Chứng khoán lo tỷ giá

Giao dịch giảm mạnh cùng với biến động của giá vàng và có

khả năng dẫn đến biến động tỷ giá ngoại hối là những vấn đề

khiến nhiều NĐT e ngại kênh chứng khoán.

Trong đó, rủi ro tỷ giá là vấn đề gây lo âu cho tất cả các DN niêm

yết (DNNY), cũng như NĐT nước ngoài.

Một số NĐT cá nhân trên TTCK cũng cho rằng, việc đầu tư vào cổ

phiếu lúc này là chuyện đánh bạc với tương lai, nếu so với gửi tiết

kiệm, kể cả trong trường hợp lãi suất huy động giảm xuống 1 – 2

điểm phần trăm. Với các NĐT dài hạn, thì cổ tức của tất cả các

DNNY không hề hấp dẫn nếu so với lãi suất NH.

Đầu tư gián tiếp:

cân nhắc rủi ro

Nếu các NĐT cá nhân chọn phương án bảo toàn vốn bằng cách gửi

tiết kiệm, hoặc đầu tư sang vàng, thì các NĐT tổ chức và đặc biệt

khối quản lý quỹ đầu tư nước ngoài lại lo ngại về tỷ giá. Nhưng

theo PGS TS Trần Huy Hoàng -Trưởng khoa ngân hàng ĐH Kinh

tế TP. HCM, tác động của tỷ giá tới TTCK là không nhiều, và từ

xưa đến nay mối liên thông giữa tỷ giá - chứng khoán không rõ

nét, cũng chưa có một nghiên cứu nào xác thực mối liên thông này.

PGS Hoàng phân tích: Một trong những nguyên do khiến TTCK

nằm trong tình trạng thu hẹp quy mô, chậm tăng trưởng hay nói rõ

là suy thoái hiện nay, là các DNNY kinh doanh thất bát, cạn vốn,

NĐT nước ngoài cũng đang ở thời điểm thoái vốn khiến thị trường

thêm ảm đạm. Về mặt vĩ mô thì lạm phát chưa có dấu hiệu giảm,

dòng tiền vẫn đang bị thắt chặt. Vì vậy, xét ở khía cạnh tỷ giá, các

NĐT nước ngoài nếu thực sự đánh giá cao tiềm năng của TTCK

Việt Nam, vẫn sẽ rót vốn bằng ngoại tệ và quy đổi ra VND để đầu

tư. Vấn đề là khi thanh khoản trên TTCK quá kém và cổ tức phập

phù, mức độ lợi nhuận đầu tư chứng khoán sẽ không đủ để bù đắp

trượt giá của việc quy đổi này.

Có lẽ, sự e ngại của các NĐT NN còn nằm ở chỗ khi tỷ giá có

nguy cơ biến động thì những khoản đầu tư của họ vào các DN Việt

Nam cũng sẽ bị đe dọa. Bản thân việc nâng tỷ giá cũng gia tăng áp

lực lạm phát, và các quỹ sẽ khó có cơ hội thuyết phục cổ đông của

mình rót vốn vào thị trường Việt Nam.

Ông Ito Noritada, Chủ tịch Hiệp hội các nhà xuất nhập khẩu

Osaka, Chủ tịch Công ty Taiyo Corporation nói: bên cạnh những lo

ngại về cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, trình độ nhân lực thì khi

rót vốn đầu tư tại Việt Nam, phần đông các DN Nhật Bản không

băn khoăn nhiều về vấn đề tỷ giá. Nguyên do là việc đầu tư trực

tiếp bằng Yen vào Việt Nam của các DN Nhật sẽ được cân đối từ

nguồn ngoại tệ đối ứng mà DN có thể thu được khi bán sản phẩm,

hàng hóa ra thị trường quốc tế. Còn với các NĐT Nhật lựa chọn

phương thức đầu tư gián tiếp vào TTCK, thông qua các quỹ đầu tư

hoặc góp vốn vào DN, thì cũng phải cân nhắc vấn đề tỷ giá. Bởi cổ

phiếu, chứng chỉ quỹ trên TTCK Việt Nam hay trái phiếu của DN

Việt Nam được định giá bằng nội tệ, chỉ có thanh khoản trên thị

trường nội địa. Trong trường hợp muốn thoái vốn, điều chỉnh tỷ

giá có thể gây thất thoát lớn cho NĐT nước ngoài.

Phân hóa nhóm ngành

Tương tự như các DN FDI, những DN có nguồn thu đối ứng từ

hoạt động xuất khẩu mà không phải nhập khẩu nguyên vật liệu như

DN nhóm ngành cao su, gạo, cà phê... sẽ không lo lắng nhiều về tỷ

giá. Ngược lại, DN kinh doanh trong các lĩnh vực phải nhập khẩu

nhiều nguyên vật liệu, lại chỉ bán hàng trong thị trường nội địa như

DN thép, thì rủi ro tỷ giá sẽ ảnh hưởng rất lớn đến họ. Do đó, NĐT

hiện rất quan tâm đến các khoản vay ngoại tệ của DN. Các khoản

vay đó đã được trích lập dự phòng rủi ro tỷ giá hợp lý hay chưa,

DN đã minh bạch và chi tiết về các khoản nợ trên vốn chủ sở hữu,

lượng hàng tồn kho, các khoản phải thu và các khoản nợ khó đòi...,

để đánh giá sức hấp dẫn của cổ phiếu. Theo một chuyên gia thì

không chỉ thép mà nhiều DN ngành nhựa, thủy sản, dệt may, gỗ...

là những đối tượng kinh doanh phải nhập đến hơn 80% nguyên vật

liệu và phụ gia, cũng sẽ phải chịu rủi ro tỷ giá.