
ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
108
GIỚI THIỆU THANG ĐO TRÍ THÔNG MINH VĂN HÓA
CỦA SOON ANG VÀ CÁC CỘNG SỰ
Lƣờng Thị Định*, Vi Văn Hƣơng, Nguyễn Thị Ngọc, Phan Thùy Linh
Trường Đại học Tây Bắc
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài: 12/6/2023
Ngày nhận đăng: 28/5/2023
Email:luongthidinh@utb.edu.vn
Từ khoá: Trí thông minh; Trí thông
minh văn hóa; Thang đo trí thông
minh văn hóa.
Việc đo lường và đánh giá chỉ số trí thông minh văn hóa của cá
nhân và các đội nhóm trong doanh nghiệp và các cơ sở giáo dục
có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển bền vững
của các tổ chức và doanh nghiệp nhằm đảm bảo hiệu suất học
tập, làm việc cũng như khả năng thích nghi trong môi trường đa
văn hóa mới. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề này còn khá mới mẻ.
Đặc biệt chưa có thang đo riêng để đánh giá chỉ số thông minh
văn hóa và cũng chưa có bộ công cụ nào được nghiên cứu và Việt
hóa sử dụng ở nước ta. Thang đo trí thông minh văn hóa này có
cấu trúc đơn giản với bộ 20 câu hỏi khảo sát dành cho cá nhân và
người quan sát theo bốn nhóm chỉ số cụ thể. Bài báo giới thiệu về
khái niệm, cấu trúc, quá trình phát triển và nội dung thang đo trí
thông minh văn hóa của Soon Ang và các cộng sự.
1. Đặt vấn đề
Trí thông minh văn hóa đã và đang được
nghiên cứu phổ biến trong nhiều lĩnh vực, đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế, trong các công ty
đa quốc gia để nhằm tìm hiểu và có những giải
pháp phù hợp với khả năng thích ứng trong môi
trường làm việc đa văn hóa của nhân viên,
(xem Earley,P.C, & Ang, S, 2003 [8]). Nhiều
nghiên cứu đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
trí thông minh văn hóa trong việc nâng cao hiệu
quả giao tiếp và tương tác giữa nhân viên với
cán bộ quản lý và giữa nhân viên với nhau,
đồng thời cũng khẳng định việc sở hữu trí
thông minh văn hóa tốt sẽ giúp con người thể
hiện tốt hơn cả về nhận thức và kỹ năng ứng
xử, xử lý công việc, nhìn nhận và đánh giá các
vấn đề từ đó cỏ khả năng tiếp nhận và xử lý
thông tin một cách bình tĩnh và hiệu quả hơn,
(xem Earley, M, 2007 [10]). Trong lĩnh vực
giáo dục, trí thông minh văn hóa của sinh viên
cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới tập trung làm sáng rõ như các nghiên cứu ở
Ireland (Shannon & Begley, 2008), Đài Loan
[14], Mỹ (Dẫn theo [3]), New Zealand (Dẫn
theo [13]) và Hàn [17].
Các nghiên cứu liên quan đến trí thông
minh văn hóa trong lĩnh vực giáo dục đều
khẳng định trí thông minh văn hóa có tác động
tích cực đến khả năng nhận thức liên văn hóa
của người học (Lin et al., 2012)[14], góp phần
giúp người học cởi mở hơn trong việc trải
nghiệm các giá trị văn hóa mới, đồng thời, với
việc sở hữu trí thông minh văn hóa cao, sinh
viên sẽ thể hiện tốt hơn trong quá trình học tập,
phát triển bản thân cả về trí tuệ, tinh thần, và
sức khỏe thể chất (xem Lee, L.Y&Sukoco,B.
