intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục vì sự phát triển bền vững

Chia sẻ: Trần Dự Trữ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

506
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu "Giáo dục vì sự phát triển bền vững" giới thiệu đến các bạn những bài viết về giáo dục như: Phát triển bền vững và vai trò giáo dục, điều tra nhận thức của sinh viên về giáo dục vì sự phát triển bền vững, một số phương pháp giảng dạy mới nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho người học,... Mời các bạn cùng tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục vì sự phát triển bền vững

  1. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ GIÁO DỤC TS. Nguyễn Toàn Hiệu trưởng, Tổng biên tập Bản tin KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Ngày 20 tháng 12 năm 2002, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (LHQ) đã thông qua  Nghị quyết 57/254 về Thập kỷ của LHQ về Giáo dục vì  Phát triển Bền vững (2005­ 2014) và đã chỉ định UNESCO là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm triển khai các hoạt   động trong khuôn khổ Thập kỷ này. Ngày 01 tháng 03 năm 2005, tại New York, LHQ  đã chính thức phát động Thập kỷ Giáo dục vì Phát triển Bền vững (2005­2014). Ngày   23/03/2010, Hội nghị  mở  rộng các đối tác tham gia  Ủy ban Thập kỷ giáo dục vì phát   triển bền vững của Việt Nam do Ủy ban UNESCO Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại Hà  Nội. Giáo dục vì phát triển bền vững (GDVPTBV) đã trở thành một vấn đề nóng bỏng  không chỉ của Việt Nam mà cả thế giới.  Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội giai đoạn 2001­2010 của Việt Nam đã đề  ra mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững “nhằm đạt được một cuộc sống đầy đủ  về  vật chất, giàu có về  tinh thần và văn hóa, bình đẳng và thống nhất xã hội. Phát  triển phải được kết hợp một cách hài hòa, hợp lý và đồng bộ trên cả ba phương diện,   đó là phát triển kinh tế, bình đẳng xã hội và bảo vệ môi sinh”. Để  đạt được mục tiêu  phát triển bền vững đề ra, Chính phủ đã ban hành “Định hướng Chiến lược Phát triển  Bền vững  ở  Việt Nam” (Chương trình Nghị  sự  21 của Việt Nam), trong  đó nhấn  mạnh tầm quan trọng của giáo dục “Con người là trung tâm của sự  phát triển bền   vững. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất là cải thiện hệ  thống giáo dục và   tăng cường nhận thức về  phát triển bền vững cho mọi người dân, mọi cộng đồng,   doanh nghiệp, các tổ chức và các cơ quan của Nhà nước ở tất cả các cấp”. Giáo dục là hoạt động của con người, do con người và cũng vì con người. Con   người  ở  đây phải gắn liền với cộng đồng. Con người thoát ly cộng đồng sẽ  khập  khiễng, nhiều khi đi ngược lại với bản chất con người. Nhưng con người là tế  bào  của xã hội, của cộng đồng. Do đó, nói đến con người phải đi từ  cá thể  người, nhất là  lĩnh vực giáo dục. Jean Piaget, nhà tâm lý – giáo dục học nổi tiếng người Thụy Sĩ, từ những năm   đầu của thế kỷ XX, khi đề cập đến hoạt động nhận thức đã nêu lên quan điểm “Bản  chất con người là những cá thể đơn lập” (isolated individuals hoặc unique individuals),   mặc dù ông không hề  phủ  nhận vai trò “đồng đẳng” của yếu tố  xã hội. Đây cũng là  một trong những cơ sở lý luận quan trong của thuyết kiến tạo (constructivism) về hoạt   động nhận thức mà ông là người có đóng góp to lớn trong việc hình thành. Tính chất   “cá thể  đơn lập” mang tính khách quan, không ai giống ai của con người trong hoạt   động nhận thức thể hiện tính nhân bản sâu sắc. Nền giáo dục của hầu hết các nước  phát triển trên thế giới đều vận dụng quan điểm này và xem đây là nền tảng của việc   xây dựng triết lý giáo dục cũng như chiến lược giáo dục. Hoạt động giáo dục dựa trên  nền tảng phát triển tự nhiên, tự  thân của người học, hoàn toàn không áp đặt. Trụ  cột  thứ  ba về  giáo dục được Tổ  chức UNESCO nêu ra chính là thể  hiện quan điểm này:   “học để tự khẳng định mình” (learn to be).
  2. Đầu thập niên 90 của thế  kỷ  XX, GS. Hồ  Ngọc Đại thực hiện thí điểm mô   hình  “công nghệ giáo dục” chính là dựa trên cơ sở của học thuyết kiến tạo. Tuy chưa  được trọn vẹn nhưng người thực hiện đã thể  hiện tâm huyết và sự  nhận thức đúng   đắn của bản chất giáo dục vì con người. Lâu nay chúng ta xem nặng quan điểm xã hội  trong hoạt động nhận thức nói  riêng và giáo dục nói chung. Cách tiếp cận mục tiêu và tiếp cận nội dung trong xây   dựng chương trình thể hiện tính chất áp đặt, cưỡng bức đối với hoạt động nhận thức.  Chúng ta ít quan tâm, nhiều khi lãng quên yếu tố “cá thể đơn lập” trong quá trình giáo  dục. Chúng ta bỏ  người học vào chung một giỏ, chưa tôn trọng bản chất khách quan   của người học. Nói khác đi là chúng ta chưa thực sự vì người học. Giáo dục chưa thực   sự vì con người! Giáo dục chưa vì con người thì chưa thể nói đến giáo dục vì sự phát   triển bền vững. Cùng với yếu tố  “cá thể  đơn lập”, yếu tố  “xã hội” trong giáo dục là anh em   song sinh mà Jean Piaget gọi là co­equal (tạm dịch là “đồng đẳng”). Nghĩa là chúng ta  không thể xem nhẹ vai trò của xã hội. C. Mác đã từng viết: “Trong tính hiện thực của  nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Giáo dục là hoạt động  hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm hình thành   và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách… Tóm lại, giáo dục là để phát triển con   người. Con người là tế bào của xã hội. Con người không thể  tồn tại và phát triển khi   thoát ly môi trường xã hội. Giáo dục có vai trò gắn kết cá nhân và xã hội một cách hữu  cơ, trách nhiệm. Trụ cột thứ tư của UNESCO về giáo dục chính là “học để  sống với   nhau” (learn to live together).  Do nhiều lý do, việc tổ chức hoạt động giáo dục của chúng ta vô tình hạn chế  mối quan hệ bản chất giữa cá nhân và xã hội. Thực trạng này làm cho con người vừa  thiếu tự tin, nhưng mặt khác thiếu trung thực dẫn đến tự  cao, tự đại, tự mãn, tự thoát   ly, tự  cô lập và mất điều kiện sáng tạo để  đóng góp cho xã hội phát triển. Xã hội   chúng ta đang rộ lên nhu cầu học kỹ năng sống (KNS). Nhiều “Viện đào tạo”, “Trung   tâm”  có các chương  trình dạy KNS. Nhưng thực chất KNS  có thể  dạy thông qua  những lớp học, chương trình học được không? Kỹ  năng là khả  năng thực hiện đúng  hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể để  tiến hành   hành động  ấy, cho dù là hành động cụ  thể  hay hành động trí tuệ. Kỹ năng là kết quả  của một quá trình rèn luyện, được hình thành qua việc lặp đi lặp lại của hành vi hoặc   thao tác của tư duy để chuyển từ nhận thức sang ý thức. Chúng ta cũng cần nhớ rằng   ý thức được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn của xã hội và được thể  hiện dưới hai dạng là ý thức cá nhân và ý thức xã hội. Như vậy, giáo dục KNS là giáo  dục hành vi phù hợp với quy luật sống xuyên suốt từ  bậc giáo dục mầm non, từ  nhà   trường đến xã hội, từ cha mẹ đến thầy cô.  Tóm lại, KNS thể  hiện tính xã hội trong giáo dục, được hình thành trong một  quá trình rèn luyện, trải nghiệm và có được do tự điều chỉnh và được điều chỉnh bởi  chủ thể khác. KNS không thể có được nếu chỉ học qua những bài giảng suông và đặc  biệt là không thể  có được trong một sớm một chiều. Giáo dục KNS không thể  làm   theo kiểu phong trào. Giáo dục cách “sống với nhau” chính là giáo dục vì sự phát triển   bền vững.
