
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 545 - th¸ng 12 - sè 2 - 2024
1
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT BƯỚU GIÁP THÒNG TRUNG THẤT
TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Dương Đức Hùng1,2, Phan Anh2,
Phùng Duy Hồng Sơn1,2, Nguyễn Duy Thắng2
TÓM TẮT1
Đặt vấn đề: Bướu giáp thòng trung thất chiếm tỷ
lệ nhỏ (3 – 20%) trong các trường hợp bướu giáp.
Phẫu thuật bướu giáp thòng trung thất vẫn còn nhiều
khó khăn với tỉ lệ tai biến, biến chứng so với phẫu
thuật cắt bỏ bướu tuyến giáp thông thường. Chưa có
nhiều nghiên cứu về điều trị bệnh lý này, vì vậy,
chúng tôi thực hiện nghiên cứu đánh giá kết quả điều
trị ngoại khoa bướu giáp thòng trung thất tại Bệnh
viện Hữu Nghị Việt Đức. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu kết quả điều trị
ngoại khoa bướu giáp thòng trung thất tại Bệnh viện
Hữu Nghị Việt Đức giai đoạn 2014 – 2023. Kết quả
nghiên cứu: Có 62 trường hợp bướu giáp thòng
trung thất được phẫu thuật, tuổi trung bình 59,16 ±
17,01 (11 – 84), tỉ lện nam/ nữ: 3/17; 19 (30,6%)
trường hợp không có triệu chứng lâm sàng, 12
(19,4%) trường hợp chèn ép khí quản gây khó thở.
Bướu thòng trung thất trước 100% các trường hợp. 11
trường hợp (18%) phải mở xương ức. Thời gian phẫu
thuật: 75,58 ± 28,99 phút. Tai biến và biến chứng: 3
trường hợp suy cận giáp thoáng qua và 2 trường hợp
khàn tiếng thoáng qua. Giải phẫu bệnh: 60 trường
hợp không thấy tế bào ác tính, 2 trường hợp thấy tế
bào ung thư. Thời gian nằm viện 6,71 ± 6,06 ngày.
Kết quả tốt 57 trường hợp (91,94%), trung bình 5
trường hợp (8,06%). Kết luận: Đa phần bướu giáp
thòng trung thất thì đường mổ ngang cổ là đủ để bóc
tách và cắt được bướu dễ dàng. Phẫu thuật sớm ở
những bệnh nhân với bướu kích thước nhỏ, chưa có
triệu chứng lâm sàng, cho kết quả tốt hơn, ít tai biến
và biến chứng hơn.
Từ khóa:
Bướu giáp thòng trung
thất, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
SUMMARY
OUCOMES OF SURGERY FOR
RETROSTERNAL GOITERS AT VIET DUC
UNIVERSITY HOSPITAL
Background: Retrosternal goiters account for a
small proportion (3 - 20%) of goiter cases. Surgery of
retrosternal goiters still has many difficulties with a
higher rate of complications compared to conventional
thyroid goiter surgery. In Vietnam, there have not
been many studies on the treatment of this disease.
The purpose of this study was to comment on the
results of surgical management of substernal goiter at
Viet Duc University Hospital. Patients and methods:
1Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
2Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm nội dung: Phùng Duy Hồng Sơn
Email: hongsony81@yahoo.com
Ngày nhận bài: 16.9.2024
Ngày phản biện khoa học: 21.10.2024
Ngày duyệt bài: 25.11.2024
This is descriptive and retrospective study of patients,
who underwent surgical treatment of retrosternal
goiters at Viet Duc Friendship Hospital in the period of
2014-2023. Results: There were 62 cases of
mediastinal goiter underwent surgery, average age
was 59.16 ± 17.01 (11 - 84), male/female ratio: 3/17;
19 (30.6%) cases had no clinical symptoms, 12
(19.4%) cases had tracheal compression causing
shortness of breath. All of the cases was anterior
mediastinal tumor. Eleven cases (18%) required
sternotomy. Average surgery time was 75.58 ± 28.99
minutes. In complications: 3 cases had transient
hypoparathyroidism and 2 cases had transient
hoarseness. Results of the biopsy showed that: 60
cases were benign tumors; 2 cases were malignant.
Average hospital stay was 6.71 ± 6.06 days. 57 cases
(91.94%) had good results, 5 cases (8.06%) had
acceptable results. Conclusion: Most patients with
retrosternal goiters underwent thyroid resection via a
cervical approach. Patients with small tumors and
without symptoms should be operated early, which
proved good results and lower complications.
Keywords:
Retrosternal goiters, Viet Duc
University Hospital.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuật ngữ bướu giáp thòng trung thất (hay
bướu cổ sau xương ức, dưới xương ức) lần đầu
tiên được Albrecht von Haller sử dụng vào năm
1749 để mô tả sự kéo dài của tuyến giáp xuống
dưới qua lỗ mở giữa cổ và ngực1. Kể từ đó, một
số định nghĩa đã được sử dụng mặc dù vẫn chưa
có sự đồng thuận nào cho đến ngày nay. Các
định nghĩa phổ biến nhất bao gồm: sự kéo dài
của bướu cổ qua mặt phẳng lỗ mở cổ ngực
xuống dưới xương đòn, hoặc có hơn 50% khối
lượng của nó nằm phía dưới xương ức2–4, do đó
tỷ lệ mắc bệnh ở các nghiên cứu có sự khác
nhau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thống
nhất sử dụng định nghĩa thứ nhất.
Bệnh thường phát triển âm thầm trong nhiều
năm mà không biểu hiện bất thường trên người
bệnh. Các triệu chứng và dấu hiệu cho chèn ép
các cấu trúc giải phẫu lân cận thường chỉ xuất
hiện khi bướu đã to. Tuy nhiên, một phần đáng
kể các trường hợp (20-40%) được phát hiện tình
cơ khi kiểm tra X-Quang5.
Bướu giáp thòng trung thất được chẩn đoán
chủ yếu dựa vào lâm sàng với các triệu chứng
chén ép khí quản, thực quản và chẩn đoán hình
ảnh: X quang ngực thẳng, CT Scanner cổ-ngực.
Chụp CT-scanner không có chất cản quang là xét