MBA trong tầm tay
(P6)
SỰ KẾT HỢP GIỮA CÁC YÊU CẦU VỀ
NHÂN SỰ VÀ CHUYÊN MÔN
Cho đến giờ, chúng ta đã phác thảo những nhiệm
vụ mà Lucy phải thực hiện trong công việc của
mình, những nhiệm vụ cần thiết cấu thành yêu cầu
chuyên môn của công việc. Chúng ta cũng đã bàn
luận đến tính cách của Lucy cũng như việc chúng
liên quan đến công việc của cô như thế nào. Hiển
nhiên, Lucy và công việc của cô là rất phù hợp. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa
rõ việc quản lý của Lucy sẽ bắt đầu tạo ra sự phù hợp đó ra sao.
Hầu hết các nhà quản lý sẽ đơn giản chỉ phân công công việc, giải thích yêu
cầu của công việc và sau đó hy vọng Lucy sẽ thực hiện công việc theo quy
trình đã được thiết lập từ trước. Trong một thời gian dài, những bước thực
hiện như thế này đã trở thành quy chuẩn và dẫn đến hiệu suất trong công việc.
Tóm lại, các yêu cầu chuyên môn được đáp ứng và công việc tiến hành đều.
Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với các nhu cầu của con người - như kỳ vọng, lòng
tin cá nhân, tính sáng tạo và sự phát triển của riêng Lucy - những thứ này xem
qua có vẻ dễ dàng bị bỏ qua, đặc biệt khi Lucy tin vào nỗ lực tốt nhất của cô,
bất kể điều gì.
Khoảng 30 năm trở lại đây, thậm chí từ trước đó nữa, một loạt các cuộc
nghiên cứu đã được tiến hành về tổ chức và tái tổ chức công việc. Một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất được phát hiện ra thông qua các cuộc
nghiên cứu này là: Những nhân viên càng được khuyến khích tự tổ chức và
quản lý công việc của mình theo các cách phù hợp nhất với phong cách sẵn có
của họ (đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và đòi hỏi của công việc), thì quá trình
thực hiện công việc trong một thời gian nhất định sẽ tốt hơn và sự tận tâm
dành cho tổ chức cũng cao hơn. Mặc dù nguyên tắc này có vẻ hiển nhiên và
đã được chứng minh trong công việc thực tế, tuy nhiên, phải mãi đến gần đây,
nhiều nhà quản lý mới bắt đầu tuân theo.
Ngày càng nhiều tổ chức cho thành lập những Đội tự quản công việc và nó
phù hợp với nguyên tắc đã được nêu trên. Mục đích của xu hướng này là
khuyến khích các Nhóm làm việc mà không cần đến sự giám sát ngoại vi -
thay vào đó là dựa vào nguồn lực bên trong của chính họ như lãnh đạo Nhóm,
đề ra các kế hoạch, phụ trách chất lượng, quản trị mối quan hệ của các thành
viên… Tâm điểm của hoạt động này chính là tính tự quản, tức cho phép và
khuyến khích các nhân viên đưa những đặc điểm cá nhân mình vào công việc
Những nhân viên giống Lucy ít cần đến sự giám sát. Một nhà quản lý có thể
giao việc cùng với những nguồn lực để cô thực hiện công việc đó, còn mình
rút lui vào hậu trường. Điều này không có nghĩa công việc của nhà quản lý đó
kết thúc ở đây. Rút lui vào hậu trường có nghĩa là để Lucy tự kiểm soát bản
thân mình; nó không có nghĩa là nhà quản lý không còn đóng vai trò gì nữa
trong công việc. Đến một lúc nào đó, Lucy sẽ cần thêm các nguồn lực, ngoài
các chính sách, sự đào tạo đặc biệt, các cơ hội, sự bàn luận và cả sự giúp đỡ
để tiếp cận những người quan trọng trong hệ thống tổ chức.
Vai trò của nhà quản lý cần trở thành một người tạo điều kiện hoặc huấn
luyện viên hơn là người quản lý, một người cố vấn đầy kinh nghiệm hơn là
một ông chủ, một người có thể duy trì được hiểu biết về môi trường làm việc
chung rộng lớn hơn nhằm giúp các nhân viên làm việc.
Điều đặc biệt quan trọng đối với một nhà quản lý là kiên định chú ý đến mọi
thứ đáp ứng những quan điểm về công việc của các cá nhân như thách thức,
tính đa dạng trong công việc, hiểu toàn bộ quá trình làm việc, được làm điều
gì đó có ý nghĩa và khiến các nhân viên cảm thấy có giá trị khi là thành viên
của tổ chức. Khi các nhân tố này được đáp ứng, thì nhân viên sẽ gần như gắn
bó chặt chẽ với công việc, cũng như với con người và tổ chức đó (chúng ta sẽ
bàn luận vấn đề này sâu hơn tại phần sau với nội dung về sự tận tâm của nhân
viên).
Việc hiểu tất cả những điều này theo cách chung mới chỉ là bước thứ nhất.
Bước quan trọng tiếp theo là phải áp dụng nó vào thế giới đặc biệt của mỗi cá
nhân nhân viên.
Điều gì khiến công việc trở nên thách thức hơn với Lucy? Điều gì sẽ đáp ứng
được sự đa dạng trong nhu cầu của cô? Những khía cạnh nào trong công việc
của Lucy sẽ tạo ra sự toàn vẹn? Điều gì sẽ đem lại ý nghĩa của công việc
trong con mắt của cô? Và những thứ gì cô coi là có giá trị? Phải đứng trên lập
trường của chính Lucy để trả lời những câu hỏi này, chứ không phải từ quan
điểm của ông chủ cô .
