
96
KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA, LỊCH SỬ VÀ CẢNH QUAN CÁC
CHÙA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH THÀNH PHỐ HUẾ
Lê Thuỵ Khanh1
1. Khoa Công nghiệp văn hoá. Email: khanhlt@tdmu.edu.vn
TÓM TẮT
Trên cơ sở nhận thức tiềm năng từ các chùa có giá trị nổi bật ở thành phố Huế, bài báo
trình bày một số giá trị về mặt kiến trúc, văn hóa lịch sử và cảnh quan chùa thuận lợi cho việc
phát triển du lịch. Đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác một số
chùa ở thành phố Huế trong phát triển du lịch, góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch phục
vụ nhu cầu ngày càng cao của du khách trong nước và quốc tế.
Từ khoá: Chùa, du lịch, giá trị văn hóa, khai thác, lịch sử và cảnh quan, thành phố Huế
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong suốt chiều dài lịch sử, Thừa Thiên Huế được coi là trung tâm Phật giáo lớn, với
mật độ chùa chiền, niệm phật đường, am tự cao nhất cả nước.
Một trong những yếu tố tạo cho Huế cái vinh dự được gọi là thủ đô Phật giáo là vì trên
mảnh đất không rộng, người không đông này có số lượng chùa nhiều nhất so với bất kỳ một địa
phương nào trên lãnh thổ Việt Nam. Chùa Huế là một thực thể sống động và phát triển, chứa
đựng những dòng chảy văn hóa đặc sắc nối quá khứ với hiện tại, nối con người với văn hóa tâm
linh... Từ nhiều năm nay, hệ thống chùa Huế đã trở thành điểm đến tham quan, nghiên cứu hấp
dẫn của đông đảo du khách trong và ngoài nước, là địa chỉ hành hương, thiện nguyện của nhiều
tăng ni phật tử trong cả nước.
Hiện nay du khách đến với chùa Huế chỉ dừng lại ở việc thưởng ngoạn cảnh quan, kiến
trúc - sinh cảnh, đến với không gian tâm linh để chiêm bái, thư giãn. Nhưng như thế thôi cũng
chưa đủ để hiểu hết kho tàng văn hóa, lịch sử, tôn giáo đặc sắc và độc đáo ẩn chứa đằng sau
mái ngói thâm u, tường rêu cổ kính của những ngôi chùa nơi đây.
Hệ thống chùa ở Huế là nguồn tài nguyên du lịch đặc sắc mà lâu nay chưa được quan tâm
đầu tư khai thác đúng mức. Do đó, bài viết nhằm đi sâu tìm hiểu những nét đẹp về kiến trúc,
cảnh quan và những giá trị văn hóa của chùa Huế đối với phát triển du lịch, nhằm làm quảng
bá thêm những địa chỉ du lịch độc đáo hấp dẫn đến với du khách.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp thư viện và phương pháp chuyên gia: nhằm tập hợp tư liệu, khảo sát, đánh
giá các công trình liên quan phục vụ đề tài;

97
- Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic để tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển các
chùa ở Huế và thực trạng khai thác giá trị văn hóa, lịch sử và cảnh quan các Chùa trong phát
triển du lịch thành phố Huế. Từ đó rút ra những xét, đánh giá về quá trình này.
- Các phương pháp liên ngành: Phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, dự báo
khoa học… để làm rõ những nội dung cụ thể của đề tài.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái Quát Chung Về Chùa Huế
Hiện nay ở Huế còn lưu giữ, bảo tồn trên 100 ngôi chùa cổ, trong đó có hàng chục Tổ
đình và hầu hết đều giữ được nét cổ kính của kiến trúc Á Đông và Việt Nam. Chùa Huế là một
mảng kiến trúc quan trọng đã cùng với quần thể kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian tạo cho
Huế cái dáng vẻ riêng biệt “chẳng nơi nào có được”, cái đẹp như tranh họa đồ giữa non xanh
nước biếc, thơ mộng và hữu tình.Nhiều ngôi chùa nguy nga được xây dựng với sự đóng góp
công sức của triều đình, tầng lớp quý tộc. Bên cạnh đó cũng có không ít ngôi chùa mộc mạc,
khiêm nhường gắn với đời sống văn hóa, tâm linh của người dân chốn làng quê.
