
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
26
MULTIDIMENSIONAL DIALOGUES IN NOVELS ON VIETNAMESE
RURAL THEMES IN THE EARLY 21ST CENTURY
Hoang Thi Kim Oanha
Hoang Thi Thanh Binhb
aThanh Hoa University of Culture, Sports and Tourism
Email: hoangthikimoanh@dvtdt.edu.vn
bThanh Hoa University of Culture, Sports and Tourism
Email: hoangthithanhbinh@dvtdt.edu.vn
Received:
22/02/2023
Reviewed:
25/02/2023
Revised:
14/03/2023
Accepted:
24/05/2023
Released:
31/05/2023
DOI: https://doi.org/10.55988/2588-1264/115
The renovation after 1986 has changed the literary life of Vietnam in terms of artistic
thinking, views on morality, aesthetics, human life and writing style. The new reality of life
with many complex and vivid changes has created a premise for novels written on Vietnamese
rural themes in the early 21st century to increase dialogue. Characters can argue and
respond to the writer and vice versa. Then, topics on the past, present, politics, philosophy,
religion, culture, ethics... can be presented simultaneously in the same discussion, creating
multi-faceted dialogues.
Key words: Dialogue; Ovel; Rural area; Early 21st century.
1. Giới thiệu
Trong tác phẩm văn học, đối thoại là thuộc tính của bất kỳ hình thức biểu đạt, hệ thống
ký hiệu nào mà nhà văn có thể tiếp nhận, quan sát được. Đối thoại trở thành lối biểu đạt - cái
biểu đạt, thành ký hiệu để nhà văn thể hiện cái được biểu đạt bên trong. Nhưng cũng từ đó,
bản thân đối thoại cũng trở thành một tín hiệu, một “cái được biểu đạt” mang ý nghĩa về tính
đa thanh, bản chất giao tiếp của đời sống. Việc tăng cường tính đối thoại bằng gia tăng sự
luân phiên điểm nhìn tự sự, kiến tạo diễn ngôn đối thoại tạo nên tính đa thanh cho tiểu thuyết
viết về nông thôn đầu thế kỷ XXI. Đó không chỉ là đối thoại giữa các nhân vật, giữa nhân vật
với nhà văn, mà còn là đối thoại giữa nhân vật, nhà văn với bạn đọc. Nhờ vậy, các nhà văn đã
dễ dàng lôi cuốn người đọc tham gia vào quá trình tranh biện, luận giải hiện thực. Tác giả
không còn ở vị trí lấn lướt người đọc, “ép” người đọc theo khuôn hình câu chuyện được định
sẵn, mà dành một khoảng trống rộng rãi cho người đọc liên tưởng, lựa chọn và tự xác định
một thái độ phù hợp trước cuộc sống. Sự cố gắng này chứng tỏ tiểu thuyết viết về đề tài nông
thôn đầu thế kỷ XXI đã bắt kịp xu thế phát triển của văn xuôi đương đại, khẳng định vị thế

VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
27
của tiểu thuyết về đề tài nông thôn trong dòng chảy chung của văn học dân tộc. Bài viết
nghiên cứu về những đối thoại đa chiều trong tiểu thuyết về đề tài nông thôn đầu thế kỷ XXI
cho thấy: qua những tình huống đối thoại, tiếng nói va chạm nhau giữa các nhân vật, giữa
nhân vật với cuộc đời, các hệ tư tưởng, hệ giá trị, các mẫu hình, và với chính mình đã đưa
người đọc vào tình huống phải suy nghiệm, phán xét một cách công tâm nhất, khách quan
nhất về nông thôn và người nông dân Việt Nam.
2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Đối thoại - giao tiếp được coi là nền tảng cơ bản của quan hệ người. Mọi vật tồn tại
trong thế giới đều có nguyên do của nó. Vậy thì sự tồn tại đó đã hàm ẩn một nguyên lý đối
thoại. Nói khác đi, tất cả mọi vật trong vũ trụ đều liên lạc với nhau theo một cách nào đó.
