Dùng chỉ số Z để ước tính Hệ số Tín Nhiệm

Chỉ Số Tín Nhiệm (Credit rating)

Credit rating – tức là định mức tín dụng hay hệ số tín nhiệm - là hệ số đánh giá

khả năng tài chính và khả năng thanh toán của một tổ chức đối với các khoản tiền

nghĩa vụ - gốc và lãi - của các các công cụ nợ mà nó phát hành. Công cụ nợ bao

gồm cả công cụ ngắn hạn như như hối phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hoặc

dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. Tổ chức phát hành có thể là chính phủ cấp

quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, hay các công ty.

Định mức tín dụng xuất hiện từ trước thế kỷ trước tại Mỹ do nhu cầu đánh giá tín

nhiệm của các doanh nghiệp ngành đường sắt. Đến năm 1914 thì công ty Moody’s

- tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm đầu tiên trên thế giới được thành lập bởi ông

John Moody dựa vào một công ty được ông thành lập trước đó vào năm 1909.

Năm 1941 tổ chức Standard and Poors được thành lập trên sự sát nhập của Poor’s

Publishing va Standard Statistics. Hiện tại trên thế giới có một số tổ chức đánh giá

hệ số tín nhiệm được quốc tế công nhận, cũng như một số dành tổ chức được quốc

gia của họ công nhận. Tuy vậy 3 tổ chức Moody’s, Standard and Poor’s và Pitch

Ratings là 3 tổ chức được công nhận, có uy tín và thị phần cao nhất trên thế giới.

Tùy theo từng tổ chức, mà phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm có khác nhau đôi

chút. Tuy vậy về cơ bản chúng khá giống nhau. Theo đó, công ty đối tương sẽ

được đánh giá từ quốc gia, môi trường, đến ngành kinh doanh mà nó đang hoạt

động. Sau đó, các thông số có tính cách định tính chẳng hạn chất lượng, kỹ năng

của ban quản lý, chiến lược marketing, chính sách quản lý…cũng sẽ được xem

xét. Kế đó, và cũng rất quan trọng là tất cả các chỉ số chính phản ánh tình hình tài

chính sẽ được đưa ra phân tích, đánh giá. Tổng hợp lại những yếu tố trên, tổ chức

đánh giá tín nhiệm sẽ xếp hạng các trái phiếu theo các mức khác nhau đã định sẵn

và ký hiệu bằng các chữ cái đầu tiên; theo bảng sau:

Các hạng Mức của Hệ Số Tín Nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn

Chỉ số Chỉ số Tín Tín Nhiệm Nhiệm Diễn giải Phân loại

theo theo Moody’s S&P

Chất luợng cao nhất,

AAA Aaa ổn định, độ rủi ro thấp

nhất

Chất lượng cao, rủi ro

thấp, Độ rủi ro chỉ cao AA Aa hơn hạng AAA một Trái phiếu có bậc. thể đầu tư

Chất lượng khá, tuy

vậy có thể bị ảnh A A huỡng bởi tình hình

kinh tế.

BBB Baa Chất lượng trung bình,

an toàn trong thời gian

hiện tại, tuy vậy có ẩn

chứa một số yếu tố rủi

ro.

Chất lượng trung bình

thấp, có thế gặp khó

khăn trong việc trả nợ, Trái phiếu có BB Ba bị ảnh hưởng đối với độ rủi ro cao

sự thay đổi của tình

hình kinh tế.

Chất lượng thấp, rủi ro Trái phiếu

B B cao, có nguy cơ không không nên đầu

thanh toán đúng hạn tư

Rủi ro cao, chỉ có khả

CCC Caa năng trả nợ nếu tình

hình kinh tế khả quan.

Rủi ro rất cao, rất gần CC Ca phá sản,

Rủi ro rất cao, khó có

khả năng thực hiện

C C thanh toán các nghĩa vụ

nợ

Xếp hạng thấp nhất, đã

D phá sản hay hầu như sẽ

phá sản

NR NR Không đánh giá

Đối với chỉ số Moody’s, ngoài những xếp hạng cơ bản trên, hệ số 1, 2, 3 còn dùng

để chia nhỏ một xếp hạng cơ bản ra làm 3 loại, trong đó 1 là cao nhất trong hạng

đó, 2 là trung bình, 3 là thấp nhất, ví dụ: Aa1, Aa2, Aa3.

Còn đối với chỉ số S&P, + hay – được dùng để chia nhỏ xếp hạng. trong đó + là

cao nhất trong hạng đó, không dấu là trung bình, - là thấp nhất; ví dụ: AA+, AA,

AA-

Tầm quan trọng của Hệ số Tín Nhiệm trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam

Đối với các công ty, tổ chức: kết quả xếp hạng hệ số tín nhiệm có ảnh huởng rất

lớn đến sự thành công của việc phát hành trái phiếu, nhất là khi phát hành trái

phiếu ra nuớc ngoài, cũng như việc xác định lãi suất trái phiếu (hệ số tín nhiệm

càng cao thì lãi trái phiếu càng thấp và ngược lại). Thiếu sự xác định hệ số tín

nhiệm, thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty chưa thể phát triển được. Đối

với các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư tổ chức, chuyên nghiệp, ngoài việc căn cứ

vào hệ số tín nhiệm để quyết định mua trái phiếu, họ còn dùng hệ số tín nhiệm của

trái phiếu của công ty đó để làm căn cứ để quyết định có đưa cổ phiếu của công ty

đó vào danh mục đầu tư của mình hay không. Theo đó, cổ phiếu của những công

ty có trái phiếu được xếp hạng hệ số tín nhiệm thấp (từ BB hay Ba trở xuống)

thường không được lựa chọn.

