
241
Đỗ Việt Hà
Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội
Tóm tắt: Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số đã và đang
là xu thế phát triển tất yếu đối với tất cả các lĩnh vực, ngành nghề. Với mục tiêu đào
tạo công dân toàn cầu, chuyển đổi số được xác định là nhiệm vụ quan trọng, là khâu
đột phá của ngành giáo dục nói chung và trong công tác dạy và học nói riêng. Dưới
góc nhìn của mình về vấn đề này, tác giả tập trung tìm hiểu, đánh giá một số vấn đề
cụ thể sau: Vai trò của chuyển đổi số đối với dạy và học hiện nay; Thực trạng của
chuyển đổi số trong dạy và học; Những giải pháp cơ bản đối với chuyển đổi số trong
dạy và học
Từ khóa: Chuyển đổi số, công nghệ thông tin, giáo dục
Đặt vấn đề:
Hoạt động dạy và học là nhiệm vụ quan trọng, có tính chất quyết định trong
hệ thống giáo dục và đào tạo bởi mục đích của giáo dục là đào tạo ra những công
dân có kiến thức, có kỹ năng góp phần tạo ra cơ hội để hội nhập quốc tế mà công
tác dạy và học thì hoàn toàn có thể đáp ứng và thỏa mãn được yêu cầu này. Trong
những năm gần đây, đặc biệt khi đại dịch Covid19 diễn ra trên phạm vi toàn cầu
thì việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào trong hoạt động giảng
dạy đã giúp cho quá trình dạy và học có những thay đổi tích cực, phát huy được
khả năng tư duy sáng tạo, làm chủ kiến thức, làm chủ chương trình và sử dụng
học liệu một cách có hiệu quả nhằm tiết kiệm thời gian, công sức và trí tuệ.
1. Vai trò của chuyển đổi số đối với dạy và học hiện nay
Có thể thấy rằng, với sự phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thì
vấn đề chuyển đổi số không còn là điều mới lạ đối với các ngành nghề như: Kinh
tế, kinh doanh, dịch vụ... nhưng riêng đối với giáo dục thì chuyển đổi số mới thực
sự được đưa vào sử dụng rộng rãi, có tính chất và quy mô lớn từ khi đại dịch
Covid19 bùng phát. Năm 2020, là năm mà nhân loại phải chứng kiến những diễn
biến có thể nói là chưa từng có trong lịch sử thế giới hiện đại, nhiều hoạt động
xã hội bị đình trệ ở khắp nơi, hoạt động giáo dục như là nhu cầu tất yếu cần phải
được đáp ứng kịp thời và chuyển đổi số là bài toán hữu hiệu nhất đã được các
chuyên gia, nhà quản lý tìm đến như một cứu sinh không thể thiếu đối với tình
hình hiện tại. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, khi ngay lập tức, chúng

242
ta đã bắt kịp xu thế chung của thời đại là đưa công nghệ số vào trong hoạt động
dạy, học, quản lý, kiểm tra, đánh giá của giáo dục.
Nhận thấy tầm quan trọng và vai trò to lớn của chuyển đổi số đối với ngành
giáo dục nước ta trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trước tình hình và diễn biến
phức tạp của dịch Covid19 thì chuyển đổi số trong giáo dục được đưa ra như một
yêu cầu cấp bách không chỉ của riêng ngành giáo dục mà là của toàn xã hội. Ngày
03/6/2020 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định: 749QĐ – TTg, Phê duyệt
“Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”
đã xác định 08 lĩnh vực cần ưu tiên chuyển chuyển đổi số, trong đó lĩnh vực giáo
dục đứng vị trí thứ 2 sau y tế. Quyết định chỉ rõ “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy
và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy
và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng
dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ
phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa”. Ngày 09/12/2020, Bộ Giáo dục
và Đào tạo (GDĐT) đã phối hợp cùng với Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT)
tổ chức hội thảo “Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”. Tại hội thảo, Bộ
trưởng Bộ GDĐT đã phát biểu khẳng định: “Ngành Giáo dục rất quan tâm tới
việc đào tạo những công dân Việt Nam có kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số để
trở thành công dân toàn cầu. Chính vì vậy, chuyển đổi số được ngành xác định
là khâu đột phá, nhiệm vụ quan trọng cần chú trọng triển khai thực hiện những
năm tới đây. Làm tốt chuyển đổi số không chỉ giúp nâng cao chất lượng giáo dục
mà quan trọng hơn là góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo cơ hội lớn để
hội nhâp quốc tế”.
