
284
CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG ĐÀO TẠO DU LỊCH
THÔNG QUA E-LEARNING
Nguyễn Thị Lan Hạnh
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt: Thế giới đang trong giai đoạn bắt đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0 dựa trên nền tảng cách mạng số kết hợp công nghệ, dẫn đến sự thay đổi chưa có
từng có tiền lệ của tất cả các ngành kinh tế. Chuyển đổi số không chỉ làm thay đổi toàn
bộ hệ thống kinh tế - xã hội mà nó còn ảnh hưởng lĩnh vực giáo dục đào tạo. Thực
trạng nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam dồi dào về số lượng song nhiều hạn chế
về chất lượng, đặc biệt là nhóm nhân lực chất lượng cao. Nhu cầu về nhân lực cho
phát triển trong bối cảnh hội nhập đã trở thành một tiêu chuẩn đầu ra đối với các trường
đại học. Bên cạnh đó, những thay đổi về nội dung, phương pháp đào tạo, cấu trúc
chương trình và phương thức quản lý giáo dục đại học càng trở nên cấp thiết trong bối
cảnh mới. E-learning là một trong các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong
giáo dục. Sự thay đổi về công nghệ cũng như sự phát triển của hệ thống Internet đã
tạo ra sự bắt buộc thay đổi trong các yếu tố hoặc bộ phận cấu thành hệ thống giáo dục
đại học. Bài viết tập trung vào phân tích bối cảnh hội nhập tác động tới nguồn nhân
lực du lịch, đồng thời nêu lên thực trạng đào tạo nguồn nhân lực nước ta hiện nay. Từ
đó đề xuất một số giải pháp đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Chuyển đổi số, E-learning, đào tạo du lịch
1. Đặt vấn đề
Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-
TTg về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030: “Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng,
tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn
diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi
trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp”. Chuyển đổi số sẽ làm thay đổi thế giới,
các quốc gia đi đầu trong ứng dụng và phát triển công nghệ luôn trở thành các
quốc gia thịnh vượng và phát triển.
Trong quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế trở thành yêu cầu cấp thiết cho sự phát triển đất nước. Đối với sự
phát triển của một quốc gia thì cần có các nguồn lực gồm tài nguyên thiên nhiên,
khoa học công nghệ, vốn đầu tư… trong đó nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng
và có tính chất quyết định. Nguồn nhân lực là yếu tố cấu thành lực lượng sản

285
xuất và có khả năng tạo ra của cải vật chất. Cùng với những thay đổi to lớn của
Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại thì cũng xuất hiện những yêu cầu mới đối
với nguồn nhân lực trong sự đổi mới tư duy hội nhập, trong phương pháp làm
việc và kỹ năng nghề nghiệp. Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và
xã hội, dự báo trong giai đoạn 2017 - 2025, lực lượng lao động Việt Nam sẽ tăng
bình quân 1,28%/ năm, tương đương với hơn 700.000 người/ năm. Nhưng tính
trong năm 2018, trong tổng số 48,7 triệu người trong độ tuổi lao động chỉ có hơn
20% lao động được đào tạo từ các trình độ sơ cấp trở lên.
Nguồn nhân lực du lịch của nước ta tuy nhiều về số lượng nhưng còn thiếu
và yếu về chất lượng vì vậy, hệ thống đào tạo nguồn nhân lực du lịch của Việt
Nam cần chuyển đổi nhanh và mạnh hơn nữa để thích ứng với thị trường lao
động. Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, bên cạnh các mô hình
đào tạo truyền thống thì việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi mô hình
đào tạo trực tuyến (e-learning) là một tất yếu của giáo dục đại học.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Theo Tổ chức dữ liệu quốc tế (International Data Corporation - IDC) thì
Chuyển đổi số (Digital Transformation) là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số
để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh
tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Hiện
nay, định nghĩa về chuyển đổi số chưa được chuẩn hóa trên hệ thống văn bản pháp
luật, mỗi tổ chức, doanh nghiệp đưa ra các định nghĩa của riêng mình, tuy nhiên,
nhìn ở góc độ tổng quát: Chuyển đổi số là việc sử dụng công nghệ để thay đổi một
cách tổng thể các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong đời sống thông qua hệ thống dữ
liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và tự động hóa từ đó tăng khả năng tiếp cận thị trường.
Thuật ngữ E-learning đã trở nên quen thuộc trong vài thập kỷ gần đây, e-
learning là viết tắt của Electronic Learning, dùng để mô tả việc học tập dựa trên
nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông với các ứng dụng hỗ trợ việc giảng
dạy và học tập như phần mềm kiểm tra, các công cụ học tập đa phương tiện
(video, ebook…) và các phương thức học liệu mới (internet, phát thanh, truyền
hình, CD – VCD…).