Đa số các chùa đều phân bố ở bờ nam sông Hương, tọa lạc trên những mõm đồi hoặc
sườn đồi đầy cây cao bóng mát, tập trung nhiều nhất là ở vùng gò đồi Dương Xuân, phía tây
nam thành phố Huế.
Chùa Thiên Mụ - ngôi chùa được coi là cổ nhất ở Huế, được xây dựng năm 1601, gắn
liền với huyền thoại chọn đất đóng đô của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Chùa Thiên Mụ đã trở
thành một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, một trong những danh lam thắng cảnh và di
tích lịch sử nổi tiếng nhất của đất nước.
Chùa Từ Đàm được xây dựng năm 1690 vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái, với tên gọi ban
đầu là Ân Tôn, đến năm 1841 được vua Thiệu Trị đổi tên thành chùa Từ Đàm. Chùa trở thành
trung tâm phật học lớn của cả nước, hàng trăm Niệm Phật đường và các khuôn hội thành lập
sau này đều lấy bài trí cấu trúc và cách thờ tự của chùa Từ Đàm làm khuôn mẫu. Chùa Từ Đàm
là nơi diễn ra đại hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và ký tên gia nhập Hội Phật giáo
thế giới năm 1951.
Chùa Báo Quốc được xây dựng từ thế kỷ XVII thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, được trùng
tu phát triển rực rỡ dưới thời các vua Nguyễn, là trung tâm đào tạo tăng tài cho phật giáo Đàng
Trong. Nơi đầu tiên thành lập Trường sơ đẳng Phật học (1935) và Trường cao đẳng Phật học
(1940) của cả nước. Chùa trở thành một trung tâm đào tạo Tăng Ni lớn của phật giáo cả nước
từ đó cho đến ngày nay.
Chùa Từ Hiếu được xây dựng vào năm 1843, gắn với câu chuyện cảm động về tấm lòng
hiếu thảo của Thiền sư Nhất Định. Chùa còn được coi là nghĩa trang thái giám có một không
hai ở Huế hiện nay (năm 1848, chùa được các vị quan lại trong cung triều Nguyễn, nhất là các
vị thái giám cúng đóng góp trùng tu tôn tạo qui mô hơn để lo việc thờ tự sau này; hiện nay trong
khuôn viên chùa có hơn 20 ngôi mộ của các thái giám triều Nguyễn).
Ở Huế, ngoài những Tổ đình nổi tiếng lâu đời còn có những ngôi chùa được xây dựng sau này
như Huyền Không Sơn Thượng (1978), Trúc Lâm Bạch Mã (2006)…

98
Chùa Huyền Không Sơn Thượng trở thành điểm đến hấp dẫn đối với rất nhiều du khách
trong và ngoài nước lâu nay bởi vẻ đẹp tao nhã, nhẹ nhàng mà lại vô cùng sâu lắng. Đến với
ngôi chùa này, du khách không chỉ được đắm mình trong một không gian đẹp như cổ tích mà
còn thưởng ngoạn những bức thư pháp tuyệt vời hiện diện khắp vườn chùa với những triết lý
sâu xa của đạo Phật, đó là những lời Phật dạy, những điều hay lẽ phải răn đời và răn người,
những cảm xúc bất chợt của các thi nhân đã từng đến nơi đây.
Thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện đầu tiên tại
miền Trung, tọa lạc tại núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc. Qua
chuyến đò băng ngang lòng hồ mênh mông, qua 174 bậc tam cấp, đứng trước cổng tam quan
chùa phóng tầm mắt nhìn xuống bắt gặp một vùng non nước xứ Truồi in bóng trời mây, mặt
nước hồ Truồi lung linh như dát vàng, dát bạc. Bước chân vào chùa, du khách như ngẩn ngơ
trước vẻ hùng vĩ và trang nghiêm của những chánh điện, tổ đường, trai tăng... những mái chùa
cong vút in hình trên nền trời xanh hay những ngọn núi mây trắng vờn quanh.