  3. Nếu con người là tế  bào của xã hội thì xã hội nằm trong lòng tự  nhiên. Mối  quan hệ con người – xã hội – tự nhiên là mối quan hệ hữu cơ, sống còn, tất yếu. Mối   quan hệ này chưa được thể hiện trong hoạt động giáo dục đúng như vai trò vốn có của   nó. Với vai trò những người tham gia hoạt động giáo dục đào tạo, chúng ta đã thể hiện  mối quan hệ ấy như thế nào trong việc xây dựng kế hoạch dạy học? Chúng ta đã làm   gì để có thể đạt được mục tiêu bài học, môn học và chuẩn đầu ra của một ngành học?   Chúng ta hãy cùng nhìn lại mình (Retrospective) vì một tương lai bền vững của nhà  trường, đất nước và cả toàn cầu.ð   TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]     Nhiều tác giả (2001) , Từ điển Giáo dục học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. [2]      Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa VIII, Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã   hội giai đoạn 2001 – 2010. [3]     Văn phòng Chính phủ, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. [4]     Piaget (1970), Structuralism, New York: Basic Books ĐIỀU TRA NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN  BỀN VỮNG PGS.TS  Nguyễn Thị Thu Hằng ĐHSP Hà Nội                                                                                                                                                                           1. Mở đầu  Từ năm 1987 đến năm 1992, khái niệm phát triển bền vững đã dần được định  hình và phát triển. Trong khái niệm các nhân tố Phát triển Bền vững (PTBV) không  thể tách rời được ba nhân tố: xã hội, môi trường và kinh tế. Tại Hội nghị Thượng đỉnh  Johannesburg, một lần nữa những thành tố này lại được khẳng định về ba kiềng của  PTBV. Nội dung của PTBV là nguồn gốc tạo nên hình thức và nội  dung của Giáo dục  vì Sự Phát triển Bền vững (GDPTBV). 2. Nội dung nghiên cứu  Ngày 20 tháng 12 năm 2002, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (LHQ) đã nhất trí   thông qua Nghị quyết 57/254 về việc triển khai một Thập kỉ Giáo dục vì sự Phát triển   Bền vững (TKGDPTBV), được bắt đầu từ ngày 1/1/2005 đến năm 2014 [1]. GDPTBV  đề cập đến mục đích, mục tiêu, giá trị, nội dung, bẩy chiến lược, các thành viên tham   gia vào GDPTBV,  phạm vi hoạt động, giám sát và đánh giá, thời gian triển khai Thập  kỉ GDPTBV.  Trong khuôn khổ bài báo, chúng tôi muốn đề cập đến việc điều tra nhận thức của sinh  viên năm thứ tư, khoa Địa lí của các trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, trường  Đại học Hùng Vương ­ Phú Thọ và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội về khái niệm  phát triển bền vững và nội dung của GDPTBV.   Chúng tôi đã phát ra  400 phiếu điều tra  ở  ba trường đại học với 22 câu hỏi,   gồm 20 câu lựa chọn, 1 câu hỏi sắp xếp theo thứ  tự  của các nguồn tài liệu mà sinh  viên đã tham khảo và 1 câu hỏi xem mức độ  quan tâm của họ  đến PTBV/GDPTBV. 
  4. Mục  đích  của bộ  câu hỏi  để  kiểm tra  nhận thức  của  sinh viên về  nội  dung của  GDPTBV. Từ việc điều tra, giáo viên có thể giúp sinh viên hiểu sâu về mục đích, mục   tiêu, nội dung GDPTBV và thiết kế 20 chủ đề tập trung vào nội dung GDPTBV  2.1. Bộ câu hỏi kiểm tra nhận thức của sinh viên về GDPTBV              Họ, tên anh  (chị ):             Khoa: …….. …… Trường Đại học ………………Anh (chị) hãy khoanh tròn   vào ý (a) hoặc ý (b) hay ý (c)  mà anh (chị) cảm thấy đúng nhất trong 3 ý  của các câu hỏi về  phát triển bền vững và giáo dục vì sự phát triển bền vững Câu 1. Phát triển bền vững là:a.       Đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tạib.       Đáp ứng nhu  cầu của thế hệ tương laic.       Đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại và tương lai Câu 2. Các lĩnh vực cơ bản của phát triển bền vữnga.       Xã hội và môi trườngb.       Xã hội,  môi trường và kinh tếc.       Môi trường và kinh tế  Câu 3. Giáo dục là cơ hội tốt nhất giúp chúng ta:a.       Thúc đẩy những giá trị và hành vi cần  thiết cho phát triển bền vữngb.       Hiểu về nội dung của phát triển bền vữngc.       Hiểu về giáo  dục vì sự phát triển bền vững Câu 4. Một thế giới mà mọi người đều có cơ hội được hưởng lợi từ một nền giáo  dục:a.       Có chất lượng caob.       Tiếp thu những giá trị, hành vi cho một tương lai bền  vữngc.       Những chuyển biến xã hội tích cực Câu 5. Mục đích của Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững (GDPTBV) do Liên  Hợp Quốc  đưa ra từ năm 2005 đến năm 2014 là:a.       Giáo dục là nền tảng cho một xã hội  bền vững hơnb.       Lồng ghép phát triển bền vững vào hệ thống giáo dục ở tất cả các cấpc.        Gồm cả ý a và ý b Câu 6. Một trong 5 mục tiêu của giáo dục vì sự phát triển bền vững là:a.       Ngày một  nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập trong GDPTBVb.       Định hướng và xây dựng tầm  nhìnc.       Liên kết và hợp tác Câu 7. Giáo dục vì sự phát triển bền vững là quá trình thúc đẩy các giá trị mà trong đó  tôn trọng được đặt ở vị trí trung tâm, cụ thể là:a.       Tôn trọng phẩm giá và các quyền con  người của mọi người dân trên thế giớib.       Tôn trọng sự sống của mọi sinh vật  trên thế  giớic.       Tôn trọng sự sống của  mọi sinh vật tự nhiên trên thế giới Câu 8. Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải trang bị cho con ngườia.       Ý  thức được  quyền đòi hỏi sống trong một môi trường bền vữngb.       Ý  thức được quyền  sống trong môi  trường tự nhiênc.       Ý thức được  quyền  sống trong  môi trường đô thị Câu 9. Hậu quả của các cuộc xung đột và chiến tranh trên thế giới là:a.       Các hệ thống y  tế hoạt động quá tảib.       Nhà cửa, trường học bị phá huỷ, số lượng người di tản ngày càng  nhiềuc.       Gồm cả ý a và ý b 
  5. Câu 10.  Bình đẳng giới trong giáo dục vì sự phát triển bền vững đề cập đến:a    Sự  tham gia đầy đủ và bình đẳng của phụ nữb   Sự tham gia đầy đủ của mọi người dân trong xã  hội c    Sự tham gia đầy đủ của các cấp chính quyền trong xã hội Câu  11. Đưa kiến thức về đa dạng văn hoá và giao thoa văn hoá vào quá trình học tập  sẽ: a. Làm tăng mối liên hệ giữa giáo viên và học sinh   b. Làm tăng mối liên hệ giữa các phụ  huynh trong nhà trườngc. Làm tăng mối liên hệ giữa nhà trường và cộng đồng Câu  12.   Một trong điều kiện tiên quyết của phát triển bền vững là:a. Môi trường học  đường phải lành mạnh và an toànb. Những người dân khoẻ mạnh và một môi trường an toànc.  Những học sinh trong trường phổ thông phải khoẻ mạnh   Câu 13.  Vấn đề cấp thiết hiện nay đối với Việt Nam là thu thập và phân tích thông tin  về a. Những ảnh hưởngcủa HIV/AIDS đối với giáo dục và phát triển bền vững, b. Những  người đã bị nhiễm HIV/AIDS  c. Những người đã chớm nhiễm HIV/AIDS  Câu 14. Ở tất cả các cấp từ địa phương, quốc gia và quốc tế, phát triển bền vững sẽ  được   thúc đẩy một cách tốt nhất ở:  a. Những nơi  các cấp chính quyền có cơ cấu rõ ràng,  minh bạch, b. Những nơi  mọi người dân được tham gia c. Những nơi có các tập đoàn tài chính  lớn nắm giữ quyền lực     Câu 15. Thay đổi khí hậu trên toàn cầu mang lại cho người học những biện pháp: a.  Giảm thiểu nguy hại đối với bầu  khí quyển, b. Giảm thiểu khí nitơ thải vào bầu khí qiuyển,  c. Giảm thiểu khí các ­ bon  thải vào khí quyển Câu 16. Ở  các cộng đồng dân cư nông thôn, tỷ lệ thất học, bỏ học, mù chữ, bất bình  đẳng giới trong giáo dục:  a. Cao hơn thành thị b. Ngang bằng với thành thị c. Thấp hơn ở  thành thị    Câu  17. Đô thị hoá bền vững được hiểu là các thành phố đang đối mặt với a. Những thay  đổi kinh tế ­ xã hội mang tính toàn cầu b. Những thách thức tiềm tàng của phát triển bền vững  c. Gồm cả ý a và ý b.     Câu 18.  Phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, giúp cho:  a. Trẻ em biết cách đối phó với lũ  lụt  b. Các nhà lãnh đạo học cách cảnh báo kịp thời cho nhân dân  c. Toàn thể  xã hội học cách  đề phòng khi thiên tai xảy ra     Câu 19. Giảm nghèo là mối quan tâm chung của xã hội, cụ thế là: a. Mối quan tâm của các  nhân tố kinh tế, môi trường và xã hội b. Mối quan tâm cơ bản của nhân tố kinh tế, c. Mối  quan tâm của người dân khu vực nghèo đói      Câu 20. Một thách thức cơ bản của nền kinh tế thị trường toàn cầu hiện nay là:  a.  Hiệu quả về kinh tế, bảo vệ môi trường và bình đẳngb. Sử dụng các nguồn năng lượng, giảm  thải và tái chế chất thải   c. Chỉ thoả mãn yêu cầu về kinh tế và bình đẳng.     