E-learning đã được đề cập trong thông tư số 12/2016/TT-BGDĐT về Quy
định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng đó
là “hình thức học tập qua đó người học có thể tự học mọi lúc, học mọi nơi thông
qua các học liệu điện tử đa phương tiện (lời giảng, lời thuyết minh, âm thanh,
hình ảnh, video, đồ họa…). Các hình thức học tập như m-learning (học thông
qua thiết bị di động: điện thoại thông minh, máy tính bảng, màn hình tương tác),
u-learning (học thông qua các phương thức tương tác thực tế ảo diễn ra bất kỳ

286
nơi nào), hay smart-learning (phương tiện học tập thông minh) đều là các hình
thái của học tập điện tử e-learning. Còn theo PGS.TS. Lê Huy Hoàng thì “E-
learing là một loại hình đào tạo chính quy hay không chính quy hướng tới thực
hiện tốt mục tiêu hoc tập, trong đó có sự tương tác trực tiếp giữa người dạy với
người học cũng như giữa cộng đồng học tập một cách thuận lợi thông qua công
nghệ thông tin và truyền thông".
Chuyển đổi số trong giáo dục Đại học có nhiều ưu điểm như cho phép giảng
viên cập nhật nội dung giảng dạy thường xuyên, nhanh chóng và có thể đánh giá
mức độ nhận thức của người học thông qua hệ thống tự đánh giá; người học có thể
chủ động sắp xếp kế hoạch học tập, học mọi lúc mọi nơi, học viên có thể đăng ký
khối lượng học tập phù hợp với khả năng và thời gian biểu cá nhân; giúp tiết kiệm
chi phí quản lý… Nhưng bên cạnh đó, ứng dụng E-learning cũng bộc lộ một số
hạn chế như đòi hỏi về sự phát triển của hệ thống hạ tầng viễn thông, người dạy
và người học phải sử dụng được các ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ việc
học tập và giảng dạy. Ngoài ra, sự tương tác trực tiếp giữa người học và người dạy
giảm đi cũng ảnh hưởng đến cảm xúc và sự hứng thú học tập của học viên. Quan
trọng hơn cả, e-learning chưa thể thay thế được các hoạt động liên quan đến hình
thành và rèn luyện kỹ năng đặc biệt là kỹ năng thao tác và vận động.
2.2. Tác động của bối cảnh chuyển đổi số tới đào tạo du lịch tại Việt Nam
Thế giới đang trong giai đoạn bắt đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
dựa trên cách mạng số kết hợp nhiều công nghệ, dẫn đến sự thay đổi lớn trong
mô hình kinh tế - xã hội của các quốc gia. Chuyển đổi số tác động tới tất cả các
ngành nghề trong xã hội, do vậy, lĩnh vực giáo dục đào tạo cũng cần phải thay
đổi để không bị tụt hậu, không bị “bỏ lại phía sau”.
Ngành du lịch trên Thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đang đứng
trước ngưỡng cửa của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Theo nghiên
cứu của Microsoft và IDG tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, năm 2017,
các sản phẩm và dịch vụ số đóng góp 6% GDP, chuyển đổi số làm tăng năng suất
lao động 15%, 85% công việc trong khu vực sẽ bị biến động. Xu thế chuyển đổi
số của ngành du lịch Việt Nam được thể hiện rõ qua các chỉ số tăng trưởng du
lịch, các mối quan hệ hợp tác, các dự án đầu tư trong lĩnh vực du lịch. Năm 2019,
lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt trên 18 triệu lượt, tăng 16,2% so
với năm 2018 (Thúy Hà, 2019). Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực mở rộng quan
hệ hợp tác trên phạm vi toàn thế giới.
Việt Nam là một trong những nước được hưởng nhiều lợi ích từ việc hội
nhập kinh tế khu vực so với các nước khác bởi nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc
nhiều vào ngoại thương. Nhưng bên cạnh đó, tiêu chuẩn dành cho người lao động
cũng được nâng cao hơn với các tiêu chí tuyển dụng về kiến thức chuyên môn,

287
hệ thống kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, sử dụng vi tính, kỹ năng làm việc nhóm,
kỹ năng tìm và xử lý thông tin.
Thời gian vừa qua, ngành du lịch Việt Nam đã có nhiều cách huy động,
khai thác và phát huy nguồn vốn thông qua các phương thức cụ thể: tăng cường
đầu tư theo phương thức các chương trình hành động quốc gia, các năm du lịch,
trong đó có việc tập trung đầu tư đồng bộ từ việc quy hoạch phát triển, đầu tư cơ
sở hạ tầng, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ du lịch và triển khai các hoạt
động xúc tiến quảng bá cho vùng hoặc địa phương theo từng chủ đề; thu hút các
nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua các nguồn đầu tư trực tiếp FDI, các
nguồn vốn viện trợ phát triển ODA. Nhiều khu du lịch, nhiều khách sạn cao cấp,
khu nghỉ dưỡng cao cấp, nhiều hãng lữ hành quốc tế được đầu tư và khai thác
kinh doanh hiệu quả. Nhiều thương hiệu du lịch lớn như ACCOR, SHERATON,
HILTON, NIKKO…đến từ các cường quốc về du lịch đã đầu tư tại Việt Nam,
qua đó, diện mạo của cơ sở vật chất du lịch tại Việt Nam đã được thay đổi. Nhiều
cơ sở kinh doanh du lịch có chất lượng đạt chuẩn quốc tế đã được vận hành và
dần nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam.