3.2. Giá trị của các chùa Huế đối với du lịch
Giá trị nổi bật của các chùa ở Huế đối với du lịch thể hiện ở tính đa dạng trong hệ cảnh
quan, kiến trúc, trang trí, nội thất; những giá trị trong nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật diễn
xướng; sự đa diện trong sinh hoạt văn hóa thông qua các lễ hội, sinh hoạt của tăng chúng - phật
tử, văn hóa ẩm thực... mang đậm triết lý nhà Phật.
3.2.1. Lịch sử - văn hóa
Mỗi ngôi chùa ở Huế không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà còn là một địa chỉ
lịch sử, văn hóa, tâm linh đặc sắc.
Phật giáo truyền vào dải đất Thuận Hóa từ thuở vùng đất này còn nằm trong lòng vương
quốc Champa, nhưng thực sự hưng thịnh phải đến khi các chúa Nguyễn chọn nơi đây kiến tạo
thủ phủ của xứ Đàng Trong.
Một số ngôi chùa cổ ở Huế được đề cập trong sách Ô châu cận lục của Dương Văn An
mục “Phong tục tổng luận”: chùa Thiên Mỗ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà; chùa
Sùng Hóa ở làng Triêm Ân, huyện Tư Vinh; chùa Tư Khách ở cửa Tư Khách (tức là cửa Tư
Dung, nay là cửa Tư Hiền).
Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa và các chúa Nguyễn tiếp theo muốn
xây dựng một xứ Ðàng Trong biệt lập với triều đình vua Lê - chúa Trịnh ở phía Bắc, thì các hoạt
động văn hóa xã hội được thúc đẩy và chùa được xây dựng nhiều để làm chỗ sinh hoạt tinh thần.
Khi nhà Trịnh tiến chiếm Phú Xuân và nhất là thời Tây Sơn, Phật giáo xứ Thuận Hóa rơi
vào tình trạng đồi phế.
Mãi đến khi Gia Long lên ngôi trở về sau, các chùa ở vùng Thuận Hóa mới lần hồi được
sửa sang và trùng hưng.
Chùa chiền ở Huế được trùng tu và xây dựng nhiều nhất kể từ thời vua Gia Long (1802)
cho đến Duy Tân (1916).
Một số ngôi chùa lớn ở Huế được xây dựng, lần lượt theo thời gian có thể kể đến là: Thiên
Mụ (1601), Báo Quốc (1674), Từ Ðàm (1683), Thuyền Tôn (1709), Từ Hiếu (1843), Diệu Ðế
(1844), Phước Thọ Am (1831), Trúc Lâm (1909)...

99
Ở Huế có rất nhiều chùa danh tiếng vào thời cổ đã bị bỏ phế, trở nên hoang tàn rồi mất
luôn dấu tích như chùa Sùng Hóa, Kim Quang, Tây Thiền, Huệ Minh, Trấn Hải, Bạch Vân,
Diên Thọ, Linh Hựu Quán...
Hiện các chùa ở Huế đang thờ tự, lưu giữ những tượng Phật, tượng Bồ Tát, chuông, khánh
đồng, khánh đá và nhiều văn vật khác của Phật giáo các thời Lê, Trịnh, Nguyễn. Đây là một
kho tàng có giá trị hết sức to lớn về văn hóa của Phật giáo Huế.
Nhiều chùa ở Thừa Thiên Huế đang lưu giữ hàng nghìn mộc bản Kinh Phật quý hiếm.