Ở Việt Nam, hiện tại có 3 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tương tự nhưng vẫn

chưa được quốc tế công nhận và vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ

chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Việc mời các tổ chức đánh giá của thế giới xếp

hạng hệ số tín nhiệm của trái phiếu cũng chưa phổ biến. Cho đến hiện tại, chỉ mới

có chính phủ và hai công ty BIDV và Techcombank thực hiện. Trong khi chưa có

hệ số tín nhiệm chính thức, việc có thể tự ước tính hệ số tín nhiệm là khá cần thiết

và lý thú đối với các công ty và nhà đầu tư Việt Nam.

Dùng chỉ số Z để ước tính hệ số Tín Nhiệm

Bài trước đã giới thiệu chỉ số Z’’ được dùng cho hầu hết các ngành, các loại hình

doanh nghiệp:

Z’’ = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4

Trong đó

X1 = Tỷ số Vốn Lưu Động trên Tổng Tài Sản (Working Capitals/Total

Assets).

X2 = Tỷ số Lợi Nhuận Giữ Lại trên Tổng Tài Sản (Retain Earnings/Total

Assets)

X3 = Tỷ Số Lợi Nhuận Trước Lãi Vay và Thuế trên Tổng Tài sản

(EBIT/Total Assets)

X4 = Giá Trị Thị Trường của Vốn Chủ Sỡ Hữu trên Giá trị sổ sách của Tổng

Nợ (Market Value of Total Equity / Book values of total Liabilities),

Nếu Z’’ > 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy

cơ phá sản

Nếu 1.1 < Z’’ < 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có

nguy cơ phá sản

Nếu Z’’ <1.1 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ

phá sản cao.

Ngoài tác dụng cảnh báo dấu hiệu phá sản, Giáo Sư Esward I. Altman, tác giả của

chỉ số này đã phát mình tiếp hệ số Z’’ điều chỉnh. Chỉ số này bằng với chỉ số

Z’’+3.25 (các vùng cảnh báo phá sản vì thế cũng được tăng lên 3.25). Ông đã

nghiên cứu trên 700 công ty và tìm ra sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh

này với hệ số tín nhiệm S&P. Công thức Z’’ điều chỉnh được xác định như sau:

Z’’ = 3,25 + 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4

Sự tương đồng giữ chỉ số Z’’ điều chỉnh và xếp hạng S&P của công ty, được giáo

sư Altman viết rõ trong bài “The use of Credit scoring Models and The Important

of a Credit Culture” và đựơc trình bày trong bảng sau. Trong đó cột 3, định mức

tín nhiệm Moody’s là do người viết đưa vào theo sự tương đồng với định mức tín

nhiệm S&P.

Z’’ điều Định Mức Định Mức

chỉnh Tín Nhiệm Tín Nhiệm

S&P Moody’s

Doanh nghiệp Aaa Trái phiếu có > 8,15 AAA

thể đầu tư nằm trong

vùng an toàn, Aa1 7,60 – AA+ chưa có nguy

8,15 cơ phá sản

Aa2 7,30 – AA

7,60

Aa3 7,00 – AA-

7,30

A1 6,85 – A+

7,00

A2 6,65 – A

6,85

A3 6,40 – A-

6,65

Baa1 6,25 – BBB+

6,40

Baa2 5,85 – BBB

6,25

Baa3 5,65 – BBB- Doanh nghiệp

5,85 nằm trong

vùng cảnh Ba1 BB+ 5,25 – Trái phiếu có báo, có thể có 5,65 độ rủi ro cao nguy cơ phá

sản

Ba2 BB 4,95 –

5,25

Ba3 BB- 4,75 –

4,95

B1 Trái phiếu B+ 4,50 –

không nên 4,75

đầu tư

B2 B 4,15 –

4,50

Doanh nghiệp B3 3,75 – B-

nằm trong 4,15

vùng nguy

hiểm, nguy cơ Caa1 CCC+ 3,20 – phá sản cao. 3,75

Caa2 CCC 2,50 –

3,20

Caa3 CCC- 1,75 –

2,50

0 – 1,75 D

Sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh và hệ số tín nhiệm S&P là khá cao,

nhưng không có nghĩa là tuyệt đối. Trong bài viết của mình, giáo sư Altman cũng

trình bày một sự lệch chuẩn nằm trong khoản cho phép của hai chỉ số trên. Một

điều nữa chúng ta cần phải chú ý là chỉ số Z’’ điều chỉnh mặc dù được dùng khá

tốt ở các thị trường khác, cũng nên được nghiên cứu để điều chỉnh theo môi

trường Việt Nam. Mặc dù ghi chú hai điểm trên, theo người viết, việc tạm ước tính

hệ số tín nhiệm bằng chỉ số Z’’ là đáng tin cậy và có thể dùng được. Nó có thể

giúp giúp công ty và người đầu tư nhận định cơ bản về tình hình tài chính và khả

năng thanh toán nợ của công ty.

Lâm Minh Chánh, MBA

Tài liệu tham khảo: The Z-score Bankruptcy Model: Past, Present, and Future,

Edward I. Altman, 1977; Corporate Finance Distress and Bankruptcy, Edward I.

Altman, 1993; The use of Credit scoring Models and the Importance of a Credit

Culture, Edward I. Altman; Z scores - a guide to failure prediction, Eidleman

Gregory J., 1995; Why do firm pay for bond rating when they can get it for free,

Yingjin Gan, 2003