  6. Nguồn tài liệu về phát triển bền vững/ giáo dục vì sự phát  Anh ( chị)  triển bền vững  hãy sắp xếp trật tự  các nguồn tài liệumà  các anh (chị) đã sử  dụng   1. Từ tài liệu đã học và đọc   2. Từ sách, báo   3. Từ nghe đài, từ báo chí   4. Đọc từ mạng Internet   5. Tìm hiểu qua người khác   6. Từ thực tế cuộc sống Câu 21. Để hiểu về phát triển bền vững/ giáo dục vì sự phát triển bền vững, anh (chị)   đã đọc các nguồn tài liệu  dưới đây và hãy sắp xếp theo thứ tự của các nguồn tài liệu  đó, ghi theo thứ tự ở cột trái của bảng                 Câu 22. Tài liệu về phát triển bền vững/ Giáo dục vì sự phát triển bền vững có  tác dụng gì với cuộc sống của anh (chị) và cộng đồng của anh ( chị ) hay  không?                                a. Có nhiều tác dụng                                b. Bình  thường                                c. Không có tác dụng  Từ các câu hỏi điều tra, rút ra kết luận xem sinh viên hiểu gì về khái niệm, về  nội dung của PTBV và GDPTBV. Ngoài ra, thông qua việc điều tra, còn kiểm tra xem   họ  lấy tài liệu từ  những nguồn nào để  trả  lời câu hỏi, đặc biệt nguồn thông tin đại   chúng và sự quan tâm của người học và cộng đồng của họ đến PTBV/ GDPTBV. 2.2.Kết quả điều tra nhận thức của sinh viên về PTBV/ GDPTBV        ­ Câu 1 và câu 2 đề  cập đến PTBV và nội dung của PTBV.  Ở  2 câu hỏi này, ý   kiến trả lời đúng: 100%. Câu 3 và câu 4, liên quan đến vai trò của GDPTBV; ý kiến trả  lời đúng: 100%.        ­ Câu 5 và câu 6 đề  cập đến mục đích và mục tiêu của GDPTBV, cụ thể  là một  trong những mục tiêu của GDPTBV (câu 6): ngày một nâng cao chất lượng giảng dạy  và học tập trong GDPTBV. Ý kiến trả lời đúng của 2 câu hỏi này là: 100%.         ­ Câu 7 đến câu 20, tập trung vào nội dung GDPTBV         ­ Câu 7 và câu 8 tập trung vào quyền con người và các giá trị như tôn trọng phẩm   giá và các quyền con người, tôn trọng các quyền con người của các thế  hệ  tương lai   và cam kết thực hiện trách nhiệm giữa các thế  hệ…. Ý kiến trả  lời đúng 2 câu hỏi   này: 100%.        ­ Câu 9 và câu 10 đề  cập đến hoà bình, an ninh và bình đẳng giới. Ý kiến trả  lời  đúng câu 9 là 100%, riêng câu 10, Đại học Sư  phạm Thái Nguyên trả  lời chưa chính  xác, cho rằng ý b là đúng. Chính xác nhất là ý a là sự tham gia đầy đủ và bình đẳng của   phụ  nữ  trong xã hội. Hai trường đại học khác là Đại học Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ  và trường Đại học Sư phạm Hà Nội trả lời đúng câu 10.
  7.       ­ Câu 11 tập trung vào đa dạng văn hoá và giao thoa văn hoá. Câu trả lời đúng của   sinh viên 3 trường đại học là 100%       ­ Câu 12 và câu 13 đề cập đến vấn đề sức khoẻ và tệ nạn HIV/AIDS. Trả lời câu  12 chưa chính xác (Đại học Hùng Vương và Đại học Sư phạm Thái Nguyên). Câu trả  lời đúng cho câu 13 là 100%.       ­ Câu 14 và câu 15 liên quan đến thể chế và thay đổi khí hậu trên toàn cầu. Câu trả  lời đúng ở  hai câu hỏi này là 100%      ­ Câu 16 và câu 17 tập trung vào nội dung phát triển nông thôn và đô thị  hoá bền  vững. Ý trả lời đúng của hai câu hỏi này là 100%     ­ Câu 18 và câu 19 liên quan đến nội dung phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, giảm  nghèo. Câu trả lời đúng của hai câu hỏi này là 100%    ­ Câu 20 tập trung vào nền kinh tế thị trường. Câu trả lời đúng của câu này là 100%            Chúng tôi đã đưa ra 20 câu hỏi để tìm hiểu nhận thức của các em về PTBV và  nội dung của GDPTBV. Phần lớn các câu hỏi đã trả lời tương đối chính xác, chỉ có câu  10 và câu 12, trả lời chưa chính xác. Để biết thêm nguồn tài liệu các em lấy từ đâu ? (câu 21 trong bộ  câu hỏi) để  khi chúng tôi giảng dạy, sẽ  hướng dẫn các em sưu tầm  nguồn tài liệu để phục vụ cho chuyên đề giảng dạy GDPTBV với thời lượng 30 tiết.  Hầu như câu trả lời của các em lấy từ tài liệu đã học của các anh (chị) năm trước, sau  đó mức thứ hai là  các em đọc ở mạng Internet; mức thứ ba là đọc từ sách, báo…           Câu hỏi thứ 22 trong bộ câu hỏi tìm hiểu nhận thức của sinh viên nhằm biết   tác  dụng  của tài liệu PTBV/GDPTBV đối với cuộc sống của các em và cộng đồng của   các em thì tất cả đều trả lời rất có tác dụng vì PTBV đề cập đến không chỉ phát triển   kinh tế mà bảo vệ môi trường và xây dựng xã hội  dân chủ.và công bằng  2.3. Phân tích và đánh giá kết quả điều tra 2.3.1. Phân tích              Khái niệm PTBV đã được Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới thông qua   năm 1987 là: “ Những thế hệ hiện tại cần đáp ứng nhu cầu của mình, sao cho không   làm hại đến khả năng các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của họ”. PTBV gồm   ba nhân tố: xã hội, môi trường, kinh tế [3, 5]. Nội dung cụ thể của ba nhân tố là:             Xã hội: Được  hiểu là các thể chế xã hội và vai trò của nó trong sự thay đổi và   phát triển cũng như  các hệ  thống dân chủ  và công bằng, tạo cơ  hội cho mọi người   được bày tỏ quan điểm, lựa chọn chính thể, xây dựng sự đồng thuận và giải quyết bất  đồng              Môi trường: Phải nhận thức được tầm quan trọng của các nguồn tài nguyên  thiên nhiên và sự  mỏng manh, yếu  ớt của môi trường cũng như  những tác động lên  môi trường do các quyết định và hoạt động của con người gây ra; đồng thời phải cam  kết đưa những mối lo ngại về môi trường vào chính sách phát triển kinh tế xã hội
  8.              Kinh tế: Cần nhạy cảm với những hạn chế  và tiềm năng phát triển kinh tế  cũng như  tác động của nó đối với xã hội và môi trường; cam kết đánh giá mức tiêu  dùng của cá nhân và xã hội vì mối quan tâm đến môi trường và công bằng xã hội.              Năm  2002, Hội  nghị   Thượng   đỉnh  Johannesburg tại  Cộng  hoà  Nam Phi  đã  khẳng định lại 3 nhân tố của PTBV: xã hội, môi trường và kinh tế.             Giáo dục và PTBV có mối tương quan mật thiết với nhau. Giáo dục là một  phần không thể thiếu của  chiến lược PTBV. Giáo dục là cơ hội tốt nhất giúp chúng ta  thúc đẩy những giá trị  và hành vi cần thiết cho PTBV. Để  thúc đẩy tiến trình hướng  tới một sự bền vững, đòi hỏi mọi người phải quan tâm hơn nữa tới mối tương quan  giữa con người và thế  giới tự  nhiên, đồng thời khuyến khích khám phá những hình   thức phát triển mang tính sáng tạo có lợi cho môi trường tự nhiên và xã hội. GDPTBV   là tiến hành những chương trình sao cho phù hợp với điều kiện cũng như văn hoá của  từng địa phương. Tất cả  các chương trình liên quan đến PTBV trong đó có chương   trình GDPTBV  khi thực  hiện  đều phải xem xét  điều kiện kinh tế, xã hội và môi   trường của từng địa phương [2,6] Một trong những thành phần của GDPTBV là 15  nội dung của GDPTBV, gồm  7 nội dung về văn hoá ­ xã hội (quyền con người, hoà bình và an ninh, bình đẳng giới,   đa dạng văn hoá và hiểu biết về giao thoa văn hoá, sức khoẻ, HIV/AIDS, thể chế), 5   nội dung về môi trường (nguồn tài nguyên thiên nhiên, thay đổi khí hậu, phát triển nông thôn, đô thị  hoá bền   vững, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai) và 3 nội dung về kinh tế (giảm