, những
người tuổi trung niên có khuynh hướng ở vào thời kỳ sáng tạo nhất và họ rất
giỏi phối hợp những kiến thức mới với những kiến thức sẵn có và có được
kinh nghiệm phong phú vì họ đã trải nghiệm đời lâu hơn tuổi trẻ. Vì lẽ đó,
người ở tuổi trung niên cũng là những người giải quyết vấn đề tốt hơn. Họ có
khả năng nhận định, phân tích giá trị của thông tin.
- Theo Erikson, tuổi trung niên là lúc con người đầu tư vào công việc, gia đình
và cộng đồng. Nhiều người ở tuổi trung niên tỏ ra rất sáng tạo và linh hoạt,
họ có những đóng góp vào những lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, nếu người
ta ngưng học hỏi hoặc nếu họ có vấn đề thể chất ngăn cản họ làm việc và
thiết lập những tương quan, họ có thể cảm thấy ù lì, uể oải hoặc ít hữu dụng.
III. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý Ở TUỔI TRUNG NIÊN
1. Hội chứng trống vắng ở tuổi trung niên
Hội chứng này xuất hiện khi con cái của người trung niên đã trưởng thành
và rời khỏi gia đình. Gia đình trở nên trống vắng, thiếu tiếng cười của người
trẻ. Nhiều bậc cha mẹ tuổi trung niên có thể bị stress vì thấy như mất con và
mất vai trò người chăm sóc.
2. Chuẩn bị về hưu tuổi trung niên
Một điểm cần phải quan tâm khi làm việc với người ở độ tuổi trung niên đó
là vấn đề chuẩn bị về hưu. Một số người bắt đầu lập kế hoạch tài chánh, tâm
lý và những thứ khác ngay từ đầu tuổi trưởng thành trong khi nhiều người lại
để cho đến phút cuối cùng. Đặc biệt đối với những người có thu nhập nhập chỉ
đủ đắp đổi qua ngày thì rất khó cho họ để dành tiền và tưởng tượng đến
chuyện một mai về hưu sẽ ra sao.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN TRUNG NIÊN
- Sự phát triển thể chất: xuất hiện dấu hiệu lão hóa, mãn kinh ở nức giới và khủng
hoảng nghiêm trọng ở nam giới, bệnh tật như tiểu đường, cao huyết áp, tim mạch
và thấp khớp
- Sự phát triển nhận thức: khả năng trí tuệ không có dấu hiệu đi xuống nếu tiếp
tục học tập và làm việc, có khả năng nhận định và phân tích vấn đề ở chiều sâu,
đầu tư nhiều vào công việc, gia đình và cộng đồng
- Một số điểm cần lưu ý: Hội chứng trống vắng – con cái ra riêng sống độc lập,
chuẩn bị về hưu
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Bài 8: GIAI ĐOẠN CAO NIÊN
Trên thế giới, dân số ngày một già hóa và mọi quốc gia phải đối phó với những
thách đố về việc chăm lo cho người cao tuổi. Một khi việc chăm sóc sức khỏe được
cải thiện và khoa học kỹ thuật mới luôn phát triển, các cá nhân, gia đình và cộng đồng
sẽ phải đối đầu với những vấn đề xung quanh việc đáp ứng nhu cầu và cung cấp các
dịch vụ cho người cao tuổi.
I. NHỮNG THAY ĐỔI THỂ CHẤT VÀ NHẬN THỨC
Từ 60 tuổi trở đi, các cơ quan nội tạng cũng như hệ thần kinh trung ương đang
đi vào giai đoạn thoái hóa rõ rệt. Hoạt động của hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu
hóa, hệ bài tiết v.v... đều giảm sút và trì trệ. Nói cách khác,
1. Về mặt thể chất:
- Suy giảm hệ xương và cơ
- Các bệnh thường thấy như viêm khớp và loãng xương gia tăng
- Nếp nhăn, tóc bạc, da mồi xuất hiện
- Rụng răng và các vấn đề răng miệng
- Giảm thính lực và thị lực
- Suy giảm việc thực hiện chức năng của hệ thống thần kinh trung ương
ảnh hưởng đến thời gian phản ứng lại và kỹ năng phối hợp
2. Về mặt nhận thức:
- Triệu chứng mất trí nhớ gia tăng
- Suy giảm khả năng ghi nhớ
Đây là nguyên nhân sâu xa của những căn bệnh của tuổi già.
