
133
Võ Văn Minh
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Tầm quan trọng của chuyển đổi số trong bối cảnh “hậu COVID” là không
thể phủ nhận. Thập niên trước, những viễn cảnh của xã hội “tương lai” được
nhiều trang mạng trong và ngoài nước nhắc đến như: “Sẽ không còn người đi
nhiều ngoài đường”, “sẽ không còn siêu thị”, “sẽ không cần bảng đen, phấn
trắng”… Nhưng rồi mọi thứ cứ từ từ diễn ra như câu chuyện ngụ ngôn “con
ếch luộc”.
Năm 2020, dịch COVID bùng phát. Tất cả dừng lại và chuyển đổi. Trong
tình thế mọi việc bình thường hằng ngày trở nên khó khăn. Mọi người không
được ra đường, không tập trung mua sắm, không đến trường lớp… Hoạt động
sống và học tập vẫn diễn ra. Chỉ cần có internet. Nhìn lại, có một thời người ta
phê phán internet thậm tệ. Vậy mà ngày nay, mọi thứ có thể đứng lại nếu không
có internet.
Xã hội đã thay đổi và sẽ tiếp tục thay đổi. Tương lai sẽ ra sao? đối phó để
sống hay thích ứng để tồn tại và phát triển. Sẽ như thế nào, phần nhiều phụ thuộc
vào giáo dục và đào tạo. Truyền thông luôn đề cập đến xã hội số, kinh tế số, văn
hóa số,… Thế nhưng giáo dục cứ phải khi gặp “sự cố” mới đề cập đến “chuyển
đổi số”?. Cần khẳng định rằng, chuyển đổi số thực chất phải là chuyển đổi tư
duy, chứ không chỉ là chuyển đổi công nghệ.
1. Từ chuyển đổi phương thức dạy - học đến chuyển đổi mô hình quản trị
đại học
Từ xa xưa, con người học từ kinh nghiệm sống; từ người đi trước, rồi bước
lên một bước quan trọng là có thầy dạy. Thầy là người có học thức, giảng dạy
những điều hay lẽ phải. Dạy sống, dạy làm việc và dạy làm quan. Người học tiếp
cận tinh hoa cổ học từ những nguyên lí hệ thống để giải quyết tất cả mọi công
việc, mọi mối quan hệ kể cả khám chữa bệnh. Dần dần cùng với sự phát triển
nhận thức các quy luật tự nhiên và xã hội, giáo dục từng bước phát triển theo
hướng phân hóa thành các ngành, các môn học khác nhau. Thầy trở thành chuyên
gia ở từng lĩnh vực chuyên sâu và người học cũng chuyên môn hóa dần. Phương
pháp giảng dạy chính vẫn là thầy giảng giải, trò ghi chép, ghi nhớ. Tiếp đến là
thảo luận, thực hành, thí nghiệm,… Tất cả đều trực tiếp trên trường lớp.

134
Thế kỉ XX, giáo dục mở, giáo dục từ xa ra đời. Đó là một quá trình chuyển
đổi về nhận thức và hành động của dạy và học. Song cái gì mới cũng đều phải
đối mặt với những tranh luận, phản ứng. Điều đó cũng là tất yếu.
Năm 2020, đại dịch COVID-19 diễn ra trên phạm vi toàn cầu, dạy và học
đã tự thay đổi để thích ứng. “Chuyển đổi số” đã xuất hiện nhiều hơn trên các diễn
đàn. Như một vấn đề tới lúc phải đổi để đối phó. Tuy nhiên, vì bất ngờ diễn ra
nên mọi sự chuẩn bị chưa thể đáp ứng một cách hệ thống. Vấn đề mới chỉ là đổi
cách dạy và học. Còn việc thay đổi tâm lí của người dạy, người học; thay đổi
cách kiểm tra đánh giá; thay đổi cách thiết kế bài giảng; cách thức quản lí dạy và
học; việc chuẩn bị học liệu đến quản trị nhà trường. Cơ quan quản lí nhà nước
cũng chưa kịp ban hành các quy định để định hướng, quản lí,…
Trong khi “chuyển đổi số” vấn đề thuộc về bản chất chứ không phải từ hiện
tượng. Nếu như xưa nay, người thầy dựa vào khảo sát trên lớp hay nội dung của
môn học để quyết định phương pháp dạy và đánh giá. Nhà trường căn cứ vào
khảo sát ý kiến của các bên liên quan hoặc ý chí chủ quan của cơ quan chủ quản
để xây dựng mô hình quản trị, quản lí điều hành các hoạt động trong nhà trường.
Trong khi, lẽ ra hỗ trợ cho mọi quyết định phải dựa trên nền tảng cơ sở dữ liệu
đầy đủ. Chuyển đổi số thực chất chính là chìa khóa cho việc hoạch định và quyết
định tầm nhìn cũng như mô hình quản trị nhà trường.