nghèo, tinh   thần và trách nhiệm tập thể, kinh tế thị trường). Các nội dung cụ thể thể hiện chi tiết   15 nội dung của GDPTBV [1]:  2.3.1.1. Các nội dung về văn hoá ­ xã hội:            ­ Quyền con người: Tôn trọng các quyền của con người là một nhân tố  tối cần  thiết cho PTBV. Phương pháp tiếp cận này giúp thông tin về các chính sách được xây   dựng ở tất cả các cấp, từ đó có thể áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên các quyền  của con người trong phát triển. GDPTBV phải trang bị  cho con người ý thức được  quyền đòi hỏi được sống trong một môi trường bền vững            ­  Hoà bình và anh ninh: Được sống trong một môi trường hoà bình và an ninh là  nhân tố  hết sức quan trọng đối với sự  phát triển của con người. Tuy nhiên các qúa   trình PTBV lại thường bị hủy hoại bởi xung đột và bất ổn. Hậu quả để  lại là những  đau thương mà con người phải gánh chịu, các hệ  thống y tế  hoạt động quá tải, nhà   cửa và số  lượng người di tản ngày càng nhiều. Chính vì lẽ  đó, GDPTBV phải tìm   kiếm và phát triển các giá trị  và kĩ năng xây dựng hoà bình trong nhận thức nhân loại  như đã khắc ghi trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.           ­  Bình đẳng giới: Bình đẳng giới trong giáo dục là một nội dung của GDPTBV  và cũng là mục tiêu đầu tiên trong số  6 mục tiêu của Khuôn khổ  Hành động Darka –   Giáo   dục   cho   Mọi   người   ­   dự   kiến   đạt   được   vào   năm   2005.   Trong   khuôn   khổ  GDPTBV, sự tham gia đầy đủ và bình đẳng của phụ nữ là nhân tố  quan trọng, một là  
  9. để đảm bảo truyền tải các thông điệp GDPTBV bình đẳng và phù hợp và hai là để tạo  cơ hội tốt nhất cho việc thay đổi hành vi vì sự phát triển bền vững của thế hệ tương   lai.          ­  HIV/AIDS: Đại dịch HIV/AIDS ngày một phát triển với tôc độ nhanh ở châu Á,   đang đe doạ  sự  PTBV và các qúa trình giáo dục. Vấn đề  cấp thiết hiện nay đối với   Việt Nam là thu thập thông tin về những ảnh hưởng tiềm tàng của HIV/AIDS đối với  giáo dục và PTBV. Giáo dục là một trong những hi vọng lớn nhất thức đẩy sự thay đổi  về nhành vi và hợp tác diệt trừ đại dịch này.          ­ Thể chế: Ở tất cả các cấp từ địa phương, quốc gia và quốc tế, PTBV sẽ được   thúc đẩy một cách tốt nhất tại những nơi có cơ  cấu thể  chế  rõ ràng, minh bạch và   đóng góp to lớn vào qúa trình xây dựng chính sách. Một cơ cấu như vậy sẽ  tạo ra cơ  hội tốt nhất cho GDPTBV được đơm hoa kết trái xét  trên khía cạnh có sự đóng góp và  tham gia đầy đủ của mọi người dân vào quá trình phát triển các thước đo PTBV và các  thể chế tốt. 2.3.1.2. Các nội dung về môi trường   ­ Nguồn tài nguyên thiên nhiên (nước, năng lượng, nông nghiệp và đa dạng sinh học):  Được xây dựng dựa trên kinh nghiệm giáo dục môi trường hơn 30 năm qua, GDPTBV  phải tiếp tục phát huy tầm quan trọng của nó trong việc đón đầu một chương trình   PTBV có quy mô lớn. đặc biệt xem xét chúng trong mối quan hệ với các vấn đề  kinh  tế, xã hội sẽ  giúp cho người học có thể  áp dụng những phương pháp mới trong bảo  vệ  các nguồn tài nguyên thiên nhiên của thế  giới, những thứ  thiết yếu cho sự  phát  triển và sống còn của con người. ­ Thay đổi khí hậu: GDPTBV phải   mang lại cho người học một nhận thức về  nhu   cầu cần phải có sự thống nhất toàn cầu và cần phải có những biện pháp mạnh giảm  thiểu những nguy hại đối với bầu khí quyển và kiểm soát những tác động có hại của  hiện tượng thay đổi khí hậu. Nghị định thư Kyôto được Liên Hợp Quốc thông qua vào  năm 1992 đã nhận được sự  cam kết của 160 quốcgia về  giảm thiểu lượng khí thải.  Tuy nhiên. Nghị  định này vẫn chưa được thông qua bởi chính các quốc gia phải chịu   trách nhiệm về  25% lượng khí các ­ bon thải ra trên toàn cầu. GDPTBV chính là một   phương tiện chủ  yếu để  xây dựng một cơ  chế  vận động toàn cầu giúp cho các hoạt  động đạt hiệu quả. ­ Phát triển nông thôn: Thất học, bỏ học, mù chữ và bất bình đảng giới trong giáo dục  có tỉ lệ rất cao tại các vùng nông thôn, cũng như tỉ lệ đói nghèo. Sự mất cân đối giữa   thành thị  và nông thôn về  đầu tư  cho giáo dục, về  chất lượng dạy và học đang ngày   một lớn và cần được điều chỉnh. Do đó, các hoạt động giáo dục phải gắn Trao đổi tại diễn đàn, Trao đổi tại diễn đàn, theo bà Katherine Muller­Marin, Đại diện UNESCO tại Việt  Nam cho biết: trong một nỗ lực nhằm hỗ trợ các quốc gia thành viên và các thành phần  có liên quan định hướng lại các chương trình giáo dục hiện hành, Cơ quan đầu não của 
  10. UNESCO đã cho ra bộ tài liệu Thấu kính Giáo dục cho Phát triển bền vững, một công  cụ chỉ dẫn cho việc rà soát lại và cải tiến chính sách và cách thực hành giáo dục.  Trong dự án này, UNESCO Việt Nam đã trích ra từ Thấu kính GDPTBV những khái  niệm, thuật ngữ và công cụ cần thiết để hỗ trợ cho việc rà soát lại chương trình giáo  dục quốc gia ở Việt Nam. Dự kiến chương trình này sẽ được áp dụng vào giảng dạy  tại Việt Nam vào năm 2015. PGS.TS Trần Đức Tuấn, Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Giáo dục và sự phát triển  Bền vững (Trường ĐH Sư phạm Hà Nội) cho rằng: Đổi mới và cải cách theo định  hướng của sự PTBV là một đòi hỏi tất yếu là mệnh lệnh của cuộc sống đối với giáo  dục Việt Nam hiện đại. Điều này có nghĩa là cần tăng cường GDPTBV ở Việt Nam  nhằm biến các trường phổ thông và đại học trở thành trung tâm của giáo dục vì sự  phát triển bền vững và thành trì của sự PTBV. Không nên hiểu một cách đơn giản  rằng GDPTBV chỉ là sự tích hợp, lồng ghép các hoạt động GDPTBV vào chương trình  giáo dục phổ thông và đào tạo mà cần phải hiểu rằng GDPTBV về thực chất là sự  kiến tạo và vận hành các quá trình phát triển bền vững trong nhà trường hiện đại. Tổng kết diễn đàn, Thứ trưởng Bộ GD­ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho rằng, muốn  GDPTBV thì trước hết phải xây dựng được một hệ thống giáo dục phát triển bền  vững, không chỉ giáo dục trong nhà trường mà còn ngoài xã hội; cả trong chương trình  giáo dục chính quy và không chính quy. Thứ trưởng đề xuất, nên có một đầu mối là tổ  chức chuyên trách, và đào tạo các chuyên gia giỏi chuyên sâu cho lĩnh vực phát triển  giáo dục bền vững, đặc biệt, cần tuyên truyền rộng rãi hơn nữa các chiến lược phát  triển giáo dục cho mọi người. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MỚI NHẰM PHÁT TRIỂN  TƯ DUY SÁNG TẠO CHO NGƯỜI HỌC                                                                                  NGUY ỄN VĂN THIÊN   Tóm tắt Thực  trạng chung của nền giáo dục Việt Nam hiện nay là bên cạnh   những thành tựu đã đạt được còn khá nhiều điều bất cập, trong đó tồn tại lớn   nhất tập trung vào chất lượng đào tạo chưa cao. Phương pháp giảng dạy là   một trong những yếu tố quan trọng và  ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào   tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giảng viên,   và người học phát huy hết khả  năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội   kiến thức và phát triển tư duy cho người học.   