Việc cần thiết để bản thân các nhân viên thiết kế và tái thiết kế cách thức để
họ có thể chỉ dẫn công việc của mình nằm trong định đề đã được đề cập trước
đó. Kết quả sẽ là công việc được thực hiện tốt hơn và nhân viên sẽ tận tâm
hơn với tổ chức.
TẠO NÊN NHỮNG MỐI LIÊN HỆ CÁ NHÂN PHÙ HỢP: HIỂU GIÁ
TRỊ CỦA NHAU
Lucy thường làm việc gần gũi với Fred. Dù kết hợp với nhau rất tốt trong
công việc chung nhưng họ lại rất khác nhau về tính cách và những quan điểm
về giá trị bản thân. Lucy là một người nguyên tắc và tập trung, tiến hành công
việc theo một kế hoạch định trước, xử lý tốt các chi tiết công việc, giữ bình
tĩnh và thận trọng nếu phải giải quyết các rắc rối, thích giao thiệp với mọi
người và có sự tự tin. Ngược lại, Fred có xu hướng tự do, có thể lùi bước hoặc
tiến tới trong công việc, không có kế hoạch trong công việc của mình như thể
anh ta chỉ phác thảo toàn bộ bức tranh mà không hề có chi tiết, mất kiểm soát
nếu có rắc rối, thỉnh thoảng anh ta cũng thích làm việc cùng người khác
nhưng thường xuyên không đưa ra định kiến của mình và khó đưa ra các
quyết định. Fred coi mình là thành viên sáng tạo của bộ đôi (Fred và Lucy) và
anh coi Lucy như một người thực hiện trực tiếp các ý kiến của mình. Lucy
đồng ý.
Sự khác nhau giữa Lucy và Fred có thể dễ dàng là nguồn gốc của mâu thuẫn.
Thực tế, cho đến khi có đủ hiểu biết về những khác biệt của nhau, họ cũng
trải qua nhiều va chạm. Lucy cố gắng làm cho Fred trở thành người có tính tổ
chức hơn và thường xuyên than phiền rằng anh ta không bao giờ hăng hái với
điều mình đang làm. Fred cũng than phiền rằng Lucy không có bất cứ sự sáng
tạo gì và thường chú ý quá nhiều đến các chi tiết. Thực ra, cả hai người đều
bổ sung cho nhau rất tốt, thực tế họ đã tạo ra sự cân bằng và cùng hướng tới
công việc chung, người này bù đắp cho chỗ thiếu hụt của người kia. Lucy học
cách tin tưởng những linh cảm của Fred khi giải quyết các vấn đề và Fred học
cách tham khảo ý kiến Lucy khi công việc cần đến kế hoạch và tổ chức.
Cả Lucy và Fred đều có chung một ông sếp là Larry và sự khác nhau giữa
Lucy và Fred khiến cho cuộc đời trở nên thú vị đối với ông. Larry có cách
nhìn thế giới tương tự như Lucy và đó là lý do vì sao ông tuyển dụng Lucy
trước tiên. Fred làm việc ở đó trước. Và ngay từ đầu, Larry đã cố gắng một
cách khó khăn để hiểu được Fred. Ông cũng trải qua những thất vọng tương
tự như Lucy sau khi cô được tuyển vào làm việc chung cùng Fred, nhưng
Larry đã bắt tay làm việc ngay, không phải đợi cho đến khi Lucy đánh giá
được Fred thì Larry mới bắt đầu đánh giá được cậu chàng này. Thực tế, khi
tuyển dụng Lucy vào làm việc chung với Fred, Larry đã hy vọng rằng Lucy
có thể thay đổi anh ta. Kết quả thực tế, như đã thấy, thậm chí còn tốt hơn
mong đợi. Và trong trường hợp này, Larry đã trở thành nhà quản lý thành
công. Ông đã học được rằng (như hầu hết các nhà quản lý hiệu quả cần phải
học): Sự đa dạng trong tính cách của các nhân viên chính là vốn quý để nuôi
dưỡng. Hơn thế nữa, ông cũng học được rằng, việc cố gắng thay đổi một
người nào đó dưới quyền bạn không chỉ phí thời gian mà thực tế còn làm
ngược lại nguyên tắc xây dựng một Đội nhân viên mạnh.
Việc hiểu giá trị lẫn nhau theo cách này sẽ nuôi dưỡng những mối quan hệ
công việc hiệu quả và cùng lúc đó góp phần phát huy hết những phẩm chất
sẵn có trong mỗi cá nhân nhân viên cũng như nhà quản lý. Trong trường hợp
của Fred và Lucy, ranh giới giữa họ đã không còn quá khó để vượt qua và
thậm chí trong mối quan hệ giữa Larry và Fred cũng có thể nói như vậy.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi thế giới tâm lý và ý thức cá tính của một nhân
viên quá khác biệt so với nhà quản lý và những người khác ở nhiệm sở?