Chuyển đổi số không chỉ là số hóa bài giảng, hay ứng dụng các phần mềm
vào soạn bài dạy, mà còn là sự chuyển đổi toàn bộ cách thức, phương pháp giảng
dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác với người học sang không gian số, khai
thác công nghệ thông tin để tổ chức giảng dạy thành công. Giúp thay đổi phương
pháp giảng dạy, học tập từ truyền thống sang phương pháp giảng dạy tích cực,
giúp người dạy và người học phát huy được tính chủ động, khả năng tư duy, sáng
tạo với chất lượng và hiệu quả cao. Việc đưa chuyển đổi số vào hoạt động dạy
và học đã dần thay đổi mô hình lớp học tập trung đã dần chuyển sang các mô
hình dạy học trực tuyến, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ
các hoạt động giảng dạy, học tập và cơ sở quyết định sự thành công của giáo dục
trong bối cảnh hiện nay.
Quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục đào tạo ở nước ta giai hiện
nay thu được nhiều kết quả khả thi:
Đối với công tác quản lý: Chuyển đổi số góp phần giảm chi phí đào tạo, cơ
sở đào tạo tiết kiệm được chi phí trang bị cơ sở vật chất, chi phí chi trả cho giảng

243
viên. Việc đưa công nghệ vào vận hành giúp quản lý giáo viên và học viên triệt
để hơn, chất lượng công việc đạt hiệu quả cao. Nâng cao chất lượng giáo dục,
giúp tăng cường quản lý, giám sát trong các cơ sở giáo dục, giúp xây dựng hệ
thống quản lý thông tin và hồ sơ của người học. Điều này càng thêm phần khẳng
định vai trò tuyệt đối của chuyển đổi số với các trường học, cơ sở đào tạo trong
giai đoạn hiện nay. Đồng thời, cho thấy việc ứng dụng công nghệ số góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục và khẳng định vị trí, uy tín của ngành giáo dục
trước đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Vai trò của chuyển đổi số đối với người dạy:
- Việc áp dụng công nghệ trong chuyển đổi số vào hoạt động dạy học, giúp
người dạy có khả năng kết nối đa chiều, công việc được triển khai trôi chảy vì hầu
hết nội dung bài giảng, học liệu... đều đã được tự động hóa. Người dạy sẽ làm chủ
được kiến thức của mình, để từ đó có thể tương tác với người học một cách hiệu
quả, ghi chép điểm danh quá trình học tập, lập và cập nhật bảng điểm của người
học để đảm bảo thông tin dữ liệu được cụ thể, minh bạch.
- Thông qua dữ liệu thì người dạy có thể phân tích hành vi học tập của người
học để có phương pháp giáo dục cho phù hợp với đối tượng học. Đồng thời người
dạy có thể áp dụng các thông tin mà họ có được để tiến hành điều chỉnh các kế
hoạch giảng dạy, nội dung chương trình. Với chuyển đổi số, người dạy có thể
xây dựng chương trình học một cách nhanh chóng, chất lượng, hiệu quả.
- Người dạy có thể chuẩn bị các khóa học và chương trình của họ bằng cách
sử dụng những nội dung đặc sắc nhất, hay nhất từ kho học liệu có sẵn trên hệ
thống được tạo bởi các đồng nghiệp, các chuyên gia hoặc các nhà làm giáo dục.