2. Thay đổi phương thức quản lí
Trước kia, người thầy có tri thức truyền giảng cho trò trực tiếp qua từng
buổi giảng. Sau này, người đi trước viết sách để người đi sau đọc và người thầy
hướng dẫn cho trò học. Người thầy trở nên quan trọng trong mọi trường – lớp:
“không thầy đố mầy học ai”. Vì đến lớp với số lượng đông, nên ngoài thầy dạy
còn phải có giáo viên chủ nhiệm. Ngoài ra còn có các bộ phận quản lí, hỗ trợ, tư
vấn người học,… Ở các trường đại học từ khi chuyển từ niên chế sang học chế
tín chỉ, các trường đã thay đổi giảng viên chủ nhiệm thành cố vấn học tập. Sử
dụng phần mềm để quản lí người học và nhất là hỗ trợ đăng kí tín chỉ để chọn
môn học và thầy dạy. Qua đó, sử dụng người học đánh giá người dạy.
Chuyển đổi số sẽ thay đổi cách thức dạy – học, thay đổi mô hình quản lí sẽ
kéo theo thay đổi nhiều mối quan hệ trong nhà trường. Rồi cũng sẽ có sự lựa
chọn giảng viên ngoài trường, chọn môn học ngoài khung chương trình, ngoài
ngành đào tạo? Thời gian, địa điểm thay đổi kéo theo các mối quan hệ trực tiếp
giảm. Môi trường số cũng kéo theo việc đánh giá người học và người dạy khác
đi. Mọi dữ liệu đều được phân tích và kéo theo nhiều quyết định sẽ chính xác
hơn; quản trị và quản lí sẽ hiệu quả hơn.

135
3. Thay đổi đầu tư nguồn lực
Trước đây, để tạo môi trường học tập, nghiên cứu tốt, nhà trường đầu tư cơ
sở vật hiện đại từ giảng đường, bàn ghế, thiết bị thí nghiệm, thư viện,… Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành các quy định bảo đảm điều kiện tuyển sinh bằng cách
tính diện tích phòng học, thư viện… Chuyển đổi số trong giáo dục đại học có lẽ
phải thay đổi cách xác định các chỉ tiêu trên. Điều đó có nghĩa nhà trường cũng
thay đổi nguồn lực để đầu tư. Trong đó tập trung nhiều hơn đến hệ thống hạ tầng
thông tin, phần mềm, thư viện số và cả hệ thống an ninh, an toàn mạng.
Xưa nay, căn cứ vào quy mô lớp học để bố trí giảng viên. Lớp học quy mô
nhỏ sẽ có điều kiện giảng dạy tốt hơn. Và như vậy, cơ số phòng học cũng phải
nhiều hơn. Hệ thống giảng đường, nhà xe, thư viện đều phải được cân đối bố trí
hợp lí. Đến nay, khi thay đổi mô hình dạy – học, tất cả cũng thay đổi theo. Trường
học, lớp học ảo; phòng thí nghiệm ảo sẽ được quan tâm đầu tư nhiều hơn.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định số giảng viên/ sinh viên làm
căn cứ cho việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh. Tuy nhiên, chuyển đổi số trong giáo
dục đại học cần phải quy định lại. Điều đó cũng đồng nghĩa các trường sẽ thay
đổi mô hình đầu tư nguồn nhân lực. Đến lúc phải tập trung lựa chọn, đào tạo
giảng viên chất lượng tốt hơn là chạy theo số lượng.
Xuất phát từ nguyên lí “mở” trên môi trường số, nên thay vì một trường
phải đầu tư quá nhiều cơ sở vật chất hay con người, thì các Trường sẽ hợp tác
chia sẻ tài nguyên. Và như vậy, lợi ích xã hội sẽ cao hơn. Người học sẽ hưởng
lợi nhiều hơn.
4. Thay đổi nhiều thứ và giữ lại cái gì?
Dạy và học đã thay đổi. Mọi vấn đề liên quan đến dạy – học cũng thay đổi
theo. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là cần giữ lại cái gì?
Xét về bản chất của giáo dục là nhằm xây dựng con người “chân, thiện,
mĩ”; đào tạo ở bậc đại học là phát triển con người “sáng tạo”. Như vậy thì nội
dung, hình thức, phương pháp giáo dục có thể thay đổi, nhưng cái cốt vẫn phải
dựa trên nền tảng bản chất của giáo dục và đào tạo. Xây dựng con người chung
nhất vẫn phải là con người có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe và trách nhiệm…
Mục đích của học là để sống và sống tốt hơn. Vậy để sống và sống tốt trong
môi trường số sẽ khác về chất so với trước đây. Những kiến thức và kĩ năng trang
bị cho người cũng cần thiết kế lại.
