intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dân tộc Bana

Chia sẻ: Lê Văn Hưng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:43

215
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Người Bana là một trong những cư dân cổ xưa ở Trường Sơn, trước kia họ sinh sống chủ yếu ở ven biển các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, sau di chuyển di chuyển lên Tây Nguyên sinh sống ở các địa hình khác nhau. Để tìm hiểu sâu hơn về "Dân tộc Bana" mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dân tộc Bana

DÂN TỘC BANA<br /> <br /> I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG<br /> 1. Ngôn ngữ, ngữ hệ<br /> - Dân tộc Bana có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer và chưa<br /> có chữ viết riêng.<br /> - Ngữ hệ Nam Á.<br /> 2. Lịch sử<br /> - Người Bana là một trong những cư dân cổ xưa ở Trường Sơn, trước<br /> kia họ sinh sống chủ yếu ở ven biển các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định,<br /> sau di chuyển di chuyển lên Tây Nguyên sinh sống ở các địa hình khác<br /> nhau.<br /> - Cư trú chủ yếu ở vùng Trung Trung Bộ, ven dải Trường Sơn và Tây<br /> Nguyên, các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Bình Định, Phú Yên…<br /> - Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong<br /> các lĩnh vực: văn hóa, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.<br /> II. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ<br /> a) Nông nghiệp<br /> - Người Bana sinh sống nhờ nông nghiệp, chủ yếu là canh tác lúa trên<br /> ruộng khô và rẫy. Việc trồng trọt được tiến hành theo một nông lịch<br /> khá chặt chẽ. Công việc đồng áng bắt đầu khi cây gạo (Blang) ra hoa,<br /> đó là khi trời đổ những cơn mưa đầu mùa, khi chòm sao lưỡi cầy xuất<br /> hiện. Người Bana bắt đầu quốc ruộng . Khi hoa gạo rụng hết, hoa<br /> Drong bắt đầu nở thì họ trìa lúa. Tháng ba hay tháng tư dương lịch khi<br /> ve kêu inh ỏi là lúc mở đầu mùa sản xuất. Trước ngày trìa lúa, do bắt<br /> đầu cỏ non mọc, buộc phải xới đất lên rất kỹ. Để xua đuổi chim muông<br /> phá phách, người Bana tạo nên dàn nhạc rừng công phu, tài tình, bằng<br /> cách lợi dụng sức gio sức nước, tạo nên những âm thanh khi dồn dập<br /> khi khoan thai, vừa vui tai vừa làm cho thú hoảng sợ. Việc thu hoạch<br /> kéo dài 2-3 tháng do họ phải suốt lúa bằng tay vì lúc đó công cụ không<br /> được cải tiến. Khi suốt họ lựa chọn những bông tốt làm giống.<br /> - Vườn ở vùng Bana nằm ngay trên rẫy hay trong các đám ruộng khô,<br /> nơi đất mầu mỡ nhất. Một mảnh vườn có thể trồng trọt liên tục trong<br /> khoảng 4-5 năm. Trong đó có loại cây dùng để dệt và nhuộm như:<br /> bông, chàm; cây thuốc hút; cây làm thức ăn; các loại rau: bầu, bí, đỗ,<br /> vừng, lạc; các loại cây ăn quả: chuối, mít, dứa, đu đủ; cây gia vị: ớt,<br /> hành, tỏi, kiệu; các loại rau thơm. Ngoài ra còn trồng mía, ngô, khoai,<br /> <br /> sắn, bo bo, kiều mạch, các loại kê, khoai sọ, khoai môn. Vườn chuyên<br /> canh cũng xuất hiện.