Trường hợp này thường xảy ra khi những khác biệt về văn hóa đưa đến các
rào cản, ví dụ như ngôn ngữ, các giá trị, hệ thống đức tin căn bản về ý nghĩa
công việc và đời sống nói chung. Các tổ chức ngày nay thường có xu hướng
trở nên đa quốc gia và đa văn hóa. Vì vậy, chúng ta cần khám phá hay tạo ra
những cầu nối văn hóa để giúp những con người từ những bối cảnh khác nhau
có thể giao tiếp với nhau và thực sự hiểu nhau. Lời khuyên ở đây là: Một nhà
quản lý càng có thể hiểu, đánh giá đúng và lợi dụng được sự khác biệt tâm lý
giữa các nhân viên tốt bao nhiêu, kết quả công việc sẽ càng hiệu quả bấy
nhiêu. Trong phần tới, chúng ta sẽ xem xét một vài cách mà một nhà quản lý
có thể áp dụng để đạt được mục tiêu này.
MỘT THẾ GIỚI CỦA NHỮNG KHÁC BIỆT, NHỮNG KHÁC BIỆT
TRONG CÁC THẾ GIỚI
Gần đây, Hector cũng gia nhập vào bộ phận của Lucy. Anh lớn lên ở
Venezuela, năm 18 tuổi anh chuyển đến Mỹ để học đại học chuyên về kinh
doanh. Và anh được tuyển dụng sau khi được Larry đào tạo nhằm phối hợp
công việc với Lucy và Fred ở vị trí trợ lý tài chính.
Hector có tất cả những nền tảng cần thiết để làm công việc này, có động lực
cao và thiết tha làm vui lòng sếp mình. Larry đoán rằng do Hector là một sinh
viên giỏi và rất vui mừng được gia nhập công ty nên Hector sẽ làm việc rất
tốt. Thêm vào đó, Larry cũng nghĩ rằng trong quá trình học việc, Hector sẽ
cần một chút giám sát và chỉ dẫn. Lucy và Fred cũng hy vọng Hector sẽ tự
biết phải làm gì trong phạm vi trách nhiệm của mình mà không đợi phải bảo.
Phong cách giám sát chung của Nhóm Larry là phân công công việc chung và
để các nhân viên tự phụ trách các chi tiết theo cách của mình.
Sau vài tuần, mọi thứ diễn ra rõ ràng không như Larry mong đợi. Lucy và
Fred phàn nàn rằng Hector quá phụ thuộc vào sự chỉ bảo của người khác
trong khi thật ra anh ta rất có năng lực và dễ tiếp xúc. Họ cũng chú ý rằng
trong các cuộc họp, Hector chẳng bao giờ nêu ra đề nghị của mình, thường
đồng ý với tất cả những gì Larry hay Fred nói và phớt lờ Lucy. Fred bắt đầu
khó chịu với cách cư xử của Hector và Lucy bắt đầu cảm thấy bị ngáng trở
bởi thành kiến giới tính thấy rõ của Hector. Larry cần phải làm gì đó để giải
quyết vấn đề này. Do không muốn sai thải Hector nên Larry quyết định trước
hết phải nói chuyện với anh ta nhằm tìm hiểu xem liệu Hector có cảm nhận
được tình cảnh mà anh ta đang phải đối mặt hay không.
Khi Larry gọi Hector vào phòng làm việc của ông, đầu tiên chàng trai trẻ tỏ ra
rất lo lắng. Anh ta đã biết có một vài thứ không ổn và sợ rằng mình có thể bị
đuổi việc. Lúc đầu Larry cố gắng giúp Hector bày tỏ cảm nhận của mình về
công việc và các đồng nghiệp. Nhưng Hector quá căng thẳng đến độ không
thể nói một cách mạch lạc và thoải mái. Vì vậy, Larry cố gắng tiếp cận theo
cách khác: Ông hỏi về gia đình và cuộc sống của anh ở Venezuela. Chàng trai
trẻ tỏ ra cởi mở hơn bao giờ hết. Rõ ràng Hector nhớ gia đình mình và cảm
thấy mình là người thừa tại công ty và rõ ràng những mối quan hệ thân tình
trở nên rất quan trọng đối với anh (điều này một phần phản ánh nguồn gốc
văn hóa của anh). Hector hy vọng rằng, bằng cách làm vui lòng mọi người,
anh sẽ có được những mối quan hệ thân tình đó. Nhưng sự việc diễn ra không
đúng như tưởng tượng và Hector cảm thấy còn cô đơn hơn trước. Một trong
những điểm thú vị nhất mà Larry nhìn thấy ở chàng trai trẻ này là anh ta đang
cố gắng tái lập vài mối quan hệ gia đình tại nơi làm việc. Anh ta coi Larry
giống như một người cha hoặc bác, coi Fred như anh trai và coi Lucy như chị
gái. Thật đáng tiếc, vì phụ nữ tại Venezuela không có cùng thân thế như đàn
ông nên trong ý nghĩ của Hector, Lucy được coi là không quan trọng như
Fred và Larry.
Larry mất một vài tuần giúp Hector giảm bớt kỳ vọng của mình và đem lại
năng lực tốt hơn. Ông cũng có một vài cuộc nói chuyện với Lucy và Fred
nhằm giúp họ hiểu Hector và đưa ra vài ý kiến để cải thiện tình trạng này.
