
72
KHÁI QUÁT HỆ THỐNG LOGISTICS QUỐC GIA
PGS.TS. Nguyễn Quang Hồng
Học viện chính trị khu vực 1
TS. Nguyễn Thị Diệu Chi
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Hệ thống logistics Quốc gia bao gồm thể chế pháp luật, cơ sở hạ tầng logistics,
các doanh nghiệp logisitcs, thị trường và các doanh nghiệp s dụng dịch vụ logistics...
có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Với
môi trường logistics Quốc gia phát triển sẽ tạo cho các ngành và các địa phương thúc
đẩy tăng trưởng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế và kinh doanh. Trong phạm
vi bài này chúng tôi xin đề cập đến một số vấn đề cơ bản về hệ thống logisitcs và vai
trò của nó đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững nền kinh tế quốc
dân và vùng lãnh thổ.
Từ khóa: Hệ thống logistics Quốc gia, thể chế pháp luật, cơ sở hạ tầng logistics,
các doanh nghiệp logisitcs, thị trường logistics
1. Khái quát hệ thống logistics
Theo từ điển bách khoa cho rằng: "Hệ thống" là tập hợp các phần tử có quan hệ
hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành
một chỉnh thể. Từ đó xuất hiện thuộc tính mới gọi là tính trồi của hệ thống mà từng
phần tử riêng lẻ không có hoặc có không đáng kể". Để nhận biết phần tử của một hệ
thống, người ta thường căn cứ vào hai đặc trưng sau để xác định: mỗi phần tử phải có
chức năng nhất định và mỗi phần tử có tính độc lập tương đối của nó.
Theo bussinessdictionary.com cho rằng "hệ thống" được coi là bao gồm tập hợp các
phương pháp, quy trình, và các bước tuần hoàn được xây dựng hoặc hình thành để thực
hiện các hoạt động cụ thể hoặc thực hiện một nhiệm vụ hoặc giải quyết một vấn đề khó
khăn. Hoặc "hệ thống" là một cấu trúc được tổ chức chặt chẽ, có mục đích được coi như
là "một tổng thể" gồm tất cả các thành tố có mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau (thực thể,
các thành tố, các thành viên, và các phần…) Những thành tố này có ảnh hưởng lẫn nhau
gián tiếp hoặc trực tiếp một cách liên tục nhằm duy trì hoạt động của họ và sự tồn tại của
hệ thống nhằm đạt được các mục tiêu của nó, đó là mục đích của hệ thống. Như vậy, theo
định nghĩa này một hệ thống có:

73
a. Đầu vào, đầu ra, các cơ chế phản hồi;
b. Duy trì các trạng thái sẵn sàng bên trong cho dù có những thay đổi của môi
trường bên ngoài;
c. Thể hiện các tính chất riêng của toàn bộ hệ thống và những tính chất này
không riêng gì cho từng thành tố riêng lẻ của hệ thống.
d. Có những giới hạn được xác định bởi những người quan sát hệ thống.
Hệ thống tuân thủ những quy luật, những quy luật này sẽ không nhận dạng được nếu
phân chia hệ thống thành các phần khác nhau, và hệ thống sẽ trục trặc khi một thành tố
của hệ thống bị loại bỏ hoặc thay đổi đáng kể. Cùng với nhau các phần tử của hệ thống tạo
thành sự liên kết và phương thức thống nhất để nhìn nhận và giải thích toàn bộ tổng thể
của hệ thống.
Như vậy, đối với hệ thống logistics thường phải có được các tính chất của một hệ
thống gồm có đầu vào, đầu ra, có tính chất riêng của toàn bộ hệ thống, tuân thủ các
quy luật và các thành tố của hệ thống, liên kết với nhau và có tính trồi của hệ thống.
Các thành tố của hệ thống có sự liên kết với nhau chặt chẽ để tạo thành tính tổng thể.
Do có nhiều cách tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống logistics nên có nhiều định
nghĩa và cách phân chia hệ thống này theo nhiều cách khác nhau.
Hệ thống logistics là sự kết hợp quản lý hai mặt: đầu vào (gọi là cung ứng vật
tư) với đầu ra (phân phối sản phẩm), để tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả
Hệ thống logistics trong nền kinh tế quốc dân là một tổng thể bao gồm tất cả
các hoạt động liên hệ với nhau nhằm chuyển đưa nguyên vật liệu và hàng hóa từ
tổ chức đầu nguồn qua tất cả các khâu trung gian đến người sử dụng cuối cùng
trong nền kinh tế. Hệ thống logistics trong nền kinh tế tích hợp các hoạt động
thuộc nhiều chức năng của quá trình kinh doanh (thu mua, quản trị, phân phối
hiện vật) và từ nhiều khu vực của nền kinh tế (sản xuất, vận tải, phân phối và
thông tin liên lạc).
Hoạt động trong hệ thống logistics bao gồm một chuỗi các hoạt động cơ bản từ
vận tải, kho bãi, gom hàng và thông quan đến phân phối hàng hóa trong nội bộ
quốc gia và hệ thống thanh toán, thông tin liên quan đến hàng loạt các chủ thể công
và tư nhân.
Hệ thống logistics trong nền kinh tế quốc dân hay hệ thống logistics quốc gia là
tổng thể khung thể chế pháp lý, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, các
doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics và hệ thống cơ sở hạ tầng1. (Sơ đồ 1).
1 (Theo Ruth Banomyong, ĐH Thammasat, Thai Lan 2007, ADB)