Ở tuổi này nguy cơ bệnh tật cao. Đó là những căn bệnh: huyết áp cao,
xơ vữa động mạch, tai biến mạch máu não, bệnh đau đầu, giảm thị
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
lực, thoái hóa cột sống, bệnh loãng xương, bệnh ung thư v.v... Một số
bệnh điển hình liên quan đến hệ thần kinh như: Parkison, Alzheimer.
Chẳng hạn, bệnh Parkinson mà biểu hiện của nó là sự rối loạn của hệ
vận động ở não bộ. Triệu chứng của bệnh này là chân tay run rẩy,
bệnh nhân không điều khiển được chính xác động tác, hành động của
mình. Bệnh này chiếm tỉ lệ không nhỏ ở những người già, gây nhiều
khó khăn cho sự tự phục vụ trong sinh hoạt.
Bệnh Alzheimer cũng là một căn bệnh điển hình của người già. Đó là
căn bệnh phổ biến nhất của sự sa sút trí tuệ. Triệu chứng sớm nhất
của bệnh này là giảm trí nhớ, giảm khả năng suy nghĩ có tính lý
luận, lôgic. Sau đó có những biểu hiện trong nói năng, diễn đạt
bằng ngôn ngữ. Kèm theo có sự rối loạn về hành vi, hay gây gổ, đi
lang thang v.v... dần dần bệnh nhân không làm gì được cho bản
thân, không tự phục vụ được và cuối cùng là chết. Tỉ lệ mắc bệnh
Alzheimer trên thế giới khá cao, chữa trị rất tốn kém, ít hiệu quả và
đang có xu hướng ngày càng tăng.
II. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TUỔI GIÀ
1. Hội chứng về hưu
- Từ 55 (đối với nữ) và 60 tuổi (đối với nam) là giai đoạn con người kết
thúc thời kỳ lao động của mình để nghỉ ngơi, thư giãn. Đây là tuổi hưu
của con người. Trong giai đoạn này, con người thường hồi tưởng, thường
tự xem xét, đánh giá về quãng đời đã qua của mình. E.Erikson cho rằng
nhiệm vụ ưu thế của giai đoạn chót này là hình thành sự toàn vẹn của cái
tôi. Nó cho phép con người thấy được ý nghĩa trong cuộc sống của mình.
Khi những người già làm cái việc "tự kiểm điểm, tự đánh giá" này
thường xảy ra hai trạng thái tâm lý khác nhau. Nếu những người già nào
tự thấy rằng họ đã sống và làm được những điều tốt đẹp trong hoàn cảnh
của mình, họ sẽ tự tin, yên tâm vui sống với con cháu. Những người này
chấp nhận cái chết như là sự kết thúc của cả quãng đời đầy ý nghĩa. Trái
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
lại, cũng có người cảm thấy hối tiếc vì những cơ hội đã bỏ qua cũng như
sự lựa chọn thiếu khôn ngoan của mình. Những người này thường dễ bi
quan, tuyệt vọng, ít vui sướng và dễ bị những bệnh tật của tuổi già. Họ
chấp nhận cái chết thường khó khăn và vẫn mong muốn: giá có cơ hội
làm lại.
- Khi chuyển từ trạng thái làm việc tích cực, khẩn trương hằng ngày sang
trạng thái nghỉ ngơi, tâm lý con người có những biến động đáng kể.
Nhiều người cảm thấy khó thích nghi với cuộc sống mới. Người ta cho
rằng đây là những năm tháng dễ gây ra các "hội chứng về hưu" ở người
già.
- Biểu hiện của hội chứng này là buồn chán, trống trải, thiếu tập trung, dễ
cáu gắt, dễ nổi giận. Một số người cảm thấy không được tôn trọng như
trước, thiếu tự tin, nghi ngờ người khác v.v... Cá biệt có người sa sút rõ
rệt và sinh ra bệnh tật. Hội chứng này thường xảy ra trong năm thứ nhất
của thời kỳ nghỉ hưu và mức độ biểu hiện rất khác nhau, tuỳ thuộc vào
những yếu tố và những điều kiện cụ thể khác nhau của từng người. Nó có
thể kéo dài một năm, thậm chí hai, ba năm. Người ta quan sát thấy:
những người có tính cách nóng nảy, cố chấp, thời gian thích nghi thường
kéo dài; những người từ tốn, bình tĩnh dễ thích ứng hơn. Đa số sau một
năm có thể hồi phục trạng thái bình thường. Nữ giới thường thích ứng
nhanh hơn nam giới.