  11. Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm  đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách. Nghị  quyết Đại hội Đảng toàn  quốc lần thứ  X đã xác định việc đầu tư  cho giáo dục cũng có nghĩa là đầu tư  cho sự  phát triển bền vững, là đầu tư  cho nguồn nhân lực có chất lượng cao  nhằm đưa nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy, công tác  đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đội ngũ trí thức giữ  một vị  trí rất quan trọng. Đây chính là yếu tố  then chốt, mang tính quyết định   đưa đất nước đi lên như  cha ông ta đã từng nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc   gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy’’.  Thực trạng chung của  nền giáo dục Việt Nam hiện nay là  bên cạnh  những thành tựu đã đạt được còn khá nhiều điều bất cập, trong đó tồn tại lớn  nhất tập trung vào chất lượng đào tạo chưa cao. Nhiều chuyên gia, nhà khoa  học, những người có tâm huyết với sự  nghiệp giáo dục và đào tạo đã bày tỏ  quan điểm của mình về thực trạng này, đồng thời chỉ ra khá nhiều nguyên nhân   dẫn tới sự  bất cập giữa qui mô đào tạo và chất lượng đào tạo. Trong đó các   nguyên nhân chính tập trung vào sự  yếu kém, bất hợp lý trong phương pháp   giảng dạy, đội ngũ giáo viên giảng dạy, chương trình đào tạo, tài liệu học tập,   giáo trình,...  Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố  quan trọng và  ảnh   hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Một phương pháp giảng dạy khoa học,   phù hợp sẽ  tạo điều kiện để  giảng viên, và người học phát huy hết khả  năng   của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư  duy. Một   phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người thầy đồng   thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học.   Bức tranh chung về phương pháp giảng dạy tại các cấp học của chúng ta  hiện nay là tập trung vào kỹ năng tư duy phân tích, nghĩa là dạy cho người học  cách hiểu các khái niệm, thảo luận theo phương pháp định sẵn, loại bỏ những   hướng đi không đúng, tìm ra câu trả lời đúng nhất. Thậm chí, nhiều nơi phương   pháp thuyết trình (thầy giảng, trò ghi) vẫn chiếm ưu thế, nhiều giảng viên chưa   chú trọng đến đến việc giới thiệu, yêu cầu, bắt buộc người học phải tham   khảo những tài liệu gì. Phương pháp giảng dạy này đã làm mất đi một hình thái  khác của tư duy đó là tư duy sáng tạo. Tư duy sáng tạo tập trung vào khám phá  các ý tưởng, phát triển thành nhiều giải pháp, tìm ra nhiều phương án trả  lời   đúng thay vì chỉ có một. Hậu quả của phương pháp giảng dạy cũ dẫn đến sự thụ động của người   học trong việc tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên nhân tạo cho người  học sự  trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu khả  năng thuyết trình,   lười tư duy và thiếu tính sáng tạo trong tư duy khoa học.  Người học còn quan   niệm rằng chỉ  cần học những gì giảng viên giảng trên lớp là đủ. Ngoài ra sự 
  12. thụ  động của họ  còn thể  hiện qua phản  ứng của họ  đối với bài giảng của  giảng viên trên lớp. Họ chấp nhận tất cả những gì giảng viên trình bày. Sự giao   tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ mang tính một chiều. Từ  thực tế  trên cho thấy để  nâng cao chất lượng đào tạo, việc đổi mới  phương pháp giảng dạy đối với các cấp đào tạo tại Việt Nam là việc làm cấp   thiết và cần tiến hành một cách đồng bộ. Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ  cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực   chất trong cuộc sống. Điều đó làm tăng khả  năng mà thực ra là yêu cầu giảng  viên không ngừng nâng cao trình độ  hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người  giảng viên trở  thành nhân tố  kích thích trí tò mò của học viên, mài sắc thêm  năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức   và khả  năng sáng tạo. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi  phải có   những tài liệu dạy­học mới. Những tài liệu này phải gắn với các  phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến khích không chỉ khả năng nhớ mà cả  khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo của học viên. Tại Việt Nam hiện nay nhiều cơ sở đào tạo đã và đang chuyển đổi sang  một phương thức đào tạo mới, đó là phương thức đào tạo theo tín chỉ. Phương   thức đào tạo này mang lại nhiều ưu điểm, đó là sự mềm dẻo và linh hoạt trong  việc thiết kế chương trình, học viên có thể lựa chọn cho mình chương trình học  lý phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Bên cạnh đó phương thức đào  tạo theo tín chỉ giảm đi sự nhồi nhét kiến thức của người dạy và tạo điều kiện  để  người học tự  học, tự  nghiên cứu, do đó phát huy được tính chủ  động, sáng  tạo của người học. Những lợi ích của phương thức đào tạo theo tín chỉ  mang   lại là rất lớn, tuy vậy nó cũng đặt ra khá nhiều thách thức đối với giảng viên và   người học. Việc áp dụng học chế tín chỉ vào giảng dạy sẽ làm thay đổi cơ bản   cách học hiện nay.Ví dụ, người dạy cần tự quản lý về thời gian cũng như  làm   các công việc một cách độc lập (tiến hành những nghiên cứu trong ngành đào   tạo của mình). Người học cũng cần phải có quan điểm học tập là tập trung vào  việc hình thành kiến thức, óc sáng tạo và cách giải quyết vấn đề.  Nhìn rộng ra các quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới, họ đặc   biệt quan tâm đến việc phát triển tư duy sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và  khả  năng làm việc theo nhóm của người học. Các quốc gia này áp dụng nhiều  phương pháp khác nhau nhằm khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất để người học  phát triển khả  năng sáng tạo của mình. Nhiều trong số  các phương phương   pháp, chúng ta có thể  học tập và áp dụng cho Việt Nam ngay cả   ở  những   trường, đơn vị chưa áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ.  Ví dụ:
  13. Phương pháp học theo dự án (Project Based Learning) Đây là mô hình học tập có nhiều khác biệt so với mô hình học tập truyền   thống. Phương pháp học theo dự  án yêu cầu các hoạt động học tập phải được  thiết kế một cách cẩn thận, mang tính lâu dài và liên quan đến nhiều lĩnh vực   học thuật. Đây là mô hình lấy người học làm trung tâm và hòa nhập với những   vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Mục tiêu của phương pháp học theo dự  án là để học viên học nhiều hơn về một chủ đề chứ không phải là tìm ra những   câu trả lời đúng cho những câu hỏi được giáo viên đưa ra. Phương pháp này yêu   cầu học viên cộng tác với các bạn trong lớp trong một khoảng thời gian nhất   định để giải quyết những vấn đề và cuối cùng trình bày công việc mình đã làm  trước giảng viên và các học viên khác. Phương pháp này cũng đòi hỏi các học  viên phải đặt câu hỏi, đồng thời tìm kiếm những mối liên hệ và tìm ra giải pháp  để  giải quyết vấn đề. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy này sẽ  làm thay   đổi môi trường học của học viên từ  chỗ  nghe giảng viên nói sang môi trường  làm việc, tư duy.  Phương pháp học theo dự án mang đến cho học viên rất nhiều lợi ích, nó  tạo cho học viên khả năng kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, tạo nên công cụ  hỗ trợ liên ngành để giải quyết vấn đề. Đối với những vấn đề  khó, phức tạp,   phương pháp này tạo cho học viên khả  năng khám phá, đánh giá, giải thích và  tổng hợp thông tin một cách khoa học. Thông qua các hoạt động thực tế  trên  lớp, phương pháp này tạo cho học viên sự thích thú, hứng thú với việc học. Vai trò của giáo viên trong phương pháp học theo dự án có rất nhiều thay  đổi so với phương pháp truyền thống. Giáo viên không đóng vai trò là người   điều khiển tư  duy học viên mà là người hướng dẫn, người huấn luyện, người  tư vấn và bạn cùng học. Giáo viên phải tập trung vào việc hướng dẫn cho học   viên, tạo cơ  hội để  học viên phát huy hết khả  năng học tập và sáng tạo, đẩy   mạnh tinh thần đồng đội làm việc theo nhóm của các học viên. Quá trình thực hiện phương pháp học theo dự án: + Xác định một vấn đề, dự án phù hợp với học viên. + Liên kết vấn đề với thế giới, môi trường xung quanh của học viên. + Xây dựng các chủ đề xung quanh vấn đề, dự án. + Tạo cho học viên cơ  hội để  xác định phương pháp và kế  hoạch học   tập để giải quyết vấn đề.
