VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KHÁNH LY
KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ PHỤC VỤ
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KHÁNH LY
KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ PHỤC VỤ
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Ngành: Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 8 34 04 12
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN LÊ HỒNG
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Lê Hồng. Các số liệu, những kết luận nghiên
cứu được trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Nguyễn Khánh Ly
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ
VÀ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
ĐỔI MỚI SÁNG TẠO .............................................................................................. 5
1.1 Một số lý luận cơ bản về khai thác thông tin sáng chế ................................ 5
1.2 Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ........... 16
1.3 Một số vấn đề lý luận cơ bản về khai thác thông tin sáng chế trong
quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ......... 23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC THÔNG TIN
SÁNG CHẾ PHỤC VỤ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO .............................................. 39
2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo ..................................................................................................................... 40
2.2 Thực trạng hoạt động quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo ................................................................................... 43
2.3 Thực trạng hoạt động khai thác thông tin sáng chế của các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ............................................................... 45
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ
CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI
SÁNG TẠO TRÊN NỀN TẢNG KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ .......... 66
3.1 Chủ trương của Đảng và Nhà nước trong phát triển các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ........................................................................... 66
3.2 Phương hướng tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ........................................................................... 68
3.3 Giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế .................... 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 Ví dụ về sự thể hiện thông tin kỹ thuật của sáng chế................................. 26
Hình 1.2: Ví dụ về yêu cầu bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế .............................. 29
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng kinh tế
nói riêng. Sự tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục, ở mức tương đối cao trong
hơn một thập kỷ và đi cùng với đó là việc huy động các nguồn lực cho tăng trưởng,
trình độ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Chủ trương đổi mới mô
hình tăng trưởng của Việt Nam đã được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ XI và
XII, trong đó nhấn mạnh tăng trưởng cần chuyển dần sang dựa vào công nghệ, dựa
vào đổi mới sáng tạo. Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế đã đề ra những giải pháp lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô
hình tăng trưởng, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trên tinh thần phát triển đất nước trong thời đại ứng dụng nền tảng khoa học
công nghệ, công nghệ - xuất phát từ đặc tính sở hữu - đã trở thành một lợi thế cạnh
tranh quan trọng cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo nói riêng. Bên cạnh đó, thông tin công nghệ có thể được coi là sự thể
hiện của công nghệ. Cạnh tranh về mặt công nghệ đòi hỏi thông tin công nghệ phải
được bảo vệ chặt chẽ, nhằm đảm bảo lợi thế cho doanh nghiệp.
Bằng độc quyền sáng chế là một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ thông tin
công nghệ, bởi vậy, thông tin sáng chế là nguồn thông tin quan trọng và luôn cập
nhật thông tin công nghệ. Việc đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của thông tin
sáng chế và xác định nhu cầu khai thác thông tin sáng chế trong quản lý công nghệ
của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là việc làm cần thiết. Tuy nhiên,
nhiều doanh nghiệp chỉ đang quan tâm đến phát triển sản phẩm, gọi vốn đầu tư, lập
kế hoạch marketing, bán hàng mà quên mất sở hữu trí tuệ, bảo vệ ý tưởng vốn là
quyền pháp lý quan trọng của khởi nghiệp. Công tác khai thác thông tin sáng chế
còn đang bị bỏ ngỏ và cần được phát triển trong thời gian tới. Từ nhận định trên, tôi
đã chọn đề tài “Khai thác thông tin sáng chế phục vụ hoạt động quản lý công nghệ
của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo” cho Luận văn khoa học
chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc phân tích thông tin sáng chế để định hướng phát triển công nghệ hiện
nay rất được chú trọng trong quá trình quản lý công nghệ của các quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khai thác thông tin sáng chế chưa được quan tâm triệt
để và chưa có ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Tầm quan trọng và vai trò của thông tin sáng chế
chưa được các doanh nghiệp này đánh giá cao.
Trên thực tế đã có một số nghiên cứu về vai trò của thông tin sáng chế trong
việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo hoặc nghiên cứu vai trò của thông tin sáng chế đối
với quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp nhưng mới chỉ ở cấp độ cơ bản nhằm
phục vụ chủ yếu cho người nộp đơn đăng ký sáng chế. Ngoài ra, các thông tin đăng
tải trên tạp chí, trên internet về sở hữu công nghiệp cũng mới chỉ đề cập đến việc
khai thác nguồn dữ liệu, phục vụ tra cứu thông tin và hướng dẫn thủ tục cho người
nộp đơn đăng ký sáng chế.
Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu đã có về thông tin sáng chế và quản lý
công nghệ: “Vai trò của thông tin sáng chế đối với quản lý công nghệ ở các doanh
nghiệp” để phát triển nghiên cứu đi sâu hơn về công tác khai thác thông tin sáng chế
phục vụ hoạt động quản lý công nghệ của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
theo 03 mảng chính: khai thác thông tin sáng chế, quản lý công nghệ ở các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và mối liên quan giữa khai thác thông tin sáng chế
với quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Những nghiên cứu của luận văn nhằm thực hiện cơ sở lý luận về hoạt động khai
thác thông tin sáng chế của cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Đồng thời đề xuất được các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động khai thác
thông tin sáng chế phụ vụ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan tới hoạt động khai thác
thông tin sáng chế. Làm rõ vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác
thông tin sáng chế của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo;
2
Phân tích thực trạng hoạt động khai thác thông tin sáng chế, từ đó tìm ra
được các hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong hoạt động khai thác thông
tin sáng chế phụ vụ cho hoạt động quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo;
Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống lý luận về khai thác thông tin
sáng chế; hệ thống lý luận về quản lý công nghệ; mỗi liên hệ giữa khai thác thông
tin sáng chế và quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo tại Việt Nam và các hoạt động thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu tổng quan hoạt động khai thác
thông tin sáng chế trong việc quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo;
Phạm vi thời gian: Luận văn sử dụng các số liệu liên quan đến vấn đề
nghiên cứu trong giai đoạn 2015-2019.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được tác giả thực hiện chủ yếu theo phương pháp nghiên cứu tài liệu,
ngoài ra còn có phương pháp so sánh, đánh giá:
a. Phân tích, tổng hợp các thông tin qua một số nguồn tài liệu khác để phản ánh
thực trạng vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn cuộc sống.
b. Thực hiện so sánh và đánh giá số liệu khai thác được từ việc nghiên cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả muốn làm sáng tỏ, tường minh
phần cơ sở lý luận của các hoạt động khai thác thông tin sáng chế, từ đó nêu lên vai
trò và tầm quan trọng của khai thác thông tin sáng chế đối với hoạt động quản lý
công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đồng thời, đưa ra các
phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
này trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế, góp phần nâng cao nhận thức của
3
các nhà khởi nghiệp sáng tạo về thông tin sáng chế, gia tăng khả năng khai thác hiệu
quả kênh thông tin sáng chế nhằm phục vụ tốt công tác quản lý công nghệ của
mình, đảm bảo quyền lợi và tính cạnh tranh trên thị trường.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì có
03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khai thác thông tin sáng chế và hoạt động quản
lý công nghệ của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Chương 2: Thực trạng hoạt động khai thác thông tin sáng chế phục vụ quản
lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế.
4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ
VÀ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
1.1 Một số lý luận cơ bản về khai thác thông tin sáng chế
1.1.1 Khái niệm sáng chế và thông tin sáng chế
1.1.1.1 Khái niệm sáng chế
Sáng chế là sản phẩm, quy trình công nghệ do con người tạo ra chứ không
phải là những gì đã tồn tại trong tự nhiên được con người khám phá, ví dụ: kết cấu
máy móc, linh kiện, thiết bị, vật liệu, thực phẩm, dược phẩm, quy trình công nghệ,
phương pháp chuẩn đoán, dự báo,… hay nói cách khác, sáng chế là một giải pháp
cho một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực công nghệ bất kỳ, từ các vật dụng đơn giản
như ổ điện, mắc áo,... đến các quy trình, thiết bị hiện đại thuộc lĩnh vực công nghệ
cao như máy lọc nước, tivi,... Sáng chế có thể liên quan đến sản phẩm hoặc quy
trình nhằm giải quyết các vấn đề của con người.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Sáng
chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn
đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. [21, khoản 12 Điều 4].
Thực tế cho thấy, quá trình từ khi ý tưởng được xây dựng cho đến khi sáng
chế hoàn chỉnh được ra đời là tương đối dài, đồng nghĩa với việc nhà sáng chế
thường phải thử nghiệm nhiều lần mới có được kết quả như mong đợi. Việc sáng
tạo ra sản phẩm mới đòi hỏi sự đầu tư về thời gian, tiền bạc và công sức rất lớn. Tuy
nhiên, việc bắt chước, làm nhái sau đó lại quá dễ dàng. Do vậy, điều cần làm ngay
sau khi tạo ra thành công một sáng chế là xác lập quyền sở hữu trí tuệ cho sáng chế
đó. Sáng chế được bảo hộ độc quyền dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế
hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
“Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế được xác lập trên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng
ký quy định tại Luật này.” [21, khoản 3.a, Điều 6]
Thông qua quá trình xác lập quyền, bằng độc quyền sáng chế được cơ quan
cấp nhà nước có thẩm quyền (hoặc một cơ quan nhân danh khu vực) cấp cho một
5
sáng chế, dựa trên cơ sở một đơn yêu cầu bảo hộ, cho phép bảo vệ các sáng chế
bằng một sự độc quyền trong thời hạn nhất định. Việc bảo hộ sáng chế có nghĩa là
người khác không được phép sản xuất, sử dụng, phân phối hoặc bán đối tượng được
bảo hộ trên thị trường khi không được sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế. Chủ sở
hữu sáng chế có quyền quyết định việc có sử dụng hay không sử dụng sáng chế
được bảo hộ trong suốt thời gian hiệu lực; có thể cho phép người khác sử dụng sáng
chế hoặc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác theo các điều kiện
thỏa thuận; cũng có thể chuyển nhượng sáng chế cho người khác, khi đó người
được chuyển nhượng sẽ là chủ sở hữu mới của sáng chế. Khi sáng chế hết hiệu lực,
việc bảo hộ kết thúc, chủ sở hữu sáng chế không còn có quyền độc quyền đối với
sáng chế đó nữa thì bất kỳ ai cũng đều có thể khai thác và sử dụng được sáng chế
mà không bị xâm phạm quyền.
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới: “Bằng độc quyền sáng chế là một độc
quyền được cấp cho một sáng chế, đó là một sản phẩm hoặc một quy trình mà nói
chung, tạo ra một cách thức mới để thực hiện một việc gì đó, hoặc đề xuất một giải
pháp kỹ thuật mới cho một vấn đề.” [19]
Bằng độc quyền sáng chế mô tả một sáng chế và thiết lập một điều kiện pháp
lý mà theo đó sáng chế đã được cấp bằng độc quyền chỉ có thể được khai thác một
cách bình thường khi chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho phép. Bằng độc
quyền sáng chế tạo ra sự bảo hộ độc quyền cho chủ sở hữu sáng chế (hoặc chủ văn
bằng), sự bảo hộ này chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia (nhóm quốc gia) cấp
bằng đó. Hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế có giới hạn về thời gian, tuỳ thuộc
vào quy định của từng quốc gia (nhóm quốc gia) và thường là 20 năm.
1.1.1.2 Khái niệm thông tin sáng chế
Thông tin là bất kỳ thực thể hoặc hình thức cung cấp câu trả lời cho một câu
hỏi nào hoặc giải quyết sự không chắc chắn [26]. Thông tin phản ánh sự vật, sự
việc, hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt động của con người trong đời
sống xã hội. Con người luôn có nhu cầu thu thập thông tin bằng nhiều cách khác
nhau như: đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, giao tiếp với người khác. Thông tin
là nguồn gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định.
6
Thông tin sáng chế, theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO), là các thông tin về kĩ thuật và pháp lý có trong các tài liệu sáng chế được
công bố định kì bởi các cơ quan sáng chế có thẩm quyền. Một tài liệu sáng chế bao
gồm phần mô tả đầy đủ về cách thức sử dụng của phát minh và các điểm yêu cầu
bảo hộ xác định phạm vi bảo hộ của sáng chế, thời điểm được cấp bằng sáng chế và
các tài liệu liên quan. [21]
“Thông tin sáng chế bao gồm:
(1) thông tin kỹ thuật liên quan đến các đối tượng vật dụng, sản phẩm, quy
trình và sử dụng và được mô tả trong các ví dụ, các hình vẽ và trong bản mô tả của
tư liệu sáng chế,
(2) thông tin về tình trạng pháp lý liên quan đến việc bằng độc quyền sáng
chế hay các quyền sở hữu công nghiệp khác có hiệu lực hay không, các dữ liệu từ
người nộp đơn,... và
(3) các thông tin thư mục liên quan đến tư liệu sáng chế đã được công bố.”
[7, tr.19 - 20]
Thông tin sáng chế không chỉ bao gồm nội dung của các tài liệu bằng sáng
chế được công bố mà còn cả thư mục và thông tin khác liên quan đến bằng sáng chế
cho các phát minh, chứng chỉ của nhà phát minh, chứng chỉ tiện ích và mô hình tiện
ích. Đây là bộ sưu tập tài liệu kỹ thuật lớn nhất, được phân loại tốt và cập nhật nhất
về các công nghệ mới và sáng tạo.
Hệ thống sáng chế cân bằng giữa sự độc quyền sáng chế được cấp cho chủ sở
hữu và nghĩa vụ công khai thông tin về công nghệ mới được phát triển. Do đó,
người nộp đơn bắt buộc phải tiết lộ thông tin rộng rãi về các phát minh của mình.
Việc người nộp đơn sáng chế tiết lộ thông tin về sáng chế của mình là rất quan
trọng đối với sự phát triển liên tục của công nghệ. Thông tin này cung cấp cơ sở để
các nhà phát minh khác có thể dựa theo đó phát triển giải pháp kỹ thuật mới, nếu
không công bố sẽ không có cách nào để công chúng có được thông tin về sự phát
triển kỹ thuật.
Ưu điểm của thông tin sáng chế:
Thông tin sáng chế là tập hợp lớn nhất, được phân loại tốt nhất và được cập
nhật thường xuyên nhất của các tài liệu kỹ thuật về các công nghệ mới và cải tiến.
7
Thông tin này cho biết sự phát triển của các công nghệ tiên tiến nhất, có nội dung kĩ
thuật phong phú và được bộc lộ chi tiết, xác định phạm vi bảo hộ của mỗi văn bằng
độc quyền, hướng dẫn hình thức chung các bản mô tả, và có thể dễ dàng tra cứu.
Trên hết, các doanh nghiệp cần tra cứu thông tin sáng chế của các doanh
nghiệp khác để nắm bắt tình hình cạnh tranh trên thị trường, xu hướng đâu tư công
nghệ, theo dõi sáng chế của đối thủ cạnh tranh, phẩn đối, yêu cầu hủy bỏ những
sáng chế có thể ảnh hưởng đến sáng chế của mình. Ngoài ra còn có các thông tin
hữu ích giúp doanh nghiệp hoạch định chiến lược phát triển sản phẩm như bản đồ
phát triển công nghệ, trong đó các sáng chế về phương pháp mới hoặc cơ cấu mới
có liên quan với nhau bằng một công nghệ then chốt được sắp xếp và biểu thị theo
một trình tự nhất định theo thời gian.