M,2010 [13]). Họ cũng khẳng định việc tiến
hành khảo sát và đánh giá mức độ chỉ số trí
thông minh văn hóa của lãnh đạo, nhân viên và
học sinh, sinh viên trong cơ quan, doanh nghiệp
và trường học là điều tất yếu nhằm đảm bảo
quá trình thực hiện các công việc, nhiệm vụ của
mỗi cá nhân đạt được hiệu quả cao nhất, tích
cực nhất mà vẫn xây dựng được môi trường học
tập, làm việc văn minh, tôn trọng, trách nhiệm,
đoàn kết và hiệu quả (theo Soon Ang & Van
Dyne, 2015, [3]). Bài báo sẽ giới thiệu thang đó
trí thông minh văn hóa do (xem Soon Ang, et
al. 2007,[1]) phát triển theo mô hình bốn chỉ số
(xem Earley&Ang, 2003[8]) đã và đang được
sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu về lĩnh
vực kinh tế,giáo dục và nhiều lĩnh vực khác.
Bài báo là sản phẩm nghiên cứu khoa học
của đề tài cấp bộ năm 2023 – 2024: “Nghiên
cứu trí thông minh văn hóa của sinh viên các
trường cao đẳng và đại học vùng Tây Bắc”; Mã
số: B2023-TTB-01; đề tài cấp Cơ sở 2022 -
2023: “Xây dựng Thang đo trí thông minh văn
hóa cho sinh viên Trường Đại học Tây Bắc”;
Lường Thị Định và cs (2024) - (35): 108- 118

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
109
Mã số: TB2022-15 và đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Trường của sinh viên: “Thực trạng trí
thông minh văn hóa của sinh viên Trường Đại
học Tây Bắc”.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm về trí thông minh văn hóa
2.1.1. Khái niệm
Trí thông minh văn hóa là một khả năng
quan trọng của mỗi cá nhân, phù hợp với các
khái niệm hiện đại về trí thông minh, đó chính
là khả năng thích ứng và điều chỉnh một cách
phù hợp và hiệu quả theo các môi trường khác
nhau (theo Cantor & Kihlstrom, 1985 [7]). Trí
thông minh văn hóa cũng quan trọng như các trí
thông minh phi học thuật khác như trí thông
minh cảm xúc (EQ) và trí thông minh nhận
thức (IQ), vì chúng đều quan trọng đối với các
mối quan hệ cá nhân và trong sự hiệu quả của
công việc và học tập trong thế giới ngày càng
phụ thuộc lẫn nhau, ngày càng hội nhập mạnh
mẽ ngày nay (xem Earley, 2007, [10]). Trí
thông minh văn hóa là một dạng bổ sung khác
của trí thông minh và nó thể hiện khả năng
thích ứng với sự đa dạng và tương tác giữa các
nền văn hóa khác nhau. Nó được hình thành và
phát triển từ bốn chỉ số chính là siêu nhận thức,
nhận thức, động lực và hành vi.
Với nhiều cách hiểu về trí thông minh văn
hóa. Tuy nhiên, khái niệm về trí thông minh
văn hóa của nhóm nghiên cứu Soon Ang và các
cộng sự được nhiều nghiên cứu đồng tình và sử
dụng: “Trí thông minh văn hóa là năng lực của
một người để hoạt động và quản lí hiệu quả
trong môi trường làm việc đa dạng văn hóa”
(theo Soon Ang & Van Dyne, 2015, [3; tr3-
15]).