  14. + Khuyến khích sự cộng tác bằng cách tạo ra các nhóm học tập. + Yêu cầu tất cả học viên trình bày kết quả học tập dưới hình thức một  dự án hoặc chương trình. Phương pháp người học là trung tâm (Learner ­ Centered) Đây  là   phương   pháp   đặt   học   viên  vào  vị   trí   trung   tâm   của   giáo  dục.  Phương pháp này bắt đầu với việc tìm hiểu các môi trường giáo dục liên quan   mà học viên xuất phát. Sau đó giáo viên hướng dẫn tiếp tục đánh giá tiến độ  học của học viên so với mục tiêu học, bằng cách giúp cho người học có được  các kỹ  năng cơ  bản để  học tập. Phương pháp này tạo cho học viên nền tảng   cho việc học suốt đời, vì vậy học viên phải có trách nhiệm với việc học của   bản thân. Với phương pháp này giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn học  viên trong quá trình học.  Phương pháp người học là trung tâm mang đến nhiều lợi ích, trước hết   nó loại bỏ  cách dạy và học: " Giáo viên nói, học sinh nghe", khuyến khích sự  sáng tạo từ  giáo viên và học viên một cách tối đa, đồng thời tạo nên sự  thân   thiện giữa giáo viên và người học thông qua việc tăng cường trao đổi, học hỏi  qua lại. Phương pháp người học là trung tâm tập trung sự  tham gia nhiệt tình,  chủ  động của người học trong suốt quá trình khám phá tìm tòi, đồng thời tạo   điều kiện để người học có cơ hội trình bày, bảo vệ những ý kiến sáng tạo của  mình. Các yếu tố liên quan đến phương pháp người học là trung tâm: + Bối cảnh học: Việc học chịu sự tác động của các yếu tố  môi trường  bao  gồm văn hoá, kỹ  thuật và các phương pháp giảng dạy. Giáo viên đóng vai  trò tương tác chính giữa học viên và môi trường học. Những ảnh hưởng văn hoá  có thể  tạo ra nhiều tác động liên quan mang tính giáo dục như  động cơ  học,  định hướng đối với việc học và cách tư  duy. Kỹ  thuật và phương pháp dạy   phải phù hợp với trình độ  kiến thức sẵn có, khả  năng nhận biết và các chiến  lược tư duy của học viên. + Các  ảnh hưởng đối với việc học: Việc học chịu  ảnh hưởng bởi các  mối quan hệ giao tiếp với mọi người xung quanh. Việc học có thể nâng cao khi  người học có cơ hội tiếp xúc và cộng tác với người khác. Các môi trường học   cho phép tạo ra các mối tương tác xã hội, tôn trọng tính đa dạng, khuyến khích  lối tư duy linh hoạt. Qua việc tiếp xúc và hợp tác với giáo viên hướng dẫn, cá  
  15. nhân người học sẽ có cơ hội tiếp thu nhận thức và tư duy phản ánh, từ đó phát   triển trình độ hiểu biết và hoàn thiện bản thân. + Mục đích của quá trình học: Bản chất chiến lược của việc học là đòi  hỏi học viên phải biết định hướng mục tiêu. Để nắm vững các tri thức, kỹ năng  và đạt được các chiến lược tư duy cần thiết cho việc học, học viên phải tạo ra  các mục tiêu cho bản thân và theo đuổi các mục tiêu đó. Khởi đầu, các mục tiêu  ngắn và việc học có thể  sơ sài trong một phạm vi nào đó nhưng qua thời gian,   mức độ  hiểu biết của học viên có thể  được xác định thông qua trình tự  tìm  hiểu, trao đổi và tích luỹ các tri thức cần thiết. Phương pháp Kỹ thuật tạo ra ý tưởng (Brainstorming).  Tác giả  của phương pháp Brainstorming (tạm dịch là kỹ  thuật tạo ra ý  tưởng) là Alex Osborn (Hoa Kỳ). Mục đích chính của phương pháp này là giúp   người học thoát ra khỏi tư duy theo lối mòn và tạo ra một loạt các ý tưởng mà   sau đó có thể lựa chọn. Phương pháp này áp dụng phù hợp với nhóm học viên. Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp kỹ thuật tạo ra ý tưởng:  + Tôn trọng mọi ý tưởng đưa ra: Khi các ý tưởng được đưa ra, không   được phép chỉ trích, phê bình ngay. Tất cả các ý tưởng đều được ghi chép lại và   phân tích đánh giá ở các bước sau. + Tự  do suy nghĩ: Không giới hạn việc đưa ra các ý tưởng bay bổng kể  cả  những ý tưởng khác thường bởi trên thực tế  có những ý tưởng kỳ  quặc đã   trở thành hiện thực. + Kết nối các ý tưởng: Cải thiện, sửa đổi, góp ý xây dựng cho các ý   tưởng. Các câu hỏi thường đặt ra: Ý tưởng được đề  nghị  chất lượng thế nào?.   Làm thế nào để ý tưởng đó đem lại hiệu quả? Cần thay đổi gì để  ý tưởng trở  nên tốt hơn?... + Cần quan tâm đến số lượng các ý tưởng: Tập trung suy nghĩ khai thác  tạo ra khối lượng lớn các ý tưởng để  sau đó có cơ  sở  sàng lọc. Có hai lý do  chính để  cần số  lượng lớn các ý tưởng. Thứ  nhất những ý tưởng lúc đầu học  viên đưa ra thông thường là các ý tưởng hiển nhiên, cũ, ít có tính sáng tạo, vì  vậy cần có phương pháp để  học viên tạo ra nhiều ý tưởng mới. Thứ  hai các ý  tưởng giải pháp càng nhiều, càng có nhiều ý tưởng để lựa chọn. Ngoài các phương pháp đã đề  cập trên đây còn khá nhiều các phương  pháp   khác   đã   được   phát   minh,   nghiên   cứu   và   áp   dụng   vào   giảng   dạy   như 
  16. phương pháp Học thực tiễn của David A. Kolb, phương pháp Quản lý ý tưởng  (Ideas Management), phương pháp 6 chiếc nón tư duy ( Six Thinking Hats)…. Qua việc phân tích một số phương pháp giảng dạy có thể nhận định các  phương pháp này có rất nhiều sự  khác biệt so với phương pháp truyền thống.   Trong đó sự  khác biệt cơ  bản nhất là vai trò của người học và người dạy đã  thay đổi, sự  thay đổi này đã biến quá trình học của học viên từ  thụ  động sang  chủ  động, từ  việc nghe giảng sang hoạt động tư  duy, làm việc độc lập, làm  việc theo nhóm và kích thích khả năng sáng tạo của họ.  Trở lại với hoạt động giáo dục đào tạo ở Việt Nam, vấn đề cốt lõi vẫn  là  cần tìm giải pháp khắc phục những tồn tại  ảnh hưởng trực tiếp đến chất  lượng đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo chúng ta cần phải cải tiến đổi  mới đồng bộ về nhiều mặt: chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, đội  ngũ giáo viên, ...   Trong đó việc đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ  là một  trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo một cách  bền vững. Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ tạo điều kiện tốt cho người học  có thể  phát huy hết khả  năng tư  duy của mình, biến quá trình học của người   học thành quá trình phát triển tư duy sáng tạo.                                                                                           N.V.T Tài liệu tham khảo 1.      Parners in learning, Mô hình trường học thế kỷ 21, Microsoft, 2008.  2.       Parners in learning,  Chương trình hướng dẫn đồng nghiệp, Microsoft,  2008.  3.       Pai  Obanya,  Juma  Shabani,  Peter  Okebukola  “  Guide  to  Teaching  and  Learning in  Higher Education”   http://www.breda­guide.tripod.com  4.      Tạp chí thư viện Việt Nam. Số 7/2009. 5.       Nguồn nhân lực thông tin thư viện ở Việt Nam trước yêu cầu sự nghiệp   công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất  nước,  Kỷ yếu hội thảo khoa học,   Đại học Quốc gia Việt Nam, 2009