Để giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng tra cứu, một số cơ quan như Cục Sáng
chế Nhật Bản (JPO) còn có các "bản đồ sáng chế ", nêu hình vẽ một số sản phẩm, cùng
với mũi tên chỉ các phần có thể được cấp sáng chế và mã số phân loại.
1.1.1.3 Bản đồ sáng chế
Bản đồ sáng chế là một mô hình đồ họa của trực quan bằng sáng chế. Mô
hình này cho phép các công ty xác định các bằng sáng chế trong một không gian
công nghệ cụ thể, xác minh các đặc điểm của các bằng sáng chế này và xác định các
mối quan hệ giữa chúng, để xem liệu có bất kỳ vi phạm nào không. Bản đồ sáng chế
được xây dựng bằng cách thu thập thông tin bằng sáng chế liên quan của mục tiêu
lĩnh vực công nghệ, xử lý và phân tích nó.
Thuật ngữ bản đồ sáng chế thường được hiểu đơn giản là thông tin sáng chế
được thu thập cho một mục đích sử dụng cụ thể, sắp xếp, phân tích và mô tả trong
một hình thức trình bày trực quan như biểu đồ hoặc bảng. Bản đồ sáng chế là thông
tin có tất cả các tính năng sau đây:
c. Bản đồ sáng chế dựa trên thông tin bằng sáng chế: Thông tin sáng chế có nhiều
ưu điểm độc đáo khác nhau như xuất bản sớm, bao gồm nhiều lĩnh vực kỹ thuật và sử
dụng một định dạng thống nhất. Bằng cách sử dụng thông tin sáng chế làm cơ sở,
những lợi thế thông tin có sẵn trong Bản đồ sáng chế không cần phát triển thêm.
d. Bản đồ sáng chế có mục đích sử dụng rõ ràng: Một trong những yếu tố quan
trọng nhất của bản đồ sáng chế là nó có mục đích sử dụng rõ ràng. Bất kì bản đồ
sáng chế nào không có mục đích sử dụng rõ ràng thì không có khả năng áp dụng.
8
e. Bản đồ sáng chế bao gồm thông tin sáng chế phù hợp cho mục đích sử dụng:
Việc thu thập tài liệu sáng chế ít nhưng không bỏ sót đòi hỏi người xử lý thông tin
phải có kiến thức rộng và nhiều kinh nghiệm về thông tin sáng chế, bao gồm đọc thông
tin sáng chế, truy cập cơ sở dữ liệu, tìm kiếm và phân loại sáng chế. Những việc làm
này mất tương đối nhiều thời gian. Thông tin sáng chế được thu thập theo mục đích sử
dụng có nghĩa là những thông tin này đã sẵn sàng để sử dụng ngay lập tức.
f. Bản đồ sáng chế chứa thông tin bằng sáng chế có tổ chức: Tổ chức thông tin
sáng chế đòi hỏi chuyên môn trong lĩnh vực kỹ thuật có liên quan. Trên thực tế, bản
đồ sáng chế chứa thông tin sáng chế có tổ chức có nghĩa là những thông tin sáng
chế đã được phân tích, chia theo các lĩnh vực kỹ thuật, được lập chỉ mục khi cần
thiết và sắp xếp phù hợp với mục đích sử dụng.
g. Bản đồ sáng chế trình bày thông tin một cách trực quan: Tính năng dễ hiểu
nhất của Bản đồ sáng chế là hình ảnh trực quan nhưng không nhất thiết là phải được
trình bày dưới dạng biểu đồ hoặc bản vẽ. Không có giới hạn cụ thể về định dạng để
trình bày một Bản đồ sáng chế.
Bản đồ sáng chế thường được thể hiện dưới nhiều hình thái biểu đồ khác
nhau tùy thuộc vào thông tin và không có quy chuẩn cụ thể. Tuy nhiên, có 12 loại
biểu đồ thường được sử dụng để xây dựng bản đồ sáng chế, bao gồm: 1/ Bản đồ dựa
trên yếu tố; 2/ Sơ đồ phát triển công nghệ; 3/ Bản đồ quan hệ nội trú; 4/ Bản đồ ma
trận; 5/ Sơ đồ nghệ thuật hệ thống hóa; 6/ Bản đồ chuỗi thời gian; 7/ Bản đồ phân
tích Twin Peaks; 8/ Bản đồ trưởng thành; 9/ Bản đồ xếp hạng; 10/ Chia sẻ bản đồ;
11/ Bản đồ bộ xương; 12/ Bản đồ radar.
Thống kê sáng chế và lập bản đồ bằng sáng chế có thể cung cấp thông tin vô
giá cho các nhà ra quyết định của công ty, nhà đầu tư (nhà đầu tư mạo hiểm, ngân
hàng quảng cáo), nhà đổi mới (R & D), người có ảnh hưởng (văn phòng sáng chế,
nhà hoạch định chính sách) và quản lý. Bản đồ sáng chế cho phép những người
không quen thuộc với hệ thống sở hữu trí tuệ có thể nắm bắt được thông tin sáng
chế để tìm hiểu về xu hướng công nghệ, sự lan rộng của mạng lưới sáng chế và lĩnh
vực phát triển chiến lược của đối thủ cạnh tranh.
1.1.2 Khái niệm về khai thác thông tin sáng chế
“Khai thác” theo từ điển Tiếng Việt là hành động thu lấy những gì có sẵn,
hoặc tận dụng những khả năng tiềm tàng, đang ẩn giấu, hoặc tra xét, dò hỏi để thêm
điều bí mật.
9
Khai thác thông tin sáng chế là quá trình thu thập các thông tin về kĩ thuật và
pháp lý có trong các tài liệu sáng chế được công bố, bao gồm: Đơn yêu cầu cấp
bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền sáng chế và thông tin bất kỳ khác liên
quan đến sáng chế (sửa đổi, bổ sung, chuyển nhượng,...). Việc thu thập này bản chất
là tìm và tập hợp thông tin sáng chế theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những
vấn đề và nội dung liên quan đến sáng chế. Hay nói cách khác, khai thác thông tin
sáng chế là quá trình thu thập và xử lý những thông tin thiết thực về các sáng chế có
liên quan đến sản phẩm sáng tạo của một cá nhân hoặc tập thể.
Bản chất của khai thác thông tin sáng chế:
Tìm được sáng chế được mô tả bằng một ngôn ngữ khác;
Đánh giá tầm quan trọng toàn cầu của một sáng chế (họ sáng chế càng có
nhiều thành viên, thì sáng chế đó càng quan trọng);
Xác định đối thủ cạnh tranh và đối tác kinh doanh tiềm năng trong chiến
lược tiếp thị toàn cầu cho sản phẩm hay quy trình.
Thông tin sáng chế bao gồm nhiều loại thông tin kỹ thuật và pháp lý có thể
được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau bao gồm:
Khai thác những thông tin định hướng về các chủ đề mới về nghiên
cứu/tra cứu nghiên cứu và phát triển (R&D);
Phân tích các định hướng nghiên cứu và xu hướng thị trường vào thời
điểm bắt đầu phát triển công nghệ/ thương mại;
Xác định các bằng độc quyền sáng chế đang cản trở việc thâm nhập thị
trường xác định tình trạng pháp lý của các bằng độc quyền đó;
Xác định các sáng chế của công ty liên quan với tình trạng kỹ thuật đã biết
(xác định sáng chế đồng dạng nước ngoài khi tiến hành hoạt động kinh doanh);
Đưa ra các yêu cầu bảo hộ rộng và mạnh;
Xác định các chủ đề R&D và xu hướng nghiên cứu của các đối thủ;
Đánh giá công nghệ (sáng chế) trước khi cấp li xăng;
Xác định các li xăng triển vọng;
Xác định công ty có nhiều khả năng vi phạm;
Đánh giá chất lượng công nghệ và kết quả nghiên cứu;
10
1.1.3 Các hoạt động khai thác thông tin sáng chế
Thông tin sáng chế trên toàn thế giới hiện nay được chứa đựng trong một
kho dữ liệu khổng lồ. Khoảng 2/3 thông tin kỹ thuật được bộc lộ trong quá trình xử
lý sáng chế chưa từng được công bố ở bất kỳ nơi nào khác với số lượng tư liệu sáng
chế trên thế giới nhiều hơn 70 triệu bản.
Thông tin sáng chế rất hữu ích cho các doanh nghiệp và các nhà sáng chế vì
nhiều lý do. Lý do quan trọng nhất là thông tin sáng chế là nguồn thông tin kỹ thuật
duy nhất mà họ có thể sử dụng một cách rất hữu ích cho kế hoạch kinh doanh của
mình. Hầu hết các sáng chế được bộc lộ lần đầu tiên đối với công chúng khi sáng
chế hoặc đơn đăng ký sáng chế được công bố. Vì vậy, thông tin sáng chế là nguồn
thông tin có giá trị về các nghiên cứu và các đổi mới.
Những con số thống kê về đơn sáng chế là minh chứng cho sự gia tăng về
nhu cầu bảo hộ sáng chế trên toàn thế giới. Chỉ trong 4 năm gần đây, lượng đơn
đăng ký sáng chế được nộp là hơn 12 triệu đơn và gần 5 triệu sáng chế được bảo hộ.
Sự sáng tạo của con người là không giới hạn, cùng với sự thay đổi không ngừng
nghỉ theo xã hội phát triển là lí do để các nhà nghiên cứu, nhà sáng chế cho ra đời
nhiều sáng chế phục vụ cho cuộc sống. Hiểu được tầm quan trọng của bảo hộ sáng
chế để bảo vệ quyền lợi của mình khi tham gia thị trường đã khiến cho họ có ý thức
hơn về nộp đơn đăng ký sáng chế, từ đó số lượng sáng chế vẫn gia tăng hàng năm
trên toàn thế giới.
h. Hoạt động tra cứu thông tin sáng chế:
Thông tin sáng chế được đưa đến với công chúng thông qua một loạt cơ sở
dữ liệu. Mỗi cơ sở dữ liệu chứa một tập hợp các tư liệu sáng chế nhất định. Hiện tại,
không có cơ sở dữ liệu nào chứa tất cả tư liệu sáng chế đã được công bố trên toàn
thế giới từ trước đến nay. Vì vậy, có thể phải tham vấn nhiều cơ sở dữ liệu khác
nhau để tìm ra và truy cập các tài liệu sáng chế mà người dùng quan tâm.
Việc tra cứu tư liệu sáng chế sẽ cho phép người dùng tìm thấy các thông tin
về xu hướng phát triển gần đây của một loạt lĩnh vực kỹ thuật. Trên thực tế, trong
một số lĩnh vực công nghệ, những phát triển mới đầu tiên và đôi khi chỉ được bộc lộ
trong tài liệu sáng chế. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là sự có hạn của dữ liệu đang được
tra cứu. Không có bất cứ dữ liệu nào chứa tất cả thông tin kỹ thuật hiện có, hay toàn
11
bộ thông tin sáng chế hiện có. Thông tin có thể bị giới hạn về thời gian lưu trữ hay
quốc gia cung cấp nguồn thông tin hoặc các công cụ được sử dụng để tra cứu. Việc
tra cứu hiệu quả tư liệu sáng chế và các nguồn thông tin công nghệ khác thường đòi
hỏi nền kiến thức vững về lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến sáng chế. Hiểu biết về
thuật ngữ và các vấn đề liên quan trong lĩnh vực này cũng là rất cần thiết nếu phải
xác định các tiêu chuẩn tra cứu phù hợp.
Các tiêu chuẩn mà có thể được sử dụng để tra cứu các sáng chế có liên quan là:
• Từ khóa;
• Phân loại sáng chế;
• Ngày (ví dụ: ngày ưu tiên, ngày nộp đơn, ngày công bố, ngày cấp bằng);
• Các số tham chiếu hay nhận dạng sáng chế (ví dụ: số đơn, số công bố, số bằng);
• Tên người nộp đơn/người được chuyển nhượng hay tác giả sáng chế.
Các tiêu chuẩn tra cứu khác nhau có thể được hỗ trợ bởi các dịch vụ tra cứu
khác nhau. Một số dịch vụ tra cứu có thể cho phép tra cứu tài liệu sáng chế ở phạm
vi rộng, trong khi một số dịch vụ khác lại giới hạn các tiêu chuẩn tra cứu.
Một số kênh khai thác thông tin sáng chế:
• Dịch vụ tìm kiếm thông tin sáng chế PATENTSCOPE® của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO): http://patentscope.wipo.int/search/en/search.jsf
• Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ
(USPTO): http://patft.uspto.gov/.
• Thư viện Sở hữu Công nghiệp (IPDL) của Trung tâm Quốc gia về Đào tạo
và Thông tin Sở hữu Công nghiệp thuộc Cơ quan Sáng chế Nhật (JPO):
http://www.ipdl.inpit.go.jp/homepg_e.ipdl.
• Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan Sáng chế châu Âu:
http://ep.espacenet.com/.
• Thư viện số về Sở hữu công nghiệp của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (IP LIB):
http://iplib.noip.gov.vn.
• Ngoài ra, còn có các dịch vụ tra cứu chuyên nghiệp nhằm thực hiện những
tra cứu về tình trạng kỹ thuật cho người nộp đơn tiềm năng, điều đó có thể là hữu
ích nếu việc tra cứu ban đầu này không đem lại kết quả mong muốn. Danh sách các
tổ chức cấp dịch vụ thông tin sáng chế có thể được tìm thấy tại:
12
http://www.piug.org/vendors.php
i. Hoạt động xử lý thông tin sáng chế:
Xử lý thông tin sáng chế là việc sắp xếp, phân tích, đánh giá các dữ liệu sáng
chế có được theo yêu cầu, tiêu chí cụ thể một cách khoa học, chính xác, khách quan
nhằm cung cấp những cơ sở để xem xét, giải quyết, đưa ra các định hướng đúng đắn
và xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với bối cảnh thực tế.
Thông qua việc kiểm tra tài liệu, số liệu sáng chế; các nhà sáng chế có thể hệ
thống hóa, phân tích tổng hợp số liệu, tài liệu; chỉnh lý chính xác số liệu, tài liệu để
đánh giá tình hình, xác định đúng bản chất của các sáng chế có liên quan tới sáng
chế của mình, từ đó đưa ra các giải pháp, phương án cho các quyết định quản lý
công nghệ. Có thể tóm gọn các hoạt động này trong việc xây dựng bản đồ sáng chế.
Đây là khâu then chốt, phản ánh nội dung trọng tâm hoặc kết quả cần đạt tới của
quy trình thông tin, bởi lẽ kết quả của nó là tạo lập những thông tin mới phục vụ
trực tiếp cho hoạt động quản lý công nghệ của cơ quan, tổ chức.
Cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ đã tạo ra một khối
lượng lớn các sáng chế luôn được cập nhật vào nguồn thông tin sáng chế, một vấn
đề được đặt ra: không thể dừng lại tra cứu thông tin sáng chế một cách riêng rẽ và
tách biệt nhau. Cần thiết phải tập hợp thành từng nhóm các sáng chế theo một số
tiêu chí nhất định và theo dõi chúng trong những khoảng thời gian và phạm vi nhất
định theo kiểu "lập bản đồ công nghệ" để thu nhận được hình ảnh tổng thể về quá
trình phát triển công nghệ mới. Các tiêu chí thường được sử dụng bao gồm: tiêu chí
về phân loại sáng chế theo từng lĩnh vực kỹ thuật của sáng chế, tiêu chí về Chủ sáng
chế, tiêu chí về nguồn trích dẫn tài liệu có liên quan đến sáng chế,... Phân tích thông
tin sáng chế thường được tập trung vào phân tích số lượng và phân tích chất lượng
sáng chế. Một số phương pháp phân tích thông tin sáng chế thường được sử dụng:
a) Phân tích danh mục các sáng chế: tập hợp các sáng chế đang tồn tại trong
một lĩnh vực nhất định và nêu rõ Chủ sở hữu của các sáng chế đó.
b) Phân tích các yếu tố riêng biệt của sáng chế.
c) Phân tích phát triển kỹ thuật.
d) Phân tích sáng chế theo các vấn đề hoặc giải pháp được đề cập trong sáng chế.
e) Phân tích thứ bậc: sắp xếp trật tự theo thứ bậc.
13
f) Phân tích theo thời gian.
g) Phân tích mức độ chín muồi của công nghệ từ lúc bắt đầu, giai đoạn phát
triển, giai đoạn ngưng trệ, giai đoạn tái phát triển,v.v…
h) Phân tích ma trận.
i) Phân tích tương quan công nghệ.
k) Phân tích tài liệu trích dẫn xác định sáng chế nào được trích dẫn nhiều lần hoặc
hiếm được trích dẫn để thu được chiến lược sáng chế của các quốc gia trên thế giới.
Xác định hướng nghiên cứu phù hợp, tiến hành đánh giá công nghệ và tiên
lượng về triển vọng của công nghệ đó trong tương lai là những câu hỏi hóc búa
trước khi quyết định đầu tư và bắt đầu kinh doanh vào một lĩnh vực mới. Một trong
những phương pháp có thể giúp tìm ra câu trả lời đúng, đó là phân tích thông tin
sáng chế. Để có được thông tin "tình báo" về đối thủ cạnh tranh của mình, việc theo
dõi và giám sát thông tin sáng chế cũng đem lại nhiều thông tin hữu ích.
1.1.4 Vai trò của khai thác thông tin sáng chế
Các tài liệu sáng chế chứa thông tin công nghệ thường không được tiết lộ
trong bất kỳ hình thức xuất bản nào khác, bao gồm thực tế mọi lĩnh vực công nghệ.
Thông tin này có định dạng tương đối chuẩn và được phân loại theo các lĩnh vực kỹ
thuật để giúp việc xác định các tài liệu liên quan trở nên dễ dàng hơn.
Thông tin sáng chế thường được tạo ra trong quá trình nghiên cứu triển khai
và được công bố theo pháp luật về sáng chế. Thông tin sáng chế có trong các tài liệu
công bố gọi là tư liệu sáng chế (thường là bản mô tả sáng chế) - một dạng của tư
liệu thông tin khoa học - kỹ thuật, thương mại và cùng với các loại tư liệu khác như
sách, báo, tạp chí,... trong các lĩnh vực tương ứng tạo thành một bộ phận của tiềm
lực khoa học - công nghệ, kinh tế của một quốc gia.
Thông tin sáng chế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trước tiên vì bản thân nó
là một trong những tiêu chí hữu hiệu để đánh giá về nền khoa học và công nghệ của
một quốc gia cũng như mức độ phát triển kinh tế dựa trên ứng dụng khoa học và công
nghệ. Nhưng quan trọng hơn, thông tin sáng chế giúp các hoạt động nghiên cứu và
triển khai có thể dễ dàng thành công và tạo ra những công nghệ mới phục vụ phát triển
kinh tế – xã hội của một quốc gia. Với ý nghĩa như vậy, hiện nay, mỗi quốc gia đều
dành sự quan tâm đặc biệt cho các hoạt động phổ biến thông tin sáng chế.
14
Thông tin sáng chế là nguồn thông tin duy nhất về độc quyền, được thể hiện
với cấu trúc chặt chẽ theo bảng phân loại sáng chế quốc tế và các mẫu thống nhất
chi tiết khác. Loại thông tin này thường được công bố trước các dạng công bố khác
của cùng tác giả, bao quát tất cả các sáng chế trong mọi lĩnh vực của toàn bộ các
công nghệ, có giá trị để tìm hiểu và có khả năng áp dụng công nghiệp cũng như khả
năng được sử dụng như một cơ sở dữ liệu.
Thông tin sáng chế là loại thông tin cập nhật nhất, độc nhất, mang tính mô tả
chi tiết. Loại thông tin này được tổ chức tốt, truy cập nhanh và dễ dàng, bao quát
nhiều lĩnh vực công nghệ và có khả năng trích dẫn thông tin kỹ thuật.
Thông tin sáng chế đã được trải qua một quá trình thẩm định và chỉnh sửa lại
tại Cơ quan Sở hữu trí tuệ và được phân loại thống nhất trong phạm vi quốc tế nên
có độ tin cậy cao và trung thực. Cách viết và thể hiện vấn đề kỹ thuật luôn ngắn
gọn, mạch lạc, đi thẳng vào mô tả nội dung của giải pháp công nghệ mới. Thông tin
sáng chế luôn phản ánh thông tin công nghệ mới nhất và được công bố sớm nhất so
với các tài liệu khác nhằm có được quyền ưu tiên trước các đối thủ cạnh tranh. Rất
nhiều thông tin công nghệ chỉ được tìm thấy sớm nhất trong thông tin sáng chế giúp
cho việc nắm bắt nhanh các công nghệ mới nhất. Hơn 80% thông tin công nghệ có
trong sáng chế nhưng không xuất hiện trong các tài liệu khác. Thông tin sáng chế
chứa khối lượng nội dung công nghệ phong phú, bao trùm hầu hết các ngành, các
lĩnh vực công nghệ từ trước cho tới nay, là một bộ sưu tập đầy đủ nhất về tình hình
phát triển của các loại công nghệ đã được biết đến trên toàn thế giới.
Thông tin sáng chế dùng để làm thông tin về quyền, xác định phạm vi và giới
hạn độc quyền của mỗi sáng chế. Việc tiếp cận các tài nguyên thông tin sáng chế
ngày nay được thực hiện chủ yếu thông qua tra cứu trực tuyến các thư viện IPDL
trên mạng thông tin toàn cầu internet (hầu hết là miễn phí).
Thông tin sáng chế là một nguồn thông tin quan trọng đối với các nhà nghiên
cứu, tác giả sáng chế, doanh nhân, các doanh nghiệp thương mại, cũng như các chuyên
gia sáng chế. Thông tin sáng chế có thể hỗ trợ những người sử dụng thông tin để tránh
những nỗ lực nghiên cứu và triển khai trùng lặp; xác định rõ khả năng bảo hộ của sáng
chế; tránh xâm phạm độc quyền sáng chế của người khác; xác định được giá trị sáng
chế của mình, cũng như của những người khác; khai thác công nghệ có trong đơn sáng
chế không được cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc không được bảo hộ độc quyền ở
một số nước nhất định, hoặc bằng độc quyền sáng chế đã hết hiệu lực bảo hộ; thu thập
15
thông tin về các hoạt động sáng tạo và định hướng kinh doanh của đối thủ cạnh tranh
trong tương lai; nâng cao chất lượng của các quyết định kinh doanh, ví dụ, ký kết hợp
đồng li-xăng, thiết lập quan hệ đối tác về công nghệ, mua lại và sáp nhập doanh nghiệp;
xác định xu hướng phát triển chủ đạo của các lĩnh vực công nghệ cụ thể, ví dụ, các lĩnh
vực công nghệ liên quan đến việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường, và
xây dựng cơ sở cho việc hoạch định chính sách.
Từ vai trò của thông tin sáng chế, có thể thấy rằng việc tìm kiếm, phân tích
và khai thác thông tin sáng chế từ các cơ sở dữ liệu sáng chế trên thế giới rất có ý
nghĩa đối với các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp bởi từ nguồn thông tin có được
từ việc khai thác, nhà nghiên cứu hoặc doanh nghiệp có thể:
j. Xây dựng kế hoạch và thực hiện cải tiến các sản phẩm hoặc quy trình hiện có;
k. Đánh giá hiện đại trong một lĩnh vực công nghệ cụ thể;
l. Xác định các phát minh được bảo vệ bởi các bằng sáng chế, đặc biệt là để
tránh vi phạm và tìm kiếm cơ hội cấp phép;
m. Giám sát hoạt động của các đối tác và đối thủ tiềm năng cả trong và ngoài
nước;
n. Xác định các thị trường hoặc khám phá các xu hướng mới trong công nghệ
hoặc phát triển sản phẩm ở giai đoạn đầu.
1.2 Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
1.2.1 Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Một vài năm trở lại đây, thuật ngữ “startup” trở nên phổ biến trên toàn thế
giới để mô tả một vài dự án kinh doanh mạo hiểm, những ứng dụng mới ra mắt tại
thung lũng Silicon và thậm chí cả những công ty công nghệ lớn. Có rất nhiều định
nghĩa về startup, tuy nhiên, tựu chung lại, startup là doanh nghiệp khởi nghiệp từ
những ý tưởng mới, những mô hình mới, những kết quả khoa học công nghệ mới,
sau đó phát triển thành doanh nghiệp để cạnh tranh toàn cầu và được đầu tư nhanh
chóng. Vậy, “Startup” chính là để chỉ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Theo Neil Blumenthal – Đồng sáng lập và đồng CEO của Warby Parker
(Mỹ): “Startup là một công ty hoạt động nhằm giải quyết một vấn đề mà giải pháp
không phải là hiển nhiên và dĩ nhiên không có gì đảm bảo thành công cả”.
Adora Cheung – Đồng sáng lập và CEO của Homjoy – một trong những
startup đình đám nhất tại Mỹ trong năm 2013 thì cho rằng: “Startup là một trạng
thái tinh thần. Khi mọi người gia nhập công ty của bạn và đưa ra những quyết định
16
cứng rắn thay vì chấp nhận sự ổn định để đổi lấy lời hứa tăng trưởng mạnh và sự
phấn khích mang lại những thay đổi ngay lập tức”.
Theo từ điển Heritage của Mỹ: “Startup” là “một doanh nghiệp hay công
việc kinh doanh vừa mới đi vào hoạt động”. Nhưng cái khó ở đây là nguồn này
không ghi rõ “mới” là bao nhiêu. Điều đó khiến cho nhiều người hiểu lầm cho rằng
startup có tuổi đời chỉ 1-2 năm. Tuy nhiên, Paul Graham – lập trình viên và nhà đầu
tư mạo hiểm nổi tiếng với vai trò sáng lập viên của Y-Combinator (quỹ đầu tư mạo
hiểm chỉ đầu tư cho các ý tưởng mới) – nhận định: “Một công ty 5 năm tuổi cũng có
thể là một startup”.
Như vậy, thời gian không phải là thước đo chuẩn để xác định một công ty có
phải là startup hay không. Theo CEO Warby Parker, startup là một tổ chức được
thiết kế nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong những điều kiện không chắc
chắn nhất. Các startup được thiết kế cho những tình huống không thể mô hình hóa
và độ rủi ro không nhất thiết phải lớn nhưng chưa tính toán được.
Nhiều người cho rằng Startup phải có sáng tạo đỉnh cao về khoa học công
nghệ. Điều này đúng, nhưng chưa đủ. Định nghĩa startup không phải chỉ xuất hiện
trong lĩnh vực công nghệ. Có một điều chắc chắn là các startup thường ứng dụng
công nghệ để giải quyết các vấn đề và sự xuất hiện của công nghệ ở khắp mọi nơi.
Sự sáng tạo trong startup cần được hiểu một cách rộng rãi, không nhất thiết
là tạo ra công nghệ mới chưa từng có. Ngay cả những sáng chế tiên tiến nhất cũng
luôn được xây dựng dựa trên các công nghệ cũ. Nhiều công ty startup không sáng chế
ở khía cạnh sản phẩm, mà sử dụng các sáng chế khác: điều chỉnh những công nghệ
hiện tại cho mục đích mới, đặt ra một mô hình kinh doanh mới để mở ra các giá trị
trước đây chưa được tìm ra, hoặc thậm chí mang sản phẩm hay dịch vụ đến một địa
điểm mới hoặc nhóm khách hàng trước đây chưa được phục vụ. Trong tất cả các
trường hợp này, sự sáng tạo đổi mới là chìa khóa đưa đến thành công cho công ty.
1.2.2 Quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
1.2.2.1 Khái niệm công nghệ và quản lý công nghệ
a. Công nghệ:
Quan niệm cũ về công nghệ: Công nghệ là tập hợp các phương pháp gia
công, chế tạo làm thay đổi tính chất, hình dạng, trạng thái của nguyên vật liệu và bán
17
thành phẩm để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Ví dụ: công nghệ chế tạo máy điện, công
nghệ sản xuất linh kiện điện tử,... Tuy nhiên, theo quan điểm này, công nghệ chỉ liên
quan đến sản xuất vật chất mà chúng ta có thể nhìn thấy được và cảm nhận được.
Định nghĩa của Ủy ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương
(ESCAP): “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình kỹ thuật để chế biến
vật liệu và thông tin. Công nghệ bao gồm kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương pháp
và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và nhà cung cấp dịch vụ”. Công
nghệ dùng để chỉ mọi hoạt động trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội có sử
dụng kiến thức khoa học nhờ đó mà công việc có hiệu quả hơn.
Theo Luật khoa học và Công nghệ (2000), công nghệ được hiểu một cách khái
quát là “tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện
dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. [26, Khoản 2, Điều 2].
Theo Luật Chuyển giao công nghệ (2006), công nghệ là “giải pháp, quy
trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến
đổi nguồn lực thành sản phẩm”. [16, Khoản 2, Điều 3].
Mặc dù khác nhau về ngôn từ, các định nghĩa nêu trên về công nghệ đều bao
quát bốn khía cạnh:
- Công nghệ là máy biến đổi: khả năng làm ra sản phẩm đáp ứng và thỏa mãn
yêu cầu về kinh tế. Công nghệ không tồn tại mãi mãi vì một công nghệ muốn xuất
hiện thì phải hiệu quả hơn công nghệ cũ. Khía cạnh này không chỉ nhấn mạnh tầm
quan trọng của công nghệ trong việc giải quyết các vấn đề thực tế mà còn nhấn
mạnh sự phù hợp của mục đích kinh tế trong việc áp dụng công nghệ.
- Công nghệ là một công cụ: Khía cạnh này đề cập đến công nghệ là sản
phẩm của con người, bởi vậy, con người có thể làm chủ được công nghệ.
- Công nghệ là kiến thức: Công nghệ không nhất thiết phải nhìn thấy được và
các công nghệ giống nhau chưa chắc đã cho kết quả như nhau. Muốn sử dụng công
nghệ có hiệu quả thì con người phải được đào tạo về kỹ năng, kiến thức và được cập
nhật thông tin thường xuyên liên tục.
