LUẬN VĂN:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân nhân dân, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất xây dựng đào tạo, bồi ỡng đội ngũ
CBCC. Trong đó có vấn đđào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã, đặc biệt đội ngũ CBCC cấp
người n tộc thiểu số nngưi dân tộc Khmer các tỉnh y Nam Bi chung và
tỉnh Trà Vinhi riêng cần được quan tâm nghiên cu cả v luận và tổng kết thực tiễn.
Theo Nghị quyết hội nghị lần th5 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, h
thống chính trị cơ sở (xã, phường, thị trấn) vai trò quan trọng trong việc tổ chức
vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước. Thực tế hiện
nay chất lượng của đội nCBCC của hệ thống chính trị sở còn nhiều hạn chế ít
được đào tạo, bồi dưỡng. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới cần phải đổi
mới tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, trong đó xây dựng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ có ý nghĩa quyết định.
Chính vì vậy, pháp lệnh sữa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnhn bộ, công chức
(năm 2003) đã qui định về cán bộ, ng chức , phường, th trấn các chức danh, chức vụ
trong hệ thống chính trị ở cơ sở được cụ thể hoá theo Nghđịnh số: 114/2003/NĐ -CP, Ngày
10/10/2003 của Cnh phủ vcán bộ, ng chức xã, phường, thtrấn. Từ đó, vấn đ đào tạo,
bồi ỡng CBCC i chung và CBCC cấp sở trthành một nhiệm vtrước mắt cấp
ch vừa nhiệm vthường xuyên lâui.
Nhận thức tầm quan trọng đó trong thời gian qua, các địa phương trong cả nước đã
triển khai thực hiện Quyết định số 874/1996/QĐ - TTg và Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg
ngày 07/05/2001 của Thủ tướng Chính phủ vviệc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005. Thc hin tiếp theo là Quyết định s 40/2006/QĐ-TTg
ngày 15/02/2006 ca Th tướng Chính ph về việc p duyt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức giai đoạn 2006-2010. Do vậy phần lớn đội ngũ cán bộ các cấp, CBCC
cấp từng bước được trang bị kiến thức luận chính trị, nhà nước pháp luật quản
hành chính. Họ đã cùng với nhân dân tạo nên những thành tựu trong phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội, góp phần làm thay đổi rõ rệt bộ mặt thành thị và nông thôn ở nước ta.
Tuy nhiên, những hạn chế lâu nay về công tác CBCC nói chung CBCC người
dân tộc thiểu số vẫn chưa được khắc phục như Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ ba,
ĐCSVN khoá VIII đánh giá “Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình
trạng Vừa thừa vừa thiếu”. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo quản chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới" [13, tr.68]; “Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắng
với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo n
thấp. Nội dung chương trình phương pháp đào tạo, cán bộ chậm đổi mới, chưa gắn vi
tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới;..." [13, tr.71].
Như Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ bảy, ĐCSVN khoá IX đã đánh g:
“Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản vùng dân tộc và miền núi còn thiếu về
số lượng, yếu vnăng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm” [17, tr.34] văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá “…Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán
bộ chủ chốt, yếu kém về phẫm chất năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu,
vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ” [18, tr.86].
Trước thực trạng về trình độ, năng lực của CBCC đặc biệt đội nCBCC người
dân tộc thiếu số của đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của ĐCSVN
đã đề ra: “…củng cố và nâng cao chất lượng hệ thng chính tr cơ sở vùng đồng bào n tộc
thiểu số; động viên, phát huy vai t ca những người tu biểu trong c dân tc. Thực hiện chính
sách ưu tiên trong đào to, bồi dưỡng cán b, trí thc người dân tộc thiểu số… [18, tr.122]. Đ
c tha chủ tơng của Đảng Quyết định số: 34/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 02 m 2006
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010.
Trà Vinh một tỉnh đông đồng bào Khmer (đứng hàng thứ hai ở các tỉnh Tây Nam
Bộ sau Sóc Trăng) hiện nay, có khoảng 30% dân số là đồngo Khmer sống xen kẽ với đồng
o Kinh, Hoa trên hầu hết các , phường, thị trấn trong toàn tỉnh đã tạo n một truyền
thống đoàn kết gắn giữac n tộc.