Quan trọng nhất, Larry đã có thể hiểu được người khác, những người có nền
tảng rất khác so với ông. Bằng cách đặt mình vào vị trí của Hector, ông đã có
thể hiểu được cách ứng xử của anh ta. Quan điểm của Hector về công việc
được xây dựng dựa trên một hình ảnh ẩn dụ của một gia đình tại quốc gia anh
sinh ra. Larry nhận thấy rằng, những cố gắng của ông nhằm hiểu hơn về thế
giới của Hector khiến anh ta cảm thấy được thấu hiểu và cho phép mình thể
hiện bản thân theo cách của chính anh ta. Nếu không cố gắng hiểu Hector
bằng cách đứng ở vị trí của anh ta thì Larry có thể sẽ dễ dàng phán xét Hector
bằng những tiêu chuẩn không thích hợp và coi anh như “một nhân viên cứng
đầu” cần có hành động chỉnh đốn lại ngay
Một trong những yếu tố gây căng thẳng cho Hector chính là khuynh hướng
mà anh ta mơ hồ về những kỳ vọng của Larry và người khác dành cho mình.
Hector đoán rằng vai trò của anh ta là thực hiện theo sự chỉ bảo của nhà quản
lý và rằng việc đưa ra các ý kiến của riêng mình không phải là phần việc của
anh ta. Khi Larry và Hector bàn luận lại những gì Hector coi là kỳ vọng của
ông, tình hình đã được ổn định lại và Hector có thể xác định hoàn toàn rõ ràng
về những kỳ vọng của ông sếp đối với mình.
Lấp hố ngăn cách bằng các hình ảnh ẩn dụ
Hầu hết mọi người đều dùng phép ẩn dụ trong cuộc sống và công việc. Là
một nhà quản lý, bạn phải coi tổ chức của mình như một sân chơi với các
Nhóm và cá nhân cạnh tranh nhau, hoặc giống như một đấu trường nơi các
phái xung khắc cố gắng triệt hạ nhau, hoặc như một đại dương rộng lớn nơi
moị người cố gắng chèo thuyền vượt qua dòng nước yên lặng mà xảo trá, hay
như một nông trang tuyệt đẹp nơi nhiều lọai cây trồng phát triển. Mỗi hình
ảnh trong các phép ẩn dụ này sẽ có những hàm ý khác nhau về nhà quản lý.
Nếu trong phép ẩn dụ này, bạn là một huấn luyện viên thì trong phép ẩn dụ
sau, bạn lại là một vị tướng quân, ở ẩn dụ tiếp theo lại là một thuyền trưởng
và trong hình ảnh cuối cùng, bạn lại giống như một người nuôi trồng những
thứ đang phát triển.
Ý thức về cá tính của bạn với tư cách là nhà quản lý sẽ giúp bạn có cách ứng
xử hiệu quả khi phải cạnh tranh với ý thức về cá tính của các nhân viên dưới
quyền hay các đồng nghiệp, và cả với cấp trên của bạn trong tổ chức (trong
một vài trường hợp). Vị huấn luyện viên hy vọng vào thái độ cạnh tranh quyết
liệt của các thành viên trong Đội. Nếu những thành viên trong tổ chức không
thấy họ là những đấu thủ có khả năng thì sẽ không thể có thái độ cạnh tranh
quyết liệt. Như mỗi hình ảnh ẩn dụ đưa ra phía trên, những kỳ vọng của lãnh
đạo xuất phát từ ý thức về cá tính của họ, và kết quả đạt được sẽ phụ thuộc
phần lớn vào mức độ hòa hợp giữa những mong đợi và sự tự ý thức về cá tính
của các nhân viên dưới quyền.
Hãy nghĩ tới quan điểm của chính bạn về một tổ chức và vai trò của bạn
trong tổ chức ấy với tư cách một nhà quản lý. Liệu bạn có biết các so sánh của
bạn về tổ chức có khớp với cách so sánh ẩn dụ của các nhân viên dưới quyền?
Nếu không, bạn có thể cùng họ khám phá. Quá trình này có thể được khai
sáng và dẫn đến vài cải thiện trong cách thực hiện công việc và thái độ của
họ. Nếu có cơ hội, theo cách này hay cách khác, bạn hãy sẵn sàng nói về sự
so sánh ẩn dụ của bạn với người khác và họ sẽ thường phản ứng với những gì
bạn nói. Ví dụ bạn có xu hướng xử dụng thuật ngữ như “ Đội” hay “chuỗi yêu
cầu” hay những cụ từ như “lập kế hoạch” hoặc “tạo cho họ cơ hội phát triển”.
Bạn có thể nghĩ đến nhiều hình ảnh mà bạn và người đối thoại đang sử dụng
và chuyển tải nó thành một phép ẩn dụ có thể chấp nhận được. Đôi khi bạn
cũng có thể khám phá ra những từ ngữ ẩn dụ bằng cách để ý đến những gì
mình nói. Và những người khác có lẽ cũng đang làm giống bạn.
Hơn thế nữa, điều có thể trở nên quan trọng là hãy xem xét những thay đổi có
thể xảy ra trong hình ảnh ẩn dụ về tổ chức của bạn khi những thứ xung quanh
mình thay đổi. Hình ảnh ẩn dụ bạn đưa ra có thể không còn thích hợp với thế
giới kinh doanh ngày nay hoặc nó hạn chế nhiều đến sự phát triển của bộ
phận hoặc công ty bạn phụ trách. Ví dụ, hình ảnh ẩn dụ coi công ty là một gia
đình có thể hoạt động rất tốt trong một doanh nghiệp nhỏ nhưng sẽ trở nên
khác thường nếu công ty đó phát triển về quy mô. Lại nữa, khi bạn tuyển
dụng nhân viên, hình ảnh ẩn dụ sẽ rất có giá trị nếu bạn biết họ coi mình là gì
trong tư cách là thành viên trong tổ chức.