Đối với sự phát triển của một quốc gia thì cần có các nguồn lực gồm tài
nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, vốn đầu tư… trong đó nguồn nhân lực
là yếu tố quan trọng và có tính chất quyết định. Nguồn nhân lực là yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất và có khả năng tạo ra của cải vật chất. Theo đánh giá
của Ngân hàng Thế giới (World bank, 2015), chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam hiện nay đạt mức 3,79/10 điểm. Hiện tại, cả nước mới có trên 1,3 triệu lao
động du lịch, trong đó chỉ có 42% được đào tạo về du lịch, 38% được đào tạo từ
các ngành khác chuyển sang và khoảng 20% chưa qua đào tạo chính quy mà chỉ
được huấn luyện tại chỗ. Chính vì thế, số lao động có chuyên môn, kỹ năng cao
vừa thiếu, vừa yếu, nhưng số lao động chưa đáp ứng được yêu cầu lại dư thừa
(Hồ Hạ, 2018). Điều đó đã trở thành một trong những hạn chế của du lịch Việt
Nam khi bước vào kỉ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, Đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh mẽ tới đời sống, công
việc, học tập của tất cả người dân trên toàn thế giới, 213 quốc gia và vùng lãnh
thổ bị ảnh hưởng bởi Covid-19; 1,2 tỷ học sinh – sinh viên phải học trực tuyến,
hơn 100 quốc gia phải thực hiện giãn cách xã hội, làm việc tại nhà. Điều đó đã
trở thành cú hích mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số giúp phòng
chống dịch bệnh và phục hồi kinh tế.
2.3. Lợi ích của chuyển đổi số trong đào tạo du lịch tại Việt Nam
Chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích trong công tác đào tạo của các cơ sở
giáo dục từ điều hành đến kết quả đào tạo như tăng khả năng tương tác, thực
hành; tiếp cận được nhiều dữ liệu kiến thức trong thời gian ngắn hơn; giảng viên

288
đánh giá học viên nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo xuyên
suốt quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên. Qua đó, hiệu quả đào tạo và
tính cạnh tranh của các cơ sở giáo dục được nâng cao.
Tăng cường trải nghiệm của học viên: Du lịch là ngành đào tạo đòi hỏi sinh
viên cần thực hành, thực tế, thực tập nghề nghiệp nhiều để rèn luyện kỹ năng
nghiệp vụ. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nghiệp vụ của các
cơ sở giáo dục tại Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo ngành du lịch sẽ giúp sinh viên có thể thực
hành trong các phòng thực tế ảo, tăng trải nghiệm thực tế.
Tăng cường sự minh bạch, hiệu quả quản trị và tăng năng suất lao động:
Nhờ chuyển đổi số mà lãnh đạo nhà trường sẽ dễ dàng theo dõi tình hình hoạt
động của các phòng ban, dễ dàng truy xuất báo cáo về mọi mặt hoạt động của
doanh nghiệp, giúp quản lý dễ dàng hơn. Sử dụng hệ thống tự động để thực
hiện các công việc không đòi hỏi chuyên môn cao, từ đó, nhân viên có thời
gian để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và thực hiện các công việc có giá trị
gia tăng cao. Bên cạnh đó, chuyển đổi số còn giúp người quản lý dễ dàng đánh
giá chất lượng công việc của nhân viên thông qua hệ thống tiêu chí đánh giá
rõ ràng, minh bạch.
Kết nối các phòng ban, giúp hỗ trợ sinh viên nhanh chóng hơn: Thiếu liên
kết thông tin giữa các phòng ban và sinh viên là vấn đề thường gặp tại các cơ sở
giáo dục. Điều này dẫn đến hiện tượng trì trệ công việc, tác đông không tốt tới
sinh viên như: khả năng tương tác, nhận phản hồi thông tin 2 chiều giữa nhà
trường và sinh viên yếu, thông tin từ nhà trường tới học viên chậm hơn, hỗ trợ
sinh viên có hoàn cảnh khó khăn chưa kịp thời…Áp dụng chuyển đổi số nghĩa là
nhà trường tạo ra một nền tảng kết nối được tất cả các phòng ban nội bộ, từ đó
rút ngắn thời gian giải quyết các vấn đề phát sinh từ sinh viên, đồng thời giảm tải
được các thủ tục hành chính trong quá trình hoạt động.
2.4. Thực trạng ứng dụng E-learning trong đào tạo du lịch tại Việt Nam
2.4.1. Điểm mạnh
Chính phủ số: Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 749/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó đề ra mục tiêu 100% cơ sở dữ
liệu quốc gia được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; Việt Nam sẽ ra
nhập nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI); 60-90% hồ sơ công
việc các cấp được xử lý trên môi trường mạng. Điều đó đã tạo nền tảng về hệ
thống chính sách cộng nghệ số giúp định hướng ứng dụng cách mạng công
nghiệp 4.0 vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đào tạo.