- Nguyên nhân của "hội chứng về hưu" có nhiều, trong đó những nguyên
nhân có tính tâm lý - xã hội là đáng quan tâm hơn cả. Khi về hưu, con
người xa rời những công việc quen thuộc mà mình yêu thích, đã gắn bó
hàng chục năm, nếp sống bị đảo lộn, các mối quan hệ xã hội thân thiết bị
thu hẹp, sự giao tiếp hằng ngày bị thay đổi. Những người về hưu cảm
thấy mình đã đến cái tuổi không còn làm được gì, thu nhập cũng bị hạn
chế, cống hiến cho xã hội bị giảm sút v.v... Tất cả những điều đó là
những nhân tố làm rối loạn tâm lý, thể chất của những người về hưu, gây
ra những thứ stress không phải ai cũng dễ vượt qua.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- "Hội chứng về hưu" có thể khắc phục được nếu chúng ta có sự chuẩn bị
trước về mặt tâm lý. Kinh nghiệm của những người về hưu cho thấy:
Cần nhận thức được việc nghỉ hưu là quy luật tất yếu đối với tất cả
mọi người khi tuổi cao sức giảm.
Sống và làm việc tốt suốt trong thời kỳ đương chức. Nghĩa là trong
thời gian dài làm việc, dù ở bất cứ cương vị công tác nào, con người
cũng sống có đạo đức, có lương tâm, làm việc với tinh thần trách
nhiệm đầy đủ, thì lúc về hưu sẽ cảm thấy thanh thản, không có gì hối
tiếc.
Chuẩn bị cơ sở vật chất trong điều kiện cho phép. Ví dụ: chuẩn bị nhà
ở, sổ tiết kiệm để sinh sống, chi tiêu lúc cần thiết trong giai đoạn nghỉ
hưu (ở Nhật Bản và Singapore nhiều thanh niên đã chú ý gửi tiết kiệm
cho lúc nghỉ hưu).
Nuôi dạy con cái tốt và góp phần chuẩn bị nghề nghiệp, việc làm cho
con cái khi còn đương chức. Chuẩn bị tâm thế sống hòa hợp với con
cháu lúc nghỉ hưu.
Gia nhập các tổ chức xã hội phù hợp để tiếp tục hoạt động trong điều
kiện mới như các hội đồng hương, hội khoa học kỹ thuật, hội cựu
chiến binh, hội làm vườn, chăn nuôi v.v... Kinh nghiệm của những
người trường thọ đã chỉ rõ người về hưu vẫn cần tiếp tục làm việc nhẹ
nhàng, phù hợp với sức khỏe và hoàn cảnh gia đình; sau khi nghỉ
không nên cắt đứt mọi quan hệ với công việc mà cần duy trì hoạt
động theo một nhịp độ, nề nếp sinh hoạt hợp lý như đọc sách, báo,
xem tivi, viết kinh nghiệm, viết hồi ký, tham gia những công việc ở
thôn xóm, phường xã, giúp đỡ con cháu những việc nhẹ nhàng v.v...
- Những việc làm này giúp người cao tuổi chuyển sang một vai trò mới,
thích ứng dần với vai trò tuổi già và tiếp tục khẳng định niềm tin vào bản
thân, sống vui vẻ vì họ thấy mình vẫn có ích, vẫn đóng góp được cho xã
hội và thế hệ mai sau theo sức lực của mình.
Những người cao tuổi cần tiếp tục duy trì một chế độ sinh hoạt: ăn,
ngủ, làm việc, tập thể dục, thư giãn hợp lý, giữ được các mối giao lưu
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
rộng rãi với bạn bè, đồng nghiệp và những người thân yêu trong gia
đình để đảm bảo cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc.