2.1.2. Cấu trúc thang đo trí thông minh
văn hóa
Trí thông minh văn hóa có thể được cấu trúc
bởi 4 chỉ số (siêu nhận thức, nhận thức, động
lực và hành vi). Hai thành phần đầu tiên được
đo bằng các bài kiểm tra trí thông minh chung,
nhưng trong bối cảnh khác nhau và sự tương
tác của các nền văn hóa, trong phạm vi mà trí
thông minh bao gồm sự tương tác của con
người theo tình huống khác nhau, hai chỉ số
siêu nhận thức và nhận thức có thể hoàn toàn
khác với những thành phần được thể hiện trong
một tình huống kiểm tra trí thông minh bình
thường (xem Soon Ang et al. 2007,[1], 2015,
[3]). Bốn chỉ số của trí thông minh văn hóa
được hiểu như sau:
1- Siêu nhận thức (MetaCognitve CQ): Chỉ
số siêu nhận thức đề cập đến mức độ nhận thức
văn hóa có ý thức của một cá nhân trong quá
trình tương tác liên văn hóa. Người có trí thông
minh văn hóa siêu nhận thức cao thường đặt
câu hỏi một cách có ý thức về các giả định văn
hóa của chính họ, phản ánh trong quá trình
tương tác và điều chỉnh kiến thức văn hóa của
họ khi tương tác với những người từ các nước
khác, các nền văn hóa khác. Chỉ số siêu nhận
thức liên quan đến các chiến lược nhận thức
cấp cao hơn cho phép các cá nhân phát triển các
kinh nghiệm và quy tắc mới phục vụ cho các
tương tác xã hội trong môi trường văn hóa mới
lạ, bằng cách thúc đẩy quá trình xử lý thông tin
ở mức sâu hơn [1]. Chỉ số siêu nhận thức là một
thành phần quan trọng của trí thông minh văn
hóa bởi những lý do quan trọng sau. Đầu tiên,
nó thúc đẩy tư duy tích cực về con người và các
tình huống khác nhau trong các bối cảnh văn
hóa khác nhau; Thứ hai, nó đưa đến những
thách thức tích cực đối với sự phụ thuộc cứng
nhắc vào những giả định và lối suy nghĩ hạn
hẹp liên quan đến văn hóa; Thứ ba, nó thúc đẩy
các cá nhân điều chỉnh và sửa đổi các chiến
lược của họ sao cho bản thân họ phù hợp hơn
về mặt văn hóa và có nhiều khả năng đạt được
kết quả như cá nhân mong muốn trong những
cuộc gặp gỡ và giao tiếp liên văn hóa. Do đó,
chỉ số siêu nhận thức phản ánh các quá trình
tâm lý và tinh thần mà các cá nhân sử dụng để
đạt được và hiểu được kiến thức văn hóa, bao
gồm kiến thức về khả năng kiểm soát quá trình
suy nghĩ của bản thân liên quan đến văn hóa.
Các khả năng liên quan bao gồm lập kế hoạch,
giám sát và sửa đổi các mô hình tinh thần về
chuẩn mực văn hóa cho phù hợp với các quốc
gia, cộng đồng hoặc một nhóm người nhất định
(theo Soon Ang và cs, 2007[1],
Earley&Mosakowdki, 2004, [9]).
2-Nhận thức (Cognitive CQ): Nếu chỉ số
siêu nhận thức tập trung vào các quá trình nhận
thức bậc cao, thì chỉ số nhận thức phản ánh
kiến thức về các chuẩn mực, thông lệ và quy
ước trong các nền văn hóa khác nhau thu được

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
110
từ kinh nghiệm giáo dục và kinh nghiệm, trải
nghiệm của cá nhân. Do đó, chỉ số nhận thức
của trí thông minh văn hóa phản ánh chủ yếu
đến mức độ hiểu biết về văn hóa hoặc kiến thức
về môi trường văn hóa của một cá nhân. Kiến
thức văn hóa bao gồm kiến thức về bản thân
được lồng ghép trong bối cảnh văn hóa của các
môi trường văn hóa khác nhau. Với sự đa dạng
của các nền văn hóa trong thế giới đương đại,
trí thông minh văn hóa nhận thức chỉ ra kiến
thức về văn hóa toàn cầu cũng như những kiến
thức về sự khác biệt văn hóa. Chỉ số nhận thức
của trí thông minh văn hóa là một thành phần
quan trọng bởi vì kiến thức về văn hóa ảnh
hưởng đến suy nghĩ và hành vi của con người.
Hiểu được văn hóa của một xã hội và các thành
phần của văn hóa của xã hội đó cho phép các cá
nhân đánh giá tốt hơn các hệ thống hình thành
và gây ra các mô hình tương tác xã hội cụ thể
trong một nền văn hóa.
