
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM
TS. Hà Thị Hường1
Tóm tắt: Fintech - Công nghệ tài chính đang làm thay đổi tích cực thị trường tài chính thế giới nói chung và của Việt nam nói riêng và là điều kiện tiên
quyết để phát triển cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Fintech tác động sâu rộng lên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần tăng năng suất
lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Đối với ngành ngân
hàng, OECD (2019) cho thấy, công nghệ kỹ thuật số có thể có tác động đáng kể đến việc tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường tài chính. Ngân hàng
sẽ chuyển sang hoạt động theo mô hình dựa trên nền tảng số, lấy khách hàng làm trung tâm và đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tái cấu trúc và
quản trị tốt hơn. Sự tiến bộ của công nghệ thông tin, cũng như việc sử dụng rộng rãi máy tính, internet và điện thoại di động, đã có tác động đáng kể
đến lĩnh vực tài chính ngân hàng, tạo ra những công cụ tài chính và sản phẩm mới. Để thích ứng với những tiến bộ trong công nghệ cũng như yêu cầu về
chuyển đổi số ngành Tài chính - Ngân hàng, đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu về phát triển Fintech tại Việt Nam là ưu tiên hàng đầu. Do đó,
bài viết sẽ tập trung phân tích những thách thức mà Fintech đặt ra cho việc đào tạo nhân lực ngành tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam cũng như thực
trạng về đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh hiện tại. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp đào tạo nhân lực ngành Tài chính - Ngân hàng để đáp
ứng với xu thế phát triển của lĩnh vực này tại Việt Nam.
Từ khóa: Fintech, năng lực số, kỹ năng số, chuyển đổi số, nguồn nhân lực Tài chính - Ngân hàng.
Abstract: Fintech - Financial technology is positively changing the world financial market in general and Vietnam in particular and is a prerequisite for
developing the 4.0 technology revolution. Fintech has a profound impact on all industries and socio-economic fields, contributing to increasing labor
productivity, transforming operating and business models towards innovation, thereby improving national capacity for competition. For the banking
industry, OECD (2019) shows that digital technology could have a significant impact on increasing competitiveness in financial markets. The bank
will switch to a digital-based, customer-centric model and require commercial banks to restructure and have better governance. The advancement of
information technology, as well as the widespread use of computers, the internet and mobile phones, has had a significant impact on the banking and
finance sector, creating new financial instruments and products. To adapt to advances in technology as well as requirements for digital transformation
in the Finance and Banking industry, training human resources to meet the needs of Fintech development in Vietnam is a top priority. Therefore, the
article will focus on analyzing the challenges that Fintech poses for human resource training in the finance and banking industry in Vietnam as well as
the current situation of human resources in the current context. From there, the study proposes solutions for human resource training in the Finance and
Banking industry to meet the development trend of this field in Vietnam.
Keywords: Fintech, digital capacity, digital skills, digital transformation, human resources for Finance - Banking.
1. GIỚI THIỆU
Trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Fintech đã có dấu hiệu xuất hiện.
Bởi vì, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho người dân mất dần lòng tin vào hệ
thống tài chính, đòi hỏi phải có sự thay đổi về Tài chính hiện đại hơn, minh bạch hơn. Thời điểm
đó, cộng đồng cư dân kỹ thuật số đã vào giai đoạn trưởng thành để trở thành khách hàng tiềm năng
và có sở thích hướng đến sử dụng dịch vụ di động hơn. Trong bối cảnh tiềm năng này, các nhà cung
cấp dịch vụ Fintech đã xuất hiện, những dịch vụ mới, tin cậy, minh bạch và ứng dụng công nghệ