Hector coi công ty nơi anh làm việc giống như một gia đình, trong khi những
người khác xung quanh anh, bao gồm cả ông sếp lại nhìn công ty theo một
cách khác. Có thể là nếu như Larry biết được điều ông bây giờ mới biết về
Hector thì ông đã không tuyển dụng anh ta ngay từ đầu; nhưng cũng có thể là
ông đã làm một việc tốt hơn để giúp Hector hoà nhập vào môi trường làm
việc ngay từ lúc mới bắt đầu.
Lời khuyên được đưa ra ở đây là: Một nhà quản lý càng hiểu và biết chắc về
hình ảnh ẩn dụ mà nhân viên so sánh với vị trí của mình trong tổ chức thì ông
ta sẽ giúp phát huy tốt hơn phẩm chất của nhân viên đó.
CHÚ Ý ĐẾN NHỮNG DẤU HIỆU CĂNG THẲNG (STRESS)
Cho đến khi Larry có thể giúp Hector thoát ra được tình trạng khó khăn hiện
tại thì anh ta vẫn đang phải trải qua những giai đoạn căng thẳng (stress). Vấn
đề càng kéo dài thì mọi người càng cảm thấy căng thẳng và thái độ hành xử
của Hector ngày càng tồi tệ hơn.
Mọi người thường đối mặt với căng thẳng bằng những hành vi ứng xử quen
thuộc đã từng có hiệu quả trong quá khứ. Ngay cả khi hành vi ứng xử này
không còn hiệu quả trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, nó vẫn được cố sử
dụng do không có hành vi ứng xử thay thế. Phản ứng của người khác sẽ chỉ
làm tăng sự căng thẳng, khiến cái thòng lọng trở nên thít chặt hơn để rồi dẫn
đến tác động ngược lại, khiến nhiều hành vi ứng xử tương tự xảy ra nhiều
hơn. May mắn là Larry đã nắm bắt được được các dấu hiệu căng thẳng của
Hector, ông đã hành động để cắt đứt cái thòng lọng đang thít lên cổ anh ta và
hướng quá trình này theo hướng tích cực hơn.
Trong vài trang tới đây, chúng ta sẽ xem xét một số nguồn gốc dẫn đến tình
trạng căng thẳng (stress) của nhân viên và làm thế nào để quản lý được tình
trạng đó. Khi bạn đang đọc phần này, hãy luôn nhớ rằng sự căng thẳng có xu
hướng lan rộng. Thường thì một người có thể làm nảy sinh sự căng thẳng ở
những người khác, ngay cả khi người này ít hoặc chẳng cảm thấy bản thân
căng thẳng chút nào. Bạn có nhớ đến Typhoid Mary? Bà ta đã cố tình lây
bệnh thương hàn tới hàng trăm người khác và bản thân bà ta thì không bao
giờ bị bệnh. Stress cũng tương tự như vậy, nhiều người cảm nhận được nó và
làm lây lan nó mà không hề cảm thấy gì về điều đó. Trong trường hợp của
Hector, anh ta vừa cảm thấy căng thẳng, vừa khiến nó lan rộng. Nếu nhà quản
lý cảm thấy căng thẳng thì có lẽ không cần tưởng tượng nhiều cũng biết được
những tác động của nó đối với nhân viên.
Nguồn gốc của sự căng thẳng
Mọi thứ đều là nguồn gốc tiềm tàng của sự căng thẳng. Ngay cả đối với
những thứ đang vận hành rất tốt, thì chúng ta vẫn lo lắng về việc chúng sẽ trở
nên tồi tệ đi. Rất nhiều người sống với những yếu tố mà họ hầu như không
điều khiển được, nhưng điều kỳ diệu là hầu hết mọi người lại không để sự lo
lắng đó chiếm hết thời gian. Một nhà quản lý phải để ý đến những nguồn gốc
của sự căng thẳng nhằm điều khiển được nó. Sau khi xem xét nguồn gốc của
sự căng thẳng, chúng ta sẽ thảo luận về những dấu hiệu hay triệu chứng của
tình trạng này mà người quản lý cần biết. Nên nhớ rằng, một hoàn cảnh có trở
nên căng thẳng hay không luôn phụ thuộc vào sự cảm nhận của người đó
trong hoàn cảnh đó. Những thứ khiến Fred căng thẳng có thể không khiến
Lucy căng thẳng, và thực tế những gì khiến Hector căng thẳng chính là tấm
gương phản ảnh về nhu cầu cá nhân của anh ta và ý thức về cá tính liên quan.
Chúng ta sẽ thảo luận về ba nguyên nhân gây nên sự căng thẳng, đó là: Sự mơ
hồ trong công việc, công việc chưa làm xong (đặc biệt là công việc quá tải),
và những kỳ vọng không rõ ràng của nhà quản lý. Chắc chắn còn rất nhiều
nguyên nhân khác đáng được chú ý nữa, nhưng trong khuôn khổ ở đây chúng
ta sẽ chỉ bàn đến ba nguyên nhân này.
