Factoring - cứu tinh cho
những khoản nợ khó đòi!
(Phần đầu)
Trong thời đại ngày nay, kinh doanh ngày một phát triển kéo
theo sự đa dạng cũng như mức độ phức tạp của mối quan
hệ chủ ngân hàng - người vay nợ. Không một doanh nghiệp
nào tránh khi nhng khoản nợ phát sinh, và điu này đã tr
thành một yếu tố tất nhiên trong các hoạt động kinh doanh
thường nhật của doanh nghiệp.
Các công ty có thể vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của mình, nhưng cùng lúc đó, tình
trạng nợ khó đòi đã trthành một vấn đề nhức nhối đối với nhiều
doanh nghiệp chủ nợ. Nhiều công ty đang phải đối mặt với mức
độ rủi ro tín dụng rất cao, trong đó rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là
mt trong những nhân tố cần được kim soát chặt chẽ. Không ít
trường hợp, tổn thất do các khoản nợ bị "ngâm" của các công ty
liên tục gia tăng, làm suy gim ng lực cạnh tranh, thm chí dẫn
tới nguy cơ phá sản.
Nhưng khó khăn nào cũng sẽ có lối thoát. Trong bối cảnh rắc rối
này, hoạt động mua bán nợ (factoring) trở thành vcứu tinh khi nó
có thể giải quyết được tình trng bế tắc về nợ nần, giúp công ty
chủ nợ thu hồi vốn để hoạt động. Đối với các công ty hoạt động
thường xuyên phát sinh n dài ngày, giải pháp mua, bán nợ là
không thể thiếu. Tại Mỹ và châu Âu, các công ty kinh doanh
chuyên mua bán nđược hình thành từ khá sớm và tích lũy
được nhiều kinh nghiệm trong quản lý nkhó đòi của các công
ty. Họ tạo ra một thị trường nợ rất sôi động có thể mang lại nhiều
lợi nhuận, đồng thời cung cấp nhiều giải pháp chuyên môn hoá
cho cả chủ nợ lẫn khách nợ.
Không chỉ có vậy, hoạt động mua bán nợ còn trợ giúp cho những
công ty mi thành lập khỏi e ngại khi tiếp cận với các nguồn vốn
vay phc vụ hoạt động kinh doanh ban đầu.
Vậy hoạt động mua bán nợ (factoring) là gì?
Từ “factor” bắt nguồn từ “factare” trong tiếng Latinh, có nghĩa là
“thực hiện” hay “làm”. Công cụ tài chính này xuất hiện từ thế kỷ
18 trước Công nguyên ở Babilonia dưới thời vua Hammurabi và
là một phần của những giao dịch mua bán vải vóc trên con
đường tơ lụa năm xưa. Khái niệm factoring phát triển liên tục và
ngày nay đã trở nên quen thuc trong kinh doanh, thương mại, tài
chính ngân hàng hay xuất nhập khẩu.
Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic – Christopher Pass
& Bryan Lones), “Factoring là một sự dàn xếp tài chính, qua đó
mt công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ - factor firm)
mua lại các khoản nợ của mt công ty với số tiền ít hơn giá trị
của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền
thu được của số nợ đã mua và giá mua thc tế của món nợ đó.
Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải
chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền
toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả”.
Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì
“factoring là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển
nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ
cho một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông
thường là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này đảm
nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để
hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông
thường công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán
của món nợ”.
Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng:
“Factoring là việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua
các khoản nợ của kch hàng trên cơ sở không truy đòi và tiến
hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản
nợ. Công ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và
tương lai của khách hàng (người bán) và xác lập các hạn mức tín
dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trc tiếp cho
công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản ứng trước tờng từ
80% - 90% trị ghoá đơn. Khoản dự trữ 10% - 20% được công
ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu,
hoặc các yêu cầu khác của người mua. Thường thường vào cuối
tháng, công ty mua ntính toán mức phí thu được trên số dư
trên các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng”.
Qua các khái nim về factoring trên đây, chúng ta có thể hiểu