1 Khoa Tài chính - Ngân hàng, trường Đại học Đại Nam Email: hathihuong@dainam.edu.vn.

741
PHẦN 2: HOÀN THIỆN VỀ THỂ CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH
cao giúp cho các cá nhân, tổ chức có thể kiểm soát tiền của chính mình dễ dàng hơn, ngân hàng
mở rộng khả năng tài trợ, giúp vay tiền dễ dàng, nhanh chóng. Hiện nay, ngoài các lĩnh vực tham
gia cùng với các định chế tài chính truyền thống, Fintech còn tham gia vào công nghệ bảo hiểm,
đầu tư, quản lý tài sản và BigData như gọi vốn cộng đồng, cho vay ngang cấp, tư vấn tài chính cá
nhân, công nghệ bảo hiểm, tiền tệ số, quản trị dữ liệu ,…
Trước bối cảnh phát triển toàn cầu, thuật ngữ Fintech được phổ biến rộng rãi và ngành công
nghiệp fintech toàn cầu phát triển nhanh chóng để phục vụ cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. Một
nghiên cứu thị trường Adroit vào 29 tháng 01 năm 2020 cho thấy, quy mô thị trường fintech toàn cầu
được dự đoán sẽ đạt 460 tỷ USD vào năm 2025. Các công ty Fintech có xu hướng tích hợp các công
nghệ khác nhau như AI, Blockchain, ... vào các dịch vụ tài chính để làm cho chúng nhanh hơn, an
toàn và hiệu quả hơn. Thị trường Fintech toàn cầu sẽ có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa những công ty
Fintech mới thành lập và các công ty Fintech mới nổi. Các công ty này đang cung cấp các sản phẩm
nâng cao để có được lợi thế cạnh tranh so với những người chơi khác bằng cách tham gia vào các mối
quan hệ đối tác, sáp nhập, mua lại và mở rộng kinh doanh của họ. Chính vì vậy, nguồn nhân lực cho
Fintech được coi là vấn đề cốt lõi của tất cả các quốc gia mong muốn phát triển Fintech.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHO PHÁT TRIỂN FINTECH
2.1. Khái niệm nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho Fintech
Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến tăng trưởng kinh tế
của nền kinh tế nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO),
nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao
động. Như vậy, nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển.
Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp,
nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao
gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội,
tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực,
trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019
quy định “Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được
trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Độ tuổi lao động
tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi.
Như vậy có thể nói nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: số lượng và chất lượng.
Về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà
nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ.
Về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người
lao động. Nguồn nhân lực có có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành
nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại
học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề) được gọi là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Fintech là một lĩnh vực kết hợp công nghệ thông tin và ngành Tài chính nhằm chỉ việc sử dụng
công nghệ thông tin để cải thiện và tăng cường các dịch vụ tài chính truyền thống. Vì vậy nguồn
nhân lực để đáp ứng cho sự phát triển Fintech được hiểu là nguồn nhân lực có chất lượng cao được
đào tạo chuyên môn về tài chính và công nghệ để tham gia vào các hoạt động của Fintech. Nhân
lực hoạt động trong lĩnh vực về Fintech đòi hỏi phải đạt được 3 nhóm kỹ năng trụ cột đó là: Kỹ
năng về chuyên môn (kiến thức tốt về tài chính, trong đó kiến thức về tài chính cá nhân sẽ rất quan

742 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM
trọng); Kỹ năng về IT (hiểu biết được kỹ năng lập trình căn bản, quản trị dữ liệu, các môn học về
thống kê và phương pháp định lượng, Ứng dụng công nghệ tài chính, đương nhiên sử dụng thành
thạo các công cụ thiết bị điện tử phục vụ cho giao dịch ngân hàng); Kỹ năng về tiếng Anh trong
giao dịch thương mại toàn cầu.
2.2. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho Fintech
Đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển Fintech được hiểu là các hoạt động học tập nhằm
giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình trong lĩnh
vực Fintech. Quá trình đào tạo được thực hiện thông qua các hình thức như:
Hình thức đào tạo cho nhân viên: Là hình thức đào tạo cho nhân viên gắn với công việc thực
tế. Theo hình thức này nhân viên đang thực hiện công việc trong lĩnh vực Fintech sẽ được các tổ
chức này tổ chức đào tạo theo các phương pháp như chỉ dẫn công việc, học nghề, kèm cặp, luân
chuyển vị trí. Hình thức này được áp dụng trong điều kiện các tổ chức có đủ đội ngũ lao động lành
nghể để chỉ dẫn, kèm cặp cho nhân viên khác.