- Nếu có tâm lý sẵn sàng cho việc nghỉ hưu và thực thi một kế hoạch sống
và làm việc như trên, những người về hưu sẽ không cảm thấy bị hụt
hẫng, bị khủng hoảng. Họ sẽ tiếp tục sống thoải mái, thanh thản và hạnh
phúc trong quãng đời còn lại.
2. Tuổi già và khía cạnh tâm linh
Khi đã cao tuổi, con người thường gắn bó hơn với đời sống tâm linh, với
dòng họ, gia đình và con cháu. Nhiều cụ ông, cụ bà thường đi thăm viếng lễ
bái ở các đền, chùa, di tích nổi tiếng của đất nước, tham gia các lễ hội của
làng, xã. Những hoạt động này vừa mang tính thư giãn, giải trí cao, vừa thỏa
mãn tâm lý trở về cội nguồn của người cao tuổi. Các cụ ông thường quan tâm
đến lịch sử, gia phả của dòng họ, của gia đình, bỏ nhiều công sức để tìm
hiểu, hoàn thiện những vấn đề mà trước đây vì bận công việc họ chưa làm
được. Điều này đem lại niềm vui, niềm tự hào cho chính họ, vừa có ý nghĩa
răn dạy con cháu rất tốt.
3. Tuổi già và buồn sầu, mất mát
Nhiều vấn đề gây nên những phản ứng buồn sầu nơi người cao tuổi. Mất
sức khỏe, khả năng, sự hỗ trợ, các mối tương quan, bạn bè, vị thế khác nhau
làm cho người già dễ bị tổn thương và có những phản ứng đau buồn.
Một cách tiếp cận giải thích những phản ứng đau buồn của người cao tuổi
đó là lý thuyết của Elisabeth Kubler-Ross về sự hấp hối và cái chết (1969).
Thuyết này có thể giúp ta hiểu rõ hơn quá trình của nỗi sầu và quá trình này
có thể ảnh hưởng đến những phản ứng và cách đối phó của người cao tuổi ra
sao.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
- Giai đoạn 1: Phủ nhận
Đây là giai đoạn đầu tiên trong đó người ta biết được thông tin rằng họ hoặc
ai đó họ biết đang hấp hối. Việc phủ nhận, chối từ có thể rất hữu ích vì nó
giúp bảo vệ ta khỏi cú sốc trước thông tin mới nhận được. Trong giai đoạn
phủ nhận này, người ta có thể nghĩ rằng “Không, không phải mình đâu”
hoặc là “chắc phải có sự nhầm lẫn gì đây” hoặc “tại sao lại là con trai tôi
chứ?”
- Giai đoạn 2: Tức giận
Một khi con người đã qua giai đoạn phủ nhận, phản ứng tiêu biểu kế tiếp
mà ta thấy được đó là tức giận. Người ta phản ứng lại bằng sự giận dữ. Đây
là cách thức con người giải tỏa những cảm xúc mãnh liệt của mình. Người
ta có thể mắng nhiếc người chăm sóc, gia đình và thậm chí cả Trời đất nữa.
Một số kiểu giận dữ có thể có là “Tại sao lại là tôi?” hoặc “Tại sao ông Trời
lại làm điều này” hoặc “Tôi đã làm gì để đáng chịu như thế này?”
- Giai đoạn 3: Mặc cả, ngã giá
Một khi cơn giận đã nguội đi, người ta có thể thử mặc cả với các chuyên gia
chăm sóc sức khỏe hoặc với Trời để phục hồi lại sức khỏe. Kiểu phản ứng
tiêu biểu là “Nếu tôi khỏe trở lại, tôi sẽ đi nhà thờ” hoặc “nếu cho tôi thêm
thời gian, tôi sẽ…” hoặc “tôi hứa tôi sẽ sống tốt hơn nếu để cho tôi sống”.
Thậm chí những người không tin vào Chúa cũng thường mặc cả với một
quyền lực cao cả hơn.
- Giai đoạn 4: Trầm cảm
Một khi nhận ra rằng mặc cả không đưa lại kết quả gì, người ta thường rơi
vào trầm cảm. Đôi khi trầm cảm là chủ động: người ta chủ động than thở
những mất mát đang đến hoặc sẽ đến. Đôi khi trầm cảm là thụ động: người
ta trở nên câm lặng và co lại không chia sẻ với ai.
