
Tiếp tục đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội (1991-
1995)
1 . Đại hội lấn thứ VII - Đại hội tiếp tục công cuộc đổi mới Trong quá trình thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI, những diễn biến quốc tế phức tạp đã tác động xấu đến
tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta.
1 . Đại hội lấn thứ VII - Đại hội tiếp tục công cuộc đổi mới
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, những diễn biến quốc t
ế
phức tạp đã tác động xấu đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước
ta. Nhưng
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn,
kiên trì tìm tòi,
khai phá con đường đổi mới tuy chưa có một khuôn mẫu cho trước, từng bước đ
ưa
đường lối của Đại hội VI đi vào cuộc sống. Tuy tình hình cách mạng còn nhi
ều
khó khăn, song với kết quả đạt được trong bước đầu đổi mới đã có th
ể xác nhận
khả năng tự đổi mới của nhân dân ta là hiện thực.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến 27-6-
1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại h
ội VI, đề ra
chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu ưu điểm đã đ
ạt
được; khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong bước đầu đ
ổi mới ngăn
ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó, đi
ều chỉnh, bổ sung, phát triển
đường lối đối mới (được đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa s
ự nghiệp đổi mới
của đất nước tiến lên.
Ngoài việc quyết định những công việc cách mạng trong nhiệm kì, Đại h
ội VII
của Đảng còn quyết định một số vấn đề về chiến lược lâu dài. Đó là vi
ệc thông
qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội v
à
"Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000". Đại hội đã b
ầu
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) gồm 146 ủy viên, B
ộ Chính trị
BCHTƯ gồm 13 ủy viên. Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư của Đảng.
Bước vào nhiệm ki Đại hội VII của Đảng, vào thập niên cuối cùng của th
ế kỉ
XX đã có nhiều biến động to lớn, tác động sâu sắc đến tiến trình lịch sử lo
ài
người. Bối cảnh quốc tế và nước ta có những thay đổi lớn, tác động đến quá tr
ình

đổi mới của ta, bắt đầu từ Đại hội VI và tiếp tục sau Đại hội VII của Đảng.
Tình hình quốc tế. Về chính trị, sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ ngh
ĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch tăng cường việc th
ực hiện âm
mưu "diễn biến hòa bình"; kích động việc thực hiện đa nguyên chính tr
ị, đa đảng,
nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, truyền bá tư tư
ởng văn hóa đồi trụy,
độc hại; đưa lực lượng gián điệp, biệt kích vào nư
ớc ta nhằm cấu kết với bọn phản
động và các phần tử xấu trong nước, tăng cường hoạt động nhằm lật đổ chế độ...
Về kinh tế, những thay đổi ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra cho chúng
ta
nhiều đảo lộn lớn và đột ngột về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, về nhi
ều
chương trình hợp tác kinh tế và nhiều hợp đồng về lao động. Trong th
ời gian ngắn,
nước ta phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trư
ờng
truyền thống Bang thị trường mới; chịu những tác động lớn về biến động cung
cầu và giá cả của thị trường thế giới. Nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đ
ãi
về giá chấm dứt, nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng lên, trong khi một số nư
ớc
tiếp tục chính sách bao vây kinh tế nước ta, gây cho ta thêm nhiều khó khăn.
Song, chúng ta cũng có những điếu kiện thuận lợi mới. Quan hệ kinh tế đ
ối
ngoại của nước ta ngày căng được mở rộng, trong đó quan hệ với một số nư
ớc
được cải thiện và từng bước bình thường hóa. Điều đó tạo thêm kh
ả năng để
chúng ta mở rộng thị trường, thu hút nguồn vốn và kĩ thuật, h
ọc hỏi kinh nghiệm
của thế giới. Đống thời, quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng, đòi h
ỏi chúng ta
phải nhanh chóng vươn lên thích ứng với những yêu cầu khắt khe về chất lư
ợng,
hiệu quả, về quy chế và luật pháp kinh doanh của thị trường thế giới.