3- Động lực ( Drive CQ): Chỉ số thông minh
văn hóa động lực của trí thông minh văn hóa
phản ánh khả năng hướng sự chú ý và năng
lượng của mỗi cá nhân tới việc tìm hiểu và vận
động trong các tình huống được tạo ra bởi sự
đặc trưng, khác biệt về văn hóa. Những người
có chỉ số trí thông minh động lực cao sẽ hướng
sự tập trung và năng lượng trực tiếp tới các tình
huống đa văn hóa dựa trên mối quan tâm nội tại
và niềm tin vào hiệu quả giao tiếp và tương tác
đa văn hóa. Chỉ số thông minh văn hóa động
lực cũng là một thành phần quan trọng của trí
thông minh văn hóa vì nó là nguồn thúc đẩy
cho mọi sự vận động trong mỗi cá nhân. Nó
kích hoạt nỗ lực và năng lượng hướng tới việc
hoạt động hiệu quả trong môi trường văn hóa
mới lạ.
4- Hành vi (Behavioral CQ): Cuối cùng, chỉ
số thông minh văn hóa hành vi của trí thông
minh văn hóa phản ánh khả năng thể hiện bằng
lời nói phù hợp cũng như việc sử dụng các hành
động phi ngôn ngữ khi tương tác với những
người đến từ các nền văn hóa khác nhau. Chỉ số
thông minh văn hóa hành vi đề cập đến mức độ
mà một cá nhân hành động phù hợp (cả bằng
lời nói và không bằng lời nói) trong các tình
huống giao thoa văn hóa khác nhau. Chỉ số
thông minh văn hóa hành vi là một thành phần
quan trọng của trí thông minh văn hoá bởi vì và
các hành vi ngôn ngữ và phi ngôn ngữ là những
đặc điểm nổi bật nhất của các tương tác xã hội.
Như Hall (1959) đã nhấn mạnh, năng lực tinh
thần để hiểu biết về văn hóa và tạo động lực
phải được bổ sung và thể hiện bằng lời nói và
các hành vi phi ngôn ngữ phù hợp, dựa trên các
giá trị văn hóa của một bối cảnh cụ thể. Khi các
cá nhân bắt đầu và duy trì các tương tác mặt đối
mặt, họ không tiếp cận được những suy nghĩ
tiềm ẩn, cảm xúc, hoặc động lực của nhau (xem
Soon Ang et al. 2007,[1]), Tuy nhiên, họ có thể
dựa vào những gì họ nhìn thấy và nghe thấy
trong giọng nói, khuôn mặt và các biểu hiện
bên ngoài khác. Chỉ số hành vi của trí thông
minh văn hóa của các nền văn hóa khác nhau
theo ba cách cơ bản sau: (a) trong phạm vi cụ
thể của các hành vi được thể hiện; (b) trong các
quy tắc hiển thị chi phối khi nào và theo những
hoàn cảnh cụ thể nào thì các biểu hiện phi ngôn
ngữ được yêu cầu, ưu tiên, cho phép hoặc bị
cấm; và (c) trong các diễn giải hoặc ý nghĩa
được quy cho hành vi phi ngôn ngữ cụ thể.
Chính vì vậy mà những cá nhân có trí thông
minh văn hóa hành vi cao sẽ rất linh hoạt và có
thể điều chỉnh hành vi của mình theo đặc thù
của từng tình huống, bối cảnh tương tác văn
hóa khác nhau (theo Soon Ang và cs, 2007,[1],
Earley&Mosakowdki, 2004, [9]).
