CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÁNG 10 NGA 1917
I. Nước Nga trước cách mạng
Sau Cách mạng năm 1905, nước Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế.
Lúc này, Nga đã một nền đại công nghiệp tập trung rất cao với sự xuất hiện
của các tổ chức độc quyền, phần lớn dưới hình thức xanhđica. Các tổ chức độc
quyền đã kiểm soát nhiều ngành công nghiệp quan trọng như dầu mỏ, than đá,
luyện kim, đường sắt.. cũng như trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Năm 1904, ở Nga
đã có tới 50 tổ chức độc quyền lớn với trình độ tập trung rất cao. Ngay từ trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất, 13 ngân hàng lớn Pêtécbua đã tập trung trong tay
tới 65% tổng số bản của nhân trên 72% số tiền gửi vào ngân hàng. Trình
độ tập trung của bản ngân hàng Nga cao hơn so với nhiều nước khác. Trên
sở hợp nhất giữa tư bản ngân hàng bản công nghiệp, Nga đã hình thành s
thống trị của bản tài chính. Giai cấp bản độc quyền Nga đã giữ địa vị ý
nghĩa quyết định trong đời sống kinh tế - tài chính của đất nước và câu kết chặt ch
với chính quyền Nga hoàng. Họ đã giữ những cương vị quan trọng trong viện
Đuma quốc gia cũng như trong những quan nhà nước khác tác đông mạnh
mẽ tới chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Nga hoàng.
Nhưng nước Nga chỉ một nước bản chủ nghĩa phát triển trung bình. Chủ
nghĩa tư bản Nga phát triển muộn hơn, ngày càng lạc hậu và lệ thuộc vào các nước
phương Tây.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lạc hậu ấy của nước Nga chthể giải thích
bằng sự tồn tại rất nặng nề những tàn tích phong kiến - nông nô.
sở tồn tại của những tàn tích phong kiến - nông chính chế độ sở hữu lớn
về ruộng đất của giai cấp địa chủ - quý tộc. Hai phần ba ruộng đất trong nước
nằm trong tay địa chủ - quý tộc nhà thờ, 30 nghìn đại địa chủ chiếm tới 70 triệu
đêxiatin ruộng đất của 10,5 triệu nông nô. Nga hoàng địa chủ lớn nhất, chỉ riêng
gia đình và họ hàng của Nga hoàng đã chiếm tới 7 triệu đềxiatin ruộng đất. Bọn địa
chủ bóc lột nông dân hết sức nặng nề tàn bạo, nhất chế độ lao dịch. Trình đ
sản xuất nông nghiệp hết sức lạc hậu: lao động thủ công chủ yếu, năng suất thấp
kém, nạn mất mùa và đói kém thường xuyên xảy ra ở các vùng.
Về chính trị, nước Nga là một nước quân chủ chuyên chế. Toàn bộ quyền lực chính
trị trong nước thuộc về Nga hoàng. Chế độ quân chủ Nga hoàng nền chuyên
chính của giai cấp địa chủ - chiếm giữ mọi đặc quyền về chính trị và mọi đặc lợi về
kinh tế. Câu kết chặt chẽ với giai cấp tư sản, chính quyền Nga hoàng thẳng tay bóc
lột áp bức tàn bạo các tầng lớp nhân dân lao động, tước đoạt các quyền tự do
dân chủ, đàn áp mọi phong trào đấu tranh đòi dân chủ của nhân dân, duy trì thường
xuyên một đội quân đông đảo cảnh sát, mật thám hiến binh. Phong kiến - quân
phiệt là bản chất của chế độ chuyên chế Nga hoàng.
Chế độ Nga hoàng còn nhà của các dân tộc. Nước Nga một quốc gia nhiều
dân tộc, có tới trên l00 dân tộc khác nhau, chiếm 57% dân số trong nước. Nhân dân
các dân tộc không phải Nga đã rên xiết dưới hai ách áp bức: ách áp bức dân tộc của
chế độ Nga hoàng ách áp bức hội của bọn chúa đất sản địa phương.