<br /> - Hiện nay ở vùng Bana thu hẹp diện tích rẫy, mở rộng diện tích ruộng,<br /> chuyễn rẫy thành ruộng khô và khai phá ruộng nước.<br /> b) Thủ công<br /> - Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Rèn là nghề độc nhất có thể xem<br /> như một nghề thủ công, mặc dù chưa được tổ chức thành phường hội.<br /> Công cụ rèn bao gồm ống bễ bằng tre hay bằng gỗ, đe bằng đá hoặc<br /> bằng sắt, búa bằng sắt. Mỗi làng xưa kia thường chỉ có một lò rèn.<br /> Nhân dân đổi công, hoặc đổi hàng hóa để lấy sản phẩm rèn như lưỡi<br /> cầy, rìu, cuốc.<br /> - Nghề gốm tương đối phổ biến mặc dù kỹ thuật còn thô sơ.<br /> - Nghề dệt là công việc của đàn bà. Các gia đình đều trồng lấy bông.<br /> Công cụ cán, bật bông, se sợi tựa như ở đồng bằng, tuy có một vài chi<br /> tiết khác. Do chưa có khung cửi nên người Bana dệt rất chậm, một vài<br /> tấm vải dài chừng 2 sải thì phải mất gần 1 tháng.<br /> - Đan lát là công việc của đàn ông. Họ thường tập trung tại nhà Rông<br /> để đan các loại dụng cụ từ mủng, sọt, bồ, bịch, cho đến các loại gùi.<br /> Loại gùi Brăng hay Tnong để đựng quần áo, hay suốt lúa; Krô của đàn<br /> ông mang sau lưng, Haká hay Prong để đựng lúa, họ còn đan lới để<br /> bắt cá và làm vật trao đổi có giá trị. Đàn ông Bana có nghề đan chiếu<br /> bằng lá Pmắt, Mơnal, giống như lá dừa nhưng dài tới 2m. Lá trẽ thành<br /> 5-6 dây rồi đem phơi khô trong 5-6 ngày hoặc ngâm qua nước làm<br /> mềm để đan những chiếu khổ 1.6m-1.20m<br /> c) Săn bắn hái lượm<br /> - Có rất nhiều loại rau ngon tùy theo từng mùa, nhiều loại măng, nấm,<br /> mộc nhĩ. Người Bana thích ăn một số loại sâu, nhất là sâu cây dẻ, cây<br /> chít, dế, châu chấu, cào cào, các loại ong non, kiến non, ếch, nhái,<br /> nòng nọc, tôm, tép và một số loài nhuyễn thể sống dưới nước.<br /> - Nếu hái lượm, trồng trọt là công việc của phụ nữ và trẻ em thì săn<br /> bắn là trách nhiệm của đàn ông. Săn bắn không chỉ nhằm phục vụ cho<br /> việc bảo vệ mùa màng, mà còn nhằm kiếm thức ăn. Gia súc tuy nhiều<br /> nhưng chủ yếu chỉ dùng trong những dịp cúng bái, hội hè, cưới xin,<br /> ma chay… Săn bắn còn là dịp để trai tráng rèn luyện tài năng và lòng<br /> dũng cảm.<br /> - Trong săn bắn, nhất là ở An Khê, việc dùng tên thuốc độc rất phổ<br /> biến. Có 4 loại cây có nhựa dùng làm thuốc độc: Krăm và Đrăm là độc<br /> dược, tẩm tên để bắn các loại thú như hoẵng, nai, chồn…; Teng neng<br /> <br /> là đồ độc hại cao hơn dùng để tẩm tên bắn hổ, báo, gấu…; Đơ Găng<br /> là đồ độc hại rất mạnh, nếu ngửi phải hơi cũng chết.<br /> d) Trao đổi hàng hóa<br /> - Hàng hóa được trao đổi giữa địa phương và cư dân xung quanh, việc<br /> trao đổi theo lối cổ truyền.<br /> - Vật ngang giá thông thường là trâu, bò, nồi đồng, chiêng, cồng. Các<br /> loại tiền này đôi khi lại đổi lấy tiền đồng, tiền bạc để làm trang sức. Giá<br /> trị các vật ngang giá thường thống nhất theo từng vùng và xê ít nhiều<br /> theo các vùng khác nhau. Nồi đồng gồm nhiều loại: nồi ba, nồi năm,<br /> nồi bẩy. Giá trị các nồi đồng cũng còn phụ thuộc vào niềm tin là có<br /> thần linh. Chiêng (Chinh chông) có nhiều loại. Loại chiêng Lào pha<br /> bạc rất tốt, có thể được đúc từ Miến Điện, có giá trị tới 30 con trâu hay<br /> 1 con voi. Ở vùng Bana, có loại chiêng có núm, có loại chiêng bằng.