2.1.3. Vai trò của trí thông minh văn hóa
Trí thông minh văn hóa có vai trò quan trọng
trong mọi khía cạnh của cuộc sống trong bất kỳ
một giai đoạn xã hội nào, đặc biệt là trong xu
hướng toàn cầu hóa hiện (theo Soon Ang và cs,
2007[1]). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc
sở hữu chỉ số trí thông minh văn hóa cao sẽ
giúp mỗi cá nhân tiếp cận, hội nhập và phát
triển nhanh chóng hơn đồng thời góp phần tích
cực cho sự phát triển của cơ quan, tổ chức,
trường học và doanh nghiệp mà các cá nhân
tham gia học tập và làm việc. Nhiều học giả
trên thế giới khẳng định trí thông minh văn hóa
chính là thước đo năng lực thích ứng trong môi
trường liên văn hóa của mỗi cá nhân trong đó
bao gồm khả năng nhận định và xử lý trong các
tình huống xã hội khác nhau, khả năng điều
chỉnh bản thân để đảm bảo đem lại hiệu quả
giao tiếp tốt nhất, đồng thời bao gồm các Chỉ số
liên quan đến kết quả công việc, chẳng hạn như
sự hài lòng trong công việc, khả năng điều
chỉnh trong công việc, hiệu suất công việc được

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
111
thực hiện [4], [7] và khả năng chia sẻ kiến thức
trong các môi trường học tập và làm việc khác
nhau, đặc biệt là môi trường liên văn hóa. Điều
này khẳng định tầm quan trọng của trí thông
minh văn hóa trong mọi lĩnh vực đời sống xã
hội, kinh tế, chính trị và giáo dục. Đây cũng
chính là lý do cơ bản cho sự ra đời của nhiều
nghiên cứu về trí thông minh văn hóa trên thế
giới trong nhiều cơ quan, tổ chức với nhiều lĩnh
vực khác nhau.
Để khẳng định tầm quan trọng của trí thông
minh văn hóa với sự phát triển của cá nhân và
cơ quan, tổ chức (xem Earley & Mosakowski,
2004,[9]), nhiều nghiên cứu đã đưa ra các dữ
liệu khoa học khẳng định rằng các nhóm làm
việc đa văn hóa sẽ có hiệu quả công việc tốt
hơn nếu trong nhóm có nhiều người có chỉ số
văn hóa cao hơn, đồng thời họ cũng sẽ có khả
năng phản hồi và thích nghi với những thay đổi
trong môi trường đa văn hóa tốt hơn (theo
Bhawwuk&Brislin, 2000,[4], Black & cs, 1999,
[5], 2006,[6]. Các nhà nghiên cứu cũng khẳng
định người có chỉ số trí thông minh văn hóa cao
sẽ có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ lời nói
và ngôn ngữ hình thể hiệu quả hơn, từ đó nâng
cao hiệu quả giao tiếp trong mọi môi trường
học tập và công việc. Sở hữu trí thông minh
văn hóa cao chính là việc sở hữu khả năng xây
dựng và nhận diện tình huống giao tiếp một
cách kỹ lưỡng theo từng chi tiết, diễn biến của
tình huống từ đó vận dụng hiệu quả kiến thức,
năng lực, khả năng ứng xử, cử chỉ, và lời nói để
cá nhân có cách tiếp cận, hành xử phù hợp, đảm
bảo hiệu quả công việc và học tập trong từng
văn cảnh khác biệt của các không gian tương
tác đa văn hóa. Khẳng định được những giá trị
này, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nhiều
cuộc khảo sát, nghiên cứu về trí thông minh
văn hóa, so sánh trí thông minh văn hóa với các
nhóm trí thông minh khác để từ đó củng cố
thêm vai trò của trí thông minh văn hóa trong
sự phát triển của mỗi cá nhân và xã hội (xem
Earley & Mosakowski, 2004,[9]).
Trí thông minh văn hóa là một yếu tố vô
cùng quan trọng giúp cho quá trình giao tiếp trở
nên hiệu quả và đi đến những kết quả tích cực
hơn. Trí thông minh văn hóa tăng mức độ đổi
mới, phát huy tối đa khả năng về giải quyết vấn
đề, tạo môi trường thoải mái, tự tin, không có
sự phân biệt, khuyến khích sự cạnh tranh lành
mạnh. Cụ thể, trí thông minh văn hóa có vai trò
nhất định như:
Tạo nên sự hài hòa. Bằng cách tăng cường
trí thông minh, các thành viên trong nhóm trở
nên từ bi và nhạy cảm với các ý kiến khác nhau
và nhận thức văn hóa. Khi các đồng nghiệp
thích nghi và có thể hòa nhập vào nền văn hóa
của nhau, họ có thể phát triển một nền văn hóa
hòa hợp, giúp dễ dàng làm việc hiệu quả hơn tại
nơi làm việc. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo có trí
tuệ văn hóa cao có thể dễ dàng xây dựng mối
quan hệ gắn kết nhóm mạnh mẽ hơn. Ví dụ, các
bài tập xây dựng nhóm có thể khuyến khích các
thành viên hiểu điểm mạnh và điểm yếu của
nhau và cho phép họ cùng nhau giải quyết
vấn đề.