Đối với sinh viên các trường đại học, cần trang bị kiến thức nền tảng của
từng ngành học gắn với yêu cầu của xã hội số. Do đó, việc nghiên cứu, sản xuất,
kinh doanh, quản lí cũng phải thay đổi để thích ứng và phát triển. Điều đó có
nghĩa là nhà trường, giảng viên không chỉ thay đổi phương pháp dạy và đánh giá
người học mà cần phải thay đổi cả nội dung của chương trình môn học.

136
Đối với sinh viên các trường đại học sư phạm, ngoài những kiến thức, kĩ
năng, nghiệp vụ cũng cần trang bị cả tâm lí giáo dục, giải quyết những tình huống
trong bối cảnh xã hội số. Nhiệm vụ của các trường đại học sư phạm cần tập trung
nghiên cứu xây dựng thế hệ giáo viên trong thời đại số. Một quốc gia chuẩn bị
tốt cho thế hệ giáo viên mới cũng đồng nghĩa với việc quốc gia đó có nhiều thế
hệ công dân tương lai vững vàng cho phát triển bền vững. Nếu quốc gia chỉ quan
tâm đến những vấn đề trước mắt thì cũng chỉ giải quyết được những vấn đề có
tính chất ngắn hạn.
Chuyển đổi số là chuyển đổi tư duy từ mô hình phát triển cá thể riêng lẻ
sang mô hình kết nối, chia sẻ. Mô hình này sẽ tối ưu hóa thế mạnh của từng cá
thể để có một “hệ sinh thái” bền vững. Với nguyên lí như vậy thì việc chuyển đổi
số không phải là phong trào, không phải mục tiêu mà là nhận thức. Nếu như trước
đây các cá thể cố phát triển hết khả năng của mình để cạnh tranh; các cộng đồng
cố gắng đấu tranh để lấn át cộng đồng khác; quốc gia này cố gắng kiềm hãm quốc
gia khác để chiếm vị trí độc tôn. Thì chuyển đổi số sẽ “sang phẳng”. Để một “hệ
sinh thái” với tập hợp nhiều cá thể gắn kết qua dữ liệu số. Tất cả đều có cơ hội
khai thác để phát triển và tất nhiên cùng chia sẻ. Sự cộng hưởng sẽ là sức mạnh.
Nhưng bên cạnh đó cũng sẽ có phân hóa. Do vậy, nếu chúng ta chủ động tiếp cận
tinh hoa, chúng ta sẽ thuộc về nhóm tinh hoa và ngược lại. Giáo dục đại học rồi
cũng sẽ phân hóa và theo quy luật cũng sẽ “chọn lọc tự nhiên”. Tất nhiên, giáo
dục đại học đúng nghĩa vẫn là sự kết nối tinh hoa chứ không phải đại trà.
Tóm lại
Giáo dục từ mô hình “1 thầy 1 trò”, rồi “1 thầy nhiều trò”. Từ “truyền thụ
tư tưởng” đến “truyền thụ kiến thức”, rồi “hình thành năng lực”. Mọi thứ đã thay
đổi. Xưa người ta đọc sách thánh hiền, học triết học để sống và làm việc như một
bác học - đúng từ bản chất của sự việc lẫn sự học. Rồi giáo dục phân hóa. Nhiều
môn học ra đời và từng bước “rời rạc” hóa. Công nghệ thông tin phát triển, thế
giới hình thành khối lượng dữ liệu đồ sộ. Chuyển đổi số mở ra một thời đại mới.
Chuyển đổi số đã mở ra cũng là để kết nối. Kết nối để tối ưu hóa. Kết nối
để rút ngắn quá trình nhận thức. Và thế hệ mới tiếp tục ra đời. Mọi thứ cũng sẽ
thay đổi. Nhưng dù thay đổi gì đi nữa thì tinh thần “nhân bản” vẫn là cái gốc.
Cho nên chuyển đổi số trong giáo dục và giáo dục đại học vẫn là chuyển đổi tư
duy dựa trên nền tảng của triết lí “nhân bản”.
Chuyển đổi số bắt nguồn từ cách mạng công nghệ số, nhưng không dừng
lại ở đó mà phải là cách mạng về tư duy. Thay đổi tổng thể từ học tập, sản xuất,
kinh doanh, đến thể chế, chính sách vĩ mô. Tư duy của sự kết nối những giá trị
tinh hoa. Để “sang phẳng” các “vách ngăn”. Để con người thông minh hơn và
cũng văn minh hơn nhờ thông tin được chia sẻ nhiều hơn và xử lí nhanh hơn.
Cho nên Giáo dục đại học cần phải đầu tư đi trước, để định hướng và chuẩn bị kĩ
cho một tương lai tốt đẹp hơn.