- Công nghệ là hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó. Đề cập tới công
nghệ dù là kiến thức nhưng vẫn được mua, bán. Đó là công nghệ hàm chứa trong
các vật thể tạo ra nó, bao gồm: kỹ thuật, con người, thông tin và tổ chức.
18
Lịch sử đã thừa nhận vai trò của công nghệ đối với sự phát triển của nhân
loại. Đối với mỗi quốc gia, công nghệ trở thành công cụ chiến lược để phát triển
kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững trong môi trường quốc tế ngày
càng cạnh tranh khốc liệt. Người ta đã rút ra quy luật: Trên thế giới, không phải
những nước chiếm giữ nhiều đất đai và tiền bạc mà chính những nước chiếm giữ tri
thức và công nghệ mới trở thành các quốc gia phát triển hàng đầu.
Một trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập có phải
là doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hay không chính là trình độ công
nghệ làm nền tảng cho tính đổi mới sáng tạo. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp
góp phần quan trọng tạo điều kiện cho tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
Các nước có trình độ công nghệ cao cũng thường là các quốc gia có nhiều Startup
thành công. Hiện nay nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo chọn cho
mình hướng đi theo sự phát triển Công nghệ (Tech Startup). Đặc điểm của doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo công nghệ là không cần quá nhiều vốn ban đầu
(so với các ngành nghề khác) và có thể dễ dàng học hỏi từ những mô hình đi trước
trên thế giới. Theo kết quả khảo sát chọn mẫu ngẫu nhiên trên 7,450 doanh nghiệp
của Tổng cục Thống kê năm 2014, chỉ có 464 doanh nghiệp khẳng định là có các
hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 6,23%. Điều này có nghĩa rằng,
đại bộ phận các doanh nghiệp chưa quan tâm đến các hoạt động ứng dụng và phát
triển khoa học công nghệ. Tuy nhiên bước sang giai đoạn năm 2016-2018, các lĩnh
vực được các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo lựa chọn khởi nghiệp sẽ
tập trung vào các lĩnh vực công nghệ tài chính, công nghệ lữ hành, trí tuệ nhân
tạo/chatbot, Internet vạn vật, chăm sóc sức khoẻ và tập hợp dữ liệu lớn theo xu
hướng phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
b. Quản lý công nghệ:
Quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, kiểm tra) hợp quy luật
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đề ra. Quản lý là một hoạt động tất
yếu của xã hội loài người; nó phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm thu được hiệu quả,
mà nếu để mỗi người hoạt động riêng lẻ thì không thể đạt được. Như vậy, quản lý công
nghệ là tập hợp các hoạt động công nghệ nhằm đạt được mục tiêu đã định.
19
Khái niệm quản lý công nghệ:
- Ở góc độ vi mô (cơ sở): quản lý công nghệ là một bộ môn khoa học liên
ngành, kết hợp khoa học và công nghệ và các tri thức quản lý để hoạch định, triển
khai và hoàn thiện năng lực công nghệ nhằm xây dựng và thực hiện các mục tiêu
trước mắt và lâu dài của một tổ chức.
- Ở góc độ vĩ mô: quản lý công nghệ là một lĩnh vực kiến thức liên quan đến
thiết lập và thực hiện các chính sách về phát triển và sử dụng công nghệ, về sự tác
động của công nghệ đối với xã hội, với các tổ chức, các cá nhân và tự nhiên, nhằm
thúc đẩy đổi mới, tạo tăng trưởng kinh tế và tăng cường trách nhiệm trong sử dụng
công nghệ đối với lợi ích của nhân loại.
Theo Wikipedia, “Quản lý công nghệ là một tập hợp các quy tắc quản lý cho
phép các tổ chức quản lý các nền tảng công nghệ của họ để tạo ra lợi thế cạnh
tranh”. [24]
Các khái niệm điển hình được sử dụng trong quản lý công nghệ là:
- Chiến lược công nghệ (logic hoặc vai trò của công nghệ trong tổ chức),
- Dự báo công nghệ (xác định các công nghệ có thể có ý nghĩa lớn cho tổ
chức, có thể thông qua tìm kiếm công nghệ),
- Lộ trình công nghệ (công nghệ lập bản đồ đến nhu cầu kinh doanh và thị
trường),
- Danh mục dự án công nghệ (một loạt các dự án đang triển khai) và danh
mục công nghệ (tập hợp công nghệ đang sử dụng).
Quản lý công nghệ là một hoạt động phức tạp và đa dạng, đòi hỏi phải có sự
phân loại thông qua nhiều thảo luận và nghiên cứu. Khái niệm quản lý công nghệ
rất linh hoạt và phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể: ngành công nghiệp, quốc gia
và các công ty.
Quản lý công nghệ là tập hợp các phương pháp và hệ thống về quản lý quy
trình áp dụng kiến thức, bí quyết cả về kỹ thuật và quản lý đáp ứng các yêu cầu làm
ra các sản phẩm và dịch vụ nhất định, từ đó tạo ra các lợi thế so sánh cho doanh
nghiệp. Đó không phải là việc quản lý chuyên biệt về kỹ thuật trong các hoạt động
kinh doanh dựa vào công nghệ mà bao gồm tất cả các hoạt động khác, được thực
hiện trên cơ sở tiếp cận có hệ thống. [3]
20
1.2.2.2 Hoạt động quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo
Theo đánh giá của giới công nghệ, chưa khi nào thị trường startup tại Việt
Nam lại sôi động như hiện nay. Công nghệ thường là đặc tính tiêu biểu của sản
phẩm từ một startup. Dù vậy, ngay cả khi sản phẩm không dựa nhiều vào công
nghệ, thì startup cũng cần áp dụng công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh cũng
như tham vọng tăng trưởng.
Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong
quá trình đổi mới công nghệ của quốc gia. Một đặc điểm chung của cộng đồng
doanh nghiệp này là công nghệ thông tin được sử dụng sâu rộng hầu như trong mọi
công đoạn, từ thiết kế, chế tạo, đến tiếp thị, chăm sóc khách hàng,... Chính bởi vậy,
quản lý công nghệ là một hoạt động tất yếu của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo.
Quản lý công nghệ là một hoạt động mang tính tổng hợp cao, đòi hỏi sự tiếp
cận có hệ thống tất cả các vấn đề của một doanh nghiệp, trong đó các hoạt động có
liên quan đến công nghệ được tập trung chú trọng. Tuỳ từng doanh nghiệp với các
hoàn cảnh cụ thể khác nhau, các nội dung quản lý công nghệ cũng như vai trò của
chúng cũng khác nhau. Tuy nhiên, các hoạt động công nghệ có liên quan đến quản
lý công nghệ của các loại hình doanh nghiệp là như nhau.
a. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
- Đổi mới sản phẩm: Là việc tạo ra một sản phẩm hoàn toàn mới, hoặc cải tiến các
sản phẩm truyền thống của công ty mình. Việc tạo ra một sản phẩm mới rất khó khăn.
Thường phải có nguồn chi phí lớn để tạo ra cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động này; có
đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật có khả năng triển khai hoạt động…
- Đổi mới quy trình sản xuất: Tiến bộ công nghệ đối với các nước đang phát
triển được tập trung chủ yếu vào việc cải tiến hiệu quả quy trình công nghệ. Việc
cải tiến này cho phép nâng cao năng suất của người lao động. Điều này thể hiện qua
việc kết quả cải tiến quy trình sản xuất chuyển dịch sang phải của đường cung phản
ánh khả năng nâng cao năng lực sản xuất.
- Cải tiến máy móc, dây chuyền, thiết bị: Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc
của nền công nghiệp tự động hóa, công nghệ sản xuất đã được cải tiến dần khi áp
21
dụng các máy móc, thiết bị tự động hóa để thực hiện các nhiệm vụ, thay thế cho các
phương pháp sản xuất hàng loạt sử dụng sức người truyền thống đã lỗi thời và
không còn đáp ứng được các yêu cầu sản xuất trong thời hiện đại. Tự động hóa
trong công nghiệp mang đến những sản phẩm với độ chính xác gần như tuyệt đối,
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí nhân công. Các giải pháp tự động hóa
như robot, máy tự động… có thể thay thế con người thực hiện các công việc đòi hỏi
kỹ thuật cao, thực hiện trong môi trường độc hại với thời gian nhanh chóng. Việc
cải tiến càng được sớm thực hiện thì càng có những kết quả tích cực đến bản thân
startup, tăng khả năng phát triển và cạnh tranh trên thị trường.
b. Hoạt động khai thác công nghệ:
Tra cứu, tìm hiểu các đặc tính kỹ thuật liên quan đến công nghệ, dây chuyền,
máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp khác nhằm thực hiện quy trình kỹ thuật, cải
tiến máy móc, dây chuyền thiết bị của chính bản thân doanh nghiệp. Sản phẩm của
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bắt buộc phải mang tính mới, có nghĩa
là có sự khác biệt hoặc cải tiến hơn những sản phẩm tương đương đã có trước đó.
Chính vì vậy, nghiên cứu các sản phẩm đã có là việc làm cần thiết. Việc nghiên cứu
này giúp cho các startup có thông tin kỹ thuật về sản phẩm, tìm ra những điểm có
thể đổi mới, phát triển hơn mà các doanh nghiệp khác chưa thực hiện. Từ đó, thực
hiện triển khai kế hoạch thực hiện sản phẩm, hình thành bản thiết kế mang tính kỹ
thuật mới và đưa vào chế tạo. Công tác quản lý công nghệ sẽ giúp cho doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bước đầu hình thành và thực hiện nên ý tưởng công
nghệ mới được thuận lợi, phát huy được những điểm mạnh kỹ thuật của sản phẩm
đã có trước đó hoặc khắc phục những kỹ thuật mà sản phẩm trước đó đang gặp phải
để cho ra đời một sản phẩm có tính mới tốt hơn, ưu việt hơn.
c. Hoạt động nghiên cứu, triển khai đề tài, đề án, nhiệm vụ khoa học công nghệ từ
kinh phí nhà nước, doanh nghiệp
Từ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cùng với các
đề tài, đề án được giao, doanh nghiệp sẽ có ý thức hơn về vấn đề nghiên cứu, triển
khai nhằm tìm kiếm những quy trình, cách thức mới hoặc những công nghệ có thể
cải tiến được để thực hiện nhằm phát triển và thay đổi những công nghệ, kỹ thuật đã
có. Hoạt động này không hề đơn giản cũng như cần một khoản kinh phí tương đối
22
lớn, đôi khi bản thân doanh nghiệp không thể tự có đủ để thực hiện công việc này.
Chính vì thế, nguồn kinh phí hỗ trợ từ nhà nước cũng như từ các doanh nghiệp/nhà
đầu tư khác sẽ là điểm tựa để các startup có thể nghiên cứu triển khai ra các sản
phẩm/quy trình mang tính hữu ích cao.
1.3 Một số vấn đề lý luận cơ bản về khai thác thông tin sáng chế trong quản lý
công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Thông tin sáng chế là một trong những lợi ích có giá trị mà hệ thống sáng
chế mang lại cho xã hội để đổi lấy việc cấp cho nhà phát minh một sự độc quyền
của công nghệ có liên quan trong một thời gian nhất định. Thông tin sáng chế,
chẳng hạn như xuất bản các ứng dụng bằng sáng chế chưa được kiểm chứng, có
nhiều ưu điểm độc đáo khác nhau như thông tin kỹ thuật: nó bao gồm nhiều công
nghệ bao gồm công nghệ tiên tiến, cũng như thông tin về các phát minh ở nước
ngoài bằng ngôn ngữ bản địa của người đọc. Thông tin bằng sáng chế cũng bao gồm
các nội dung của quyền độc quyền hoặc quyền sở hữu trí tuệ, chắc chắn là một phần
của hoạt động kinh tế hiện tại. Hơn nữa, thông tin bằng sáng chế là một dấu hiệu
hữu ích cho các chiến lược phát triển công nghệ hoặc chiến lược toàn cầu của từng
doanh nghiệp để đáp ứng với việc tăng cường cạnh tranh.
Do đó, các tập đoàn, trường đại học và tổ chức nghiên cứu đa quốc gia sử
dụng thông tin sáng chế ở giai đoạn đầu nghiên cứu và phát triển để xác định mục
tiêu nghiên cứu và phát triển, đánh giá phát minh và chủ động sử dụng thông tin
bằng sáng chế trong quản lý tài sản trí tuệ và các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo cũng không là ngoại lệ. Trên thực tế, nếu không quan tâm đến bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh và quyết tâm khởi nghiệp của
các doanh nghiệp này, khiến cho họ dễ dàng rời bỏ để đi theo những lĩnh vực thiếu
bền vững, giảm chỉ số đầu tư cho đổi mới sáng tạo và sản xuất. Nếu không bảo vệ
sáng chế thì sẽ ảnh hưởng đến sáng tạo, bởi khi doanh nghiệp đã bỏ ra rất nhiều
công sức và tiền bạc phục vụ cho nghiên cứu, phát triển nhưng sáng chế bị đánh
cắp, lúc đó, sẽ không có cơ quan nào đứng ra để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp.
Như đã đề cập ở trên, thông tin sáng chế bao gồm những loại thông tin kỹ
thuật và pháp lý có thể được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Một trong
những việc để quản lý công nghệ một cách có hiệu quả, các nhà khởi nghiệp đổi
23
mới sáng tạo cần nắm bắt tốt các thông tin sáng chế đã được công bố, mục đích
chính nhằm tra cứu tình trạng kỹ thuật, nắm bắt thông tin kinh doanh và xác định
các xu hướng chủ đạo về sự phát triển của công nghệ. Để xác định liệu sáng chế của
mình có được yêu cầu bảo hộ có đáp ứng các tiêu chuẩn nêu trên hay không thì cần
phải so sánh với tình trạng kỹ thuật, tức là tri thức hiện tại của công chúng trên toàn
thế giới. Tư liệu sáng chế là một kênh quan trọng để thông tin kỹ thuật được đưa
đến với công chúng. Vì thế, việc tra cứu tư liệu sáng chế là một bước quan trọng để
xác định liệu một sáng chế có khả năng được bảo hộ độc quyền hay không. Cùng
với đó, việc biết được công ty hoặc cá nhân nào dẫn đầu về công nghệ trong cùng
lĩnh vực kinh doanh cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo xây dựng kế hoạch cho các hoạt động
kinh doanh và hoạt động nghiên cứu triển khai của mình. Dữ liệu thống kê có được
từ thông tin sáng chế có thể được sử dụng để mô tả xu hướng phát triển chủ đạo của
các lĩnh vực công nghệ và của các quốc gia khác nhau, qua đó giúp các nhà hoạch
định chính sách đưa ra các quyết định chính xác hơn.
1.3.1 Khai thác thông tin kỹ thuật phục vụ quản lý công nghệ
1.3.1.1 Thông tin kỹ thuật của sáng chế
Thông tin kỹ thuật là thông tin về ứng dụng sáng tạo các nguyên lý khoa học
vào việc thiết kế hay phát triển các cấu trúc, máy móc, công cụ, hay quy trình chế
tạo, hay những công trình sử dụng chúng một cách riêng lẻ hay kết hợp với nhau;
hay vào việc xây dựng hay vận hành những đối tượng vừa kể với sự ý thức đầy đủ
về thiết kế của chúng; hay để dự báo hoạt động của chúng dưới những điều kiện vận
hành nhất định; tất cả những việc vừa kể với sự chú ý đến chức năng đã định, đặc
điểm kinh tế của sự vận hành, hay sự an toàn đối với sinh mạng và của cải.
Tình trạng kỹ thuật của sáng chế có được từ việc khai thác thông tin sáng chế
sẽ cung cấp thông tin tổng thể về một lĩnh vực kỹ thuật xác định bởi nó bao hàm tất
cả hoặc một số lượng lớn tư liệu sáng chế và phi sáng chế liên quan đến lĩnh vực đó.
Việc tra cứu này sẽ tìm ra các tài liệu, các nghiên cứu đã được công bố, tài liệu phi
sáng chế khác, cũng như các bằng độc quyền sáng chế đã hết hạn và chưa hết hạn
bảo hộ, các đơn đăng ký sáng chế đã được công bố trên toàn thế giới. Kết quả tra
24
cứu chủ yếu được sử dụng để xác định điểm khởi đầu và phương hướng của các dự
án nghiên cứu triển khai mới.
1.3.1.2 Thực hiện khai thác thông tin kỹ thuật
Khai thác thông tin kỹ thuật là một biện pháp tốt để có được thông tin về sự
phát triển trong lĩnh vực kỹ thuật của sáng chế. Đối khi, việc tra cứu tình trạng kỹ
thuật có thể giúp startup biết được những gì mà đối thủ cạnh tranh coi là đáng bảo
hộ. Kết quả tra cứu có thể là yếu tố quan trọng để đưa ra quyết định nộp đơn đăng
ký sáng chế. Nếu việc tra cứu tình trạng kỹ thuật cho thấy các tài liệu kỹ thuật đối
chứng đã đề cập đến sáng chế được yêu cầu bảo hộ thì startup cần nghiên cứu cách
thức để có thể “vượt qua giải pháp kỹ thuật đã biết” bằng cách lập yêu cầu bảo hộ
để tránh giải pháp kỹ thuật đã biết. Nếu không thể làm được điểu đó thì họ có thể
xem xét việc nộp đơn còn thích hợp hay không. Trong một số trường hợp, việc tra
cứu tình trạng kỹ thuật có thể mang lại các tài liệu kỹ thuật đối chứng có vấn đề.
Việc thấy một tài liệu đối chứng có vẻ tương tự với sáng chế không có nghĩa là nên
từ bỏ đơn đăng ký sáng chế. Thay vào đó, giải pháp kỹ thuật đã biết có thể bảo đảm
một nỗ lực “sáng chế ra đối tượng thay thế” để tìm ra cách thức thay đổi yêu cầu
bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế để vượt qua giải pháp kỹ thuật đã biết.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể khai thác thông tin
sáng chế từ các bằng độc quyền sáng chế hiện có thông qua các công cụ trực tuyến
hoặc tại các thư viện sáng chế công cộng. Việc tra cứu tình trạng kỹ thuật có thể
được thực hiện bằng cách tra cứu từ khóa hoặc tra cứu theo lĩnh vực kỹ thuật.
Thông tin kỹ thuật của sáng chế được thể hiện rõ nhất trong phần mô tả, bản
tóm tắt sáng chế và bản vẽ (nếu có). Các nội dung này bộc lộ các dấu hiệu kỹ thuật
của sáng chế có liên quan, thường được minh họa bằng các ví dụ thực hiện cụ thể để
chứng minh khả năng áp dụng của sáng chế. Những thông tin về kỹ thuật trong bản
mô tả và bản tóm tắt sáng chế bao gồm lĩnh vực kỹ thuật được đề cập; tình trạng kỹ
thuật của sáng chế; bản chất kỹ thuật của sáng chế; thông tin về các giải pháp kỹ
thuật đã biết tính đến ngày ưu tiên của đơn tương tự với sáng chế. Bản mô tả sáng
chế chính là sự giải thích rõ ràng và súc tích về các công nghệ hiện có liên quan đến
sáng chế mới, giải thích về cách thức mà sáng chế sẽ được sử dụng để giải quyết
những vấn đề kỹ thuật mà những công nghệ hiện có chưa giải quyết được; các ví dụ
cụ thể về công nghệ mới cũng thường sẽ được đưa ra.
25
Hình 1.1 Ví dụ về sự thể hiện thông tin kỹ thuật của sáng chế
(Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ)
Bên cạnh đó, đơn sáng chế thường có chứa các tham chiếu đến các tài liệu sáng
chế sớm hơn (ví dụ, đơn sáng chế hay bằng độc quyền sáng chế đã cấp) hoặc đến các
thông tin được công bố trong các tài liệu khoa học và kỹ thuật (ví dụ, tạp chí hay cẩm
nang chuyên ngành), đặc biệt là trong phần bản mô tả của đơn. Trong quá trình thẩm
định đơn, thẩm định viên sáng chế sẽ chuẩn bị các báo cáo mà trong đó họ có thể trích
dẫn các tài liệu sáng chế hoặc các tài liệu khác có mô tả giải pháp kỹ thuật tương tự hay
có liên quan mật thiết đến giải pháp đang yêu cầu bảo hộ độc quyền. Những báo cáo đó
sẽ được hầu hết các Cơ quan Sáng chế công bố công khai. Các trích dẫn có trong tài
liệu sáng chế có thể là các hữu ích để xác định các tài liệu bổ sung liên quan đến công
nghệ đang được tìm kiếm hoặc giúp tìm ra thêm các tiêu chuẩn để tra cứu sâu hơn.
1.3.1.3 Giải quyết vấn đề kỹ thuật trong quản lý công nghệ dựa trên khai thác thông
tin kỹ thuật
Việc khai thác thông tin kỹ thuật được đánh giá là rất cần thiết trong công tác
quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và có sự ảnh
hưởng lớn tới các hoạt động đổi mới công nghệ, đánh giá công nghệ và phát triển
sản phẩm mới.
26
Đổi mới công nghệ: Việc đổi mới công nghệ là thay thế một phần chính hay
toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn và hiệu quả
hơn. Đổi mới công nghệ có thể nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá
trình sản xuất hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm mới phục vụ thị trường. Đối
với doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trọng tâm chính là tìm ra cái mới
mang tính khác biệt so với những thứ đã có trước đó. Chính bởi vậy, đổi mới công
nghệ là hoạt động tất yếu. Tuy nhiên, thông tin kỹ thuật của công nghệ thường
không được thể hiện bởi các nguồn thông tin khác mà nó được cung cấp theo thông
tin sáng chế. Do đó, khai thác thông tin sáng chế, chi tiết hơn là thông tin kỹ thuật
của sáng chế sẽ giải quyết được vấn đề cơ sở để đổi mới công nghệ cho startup.
Nguồn thông tin này giúp cho startup không đi vào nghiên cứu những vấn đề đã có,
tránh sự trùng lặp gây lãng phí thời gian và tiền bạc.
Phát triển sản phẩm mới: Từ nền tảng đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo sẽ hình thành được hướng phát triển, nghiên cứu các
sản phẩm mới dựa trên công nghệ đã có bằng cách thay đổi một phần hoặc đổi mới
toàn bộ công nghệ. Việc tạo ra một sản phẩm mới rất khó khăn: Trước hết phải đảm
bảo được những điều kiện tiền đề mà điều kiện tiên quyết là phải có đầy đủ thông
tin về yêu cầu của thị trường cũng như thông tin về kết quả đã đạt được của các
doanh nghiệp khác, tiếp theo đó là nghiên cứu xác định khả năng sản xuất sản phẩm
mới và luận chứng kinh tế - kỹ thuật; tiến hành thiết kế sản phẩm mới, xác định các
thông số kỹ thuật và quy trình công nghệ; tổ chức sản xuất thử và xác định chi phí
sản xuất; thăm dò thị trường và sản xuất hàng loạt. Có thể thấy rằng việc nắm bắt kỹ
thuật là mấu chốt để xác định mục tiêu phát triển sản phẩm mới đối với startup. Do
vậy, nguồn thông tin kỹ thuật là thực sự cần thiết cho việc nghiên cứu và phát triển
sản phẩm nhằm hạn chế tối đa chi phí nghiên cứu không cần thiết về những gì đã
biết (tránh nghiên cứu và triển khai trùng lặp), tìm ra các công nghệ mới để thay thế
công nghệ đã có; tìm giải pháp có sẵn cho các vấn đề kỹ thuật và tìm kiếm ý tưởng
để tiếp tục đổi mới.
Đánh giá công nghệ: Hoạt động đánh giá công nghệ nhằm phân tích hiệu
quả trong việc đổi mới sản phẩm và công nghệ chế tạo ra sản phẩm. Đối với các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nói riêng,
27
quá trình đánh giá công nghệ dựa trên thông tin của bốn thành phần công nghệ, bao
gồm: thành phần kỹ thuật, thành phần thông tin, thành phần con người, thành phần
tổ chức. Kết quả đóng góp trực tiếp của bốn thành phần này xác định hàm lượng
công nghệ gia tăng, là cơ sở để đánh giá năng lực công nghệ và chiến lược công
nghệ. Thông tin kỹ thuật là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp có thể đánh giá được
công nghệ của mình ở mức độ nào, có đủ điều kiện thỏa mãn tính mới so với công
nghệ đã có trước đó hay không. Đồng thời, tìm ra những lợi ích kỹ thuật từ công
nghệ trước đó để phát huy, tận dụng cho sự phát triển sản phẩm mới và khắc phục,
thay đổi những bất lợi tiềm tàng.
Việc tra cứu tư liệu sáng chế sẽ cho phép tìm thấy các thông tin về xu hướng
phát triển gần đây của một loạt lĩnh vực kỹ thuật. Trên thực tế, trong một số lĩnh
vực công nghệ, những phát triển mới đầu tiên và đôi khi chỉ được bộc lộ trong tài
liệu sáng chế. Tuy nhiên, dữ liệu phục vụ tra cứu là hữu hạn, không có bất cứ dữ
liệu nào chứa tất cả thông tin kỹ thuật hiện có, hay toàn bộ thông tin sáng chế hiện
có. Thông tin có thể bị giới hạn về thời gian lưu trữ hay quốc gia cung cấp nguồn
thông tin hoặc các công cụ được sử dụng để tra cứu.
1.3.2 Khai thác thông tin pháp lý phục vụ quản lý công nghệ
1.3.2.1 Thông tin pháp lý của sáng chế
Thông tin pháp lý của sáng chế là những thông tin về quyền pháp lý của chủ
sở hữu đối với sáng chế của mình và những căn cứ của sáng chế được ghi trên tài
liệu hay kèm theo tài liệu để xác định điều kiện đưa vào lưu trữ và khai thác
theo quy định của pháp luật.
Thông tin pháp lý cho biết sáng chế có được cấp bằng độc quyền hay không;
nếu có, thì những quốc gia hay khu vực nào bằng độc quyền sáng chế đã được cấp;
và liệu bằng độc quyền sáng chế còn hay hết hiệu lực, hay đã bị hủy hiệu lực tại một
quốc gia hoặc lãnh thổ nhất định.
Thông tin pháp lý chứa trong các điểm yêu cầu bảo hộ xác định phạm vi bảo
hộ của sáng chế và tình trạng pháp lý của sáng chế:
a. Yêu cầu bảo hộ nhằm xác định tình trạng pháp lý của đối tượng được yêu
cầu bảo hộ mà người nộp đơn xem đó là sáng chế của mình và hình thức bảo hộ
được yêu cầu và được cấp; mỗi điểm yêu cầu bảo hộ xác định rõ sáng chế và những
28
dấu hiệu kỹ thuật duy nhất của sáng chế; yêu cầu bảo hộ phải rõ ràng, súc tích và
được minh họa một cách đầy đủ trong bản mô tả.
b. Tình trạng pháp lý: Cho biết sáng chế có được cấp bằng độc quyền hay
không; nếu có, thì những quốc gia hay khu vực nào bằng độc quyền sáng chế đã
được cấp; và liệu bằng độc quyền sáng chế còn hay hết hiệu lực, hay đã bị hủy hiệu
lực tại một quốc gia hoặc lãnh thổ nhất định.
c. Việc khai thác thông tin pháp lý của sáng chế nhằm giúp cho doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo xác định trách nhiệm cao hơn và đảm bảo được quyền
lợi đối với sáng chế: Tránh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; Đánh giá khả năng bảo
hộ đối với sáng chế của mình và Phản đối việc cấp bằng độc quyền sáng chế có thể
xung đột với sáng chế của mình. Rất nhiều doanh nghiệp đã gặp tính trạng đăng kí
vào một bằng sáng chế có sẵn. Do đó hoạt động nghiên cứu kỹ trước khi quyết định
đăng kí bằng sáng chế là vấn đề thiết yếu và có thể thực hiện thông qua kênh thông
tin sáng chế. Đối với những dự án có quy mô lớn, lường trước được việc bằng sáng
chế tương tự đã được đăng ký ở các nước phát triển sẽ giúp startup tránh được các
cuộc tranh chấp pháp lý không đáng có khi mở rộng thị trường.
Hình 1.2: Ví dụ về yêu cầu bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế
(Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ)
29
1.3.2.2 Căn cứ đánh giá tính pháp lý của sáng chế
Tính pháp lý được đánh giá dựa trên khả năng bảo hộ của sáng chế. Một sáng
chế được bảo hộ nếu thỏa mãn các điều kiện: có tính mới, có trình độ sáng tạo và có
khả năng áp dụng công nghiệp.
Tính mới: Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai
dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong
nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu
tiên trong trường hợp đơn sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Theo quy định của
pháp luật thì sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người
có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
Trình độ sáng tạo: Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào
các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng
văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước
ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp
đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng
tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình
về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Khả năng áp dụng công nghiệp: Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công
nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp
dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
1.3.2.3 Sự ảnh hưởng của thông tin pháp lý đến quản lý công nghệ
Khai thác thông tin pháp lý trên cơ sở liên quan đến việc đánh giá công nghệ
có thể được bảo hộ hay không nhằm đảm bảo việc không xâm phạm quyền của chủ
sáng chế đã được bảo hộ và ngăn chặn việc người khác xâm phạm quyền của mình.
Tra cứu thông tin về tình trạng pháp lý chuyên sâu hơn về mặt phạm vi so
với tra cứu tình trạng kỹ thuật. Việc tra cứu được thực hiện với một lĩnh vực kỹ
thuật xác định, như lĩnh vực kỹ thuật được đề cập trong bản mô tả sáng chế, nhằm
xác định tình trạng kỹ thuật có liên quan để đánh giá tính mới và/hoặc tính không
hiển nhiên của sáng chế được bộc lộ. Kết quả của tra cứu khả năng bảo hộ là rất hữu
ích cho việc soạn thảo yêu cầu bảo hộ sáng chế mạnh hơn và tốt hơn, và cũng có thể
tìm ra các điểm xung đột tiềm năng với các sáng chế thuộc sở hữu của người khác
30
cũng như khả năng giải quyết những xung đột đó. Tra cứu khả năng bảo hộ sáng
chế được thực hiện trong quá trình chuẩn bị đơn và trước khi nộp đơn đăng ký sáng
chế. Việc tra cứu giúp người nộp đơn quyết định liệu có nên (1) nộp đơn đăng ký
sáng chế hay không, hoặc (2) tiếp tục soạn thảo đơn theo hướng đang làm hay
không, hoặc (3) tiến hành thêm các hoạt động nghiên cứu và triển khai để tiếp tục
cải tiến sáng chế đó nhằm có được một sáng chế tốt hơn.
Còn được biết đến như tra cứu “quyền sử dụng sáng chế” hay “quyền tự do
sử dụng sáng chế” hoặc “được phép sử dụng sáng chế”, việc tra cứu về tình trạng
pháp lý (khai thác thông tin pháp lý) được thực hiện để xác định liệu có sáng chế
nào chưa hết hạn (vẫn còn hiệu lực) bị xâm phạm quyền bởi sản phẩm mới bất kỳ
được tung ra thị trường hoặc bởi việc khai thác theo các khác sáng chế liên quan
hay không. Bằng việc tra cứu này, một Bên bất kỳ sẽ được “phép sử dụng sáng chế”
để sản xuất, sử dụng, bán hay nhập khẩu một sản phẩm có chứa sáng chế. Việc tra
cứu sẽ bao gồm việc tìm hiểu tất cả yêu cầu bảo hộ của các bằng độc quyền sáng
chế có liên quan đang có hiệu lực để xác định phạm vi bảo hộ nhằm tránh xâm
phạm quyền của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế bất kỳ đang có hiệu lực. Để
đánh giá khả năng xâm phạm quyền, cũng cần phải nghiên cứu tất cả các điểm yêu
cầu bảo hộ của các đơn đăng ký sáng chế đã được công bố trước đó. Do đó, việc
thực hiện các tra cứu định kỳ ở giai đoạn bắt đầu cải tiến kỹ thuật, phát triển sản
phẩm hay đưa sản phẩm ra thị trường sẽ giúp doanh nghiệp xác định được các sáng
chế có liên quan và kịp thời biết được tình trạng pháp lý của chúng, tránh được các
hành vi xâm phạm quyền.
Nếu việc tra cứu xâm phạm quyền tìm ra các sáng chế có nguy cơ xâm phạm
quyền, thì việc tra cứu hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế có thể được tiến hành
nhằm xác định liệu bằng độc quyền sáng chế đó có còn hiệu lực hay không. Hình
thức tra cứu này được thực hiện sau khi bằng độc quyền sáng chế đã được cấp nhằm
đánh giá liệu bằng độc quyền sáng chế có được cấp thỏa đáng hay không. Việc tra
cứu sẽ tìm kiếm tài liệu bất kỳ (giải pháp kỹ thuật đã biết) có thể được sử dụng để
chứng minh rằng một hay nhiều điểm yêu cầu bảo hộ là vô hiệu. Tra cứu hiệu lực
của bằng độc quyền sáng chế được thực hiện khi có tranh chấp xảy ra, khi đàm phán
hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng, và là một công việc trong quá trình xác định
31
giá trị của sáng chế. Để phản đối hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế, doanh
nghiệp phải tìm được các sáng chế hay các tài liệu khác để phủ nhận tính mới hoặc
tính sáng tạo của sáng chế đó; tìm ra các bằng độc quyền sáng chế đã được cấp hoặc
các tài liệu về tình trạng kỹ thuật đã được công bố khác có thể khiến bằng độc
quyền sáng chế đó bị hủy bỏ hiệu lực một phần hoặc toàn bộ. Vì vậy, tra cứu khả
năng bảo hộ có thể được sử dụng như một công cụ bảo vệ cho một doanh nghiệp
khi có nghi ngờ về khả năng xâm phạm độc quyền đối với một sáng chế cụ thể.
Nếu vướng phải các tranh chấp về sở hữu trí tuệ khi ý tưởng kinh doanh đã
lớn mạnh và đã có thành quả thì sẽ có thể gây tổn thất rất lớn cho những doanh
nghiệp khởi nghiệp, thậm chí ý tưởng kinh doanh có thể bị phá sản hoàn toàn. Đây
gọi là những thất bại không đáng có mà những người khởi nghiệp hoàn toàn có thể
tránh khỏi nếu chuẩn bị trước. Sai lầm này không chỉ các nhà khởi nghiệp trẻ mới
mắc phải mà ngay cả một số doanh nghiệp lớn trong rất nhiều lĩnh vực cũng đã mắc
phải trước đó. Vì vậy, khai thác thông tin pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là
việc doanh nghiệp khởi nghiệp cần đặc biệt lưu ý để có thể yên tâm phát triển công
ty và xây dựng thương hiệu lớn mạnh trên thị trường.
Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể tránh được các thủ tục
pháp lý tốn kém liên quan đến việc xâm phạm độc quyền sáng chế bằng cách thu
thập thông tin về phạm vi bảo hộ của các bằng độc quyền sáng chế hiện có và tình
trạng pháp lý của chúng tại các nước khác nhau để lên kế hoạch kinh doanh. Thông
tin này có thể thu được bằng cách tra cứu một cách có hệ thống các tư liệu sáng chế.
Dựa vào các thông tin pháp lý khai thác được từ dữ liệu sáng chế, startup sẽ
nắm bắt được tình trạng các sáng chế có liên quan, từ đó có thể tự đánh giá được sự
khác biệt giữa sáng chế của mình và những sáng chế có từ trước đó, xem xét khả
năng bảo hộ sáng chế trong trường hợp yêu cầu cấp bằng sáng chế.
Vì đơn đăng ký sáng chế chỉ được công bố sau 18 tháng kể từ ngày nộp đơn nên
các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phải chủ động giám sát tư liệu sáng chế
trong các lĩnh vực công nghệ có liên quan đến sản phẩm của mình. Việc giám sát này
giúp các startup có sự can thiệp kịp thời trong trường hợp phát hiện ra việc cấp bằng
độc quyền sáng chế có thể xung đột với sáng chế mà họ sở hữu. Nếu bằng độc quyền
sáng chế được cấp thì doanh nghiệp được phép ngăn cấm bên thứ ba khai thác thương
32
mại đối với công nghệ có liên quan kể từ ngày ưu tiên. Để giảm nguy cơ xâm phạm
quyền của người khác, cần được giám sát tư liệu sáng chế ở nước hoặc khu vực có liên
quan để biết được các tài liệu sáng chế mới nhất được công bố.
Thông qua việc sử dụng thông tin sáng chế được cơ quan có thẩm quyền
công bố, startup có thể theo dõi được các đơn hoặc Bằng độc quyền sáng chế có thể
xung đột với sáng chế đang sở hữu, từ đó có các hành động phản đối việc cấp bằng
cho các sáng chế này. Đó cũng là một cách để họ có thể bảo vệ hữu hiệu cho công
nghệ của mình.
Thông tin pháp lý của sáng chế có ảnh hưởng đến quá trình đăng ký bảo hộ:
Bảo hộ sáng chế/bí mật kinh doanh/kiểu dáng công nghiệp
Thông tin pháp lý có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đăng ký bảo hộ của
chủ sáng chế. Bất cứ thông tin nào được sử dụng trong việc điều hành doanh nghiệp
và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích kinh tế đều được coi là thông tin bí mật.
Các thông tin đó có thể là những thông tin về tài chính, cũng có thể là những sáng
kiến, sáng chế, cũng có thể là công thức sản xuất, chiến lược quảng cáo hay danh
sách khách hàng. Bởi vậy, không phải cứ có sản phẩm mới, công nghệ mới là chủ
sở hữu lại thực hiện đăng ký bảo hộ sáng chế mà họ có thể dựa vào tính pháp lý để
cân nhắc giữa việc đăng ký bảo hộ sáng chế, bí mật kinh doanh hay kiểu dáng công
nghiệp. Trong nhiều trường hợp, do sự thỏa mãn yêu cầu về bảo hộ của sản phẩm
hoặc do ý muốn chủ quan của chủ sở hữu mà có thể lựa chọn các hình thức bảo hộ
khác nhau cho phù hợp.
a. Bảo hộ Sáng chế:
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải
quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Để được cấp
một bằng sáng chế, đòi hỏi giải pháp kỹ thuật đó phải đáp ứng các điều kiện như:
Có tính mới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Như vậy, không
phải đối tượng nào cũng có thể bảo hộ với danh nghĩa sáng chế, chẳng hạn: cách
thức thể hiện thông tin, giải pháp chỉ mang tính thẩm mỹ, hay như các quy trình sản
xuất thực vật, động vật chỉ mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình vi
sinh… Bằng sáng chế không cấp cho những ý tưởng mơ hồ mà chỉ cấp cho những
giải pháp kỹ thuật được trình bày cụ thể, chi tiết. Người yêu cầu cấp bằng sáng chế
33
phải công bố trước công chúng một cách chi tiết những bí quyết kỹ thuật và phải
nêu rõ phạm vi bảo hộ hợp lý. Ngoài ra, đối với sáng chế chỉ đáp ứng hai điều kiện:
có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp thì sáng chế đó không được cấp
bằng độc quyền sáng chế mà chỉ được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
b. Bảo bộ Bí mật kinh doanh:
Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ,
chưa được bộ lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Có nhiều người muốn
làm đơn đăng ký bảo hộ sáng chế nhưng lại không muốn bộc lộ bí quyết kỹ thuật
bởi họ lo sợ nếu nói ra thì có thể bị người khác lấy ngay lập tức. Nhưng nếu không
bộc lộ thông tin một cách chi tiết thì không được cấp bằng sáng chế. Trong trường
hợp này, họ thường chọn đăng ký bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh. Tuy nhiên,
bảo hộ bí mật kinh doanh không đơn giản. Muốn bảo hộ bí mật kinh doanh phải tìm
những biện pháp cần thiết để hạn chế việc phổ biến thông tin. Chẳng hạn như: Phải
hạn chế sự ra vào nơi làm việc; tránh sự tiếp cận với các tài liệu, thông tin bí mật;
hạn chế nghiêm ngặt số lượng người có thể tiếp cận các thông tin cạnh tranh quan
trọng; phải giáo dục nhân viên chủ chốt và phải giám sát rất kỹ các buổi thuyết
trình, giới thiệu sản phẩm… Việc bảo hộ bí mật kinh doanh rất tốn kém và phần lớn
phải dưạ vào các cơ quan pháp luật.
Vì sợ bộc lộ thông tin, nhiều sản phẩm đã không bao giờ xuất hiện, nhất là
những sản phẩm có vốn đầu tư lớn, bởi khi sản phẩm được bán ra thị trường, các
đối thủ cạnh tranh có thể dễ dàng bắt chước. Nhưng nếu cứ giữ bí mật mãi những
sáng chế đó thì những sáng chế không được công bố này sẽ bị mai một đi. Chính vì
vậy, nhiều công ty lớn, người ta chỉ bảo hộ dưới hình thức bí mật kinh doanh khi
mà không thể xin cấp được bằng sáng chế. Theo họ, nếu không có bằng sáng chế thì
không thể có sự phát triển công nghệ và không thúc đẩy sự sáng tạo của con người.
c. Bảo hộ Kiểu dáng công nghiệp:
Trong trường hợp sản phẩm được nghiên cứu có tính mới, tính sáng tạo và
khả năng áp dụng công nghiệp nhưng chỉ là ở hình thức thể hiện chứ không phải
thay đổi về kỹ thuật thì sản phẩm đó không thỏa mãn điều kiện để có thể được bảo
hộ sáng chế. Tuy nhiên, chủ sở hữu có thể cân nhắc việc đăng ký bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp cho sản phẩm đó.
34
Việc lưạ chọn bảo hộ theo cách nào tùy thuộc vào chủ sở hữu nhưng trước
khi quyết định hình thức bảo hộ cần cân nhắc đến việc giải pháp kỹ thuật có đáp
ứng điều kiện bảo hộ hay không và hiệu quả cuả mỗi hình thức như thế nào. Theo
hình thức bảo hộ sáng chế thì chủ sở hữu có quyền độc quyền tối cao trong việc sử
dụng sáng chế cuả mình trong vòng 20 năm, nhưng đổi lại họ phải công bố bí quyết
cuả mình để mọi người có thể hiểu và học hỏi được từ những giải pháp kỹ thuật đó.
Sau thời hạn bảo hộ, bất cứ ai cũng có quyền sử dụng. Đối với kiểu dáng công
nghiệp, chủ sở hữu có thể khai thác trong 05 năm và được gia hạn 02 lần, mỗi lần
05 năm (tổng không quá 15 năm). Còn bảo hộ bí mật kinh doanh thì vô thời hạn,
nhưng nếu chủ sở hữu không tìm biện pháp bảo vệ thì bí mật đó sẽ không còn là bí
mật nữa.
1.3.3 Khai thác thông tin thương mại phục vụ quản lý công nghệ
Theo lý thuyết, thông tin sáng chế là thông tin kỹ thuật hoặc pháp lý. Tuy
nhiên, 2 loại thông tin này lại là nền tảng của thông tin thương mại, do đó, tư liệu
sáng chế cũng cung cấp thông tin thương mại cho người sử dụng. Khi phát triển một
sản phẩm mới, thông tin công nghệ so sánh có thể quyết định sự thành công hay thất
bại của sản phẩm và sự thành công hay thất bại của chính công ty. Một số ứng dụng
thực tế của thông tin bằng sáng chế bao gồm:
- Công cụ cho tư duy sáng tạo - Xác định xu hướng công nghệ liên quan:
Thông tin sáng chế cung cấp một nguồn thông tin công nghệ có thể được sử
dụng bởi các nhà nghiên cứu và nhà phát minh để tìm giải pháp mới cho các vấn đề
kỹ thuật, phát triển các chiến lược đổi mới và giải quyết vấn đề sáng tạo.
Để tham gia vào con đường khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và phát triển một
sản phẩm mới, doanh nghiệp nên có thể nắm bắt hình ảnh tổng thể của lĩnh vực
công nghệ có liên quan và dự báo chính xác nhu cầu của thị trường. Phân tích bằng
sáng chế cho phép tìm ra dòng chảy công nghệ từ các công nghệ cơ bản cùng với
việc mở rộng các công nghệ đó, xu hướng thay đổi công nghệ, vòng đời của công
nghệ (bao gồm tăng trưởng, phát triển, trưởng thành và suy giảm), các vấn đề và
giải pháp trong sự phát triển của một công nghệ cụ thể, các công nghệ và giải pháp
của đối thủ cạnh tranh để đối phó với các vấn đề có thể xảy ra. Biết được vòng đời
của một công nghệ giúp có thể đánh giá thời điểm của chính sách phát triển và tập
35
trung vào các chủ đề phát triển nhất định. Nó cũng có thể ngăn chặn hành vi xâm
phạm xảy ra, điều này sẽ tiết kiệm một khoản rất lớn trong chi phí kiện tụng và bồi
thường thiệt hại.
- Xác định xu hướng lĩnh vực kinh doanh sản phẩm:
Từ những thông tin sáng chế có chọn lọc, hiện nay, các doanh nghiệp thường
xây dựng nên bản đồ sáng chế để sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Bản đồ sáng
chế có ảnh hưởng đến các hoạt động của doanh nghiệp bao gồm kiểm soát doanh
nghiệp, phát triển công nghệ và quản lý tài sản trí tuệ. Trong hoạt động của mình,
các doanh nghiệp sử dụng Bản đồ sáng chế để chọn chủ đề cho nghiên cứu và phát
triển, chọn ra những ý tưởng mới và hiểu biết về sự phát triển công nghệ của đối thủ
cạnh tranh. Bản đồ sáng chế cũng là một công cụ quan trọng để nắm bắt nhu cầu thị
trường và phân tích thông tin bằng sáng chế để tránh lãng phí đầu tư vào phát triển.
Bằng việc phân tích thống kê các dữ liệu từ thông tin sáng chế có thể thấy
được một cách rõ ràng và đầy đủ về hoạt động đăng ký sáng chế của các nước trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhờ sử dụng biểu đồ sáng chế, báo cáo toàn cảnh
sáng chế, có thể phân tích được xu hướng công nghệ trên thế giới, từ đó giúp doanh
nghiệp cũng như các nhà quản lý xác định được chiến lược sản xuất, kinh doanh
phù hợp.
- Tìm kiếm đối tác kinh doanh:
Nếu một doanh nghiệp muốn có được một công nghệ cụ thể cùng với các tài
sản miễn phí khác và không biết lấy nó ở đâu, thì trước tiên họ cần xác định tất cả
các công ty có bằng sáng chế và tài sản liên quan. Một tìm kiếm bằng sáng chế giúp
xác định tất cả các bằng sáng chế liên quan đến lĩnh vực quan tâm. Khi một hoặc
nhiều công nghệ của công ty mục tiêu tiềm năng được xác định, doanh nghiệp có
thể thực hiện phân tích bằng sáng chế bổ sung để thu hẹp lựa chọn của mình để
quyết định công ty nào là mục tiêu liên kết và hợp tác để thực hiện sản phẩm.
Những thông tin về chủ đơn/chủ bằng, địa chỉ và phương thức liên lạc được
ghi nhận trong dữ liệu sáng chế là nguồn thông tin hữu ích cho doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo khi họ có nhu cầu kết nối hợp tác phát triển với các doanh
nghiệp/nhà sáng chế đã có những sản phẩm đăng ký sáng chế trước đó. Các startup
khi có thông tin về các sáng chế tương đương, có nhu cầu hợp tác hoặc tìm ra các
36
sáng chế có thể được dùng làm nguyên vật liệu phục vụ cho sáng chế đang nghiên
cứu thì nhu cầu liên kết để phát triển là việc làm tất yếu. Thông tin dữ liệu thư mục
của sáng chế chính là cầu nối cho sự kết hợp phát triển giữa doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo và các doanh nghiệp/nhà sáng chế khác.
Việc biết được công ty hoặc cá nhân nào dẫn đầu về công nghệ trong lĩnh
vực kinh doanh có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch
cho các hoạt động kinh doanh, cũng như các hoạt động nghiên cứu - triển khai của
các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Hoạt động sáng chế và quyền sở
hữu sáng chế có thể là rất quan trọng trong việc xác định những tác giả sáng chế
tiềm năng trong nhiều lĩnh vực công nghệ khác nhau.
- Xác định đối thủ kinh doanh:
Tra cứu tình trạng thương mại (khai thác thông tin kinh doanh) được thực
hiện để tìm ra tên của tác giả sáng chế, nhà nghiên cứu hay công ty đứng tên nộp
đơn đăng ký sáng chế, được cấp bằng độc quyền sáng chế và được chuyển nhượng
sáng chế. Hình thức tra cứu này cũng được sử dụng để tìm ra “các sáng chế đồng
dạng” hoặc các sáng chế tương tự nhau ở các nước khác nhau. Tra cứu sáng chế
đồng dạng có thể giúp tìm ra cùng một sáng chế ở các ngôn ngữ cần thiết để tiết
kiệm chi phí dịch thuật. Bằng cách phân tích dữ liệu thư mục của các tài liệu sáng
chế, có thể xác định tác giả sáng chế, nhà nghiên cứu hay công ty hàng đầu trong
lĩnh vực công nghệ cụ thể và có được cái nhìn sâu hơn đối với việc nghiên cứu hay
chiến lược sáng chế của họ.
Việc khai thác thông tin sáng chế sẽ cung cấp cho startup các dữ liệu về đối
thủ kinh doanh. Từ việc nắm bắt được thông tin sáng chế, startup có thể biết được
công nghệ mà đối thủ đang sở hữu và dựa trên những công nghệ đó để nghiên cứu
và đưa ra những giải pháp hợp lý đối với sản phẩm của mình. Thực tế, nhiều khả
năng không cho phép startup sở hữu toàn bộ những công nghệ mà đối thủ có được.
Dựa vào những công nghệ mà đối thủ đã công khai theo sáng chế mà doanh nghiệp
có thể lựa chọn giải pháp đầu tư nghiên cứu công nghệ tương đương hoặc quyết
định hợp tác, mua lại công nghệ để phục vụ phát triển sản phẩm.
37
Tiểu kết chƣơng 1
Khởi nghiệp là xu thế chung của các quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có
Việt Nam. Với bối cảnh nền kinh tế hội nhập, người dân có điều kiện tiếp cận các
cơ hội kinh doanh đa dạng và liên tục, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được coi là một
cách thức hiệu quả để xử lý các vấn đề xã hội và đồng thời tạo ra các giá trị mới cho
nền kinh tế.
Sở hữu trí tuệ đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo. Đối với một doanh nghiệp, để thành công thì phải có lợi thế cạnh
tranh; hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ phải độc đáo, tốt hơn hoặc mang tính chất
khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. Điều này đặc biệt đúng đối với một doanh
nghiệp khởi nghiệp trong một thị trường nơi các đối thủ cạnh tranh đã được thiết lập
(và được tài trợ tốt). Thành công bền vững đòi hỏi một lợi thế cạnh tranh bền vững.
Đa phần các doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay là các công ty công nghệ, lợi thế
cạnh tranh bền vững của các công ty này hầu như luôn xuất phát từ một số loại hình
sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, nếu không có cơ sở pháp lý thích hợp để bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ, các đối thủ cạnh tranh sẽ có thể chiếm đoạt hoặc sao chép hợp pháp tính
năng này và sẽ làm mất đi lợi thế cạnh tranh.
Từ vấn đề bảo vệ quyền lợi của mình, việc quản lý công nghệ của các doanh
nghiệp này càng trở nên quan trọng, nó đưa ra nhu cầu lớn về việc sử dụng thông tin
nói chung và thông tin sáng chế nói riêng. So với các nguồn thông tin khác, thông
tin sáng chế là nguồn thông tin phong phú bao gồm thông tin kỹ thuật, thông tin
pháp lý và thông tin kinh doanh. Doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo nói riêng nếu biết kênh khai thác và cách sử dụng thông tin
sáng chế vào quản lý công nghệ một cách hiệu quả sẽ có được nguồn thông tin
chiến lược có giá trị, đem lại lợi ích cao và mức chi phí thấp.
38
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ
PHỤC VỤ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Theo đánh giá của giới công nghệ, chưa khi nào thị trường startup tại Việt
Nam lại sôi động như hiện nay. Theo thống kê của Tạp chí Echelon (Singapore),
Việt Nam hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng gần
gấp đôi so với số liệu ước tính cuối năm 2015 (khoảng 1.800 doanh nghiệp). Khoảng
40 cơ sở ươm tạo khởi nghiệp, tổ chức thúc đẩy kinh doanh đang hoạt động trên cả
nước. Về hoạt động tài chính, hiện có khoảng 40 quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động
tại Việt Nam.
Qua khảo sát của Trung tâm hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (BSSC) trên 500
startups (tháng 8/2016), xu hướng khởi nghiệp có sự tập trung rõ nét, với khoảng
50% ở lĩnh vực công nghệ hoặc có ứng dụng công nghệ, 20% khởi nghiệp ở lĩnh
vực thương mại hay dịch vụ, tiếp theo là lĩnh vực nông nghiệp khoảng 16%, còn
lại là giáo dục, dược phẩm, chăm sóc sức khỏe và các lĩnh vực khác. Những con
số này có thể phần nào phản ánh xu hướng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hiện tại
của giới trẻ.
Topica Founder Institute đánh giá, năm 2018, tổng số vốn đầu tư vào startup
Việt lên đến 889 triệu USD, gấp 3 lần so với năm trước. Ước tính có 6 lĩnh vực
đang được rót vốn nhiều nhất lần lượt là Fintech, thương mại điện tử, TravelTech,
Edtech, Logistics và bất động sản online. Cùng đó, sự xuất hiện của hàng loạt quỹ
đầu tư như VietCapital Ventures, Startup Viet Partners, Teko Ventures hay
Vingroup Ventures… cũng đang mở toang nhiều cơ hội để startup tại Việt Nam có
cơ hội thuận lợi để “cất cánh”.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì các chuyên gia cũng cảnh báo tới nguy
cơ thất bại luôn lơ lửng đe dọa các startup. Nguyên nhân là do phần lớn các startup
chưa tận dụng được hết sức mạnh của công nghệ, chưa biết cách áp dụng công nghệ
vào trong mô hình kinh doanh.
Ông Nguyễn Mạnh Thắng, Giám đốc công nghệ Luxstay cho rằng thời gian
khởi nghiệp ban đầu không nhất thiết phải dựa trên nền tảng công nghệ, nhưng nếu
39
thiếu, chắc chắn startup sẽ khó có được sự phát triển như mong đợi. Đại diện
Luxstay nhấn mạnh việc tận dụng được tối đa công nghệ có nghĩa là con đường dẫn
tới thành công sẽ gần hơn, dù không dễ dàng.
Cụ thể hơn, khi tạo ra một sản phẩm và muốn sử dụng sản phẩm đó để khởi
nghiệp, để được nhiều người biết đến, thì thực tế sẽ rất cần sử dụng các yếu tố công
nghệ bên trong đó. Và cùng với sự bùng nổ của Internet, các phương thức marketing
hiện đại, sản phẩm sẽ nhanh chóng được biết đến rộng rãi trong thời gian ngắn.
Khi các startup nhìn nhận ra vấn đề về phát triển nền tảng công nghệ thì họ
cũng cần phải biết cách làm thế nào để quản lý công nghệ đó thực sự mang lại hiệu
quả. Quản lý công nghệ bao gồm tất cả các yếu tố có liên quan đến hệ thống sáng
tạo, thu thập và khai thác công nghệ. Do vậy, dựa trên nền tảng khai thác thông tin
sáng chế, các startup có thể thực hiện công tác quản lý công nghệ của mình thông
qua việc sử dụng thông tin về kỹ thuật, tình trạng pháp lý và thông tin thương mại
của những sản phẩm có liên quan.
2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Theo thống kê, hiện nay, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng
97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp khoảng 45% GDP, 31% tổng
thu ngân sách và thu hút hơn 5 triệu lao động. Trong xu thế gia tăng nhanh chóng
của khu vực doanh nghiệp tư nhân, có một làn sóng đang vươn lên mạnh mẽ, đó
chính là sự ra đời của các doanh nghiệp khởi nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo. Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được định
hình như những doanh nghiệp đặc biệt, chứa đựng những sản phẩm, dịch vụ mới,
cách tiếp cận thị trường mới, với mục đích biến ý tưởng thành giá trị có ích cho hoạt
động và đời sống xã hội, gắn với khoa học - công nghệ. Vì đặc điểm riêng biệt
“chưa từng có, xuyên biên giới, đa quốc gia” nên các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo thường dễ dàng thu hút được đầu tư trong và ngoài nước để phát triển
nhanh. Theo số liệu thống kê, đến nay số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo đã tăng lên tới con số 25.000. Đây là một con số khả quan. Xu hướng khởi
nghiệp có sự tập trung rõ nét, với khoảng 50% ở lĩnh vực công nghệ hoặc có ứng
dụng công nghệ, 20% khởi nghiệp ở lĩnh vực thương mại hay dịch vụ, tiếp theo là
lĩnh vực nông nghiệp khoảng 16%, còn lại là giáo dục, dược phẩm, chăm sóc sức
40
khỏe và các lĩnh vực khác. Có thể thấy, làn sóng khởi nghiệp công nghệ vẫn đang
tiếp tục chiếm ưu thế, nổi bật nhất là xu hướng IOT, ứng dụng công nghệ vào kinh
doanh truyền thống, vào ngành bán lẻ, dịch vụ và nông nghiệp sạch…, hay xu
hướng mới như fintech (công nghệ ngành tài chính)... Bên cạnh đó, sự xuất hiện của
hàng loạt mô hình chuỗi cà phê, nhà hàng, cửa hàng… khá thành công nằm trong
số 20% doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực thương mại dịch vụ ...
Ngoài sự thành công của một số doanh nghiệp điển hình thuộc thế hệ thứ
nhất (hình thành từ đầu những năm 2000) như Vinagames, VC Corporation và các
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thuộc thế hệ thứ hai (hình thành từ
khoảng những năm 2010) thì thế hệ doanh nghiệp thứ 3 xuất hiện nổi bật trong
khoảng 2, 3 năm gần đây trong các lĩnh vực như công nghệ giáo dục, nông nghiệp,
công nghệ tài chính, thương mại điện tử, giải trí, truyền thông…
Từ năm 2017, chúng ta đã có những bước chuyển biến đáng kể trong hoạt
động liên quan đến xây dựng cơ chế chính sách, thông tin - truyền thông cho hệ sinh
thái khởi nghiệp, các tổ chức hỗ trợ ươm tạo doanh nghiệp khởi nghiệp. Hiện có
khoảng 30 quỹ đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp khởi nghiệp đang hoạt động tại
Việt Nam. Một số quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động rất tích cực hỗ trợ phát triển
năng lực cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với khoảng 20 cơ sở ươm tạo và 10 tổ
chức thúc đẩy kinh doanh được thành lập.
Song trên thực tế, sự phát triển lớn mạnh của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo, cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp thời gian qua vẫn chưa đạt được
như kỳ vọng. Không chỉ hạn chế trong kết nối giữa nhà khoa học và doanh nghiệp,
việc thiếu năng lực và văn hóa khởi nghiệp cũng khiến hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo trong nước chưa phát huy được tiềm năng cũng như thế mạnh.
Một trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập có phải
là doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hay không, chính là trình độ công
nghệ làm nền tảng cho tính đổi mới sáng tạo. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp
góp phần quan trọng tạo điều kiện cho tinh thần khởi nghiệp và doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo. Các nước có trình độ công nghệ cao cũng thường là các
quốc gia có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thành công. Hiện nay,
nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo chọn cho mình hướng đi: Công
41
nghệ (Tech Startup). Đặc điểm của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo công
nghệ là không cần quá nhiều vốn ban đầu (so với các ngành nghề khác) và có thể dễ
dàng học hỏi từ những mô hình đi trước trên thế giới.