Kết nối trong giao tiếp. Trí thông minh văn
hóa là một công cụ quan trọng trong số các
thành phần của giao tiếp hiệu quả tại nơi làm
việc, đặc biệt là trong một tổ chức lớn với các
đặc điểm văn hóa khác nhau. Giao tiếp tại nơi
làm việc về cách hành vi được nhìn nhận trong
một môi trường xa lạ. Một nhóm thông minh về
văn hóa có thể dễ dàng hiểu nhau hơn và tương
tác hiệu quả hơn, dẫn đến ít thông tin sai
lệch hơn.
Tạo ra một môi trường làm việc hiệu quả.
Các tổ chức phụ thuộc vào khả năng của nhóm
trong việc xác định các cơ hội đổi mới, chẳng
hạn như phát triển và triển khai các chiến lược
mới để bán sản phẩm ở một lãnh thổ mới. Trí
thông minh văn hóa có thể phát triển khả năng
của một người để thích ứng với một nhóm nhân
khẩu học mới nổi đồng thời tạo ra một môi
trường mà mọi người đều cảm thấy đủ thoải
mái để nói lên ý kiến của mình.
Livermore cảnh báo rằng trí thông minh văn
hóa không phải bẩm sinh mà là một kỹ năng
phát triển đi kèm với huấn luyện, đào tạo và đối
thoại. Ông nói, với sự quan tâm, hỗ trợ và thực
hành, bất kỳ ai cũng có thể học hỏi và phát triển
trí thông minh văn hóa. Có thể thấy, trí thông
minh văn hóa đòi hỏi con người ta phải luôn cố
gắng để học hỏi, tiếp thu nhiều hơn những giá
trị văn hóa đặc sắc đó. Trí thông minh văn hóa
được cho dường như là khả năng bẩm sinh của
con người. Tuy nhiên, nó hoàn toàn có thể tôi
luyện, rèn giũa qua quá trình lắng nghe và tiếp
xúc thực tế với nhiều môi trường đa văn hóa.

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
112
Từ đó, nó có thể hình thành các phản xạ có điều
kiện dựa trên những kinh nghiệm mà ta tích lũy
được (theo Duckworth et al, 2007, [18]).
2.2. Quá trình phát triển thang đo trí thông
minh văn hóa của nhóm nghiên cứu Soon
Ang và các cộng sự
Năm 2007 nhóm nghiên cứu bao gồm Ang,
Van Dyne, Koh, Templer, Tay, và
Chandrasekar đã xuất bản một bài báo về công
cụ đo lường và giá trị dự đoán của trí thông
minh văn hóa trong trong một tạp chí đánh giá
về quản lý và tổ chức. Bài báo đã cung cấp
bằng chứng thực nghiệm về công cụ thước đo
gồm 20 câu hỏi về trí thông minh văn hóa theo
mô hình thước đo trí thông minh văn hóa gồm
bốn nhóm Chỉ số (Earley và Ang, 2003) [8] và
khẳng định được tính ổn định qua các nhóm đối
tượng nghiên cứu khác nhau, trong thời gian
khác nhau và các quốc gia khác nhau. Quan
trọng hơn cả là nghiên cứu đã thể hiện một ý
nghĩa quan trọng, một cột mốc quan trọng trong
nghiên cứu về trí thông minh văn hóa bằng
cách chỉ ra rằng nó khác biệt và có giá trị dự
đoán hơn hẳn các hình thức trí thông minh và
tính cách khác.
