ĐỊNH NGHĨA MỚI VỀ NĂNG SUẤTT

(cid:131) Quản lý sản xuất là gì?

(cid:131) Định nghĩa truyền thống về năng suất

(cid:131) Các định nghĩa thích ứng

(cid:131) Một cách nhìn mới về năng suất

(cid:131) Các sản phẩm bao gồm dịch vụ

(cid:131) Bán hàng và làm thỏa mãn

(cid:131) Sự thỏa mãn của khách hàng trên phương diện sản xuất

(cid:131) Vai trò của quản lý tổng hợp

(cid:131) Giá trị tương đối của nguồn lực

(cid:131) Đo lường năng suất

Vai trò mới của quản lý sản xuất là tạo ra một thế mạnh cạnh tranh bền vững.

Vấn đề là nó được tạo ra bằng cách nào? Điểm lại vai trò truyền thống của sản xuất

sẽ là cách tốt nhất để có thể mô tả điều cần thay đổi và nguyên nhân của những

thay đổi về môi trường. Không chỉ đơn thuần là quản lý sản xuất cần thích nghi với

những thay đổi về môi trường. Những định nghĩa mà dựa vào đó môn học được hình

thành cũng cần được xem xét lại, hơn nữa còn cần chú trọng nghiên cứu kỹ hơn về

mục tiêu chiến lược của toàn doanh nghiệp. Như vậy, rõ ràng xác định được thứ tự

ưu tiên và đo lường chính xác việc vận dụng những khái niệm về năng suất là bước

khởi đầu trong việc quản lý sản xuất trong tương lai.

Quản lý sản xuất là gì?

Nhân tố then chốt của quản lý sản xuất là năng suất. Sản xuất là một bước

trong mục tiêu của công ty là tạo ra giá trị cho khách hàng - đó cũng là giá trị được

hình thành do chức năng triển khai và được đưa ra thị trường nhờ chức năng

Marketing. Sản xuất biến vật tư nguyên liệu, chi tiết và các dịch vụ thành các sản

phẩm cuối cùng. Quản lý sản xuất nhằm tối ưu hóa quá trình biến đổi đó hoặc nói

cách khác, làm tăng năng suất.

Định nghĩa truyền thống về năng suất

Năng suất theo truyền thống được định nghĩa là mối quan hệ giữa đầu vào và

đầu ra trong quá trình biến đổi (xem bảng 2.1). Quản lý sản xuất nhằm làm tăng

đầu ra với một lượng đầu vào xác định, giảm đầu vào sử dụng cho một lượng đầu ra

xác định hoặc đồng thời cả hai hướng. Tuy nhiên, khái niệm đầu ra và đầu vào rất

trừu tượng nên khó vận dụng, vì vậy, những khái niệm đó thường được diễn giải

thành một số khái niệm cụ thể hơn.

Đầu ra được hiểu là tấn thép, nghìn lít bia hay số xe hơi được làm ra. Đầu vào

là các đơn vị nguồn lực được sử dụng chủ yếu trong sản xuất và thường được chia ra

thành bốn loại:

Bảng 2.1

Định nghĩa về năng suất

hhhhĐầu ra

Năng suất = -------------

hhhhĐầu vào

hhhhKhối luợng

= -----------------

hhhhNguồn lực

Khối lượng

= -------------------------------------------------------------

------

(Lao động trực tiếp+Thiết bị +Nguyên liệu+Hệ thống)

• Lao động trực tiếp: Số lượng giờ lao động trực tiếp phân bổ cho quá trình biến đổi. • Thiết bị: Thể hiện giá trị những khoản đầu tư vào nhà xưởng, máy móc hoặc hệ thống thông tin. • Nguyên liệu: Vật tư, nguyên liệu, phụ kiện, bán thành phẩm tham gia vào quá trình biến đổi. • Hệ thống: Hệ thống giúp quản lý sản xuất hoạt động được.

Loại nguồn lực cuối cùng, bao quát một phạm vi khá rộng, gồm bảo dưỡng, qui

trình công nghệ, quản lý nhân lực sản xuất, giám sát, các hệ thống kiểm tra cũng

như các loại hoạt động của lao động gián tiếp khác, cần thiết để duy trì quá trình sản

xuất diễn ra một cách suôn sẻ.

Định nghĩa này ngày nay đang được sử dụng một cách rộng rãi. Tuy nhiên,

chương này lại đưa ra lập luận cho rằng định nghĩa này đã lỗi thời, mặc dù các tổ

chức quốc tế như Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đánh giá năng suất

của họ thông qua công cụ đo lường này. Một số đánh giá về năng suất, thậm chí còn

dựa trên những định nghĩa hẹp hơn, ví dụ như về tổng số nhân công trực tiếp. Tài

liệu có ý định chỉ ra rằng định nghĩa trên đã không còn thích hợp với quá trình quản

lý sản xuất nữa. Tuy vậy, người đọc cũng cần nhớ rằng rất nhiều kết quả so sánh

quốc tế vẫn dựa trên định nghĩa cũ này.

Các định nghĩa thích ứng

Đối với quản lý sản xuất hiện đại, việc giới hạn quan niệm về sản phẩm chỉ ở

sản lượng không tồn tại nữa. Nếu nói rằng sản xuất hàng tấn thép hay hàng nghìn lít

bia là chưa đủ. Ngày nay, khách hàng còn đòi hỏi chúng được sản xuất ra với mức độ

chất lượng nhất định, trong một phạm vi thời gian nhất định và được đưa đến những

địa điểm cụ thể. Những hãng hàng không an toàn nhất, với chi phí nguyên liệu tiết

kiệm nhất, với những dịch vụ từ bữa ăn đến những dịch vụ chiếu phim trên máy bay,

với phi hành đoàn niềm nở, phòng chờ tiện nghi và giá rẻ nhất cũng trở nên vô giá trị

nếu như chuyến bay đó cất cánh chậm 2 giờ và làm cho bạn lỡ một cuộc họp quan

trọng.

