HÌNH TƯỢNG RỒNG TRONG
MỸ THUẬT CỔ VIỆT NAM
Đầu rồng (Hoàng thành Thăng Long)
Từ xa xưa con Rồng đã có trong tâm thức người Việt, nhiều huyền thoại về rồng,
với biểu hiện linh thiêng. Rồng là điểm hội tụ với ý nghĩa vũ trụ và nhân sinh.
Chúng ta có nguồn cội Lạc Hồng (Lạc Long Quân và Âu Cơ). Rồng là biểu tượng
vật linh trong tín ngưỡng văn hoá dân gian. Rồng được sáng tạo thành hình tượng
nghệ thuật và có mặt trong các thời kỳ nghệ thuật truyền thống của các vương
triều tự chủ.
Hình tượng con Rồng sáng tạo không chỉ mang tính ứng dụng trang trí trong
Hoàng cung, các ngôi Chùa, cung Điện mà còn có giá trcái đẹp tạo hình. Hình
tượng Rồng phát triển ở các vương tri
ều, mỗi thời đều có đặc điểm phong cách đặc
trưng. Cơ sở nhận diện hình tượng trên các phần thể hiện: Đầu Rồng (mắt, mũi,
mồm, râu, bờm, sừng); hình dáng thân Rồng (các khúc uốn lư
ợn); các chi tiết (vây,
móng, đuôi) và đối chiếu với niên đại di tích để xác định Rồng các thời:
- Rồng thời Lý (thế kỷ XI-XII): Thăng Long nơi rồng vàng xuất hiện, cũng là nơi
ơng triều Lý (1010-1125) xây dựng nhiều công trình kiến trúc hoàng thành,
chùa, tháp mở đầu cho độc lập tự chủ của Đại Việt. Duy trì gìn giữ những biểu
tượng Rồng truyền thống vốn có lâu đời của dân tộc, các nghệ nhân thời Lý đã
sáng tạo hình tượng Rồng, đưa lại ý nghĩa mới. Hình tượng Rồng chỉ thực sự phát
triển từ triều Lý, trở thành biểu tượng cao quý, quyền uy của Vương quyền và linh
thiêng của Thần quyền (đạo Phật là Quốc giáo). Nó thể hiện trong các hợp thể
nghệ thuật đường nét uyển chuyển, tinh tế, bố cục hoàn chỉnh, phong cách độc
đáo. Hình tượng Rồng có kiểu dáng nhất quán, được nghệ nhân tuân thủ triệt để.
Bất kỳ hình rồng ở di tích nào dù ở cách xa nhau, dù làm vào những năm khác
nhau, dù là kiến trúc vương quyền hay kiến trúc thần quyền, thì hình tượng con
Rồng Lý đều có kiểu dáng và cấu trúc chung. Đặc điểm hình tư
ợng: Đầu Rồng với
cổ ngước cao. Mắt Rồng to tròn và hơi lồi. Trên lông mày kết xoắn hình s
ố 3 ngửa
(theo nhãn vòng Kim cô nhà Phật), và trán kết xoắn hình chS ký hiệu hình chớp
(ý niệm về hiện tượng tự nhiên sm - chớp), uy lực của Phật Pháp Lôi, Pháp Điện.
Hai bên dưới mang tai có dải bờm nhiều tua kết vào nhau uốn lượn vút ra sau.
Chòm râu dưới cằm kết xoắn uốn lượn. Mũi Rồng cũng được kéo dài thành hình
vòi. Mào của Rồng hơi uốn khúc, chung quanh có viền kiểu ngọn lửa. Quanh đầu
mây quấn có những viên ngc lơ lửng. Miệng rồng há rộng hứng ngọc. Môi dưới
ngắn, lưỡi dài uốn lượn vươn ra đỡ lấy viên ngọc. Hai hàmrăng nanh nhọn kéo
dài uốn cong liền sát mũi. Cũng còn có loại đầu Rồng: cổ uốn khúc xuống rồi
ngược lên. Hình dáng thân Rồng thể hiện theo lối nhìn nghiêng, uốn lượn mềm
mại (như hình giun đất uốn lượn). Các khúc uốn lượn phình to và co lại gần nhau
(như hình túi phình đáy, miệng co) đặt xuôi, đặt ngược đều đặn, liên t
ục thu dần về
đuôi. Mình Rồng tròn để trơn (chỉ có vẩy trên thân rồng to, chạm nông nên trông
vẫn trơn mượt). Toàn bộ thân hình Rồng nở về phần đầu, thu nhọn về phía đuôi,
quy gọn vào mt nửa hình Đề. Rồng Lý 4 chân có khuỷu và mỗi chân đều 3
móng.