Tình hình trong nước: Trên tất cả cặc lĩnh vực, nhất là về kinh tế - xã h
ội, vẫn
còn nhiều khó khăn (như đã trình bày ở trên), bao trùm nhất là "Đất nư
ớc ta vẫn
chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.... nhiều vấn đề kinh tế - xã h
ội nóng
bỏng chưa được giải quyết".
Nhưng chúng ta có thuận lợi cơ bản, đó là: những thành tựu bước đầu r
ất quan
trọng và những kinh nghiệm đổi mới đã thu được trong những năm trước là to l
ớn;
đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ đường l
ối đổi mới; cục diện
chính trị nước ta ổn định. Chúng ta có nhiều tiềm năng đ
ể phát triển: đội ngũ lao
động vã cán bộ khoa học - kĩ thuật cần cù, thông minh, sáng t
ạo; khả năng thâm
canh, tăng vụ và mở rộng diện tích trong nông nghiệp, phát triển nghề rừng v
à
thủy sản còn lớn; công nghiệp dầu khí, công nghiệp hàng tiêu dùng và xu
ất khẩu
có những điều kiện thuận lợi để mở rộng; vốn nhàn rỗi trong nhân dân c
òn
nhiều...
Xuất phát từ đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước nói trên, căn cứ vào m
ục
tiêu của chặng đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra t
ừ Đại hội VI),

Đại hội VII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 .năm (1991-
1995) là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã h
ội, tăng
cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ b
ản ra
khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Các mục tiêu cụ thể là:
Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xu
ất, bắt đầu
tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng
dân
số. Ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.
Bảo đảm để tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cấu thiết yếu của ngư
ời lao
động, ngăn chặn thu nhập phi pháp và bất công.
- Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương th
ức
hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức v
à cán
bộ.
- Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ thành qu
ả
cách mạng.
Đại hội VII của Đảng cũng đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-
1995) là: đầy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hi
ệu
quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và b
ắt
đầu có tích lũy từ nội bộ nến kinh tế".
Để thực hiện mục tiêu trên, phải phát huy sức mạnh của các thành phần
kinh
tế, đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và t
ừng
bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóá đ
ẩy mạnh nhịp
độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật; hình thành về cơ bản và vận h
ành tương
đối thông suốt cơ chế quản lí mới.
2. Tiến bộ và hạn chế, thời cơ và thách thức
Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1991-
1995), trên các lĩnh vực của công cuộc đổi mới, nhân dân ta đã đạt đư
ợc những
thành tựu và tiến bộ to lớn:
+ Nhịp độ phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhiều mục tiêu chủ yếu c
ủa kế
hoạch đã hoàn thành vượt mức.
Trong 5 năm, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nư
ớc

đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5%-6,6%).
Công nghiệp tăng bình quân hàng năm 18,3% (kế hoạch là 7,5%-8,5%). M
ột
số ngành có mức tăng cao: năm 1995 so với năm 1990, công nghiệp nhiên li
ệu (cả
dầu khí) gấp 3,2 lần, điện gấp 1,6 lần, vật liệu xây dựng gấp 2,7 lần, chế bi
ến thực
phẩm gấp 1,9 lần.
Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,5% (kế hoạch là 3,7%-4,5%) S
ản
lượng lương thực 5 năm này tăng 26% so với 5 năm trước, tạo điều kiện cơ b
ản để
ổn định đời sống nhân dân; phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ c
ấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Kim ngạch xuất khẩu thủy, h
ải sản năm 1995 tăng
gấp 8 lần năm 1990.
Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990, bình quân hàng
năm
tăng 12%. Giao thông vận tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa
tăng 62%.
Viễn thông phát triển nhanh; doanh thu bưu điện và doanh thu du l
ịch tăng gấp 10
lần. Thị trường hàng hóa trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ng
ày càng tăng
của xã hội vê số lượng, chất lượng và chủng loại.