Về phương diện đầu vào cũng có những thay đổi to lớn. Bốn loại nguồn lực vẫn

còn có giá trị, tuy nhiên, tầm quan trọng tương đối của chúng có thay đổi. Các sách

giáo khoa kỹ thuật công nghiệp thường đã (và thậm chí hiện nay vẫn) giả định rằng

tăng năng suất có nghĩa là giảm số lượng nhân công trực tiếp trong quá trình sản

xuất, vì thế, các chương trình tăng năng suất lao động thường hướng đến việc thay

thế nhân công lao động trực tiếp bằng các thiết bị và hệ thống với hy vọng là giá trị

tổng thể của các nguồn lực được sử dụng sẽ giảm xuống.

Các thế hệ kỹ sư đã bị nhồi nhét điều răn thứ nhất của kỹ thuật công nghiệp:

Nhà ngươi hãy thay thế con người bằng máy móc. Và điều đó đã diễn ra. Nhân công

lao động trực tiếp đã giảm xuống. Đến năm 1990, chi phí nhân công trực tiếp đã

giảm 15% trong tổng chi phí sản xuất (xem bảng 2.2).

Trong nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt trong các ngành lắp ráp, tỷ lệ nhân

công trực tiếp trên tổng chi phí sản xuất đã giảm xuống một con số. Trong ngành lắp

ráp máy tính cá nhân, chi phí nhân công trực tiếp chỉ chiếm 1 đến 2 % tổng chi phí.

Thậm chí trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống đòi hỏi nhiều lao động như

ngành may mặc, tổng chi phí nhân công trực tiếp chỉ chiếm 6 - 7 %. Tuy thế, định

nghĩa về năng suất đã không được xét đến trong quá trình thay đổi mạnh mẽ này.

Nền sản xuất hiện đại rõ ràng là cần đến một định nghĩa mới về năng suất.

Bảng 2.2

Tỷ lệ chi phí nguồn lực sản xuất trong tổng chi phí sản xuất (1991)

Châu Âu Mỹ Nhật

Chi phí nguyên liệu 55,3 % 53,4 % 59,5 %

4,8 % 4,8 % 4,0 % Năng lượng

16,6 % 13,2 % 16,3 % Nhân công trực tiếp

23,4 % 28,5 % 20,5 % Thiết bị và chi phí quản lý

Nguồn: J.G Miller, A De Mayer và J. Nakane, Global Benchmarking in

Manufacturing. Homewood, IL.: Business One Irwin, 1992.

Một cách nhìn mới về năng suất

Một định nghĩa thích hợp hơn về năng suất sẽ hướng sự tập trung từ máy móc

sang một biến số quan trọng hơn nhiều: Đó là khách hàng (xem bảng 2.3). Mục đích

của quá trình sản xuất là tạo ra những giá trị cho khách hàng, do đó, yếu tố này cần

phải được xem xét trong định nghĩa về năng suất. Định nghĩa này cũng cần thiết

phản ánh những sự phát triển khác, ví dụ như sự chuyển đổi tương đối giữa cơ cấu

các nguồn lực khác nhau và sự xuất hiện của các loại nguồn lực mới.

Tất cả những điều đó đưa đến một định nghĩa sau đây về sản lượng đầu ra:

Sản lượng đầu ra là các sản phẩm và/hoặc dịch vụ làm thỏa mãn khách hàng. Và

đầu vào sẽ được định nghĩa và các nguồn lực được phân bổ một cách khôn ngoan.

Các sản phẩm bao gồm dịch vụ

Định nghĩa đầu ra nêu trên đưa ra một cách rõ ràng những thách thức đối với

các nhà quản lý sản xuất. Mọi từ trong đó đều rất quan trọng. Sản phẩm và/hoặc

dịch vụ là những nhận thức mà chỉ một khái niệm sản phẩm thôi không đủ, chúng

chỉ là một phần của khái niệm trọn gói, bao gồm vai trò của dịch vụ, mà vai trò này

ngày càng tăng lên.

Không ai lại chỉ bán có sản phẩm không thôi. Các công ty máy tính bán các giải

pháp mà công ty thiết bị Digital gọi là “xí nghiệp tổ hợp”. Volvo không bao giờ bán

bất kỳ cái gì tương tự như xe hơi, nó bán “phương tiện đi lại an toàn với giá bán phải

chăng”.

Bảng 2.3.

Năng suất theo cách nhìn mới

hhhhSản phẩm và dịch vụ thỏa mãn khách hàng

Năng suất = -----------------------------------------------------------------

“cách nhìn mới” hhhhCác nguồn lực phân bổ một cách khôn ngoan

Định nghĩa này giải thích việc mua sắm gần đây của một công ty bảo hiểm lớn.

Cách nhìn nhận mới cho phép người bán đưa ra một sản phẩm trọn gói cho khách

hàng của mình. Nó bao gồm xe hơi và cả dịch vụ đi kèm từ các dịch vụ tài chính,

dịch vụ sau bán hàng đến hợp đồng bảo hành và bảo dưỡng.

Tương tự như vậy, khách hàng không chỉ mua thuốc - đó chỉ là phần nhìn thấy

được của tảng băng phức hợp. Khách hàng mua sự đảm bảo an toàn được biểu thị

bằng các hệ thống sản xuất có độ phức tạp cao. Hệ thống đảm bảo rằng một công ty

có thể ngay lập tức lần lại mọi yếu tố để tìm ra một viên thuốc hỏng trên toàn dây

chuyền ngược lại từ quá trình sản xuất đến người cung ứng. Ví dụ này chỉ ra rằng

cùng với các dịch vụ truy tìm, chức năng sản xuất phải bao gồm các hệ thống thông

tin tại bất kỳ giai đoạn nào của quá trình sản xuất.