Các di vật mỹ thuật thời Lý còn lại đến ngày nay không nhiều, những hình tượng
Rồng còn lại ở các Chùa (như các chùa: Dạm, Phật Tích, Long Đội, Chương Sơn,
Quỳnh Lâm, Báo Ân, Linh Xứng, Sùng Nghiêm, Diên Thánh ... và mới tìm thấy
thêm ở Hoàng thành Thăng Long (2000-2005) hình Rồng trên g
ốm thời đầu lập đô
nhà Lý. Những hình tượng Rồng không chỉ là mô típ trang trí chau chuốt, tinh tế,
thanh mảnh mà còn là hình tượng sinh động. Nội dung tư tư
ởng thẩm mỹ, bộc lộ ý
nghĩa tín ngưỡng dân gian cổ của cư dân nông nghiệp, tâm hồn khoáng đạt thanh
cao, hàm chứa trí tuệ uyên bác.
- Rồng thời Trần (TK XIII- XIV): trong chm khắc, còn có tượng Rồngthành
bậc thành quách, lăng mộ và chùa. Hình tượng Rồng có nhiều thay đổi so với thời
Lý. Thân Rồng to mập, khoẻ chắc, khúc nới ra uốn lượn đều đặn hình sin thu dần
về đuôi. Đầu xuất hiện cặp sừng, đôi tai và những chi tiết mới. Hình dáng R
ồng uy
nghi mang ý nghĩa mới của vương triều. Nổi rõ phong cách với những hình khối,
đường nét mập khỏe, tinh lọc giản dị, vững chãi mà không nặng nề, không tĩnh
của cốt cách truyền thống. Tượng Rồng ở khu lăng mộ An Sinh (Thế kỷ XIV
Đông Triều Quảng Ninh). Điển hình đôi tượng (thành bậc cửa lăng vua Trần
Anh Tông, dài 1.70m) mình tròn mập, đuôi dài và nhọn. Bốn chân to khỏe, có bốn
móng nhọn. Đầu dữ tợn, mào kéo dài ra phía trư
Bờm tóc to trải dài, những chòm lông quanh cổ hình xoắn ốc dựng lên. Trên thân
có chạm vẩy. Đôi tượng Rồng (ở thành nhà Hồ, dài 3.60m) đầu bị gãy mất, còn l
ại
từ má bờm uốn sóng đều đặn trải dài nhọn. Thân Rồng dài và mập, có vẩy hình
vòng cung, uốn khúc cong sáu nhịp đều đặn thon đến cuối đuôi.
Hình dáng Rồng thời Trần đa dạng, nên trong cùng một thời gian, những chi tiết
hình Rồng đã có những khác nhau. Chẳng hạn: Có dạng đuôi thẳng vút nhọn, lại
có đuôi xoắn tròn, hay có đuôi chạm văn xoắn ốc. Có Rồng chạm 3 móng, lại có
Rồng 4 móng. Hình Rồng với bốn khúc uốn, trên bệ tượng chùa Thanh Sam (ứng
Hòa - Hà Tây nay là Hà Nội) chạm đầu quay lại nằm gọn trong khúc uốn lớn. Râu
uốn lượn dài, hai chân trước to, giơ ba móng. Cũng Rồng với bốn khúc uốn thì
chạm đá bệ tượng chùa Đô Quan (Yên Khang, ý Yên, Nam Định), khúc lớn vòng
qua đầu, ba khúc uốn còn lại gần như thẳng. Râu uốn lượn dài, hai chân trước to
bốn móng. Lại có hình Rng với bảy khúc uốn chạm đá bệ tượng chùa Thầy (Sài
Sơn, Quốc oai, Hà Tây) dáng Rồng trườn lên phía trước. Đầu ngước ngậm ngọc,
hai mào dài xoắn lại, bờm tỏa dài uốn lượn ra phía sau, vây rồng nhọn cao. Bốn
chân to với bốn móng nhọn, Còn có các đầu Rồng (đất nung) thấy ở Tháp Phổ
Minh (Nam Định), hay ở Đông Triều - Quảng Ninh,Hoàng thành Thăng Long.