- Người dạy cũng sẽ phải không ngừng trau dồi kiến thức, học tập để thích
nghi với những biến đổi của công nghệ. Người dạy sẽ phải ứng dụng công nghệ
số một cách hiệu quả nhất vào trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học
của mình và sẵn sàng tham gia các chương trình, lớp học nâng cao trình độ
chuyên môn, khả năng sử dụng công nghệ thông tin khi được cơ quan, tổ chức
tạo cơ hội tiếp cận với các công nghệ giáo dục mới nhất nhằm phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục.
Vai trò của chuyển đối số đối với người học:
- Người học có thể tiếp cận tri thức mọi nơi, mọi lúc, có thể chủ động trong
việc học tập và ứng dụng kiến thực vào thực tiễn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển
của nền giáo dục vì con người.
- Giúp cho người học có những trải nghiệm đa giác quan, dễ hiểu, dễ nhớ
và gây tò mò, hứng thú cho người học, đồng thời tăng tính tương tác, thực hành
và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học. Tạo điều kiện cho người học tiếp thu
kiến thức một cách linh động và thuận tiện mọi lúc, mọi nơi.

244
- Công nghệ số thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp cận
thông tin đa chiều, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian, từ đó
phát triển nhanh về kiến thức, nhận thức và tư duy.
- Thực tế tăng cường công nghệ số trong giáo dục để tạo dựng hệ thống học
liệu, các phòng thí nghiệm ảo, mô hình thực tế ảo có khả năng tương tác với
người dùng. Tạo không gian và thời gian học linh động, bình đẳng. Người học
tiết kiệm học phí, chi phí sinh hoạt và tài liệu học tập. Tăng tính tương tác, tính
thực hành - ứng dụng, người học có thể trả lời các câu hỏi của giáo viên thông
qua các phần mềm, từ đó người dạy có thể đánh giá chính xác về kiến thức của
người học một cách hiệu quả.
2. Thực trạng của chuyển đổi số trong dạy và học
Hiện nay chuyển đổi số trong giáo dục được tập trung vào 2 vấn đề chính:
Chuyển đổi số trong quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra,
đánh giá, nghiên cứu khoa học. Trong hoạt động dạy và học thì chuyển đổi số
tập trung chủ yếu đến các nội dung số hóa học liệu: Sách giáo khoa điện tử, bài
giảng điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, thư viện số...
Đứng trước đại dịch Covid19, Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên
thế giới đã lựa chọn và áp dụng phương pháp giảng dạy trực tuyến trong suốt
thời gian dài, những ưu điểm mà chúng ta có thể nhìn thấy khi áp dụng phương
pháp dạy online vào quá trình dạy học đó là: Hạn chế tiếp xúc và tập trung đông
người, tiết kiệm chi phí, số lượng người học trong một lớp học nhiều hơn so với
lớp học truyền thống; người dạy có thể hoàn toàn chủ động với chương trình dạy
học dựa trên học liệu sẵn có; học sinh – sinh viên thì chủ động tìm hiểu bài dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, có kỹ năng tìm tài liệu và khả năng tương tác tốt...
Có thể thấy, với sự phát triển công nghệ hiện nay, việc tiếp cận và đưa công nghệ
số vào hoạt động giảng dạy và học tập trở nên dễ dàng, thuận tiện và đạt hiệu
quả, chất lượng cao. Sự phát triển của các ứng dụng trên nền tảng công nghệ
thông tin (CNTT), mạng xã hội giúp cho người dùng dễ dàng tương tác mọi lúc
mọi nơi, đã tạo điều kiện cho giáo dục trực tuyến phát triển lên bậc cao hơn.