Sự mơ hồ trong công việc
Một số người có khả năng chịu đựng sự mơ hồ trong công việc cao hơn so với
người khác. Thực tế, nhiều cá nhân lại thích thách thức trong việc tạo ra một
cơ cấu của mình – điều mà đối với những người khác có thể là một sự hỗn
độn. Với những người lao động thích một môi trường làm việc tương đối
vững vàng, nơi họ được cung cấp tất cả các thông tin cần thiết để thực hiện
công việc của mình, sự mơ hồ, nhập nhằng trong công việc sẽ khiến sự tự tin
của họ bị lung lay và nó trở thành nguồn gốc của sự căng thẳng. Nếu tình
trạng trên diễn ra trong thời gian dài sẽ làm giảm hiệu năng trong công việc
của họ. Hầu hết nhân viên chỉ yêu cầu có đủ thông tin nhằm giảm sự bấp
bênh, đạt tới mức độ thuận lợi nào đó trong công việc. Khi mức độ thuận lợi
biến đổi từ người này sang người kế tiếp, thì điều quan trọng là xác định
những gì cá nhân đó cần và xác định tại điểm nào thì mức độ thông tin trở
thành yêu cầu quá mức.
Lucy thích có mọi thông tin liên quan đến công việc, vì cô có thể đưa ra các
quyết định tốt nhất dựa trên những dữ liệu thực. Fred thiên về trực giác hơn,
và vì vậy anh hài lòng với việc có ít thông tin hơn Lucy; và Fred sẵn sàng tạo
ra nhiều lời hứa hẹn hơn Lucy. Thực tế, bất cứ khi nào Larry đưa ra quá nhiều
thông tin hơn Fred mong muốn, anh thường không nghe nữa. Điều này khiến
cả Lucy và Larry phát bực nhưng họ đã học được cách đọc ra các dấu hiệu và
biết khi nào nên dừng lại. Hector, như bạn còn nhớ, có những dấu hiệu của sự
căng thẳng, biểu hiện dưới dạng có những hành vi ứng xử bất thường được
lặp đi lặp lại, do tình hình còn khá mơ hồ và rất không chắc chắn đối với anh
ta cho đến khi Larry can thiệp.
Vì có sự khác nhau giữa những người thể hiện sự chịu đựng của họ, hay thậm
chí là thích thú với sự nhập nhằng trong công việc cũng như có sự khác biệt
giữa những môi trường công việc khác nhau đối với sự nhập nhằng này, nên
một phần quan trọng trong công việc của nhà quản lý là tìm kiếm sự phù hợp
giữa mức độ chịu đựng của một người với mức độ mơ hồ của công việc.
Trong một vài trường hợp, có thể dự báo trước được rằng, tình trạng công
việc vốn là mơ hồ và tuyển dụng người phù hợp nhất cho tình huống đó. Tuy
nhiên, hầu hết vị trí công việc đều biến đổi theo thời gian, gắn với từng thời
kỳ ổn định hay không ổn định. Điều tốt nhất mà một nhà quản lý nên làm là
cố gắng giúp đỡ và hỗ trợ nhân viên vượt qua thời kỳ không ổn định. Larry đã
làm vậy để giúp đỡ Hector và ông cũng nhận ra rằng: Trong tương lai, nếu
xảy ra tình hình tương tự, ông có thể tiến hành các hoạt động nhằm ngăn chặn
những vấn đề nghiêm trọng nảy sinh ảnh hưởng đến sự phát triển. Bài học rút
ra ở đây là: Trong hoàn cảnh nếu hiểu được sự thay đổi mức độ chịu đựng mà
nhân viên đang đối mặt thì nhà quản lý có thể giúp các nhân viên đó thực hiện
công việc trong suốt thời kỳ bất ổn tốt hơn.
Công việc chưa kết thúc
Xu hướng tự nhiên của con người là luôn tìm cách kết thúc việc đang làm. Có
một câu chuyện nổi tiếng về một nhà soạn nhạc vĩ đại, người đã nghe một
đoản khúc bị ngắt trước khi nó được kết thúc; ông buộc phải tiến lại chiếc đàn
piano và hoàn thành nốt bản nhạc đã nghe. Những công việc chưa kết thúc tạo
nên sự căng thẳng, một cảm giác không lấy gì làm dễ chịu và thường xuyên
lấn sang những thứ khác. Đã bao nhiêu lần bạn để lại công việc còn làm dở
trong phòng làm việc chỉ để thấy rằng nó luôn xuất hiện bất ngờ trong tâm trí
của bạn? Bạn đã bao giờ quay lại văn phòng làm nốt việc chỉ vì bạn không thể
chịu được sự căng thẳng mà nó gây ra? Một số người đã làm như vậy. Họ
thấy rằng, điều đó giúp họ ngủ dễ hơn vì những công việc chưa kết thúc sẽ
không xâm chiếm cái góc bình yên trong tâm trí của họ.