<br /> Có bộ chiêng gồm 5 chiếc có đủ cha và các con, bộ chiêng 3 chiếc đủ<br /> cha và các con. Những bộ chiêng quý thường có tên như là: bom,<br /> doanh hay doong duan.<br /> - Ché có rất nhiều loại. Giá trị của chúng không phải là do khả năng sử<br /> dụng mà do khan hiếm, do quan niệm đấy là nơi cư ngụ của thần linh<br /> để phù hộ cho gia chủ. Giá trị của chiếc ché còn phụ thuộc vào người<br /> mua và người bán. Ché quý của người Bana là loại Stoc, đặc biệt là<br /> Stoc Vênh, được mua tới 30-40 con trâu và phải cất riêng, làm nhà<br /> riêng cho ở vì nếu để cùng nhà gia chủ sẽ chết. Các loại ché bình<br /> thường chỉ có giá bằng một con lợn.<br /> - Vật ngang giá thông thường là lưỡi cuốc, cào cỏ (Yec) gọi là Minh<br /> Đrăm. 10 minh đrăm là 1 Blớc, giá trị bằng 1 con gà mái (2 blớc = 1).<br /> 6 gó là một ché thông thường. 12 gó là một gò bây (nồi bẩy). 25 gó<br /> bằng một gơ bung, giá trị ngang bằng 1 con trâu. Những đơn vị vật<br /> ngang giá này được quy ra các tấm hiện vật. Tiền chỉ mới được sử<br /> dụng ở các thị trấn, thị xã dưới thời Pháp thuộc. Sau ngày giải phóng,<br /> tiền ngân hàng VN mới được sử dụng rộng rãi trong toàn vùng.<br /> III. Văn hóa vật chất<br /> 1. Nhà ở và công trình kiến trúc<br />  Nhà ở:<br /> - Người Bana ở nhà sàn (hnam). Xưa kia, người Bana thường ở loại<br /> nhà sàn dài hàng gian, có một hành lang thông giữa các gian, dành<br /> cho gia đình lớn gồm nhiều cặp vợ chồng và con cái. Bên cạnh đó<br /> người Bana cũng phổ biến với loại nhà sàn nhỏ dành cho các gia đình<br /> hai hay ba thể hệ cùng chung sống. Nhà nhỏ Bana gồm 3 gian hay 5<br /> <br /> gian. Nhà có 4 mái lợp tranh (pơ đa), hai mái chính phía trước, phía<br /> sau hình chữ nhật có hai mái đầu hồi hình tam giác. Trên nóc mái, ở<br /> hai đầu hồi có trang trí hai thanh gỗ bắt chéo như là phần nối dài cảu<br /> hai kèo hồi gọi là tơ nóp hay ktoanh. nào trước mặt cũng có 1 sàn lộ<br /> thiên hay có mái che, với 1 cầu thang lên xuống. Trong nhà thường<br /> chia làm 3 phần:<br /> + Phần đầu hồi mé Đông: được quan niệm là phía của sự sống. Chỗ<br /> ở của vợ chồng chủ nhà. Tại đó, bên bếp lửa, có đặt 1 hòn đá được<br /> coi như 1 bảo vật, thần bản mệnh của gia đình.<br /> + Gian giữa là nơi tiếp khách. Ở đó có 1 bếp lớn và là chỗ ngủ của<br /> những đàn bà đến tuổi trưởng thành trở lên. Xung quanh bếp là nơi<br /> để gia cụ như: gùi, mẹt, khuy dệt…và các ché rượu.<br /> + Mé Tây là gian của các cặp vợ chồng, con cái nhỏ và những con<br /> trai chưa đến tuổi tập trung ra nhà Rông.