Trong văn học nghệ thuật, đối thoại được hiểu không chỉ là sự đối đáp giữa hai chủ thể (cả
với chính mình - một hình thức đối thoại đặc biệt, người nói tự “nói” với chính mình), mà còn
có sự va đập giữa các tiếng nói, sự xung đột, tranh biện giữa ý thức tác giả và nhân vật (thông
qua hình tượng người kể chuyện), giữa người kể chuyện và người nghe chuyện, giữa nhà văn
và bạn đọc… Ở cấp độ ngoài văn bản, liên văn bản, đó còn là những đối thoại giữa các thời
đại, các hệ giá trị, quá khứ và hiện tại, tư tưởng, lịch sử và văn hóa… M.Bakhtin đã nhận xét
rất đích đáng rằng: “nhận thức bắt đầu ở đâu, đối thoại bắt đầu ở đó” [2; 34]. Ông cũng nhận
ra mẫu mực của đối thoại với tính đa thanh/phức điệu. Nội hàm thuật ngữ được nhà nghiên
cứu giải thích “phức điệu là đa thanh ở độ phát triển cao nhất. Tính đa thanh trong văn
chương là biểu hiện của nguyên tắc đối thoại” [1; 11], là “tính nhiều tiếng nói và nhiều ý thức
độc lập không hòa đồng với nhau” [1; 234] kêu gọi sự hồi đáp, tranh biện. Từ đây, M.Bakhtin
nhận định: tiểu thuyết đa thanh luôn “mang tính đối thoại”. Đối với tiểu thuyết về đề tài nông
thôn đầu thế kỷ XXI, đối thoại trở thành động lực của lối viết, thành động cơ tư duy nghệ
thuật của nhà văn.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu vấn đề, tác giả bài viết đã sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên
cứu như: (1) Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội bởi nông thôn trong văn học Việt Nam
bị quy định bởi các yếu tố lịch sử, xã hội. Từ đó, chỉ ra những căn nguyên dẫn đến những đối
thoại đa chiều trong các tác phẩm; (2) Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, xã
hội học, sinh thái học). Việc nghiên cứu tiểu thuyết về đề tài nông thôn đầu thế kỷ XXI nhất
thiết phải xem xét, tiếp cận từ góc độ văn hóa học, sinh thái/phê bình sinh thái và xã hội học.
Hơn nữa, giữa văn hóa học và văn học, giữa xã hội học và văn học luôn có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Lựa chọn nghiên cứu trên các bình diện này giúp chúng tôi phân tích, lý giải
những đối thoại đa chiều trong các tác phẩm một cách khách quan, trung thực nhất. Ngoài ra,
tác giả còn sử dụng các thao tác phân tích tác phẩm văn học. Việc vận dụng thao tác này giúp
tác giả bài viết nắm bắt chiều sâu diễn biến tư tưởng, tâm lý nhân vật thông qua các lời thoại.
Từ đó khái quát thông điệp cần chuyển tải của nhà văn qua tiểu thuyết về đề tài nông thôn
Việt Nam đương đại.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Gia tăng sự luân phiên điểm nhìn tự sự như một hình thức đối thoại

VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
28
Điểm nhìn nghệ thuật có thể hiểu là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự
vật, hiện tượng trong tác phẩm. Đối với tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề
trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt
quan trọng. Điểm nhìn được coi là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu tác phẩm. Tuy nhiên,
điểm nhìn tự sự lại gắn với quan điểm, lập trường của nhân vật và người kể chuyện. Do vậy,
việc tổ chức điểm nhìn tự sự bằng cách đặt nhân vật, sự việc dưới nhiều góc nhìn (thậm chí
đối lập) sẽ tạo nên tính đa âm, đa sắc thái của tác phẩm, qua đó giúp nhà văn chuyển tải
nguyên lý đối thoại. Các tác phẩm Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông Mía (Đào
Thắng), Dưới chín tầng trời (Dương Hướng), Cuồng phong (Nguyễn Phan Hách), Thời của
thánh thần (Hoàng Minh Tường), Thần thánh và bươm bướm (Đỗ Minh Tuấn), Bí thư tỉnh ủy
(Vân Thảo), Cổng làng (Nguyễn Thanh Cải)... đều có sự gia tăng luân phiên giữa điểm nhìn
bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Nhà văn đã trao quyền phán xét cho nhân vật về người
khác và chính mình tạo nên những đối thoại hàm ẩn giữa tác giả, người kể chuyện, nhân vật
và độc giả. Từ đây, những vấn đề của quá khứ và hiện tại, những chiêm nghiệm về hiện thực
cuộc sống được soi ngắm đa diện, nhiều chiều và đa thanh hơn.
Tính đa thanh thể hiện trước hết qua đối thoại giữa hiện tại và quá khứ dưới nhãn quan
lịch sử. Có thể xem cội nguồn của tính đối thoại trong tiểu thuyết là đối thoại về tư tưởng,
quan niệm. Ở đây, nhà văn không tự thể hiện quan điểm, tiếng nói của mình, mà để cho rất
nhiều nhân vật cùng cất lời. Đó có thể là quan niệm, cái nhìn về những câu chuyện thế sự,
những quy luật thịnh suy, những khát vọng hay tham vọng, những thủ đoạn và kế sách, những
lựa chọn của con người trong guồng quay của thời thế, của lịch sử... Các tiếng nói, các quan
niệm có thể va chạm, phản biện, bổ sung hoặc soi sáng nhau tạo nên nhiều cuộc đối thoại
phong phú, hấp dẫn. Có một “thời” được nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời
nhắc đến, mỗi người xác định nó một cách, nhưng mọi người đều thừa nhận sức ép khủng
khiếp của nó đối với vận mệnh con người. Cái “thời” ấy là “thời” nào nhà văn không định
danh cụ thể. Chỉ biết nó đã tác động lên mọi mặt đời sống của người nông dân Việt Nam,
thậm chí là thay đổi vận mệnh cuộc đời họ. Trở về làng sau bao năm phiêu bạt, Mây góp cho
xã một khoản tiền lớn được hoan hô nhiệt liệt. Trong đám đông liền có lời dèm pha: “Sao bảo
có thời nhà nó cũng khốn khó lắm. Nghe nói mấy chị em nó phải đi làm gái bao” [6; 465].
Lập tức có lời biện bạch: “Cái thời ấy cả nước khốn khó đâu riêng nhà nó”. Để bào chữa cho
Trần Tăng, Tuyết cho rằng: “những lỗi lầm to lớn của ông, những trò ma mãnh của ông,
những mưu mô toan tính quyền lực của ông cũng chỉ là tai nạn của thời đại mà thôi” [6; 367].
Sức áp đảo ghê gớm của thời cuộc cũng được một người trong đám đông “tố” lên trong bữa
tiệc sau buổi gặp mặt đồng hương của làng Đoài: “… đã sinh ra trên cõi đời này chẳng thằng
nào muốn xấu, chẳng qua là thời cuộc khốn cùng nó dồn đẩy làm con người ta cứ hèn đi” [6;
467]. Cái “thời” khốn khó ấy, cái “thời cuộc” khốn cùng ấy đã được Dương Hướng đặt vào
những cuộc đối thoại giữa các nhân vật từ kẻ vô danh trong đám đông đến những người đứng
ở hàng ngũ lãnh đạo cấp cao trong bộ máy chính quyền… để thấy sự ảnh hưởng nghiêm trọng
của “thời” ấy để lại. Hình thức đối thoại thông qua sự di động điểm nhìn và luân phiên lượt
lời ở các nhân vật đã tạo nên những cuộc tranh biện về lịch sử, về số phận con người trong

VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
29
biến động của thời cuộc. Việc tác giả “ẩn mình” để các nhân vật đối thoại, tranh luận giữa quá
khứ và hiện tại đã giải phóng người đọc khỏi cái nhìn một chiều, sơ lược trong nhận diện bức
tranh thời cuộc. Nó buộc người đọc phải suy ngẫm, chiêm nghiệm để có cái nhìn khách quan
và tiệm cận hơn với lịch sử khi nhận thức, đánh giá lại quá khứ trong tương quan với hiện tại.
Trong tiểu thuyết về đề tài nông thôn Việt Nam đầu thế kỷ XXI, đối thoại lịch sử không
chỉ dừng lại ở sự nhận thức, đánh giá lại quá khứ trong tương quan với hiện tại, đó còn là
những chiêm nghiệm về hiện thực cuộc sống được thể hiện qua các cuộc trò chuyện, tranh
luận, đối thoại thế hệ, cái cũ và cái mới, không phải chỉ để nhận diện bức tranh thời cuộc mà
còn là con đường đi, sự lựa chọn đúng đắn của mỗi con người, của cả dân tộc. Ở Ma làng
(Trịnh Thanh Phong), nhà văn đặt hai cha con vào các cuộc đối thoại quyết liệt trong cách
nhận thức một hướng đi và lựa chọn cách sống, cách cống hiến cho lí tưởng và trách nhiệm
trước thời cuộc: “Bao nhiêu năm cái làng này nhếch nhác, lục đục đâu phải tội những người
như cô Ló gây ra. Cái lỗi lớn nhất là sự bất minh trong những người có quyền, có chức... giả
mù, giả lòa, cốt để giữ trọn cái danh của mình.” [8; 72]. Đó không còn là cuộc đối thoại giữa
hai cha con trong một gia đình, mà là đối thoại giữa hai thế hệ, giữa cái cũ và cái mới trong tư
duy, nhận thức và chiêm nghiệm về hiện thực, về con đường đi, về chiến lược sống của người
nông dân trong thời hiện đại. Ở Thần thánh và bươm bướm, chứng kiến đứa con quái thai của
đồng đội cũ chỉ ngủ khi được ngửi hoa bưởi tươi, trong khi cây bưởi thiêng lại đang là vật cản
trở dự án sân golf, Thao đã cay đắng thốt lên: “Người ta gắn bó với thực tại, chống chọi với
mọi thách đố để bảo vệ thực tại, siết chặt bên nhau để lôi cuốn cả cộng đồng vào bảo vệ một
thực thể quái gở và đỏng đảnh chỉ vì một tình thương. Cái tình thương sâu sắc, bền bỉ và
nhiều khi phi lí đó lại là động lực hành động chiến đấu hi sinh của cả cộng đồng người” [10;
201]. Lời của Thao chất chứa những khát vọng về danh dự và diện mạo, những dằn vặt, giằng
xé trong tâm hồn những người nông dân thời hội nhập - họ vừa muốn ủng hộ các dự án khai
thác tài nguyên để đổi đời, vừa day dứt muốn làm người tử tế với nguyên vẹn đất đai và nhân
phẩm. Trong Bí thư tỉnh ủy, có rất nhiều cuộc đối thoại giữa bí thư Kim với cấp trên về việc
tìm ra cách thức làm ăn phù hợp cho người nông dân khi mô hình hợp tác xã không còn phù
hợp: “Một tổ chức rời rạc, hình thức như vậy chỉ mang lại sự đói nghèo cho nông dân. Làm
băng hoại truyền thống tối lửa tắt đèn có nhau đã có bao đời nay. Nói thẳng ra là quyền làm
chủ mà thực chất là quyền làm người bị xâm phạm nghiêm trọng” [11; 196]. Ở đây, người đọc
không còn phân biệt được đâu là điểm nhìn của nhân vật, đâu là điểm nhìn của tác giả. Sự
luân phiên điểm nhìn tự sự đã tạo nên những đối thoại sâu sắc về lịch sử, về thời đại và hiện
thực cuộc sống.
Bằng việc gia tăng sự luân phiên điểm nhìn tự sự, các nhà văn viết về nông thôn Việt
Nam đầu thế kỷ XXI đã phản chiếu cái nhìn xuyên thời gian vào từng lời thoại cụ thể của
nhân vật. Ở đây, mối quan hệ giữa cá nhân và lịch sử chính là một phương diện giúp người
đọc tìm ra dấu ấn lịch sử trong con người. Con người làm ra lịch sử nhưng cũng có thể là nạn
nhân của lịch sử, bị lịch sử quy định. Lịch sử hiện hữu trong mỗi con người và số phận mỗi cá
nhân. Bàn về chân lý lịch sử, Lukács Gyorgy đã nhấn mạnh một cách khá thú vị rằng: sự thể

VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
30
hiện lịch sử trong nghệ thuật là “đánh thức cái tiền đề của hiện tại” [4; 59]. Đối thoại giữa quá
khứ và hiện tại vì vậy được coi là lời đối thoại siêu thời gian - một siêu đối thoại.
4.2. Kiến tạo diễn ngôn đối thoại của nhân vật
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật, nhưng khi các nhân vật đã tồn tại và hoạt động trong một
cấu trúc nghệ thuật thì chúng phát triển theo một quy luật riêng và trở thành những thực thể
độc lập. Tính độc lập tạo cho mối quan hệ này khả năng giao lưu, đối thoại với nhau. Một
điểm rất dễ nhận thấy trong diễn ngôn đối thoại tạo nên tính đa thanh của tiểu thuyết về đề tài
nông thôn đầu thế kỷ XXI là sự va chạm giữa các luồng ý thức, quan niệm trong ngôn ngữ đối
thoại của các nhân vật.