Có thể là sự quá tải trong công việc là một yếu tố chính khiến cho công việc
chưa thể hoàn thành. Các nhà quản lý thường phân công một loạt công việc
mà không để ý đầy đủ về khối lượng công việc nhân viên phải gánh vác, đặc
biệt là trong các tổ chức kém cỏi và ưa xu nịnh như ngày nay. Thường thì các
nhân viên xuôi theo quy trình bằng cách chấp nhận những công việc làm
thêm, có thể do họ sợ phải nói tiếng “không” với ông chủ hoặc họ tin rằng
mình có thể làm thêm được công việc này mà không quá căng thẳng. Tuy
nhiên, nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài thì ngay cả vài công
việc đơn giản cũng trở nên khó hoàn thành. Thực tế một đống công việc chưa
làm xong sẽ tích tụ thành một mức độ căng thẳng nào đó khiến hiệu quả công
việc giảm sút. Và nếu tất cả những điều này diễn ra thường xuyên, người ta
phải cố gắng thúc đẩy chúng bằng cách làm thêm ngoài giờ, mang về nhà làm
hoặc làm mọi cách để hoàn thành - chỉ đến khi nhận ra chất lượng công việc
của mình, họ mới không hoàn thành công việc bằng mọi cách. Là một nhà
quản lý, bạn cần phải đề phòng những trường hợp như vậy. Một phần nó phản
ánh sự tận tâm của nhân viên với công việc, nhưng một phần nó cũng phản
ánh nỗi sợ hãi những sai lầm có thể xảy ra hay sợ cảm thấy xấu hổ trong mắt
người khác, đặc biệt là trong con mắt ông chủ. Thông thường thì nhân viên sẽ
không bày tỏ vấn đề này để mong được ông chủ chú ý, chỉ đến khi ông ta đề
cập đến vấn đề và tìm cách giảm tải áp lực công việc cũng như giúp nhân viên
hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, hãy luôn nhớ rằng: Nếu một nhà quản lý càng
cảnh báo về sự chồng chất công việc cho các nhân viên thì tốt hơn hết là họ
nên quan tâm đến những thay đổi cần thiết trong sự chồng chất đó khi chúng
đang gây ra sự căng thẳng cho họ.
Những kỳ vọng nghèo nàn về vai trò của công việc đã xác định
Vấn đề công việc chưa làm xong thường là do lỗi của một nhà quản lý, ông ta
đã không xác định được kỳ vọng về vai trò với nhân viên. Những kỳ vọng
không rõ ràng hoặc bị hiểu không đúng cũng thường xuyên gây ra cho nhân
viên những căng thẳng nhất định- và thường là ở mức độ cao. Tương tự,
những kỳ vọng không thực tế trong con mắt của một cá nhân cũng có thể tạo
nên những áp lực không cần thiết lên người đó khi anh/cô ta không định hình
được mức độ hợp lý. Tình trạng này thường sẽ không kéo dài và đòi hỏi phải
có sự thương lượng lại giữa nhà quản lý và nhân viên.
Một trong những yếu tố gây căng thẳng cho Hector chính là khuynh hướng
mà anh ta mơ hồ về những kỳ vọng của Larry và người khác dành cho mình.
Hector đoán rằng vai trò của anh ta là thực hiện theo sự chỉ bảo của nhà quản
lý và rằng việc đưa ra các ý kiến của riêng mình không phải là phần việc của
anh ta. Khi Larry và Hector bàn luận lại những gì Hector coi là kỳ vọng của
ông, tình hình đã được ổn định lại và Hector có thể xác định hoàn toàn rõ ràng
về những kỳ vọng của ông sếp đối với mình.
Rất thường xuyên, nhân viên có xu hướng tránh bàn luận hoặc tái xác định
những kỳ vọng chủ yếu của ông chủ đối với mình, đặc biệt khi hành động này
thường được hiểu nhầm là một hành động mềm yếu. Đáng tiếc thay, vấn đề
này không tự nó “ra đi” mà thậm chí còn trở nên ngày càng tồi tệ và gây ra
căng thẳng, khiến nó trở nên đặc biệt khó khăn để có thể bàn luận một cách
thiện chí. Sự căng thẳng và tức giận ngăn cản sự lắng nghe, các bên đều có xu
hướng đổ lỗi cho nhau hơn là cùng nhau cố gắng giải quyết vấn đề và kết quả
là những hành động quá đáng diễn ra như vấn đề đuổi việc, kỷ luật... Mặc dù
một kịch bản như vậy có thể không cần thiết và chúng ta tự hỏi tại sao lại
không “ngắt” đi ngay khi nó còn mới là một cái chồi non. Thực tế có rất nhiều
người luôn tìm cách tránh những tình huống không hay cho đến khi chúng nổ
tung trước mặt họ.
Trong trường hợp của Hector, Larry phải bắt đầu đưa vấn đề ra bàn thảo khi
Hector cảm thấy không thể làm điều đó.
Trường hợp điển hình này thường diễn ra khi có sự khác biệt về quyền lực
giữa hai người. Người ở vị trí có quyền lực mạnh nhất phải tạo ra cách tiếp
cận giữa hai bên. Người có quyền lực - trong trường hợp này là nhà quản lý -
phải nhạy cảm với những dấu hiệu và “triệu chứng” của vấn đề sẽ được tiếp
tục thảo luận. Về điểm này, chúng tôi có thể đưa ra lời khuyên: Nếu một nhà
quản lý càng thường xuyên khơi mào các cuộc thảo luận về kỳ vọng công
việc với nhân viên thì nhân viên càng dễ dàng tránh được căng thẳng do hiểu
không rõ ràng hoặc hiểu lầm kỳ vọng của sếp dẫn đến những sai sót trong
thực hiện công việc.
Những biểu hiện của căng thẳng
Chúng ta sẽ thấy có vài hành vi ứng xử được coi là bình thường đối với mọi
người. Chỉ khi những hành vi này được lặp lại liên tục trong một thời kỳ dài
và/hoặc khi một loạt hành vi xảy ra cùng một lúc thì bạn cần phải lưu tâm đến
yếu tố căng thẳng. Ví dụ, một nhân viên đến công sở muộn hoặc không làm
việc có lẽ là một hành vi bình thường trong một giới hạn thông thường.