- Giai đoạn 5: Chấp nhận
Sau khi đã trải qua những giai đoạn trước, con người có được sự bình an để
chấp nhận rằng họ hoặc ai đó sẽ chết. Nếu đạt đến giai đoạn này, họ thường
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
có thể giải quyết những việc còn dang dở và viết đoạn kết cho những mối
quan hệ và cuộc đời mình.
Kubler thấy rằng nhiều người đã trải qua những giai đoạn như thế và một số
người bị mắc kẹt ở một giai đoạn thì không thể bước tiếp giai đoạn tiếp
theo. Nhưng cũng có một số người sẽ bỏ qua một hoặc hai giai đoạn nào đó,
hoặc có người lại quay về giai đoạn trước đó. Học thuyết này cho biết
những phản ứng trước sự hấp hối và cái chết. Ta có thể sử dụng nó để hiểu
thêm những trạng thái cảm xúc của tuổi gì khi đối diện với những mất mát
để giúp họ có thể chấp nhận và có được sự bình an trước những mất mát
này.
III. TUỔI GIÀ VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
Bên cạnh tâm lý hướng về cội nguồn, tổ tiên, những người cao tuổi còn có mối
quan tâm đặc biệt đối với con cháu - những người sẽ tiếp nối họ trong tương lai.
Điều hạnh phúc nhất đối với người già là thấy con cháu mình trưởng thành, tiến
bộ, hữu ích cho xã hội. Họ coi đây vừa là tài sản quí báu nhất mà họ để lại cho gia
đình, xã hội, vừa là phần thưởng tạo hóa giành cho họ. Chính vì vậy, nhiều bậc
ông bà đã góp phần đắc lực vào việc nuôi dạy con cháu mình trưởng thành và coi
đó là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn.
Sức khoẻ và những trạng thái tâm lý của người già không chỉ phụ thuộc vào
chính bản thân họ mà còn phụ thuộc vào môi trường sống của xã hội, vào thái độ
cư xử của con cháu, của các thế hệ kế tiếp họ. Sự kính trọng, biết ơn của xã hội,
của các thế hệ con cháu là niềm động viên khích lệ rất lớn đối với người già.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN CAO NIÊN
- Những thay đổi về thể chất và nhận thức: giai đoạn thoái hóa về thể chất, nguy cơ
bệnh tật cao, xuất hiện triệu chứng mất trí nhớ và suy giảm khả năng ghi nhớ
- Đặt điểm tâm lý:
Hội chứng về hưu sẽ khiến cho người cao tuổi kiểm điểm lại quá khứ và
cảm thấy hài lòng hoặc hối tiếc về những chọn lựa đã qua
Khía cạnh tâm linh: gắn bó với thần linh, dòng tộc
Buồn sầu và mất mát: cảm nhận sự bất lực của bản thân, kinh nghiệm sự ra
đi của những người đồng trang lứa và sợ hãi cái chết
- Tuổi già và môi trường xã hội: hướng về cội nguồn, quan tâm đến con cháu
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
TÓM KẾT
Học thuyết về sự phát triển tâm lý xã hội của Erikson được trình bày sau đây hy
vọng sẽ tóm kết lại một số điểm nhân viên công tác xã hội cần quan tâm trong quá
trình tác nghiệp. Erikson cho rằng con người phát triển theo một hướng nhất định
gồm tám giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn 1- tin tưởng >< không tin tưởng (từ lúc sinh ra đến khi 18
tháng): Trong giai đoạn này, trẻ học tin tưởng người khác đặc biệt là
người chăm sóc chúng. Trẻ sơ sinh học biết rằng chúng có thể cậy dựa vào
người chăm sóc để có được thực phẩm, nhà ở, và tình thương và để đáp
ứng nhu cầu của mình. Nếu các nhu cầu của trẻ không được đáp ứng, trẻ
sẽ không tin tưởng người khác
- Giai đoạn 2 - tự quản >< xấu hổ và nghi ngờ (từ 18 tháng đến 3 tuổi):
Trẻ học cách làm một số việc như tự ăn, tự mặc quần áo. Qua việc hoàn
tất các công việc, trẻ có được cảm giác tự tin. Nếu sự tự lập của trẻ không
được khuyến khích, hoặc nếu trẻ bị phạt vì tự làm việc này việc kia, chúng
có thể nảy sinh cảm giác tự nghi ngờ bản thân.