Bán hàng và làm thỏa mãn

Định nghĩa về năng suất nhấn mạnh một thực tế rằng một sản phẩm cần phải

thỏa mãn khách hàng. Điều đó mang nhiều ý nghĩa hơn chỉ đơn giản là bán hàng.

Bán một cái gì đó thì tương đối dễ. Một người bán hàng thạo việc hầu như có thể bán

mọi thứ. Thách thức là ở chỗ bán hàng sao cho khách hàng quay trở lại và đề nghị

bạn bán cho họ một sản phẩm khác. Đó chính là điều quá trình sản xuất cần phải sự

tập trung nỗ lực của nó.

Một sản phẩm chỉ được xem như có đóng góp vào năng suất sau khi nó đã thỏa

mãn một khách hàng. Rất nhiều khi chúng ta đo lường năng suất ngay tại cổng nhà

máy. Năng suất mà đo lường bằng các kiện hàng ngoài cổng nhà máy khuyến khích

người ta sản xuất ra nhiều kiện hàng hơn. Nhưng nó cũng có thể khuyến khích người

ta sản xuất những kiện hàng mà không ai muốn.

Một công ty máy tính lớn của Mỹ đã có khó khăn khi đưa các sản phẩm (tổ hợp

cả phần cứng và phần mềm) đến với khách hàng của nó đúng thời gian. Một trong số

những chỉ số đo lường về năng suất chủ yếu của họ, vì phân phối sản phẩm đến tay

khách hàng muộn, đã liên tục phát các tín hiệu báo động. Một nỗ lực quản lý nhằm

chỉnh đốn đã sớm giải quyết một số khúc mắc trong các kênh phân phối. Mặc dù một

số phần trong các kênh phân phối vẫn còn chưa đúng thời gian, số lượng trung bình

của các đợt phân phối bị chậm đã giảm xuống dưới mức qui định. Do đó, thậm chí có

rất nhiều đơn đặt hàng vẫn đến với công ty.

Đo lường năng suất tại cổng nhà máy là một sự tiến bộ đáng kể. Chỉ có một

vấn đề tồn tại là đối với khách hàng là một đợt phân phối sản phẩm sớm cũng làm

phiền họ như một đợt bị muộn vậy. Một số đơn đặt hàng được phân phối sớm hoặc

muộn tăng lên trong khi không bao giờ đúng hạn cả. Về phương diện sự thỏa mãn

của khách hàng, kết quả hoạt động như thế đã thực sự là một sự suy giảm.

Chỉ khi chúng ta đo lường sản lượng (và qua đó đo lường năng suất) từ quan

điểm của khách hàng thì chúng ta mới có thể tính toán được một cách thực tế.

Sự thỏa mãn của khách hàng trên phương diện sản xuất

Theo truyền thống, sản xuất đã sử dụng khái niệm sứ mạng để mô tả sự đóng

góp của nó vào giá trị khách hàng. Hoàn thành được sứ mạng chiến lược là một

trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản lý sản xuất. Tầm quan trọng của

tuyên bố sứ mạng này là ở chỗ xác định mục tiêu nào trong số các mục tiêu sản xuất

là mục tiêu ưu tiên. Mục tiêu nào được lựa chọn phản ánh chiến lược công ty. Sản

xuất có thể theo đuổi những sứ mạng khác nhau phản ánh những giá trị khác nhau

của khách hàng:

• Chất lượng

• Phân phối một cách tin cậy

• Hiệu quả chi phí

• Khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng

• Sản lượng linh hoạt

BMW, Mercedes và Lexus lựa chọn cách thức thỏa mãn khách hàng bằng cách

đưa ra một sản phẩm chất lượng cao. Trong những trường hợp khác, ví dụ như

trường hợp của quá trình sản xuất linh hoạt kịp thời khi dây chuyền phục vụ khách

hàng là một yếu tố xác định, phân phối một cách tin cậy sẽ được ưu tiên. Một số sản

phẩm, ví dụ như nhiên liệu, được mua bán đơn giản chỉ dựa trên giá cả, do đó,

nhiệm vụ chủ yếu của nhà sản xuất là làm sao tăng được hiệu quả chi phí. Các công

ty khác đặt nhiệm vụ chiến lược của mình trên việc đưa ra những số lượng đáng kể

các sản phẩm có khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng, trong khi đó, vẫn còn

những công ty, ví dụ như trong các ngành công nghiệp theo mùa, bị lệ thuộc vào đặc

điểm kinh doanh của họ, tìm cách đảm bảo một mức độ sản lượng linh hoạt.

Trong ngành sản xuất xe hơi, khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng là

một ưu tiên hàng đầu. Quyết định đầu tiên của khách hàng là mua loại xe nào.

Nhưng một khi sự lựa chọn đã được xác định, sản phẩm sẽ được đưa ra thị trường

với một tập hợp nhiều chủng loại phong phú để lựa chọn. Khi loại xe cải tiến Audi 80

được đưa ra chào bán vào mùa thu năm 1991, công ty đã đưa ra 14 kiểu xe cơ bản

với động cơ và hệ thống truyền động khác nhau. Mười bốn kiểu này có thể tổ hợp

được thành 262 mẫu xe khác nhau về màu sắc và cấu tạo bên trong. Khi bổ sung

thêm những yếu tố lựa chọn khác, từ hệ thống khóa trung tâm hay các hệ thống mở

cửa điều khiển tự động bằng điện tử đến các đặc điểm khác về bảo hiểm như túi khí

và hệ thống chống kẹt phanh, người ta có thể tạo ra được một số lượng tổ hợp các

mẫu khác nhau nhiều đến trên 5,9 triệu kiểu khác nhau. Thật khó có thể tìm thấy

được hai chiếc Audi 80 giống hệt nhau cùng chạy trên đường.

Khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng đang trở nên một hiện tượng phổ

biến và ngày càng có nhiều công ty đưa khuynh hướng này vào phương châm hành

động sản xuất của công ty. Xu thế đa dạng hóa giờ đây đang trở nên hiển nhiên ở

hầu hết mọi sản phẩm từ các thiết bị Hi - Fi đến các xe đạp địa hình. Trang thiết bị

sản xuất có thể thích hợp với mọi tổ hợp phức tạp với các cách lắp ráp khác nhau các

loại hàng hóa để phục vụ cho những khách hàng có yêu cầu về một kiểu thiết kế đặc

biệt.

Mặt khác, các nhà sản xuất bia hơi cũng quan tâm đến tính linh hoạt về sản

lượng. Người ta uống bia khi thời tiết nóng nực. Họ lại uống cacao khi thời tiết trở

lạnh. Mối liên hệ trực tiếp giữa loại hàng hóa này với nhiệt độ, kết hợp với đặc tính

vòng đời rất ngắn của sản phẩm bia hơi mang ý nghĩa là nó phải được sản xuất khi

người ta muốn tiêu dùng nó. Hầu như không thể dự trữ bia hơi với số lượng lớn. Vì

thế, một điểm ưu tiên hàng đầu của việc chuyên môn hóa vào sản xuất bia hơi là khả

năng tăng hoặc giảm thật nhanh mức sản xuất.

Lý tưởng nhất là khi các nhà sản xuất đưa ra một sản phẩm ở mức giá phải

chăng, vừa hấp dẫn lại có chất lượng cao, đáp ứng được thị hiếu đa dạng của người

tiêu dùng và với một mức sản lượng cung ứng linh hoạt. Trên thực tế, không thể đạt

được tình trạng mọi chỉ tiêu đều tối ưu. Điều kiện công nghệ không cho phép. Một số

điều khoản trong phương châm hành động quy định những mục tiêu chất lượng. Một

mức tối thiểu về chất lượng hay tính linh hoạt và một mức độ tối đa về chi phí được

quy định chỉ nhằm đảm bảo có thể chống chọi được với sự cạnh tranh mà thôi. Điều

đó có nghĩa là phương châm hành động - và cả môi trường làm tiền đề cho xác định

phương châm hành động này - phải được các cấp thực hiện chức năng sản xuất nhận

thức thật đầy đủ.

Mục tiêu của các nhà sản xuất ở châu Âu ngày nay

Cuộc khảo sát về tương lai của ngành sản xuất ở châu Âu do viện INSEAD thực

hiện trong khoảng thời gian 9 năm vừa qua ở các hãng chế tạo hàng đầu châu Âu, đã

minh họa những bản tuyên bố về phương châm hành động và những ưu tiên ngắn

hạn của các hãng sản xuất của châu Âu ngày nay.

Bảng 2 .4 cho biết những yếu tố được một công ty trung bình ở châu Âu coi là

đáng giá ưu tiên, xếp theo thứ tự tầm quan trọng. So với năm điểm được nêu lên ở

trên, bảng này trình bày chi tiết hơn nữa về mục đích tôn chỉ hoạt động do đã sử

dụng một định nghĩa chi tiết hơn. Ví dụ, chất lượng được chia thành ba khái niệm

riêng biệt:

• Giảm tỷ lệ khuyết tật (đo lường bên trong)

• Tăng độ tin cậy đối với sản phẩm (mục tiêu thị trường bên ngoài)

• Hiệu quả sản xuất cao

Bảng 2.4

Sự phát triển của ưu tiên cạnh tranh ở châu Âu (trên cùng có nghĩa là quan trọng nhất)

Xếp hạng thứ tự ưu tiên cạnh tranh hhh Xếp hạng thứ tự ưu tiên cạnh tranh

(1990) (1992)

1 - Luôn đạt hệ số sai hỏng hàng giao Luôn đạt hệ số sai hỏng hàng giao thấp

thấp

2 - Đảm bảo lời hẹn giao hàng đáng tin Bán những sản phẩm và tiện nghi hoạt

động tốt cậy

3 - Bán những sản phẩm đáng tin cậy / Đảm bởi lời hẹn giao hàng đáng tin cậy

bền

4 - Bán những sản phẩm và tiện nghi Có lợi nhuận trong một thị trường cạnh

hoạt động tốt tranh về giá cả

5 - Giao hàng nhanh Giao hàng nhanh

Nhanh chóng đưa được sản phẩm mới 6 - Thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo

yêu cầu của khách hàng ra thị trường

7 - Có lợi nhuận trong một thị trường Bán những sản phẩm và tiện nghi hoạt

cạnh tranh về giá cả động tốt

8 - Nhanh chóng đưa được sản phẩm Thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu

mới cầu của khách hàng

ra thị trường

9 - Cung cấp các dịch vụ sau bán hàng Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau bán

một cách có hiệu quả hàng một cách có kết quả

10 - Có được một phạm vi rộng mẫu Cung cấp các dịch vụ sau bán hàng

mã hàng hóa một cách có kết quả

11 - Dễ thay đổi mức sản lượng hàng Có được một phạm vi rộng mẫu mã

hóa

12 - Dễ thay đổi cơ cấu sản lượng Dễ thay đổi cơ cấu sản lượng

13 - Sản phẩm dễ vận hành Thay đổi thiết kế nhanh

14 -Thay đổi thiết kế nhanh Dễ thay đổi mức sản lượng

Có mạng lưới phân phối rộng 15 -

Nguồn: Kết quả điều tra về tương lai ngành chế tạo ở châu Âu, 1990 và 1992

Vào những năm 1990, ba khái niệm này về chất lượng cùng với việc phân phối

sản phẩm một cách đáng tin cậy đã được đánh giá là bốn điểm ưu tiên hàng đầu. Các

cuộc tranh luận với các nhà quản lý đã dẫn đến một kết luận là các hãng sản xuất

trung bình ở châu Âu, trong khi theo đuổi các mục tiêu này, đã hình thành được khái

niệm quản lý chất lượng đồng bộ cho mọi khía cạnh của một bản tuyên bố về phương

châm hành động cơ bản cho những năm 1990.

Phân phối sản phẩm nhanh được xếp là yếu tố có thứ tự yêu tiên thứ hai ngay

sau tiêu chuẩn chất lượng trong bảng xếp hạng trên. Trong khi đó, yếu tố cạnh tranh

về giá cả với ý nghĩa làm tăng tính hiệu quả về chi phí lại chỉ dành được vị trí ưu tiên

ở mức trung bình. Các điểm ưu tiên liên quan đến khả năng đáp ứng thị hiếu khách

hàng và tính linh hoạt về sản lượng chỉ được xếp vị trí gần cuối bảng.

Có thể các hãng chế tạo trung bình ở châu Âu chỉ muốn cải thiện về giá cả, chi

phí và mức độ linh hoạt chứ không phải tập trung vào việc cạnh tranh về chất lượng

đồng bộ. Tuy nhiên, điều đó có thể chưa đủ để khẳng định. Mỗi công ty đều theo

đuổi những chiến lược rất khác nhau và thậm chí các công ty trung bình trong một

nghành nhất định để thể hiện những nét riêng biệt. Các công ty lắp ráp các sản

phẩm và dụng cụ điện tử thường chú trọng đến tầm quan trọng của việc nhanh

chóng tung ra thị trường những thiết kế sản phẩm mới (khuynh hướng đáp ứng thị

hiếu khách hàng). Các hãng sản xuất hàng tiêu dùng mau hỏng, ví dụ như thực

phẩm và đồ vệ sinh, lại chú ý nhiều đến tính cạnh tranh về giá cả (hiệu quả chi phí).

Bằng cách so sánh với kết quả của năm 1992, sự phát triển về phương châm

hành động của những hãng chế tạo ở châu Âu có thể xác định được (xem bảng 2 .4,

cột thứ hai).

Chất lượng luôn là yếu tố ưu tiên hàng đầu của các hãng chế tạo ở châu Âu.

Nhưng so sánh với năm 1990, có thể nhận thấy có những thay đổi đáng lưu ý trong

năm nhân tố được ưu tiên nhất. Các hãng chế tạo châu Âu dường như lưu tâm hơn

đến tính cấp thiết của việc cạnh tranh bằng giá cả và việc phân phối sản phẩm một

cách nhanh chóng và đáng tin cậy. Việc giới thiệu sản phẩm mới cũng dành được thứ

tự ưu tiên cao trong danh sách, ở vị trí thứ sáu năm 1992, ngay sau chất lượng,

phân phối sản phẩm và giá cả. Nhưng khả năng thay đổi nhanh chóng thiết kế sản

phẩm đã bắt đầu xuất hiện. Năm 1990, tiêu chuẩn này còn đứng ở cuối danh sách ưu

tiên, nhưng đến năm 1992 đã được đưa lên vị trí thứ 13. Các hãng sản xuất châu Âu

coi chỉ tiêu này như một điều kiện cần thiết để tung ra thị trường được nhiều sản

phẩm mới và thật nhanh chóng nhưng họ lại không muốn thay đổi sản phẩm hiện

hành một cách thường xuyên đối với sản phẩm (và mọi thay đổi về quá trình công

nghệ dẫn đến kết quả này), đồng thời cũng thể hiện một sự thừa nhận về những

thay đổi lớn về sản phẩm sẽ được đưa ra ngày càng nhanh hơn.

Mục đích của sự so sánh không phải là nhằm vào những thay đổi mới xuất hiện

mà là ở việc nhấn mạnh vào sự thay đổi dần dần trong cơ cấu các mục tiêu ưu tiên

theo thời gian.

Vai trò của quản lý tổng hợp

Phương châm hành động trong sản xuất được coi là một chức năng trong chiến

lược kinh doanh và những cương lĩnh đó thường do các cán bộ quản lý tổng hợp xây

dựng. Các công ty phải lựa chọn phương châm hành động hay tập hợp những phương

châm hành động nào chỉ ra được một cách rõ nhất những chỉ tiêu họ mong muốn

cạnh tranh. Điều đó vượt quá ranh giới của chức năng sản xuất - nó sẽ thể hiện ảnh

hưởng về lâu dài. Cho dù phương châm sản xuất có được lựa chọn như thế nào

chăng nữa, chúng đều có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ linh hoạt và sự lựa chọn

chiến lược lâu dài của công ty.

Sản xuất giống như một thùng chứa nhiên liệu. Một khi bạn đã chỉ ra được sứ

mệnh của nó thì không dễ gì có thể thay đổi lại được. Vì mật độ tài sản và nguồn

nhân lực tham gia khá cao, cần phải có thời gian để có thể thay đổi. Các công ty cần

thận trọng để tránh tình trạng tạo ra một chức năng gây trở ngại cho chiến lược của

công ty.

Nếu chiến lược của một công ty sản xuất xe hơi là bán các xe hơi đơn giản với

giá rẻ để kiếm tiền, họ cần có một dây chuyền sản xuất có thể tạo ra được hàng

triệu kiểu xe khác nhau. Công ty không muốn có một dây truyền lắp ráp cực kỳ hữu

hiệu nhưng lại không linh hoạt ở mức cần thiết để kiểm soát được quá trình cung cấp

hậu cần phức tạp nhằm đáp ứng việc phân phối nhanh chóng một kiểu xe thỏa mãn

rất tốt yêu cầu của khách hàng.

Tuy nhiên, không nên coi mật độ tài sản cao là một lý do cản trở tính linh hoạt.

Theo thời gian cấu trúc sản xuất cần được thay đổi và thích nghi với môi trường cạnh

tranh. Gần đây, các công ty đã và đang điều chỉnh lại các phương châm hoạt động,

trong đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tính hiệu quả về chi phí theo hướng ưu

tiên tập trung vào chất lượng và khả năng tiếp thị của sản phẩm. Vì vậy, ngay cả

thùng nhiên liệu khi đó cũng có thể cần được thay đổi hướng sử dụng. Sau đây là

một ví dụ về khoảng thời gian cần để một công ty lớn triển khai và thu được kết quả

từ một chương trình chất lượng vào những năm 1980.

Corning Glass, một hãng sản xuất thủy tinh đặc biệt, đã đầu tư mạnh vào một

chương trình chất lượng từ năm 1982. Hoạt động của toàn công ty trở nên linh hoạt

hơn. Những người quản lý cấp cao thể hiện thái độ ủng hộ mạnh mẽ cho chương

trình này thông qua một chương trình video được chiếu rộng khắp công ty. Quản lý

chất lượng là đề tài số một trong mọi chương nghị sự của các cuộc họp cấp giám đốc.

Trong khi công ty nhanh chóng đạt được một vài tiến bộ, họ phải cần đến 5 năm để

thành công trong việc đưa công ty thích ứng với những mối quan tâm ưu tiên mới.

Họ cần đạt được sự thay đổi sâu rộng về bản sắc văn hóa của công ty - trong đó bao

hàm phương châm sản xuất - từ chỗ nhấn mạnh đến tính hiệu quả và sức mạnh công

nghệ sang chú trọng vào chất lượng và giá trị khách hàng.

Phương châm hành động cần được lựa chọn một cách cẩn thận và được thay

đổi một cách chiến lược.

Giá trị tương đối của nguồn lực

Việc thay đổi tầm quan trọng tương đối của bốn loại yếu tố đầu vào (lao động

trực tiếp, thiết bị, nguyên liệu và hệ thống) cần đến những thay đổi trong chương

trình nâng cao năng suất.

Tầm quan trọng ngày càng tăng của việc đầu tư vốn

Các thế hệ những người quản lý sản xuất đã được đào tạo theo quan niệm cho

rằng tăng năng suất có nghĩa là tăng năng suất của lao động trực tiếp. Ngày nay, kết

quả cho thấy là ý nghĩa của chức năng sản xuất nằm ở nơi khác. Nỗ lực tăng năng

suất giờ đây hướng trọng tâm vào việc chống lãng phí trong việc sử dụng thiết bị và

nguyên liệu.

Bỉ là một nước có mức giờ công lao động theo tuần và theo đầu người thấp

nhất thế giới. Nhưng họ cũng là một trong những nền kinh tế có năng suất cao nhất

với tỷ lệ sử dụng thiết bị rất cao. Điều đó chủ yếu lệ thuộc vào tính linh hoạt của lực

lượng lao động trực tiếp. Nó cho thấy rằng năng suất lao động cao hơn là xuất phát

từ việc có được một khối lượng lớn những đồng Franc (Bỉ) để giảm chi phí nhân lực.

Đó cũng chính là nguyên nhân giải thích tại sao công nghiệp của Bỉ lại có khả năng

giảm được chi phí đầu tư vốn của họ.

Hiện tượng này không tồn tại ở cấp vĩ mô. Các công ty nhỏ thường có tính linh

hoạt cao do lực lượng lao động dễ điều chỉnh cho phép duy trì mức độ hoạt động của

máy móc thiết bị luôn ổn định. Salmon, một công ty của Pháp chuyên sản xuất máy

bơm và phụ kiện đường cung cấp nước với 700 công nhân đã đưa vào áp dụng một

hệ thống công việc có thể tính theo tuần. Ở hầu hết bộ phận, tuần làm việc dao động

trong phạm vi 33 đến 43 giờ, tùy thuộc nhu cầu. Vì vậy, thay vì cố định thời gian

một tuần làm việc, đôi khi công nhân rất nhàn rỗi và đôi khi lại cần có sự trợ giúp

tạm thời khác, tính linh hoạt đã được thiết lập ngay trong nội bộ lực lượng lao động

của công ty. Một số người làm việc theo hệ thống hai ca, mỗi ca 6 giờ, một số khác

làm việc theo hệ thống bốn ca hoặc năm ca. Kết quả là thiết bị được tận dụng tối đa

và được sử dụng ở mức 155 giờ mỗi tuần. Thời gian còn lại không phải là thời gian

ngừng máy mà là thời gian dành cho việc bảo dưỡng.

Những gì đúng với thiết bị thì cũng đúng với nguyên liệu. Trong rất nhiều dây

chuyền sản xuất, nguyên liệu và cấu kiện chiếm tới 80% chi phí sản xuất. Việc giảm

lãng phí bằng cách nâng cao chất lượng và cải thiện hệ thống kiểm soát bằng thống

kê có thể có một ảnh hưởng đáng kể đối với năng suất dây chuyền. Theo kết quả

khảo sát của McKinsey and Co. năm 1989, các giám đốc điều hành của 230 công ty

châu Âu hàng đầu đã cho rằng tổng số doanh thu của họ có thể tăng lên trung bình

17% và chi phí khả biến có thể giảm xuống 35% nếu hệ thống quản lý chất lượng

đồng bộ được triển khai thực sự.

Nguồn lực mới: thông tin

Không ai có thể phủ nhận việc thông tin đóng vai trò quan trọng trong quản lý

sản xuất. Thông tin thị trường luôn giúp cho việc xác định năng lực sản xuất và điều

hành việc thực hiện các kế hoạch. Số liệu về qui trình công nghệ có thể góp phần

giúp cải thiện việc tổ chức quá trình sản xuất. Tuy nhiên, xu thế hiện nay đã thể hiện

một sự thay đổi rõ rệt, trong đó, thông tin được coi là một nguồn lực riêng biệt.

Để đáp ứng kịp thời với những thay đổi về điều kiện hoạt động của thị trường

và để đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của khách hàng, quá trình sản xuất đã đưa

yếu tố thông tin vào tận từng phân xưởng. Trong một thế giới gồm các hệ thống

cung ứng linh hoạt, kịp thời, các bộ lọc chắn giữa người sản xuất và người tiêu dùng

không thể tồn tại được nữa. Những bộ phận chào hàng, những người nghiên cứu thị

trường, những người lập kế hoạch thị trường, những người lập kế hoạch sản xuất có

vai trò rất quan trọng nhưng cũng chính họ thường hay làm méo mó thông tin giữa

người sử dụng và người sản xuất. Mối quan hệ cơ bản này cần được bảo vệ một cách

thận trọng để tránh những sai lệch có thể phát sinh từ những khâu trung gian khác.

Thông tin cũng được tổng hợp trực tiếp từ quá trình sản xuất. Các số liệu về

công nghệ, thị trường, người cung ứng và môi trường đã có những đóng góp vào các

quyết định chính sách có tính cạnh tranh. Thông tin đã trở nên quan trọng hơn,

không còn là yếu tố hỗ trợ sản xuất đơn thuần. Nó đã trở thành một nguồn lực đầy

đủ ý nghĩa của khái niệm này. Cắt bỏ việc cung cấp thông tin sẽ làm nhiều doanh

nghiệp rơi vào tình trạng chuyệch choạc, mất phương hướng.

Các hãng sản xuất thời trang hay các mạng lưới phân phối kiểu như hãng

Marks & Spencer của Anh hiểu rất rõ rằng mọi sự gián đoạn về thông tin đều có

nghĩa là khó khăn sẽ nảy sinh đối với việc sản xuất. Lĩnh vực này thường phải tổ

chức xây dựng hai bộ sưu tập mẫu thời trang hàng năm nhưng giờ đây, họ đã phải

cho ra mắt ít nhất bảy bộ sưu tập. Các bộ mùa hè và mùa đông đã được mở rộng

thành bốn bộ theo từng mùa, thêm một bộ cho lễ Giáng sinh, hai bộ cho thể thao,

một bộ cho trời nắng, một bộ cho mùa tuyết. Như vậy, công ty như kiểu Marks &

Spencer chỉ có 35 ngày để đánh giá, thiết kế, sản xuất và tung ra thị trường cho mỗi

bộ sưu tập thời trang. Điều đó có nghĩa là nếu họ chậm trễ một ngày trong việc đáp

ứng với những khuynh hướng mốt mới nhất, họ sẽ dễ dàng mất đi lợi thế cạnh tranh

của mình. Tính kịp thời về thời gian trong ngành công nghiệp này là yếu tố quyết

định. Và tất cả những điều đó tùy thuộc vào các nguồn thông tin thường xuyên và

được cập nhật từng giây phút.

Thông tin sử dụng được xem như một nguồn lực tự nhiên. Vì không cần đến

một khoản chi phí nào cho nó, dường như đang có một thứ gì đó đang tự do “chảy”

xung quanh chúng ta. Tuy nhiên, một khi thông tin đã trở thành một nguồn lực sản

xuất, nó cần được nhìn nhận theo một cách thức khác đi. Giống như mọi nguồn lực

khác, nhân lực chẳng hạn, họ được lựa chọn, đào tạo và đề bạt, nguồn thông tin phải

được quản lý chặt chẽ. Rất nhiều câu hỏi cần có những câu trả lời chính xác, ví dụ

như:

• Thông tin cho sản xuất được thu thập bằng cách nào và mức độ thường xuyên ra sao?

• Nó được lưu trữ như thế nào?

• Nó được hoàn thiện như thế nào?

• Các công ty học tập được gì từ những thông tin hiện nay?

• Thông tin được xây dựng để mô tả quá trình, phản ứng của thị trường,

màng lưới những người cung ứng và những hiểu biết về tình trạng cạnh tranh

cơ bản khác như thế nào?

Các nguồn lực sản xuất không chỉ bao gồm yếu tố nhân lực. Mọi đầu vào cần

được đánh giá và được tính vào trong quá trình sản xuất và trong công tác quản lý.

Những người cung ứng là những nguồn lực của công ty

Những người cung ứng cũng có thể có ảnh hưởng làm thay đổi quan điểm của

chúng ta về nguồn lực. Trước đây, các định nghĩa về năng suất chỉ tính đến những

nguồn lực do công ty sở hữu và kiểm soát. Các công ty đánh giá năng suất của lao

động trực tiếp, của thiết bị hoặc của việc sử dụng nguyên vật liệu. Nhưng như vậy,

sẽ khó tối ưu hóa được toàn bộ quá trình.

Các nhà máy không hoạt động trong môi trường chân không. Chúng được tập

hợp bởi những chuỗi giá trị tạo nên giá trị sử dụng cuối cùng. Để tạo ra giá trị này

một cách có kết quả nhất, các công ty không chỉ cần thúc đẩy năng suất của các cơ

sở chính của mình mà còn cần góp phần vào việc tạo ra năng suất cho toàn bộ chuỗi

giá trị. Điều đó có nghĩa là cần xây dựng mối quan hệ hợp tác với những người cung

ứng và những người phân phối sản phẩm. Những hoạt động đầu tư vào quá trình

công nghệ và cải tiến việc sử dụng nguyên vật liệu cần được thực hiện trong mối liên

hệ với những đối tác này.

Sản xuất một cuốn sách chẳng hạn, gồm 15% chi phí sản xuất, 35% chi phí

vật tư biên tập và quyền tác giả, 50% cho chi phí phát hành. Chi phí sản xuất bao

gồm giấy, mực in, ... (50 %), đóng (26 %) và in (19 %). Tăng năng suất bằng cách

tập trung vào việc giảm 3% chi phí in sẽ không mang lại kết quả đáng kể. Năng suất

chỉ có thể được tạo nên trên toàn bộ chuỗi bao gồm tác giả, biên tập, nhà in và người

cung ứng vật tư in ... kết hợp lại để tạo ra một giá trị khách hàng cao hơn.

Đo lường năng suất

Những thay đổi về định nghĩa sản xuất đòi hỏi phải có những thay đổi về cách

thức đo lường năng suất. Hệ thống được sử dụng để giám sát năng suất phải đáp

ứng được tất cả những biến cố mô tả trên đây: phương châm sản xuất, hình thức các

nguồn lực được sử dụng và tỷ trọng tương đối của chúng.

Điều này dễ hơn người ta tưởng nhiều. Mỗi điều nêu ra trong phương châm đều

phải chứa đựng một đại lượng đo lường kết quả thực hiện. Phương châm về chất

lượng và hiệu quả chi phí đã mang nghĩa hết sức rõ ràng. Phân phối sản phẩm một

cách tin cậy có thể đo được bằng cách đánh dấu những lần phân phối đúng thời hạn,

không đúng thời hạn (khi nút bấm bật không làm việc) và số lần đơn hàng bị lỡ...

Tính linh hoạt có thể đo lường một cách gần đúng bằng độ dài khoảng thời gian

chuẩn bị máy móc, tốc độ khởi động, khả năng giải quyết những thay đổi kỹ thuật

của đơn đặt hàng,... Vấn đề không chỉ ở chỗ xác định đúng những đại lượng đo lường

mà còn là ở chỗ tổng hợp chúng vào trong hệ thống kế toán và kiểm soát hiện hành.

Định nghĩa theo cách nhìn mới về năng suất đòi hỏi phải thay đổi ba yếu tố sau

trong hệ thống kiểm tra:

• Khả năng xác định và tổng hợp những đại lượng đo lường hiệu quả phản ánh phương châm sản xuất;

• Cơ chế phân phối nguồn lực liên quan đến những thay đổi tầm quan

trọng trong tương đối của các nguồn lực khác nhau; và

• Tỷ lệ về sự thay đổi của các đại lượng so với các mục tiêu cố định.

Hai yêu cầu đầu tiên có thể giải quyết một phần thông qua hệ thống kiểm tra

hiện đại dựa trên những tính toán chi phí theo hoạt động, đã được trao đổi trong

Chương 10.

Yêu cầu thứ ba là một thách thức. Lấy ví dụ về một trường hợp sản xuất mạch

analog. Hình 2.1 cho thấy kết quả phân phối sản phẩm mạch analog đúng hạn của 9

cơ sở sản xuất. So sánh tương đối với một chỉ tiêu cụ thể, cơ sở D dường như là cơ

sở hoạt động tốt nhất. Nó đạt được những mục tiêu đề ra và hạn chế được những

biến động xung quanh nó. Tuy nhiên, nếu tính đến yếu tố năng động thì cơ sở C hoạt

động tốt nhất. Nó là cơ sở giảm nhanh nhất số lượng những lần phân phối sản phẩm

chậm chễ (50%).

Nếu công ty hướng đến những mục tiêu năng suất mới của mình, quan điểm

động về kết quả hoạt động này sẽ trở thành một yếu tố then chốt.

Hình 2.1

Số liệu hàng tháng về kết quả phục vụ khách hàng đúng hẹn của sản phẩm mạch analog (tháng tám 1997 - tháng bảy 1988)

Kết luận

Một cách nhìn mới về năng suất

Các điều kiện thị trường ngày nay đang ngày càng chú trọng đến khách hàng

và điều đó dẫn đến một định nghĩa mới:

• Sản lượng = sản phẩm và dịch vụ thỏa mãn khách hàng.

• Đầu vào = các nguồn lực được khai thác một cách khôn ngoan.

• Sản phẩm = Sản phẩm + Dịch vụ

Không nên đo lường năng suất theo mức độ hoạt động của các nhân tố nội bộ,

chúng cần được đánh giá dựa trên sự thỏa mãn của khách hàng.

Bản tuyên bố phương châm sản xuất

Bản tuyên bố về phương châm sản xuất cần chú trọng vào những điểm ưu tiên

trong sản xuất để hỗ trợ cho chiến lược của công ty (ví dụ chất lượng, phân phối sản

phẩm một cách tin cậy, giá cả, khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng, tính linh

hoạt về sản lượng). Bản tuyên bố về phương châm sản xuất cần được chọn lựa một

cách cẩn thận vì chúng rất chậm thay đổi.

Giá trị tương đối của các nguồn lực

Tỷ trọng tương đối của các nguồn lực đang thay đổi đòi hỏi các chương trình

năng suất phải kịp thích ứng. Cần xác định tỷ trọng tương đối của các nguồn lực sản

xuất của công ty.

Đo lường năng suất

Định nghĩa theo cách nhìn mới về năng suất phản ánh ba xu thế thay đổi trong

hệ thống đo lường:

• Xác định và tổng hợp các thông số đo lường để phản ánh phương châm sản xuất;

• Thiết lập quá trình phân bổ trong đó quan tâm đến tầm quan trọng

tương đối của các nguồn lực sản xuất; và

• Thiết lập các đại lượng đo lường những thay đổi so với các mục tiêu cố

định đã đề ra.