Doanh nghiệp Việt và câu chuyện tỉ g
Có kẻ khóc, người cười trong câu chuyện tỉ giá tăng,
nhưng trên hết ai nấy đều chờ đợi Chính phủ sẽ có
một giải pháp “lưỡng toàn kỳ mỹ” cho vấn đề tỉ giá.
Trong lúc đó, tất cả những gì doanh nghiệp có thể
làm là vận dụng toàn bộ sự linh hoạt của mình để
ứng phó với bài toán sản xuất và bán hàng hằng
ngày.
Câu chuyn tỉ giá tăng sẽ có lợi cho các doanh nghiệp xuất
khẩu dường như không hoàn toàn đúng trong lúc này, khi
nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào nguyên
liệu nhập khẩu. Vì vậy, ông Dương Quốc Nam, Tổng Giám
đốc Công ty Nội thất Phố Xinh, cũng như nhiều doanh
nghiệp có hoạt động xuất khẩu, đang hy vọng sự điều chỉnh
mới về tỉ giá để có thể giúp cân bằng chuyện nhập, xuất.
Tỉ giá tăng: Rủi ro hay cơ hội?
Phố Xinh có khoảng 700 công nhân với 3 nhà máy lớn và
10 cửa hàng trưng bày trong nước. Khoảng 40% doanh thu
của công tyy đến từ xuất khẩu, trong khi phần lớn
nguyên vật liệu như gỗ, da, kính, sắt phục vụ đều phải nhập
khẩu. Gần một năm qua có thể xem là không thuận lợi cho
công ty này trước việc đồng nội tệ giảm giá.
Trước tiên, Phố Xinh phải đối mặt với chuyện giá nhập
khẩu nguyên liệu tăng, trong khi giá xuất khẩu khó mà tăng
được, do hợp đồng đã được ký từ trước. Khó khăn còn đến
từ sức ép cạnh tranh với hàng Trung Quốc trên thị trường
thế giới. Đó là chưa kể đến việc chi phí sản xuất và nhân
lực cũng tăng cao. Phố Xinh buộc phải tăng hơn 60% lương
và ph cấp cho người lao động trong hơn một năm qua để
có thể giữ chân nhân viên khi các đơn hàng xuất khẩu buộc
phải hoàn thành đúng hạn.
Trong lúc chờ một tín hiệu mới về tỉ giá, ông Nam, Phố
Xinh, phải xoay xở bằng cách tiếp tục tích lũy ngoại tệ đ
thanh toán các đơn hàng nhập khẩu nguyên liệu, giữ giá
xuất khẩu nhưng tăng thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm để
giữ thế cạnh tranh với hàng Trung Quc. Và kết quả là ông
Nam có thể sẽ phải chấp nhận mức lợi nhuận thấp hơn
mong đợi.
Câu chuyn của May Nhà Bè cũng không khác mấy so với
Phố Xinh. Cùng với sự khan hiếm nguyên liệu bông trên
thế giới do tác động của thời tiết, sự giảm giá của VND
càng khiến cho bài toán giá nhập khẩu nguyên liệu của các
doanh nghiệp may trở nên khó khăn hơn. Và giống như Phố
Xinh, May Nhà Bè phải tăng thêm 15% chi phí lương do
tác động trượt giá đồng tiền.
Tuy nhiên, trong khi Ph Xinh chấp nhận lợi nhun thấp thì
ông Phạm Phú Cường, Tổng Giám đốc Công ty May Nhà
Bè, lại cố gắng đàm phán với các bạn hàng xuất khẩu để
tăng thêm phí gia công. Nhưng việc này không hề dễ dàng.
Nhà Bè, cũng như nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam,
chyếu vẫn làm gia công. Và ưu thế trong đàm phán của
các doanh nghiệp gia công thường không nhiều. Phải chăng
vì vậy mà sau nhiều nỗ lực đàm phán, ông Cường chỉ đạt
được thỏa thuận tăng phí gia công khoảng 15%, trong khi
ông dự tính ít nhất là 20% và mong đợi mc 40%.
Tiếp đó, ông Cường còn nghĩ ra thêm nhiều cách khác. Ông
cắt giảm chi phí năng lượng (giảm nửa tiếng đồng hồ mỗi
ngày trên tng số giờ hành chính để tiết kiệm điện năng,
trong khi sản lượng vẫn đảm bảo không thay đổi), kiểm
soát quy trình lao động chặt chẽ hơn. Kết quả là sau mt
năm thực hiện, May Nhà Bè đã tiết kiệm được 10 tỉ đồng.
Rõ ràng, khả năng ứng phó của Phố Xinh và May Nhà Bè
chỉ có thể tập trung ở khâu đầu vào và sản xuất, rất khó đ
có thể “chuyển giao” hệ quả của việc đồng tiền giảm g
lên giá bán. Bởi đối với doanh nghiệp trong những ngành
có mức cạnh tranh cao, thị phần nhỏ, sản phẩm thay thế
trên thị trường nhiều, việc “chuyển giao” chi phí sang
người tiêu dùng bằng cách tăng giá bán là điều không dễ
dàng.
Trong khi các doanh nghip xuất khẩu như Phố Xinh hay
May Nhà Bè có nguồn thu ngoại tệ phần nào giúp cân bằng
thiệt hại thì các doanh nghiệp chủ yếu bán hàng trong nước
nhưng phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu còn khó khăn
hơn. Và nếu họ không thể chống chọi thành công với bài
toán chi phí do tỉ giá tăng, thị trường tiêu dùng có thể sẽ b
xáo trộn.
Có thể lấy thêm trường hợp của Vinamilk làm ví d.
Vinamilk hiện chiếm gần 75% thị trường sữa cả nước,
trong lúc hơn 60% nguyên liệu sữa để chế biến thì phải
nhập khẩu, chủ yếu từ New Zealand và Úc. Bắt đầu từ
tháng 8.2010, khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỉ giá
liên ngân hàng VND/USD tăng thêm 2,1% (từ 18.544
VND/USD lên 18.932), chi phí đầu vào ca doanh nghiệp
này cũng tăng theo.
Để bù đắp chi phí, Vinamilk đã tăng giá khoảng 6% trên
mt số sản phẩm (các công ty sữa khác có mức tăng xấp xỉ
10%). Sữa Việt Nam, vì vậy, luôn bị xem là quá đắt so với
thế giới. Bài toán tỉ giá đã buộc Vinamilk phải tính tới một
giải pháp căn cơ hơn là chủ động nguồn nguyên vật liệu,
trong đó có việc tăng cường nhập khẩu bò sa thời gian
qua.
Tỉ giá tăng còn là nỗi nhức nhối của hàng loạt doanh
nghiệp có khoản vay bằng ngoại tệ, đặc biệt là USD, kể cả
trong ngắn hạn. Theo lý giải của ông Trần Quốc Mạnh,
Giám đốc Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mi Sài Gòn
(Sadaco), trước đây, khi lãi vay ngân hàng bằng VND tăng
cao, các doanh nghiệp đã đổ xô sang vay USD. Sắp tới đây,
khi các khoản vay đến hạn thanh toán, áp lực phải mua