- Giai đoạn 3 - chủ động, sáng kiến >< cảm giác tội lỗi (3 đến 6 tuổi): Trẻ
rất linh hoạt và chủ động. Chúng có nhiều sáng kiến, chúng học hỏi, khám
phá, và chi phối những sự xung quanh. Trẻ được khuyến khích sáng tạo sẽ
phát triển những kỹ năng cho phép chúng theo đuổi những mục tiêu và
những điều mình ưa thích trong tương lai. Trẻ không được động viên,
khích lệ sẽ thiếu tự tin khi làm điều mình ưa thích và sẽ không có thể làm
chủ được đời mình.
- Giai đoạn 4 - năng nổ, hiệu quả >< tự ti mặc cảm (6 đến 12 tuổi): Trẻ
cần phải thực hiện nhiều điều hữu ích và có những kinh nghiệm thành
công. Trẻ bận bịu với việc vừa chơi vừa học và qua đó trẻ có cơ hội thông
thạo những công việc khác nhau. Trẻ nào có thể tìm ra những cách thức
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
làm sao để thành công trong công việc sẽ học được tính cần cù siêng năng.
Trẻ nào cứ gặp thất bại sẽ có cảm giác mặc cảm. Điều này ngăn cản cơ hội
thành công trong tương lai.
- Giai đoạn 5 - Khẳng định căn tính, bản sắc >< mơ hồ về căn tính (vị
thành niên): Vị thành niên khám phá mình là ai và phát triển cảm thức về
căn tính, bản sắc của mình. Chúng sẽ thử nghiệm và hòa nhập nhiều vai
trò với cảm thức về cái tôi của mình. Trẻ vị thành niên nào gặp khó khăn
trong việc hòa nhập các vài trò với căn tính, bản sắc của mình sẽ kinh
nghiệm sự mơ hồ về căn tính
- Giai đoạn 6 - Thân thiết gần gũi >< cô độc (thanh niên): Thanh niên tìm
kiếm sự thân thiện và gần gũi trong các mối tương quan. Họ học cách cho
đi và nhận lại từ một người quan trọng nào đó mà vẫn không đánh mất căn
tính của mình. Nếu họ không thể có được tương quan thân thiết nào, họ sẽ
có nguy cơ cô độc trong tuổi tráng niên
- Giai đoạn 7 - năng động >< trì trệ, tự đủ (tráng niên): Người tráng niên
đầu tư vào công việc, gia đình, cộng đồng và thế hệ tương lai. Họ bắt đầu
nhìn vào đời mình và an sinh hạnh phúc của những người xung quanh.
Người nào không thể làm như thế sẽ tiến lên được và họ chỉ quan tâm đến
bản thân mình. Họ trở nên trì trệ và không thể làm gì cho người khác
- Giai đoạn 8 - mãn nguyện >< thất vọng (tuổi già): Người ở tuổi già nhìn
lại đợi mình và kiểm kê lại những thành công. Ai thỏa mãn với những gì
mình đạt được sẽ có cảm giác hạnh phúc và bình an. Ai không thỏa mãn sẽ
có cảm giác thất vọng và tiếc nuối những cơ hội đã qua.
SDRC - CFSI
T[Type text] Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Thị Minh Hà. (2009). Tâm lý học Phát triển – TLHT. Trường Đại học sư
phạm TPHCM
[2] Lê Văn Hồng et al. (1999). Tâm lý học Lứa tuổi và Tâm lý học Sư phạm.
Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội
[3] Nguyễn Ánh Tuyết. (2007). Tâm lý học Trẻ em Lứa tuổi Mầm non. Nhà xuất
bản ĐH Sư phạm
[4] Nguyễn Thị Bích Hồng. 2008. Sự Phát triển Con người từ Sơ Sinh đến
Thiếu niên. Tài liệu tập huấn
[5] Rogers Taun Anissa. (2010). Human Behavior in the Social Environment.
12nd ed. London:Routledge
[6] Trần Thị Thúy Vinh. (2010). Tâm lý học Trẻ em – TLBG. Trường Cao đẳng
sư phạm Mẫu giáo Trung ương 3
[7] Vũ Thị Nho. (2008). Tâm lý học Phát triển. Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội