Số Đặc biệt - Tháng 12.2024 - Tạp chí KH&CN Trường Đại học Hòa Bình 107
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
TS. Nguyễn Ngọc Long
Trường Đại học Hòa Bình
Tác giả liên hệ: nguyenngoclong1954gmail.zcom
Ngày nhận: 30/11/2024
Ngày nhận bản sửa: 10/12/2024
Ngày duyệt đăng: 24/12/2024
Tóm tắt
Sau gần 40 năm đổi mới kinh tế từ năm 1986, Việt Nam đã phát triển vững chắc từ một nước
nghèo trở thành nước xuất khẩu nông, thủy sản hàng đầu thế giới, bước vào ngưỡng thu nhập trung
bình và hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
liên tục tăng qua các năm động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, xuất khẩu đóng vai trò nguồn lực đặc biệt quan trọng trong việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển, bao gồm Việt Nam. Thông qua xuất khẩu,
các quốc gia không chỉ tận dụng được lợi thế so sánh, mà còn tiếp cận với công nghệ, nguồn vốn
thị trường quốc tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhiều tiến bộ đáng kể, xuất khẩu vẫn đối mặt với
một số hạn chế như: sự phụ thuộc vào nguyên liệu thô, khả năng cạnh tranh của hàng hóa thấp và
rào cản phi thuế quan gia tăng. Bài nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của xuất khẩu đối
với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, từ đó, đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong bối
cảnh hội nhập toàn cầu.
Từ khóa: Xuất khẩu, nguồn lực, tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tăng trưởng kinh tế.
The Role of Export In Vietnam's Economic Growth and Recommended Solutions to Promote
Exports in the Context of Integration
Dr. Nguyen Ngoc Long
Hoa Binh University
Corresponding Author: nguyenngoclong1954@gmail.com
Abstract
After nearly 40 years of economic reform since 1986, Vietnam has developed steadily from a
poor country into one of the world’s leading exporters of agricultural and seafood products. It has
reached the threshold of middle-income status and is increasingly integrating into the global economy.
Vietnam's export turnover has continuously increased over the years and has become a major driver
of economic growth. Particularly, in the context of international economic integration, exports
play a crucial role as a key resource in promoting the economic growth of developing countries,
including Vietnam. Through exports, nations not only leverage their comparative advantages but
also gain access to technology, capital, and international markets. However, despite significant
108 Tạp chí KH&CN Trường Đại học Hòa Bình - Số Đặc biệt - Tháng 12.2024
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
1. Đặt vấn đề
Xuất khẩu là một trong những lĩnh vực thiết
yếu của thương mại toàn cầu, đóng góp vào
nhiều thành tựu kinh tế tạo ra những giá trị
khác nhau. Xuất khẩu đã trở nên cần thiết để
nâng cao khả năng cạnh tranh và nền kinh tế của
một quốc gia. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra
mối liên hệ giữa các vấn đề hậu cần và nền kinh
tế bằng kết quả định tính và định lượng.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong tăng trưởng kinh tế, với tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân trên 6%/năm trong
hai thập kỷ qua. Các yếu tố chính đóng góp bao
gồm: cải cách thể chế kinh tế, chính sách mở
cửa và thu hút đầu trực tiếp nước ngoài (FDI).
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế vẫn chưa bền
vững khi còn phụ thuộc lớn vào các yếu tố tài
nguyên thô gia công. Tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam chủ yếu dựa vào ba nguồn lực chính:
(1) Vốn: Đầu tư công và FDI chiếm tỷ trọng
lớn trong cấu vốn đầu tư. Tuy nhiên, hiệu quả
sử dụng vốn (ICOR) vẫn còn thấp so với các
quốc gia trong khu vực.
(2) Lao động: Lực lượng lao động dồi dào,
nhưng năng suất lao động vẫn thấp do kỹ năng
trình độ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu
hội nhập.
(3) Xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ góp phần đáng kể vào GDP, đặc biệt trong
các ngành công nghiệp như dệt may, điện tử và
nông sản.
Mối quan hệ giữa xuất khẩu, vốn lao
động đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
rất chặt chẽ. Xuất khẩu không chỉ tạo nguồn thu
ngoại tệ, mà còn kích thích sản xuất trong nước,
gia tăng việc làm thu hút vốn FDI. Tuy nhiên,
mức độ đóng góp của xuất khẩu chưa tương
xứng với tiềm năng do hạn chế trong chuỗi
giá trị khả năng cạnh tranh quốc tế. Để phát
huy vai trò, tác dụng của các yếu tố tài nguyên
đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, từ đó,
những giải pháp đồng bộ nhằm phát huy vai trò
của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế nước
ta trong thời gian tới.
2. Các yếu tố nguồn lực đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam
2.1. Vốn
thuyết của Keynes hình Harrod-
Domar coi vốn là yếu tố chính cần thiết để đảm
bảo tăng trưởng từ đầu thế kỷ 20. Mô hình chéo
Keynes minh họa những thay đổi trong đầu tư sẽ
ảnh hưởng đến số lượng tài sản thông qua hiệu
ứng hệ số nhân. Hơn nữa, mặc vai trò hạn
chế của vốn trong tăng trưởng kinh tế dài hạn
trong các hình tăng trưởng tiếp theo, vốn vẫn
tiếp tục đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng
của các nền kinh tế. Hoạt động ngoại thương
một trong những nguồn vốn bổ sung chính
cho nền kinh tế. Nhiều quốc gia đã lựa chọn các
chính sách phát triển ngoại thương, bao gồm
khuyến khích hoạt động xuất khẩu cải thiện
cán cân thanh toán, để thúc đẩy tích lũy vốn
kinh tế. Thặng cán cân thanh toán tốt hơn
sẽ làm tăng tổng cầu, khuyến khích đầu
progress, Vietnam's exports still face some challenges, such as dependence on raw materials, low
competitiveness of goods, and increasing non-tariff barriers. This study focuses on analyzing the
impact of exports on Vietnam's economic growth and proposes solutions to enhance exports in the
context of global integration.
Keywords: Export, resources, economic growth, resources for economic growth.
Số Đặc biệt - Tháng 12.2024 - Tạp chí KH&CN Trường Đại học Hòa Bình 109
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Biểu đồ 1. Vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2015-2023
Nguồn: [2]
Bảng 1 thể hiện sự đóng góp của các yếu
tố nguồn lực vào tăng trưởng GDP của Việt
Nam, cho thấy vốn đã đóng một vai trò đáng
kể trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong giai đoạn 2006-2020. Trong giai đoạn
2011-2015, đóng góp vốn vào GDP bình quân
khoảng 51,2%, giảm 6,8% so với giai đoạn
2006-2010. Kết quả này phản ánh chính xác
Việt Nam nước đang phát triển đã huy
động được nhiều vốn đầu tư kể từ khi thực hiện
chính sách mở cửa. Tuy nhiên, trong giai đoạn
2016-2020, tỷ lệ đóng góp vốn vào GDP giảm
dần (tỷ trọng đóng góp bình quân giai đoạn này
giảm còn 33,7%) do Việt Nam thực hiện tái
cấu nền kinh tế, chuyển đổi hình tăng
trưởng từ “tăng trưởng theo chiều rộng” sang
“tăng trưởng theo chiều sâu”, đồng nghĩa với
việc TFP đóng vai trò chủ đạo. Do Covid-19
trong năm 2021-2022, đóng góp của vốn vào
GDP đã giảm. Năm 2022 chỉ còn 34,7% (giảm
10-20% so với thời gian trước đó). Kết quả này
một phần do các chính sách đóng cửa được
nhiều quốc gia áp dụng để không khuyến khích
sử dụng hàng hóa nhập khẩu thay hàng hóa
bản địa tác động tiêu cực đáng kể đến hoạt
động thương mại và xuất khẩu quốc tế.
Bảng 1. Đóng góp của các yếu tố nguồn lực vào tăng trưởng GDP của Việt Nam(%)
Nguồn: [1]
2006-2010 2011-2015 2016-2020
Đóng góp của vốn đầu tư 58% 51,2% 33,7%
Đóng góp của lao động 19% 16% 20,73%
Đóng góp của TFP 23% 32,88% 45,57%
huy động vốn đáng kể hơn. Ngoài ra, xuất khẩu
tạo ra thu nhập ngoại hối đáng kể cho một quốc
gia, mang lại ngoại hối cần thiết để tăng nhập
khẩu công nghệ, hàng hóa vốn và các sản phẩm
trung gian cần thiết để phát triển các ngành công
nghiệp, nâng cao tiềm năng sản xuất của một
quốc gia. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp
hóa, thương mại nước ngoài ngày càng thay thế
thương mại trong nước như nguồn tích lũy
vốn chính cho nhiều quốc gia đang phát triển.
110 Tạp chí KH&CN Trường Đại học Hòa Bình - Số Đặc biệt - Tháng 12.2024
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Từ năm 2015 đến năm 2023, tổng vốn đầu
tăng liên tục (Biểu đồ 1), kéo theo tỷ lệ vốn
đầu trên GDP tăng đều đặn. Việt Nam tỷ
lệ vốn đầu tư trên GDP cao so với các quốc gia
khác trong khu vực các quốc gia đang phát
triển trên toàn thế giới. Nguyên nhân chủ yếu
do Việt Nam còn nước đang phát triển,
điểm xuất phát thấp. Do vậy, rất cần phải tỉ
lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDPmức
cao để tránh nguy tụt hậu. Tỉ lệ vốn đầu
phát triển toàn hội/GDP đang xu hướng
giảm dần từ năm 2021. Vấn đề đặt ra cho 2 năm
“tăng tốc” 2024, 2025 cần tăng tỉ lệ vốn đầu
phát triển toàn hội/GDP cao hơn nữa, thậm
chí còn cao hơn mức 34% của những năm từ
2020 trở về trước.