Kể từ năm 2004, các học giả từ các nền văn
hóa khác nhau trên khắp thế giới đã bắt đầu sử
dụng thang đo này để tăng cường hiểu biết về
các Chỉ số dự đoán, hệ quả và vai trò của trí
thông minh văn hóa, những chỉ số tác động
trung gian và khả năng điều tiết trong các tình
huống liên quan đến các nhóm năng lực chính
của trí thông minh văn hóa (Earley & Ang,
2003, [8]).
Nhóm nghiên cứu bao gồm Dyne, Ang &
Koh (2008) đã định vị trí thông minh văn hóa
một cách rõ ràng như một tập hợp các khả
năng, được thể hiện trong nhiều tài liệu về trí
thông minh. Theo đó, trí thông minh văn hóa là
một cấu trúc rõ ràng hơn để đánh giá nhiều khía
cạnh khác nhau trong năng lực về giao thoa văn
hóa trong một công cụ duy nhất, dựa trên cơ sở
lý thuyết toàn diện, và cấu trúc mạch lạc. Bộ
công cụ thang đo chỉ số trí thông minh văn hóa
được nhóm phát triển với sự tách biệt rõ ràng
của bốn Chỉ số siêu nhận thức, nhận thức, động
lực và hành vi chính là ví dụ điển hình cho sự
vượt trội của công cụ thang đo trí thông minh
văn hóa này (xem Black. J.S và các cs,
1999,[5]).
Mỹ và Singapore về 4 khía cạnh, bốn chỉ số
thông minh văn hóa khác nhau của trí thông
minh văn hóa, sau đó đưa ra những phân tích,
đánh giá cụ thể về các kết quả nghiên cứu,
Dyne, Ang và Koh (2008) đã khẳng định trí
thông minh văn hóa có cấu trúc bốn chỉ số rõ
ràng, mạch lạc và có ý nghĩa. Từ góc độ lý
thuyết, kết quả của sáu nghiên cứu này chỉ ra
rằng thang đo trí thông minh văn hóa với 20
câu hỏi cụ thể là thước đo trí thông minh văn
hóa đáng tin cậy và hợp lệ.
Các ứng dụng tiềm năng của thang đo trong
nghiên cứu cơ bản bao gồm việc khám phá sâu
hơn về bản chất và tính đa chiều của trí thông
minh văn hóa. Ví dụ, nghiên cứu trong tương
lai có thể kiểm tra các thành phần phụ cho từng
nhân tố của trí thông minh văn hóa. Ví dụ, nó
sẽ rất thú vị và hữu ích để kiểm tra trí thông
minh văn hóa như một Chỉ số dự đoán lựa chọn
vào các vị trí lãnh đạo toàn cầu [15]. Nó cũng
sẽ có thể được vận dụng hiệu quả để kiểm tra
mức độ mà trí thông minh văn
2.3. Thang đo trí thông minh văn hóa của
Soon Ang và các cộng sự
2.3.1. Nội dung thang đo
Thang đo trí thông minh của nhóm nghiên
cứu Soon Ang và các cộng sự được thiết kế với
2 loại thang đo: Thang đo tự đánh giá dành cho
cá nhân tự đánh giá và thang đo dành cho người
quan sát, nghiên cứu đánh giá. Cụ thể nội dung
2 thang đo như sau:
2.3.1.1. Thang đo tự đánh giá dành cho cá
nhân tự đánh giá
Bộ công cụ thang đánh giá trí thông minh
văn hóa do Ang, Van Dyne, Koh, Ng, Templer,
Tay và Chandrasekar (2007) [1] phát triển dựa
trên mô hình bốn Chỉ số của Earley và Ang
(2003) bao gồm bốn nội dung thông tin cho trí
thông minh văn hóa siêu nhận thức, sáu nội
dung thông tin liên quan đến nhận thức, năm
nội dung thông tin phản ảnh trí thông minh tạo
động lực, và năm nội dung liên quan đến trí
thông minh văn hóa hành vi:
Thang đo bằng tiếng Anh được dịch sang
tiếng Việt cụ thể như sau: Đọc từng câu và
chọn câu trả lời mô tả đúng nhất khả năng của