Hình thức đào tạo ngoài công việc: Là hình thức đào tạo tách rời với công việc thực tế như
mở các lớp đào tạo bên ngoài, tổ chức tọa đàm, thảo luận, cử đi học các lớp đào tạo chính quy.
Fintech là một lĩnh vực mới ở Việt nam, đội ngũ chuyên gia về lĩnh vực này đang rất mỏng vì vậy
nguồn nhân lực để đáp ứng cho Fintech chỉ có thể thực hiện hiệu quả thông qua hình thức đào tạo
ngoài công việc. Nguồn nhân lực cho Fintech có thể được tổ chức đào tạo theo các phương thức:
- Tổ chức đào tạo kiến thức và kỹ năng công nghệ cho người lao động có trình độ về tài chính.
- Tổ chức đào tạo kiến thức và kỹ năng tài chính cho người có trình độ về công nghệ.
- Tổ chức các lớp được đào tạo kiến thức và kỹ năng chính quy về tài chính và công nghệ.
Trong 3 hình thức trên, hai hình thức đầu thường được sử dụng cho đội ngũ nhân sự đang hoạt
động trong lĩnh vực tài chính, tuy nhiên các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Fintech cần có
đội ngũ chuyên gia đủ trình độ và năng lực để đào tạo cho nhân viên. Hình thức thứ 3 được thực
hiện tại các trường đại học, đây là giải phải chủ yếu để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu của Fintech.
2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA FINTECH TẠI VIỆT NAM
2.1. Nhu cầu nguồn nhân lực Tài chính - Ngân hàng đáp ứng yêu cầu của Fintech tại Việt Nam
Theo báo cáo của Navigos (2022), ngành Tài chính - Ngân hàng sẽ cần tuyển dụng nhiều nhân
lực có kiến thức về công nghệ thông tin (IT) và kỹ năng bán hàng (Sales). Các nhân sự giỏi trong
lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) - Dữ liệu lớn (Big Data) - Crypto và Chuỗi khối (Blockchain) sẽ
được nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính ưu tiên tuyển dụng nhưng sẽ có sự cạnh tranh khốc
liệt vì nguồn cung khan hiếm. Bên cạnh đó, cũng có nhiều cơ hội cho nguồn nhân lực cao, dự báo
về nhân lực cho thấy có nhiều cơ hội việc làm cho người am hiểu về công nghệ thông tin và tài
chính. Đặc biệt rất cần đội ngũ nhân sự cho các vị trí như: Nhân viên quản lý rủi ro và các chuyên
gia tuân thủ; Mặt khác, công nghệ đang có tác động sâu sắc đến các quy định và quy tắc của ngành
tài chính đòi hỏi thị trường lao động cần phải cung cấp cho các công ty, tổ chức những chuyên gia
trong lĩnh vực luật tài chính, kỹ năng thực hành tốt nhất và bảo mật dữ liệu để có thể thực hiện các
vị trí của các nhà quản lý rủi ro và các chuyên gia tuân thủ.
Theo McKinsey, 2020, cấu trúc lao động trong ngành Tài chính, sự chuyển dịch do tác động
của chuyển đổi số thể hiện trên các khía cạnh: các công việc có tính lặp lại cao sẽ bị thay thế bởi
robot và hệ thống tự động hóa; nhiều vị trí công việc sẽ chuyển hóa, gia tăng hàm lượng công

743
PHẦN 2: HOÀN THIỆN VỀ THỂ CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH
nghệ trong nghiệp vụ, quy trình xử lý; từ đó xuất hiện thêm các vị trí công việc liên quan tới công
nghệ. Sự chuyển dịch này làm gia tăng khoảng 8-9% nhu cầu về chất lượng, số lượng nguồn nhân
lực ngành Tài chính đến năm 2030. Cũng theo WEF, 2020, khoảng 65% công việc mới xuất hiện
liên quan tới chuyển đổi số và khoảng 56% số lao động tại Đông Nam Á có nguy cơ mất việc nếu
không được trang bị kỹ năng, không đáp ứng được nhu cầu mới.