Biểu đồ 2. Hệ số ICOR của Việt Nam
Nguồn:[3]
Tổng vốn đầu tư của Việt Nam đã tăng lên
do áp dụng chính sách mở cửa. Tuy nhiên, hiệu
quả đầu vẫn còn thấp, bằng chứng chỉ số
ICOR 17 năm (2005-2021) 6,89; 11 năm
(2011-2021) là 6,9; 6 năm (2016-2021) là 7,55
[4]. Nguyên nhân chính năng lực kỹ thuật
của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với phần
còn lại của thế giới - chi phí cao liên quan đến
việc thuê và mua mặt bằng sản xuất và thương
mại. Chỉ số ICOR hai năm 2020 2021 tăng
vọt lên mức 12,47 15,54 nhiều do,
trong đó GDP tăng chậm lại Covid-19.
Năm 2022, mặc tỷ lệ vốn đầu phát triển/
GDP thấp hơn các năm trước do hệ số ICOR
thấp giảm (giảm mạnh xuống còn 5,92),
nhưng hiệu quả đầu cao góp phần nâng
cao tăng trưởng GDP.
2.2. Lao động
Tăng trưởng xuất khẩu cũng giúp tạo thêm
việc làm cho người lao động, đặc biệt đối
với các nước lực lượng lao động dồi dào
như Việt Nam. Từ phía cung, tăng việc làm tạo
ra một nguồn lực thiết yếu cho tăng trưởng dài
hạn. Đồng thời, việc làm cũng tác động đến nền
kinh tế từ phía cầu khi thu nhập của người lao
động trong lĩnh vực sản xuất tăng lên, làm tăng
nhu cầu tiêu dùng đối với hàng hóa và dịch vụ
và kích thích phát triển sản xuất trong nước.
Bảng 2. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo theo thành thị và nông thôn (%)
Năm Cả nước Thành thị Nông thôn
2013 18,2 34,1 11,5
2014 18,7 34,8 11,5
2015 20,4 36,9 13,0
2016 20,9 37,3 13,4
2017 21,6 37,7 14,1
2018 22,0 37,3 14,7
2019 22,8 39,0 14,9
Số Đặc biệt - Tháng 12.2024 - Tạp chí KH&CN Trường Đại học Hòa Bình 111
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
cấu dân số trẻ, với dân số trong độ tuổi
lao động tăng qua các năm, nguồn bổ sung dồi
dào cho lực lượng lao động Việt Nam. Việt Nam
khoảng 46,2 triệu người trong độ tuổi lao
động. cấu tuổi dân số một trong những yếu
tố thiết yếu cho tăng trưởng phát triển kinh tế.
Lực lượng lao động trẻ có lợi thế về y tế và khả
năng tiếp thu chuyên môn, kỹ thuật, khoa học
công nghệ sẽ giúp Việt Nam có được vị trí quan
trọng hơn trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Tăng
số người việc làm sẽ tăng tiết kiệm đóng
góp vào quỹ an sinh hội, tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế ổn định hội. Tuy
nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo Việt Nam
vẫn còn thấp, khoảng cách lớn giữa thành thị và
nông thôn (Bảng 2). Lao động qua đào tạo cũng
kém chất lượng. Hầu hết trong số họ không thể
làm việc sau khi tốt nghiệp phải mất thời gian
để đào tạo lại. Lực lượng lao động trẻ và dồi dào
của Việt Nam phải đối mặt với những thách thức
đáng kể về thất nghiệp thiếu việc làm trong
khi thị trường lao động ngày càng cạnh tranh.
2.3. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
Ngoài việc tăng vốn và việc làm, xuất khẩu
thúc đẩy năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
nhờ phân bổ nguồn lực tối ưu thông qua lợi thế
so sánh tính kinh tế theo quy giúp tăng
năng suất.
Bảng 3. Năng suất lao động xã hội của Việt Nam
Nguồn: [2]
Nguồn: [2]
2020 24,1 39,7 16,3
2021 26,1 41,1 17,5
2022 26,4 41,2 17,7
2023 27,2 42 18,4
Năm Năng suất lao động bình quân
(triệu đồng/người/năm)
Tốc độ tăng năng suất lao động
(%/năm)
2013 85,2 8,11
2014 93,1 9,27
2015 97,75 4,99
2016 105,71 8,14
2017 117,19 10,86
2018 129,12 10,18
2019 141,00 9,20
2020 150,06 6,43
2021 172,80 15,15
2022 187,99 8,79
2023 199,3 6