Chùa Từ Đàm hiện đang lưu giữ hơn 1.000 mộc bản Kinh Phật. Ngoài những mộc bản Kinh
Phật của nhà chùa, nhiều mộc bản được đưa về đây từ các chùa Từ Hiếu, Bảo Quốc, Diệu Đế,
Viên Thông, Tường Quang… Ngoài chùa Từ Đàm, tại chùa Thiên Mụ cũng đang lưu giữ lượng
lớn mộc bản kinh Phật rất giá trị. Đây là những văn bản Hán - Nôm được khắc trên ván gỗ để
in thành sách kinh Phật tại nước ta từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Theo các nhà nghiên
cứu, các mộc bản này là những di sản tư liệu quý hiếm của quốc gia, phản ánh lịch sử, tư tưởng
và văn hóa Phật giáo ở Huế cũng như ở Việt Nam. Ngoài ra, mỗi mộc bản là một tác phẩm điêu
khắc hết sức tinh xảo, sắc nét, thể hiện tài hoa của người Việt trước đây.
Gắn với chùa chiền Huế, ẩm thực chay cũng được xem là một giá trị văn hóa độc đáo, lưu
giữ trong lòng du khách gần xa những ấn tượng không thể phai mờ.
Nghề đúc chuông ở đây cũng rất độc đáo, cung cấp cho cả các vùng phía Nam và các
Chùa người Việt ở nước ngoài.
3.2.2. Kiến trúc
Kiến trúc phổ biến của các chùa ở Huế ít chú trọng đến chiều cao không gian, ngôi chùa
thường ẩn mình hòa hợp với thiên nhiên, mang lại cho con người cảm giác gần gũi, thanh thoát
nhưng không kém phần trang nghiêm. Điều này hoàn toàn khác với kiến trúc của những ngôi
chùa mới hiện nay khi chiều cao không gian thường được tận dụng một cách triệt để.
Cách kiến trúc chùa viện theo kiểu chữ khẩu, chữ nhất, chữ tam, chữ liễu. Chính điện
thường có 3 - 5 gian, 2 chái, cắt mái 2 tầng nên nhẹ nhàng, thanh thoát. Chái nhà hai bên dành
cho phương trượng, trụ trì, giám tự. Tiếp theo chánh điện là chiếc sân trong bao quanh bởi thiền
đường, tăng xá. Vườn chùa trồng cây ăn trái, bố trí tháp mộ các vị Tổ, trụ trì, tăng chúng, sau
vườn là khu canh tác, trồng hoa màu. Những tiền đường hay điện thờ làm kiểu nhà trùng thiềm
điệp ốc với sự xuất hiện của mái vỏ cua. Nóc chùa thường trình bày với các mô tip lưỡng long
chầu mặt nguyệt, lưỡng long chầu Pháp luân, các vật linh quy, phụng, lân, các kiểu hoa sen. Mái
lợp ngói âm dương có màu ảnh hưởng kiểu kiến trúc cung đình của các triều vua chúa để lại.
Nội thất chùa bình dị, cân đối và không trang trí sặc sỡ. Ngoài bộ tượng Phật Tam Thế
truyền thống, bên trái có tượng Quan Công, bên phải là Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Vào thời
chấn hưng Phật giáo những năm 1950 - 1963, có cải cách lại hệ thống thờ tự: trước Tam Thế
đặt thêm tượng Phật Thích ca, gian trái có Bồ tát Ðịa Tạng, gian phải có Bồ tát Quan Thế Âm,
tả hữu thì vẫn đặt Kim cang, Hộ pháp.
Hầu hết lối vào của những ngôi chùa đều bắt đầu bằng một con đường nhỏ, hoặc là một
xóm vắng, len lỏi qua các đồi thông (chùa Từ Hiếu, Thuyền Tôn); qua những rặng trúc lưa thưa
(chùa Trúc Lâm, Tra Am, Hồng Ân, Kim Tiên); hoặc đơn giản chỉ bước lên một số bậc cấp
không quá cao (chùa Từ Ðàm, Diệu Ðế, Ðông Thuyền, Thiền Lâm, Vạn Phước). Lối chính vào
chùa thường đi qua cổng tam quan thường khiêm tốn, không quá đồ sộ.

100
Kiến trúc phản ánh đầy đủ tinh thần của Phật giáo làm nên giá trị văn hóa đặc trưng chùa
Huế đó là sự hòa hợp giữa các công trình xây dựng: điện Phật, tăng xá hay tịnh trù với thiên
nhiên là vườn chùa, vườn thiền.