Ở nước ta, ngành giáo dục đã chủ trương, xác định ứng dụng CNTT là
nhiệm vụ trọng tâm. Do vậy tại Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng, ngày 14/11/2013 về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo” đã
xác định CNTT là 1 trong 9 nhiệm vụ quan trọng để đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục . Thực hiện chủ trương của ngành giáo dục, Nghị quyết của Đảng, theo
số liệu thống kê thì cho đến nay toàn ngành đã triển khai số hóa, xây dựng cơ sở
dữ liệu dùng chung từ Trung ương đến 63 sở GDĐT, 710 phòng GDĐT và
khoảng 53.000 cơ sở giáo dục. Hiện nay đã số hóa và định danh dữ liệu của
khoảng 53.000 trường học, 1,4 triệu giáo viên, 23 triệu học sinh. Khối phổ thông

245
khoảng 82% các trường sử dụng phần mềm quản lý trường học, sổ điểm điện tử,
học bạ điện tử và hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đều sử dụng phần mềm quản
trị nhà trường. Hệ thống quản lý hành chính điện tử kết nối 63 sở GDĐT và hơn
300 trường đại học, cao đẳng trên cả nước với Bộ GDĐT. Về cơ sở học liệu, bộ
hợp tác phát triển kho học liệu số dùng chung gồm 5.000 bài giảng E-learning, hơn
2.000 bài giảng trên truyền hình, 200 thí nghiệm ảo, 35.000 câu hỏi trắc nghiệm,
gần 200 đầu sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông và trên 7.500
luận án tiến sĩ. Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở, giúp người
học, người dạy kết nối với kiến thức
Mặc dù việc số hóa đã đạt được những dấu ấn nhất định nhưng nó cũng còn
tồn tại một số khó khăn trong công tác xây dựng, thẩm định, chia sẻ học liệu vì
việc này đòi hỏi phải có sự đầu tư về kinh phí tài chính, về nhân lực làm nhiệm
vụ thì mới có thể hoàn thành và đảm bảo để kho học liệu được đầy đủ, đáp ứng
yêu cầu về chuyên môn, số lượng, chất lượng... Trên thực tế kho học liệu số vẫn
còn tương đối lủng củng, hoạt động còn mang tính chất hình thức, đối phó, chưa
đi làm nề nếp hoạt động nên hiệu quả của việc dạy và học chất lượng còn chưa
cao, tính tương tác giữa người dạy và người học còn hạn chế dẫn đến nhàm chán
khi áp dụng phương pháp học trực tuyến trong hoạt động dạy và học hiện nay.
Quá trình giáo dục có những thay đổi căn bản, phương pháp, kỹ thuật sư
phạm truyền thống không còn hiệu quả. Cách thức thực hiện, triển khai phương
pháp giáo dục hiện nay đòi hỏi phải thay đổi linh hoạt trong vận dụng và sử dụng
các thiết bị, tính năng của công nghệ sao cho việc giảng dạy đạt kết quả tốt nhưng
trong quá trình học trực tuyến chúng ta gặp phải một số khó khăn: Bên cạnh một
số trường, có sở đào tạo đã áp dụng công nghệ vào giảng dạy trực tuyến thì vẫn
còn khá nhiều trường, cơ sở đào tạo chưa quen với hình thức đào tạo này, hoặc
cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin chưa đảm bảo để thực hiện giảng dạy trực tuyến
một cách có hiệu quả và phát huy được năng lực của người học. Có những nơi
chưa đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi số, cả về dạy và học; công nghệ chưa
đạt chuẩn; đường truyền, dịch vụ internet còn chưa ổn định hoặc có chênh lệch
giữa các khu vực, không đồng đều trong sử dụng CNTT giữa các vùng miền; quá
trình quản lý và đánh giá năng lực của người học còn chung chung; người dạy tự
trang bị thiết bị dạy học nên còn thiếu đồng bộ; người học thì còn chưa thực sự
chủ động, còn chậm đổi mới nhận thức đối với ứng dụng chuyển đổi số. Điều
này vô hình chung tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội học tập của người học và sự
chênh lệch về chuyên môn cũng như khả năng ứng dụng CNTT vào quá trình
dạy học của người dạy.
Với mục tiêu cố gắng phấn đấu để Việt Nam trở thành một trong những
quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo, để đạt được mục