Chính quyền Nga hoàng còn thi hành chính sách kỳ thị chủng tộc: chia rẽ gây
hằn thù giữa các dân tộc, cấm giảng dạy xuất bản sách báo bằng tiếng mẹ
đẻ…Trong những điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, ách áp bức dân tộc lại càng
nặng nề hơn.
Đế quốc Nga xâm lược, áp bức các dân tộc lạc hậu, nhưng chính lại lệ thuộc
vào các nước phương Tây, nhất là đối với Anh, Pháp. Tư bản nước ngoài đã đầu tư
rất nhiều vào các ngành công nghiệp quan trọng như luyện kim, than đá và dầu mỏ.
Ngay từ năm 1890, bản nước ngoài đã chiếm tới 47% tổng số vốn đầu Nga
còn chính phủ Nga hoàng nợ của Anh, Pháp gần 8 tỉ rúp vàng.
Như vậy, stồn tại của chủ nghĩa bản độc quyền những quan hệ tiền bản
chủ nghĩa, sự kết hợp những hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã làm
cho nước Nga trở thành nơi hội tụ cao độ những mâu thuẫn gay gắt của chủ nghĩa
đế quốc: mâu thuẫn giữa tư bản sản, mâu thuẫn giữa địa chnông dân,
mâu thuẫn giữa đế quốc Nga các dân tộc bị áp bức, mâu thuẫn giữa đế quốc
Nga các nước đế quốc Tây Âu. Trong đó những mâu thuẫn thuộc chủ nghĩa
bản đồng thời lại những mâu thuẫn của hội phong kiến chưa được giải
quyết. Toàn bộ những mâu thuẫn này chồng chéo lên nhau ngày càng gay gắt
làm cho nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế
quốc thế giới. Chính sự gay gắt của mâu thuẫn đó đã dẫn tới sự hình thành những
tiền đề khách quan cho một cuộc cách mạng xã hội ở nước Nga.
Trước hết, đó là giai cấp vô sản Nga.
Tuy số lượng không đông, chỉ chiếm khoảng 10% dân số nam (1913 12 triệu
người), nhưng giai cấp sản Nga nhiều ưu điểm nỏi bật về chất lượng, nhất là
về tinh thần khả năng cách mạng. Bộ phận giác ngộ nhất, tiên tiến nhất tổ
chức nhất của giai cấp sản Nga đội ngũ công nhân đại công nghiệp (năm
1913 có 3,1 triệu người) tập trung chủ yếu trong các nghiệp, nhà máy lớn. Trình
độ tập trung của giai cấp công nhân Nga lại cao hơn so với nhiều nước khác.
Giai cấp sản Nga tinh thần truyền thống đấu tranh cách mạng. Họ bị bóc
lột áp bức nặng nề. Trải qua đấu tranh lâu dài, đặc biệt cuộc Cách mạng năm
1905, giai cấp vô sản Nga đã được thử thách, rèn luyện và tích lũy được nhiều kinh
nghiệm đấu tranh phong phú. Điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng giai cấp sản
Nga đã xây dựng được chính Đảng tiên phong, cách mạng chân chính của mình.
Đó Đảng Bônsêvích Nga do lãnh tụ thiên tài V.I Lênin đứng đầu. Đảng được vũ
trang bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác, có khả năng lôi cuốn, tổ chức và
lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp sản các tầng lớp nhân dân trong cả
nước.
Giai cấp sản Nga còn mối liên hệ chặt chẽ với nông dân lao động nhân
dân các dân tộc bị áp bức.
Với những đặc điểm đó, giai cấp công nhân Nga là giai cấp đi tiên phong và có đầy
đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội trong nước.
Giai cấp nông dân - trước hết nông dân nghèo lực lượng cách mạng to lớn,
bạn đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân. Nông dân chiếm tới 4/5 dân số
trong nước và 65% số hộ nông thôn bần nông, báp bức bóc lột rất nặng nề, số
đông không hoặc rất ít ruộng đất. Trong lịch sử đất nước, ng dân Nga đã
nhiều lần nổi dậy đấu tranh. Giai cấp nông dân Nga một lực lượng cách mạng to
lớn.
