Chè vằng - Vị thuốc mùa

Chè vằng còn gọi là chè dằng, có tên khoa học là Jasminum

suptriplinerve Blume, thuộc họ Nhài (Oleaceae), mọc hoang ở khắp nơi,

là loại dây bụi nhỏ (đường kính thân khoảng 6mm). Chè vằng có thân

cứng, từng đốt vươn dài hàng chục mét, phân nhánh nhiều.

Vỏ thân nhẵn màu xanh lục. Lá mọc đối hơi hình mác, phía cuống tròn, mũi

nhọn, có ba gân chính nổi rõ ở mặt trên, mép nguyên, càng lên ngọn, cành lá

càng nhỏ. Hoa màu trắng rất thơm, quả hình cầu khi chín có màu đen.

Theo các thầy thuốc, lá chè vằng có chứa alcaloid, nhựa, flavonoid, có tác

dụng kháng khuẩn, chống viêm, làm tăng nhanh tái tạo tổ chức, làm mau

lành vết thương và không độc. Bộ phận dùng làm thuốc là cành, lá tươi hoặc

khô. Tác dụng đặc biệt của chè vằng đối với phụ nữ sau sinh dùng rất tốt.

Chè vằng cũng có thể trị nhiễm khuẩn sau sinh, viêm hạch bạch huyết, viêm

tử cung, viêm tuyến sữa, bế kinh, khí hư, thấp khớp, nhức xương…

Theo kinh nghiệm dân gian, nước chè vằng uống nhằm giải khát, tiêu độc,

giảm béo, rất phù hợp với những phụ nữ mới đẻ nhờ tính mát và lành, có tác

dụng giảm béo, tiêu độc, kích thích tiêu hóa trong mùa hè. Để chữa thông

huyết, điều kinh, đau bụng hay khớp xương, mọi người có thế sắc uống một

liều 20-30g khô/ngày. Với các bệnh như thiếu máu, mệt mỏi, kém ăn, cảm,

đau bụng hay vàng da, mỗi ngày ta có thể uống 8-16g. Nước chè vằng còn

dùng đế tắm trị ghẻ ngứa.