4.2.1. Đối thoại giữa truyền thống và hiện đại
Đối thoại giữa truyền thống và hiện đại trong tiểu thuyết viết về nông thôn đầu thế kỷ
XXI thể hiện trước hết là luồng ý thức, quan niệm về truyền thống và hiện đại. Các tác phẩm
Ma làng, Cổng làng, Người giữ đình làng, Thần thánh và bươm bướm... là cuộc đối thoại về
sự truy tìm, luận giải những thành tố kết tinh văn hóa và bản sắc dân tộc trong tâm thế hiện
đại, hậu hiện đại; là cuộc đối thoại về cái cũ và cái mới, cái cần bảo lưu và cái cần thay đổi,
giữa bản địa và ngoại lai... Ở Cổng làng, biểu tượng cái cổng làng - nơi lưu giữ hồn quê đứng
trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn sau rất nhiều băn khoăn đã phải dỡ bỏ.
Bởi vì nếu “Cái gì cũng có tính lịch sử của nó” [3; 341]. Đến Thần thánh và bươm bướm, tác
phẩm có thể xem là một cuộc đối thoại lớn về truyền thống và hiện đại giữa các thế hệ từ
trong nội bộ mỗi gia đình ra đến ngoài xã hội. Ngay từ những trang đầu, nhà văn đã đặt ra đối
thoại thế hệ giữa “lớp trẻ” làng Bái Hạ và “lớp già” làng Bái Thượng trong việc tế lễ cây gạo.
Trong khi “lớp trẻ” yêu cầu các cụ tế thuê phải thực hiện đúng hợp đồng, phải rèn tác phong
công nghiệp văn minh, phải có đầu óc pháp luật tân tiến nếu “cứ ôm mãi cái lệ làng thì, xin lỗi
các cụ chứ, chỉ suốt đời làm cái anh Lý Toét, Xã Xệ...” [10; 12]; thì “lớp già ” lại hùng hổ
“Thanh niên bây giờ hỏng hết, chỉ biết tiền nong thuê mướn, không có nền nếp, không biết
trọng cái truyền thống” [10; 12]. Cuộc đối thoại đã hé mở phần nào xung đột trong cách nghĩ
về cái cũ và cái mới, truyền thống và hiện đại giữa các thế hệ ở nông thôn. Cuộc đối thoại
giữa hai cha con ông Cảnh và thằng Giác đã chuyển sang đối đầu nhằm loại bỏ, thậm chí hủy
diệt truyền thống qua hành động đập vỡ bát hương tổ tiên của thằng Giác. Đối thoại truyền
thống và hiện đại lên đỉnh điểm khi xảy ra xung đột giữa “đám đông” hai làng Đông Phúc và
Tây Lợi quanh việc giữ cây bưởi thiêng, ngôi đình và ngôi đềntrước dự án sân golf, bán bọ
hung và bươm bướm. Các cụ già làng Đông Phúc nhất mực giữ lấy trong khi đám thanh niên
làng Tây Lợi đã kịch liệt phản đối các cụ nhà quê bám riết vào những niềm tin chúng cho là
nhảm nhí trước cơ hội để đổi đời, được hưởng thụ. Cuối cùng, cây gạo cũng bị trốc rễ tặng
cho ông chủ Hàn Quốc thay bằng mỏ khai thác quặng; bát hương đã bị thằng Giác đập vỡ, cả
cây bưởi thiêng cũng bị “đám trẻ” làng Tây Lợi gài mìn nổ tung. Dường như có một sự đứt
gãy, đoạn tuyệt tận cùng với truyền thống. Nhà văn không để nhân vật dừng lại ở đối thoại
bằng lời nói mà đẩy thành hành động cụ thể, gợi mở những đối thoại bên ngoài tác phẩm.
Ngôn ngữ đối thoại trong Thần thánh và bươm bướm đa thanh, đa chiều, đa diện. Nó không
đơn thuần là đối thoại giữa các nhân vật, giữa nhà văn với độc giả mà còn là đối thoại giữa