Các dân tộc bị áp bức những vùng biên khu một lực lượng cách mạng quan
trọng người bạn đồng minh của giai cấp sản Nga. Thực tế, đại bộ phận
nhân dân các dân tộc bị áp bức quần chúng nông dân nghèo khổ, bị áp bức bóc
lột hết sức thậm tệ. Trong những điều kiện của giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mâu
thuẫn dân tộc cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc đã trở nên gay gắt
tăng lên không ngừng.
Như vậy là những tiền đề kinh tế - hội khách quan và những điều kiện chủ quan
đã đủ cho thắng lợi của cuộc cách mạng hội, nhưng cách mạng chỉ thể
bùng nổ khi xuất hiện một tình thế cách mạng. Chính cuộc Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 - 1918) đã dẫn tới sự xuất hiện một tình thế cách mạng đó ở nước Nga.
II. Cách mạng dân chủ tư sản Tháng Hai
Sau ba năm theo đuổi chiến tranh, tới cuối năm 1916 đầu năm 1917 nước Nga
đã lâm vào một tình trạng khủng hoảng kinh tế hội - chính trị trầm trọng.
Chiến tranh càng kéo dài càng phơi bày mọi sự lạc hậu về kinh tế quân s
của đất nước, càng làm gay gắt mọi mâu thuẫn trong xã hội.
Nền công nghiệp của nước Nga đã không đảm bảo được những yêu cầu của cuộc
chiến. Quân đội trang bị lạc hậu, thiếu thốn khí các phương tiện quân sự.
Trong khi đó, những kẻ cầm đầu bộ máy chiến tranh lại hết sức thối nát mang
nặng tâm chiến bại. Nhiều bộ trưởng tướng ăn tiền đút lót của Đức đã tiết
lộ, cung cấp những mật quân sự cho chúng. Quân Nga thua trận liên tiếp tổn
thất nặng nề. Năm 1916, quân Đức đã chiếm được Ba Lan nhiều ng thuộc
Ban Tích.
Chiến tranh đã tàn phá nặng nề nhiều thảm họa đối với các tầng lớp nhân dân.
Đã có tới 1,5 triệu người chết và 4 - 5 triệu người bị thương.
Nền kinh tế quốc dân kiệt quệ, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đình đốn. Vận
tải đường sắt không còn đủ sức chuyên chở hành khách và hàng hóa. Nạn thất
nghiệp tăng nhanh. các thành phố lớn, việc cung cấp bánh mì, đường sữa ngày
càng thất thường. Nạn đói đã xảy ra trầm trọng nhiều vùng nông thôn. Phong
trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã tăng lên mạnh mẽ.
Chế độ Nga hoàng khủng hoảng trầm trọng, nội bộ giai cấp thống trị ngày càng rạn
nứt và mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Chính phủ Nga hoàng quyết định giải tán viện
Đuma quốc gia, chuyển chính quyền sang tay bọn độc tài quân sự. Chúng bắt đầu
đàm phán bí mật và âm mưu kí hòa ước riêng rẽ với Đức để có thể rảnh tay đối phó
với phong trào cách mạng, củng cố nền thống trị của chúng. Giai cấp sản Nga
chống lại việc hòa ước đó, bởi nhờ chiến tranh họ đã phát tài lớn thực
hiện những tham vọng đế quốc chủ nghĩa. Họ chủ trương theo đuổi cuộc chiến đến
cùng. Trước âm mưu của chính phủ Nga hoàng muốn kí hòa ước riêng rẽ với Đức,
giai cấp tư sản dự định tiến hành ''một cuộc đảo chính cung đình'' lật đổ Nga hoàng
Nicôlai II Rômanốp, bắt y trao ngai vàng cho đứa con trai còn nhỏ tuổi, đưa
quận công Mikhain Rômanốp - em trai Nga hoàng, một phần tử sản không thân
Đức - lên làm phụ chính nắm chính quyền.
Các nước đế quốc Anh, Pháp…đã hoàn toàn ủng hộ giai cấp sản Nga. Chế độ
Nga hoàng bị cô lập sâu sắc.