3.2.3. Cảnh quan
Xứ Huế nhỏ nhưng lại dung chứa hàng trăm ngôi chùa, từ hình dáng nguy nga đến vẻ
mộc mạc, từ chốn đô thành quý tộc đến làng quê dân gian. Khó tìm thấy nơi nào trên đất nước
ta có chùa chiền nhiều và tập trung như vậy. Sự đa dạng và phong phú của cảnh quan vườn
chùa được tạo bởi các yếu tố: Nguồn gốc hình thành, địa hình cảnh quan, môi trường tự nhiên
nơi tọa lạc các ngôi chùa, điều kiện kinh tế - xã hội, kiến trúc và bố cục các ngôi chùa, vai trò
vị trụ trì chùa… Mỗi khu vườn chùa là một vũ trụ thu nhỏ, đượm tính triết lý nhà Phật và chất
văn hóa phương Đông.
Chùa Huế cơ bản vẫn tiếp nối kiến trúc truyền thống chùa Việt, nhưng mang những nét
riêng, đó là sự hòa quyện giữa kiến trúc và thiên nhiên, giữa quá khứ và hiện tại, giữa đạo và
đời, phản ánh nét đẹp của một tổng thể hài hòa, tĩnh tại và thanh thoát.
Đa số chùa Huế đều nằm trên các mõm đồi hoặc sườn đồi đầy cây cao bóng mát và đường
đi lên các chùa với cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Thiên nhiên được tái tạo một cách kỳ diệu
và kín đáo, sự đơn giản, mộc mạc xen chút hoang sơ, phản ánh một cuộc sống bình dị.
3.3. Các loại hình du lịch dựa trên các chùa có giá trị nổi bật ở Huế
3.3.1. Du lịch văn hóa
Bên cạnh các di tích lịch sử văn hóa và các tài nguyên du lịch nhân văn khác, hệ thống
chùa đáp ứng nhu cầu của du khách tìm hiểu về văn hóa Huế - vừa độc đáo vừa mang đậm bản
sắc văn hóa dân tộc.
Có thể tìm hiểu văn hóa Huế thông qua hệ thống chùa chiền với giá trị nổi bật về kiến trúc, văn
hóa - lịch sử, nhạc lễ, lễ hội chùa Huế, thơ, sách, ẩm thực chay…
3.3.2. Du lịch sinh thái
Nhiều chùa có giá trị nổi bật ở Thừa Thiên Huế nằm ở các khu vực núi, có địa thế đẹp rất
thích hợp cho việc tham quan ngắm cảnh, nghỉ ngơi của du khách. Thế liên hợp của núi rừng,
gò đồi, đồng bằng hẹp, đầm phá, biển đều nằm trong không gian hẹp làm cho du khách đến Huế
ở một độ cao tương đối nào đó có thể nhìn thấy sự hung vĩ của Trường Sơn, sự đa dạng của
cảnh quan thiên nhiên với dòng sông Hương trong xanh và cả vùng cát trắng ven biển.
Du khách đến Huế có thể thưởng thức không khí trong lành, cảnh quan thoáng mát, thanh
tịnh trên các vùng gò đồi với các ngôi chùa uy nghiêm tọa lạc giữa những khung cảnh thi vị.
Các chùa có khả năng phát triển du lịch sinh thái như: chùa Từ Hiếu, chùa Thánh Duyên, chùa
Huyền Không, chùa Từ Lâm, chùa Đông Thuyền…
3.4. Giải pháp khai thác các chùa Huế phục vụ phát triển du lịch
3.4.1. Tổ chức quản lý
Các cơ quan chức năng cần xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ trong quản lí và khai
thác các chùa vào phát triển du lịch. Việc này cần được thể hiện bằng các văn bản hướng dẫn
cụ thể về phía tỉnh, tổng hội Phật giáo tỉnh cho các chùa, các đơn vị kinh doanh về chủ trương
và chính sách khai thác loại tài nguyên du lịch chùa. Đồng thời phải có sự liên hệ chặt chẽ giữa