Nhưng khi những hành vi này được lặp đi lặp lại, hoặc khi nó kết hợp với
những bữa ăn trưa kéo dài hơn mức thường và những cơn giận dữ bất ngờ nổ
ra tại nơi làm việc thì có thể coi đó là dấu hiệu của sự căng thẳng. Thêm vào
đó, việc xét đoán những hành vi ứng xử đặt trong hoàn cảnh của cá nhân đó là
rất quan trọng. Một ai đó vốn dè dặt và khá khác biệt bất ngờ trở nên ồn ào sẽ
bị coi là khác thường so với một người vốn thường ngày hay ồn ào và sôi nổi.
Ngược lại, người quan tâm đến những vấn đề xung quanh và hay nói bỗng bất
ngờ rút khỏi các cuộc nói chuyện về xã hội thì gần như là biểu hiện của căng
thẳng. Nói tóm lại, không nên đánh giá về bản thân của hành vi mà cần đánh
giá hành vi gắn liền với hình mẫu bình thường của một cá nhân.
Nên lưu ý rằng, mặc dù một hành vi ứng xử đặc thù có thể dẫn đến căng
thẳng trong tổ chức này song điều đó cũng không có nghĩa là sẽ xảy ra đối với
một tổ chức khác. Một cá nhân vốn ưa thích những chỉ dẫn rõ ràng cho công
việc của mình có lẽ cũng không thấy căng thẳng khi làm việc trong một doanh
nghiệp khoán việc. Ngược lại, một người thích những thách thức khi phải đối
mặt với những vấn đề mới và không mong đợi cũng có thể thấy công việc
trong một tổ chức lớn, có tính kỷ luật cao không đến nỗi không thể chịu đựng
nổi.
Nếu Hector làm việc trong một công ty bảo hiểm ở Mỹ La tinh thì sự phụ
thuộc của anh ta vào ý kiến hay yêu cầu của người khác sẽ không gây ra
những hậu quả tương tự như khi anh ta làm việc trong một công ty của Mỹ.
Tại Mỹ La tinh, với tư cách là một nhân viên, những kỳ vọng chính yếu của
cấp trên có lẽ cũng sẽ phù hợp với anh ta hơn.
Người quản lý cần chú ý đến những biểu hiện của sự căng thẳng đã thể hiện
rõ như sự bộc phát về cảm xúc hay những hành vi đến muộn diễn ra liên tục.
Những biểu hiện căng thẳng cũng có thể rất khó phát hiện, ví dụ như đau đầu,
dạ dày nôn nao, kiệt sức, khó ngủ và những biểu hiện tương tự - những biểu
hiện này thường chỉ xuất hiện khi con người bị căng thẳng. Những chú ý thận
trọng đến những hành vi ứng xử tiêu biểu thường thấy của một nhân viên sẽ
giúp các nhà quản lý nhanh chóng nhận ra những dấu hiệu này. Cuối cùng,
chất lượng công việc tự bản thân nó cũng có thể đưa ra những biểu hiện rõ
ràng của sự căng thẳng.
Một vài kinh nghiệm thực tế mà bạn có thể áp dụng cho mình hoặc cho cấp
dưới như một cách để giảm hoặc ngăn chặn trạng thái căng thẳng quá mức là:
1. Duy trì nhận thức về những dấu hiệu của căng thẳng.
2. Biết rõ mức độ chịu đựng của bạn đối với sự mơ hồ trong công việc và
tìm kiếm những thông tin cần thiết sau đó để tiếp tục chịu đựng.
3. Đưa ra các ưu tiên và chỉ nên tập trung vào những nhiệm vụ thực sự cần
thiết.
4. Nghỉ ngơi đúng mức trong quá trình làm việc nhằm duy trì được sự tập
trung.
5. Đánh giá được mức độ tham gia cần thiết của bạn đối với công việc và
ủy nhiệm hay chia sẻ công việc càng nhiều càng tốt.
6. Thường xuyên xem xét và bàn bạc lại về những kỳ vọng chủ yếu nhằm
ngăn chặn hoặc giảm thiểu những công việc chưa làm xong.
Cũng có rất nhiều cách giảm căng thẳng khác mà bạn có thể đưa ra cho mình,
nhưng điều quan trọng là bạn phải luôn nhớ rằng: Càng để tình trạng căng
thẳng kéo dài bao lâu thì bạn càng khó đối mặt trực tiếp và giải quyết hiệu
quả vấn đề đó bấy nhiêu. Đây là bài học mà nhiều người có vẻ như phải học
rất nhiều lần mới thấu hiểu được.
Lucy là một ví dụ tuyệt vời về hình mẫu nhân viên có sự tận tâm cao độ với
công việc và với tổ chức (ta sẽ bàn luận trong các phần sau). Mặc dù cảm thấy
khó khăn lắm trong việc cân bằng công việc với cuộc sống gia đình, song cô
vẫn làm mọi cách để đáp ứng các yêu cầu công việc. Và đừng quên rằng, một
người quản lý dễ rơi vào bẫy khi đưa ra các phán đoán sai lầm về sự tận tụy
của một nhân viên dựa trên nguồn thông tin hạn chế. Nếu chỉ nhìn vào số giờ
làm việc của Lucy, ta sẽ không thể biết được lòng tận tâm với công việc của
cô. May mắn thay, Larry lại hiểu hoàn cảnh của Lucy và để cô tự do quản lý
giờ làm việc của chính mình. Là một nhà quản lý sáng suốt, ông biết rằng
mình đang có một nhân viên giỏi và không để bị mắc bẫy bởi một vài chính
sách hay nguyên tắc đã được thống nhất và phê duyệt.