Lĩnh vực tài chính, tiền tệ có tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã từng bư
ớc đẩy
lùi lạm phát và chặn được nạn lạm phát cao. Lạm phát từ mức
67,1% năm 1991,
giảm xuống 17,5% năm 1992 và 12,7% năm 1995. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách đư
ợc
kiềm chế, chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi, thay bằng vay của dâ
n,
của nước ngoài.
Quy mô đầu tư phát triển toàn xã hội tăng. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã h
ội năm
1990 chiếm 15,8% tổng sản phẩm trong nước, năm 1995 là
27,4%. Trong 5 năm,
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 18 tỉ đô la (theo m
ặt bằng giá năm 1995),
trong đó phần của Nhà nước chiếm 43%, đầu tư của nhân dân chiếm trên 80%, đ
ầu
tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 27%.
Những kết quả về đầu tư phát triển đã làm tăng năng lực sản xuất
trong nông,
lâm ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Một số công trình quan tr
ọng của nền
kinh tế, nhất là giao thông, thủy lợi, dầu khí, thép, xi măng và các cơ s
ở du lịch,
dịch vụ . . . được đưa vào hoạt động.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của l
ực
lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ ch
ế thi
trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ ngh
ĩa, tiếp tục
được xây dựng. Cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đ
ầu chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng có nh
ững
thay đổi theo hướng có hiệu quả hơn. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng.

+ Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất, nhớp khẩu mở rộng, ngu
ồn vốn
đầu tư của nước ngoài tăng nhanh.
Trong 5 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ đô la (kế hoạch là 12-
15
tỉ), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hóa đáp ứng nhu c
ầu của sản
xuất và đời sống. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, đã có thêm một số mặt h
àng
chế biến và tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn, như dầu thô, gạo,
cà
phê, hải sản, may mặc...
Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỉ đô la, kể cả phần nhập khẩu của
các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng nhập khẩu vật tư thi
ết bị tăng
lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 1
00
nước và tiếp cận với nhiều thị trường mới.
Nhà nước còn mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thu
ộc các
thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu.
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm tăng nhanh, bình quân
hàng
năm là 50%. Đến cuối năm.1995, tổng số vốn đăng kí các dự án đầu tư tr
ực tiếp
của nước ngoài đạt trên 19 tỉ đô la, trong đó khoáng 1/3 đã được th
ực hiện. Tỉ
trọng đầu tư vào công nghiệp chiếm 40% tổng số vốn theo dự án (n
ếu kể cả dầu
khí thì chiếm trên 60%). Địa bàn đầu tư phân bố rộng hơn trên các vùng lãnh th
ổ.
Hình thức đầu tư chủ yếu là xí nghiệp liên doanh chiếm trên 65% t
ổng số vốn; xí
nghiệp có 100 % vốn nước ngoài chi
ếm gần 18%; hợp đồng hợp tác kinh doanh
chiếm gần 17%. Mối quan hệ hợp tác phát triển đã được khôi phục, khai thông v
à
mở rộng với nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Cơ chế thu hút nguồn
tài
trợ phát triển song phương và đa phương đã được thiết lập.
+ Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hóa và xã hội có nh
ững
chuyển biến tích cực
Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường.
Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm gi
ảm sút.
Tỉ lệ người biết chữ trong nhân dân đã nâng lên, đạt mức 90%, t
ỉ lệ trẻ em đi học
trong độ tuổi phổ cập tiểu hoc và số hoc sinh phổ thông các c
ấp học đều tăng; tỉ lệ
học sinh lưu ban, bỏ học giảm. Mạng lưới trường phổ thông mở rộng đến các x
ã,
phường, cơ sở vật chất được cải thiện. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trư
ờng
nội trú cho con em người dân tộc Hình thức trường chuyên, lớp chọn đư
ợc phát
triển ở nhiều địa phương. Nhiều trường bán công và dân l
ập ra đời, hoạt động có
hiệu quả.