  17. Giáo dục là điều kiện tiên quyết ứng phó với biến đổi khí hậu GD&TĐ)­Biến đối khí hậu (BĐKH) đã trở thành một trong những thách thức lớn nhất  của thời đại chúng ta. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, nhận thức về phát triển  bền vững, diễn biến của BĐKH và nguyên nhân gây ra BĐKH trong xã hội và nhà  trường ngày nay dường như còn rất mờ nhạt. hực trạng GD BĐKH trong nhà trường Ở Việt Nam, kiến thức về giáo dục môi trường (GDMT), BĐKH tuy không tổ chức  thành môn học cụ thể nhưng được đưa vào chương trình giáo khoa theo hướng tích  hợp, lồng ghép (dưới ba dạng: tích hợp toàn phần; tích hợp, lồng ghép bộ phận; liên  hệ) ở các cấp học. Ở Tiểu học, các đơn vị kiến thức này được tích hợp và lồng ghép  ở các phân môn Địa lí và Lịch sử, Kể chuyện, tìm hiểu Tự nhiên – Xã hội; Đạo đức,…  Ở cấp THPT và THCS được tích hợp trong các môn như Sinh học, Địa lí, Vật lí, Hóa  học, hướng nghiệp,… với nội dung và thời lượng khá nhiều.  Ngoài việc tích hợp và lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn  học, nhà trường phổ thông còn tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa dưới hình thức  phong phú như tổ chức thi tìm hiểu về môi trường, thi vẽ tranh, trồng cây xanh, lao  động dọn dẹp vệ sinh khuôn viên nhà trường, tổ chức các câu lạc bộ, hội thảo, dã  ngoại, đố vui, hát múa kể chuyện về môi trường,…Các tổ chức phi chinh phủ và giáo  dục không chính qui đã tiến hành nhiều hoạt đông thiết thực về giáo dục môi trường  cho nhiều cộng động dân cư khác nhau và đã thu đươc nhiều kết quả có ý nghĩa. PGS. TS Đặng Văn Phan (ĐH Cửu Long, Vĩnh Long) nhận định, mục tiêu khi đưa vào  chương trình giáo khoa được các nhà khoa học, các nhà sư phạm xác định khá rõ ngay  từ chương trình thí điểm cho đến giảng dạy đại trà. Ngoài mục đích chính là cung cấp  kiến thức tổng quát về những nội dung trên, các nhà giáo còn hướng đến việc hình  thành các kĩ năng, thói quen, các giá trị và hành vi tham gia bảo vệ môi trường cũng  như xây dựng và hình thành thái độ, chính kiến của các em đối với những vấn đề xảy  ra trong thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, theo Ths. Trần Thị Huyền (ĐH An Giang), công tác giáo dục bảo vệ môi  trường trong những năm qua chưa làm cho học sinh hiểu biết sâu sắc và đầy đủ các  kiến thức và có những kỹ năng để hành động, giúp các em trở thành các công dân có  trách nhiệm trong việc tạo nên một xã hội bền vững. Cùng nhận định như vậy, PGS. TS Đặng Văn Phan (ĐH Cửu Long, Vĩnh Long) cho  rằng, một số nội dung giáo dục môi trường, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững,…  triển khai chưa đồng bộ, hệ thống, cập nhật và mang tính kế thừa giữa các lớp, các  cấp học; trong một số trường hợp, những ví dụ minh họa hay hướng triển khai, phân  tích không đúng, gây hoang mang trong người học hay vấn đề vượt quá khả năng nhận 
  18. thức của học sinh. Bên cạnh đó, mỗi môn học được triển khai theo một hướng riêng  nên nhiều khi, cùng một khái niệm nhưng lại được định nghĩa, nhìn nhận theo nhiều  hướng khác nhau. Thời lượng giảng dạy cho các môn (Địa lí, Sinh học, Hướng nghiệp, …) được lồng ghép các đơn vị kiến thức này không nhiều nên khi giảng dạy, giáo viên  chỉ cố gắng đảm bảo đủ chương trình, đủ thời lượng mà chưa chú trọng đến việc  phân tích, mở rộng hay liên hệ nhằm củng cố, khắc sâu hoặc sử dụng các tri thức bản  địa vào thực tế bài học, cuộc sống của học sinh... Giáo dục BĐKH vì sự phát triển bền vững không đơn thuần là dạy học về BĐKH Khẳng định GDBĐKH vì sự phát triển bền vững không đơn thuần là dạy học về biến  đổi khí hậu, PGS. TS Trần Đức Tuấn Trung tâm nghiên cứu và Hỗ trợ Giáo dục vì sự  phát triển bền vững, ĐH Sư phạm Hà Nội cho rằng, GDBĐKH thông qua các hoạt  động đa dạng của mình phát triển ở người học nhận thức và năng lực ứng phó với  biến đổi khí hậu, đồng thời giúp cho người học có được những hành vi thái độ bảo vệ  theo những định hướng cơ bản của giáo dục vì sự phát triển bền vững (GDVSPTBV).  Với tư cách là một bộ phận quan trọng của GDPTBV, GDBĐKH không nên và không  cần thiết phải làm cho người học hoảng sợ, bi quan về tương lai với những rủi ro và  tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu mà cần thiết phải giúp cho học sinh và các  cộng đồng dân cư vững tin về triển vọng tốt đẹp của bảo vệ khí hậu và thích ứng  thành công với biến đổi khí hậu trong tương lai.  PGS. TS Trần Đức Tuấn cho rằng, mục tiêu và định hướng cơ bản của GDBĐKH cần  phải là giúp người học quan tâm vấn đề bảo vệ khí hậu, hiểu rõ nguyên nhân và hậu  quả của BĐKH; giúp các cá nhân và cộng đồng tiếp cận được với những giải pháp  bảo vệ và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu và tại các địa phương; phát triển  năng lực hành động ứng phó với biến đổi khí hậu chứ không đơn giản là kiến thức, kĩ  năng liên quan đến BĐKH; thay đổi hành vi­thái độ (đây được xem là nội dung và mục  tiêu hàng đầu GDBDKH); tăng cường các giá trị và sáng tạo. Để thực hiện được mục  tiêu này cần thiết kế những chương trình đổi mới về GDBĐKH; phát triển xu hướng  học toàn cầu trong GDBĐKH; liên minh các lực lượng giáo dục để thực hiện thành  công GDBĐKH…  PGS.TS. Phạm Xuân Hậu ­ Viện NCGD­ ĐHSP.TP Hồ Chí Minh kiến nghị, Bộ  GD&ĐT cần có kế hoạch chiến lược cùng với lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương và  địa phương thống nhất về nhận thức và cộng đồng trách nhiệm, chủ động phối hợp  thực hiện các biện pháp khắc phục và bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu biến đổi  khi hậu vì sự phát triển bền vững. Nhà trường và các thầy cô giáo cần giúp học sinh  hiểu sâu hơn về bản chất, ý nghĩa của phát triển bền vững; những hiện tượng môi  trường tác động làm biến đổi khí hậu và hậu quả của chúng với sự phát triển bền  vững, trong đó đặc biệt chú ý đến nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu chủ yếu là do  con người (90%) gây ra từ các hoạt động sản xuất đời sống sinh hoạt hàng ngày. Đồng  thời, cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể xã hội  triển khai các hoạt động (thi tìm hiểu, thực hành tại chỗ..) giữ gìn vệ sinh môi trường, 
  19. tiết kiệm điện, trồng cây xanh khu cư trú… và sẵn sàng sống chung với biến đổi khí  hậu Tích hợp giáo dục môi trường vì sự phát triển bền vững vào môn văn học DVHNN) Cùng với sự phát triển ngày càng cao của đời sống văn minh nhờ khoa học ­  kĩ thuật và tham vọng chinh phục tự nhiên của con người, trước hết là con người ở các  nước tư bản phương Tây, nhân loại lại đang phải đối mặt trước thảm hoạ hủy diệt  môi trường sống, hủy diệt chính ngôi nhà Trái đất của mình. Khắp nơi diễn ra tình  trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, khí hậu đang nóng lên từng ngày, mực nước  biển cũng dâng lên từng ngày, thiên tai ngày càng khốc liệt đang diễn ra ở nhiều nơi  trên trái đất.    (DVHNN) Cùng với sự phát triển ngày càng cao của đời sống văn minh nhờ khoa học ­ kĩ thuật và  tham vọng chinh phục tự nhiên của con người, trước hết làcon ngườiởcác nướctư bảnphương Tây,  nhân loại lại đang phải đối mặt trước thảm hoạ hủy diệt môi trường sống, hủy diệt chính ngôi nhà  Trái đất của mình. Khắp nơi diễn ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, khí hậu đang nóng  lên từng ngày, mực nước biển cũng dâng lên từng ngày, thiên tai ngày càng khốc liệt đang diễn ra ở  nhiều nơi trên trái đất. 1. Phát triển bền vững là khát vọng đồng thời là một thức nhận của nhân loại Cùng với sự phát triển ngày càng cao của đời sống văn minh nhờ khoa học ­ kĩ thuật và tham vọng chinh phục  tự nhiên của con người, trước hết làcon ngườiởcác nướctư bảnphương Tây, nhân loại lại đang phải đối mặt  trước thảm hoạ hủy diệt môi trường sống, hủy diệt chính ngôi nhà Trái đất của mình. Khắp nơi diễn ra tình  trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, khí hậu đang nóng lên từng ngày, mực nước biển cũng dâng lên từng  ngày, thiên tai ngày càng khốc liệt đang diễn ra ở nhiều nơi trên trái đất. Đặc biệt và tiêu biểu là thảm họa  động đất và sóng thần kéo theo nổ nhà máy điện nguyên tử ở Fukujima Nhật Bản ngày 11/3 vừa qua. Thảm  họa này không chỉ là nỗi mất mát đau thương vô cùng to lớn về con người và tài sản của người Nhật, mà còn  đem lại sự hoảng loạn đối với nhân dân nhiều nước xung quanh. Mặc dù có sự đồng cảm chia sẻ sâu sắc  bằng cả tinh thần và vật chất của nhân loại với người Nhật, song nhân loại cũng được cảnh tỉnh về sự phát  triển không bền vững mà nhiều quốc gia đã và đang nhằm tới. Bên cạnh đó chiên tranh, khung bô đ ́ ̉ ́ ẫm mau vân đang la nôi đau nh ́ ̃ ̀ ̃ ức nhôi cua nhân loai, cung v ́ ̉ ̣ ̀ ới no la tê nan ́ ̀ ̣ ̣   ̣ ̣ ma tuy, đai dich HIV lan tran trên nhiêu quôc gia khu v ́ ̀ ̀ ́ ực. Nhưng đ ̃ ường dây buôn ban phu n ́ ̣ ữ va tre em, bênh  ̀ ̉ ̣ ̣ ̀ ̣ ́ ́ ới. Tê nan tham nhung, phân hoa giâu ngheo diên ra  tât đoi ngheo luôn đe doa 1/4 dân sô trên thê gi ́ ̣ ̣ ̃ ́ ̀ ̀ ̃ ở nhiêu  ̀ nươc c ́ ơ hô dân t ̀ ̃ ơi nh ́ ưng chông đôi xa hôi ngay cang cao lam biên đôi môi tr ̃ ́ ́ ̃ ̣ ̀ ̀ ̀ ́ ̉ ường xa hôi v ̃ ̣ ốn chưa được yên  ổn nay lại càng không yên ôn. Tiêu bi ̉ ểu cho hiện tượng môi trường xã hội phát triển không bền vững là cuộc  cách mạng “hoa lài” – cuộc cách mạng đòi công bằng tự do dân chủ đang diễn ra sôi nổi ở Bắc Phi và đang  lan sang Tây Á. ́ ̉ ưng v Tât ca nh ̃ ấn đề trên la diên mao môi tr ̀ ̣ ̣ ường thê gi ́ ới đang phát triển không bễn vững ở thập niên đâu thê  ̀ ́ ̉ ̣ ky XXI ma nhân loai đang h ̀ ưng chiu. Nó nh ́ ̣ ư hồi chuông cảnh tỉnh lương tri của nhân loại cân phai han chê  ̀ ̉ ̣ ́ ̣ ̣ va ngăn chăn kip th ̀ ơi nh ̀ ững tệ nạn trên, mơi mong co môt môi tr ́ ́ ̣ ường sông t ́ ự nhiên va xa hôi trong lanh va an ̀ ̃ ̣ ̀ ̀   ninh mới đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Vấn đề này đòi hỏi nhân loại cần thức nhận lại cách ứng xử  với môi trường tự nhiên, cần từ bỏ những nguyên tắc sống cũ, chuyển sang nguyên tắc sống thân thiện, hài  hòa với tự nhiên, xây dựng môi trường sinh thái mang tính nhân văn, mới bảo đảm sự phát triển hài hòa và  bền vững.
  20. Phát triển bền vững đang được UNESCO và nhiều nước trên thế giới quan tâm là một quá trình vận hành hài  hòa giữa phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và gìn giữ môi trường trong sạch dưới sự vận hành  của văn hóa con người. Phát triển bền vững cần đảm bảo sự phát triển của ngày hôm nay và cho các thế hệ  mai sau. Như vậy phát triển bền vững cần quan tâm tới ba nhân tố: phát triển kinh tế để nâng cao đời sống  vật chất và tinh thần cho con người; cần xây dựng một xã hội đảm bảo công bằng quyền lợi chính đáng của  mọi con người; con người và xã hội còn cần môi trường sống trong lành. Cả ba nhân tố này phải hướng đến  vì con người thì sự phát triển mới được bền vững. Trong ba nhân tố trên thì nhân tố kinh tế là tiền đề của  phát triển còn môi trường tự nhiên và xã hội là hai nhân tố quan trọng thể hiện sự phát triển bền vững. Về  mặt thời gian, phát triển bền vững đòi hỏi đảm bảo lợi ích cuộc sống con người ngày hôm nay mà còn phải  quan tâm đến lợi ích của thế hệ mai sau. Trong quá trình tương tác vào tự nhiên và xã hội để phát triển, mỗi cộng đồng dân tộc tùy theo điều kiện của  môi trường sống khác nhau (bao gồm cả môi trường tự nhiên và xã hội – còn gọi là môi trường sinh thái) sẽ  có những thái độ và cách ứng xử không giống nhau. Từ đó con người sáng tạo nhiều giá trị văn hóa khác  nhau. Những giá trị văn hóa này chính là sự kết tinh lâu đời kinh nghiệm ứng xử với môi trường tự nhiên và  xã hội, đã góp phần minh chứng sự thích ứng và sáng tạo văn hóa của mỗi cộng đồng trong quá trình phát  triển. Những giá trị này được ghi chép lại trong nhiều tài liệu sách vở, trong đó có tác phẩm văn học. Giáo dục là một trong những phương tiện hữu hiệu bảo lưu các giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng và hướng  tới sự PTBV. Thông qua việc tích hợp kiến thức từng môn học với mục tiêu và nội dung của PTBV, giáo viên  có thể đem lại đổi mới từ nhận thức đến tình cảm và hành động cho học sinh trong nhà trường và ngoài xã  hội. Cũng qua các cấp của hệ thống giáo dục, từ mầm non lên đại học với số lượng học sinh, sinh viên vô  cùng đông đảo, có mặt ở khắp mọi vùng miền đất nước, những kiến thức về phát triển bền vững sẽ nhanh  chóng được nhân lên và hiệu quả của giáo dục từ thay đổi nhận thức đến tình cảm sẽ giúp cho đông đảo thế  hệ trẻ ­ người xây dưng tương lai đất nước có những hành động đúng đối với môi trường và sự phát triển  bền vững. ­ Văn học là môn học dùng hình tượng nghệ thuật để nhận thức về con người và xã hội, giáo dục bảo lưu  những giá trị văn hóa của cộng đồng và hướng con người đến những tình cảm thẩm mĩ. Văn học do con  người và vì con người. Phát triển bền vững cũng do con người và vì con người. Vậy nên văn học cũng có thể  tích hợp những kiến thức về phát triển bền vững đem lại những nhận thức mới tình cảm mới và hành động  cao đẹp hướng tới những giá trị của sự phát triển bền vững. 2. Thế nào là tích hợp GDPTBV 2.1 Tích hợp kiến thức là một quy luật tất yếu của nhận thức khi lượng thông tin luôn bùng nổ. Đó là sự lồng  ghép một cách hợp lí, hài hòa những kiến thức khoa học khác nhau vào một môn học hoặc ngành học nào đó.  Vì vậy tích hợp không chỉ đòi hỏi kiến thức rộng mà còn cần cả nghệ thuật liên tưởng và thuyết giảng và  cũng cần tôn trọng những nguyên tắc nhất định. 2.2. Người giảng dạy văn học trước hết phải có khối lượng kiến thức nhất định về môi trường và phát triển  bền vững, mới có thể vận dụng hợp lí và hài hòa trong khi giảng về sự phát triển bền vững. 2.3 Dạy văn lâu nay vẫn được coi là một công việc khó khăn, ít làm học sinh hứng thú, lại thêm tích hợp về  sự phát triển bền vững một cách khiên cưỡng dễ biến giờ văn thành giờ thuyết lí về chính trị, kinh tế hoặc  môi trường… thì chắc hiệu quả tích hợp không được bao nhiêu. Vì vậy cần lưu ý không biến giờ văn học  thành giờ thuyết lí suông về phát triển bền vững. 2.4 Cần thông qua ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, của cốt truyện hay nhân vật với những hoàn cảnh sống  cụ thể mà khái quát về môi trường sống và sự phát triển bền vững… 3. Những nội dung tích hợp GDPTBV trong văn học 3.1 Nắm vững triết lí về sự phát triển bền vững
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2