Hoặc có hình Rồng trang trí trên gạch gốm tráng men chùa Hoa Yên (Yên T-
Quảng Ninh),
- Rồng thời Lê sơ (TK XV): phát triển trên cơ sở tiếp thu Rồng thời Trần, cơ bản
vẫn giữ hình dáng thân uốn cứng cáp, to khoẻ, mào và sừng ở đầu trông dữ hơn.
Nổi bật hình tượng đôi Rồng trên các thành bậc đá (làm thời vua Lê Thánh Tông
(1470-1497), như: điện Lam Kinh (1433) và Điện Kính Thiên (1467). Đôi Rồng
uốn khúc bò ttrên nền thềm điện xuống (đặt lối lên chính giữa). Đầu Rồng to,
hai nhánh sừng nhô cao, mắt lồi, bờm mượt cuộn ra sau. Lưng Rồng nhô hình vây
nhọn theo khúc uốn. Một tay Rồng cầm lấy râu. Chân Rồng chạm 5 móng sắc
nhọn, các hình xoắn trang trí bên thân Rồng, kết hợp với mây đao lửa. Đó là mô
típ trang trí điển hình mang đặc trưng thời Lê Sơ. Hình tượng Rồng trang nghiêm,
râu bm và sừng nổi cao dũng mãnh uy quyền. Những chạm khắc trìu tượng hình
rồng uốn khúc ở mặt ngoài thành bậc đá của điện Lam Kinh (Thanh Hóa), Điện
Kính Thiên, Đàn Nam Giao (Hà Nội) trong khung tam giác vuông viền hình hoa
chanh, đều chạm hoa văn hoa sen, hoa cúc và lá cách điệu, mây xoắn cuộn, nổi
giữa là hình đao ngọn lửa (gọi là mây đao lửa). Còn thấy hình Rồng 4 móng kết
với hình mây hoa lá trên các văn bia (Văn Miếu). Những chạm khắc hình Rồng và
các mô típ Mây đao lửa, hoa văn với nét chạm sắc sảo, điêu luy
ện, bố cục chặt chẽ
với đặc trưng riêng, tiêu biểu phong cách thời Lê Sơ.
- Rồng thời Mạc (TK XVI): Hình tượng Rồng thời Mạc kế thừa rồng truyền thống
Lý, Trần, và cả rồng thời Lê sơ. Đặc điểm chung là: thân mập, uốn lượn đều đặn,
bờm kéo dài uốn theo xuống nửa lưng, mây đao lửa điểm xuyết trên thân, sóng
cuộn dưới bụng, chân ngắn, lông khủyu sợi đơn uốn xoắn. Đầu rồng có sừng hai
chạc, hai mắt lồi, mũi sư tử, mồm thú nhô ra phía trước. Các chân Rồng thường
chạm 4 móng. Hình tượng rồng phát triển trên các chạm khắc Chùa và Đình làng.
Còn hình: Rồng, phượng, lân trang trí trên gạch chùa Ông, chùa Trăm gian,
chùa Bối Khê.. Hoặc Gốm đất nung: Rồng, Phượng, con Xô, con Kìmgắn trên
bờ nóc, bờ giải, các đầu đao, tầu mái: cung điện, đình, chùa. Hiện còn th
ấy hai đầu
rồng: có sừng hai chạc, mắt lồi, tai to, mồm sư tử cao 0.85cm trên hai b mái ở
chùa Mui (Hà Tây cũ). Hình Rồng mây trang trí trên gm dáng uốn lượn, thân
hình khỏe chắc. Đình là công trình to lớn, đòi hỏi nhu cầu thẩm mỹ với giá trị
nghệ thuật. Những thành phần kiến trúc gỗ vn nặng nề, thô mộc của kết cấu Kiến
trúc gỗ. Ta thấy chạm đề tài Tlinh, như các đầu dư chạm “Đầu Rồng ngậm