74
Hệ thống Logistics trong nền kinh tế quốc dân, theo cách tiếp cận là hệ thống
kinh doanh dịch vụ, là tổng thể các tổng công ty (công ty) Nhà nước, các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics trong và nước ngoài với hệ thống kho, trạm, trung tâm
logistics, cửa hàng thuộc các ngành, địa phương và doanh nghiệp quản lý, các tổ chức
kinh doanh dịch vụ hợp pháp của tất cả các thành phần kinh tế kinh doanh Logistics
trên thị trường (5)
Sơ đồ 1. Hệ thống logistics quốc gia
Theo quan điểm của Viện Nghiên cứu Kinh tế vận tải và logistics CHLB Đức, hệ
thống logistics bao gồm cấu trúc cơ bản (cơ sở hạ tầng), thiết chế công, các dịch vụ
logistics, kiến thức logistics. (Sơ đồ 2)
Sơ đồ 2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống logistics
Hệ thống logistics vĩ mô là hệ thống dịch chuyển dòng hàng hóa, bao gồm các tổ
chức, doanh nghiệp công nghiệp và trung gian, các tổ chức thương mại và vận tải khác
nhau phân bố trên các địa điểm khác nhau trong một quốc gia và toàn cầu. Hệ thống

75
Logistics vĩ mô là một trong những cơ sở vật chất hạ tầng của một khu vực kinh tế,
một quốc gia hay một nhóm quốc gia.
Xây dựng và phát triển hệ thống logistics vĩ mô xuyên lục địa gặp rất nhiều khó
khăn do sự bất đồng và khác biệt về luật, quy định và đặc trưng kinh tế cũng như quan
hệ đối ngoại giữa các quốc gia, ví dụ sự khác biệt về điều kiện cung cấp hàng hoá, công
nghệ vận tải, các điều luật vận tải, hải quan và nhiều rào cản kinh tế, chính trị, kỹ thuật
công nghệ khác.
Việc hình thành một hệ thống logistics quy mô quốc tế cần một không gian kinh
tế thống nhất, một thị trường chung không biên giới, cần các điều luật chung về vận tải
hải quan, tài chính, thông tin, tài nguyên lao động.
Toàn bộ các mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các doanh nghiệp trong các
hoạt động logistics tạo thành một hệ thống các mối quan hệ kinh tế logistics trong
nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiến bộ khoa
học công nghệ và phân công lao động xã hội, các hình thức quan hệ kinh tế trong
hoạt động logistics được hình thành và phát triển ở nhiều mức độ khác nhau. Thực tế,
hệ thống logistics theo quan hệ kinh tế thường được phân loại theo các tiêu thức khác
nhau: theo đặc điểm hình thành, theo đặc điểm đối với hệ thống quản lý; theo đặc
điểm qua khâu trung gian; theo hình thức vận động; theo thời hạn hiệu lực(2) (xem
sơ đồ 3).

76
Sơ đồ 3: Hệ thống logistics theo các mối quan hệ
kinh tế giữa các doanh nghiệp
Hệ thống logistics vi mô là các hệ thống con cấu thành nên hệ thống logistics vĩ
mô, có thể liệt kê hệ thống logistics vi mô là các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh,
các tổ chức sản xuất vùng… Hệ thống logistics vi mô còn có thể kể đến cấp độ các hệ
thống logistics trong nội bộ một doanh nghiệp, trong thành phần của chúng bao gồm
các hệ thống sản xuất liên quan công nghệ với nhau tạo thành một thể thống nhất.
Quan hệ vĩ mô giữa từng hệ thống logistics vi mô được thiết lập trên cơ sở quan
hệ hàng-tiền. Bên trong hệ thống vi mô còn có phân chia chức năng các hệ thống con,
thông thường mối tương tác giữa chúng không phải là quan hệ hàng-tiền. Đó là các
phòng ban, phân xưởng trong một doanh nghiệp, liên hiệp hoặc tổ chức kinh tế nào đó,
tất cả cùng hướng tới một kết quả kinh tế tối đa chung nhất.
2. Vai trò của hệ thống logistics
Thứ nhất, hệ thống logistics phát triển góp phần đưa Việt Nam trở thành một
mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu, gắn nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế
giới. Logistics là công cụ liên kết các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVC -
Global Value Chain) như cung cấp, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị trường