
Giao tiếp với trẻ chưa biết nói
Phương pháp dạy con
I. Ngôn ngữ của trẻ chưa biết nói :
Trẻ có thể biết được trẻ đang muốn điều gì, nên trẻ tìm cách biểu lộ, tức
là tìm cách giao tiếp với người xung quanh để truyền đạt những gì chúng
muốn “nói” nhưng chưa “nói” được.
Ngôn ngữ trước hết là một hành vi giao tiếp xã hội. Sự giao tiếp xã hội
phát triển rất sớm và dễ dàng ở trẻ mặc dù người lớn không nhận thấy
được.
1.
Trước khi chào đời :

Hoạt động và cảm xúc của bào thai gắn liền với hoạt động và cảm xúc
của người mẹ và chuẩn bị cho sự giao tiếp của trẻ sau khi chào đời.
1/ Khả năng nghe của bào thai :
Các sóng não của trẻ sinh non cho thấy sự đáp ứng rõ rệt với âm thanh
ngay từ đầu các tuần thứ 27 của thai kỳ. Vào tuần thứ 28, âm thanh của
tiếng gõ từ bên ngoài sẽ tạo nên phản ứng tức thời của mắt. Mắt có khả
năng chớp trong bào thai từ tuần thứ 26. Nếu nhận thấy đứa bé chưa sinh
ra có dấu hiệu quá im lặng và không cử động, hãy thử đặt một máy thu
thanh nhỏ lên bụng người mẹ và mở một loại nhạc nào đó. Tức khắc bào
thai đáp ứng lại tiếng nhạc bằng các chuyển động.
2/ Khả năng nhìn của bào thai :
Khi một ngọn đèn sáng được bật và tắt trên bụng mẹ, bào thai qua hình
ảnh siêu âm có thể thấy có biểu hiện chớp mắt, nhưng xảy ra chậm hơn
một giây so với nháy mắt tức thời đáp ứng với tiếng động. Trẻ sinh non

30 đến 31 tuần đã phát triển xu hướng nhìn.
Cha mẹ có thể giao tiếp với trẻ rất sớm từ lúc bào thai mới 7 tháng: kêu
tên, trò chuyện, cho trẻ nghe nhạc….
2.
Sau khi chào đời :
1/ Khả năng nhìn của trẻ sơ sinh:
Trẻ sơ sinh thích nhìn vào khuôn mặt bố mẹ cách trẻ 20-25 cm và chỉ tập
trung vài phút. Đó là khoảng cách mà từ đó bé nhìn thấy khuôn mặt của
mẹ khi đang bú. Trẻ có khả năng bắt chước và phản ứng theo các nét
mặt khá phức tạp và chú ý đến các chi tiết trên khuôn mặt của cha mẹ.
Thậm chí, trẻ sơ sinh còn đặc biệt phản ứng theo những thay đổi phức
tạp của cảm xúc trên khuôn mặt người mẹ. Các giai đoạn tập trung nhìn
ngắn ngủi này xảy ra ngay sau khi sinh và trong suốt thời kỳ đầu này tạo

điều kiện cho bé có sự tiếp xúc mắt với mắt, một nhân tố quan trọng
trong giao tiếp của con người. Trong sự trao đổi ánh mắt này, cuộc đối
thoại đầu tiên bắt đầu; cả cha mẹ và đứa bé dường như đang say sưa trao
đổi với nhau. Anh mắt nhìn đầu đời của bé và niềm yêu thương nâng niu
vô bờ bến của cha mẹ dành cho bé đã tạo nên mối quan hệ gần gũi ngày
càng phát triển hơn.
2/ Khả năng nghe của trẻ sơ sinh :
Trẻ sơ sinh rất nhạy cảm đối với tiếng người. Trong khi trao đối ánh mắt
nhìn, cuộc nói chuyện với bé ngày càng nên thú vị hơn. Trẻ sơ sinh thích
nghe giọng nói của mẹ hơn các phụ nữ khác, cũng như sau này thích
nghe giọng của cha hơn các người đàn ông khác . Sự ưa thích đối với
giọng của mẹ có thể là kết quả quá trình lắng nghe liên tục giọng nói của
mẹ trong thời gian mang thai. Việc tiếp xúc với âm thanh lớn trong quá
trình mang thai có thể gây tổn hại đến bào thai, dẫn đến sự khiếm khuyết
về thính giác ở trẻ sơ sinh. Khi sinh, nếu người cha đón nhận trẻ bằng
cách hát, thì trong vòng một giờ đầu tiên, bé phát ra những âm thanh

nhỏ,”ừ,ừ, à, à” như đang bắt chước hay phản ứng theo tiếng nhạc được
nghe. Và bé dễ dàng nín khóc khi nghe tiếng nhạc ghi âm hoặc tiếng hát
của cha mẹ. Việc đọc đi đọc lại những câu chuyện trong 6 tuần rưỡi cuối
của thời kỳ mang thai sẽ có tác dụng làm bé sơ sinh muốn nghe lại cùng
câu chuyện đó và bú nhanh hơn.
Bé có thể phân biệt được giọng nói, cường độ âm và tiết tấu. Bé ưa thích
giọng nói có tính trấn an (nhẹ nhàng và êm dịu) hơn các giọng tức giận
(đanh sắc, mạnh bạo, cộc cằn). Những khả năng này tùy thuộc vào cách
thức nói chuyện của cha mẹ đối với bé. Chú trọng nhiều hơn vào nguyên
âm cho bé tập quen dần với ngôn ngữ mẹ.
Trước 6 tháng tuổi, bé có thể phân loại âm thanh, và sau một thời gian,
bé sẽ biểu lộ phản ứng với âm thanh ngôn ngữ xa lạ.
3/ Nụ cười:
Từ 4 đến 6 tuần tuổi, nụ cười là một hành vi giao tiếp với người khác.