Những sự việc nêu trên chứng tỏ rằng một tình thế cách mạng đã hình thành
trong nước, khi: + các giai cấp thống trị không thể tiếp tục thống trị với hình thức
cũ; + nỗi cùng khổ quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn
mức bình thường; + do những nguyên nhân nói trên, tính tích cực của quần chúng
được nâng cao rõ rệt.
Nước Nga đã tiến sát tới cuộc cách mạng, Lênin cho rằng: ''Nội dung xã hội của
cuộc cách mạng sắp nổ ra ở nước Nga chỉ có thế là nền chuyên chính dân chcách
mạng của giai cấp sản nông dân. Cách mạng không thể thắng lợi nước
Nga, nếu không lật đổ chế độ quân chủ bọn địa chủ phong kiến. Song giai cấp
vô sản không thể lật đổ chúng nếu không được nông dân giúp đỡ”. Trong điều kiện
lịch sử mới, khác với cuộc Cách mạng 1905 - 1907, Lênin đã chra: cuộc cách
mạng dân chủ tư sản sắp tới ở Nga có nhiều khả năng thuận lợi và ''hết sức gần'' để
chuyển sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tới đầu năm 1917, làn sóng đấu tranh chống chính quyền đã bao trùm thủ đô
Pêtrôgrát. Trong tháng l, có tới 250 nghìn công nhân tham gia bãi công, sang tháng
2- số công nhân bãi công lên tới hơn 400 nghìn người.
Tình hình ở thủ đô Pêtrôgrát trở nên đặc biệt căng thẳng.
Ngày 23-2 (tức 8-3 theo công lịch), hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng bộ
Bônsêvích Pêtrôgrát kỉ niệm Ngày Quốc tế phụ nữ, chị em công nhân các nhà máy
đã xuống đường biểu tình tuần hành. Công nhân thuộc 50 nhà máy thủ đô bãi
công hưởng ứng. Ngày hôm đó, tới 128 nghìn người tham gia đấu tranh với
khẩu hiệu đả đảo chiến tranh'', “Đả đảo chế độ chuyên chế”, ''Bánh mì''…Trong
những ngày tiếp theo, làn sóng đấu tranh vẫn tiếp tục và ngày càng dâng cao.
Binh lính chỗ dựa cuối cùng của chế độ ngày càng dao động đã ngả về phía
quần chúng nổi dậy.
Ngày 27-2, khởi nghĩa đã thực sự bao trùm khắp thủ đô. Công nhân chiếm các kho
khí trang bcho mình. Trong ngày hôm đó, binh lính thủ đô ngả hẳn sang
phía nhân dân: buổi sáng mới 10 nghìn người, buổi chiều lên tới 66 nghìn
người. Với khí thế mạnh mẽ và lực lượng áp đảo, quần chúng khởi nghĩa đánh
chiếm các công sở, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, các ngiam giải phóng
chính trị. Các bộ trưởng và tướng bị bắt giam. Quần chúng khởi nghĩa đã làm
chủ tình hình ở thủ đô.
Ngày 28-2, sau khi thấy bất lực không còn kiểm soát được tình hình, tướng
Khabalốp hạ lệnh cho các đơn vị quân đội ở thủ đô hạ vũ khí.
Ngay trong ngày đầu tiên của cách mạng, Trung ương Đảng Bônêvích đã ra bản
Tuyên ngôn tuyên bố chế độ Nga hoàng đã bị sụp đổ, kêu gọi công nhân và binh
lính hãy nhanh chóng thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời bao gồm các đại
biểu nhân dân, thiết lập nền cộng hòa dân chủ, thực hiện các quyền tự do dân chủ
và ý chí của nhân dân.
Chiều ngày 27-2, tại cung điện Tavritrécxki thủ đô, các đại biểu đầu tiên (được
bầu ở các nhà máy, xí nghiệp và các đơn vị quân đội) đã ra mắt và thành lập một tổ
chức cách mạng thống nhất như một quan chính quyền mới viết đại biểu
công nhân và binh lính Pêtrôgrát.
Tin thắng lợi của cuộc khởi nghĩa thủ đô đã bay nhanh tới các địa phương trong
nước. Công nhân nhân dân Mátxcơva, các thành phố và các địa phương đã
nhanh chóng nổi dậy lật đchế độ cũ, thành lập các viết đại biểu công nhân,
binh lính và Xô viết đại biểu nông dân. Các viết cơ quan khối liên minh công
nhân và nông dân - từ những cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa trở thành những cơ quan
chính quyền cách mạng.