Trong thời gian tới, ít nhất 20 năm, việc ứng dụng khoa học dữ liệu sẽ đóng vai trò quan trọng
trong việc đào tạo nhân sự lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng và kế toán. Trong đó, những phân mảng
đào tạo liên quan đến công nghệ số, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, Fintech… sẽ là một trong những
ngành nghề mà nhu cầu từ thị trường nhân lực sẽ ngày càng nhiều.
Theo báo cáo của ba tổ chức: PricewaterhouseCoopers (PwC), United Overseas Bank (UOB)
và Hiệp hội Fintech Singapore năm 2019, Việt Nam đứng thứ hai trong khu vực Asean về thu hút
đầu tư trong lĩnh vực Fintech. Theo Tạp chí Forbes, thị trường Fintech Việt Nam năm 2020 cũng
đã nhận được những khoản đầu tư kỷ lục khi thu hút được tổng cộng khoảng 7,8 tỷ USD vốn đầu
tư. Trong năm 2021, nhiều công ty cũng đã gọi vốn thành công với giá trị lớn như MoMo với hơn
100 triệu USD vào tháng 3/2021, VNLife với hơn 250 triệu USD vào tháng 9/2021. Tuy vậy theo
báo cáo của Fintech Singapore và Báo cáo thị trường Fintech Việt Nam 2021, số lượng công ty
Fintech được thành lập tại Singapore là 1.157 công ty, Indonesia có 511 công ty, Malaysia là 376
công ty và Việt Nam chỉ có hơn 131 công ty. Với những ổn định về chính trị và kinh tế vĩ mô, tổ
chức Natixis Asia đã đánh giá Việt Nam là điểm đến hấp dẫn hàng đầu trong 07 nền kinh tế mới
nổi của châu Á. Hiện Việt Nam đang đứng thứ 67/141 nền kinh tế về xếp hạng chỉ số Năng lực
cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xếp hạng. Vì vậy Việt Nam có nhiều
lợi thế thúc đẩy quá trình hội nhập tài chính và phát triển các trung tâm tài chính cho khu vực và
quốc tế. Nhu cầu phát triển mạnh mẽ về lĩnh vực Fintech tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu nguồn nhân
lực cho lĩnh vực này.
2.2. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng Tài chính - Ngân hàng đáp ứng yêu cầu của Fintech tại Việt Nam
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực được
xem là quan trọng mang lại đột phá giúp các doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên,
những thách thức lớn và hiện hữu của ngành Tài chính -Ngân hàng trước CMCN 4.0 nói chung
và ngành Tài chính - Ngân hàng số nói riêng chính là khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trong lĩnh
vực Tài chính - Ngân hàng nói riêng, Chính phủ đã coi Tài chính - Ngân hàng là một trong 8 ngành,
lĩnh vực cần được ưu tiên chuyển đổi số, theo Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương
trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Thủ tướng Chính
phủ. Với mục tiêu chính trong quá trình chuyển đổi số lĩnh vực tài chính là: Xây dựng tài chính
điện tử và thiết lập nền tảng tài chính số hiện đại, bền vững; Triển khai ứng dụng toàn diện công
nghệ số trong các ngành Thuế, Hải quan, Kho bạc, Chứng khoán; Chuyển đổi số trong các ngân
hàng thương mại để cung cấp dịch vụ ngân hàng số theo hướng phát triển đa dạng các kênh phân
phối, đổi mới sáng tạo, tự động hóa quy trình, thúc đẩy hợp tác với các công ty công nghệ tài chính
(Fintech) và trung gian thanh toán trong việc xây dựng hệ sinh thái dịch vụ tài chính ngân hàng.
Các mục tiêu trên có tác động mạnh mẽ tới cấu trúc lao động và yêu cầu mới của nguồn nhân lực.