<br /> - Kích thước nhà tương đối thống nhất, chiều dài mỗi gan bằng 1 sải<br /> tay (pơ lai) cộng một cánh tay (hlooc) của chủ nhà, chiều rộng nhà<br /> bằng 3 sải tay của chủ nhà. Vật liệu làm nhà là các loại thực vật có sẵn<br /> xung quanh nơi cư trú, gồm gỗ dùng để làm cột, kèo, cầu thang, dầm<br /> ngang và đôi khi cả mặt sàn, lồ ô dùng để làm đòn tay, đòn nóc, xà,<br /> phên tường, sàn nhà, tranh dùng lợp mái, dây mây và dây rừng để cột<br /> các bộ phận của ngôi nhà. Kết cấu khung nhà là kết cấu hai cột không<br /> vì kèo. người ta dựng bộ khung cột với các loại cột chống (d’răng), nối<br /> dầm sàn (d’mam), đặt quá giang (tơ pong pụ), xà dọc (tơ pong vil)<br /> và xà ngang (tơ pong tol) bằng kỹ thuật buộc chạc và khoát ngoãm<br /> chứ không đục mộng. Dụng cụ đẻ làm bộ khung cột là rìu, rựa, cưa,<br /> đục, nào. Khung mái nhà được làm ở dưới đất bao gồm rui (po ju) đòn<br /> tay hay hoành (ho pok) bằng lồ ô, cố kết với nhau bằng dây mây (ri),<br /> mái tranh, sau đó, được khiêng và đặt lên trên bộ khung cột. Người<br /> Bana làm vách bằng lồ ô, bên ngoài vách là các dố dọc và nẹp ngang.<br /> Vách không được dựng thẳng với cột mà hơi nghiêng theo kiểu thượng<br /> <br /> thách hạ thu. Sàn nhà được đan bằng những cây lồ ô bổ đôi đập<br /> phẳng. Cửa chính bao giờ cũng có hai bậu cửa nằm phía dưới và phía<br /> trên, mỗi bậu có hai đầu được đẽo tròn hình mỏ chim gọi là ktol.<br /> - Trong nhà sàn nhỏ ba gian có ba cửa: một cửa chính (măng tơm)<br /> mở ở gian giữa, hai cửa phụ (măng mok ) hay (măng jac) ở hai đầu<br /> hồi. Người Bana thường làm nhà mới vào mùa khô, khi công việc<br /> nương rẫy đã hoàn tất. Trước khi dựng nhà ở khoảnh đất đã định,<br /> người chủ nhà phải đến đó nằm ngủ một đêm. Quá trình làm nhà được<br /> chuẩn bị cẩn thận, gỗ được chọn để làm nhà thường là gỗ chik (loong<br /> chik) chắc, thẳng, không mối mọt, có chạc để có thể đặt kèo. Trong<br /> khi đi tìm nguyên vật liệu nếu gặp con mang hoặc chim pơ lang kêu<br /> gần thì phải quay về, hai ba ngày sau đó mới được đi tìm gỗ lại. Khi<br /> dựng nhà, người ta dựng cây cột đầu hồi phía trái cửa chính trước, vì<br /> đây là gian vợ chồng chủ nhà, gian gốc của ngôi nhà.<br /> - Sau đó, người chủ gia đình làm lễ cúng xin các thần linh phù hộ cho<br /> các thành viên trong nhà luôn luôn mạnh khỏe. Người đàn bà chủ nhà<br /> là người dội nước vào hố chôn cột nhà. Tiếp đó các bộ phận khác của<br /> ngôi nhà mới được dựng lên. Nhà làm xong, gia chủ làm cơm, rượu<br /> cúng thần linh và mời họ hàng, dân làng đến mừng nhà mới (et tok<br /> hnam nao). Lễ vật cúng thần là một con gà và ghè rượu. Bếp lửa<br /> chính trong nhà được đốt lên. Người đàn bà chủ lễ lấy máu gà đổ vào<br /> bếp lửa và cầu xin thần bếp lửa yang tơ nuk uynh phù hộ cho gia<br /> đình luôn luôn mạnh khỏe, may mắn và làm ăn thuận lợi. Đầu gà được<br /> gói vào túi vải cùng với lá loong klo đem treo ở cây cột gian trái nhà.<br /> Sau lễ cúng thần, các cặp vợ chồng lấy lửa ở bếp chính về nhen ở bếp<br /> lửa nhà mình. Lễ cúng nhà mới được làm tại bếp lửa nên cũng được<br /> gọi là cúng thần bếp (pơm yang tok yang tơ nuk uynh). Bà chủ đặt<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2