Như thế, trên phạm vi cả nước, cuộc Cách mạng dân chủ sản tháng hai năm
1917 đã thắng lợi. Đó một sự kiện ý nghĩa lịch sto lớn đi với nước Nga
chế đNga hoàng chuyên chế thống trị nhân dân từ bao đời nay đã bị sụp đchỉ
trong vòng 8 ngày. Nước Nga đã trở thành nhà nước cộng hòa dân chủ. Nhưng sau
Cách mạng tháng Hai, một tình hình chính trị phức tạp chưa từng đã diễn ra
ớc Nga.
Lúc này, Xô viết Pêtrôgrát hoàn toàn khả năng nắm chính quyền cũng như thực
hiện chuyển toàn bộ chính quyền về tay các viết các địa phương. Nhưng các
thủ lĩnh mensêvích hội cách mạng với quan điểm htheo đuổi rằng,
sau cách mạng tư sản, chính quyền là thuộc về giai cấp tư sản - đã bí mật tiến hành
thương lượng thỏa hiệp với các đảng sản. Các viết đã không ủng hộ đề
nghị của những người Bônsêvích về việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời
của chính các Xô viết. Trong phiên họp ngày 2-3, Ban chấp hành Xô viết Pêtrôgrát
đã thông qua nghị quyết chuyển giao chính quyền cho giai cấp tư sản.
Cùng ngày 2-3, đươc sự ủng hộ của các thủ lĩnh mensêvích hội cách mạng,
Ủy ban lâm thời của viện Đuma quốc gia đã thành lập Chính phủ lâm thời do huân
tước Lơvốp làm thủ tướng. Tham gia Chính phủ lâm thời có các thủ lĩnh các đảng :
đảng Cađê (Dân chủ lập hiến) của giai cấp tư sản, đảng Tháng Mười của địa chủ
''tư sản hóa'' và một đại biểu của Đảng Xã hội cách mạng là Kêrenxki.
Như thế, sau Cách mạng tháng Hai Nga đã hình thành một tình hình độc đáo
hai chính quyền song song tồn tại. Chính phủ sản lâm thời viết đại
biểu ng nhân, nông dân binh lính. Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích
của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại trong một nước sự xung
đột giữa chúng là không thể tránh khỏi.
III. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
1. Các lực lượng chính trị sau Cách mạng tháng Hai. Chính sách của Chính
phủ lâm thời.
Cách mạng tháng Hai không những đã đưa tới tình trạng hai chính quyền còn
làm thay đổi đáng kể sựtập hợp lại các lực lượng chính trị trong nước. Các lực
lượng cực hữu như phái quân chủ Trăm Đen đã không còn tồn tị. Các đảng phái
hữu khác như Tháng Mười, Tiến Bộ bị khủng hoảng sâu sắc.
Đảng Cađê - đảng tư sản tự do lớn nhất đã trở thành đảng cầm quyền, giữ các vị t
then chốt trong Chính phủ lâm thời (lúc này đảng tới 70 nghìn người). Tại Đại
hội lần thứ bảy (3-1917), Đảng Cađê tuyên bố từ bỏ chủ trương trước đây thiết
lập chế độ quân chủ lập hiến “nước Nga cần phải trở thành một nước cộng hòa
đại nghị và lập hiến”. Đại hội tuyên bố nhiệm vụ quan trọng nhất của đảng thiết
lập chính quyền duy nhất của Chính phủ lâm thời tiếp tục cuộc chiến tranh đến
“thắng lợi hoàn toàn triệt để đối với kẻ thù”. Trong vấn đề dân tộc đảng Ca đê
chủ trương nước Nga thống nhất không chia cắt; còn về vấn đề ruộng đất, nhà
nước sẽ chuộc lại một phần ruộng đất của địa chủ.
Những chủ trương tính cương lĩnh của Đảng Cađê đã trở thành đường lối
chính sách của Chính phủ lâm thời.