Thời gian qua Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh rất quan tâm đến công c
đào tạo, bồi dưỡng CBCC tỉnh nhà. Nhưng nhìn chung đội nCBCC cấp xã, xét về tiêu
chuẩn, trình độ được đào tạo, bồi dưỡng chỉ đáp ứng được một phần nào. Đặc biệt CBCC
là người dân tộc Khmer còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực quản hành chính nhà nước và trình độ LLCT. Hiện nay, đại đa
số CBCC cấp người Khmer m việc theo kinh nghiệm thực tiễn, thói quen, vậy,
trong quá trình thực thi công việc gặp nhiều khó khăn, nhất là những sự việc nhạy cảm như
đất đai, chế độ chính sách, dân tộc, tôn giáo…
Xuất phát từ những vấn đề luận và thực tiễn đặt ra. i chọn đề tài: “Cơ sở lý
luận thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp người dân tộc Khmer
ở tỉnh Trà Vinh” để làm luận văn thạc sỹ Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực CBCC nói chung CBCC dân tộc
nói riêng từ trước đến nay đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu đây cũng
lĩnh vực được chọn m đề tài của luận án tiến luận văn thạc sỹ triết học và luật
học. thể đưa ra một số công trình, đtài và bài viết tiêu biểu của các tác giả liên
quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn này.
- Luận văn tiến sỹ Hồ Văn Thâm: Nâng cao năng lực duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp hiện nay (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 1996).
- Luận văn thạc sỹ Trần Ngọc Điệp: Đào tạo cán bộ, ng chức của tỉnh Cần Thơ (Bảo
vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia HChí Minh, năm 1999).
- Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay Bộ Nội vụ): Chính quyền quản lý
nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Luận văn thạc sỹ Vy Văn : Vấn đề quy hoạch đào tạo sdụng đội ngũ cán
bộ, công chức quản kinh tế của tỉnh Đồng Nai (Bảo vtại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2000).
- Luận văn thạc s Phạm Quc Tế: Đổi mới tổ chức và hoạt động chính quyền xã
hin nay (Bo vệ ti Học viện Cnh trQuc gia Hồ CMinh, năm 2001).
- Luận văn thạc sỹ Cao Thị Hải: Đổi mới tổ chức hoạt động chính quyền cấp
ở Thái Bình (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2001).
- Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền
cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Luận văn tiến sỹ Phạm Công Khâm: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
vùng nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2002).
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sm: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Hậu: ng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp tỉnh Phú Thọ (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2003).
- Luận văn thạc sỹ Trần Văn Tài: Đào tạo nguồn cán bộ quản hành chính nhà
nước cấp trên địa bàn Thành phố Cần Thơ-Thực trạng giải pháp (Bảo vệ tại Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004).
- Luận n thc s ThThu Hiền: Phát huy vai trò giáo dục pháp luật cho
đồng bào Khmer của cnh quyn cp của tỉnh TVinh hin nay (Bảo vệ tại Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia HCMinh, năm 2006).
- Chi Mai: Đào tạo, bồi ỡng cán bộ chính quyền sở - vấn đề giải pháp
(Tạp chí Cộng sản số 20/2002).
- Thị Vân Hạnh: Đào tạo, bồi dưỡng công chức để nâng cao năng lực thực thi
(Tạp chí quản lý nhà nước số 103/2004).
Các công trình các bài viết trên đã đề cập nhiều đến việc xây dựng đội ngũ n
bộ cấp xã và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào đề cập - nghiên cứu đến
vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp đông đồng bào dân tộc Khmer như tỉnh Trà
Vinh. Nghiên cứu đề tài này trong tình hình thực tế người dân tộc Khmer chiếm ttrọng
không nhtrong thành phần dân cư không chỉ tỉnh Trà Vinh còn ở nhiều tỉnh khác
Tây Nam bộ, vì vậy không thể coi vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp người dân