Mặt khác, nắm bắt xu thế phát triển công nghệ thanh toán trên thế giới, một số ngân hàng đã
nghiên cứu, hợp tác, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại vào hoạt động thanh toán trên thiết bị di động
thông qua áp dụng vân tay, khuôn mặt và giọng nói, mã phản hồi nhanh (QR Code), công nghệ mã

744 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM
hóa thông tin thẻ (tokenization), thanh toán phi tiếp xúc, công nghệ mPOS,... Bên cạnh đó, để hỗ trợ
cho việc phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cấp
phép cho 26 tổ chức không phải là ngân hàng thực hiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán nhằm
phục vụ các giao dịch thanh toán bán lẻ, giá trị thấp. Kết cấu hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh
toán không dùng tiền mặt tiếp tục được đầu tư để nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ; công tác
bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thẻ, thanh toán điện tử ngày càng được chú trọng. Đối với việc
thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt Đề
án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc
gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hoàn
thành thử nghiệm kỹ thuật kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ công tác phòng, chống
rửa tiền, thông tin tín dụng và dịch vụ công Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; phối hợp với Bộ Công
an và Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thành kiểm tra, đánh giá an toàn an ninh hệ thống dịch vụ
công và gửi hồ sơ đăng ký khai thác khi kết nối chính thức.
Hiện nay, hầu hết các tổ chức tín dụng đã nhanh chóng chuyển đổi số, đẩy nhanh ứng dụng các
công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ,
nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng trong nhiều hoạt động kinh doanh
đặc biệt là hoạt động thanh toán. Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (năm 2023) cho thấy, kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt, nhất là thanh toán điện tử trong năm
qua tiếp tục được chú trọng đầu tư, mở rộng, nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả, trong bối cảnh
giao dịch chuyển đổi số của người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội. Tính đến cuối quý 1 năm 2023,
số lượng giao dịch qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 8,55% về giá trị; số lượng giao
dịch qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 70,77% về số lượng và tăng 18,55%
về giá trị, so với cùng kỳ năm 2022. Toàn thị trường có 21.347 máy ATM và có 430.625 máy POS;
tăng tương ứng 3,88% và 26,34% so với cùng kỳ năm 2022. Số lượng giao dịch qua POS tăng 37,57%
về số lượng và tăng 32,09% về giá trị, giao dịch qua ATM tiếp tục giảm 2,37% về số lượng và giảm
4,02% về giá trị cho thấy xu hướng dịch chuyển từ rút tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt.
Tỷ lệ người dân mở tài khoản ngân hàng đạt 74,63%, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng
53,51% về số lượng; qua internet tăng 88,11% về số lượng và 7,43% về giá trị; qua kênh điện thoại di
động tăng 65,55% về số lượng và 13,31% về giá trị; qua phương thức QR code tăng 160,71% về số
lượng và 43,84% về giá trị; tổng số tài khoản Mobile-Money được đăng ký và sử dụng là hơn 3,71 triệu
tài khoản với gần 8,88 nghìn điểm kinh doanh được thiết lập, 15,3 nghìn đơn vị chấp nhận thanh toán.
Chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng và tài chính nhờ áp dụng công nghệ thông tin vào lĩnh
vực tài chính đã kéo theo yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công việc. Thực tế đã
diễn ra trên thế giới là nếu như hệ thống ngân hàng và ngành tài chính được số hóa, khách hàng sẽ
trải nghiệm trên các nền tảng platform nhiều hơn và nếu nhân viên ngành Tài chính, cán bộ ngân
hàng không có kỹ năng sẽ bị đào thải cũng rất nhiều. Theo kết quả điều tra của Viện Nhân lực Ngân
hàng (Vietnambanker), tại Việt Nam, nguồn nhân lực có kỹ năng chuyên môn về tài chính ngân
hàng chiếm số lượng rất lớn (trên 90%) nhưng kỹ năng về công nghệ thông tin (IT) rất kém và kỹ
năng về ngoại ngữ cũng không thành thạo. Các kỹ sư công nghệ thường giỏi về IT nhưng không
có kiến thức chuyên sâu về tài chính, do vậy việc lập trình ứng dụng cho các sản phẩm, dịch vụ
Fintech sẽ gặp nhiều trở ngại. Sự phát triển nhanh chóng của Fintech đã dẫn đến việc tự đào tạo tại
các doanh nghiệp và ngân hàng để đáp ứng cho yêu cầu của Fintech chỉ đáp ứng được nhu cầu rất
nhỏ. Bên cạnh đó, thách thức về quản trị nguồn nhân lực cũng đáng chú ý khi hiện nay nhân lực
đang thiếu hụt, tỷ lệ bỏ việc của hệ thống ngân hàng khá cao.