Tại Việt Nam số liệu khảo sát năm 2018 được công bố cho thấy, trong tổng
số 7.450 doanh nghiệp được khảo sát, chỉ có 464 doanh nghiệp khẳng định là có các
hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 6,23%. Điều này có nghĩa rằng,
đại bộ phận các doanh nghiệp chưa quan tâm đến các hoạt động ứng dụng và phát
triển khoa học công nghệ. Tuy nhiên sang giai đoạn năm 2018-2019, các lĩnh vực
được các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo lựa chọn khởi nghiệp sẽ tập
trung vào các lĩnh vực công nghệ tài chính, công nghệ lữ hành, trí tuệ nhân
tạo/chatbot, Internet vạn vật, chăm sóc sức khỏe và tập hợp dữ liệu lớn theo xu
hướng phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Nguồn đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt
Nam chủ yếu đến từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tập đoàn lớn, các tổ chức
thúc đẩy kinh doanh và nhà đầu tư cá nhân (hay còn gọi là “nhà đầu tư thiên thần”).
Các tổ chức, cá nhân này đến từ cả trong nước và quốc tế. Nhìn chung, việc huy
động vốn, kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đang
ngày càng diễn ra sôi động ở Việt Nam.
Theo thống kê của tổ chức Topica Founder Institute (TFI), năm 2018, Việt
Nam tiếp nhận 92 thương vụ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo với tổng số vốn hơn 291
triệu USD, tăng gần gấp đôi về mặt số lượng thương vụ và gần 50% về mặt tổng số
vốn đầu tư so với năm 2017 (50 thương vụ với 205 triệu USD). Trong số đó, có 8
thương vụ thoái vốn thành công thông qua mua bán và sáp nhập (M&A) trị giá 128
triệu USD. Năm 2016, giá trị đầu tư là 137 triệu USD và giá trị thoái vốn là khoảng
300 triệu USD (do có thương vụ bán Misfit trị giá 260 triệu USD). Năm 2017-2018,
cũng chứng kiến sự tham gia của nhiều tập đoàn của Việt Nam trong việc đầu tư
cho doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo như Quỹ đầu tư của FPT (FPT
Ventures), Quỹ đầu tư của Viettel (Viettel Ventures), Quỹ sáng tạo CMC.
Thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng chỉ ra rằng, năm 2018 và
2019, hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam diễn
ra rất sôi động. Chỉ tính riêng 5 thương vụ kêu gọi vốn thành công nhất đã có tổng
42
giá trị lên đến hơn 50 triệu USD (Momo-28 triệu USD, F88 - 10 triệu USD, Got It!
- hơn 9 triệu USD, Vntrip.vn - 3 triệu USD, Toong - 1 triệu USD). Mới nhất là
doanh nghiệp Foody - mạng xã hội về ẩm thực - đã được SEA mua lại hơn 82% cổ
phần với giá hơn 64 triệu USD, được coi là khoản đầu tư lớn nhất trong năm 2017
tính đến thời điểm hiện tại. Những dòng tiền lớn đã và đang chảy vào doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt.
Số lượng thương vụ đầu tư vào Việt Nam đang gia tăng, song số lượng
thương vụ dưới 1 triệu USD chiếm phần lớn. Số lượng thương vụ nhận được đầu tư
với số vốn hơn 10 triệu USD còn rất ít. Số lượng thương vụ M&A còn rất nhỏ.
Chưa có doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nào tiến hành được IPO.
2.2 Thực trạng hoạt động quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo
Thực tiễn cho thấy, đổi mới công nghệ là rất quan trọng đối với mỗi doanh
nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất
lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng,
tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu… Nhờ đó, sẽ tăng
khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp không kịp thời nắm bắt công
nghệ để đổi mới sáng tạo, kinh doanh theo phương thức truyền thống sẽ có nguy cơ
bị loại khỏi thị trường rất lớn.
Những năm gần đây, cùng với phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt trước
sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đã xuất hiện nhiều phương thức
kinh doanh mới dựa trên nền tảng phát triển trực tuyến như: Kết nối vạn vật, dữ liệu
lớn, điện toán đám mây, công nghệ tự động hóa trong sản xuất và kiểm soát chất
lượng… Những phương thức kinh doanh này không chỉ giúp doanh nghiệp vận
dụng để gia tăng năng suất và kiểm soát chất lượng mà còn có thể kết hợp với nhau
để đổi mới các hoạt động của doanh nghiệp từ phân tích hành vi của khách hàng,
sáng tạo sản phẩm mới, quảng bá sản phẩm, tư vấn trực tuyến, kiểm soát sản xuất
và chất lượng tự động, quản lý tài chính, làm việc từ xa... Thông qua đổi mới công
nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn lực một cách
hiệu quả hơn thông qua tối ưu hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
43
cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng khâu tiêu thụ sản phẩm và chính
sách hậu mãi. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp như: Loại hình doanh nghiệp; Tiềm lực
tài chính của doanh nghiệp; Tuổi, giới tính của cán bộ nhân viên trong doanh
nghiệp... Các đặc điểm của doanh nghiệp như quy mô vốn, quy mô lao động, thời
gian hoạt động, mối quan hệ với doanh nghiệp cùng ngành/doanh nghiệp nhà nước
đều có tác động tới quyết định đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Thời gian qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng hành lang pháp lý, đưa ra
các chương trình hỗ trợ hoạt động đổi mới khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Cụ
thể, là đã kết nối nhiều nguồn cung và cầu công nghệ, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Trong quá trình đàm phán chuyển giao công nghệ, đã có nhiều hoạt
động hỗ trợ doanh nghiệp như: Tư vấn công nghệ, các vấn đề pháp lý, kết nối nguồn lực
tài chính cho doanh nghiệp. Nhiều công nghệ sau khi được chuyển giao đã phát huy hiệu
quả, phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tăng lợi nhuận và khả
năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên, kết quả đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm.
Khảo sát mới đây của Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ (Bộ
Khoa học và Công nghệ) cho biết, chỉ có 23% số các doanh nghiệp được điều tra có
hoạt động đổi mới, cải tiến công nghệ. Nguyên nhân là do nguồn vốn đầu tư còn
hạn chế, trong khi cơ chế tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp vay vốn, bảo lãnh vốn
vay và các hỗ trợ khác chưa tạo điều kiện để doanh nghiệp đổi mới công nghệ chưa
thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp. Khảo sát này cũng cho thấy, các tổ chức
làm nhiệm vụ môi giới và dịch vụ trong thị trường công nghệ để kết nối giữa nguồn
cung và cầu công nghệ còn hạn chế. Điều này góp phần lý giải nguyên nhân vì sao
các nhà khoa học chưa thuyết phục được nhiều doanh nghiệp thương mại hóa các
kết quả nghiên cứu... Trong khi đó, theo khảo sát của Chương trình Phát triển Liên
Hợp quốc và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, tỷ lệ nhập khẩu công
nghệ của Việt Nam hiện chỉ ở mức 10% (thấp hơn nhiều so với con số trung bình
40% của các nước đang phát triển). Trong đó, nhiều công nghệ thuộc thập niên 80 -
90 của thế kỷ trước và 75% máy móc đã hết khấu hao. Kết quả này phần nào phản
ánh tình trạng chậm đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các
44
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với tiềm lực tài chính yếu. Sự yếu kém
trong cải tiến công nghệ của startup bắt nguồn từ các yếu tố chi phối đến khả năng
đổi mới của doanh nghiệp như quy mô nguồn lực của doanh nghiệp, đặc điểm của
chủ doanh nghiệp, cơ chế chính sách cho đổi mới sáng tạo.
Như đã nói ở trên, hiện nay, số lượng doanh nghiệp Việt Nam nhiều và gia
tăng liên tục, nhưng trong đó có đến 97% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp
siêu nhỏ (hình thức chính của startup cũng là doanh nghiệp vừa và nhỏ). Năng lực
sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam hạn chế do ít cập nhật sự thay đổi của thị
trường và công nghệ. Thực trạng chung của các doanh nghiệp này là sử dụng công
nghệ lạc hậu, năng suất lao động quá thấp so với các nước trong khu vực, thường
xuyên gặp khó về tài chính, nhân lực yếu kém chưa tiếp nhận thông tin và công
nghệ mới trong sản xuất, cũng như các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Quá trình
đổi mới công nghệ của doanh nghiệp cũng luôn đối mặt với những trở lực, nhất là
công nghệ đã đầu tư với giá trị lớn nhưng lạc hậu khi chưa thu hồi vốn, kiến thức và
kỹ năng của nguồn nhân lực không thích ứng với bối cảnh mới. Hiện nay, các
doanh nghiệp có thể nhận thức được lợi ích từ việc đổi mới, cải tiến công nghệ,
nhưng khi đối mặt với những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, công
nghệ là vấn đề chưa được startup ưu tiên đầu tư. Với việc công nghệ không được
coi là lĩnh vực ưu tiên khi bắt đầu kinh doanh, do đó, doanh nghiệp thiếu bài bản và
tầm nhìn trong phát triển công nghệ, thiếu sự đầu tư một cách đồng bộ, dẫn đến tốn
kém và mất thời gian để chuyển đổi công nghệ, khó tăng quy mô sản xuất. Tình
trạng các doanh nghiệp thiếu sự chủ động trong việc tiếp cận công nghệ mới, chưa
quan tâm việc đầu tư công nghệ trong sản xuất không chỉ làm giảm hiệu quả sản
xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp, mà còn kéo theo hậu quả tác động xấu đến
môi trường đối với địa bàn nơi doanh nghiệp đóng.
2.3 Thực trạng hoạt động khai thác thông tin sáng chế của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo
2.3.1 Hoạt động khai thác thông tin kỹ thuật
2.3.1.1 Một số startup điển hình
Nói đến doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, có thể gợi
nhớ đến T-farm, Vufood, Luxstay, Momo, Cốc Cốc, Juno, Jophop, Wefit, … Các
45
startup này đều thành công nhờ có khác biệt về công nghệ được ứng dụng trong quá
trình hoạt động của mình. Trong phần này, bài viết sẽ nghiên cứu về điển hình
startup: T-farm – giải pháp khu vườn thông minh cho ngôi nhà của bạn và Vufood –
máy pha chế và bán hàng tự động.
- T-farm – giải pháp khu vườn thông minh cho ngôi nhà của bạn, sản phẩm
của Treant Protector
Khái quát về công nghệ của T-Farm:
Theo ông Phạm Anh Tuấn (CEO của Treant Protector (T.P)) - nhà sáng lập
T-Farm - giới thiệu, dự án của doanh nghiệp mình là nghiên cứu và sản xuất hệ
thống thông minh trồng cây trong nhà với hai sản phẩm là máy trồng cây trong nhà
T-Farm và Vertical Farming - được ví là cỗ máy phá vỡ đặc trưng vùng miền.
Cụ thể, với máy trồng cây trong nhà T-Farm, người dùng không cần tìm hiểu
kiến thức trồng loại cây mà mình yêu thích, chỉ cần bỏ hạt vào trong máy, mở ứng
dụng trên điện thoại chọn loại cây cần trồng. Mọi công đoạn trong quá trình chăm
sóc từ pha chế dinh dưỡng, bảo trì, cấp ánh sáng, tưới tiêu và sục rửa vệ sinh đều
được tự động hóa.
Sau 2,5 năm nghiên cứu, đội ngũ T-Farm đã có nguồn dữ liệu chăm sóc cho
32 loại cây, với ba chu trình/loại cây trong khoảng ba tháng. “T-Farm áp dụng công
nghệ khí canh, với loại máy thông thường sẽ kiểm soát ánh sáng, dinh dưỡng, bơm
tưới. Còn loại máy thứ hai sẽ kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, tần số âm thanh, vi
lượng, trung lượn”, Phạm Anh Tuấn chia sẻ và cho biết, khách hàng mục tiêu của
sản phẩm là các hộ gia đình, spa, quán cà phê, nhà hàng, công ty... khi muốn xây
dựng khu vườn nhỏ trong nhà với mục đích giải trí, trưng bày, cung cấp thực phẩm.
Hai loại máy trồng cây T-farm và Vertical Farming ra đời phá vỡ nguyên tắc
trồng cây tự nhiên theo mùa vụ và theo kĩ thuật chăm sóc cá nhân. Công nghệ cải
tiến từ hai loại máy này giúp cho con người có môi trường sống xanh mà không mất
nhiều công sức chăm bón khi phải sống trong điều kiện ở đô thị và quá bận rộn với
công việc hàng ngày. T-Farm có thể trồng các loại rau giúp bữa ăn thêm phong phú
và đặc biệt là hoàn toàn sạch, không thuốc trừ sâu, tăng trưởng. Người sử dụng chỉ
việc gieo hạt giống, chọn loại cây cần trồng trên ứng dụng điện thoại, còn lại việc
tưới cây, chăm bón dinh dưỡng cho cây, thậm chí cả chiếu sáng giúp cây quang hợp
46
sẽ được T-Farm thực hiện hoàn toàn tự động. Ngay cả các loại cây ăn trái mini cũng
dễ dàng phát triển trên khu vườn T-Farm.
Các loại rau mầm có thể trồng trên máy T-Farm, ngoài lượng dinh dưỡng cao
gấp 5 lần, một số loại còn rất tốt cho sức khỏe. Ngoài ra, không chỉ các loại rau sạch
phục vụ bữa ăn, các loại cây dược liệu quý như sâm Hàn Quốc, cũng có thể dễ dàng
gieo trồng trên máy T-Farm.
Các giá thể trồng cây trên T-Farm dạng mút xốp bọt biển đạt tiêu chuẩn kiểm
định an toàn thực phẩm từ CERI - Nhật Bản. Với bề mặt khí thoáng, mao dẫn tốt,
nhẹ và có thể tái sử dụng giúp rễ cây phát triển tốt hơn. Sự ổn định về nhiệt độ và
độ pH, tính sạch sẽ cao tạo chất lượng cây trồng trong máy luôn ổn định.
Công tác quản lý công nghệ của T-Farm từ hoạt động khai thác thông tin
kỹ thuật của sáng chế:
Để có thể thực hiện được công nghệ trồng cây nêu trên, việc nắm bắt được
thông tin kỹ thuật là thực sự cần thiết. T-Farm là giải pháp trồng cây trong nhà ứng
dụng công nghệ Mỹ dành cho: Văn phòng, khách sạn, quán Coffee, nhà hàng, hộ
gia đình... quy trình hoàn toàn tự động điều khiển thông qua app điện thoại.
Lý do gọi T-farm là sản phẩm ứng dụng công nghệ Mỹ là bởi theo ông Tuấn chia
sẻ, việc xin cấp bằng sáng chế đầu tiên được ông Tuấn nộp tại Việt Nam nhưng không
được bảo hộ vì bị đánh giá công nghệ không có tính mới bởi máy trồng cây này không
khác gì các trang trại công nghệ cao và được đánh giá là công nghệ chỉ đạt được giải
pháp hữu ích chứ không phải là sáng chế. Sau đó, ông mang công nghệ sang Mỹ để xin
bằng sáng chế. Quá trình thực hiện xin bằng sáng chế tại Mỹ được thông qua một công
ty Luật. Sau công tác tổng hợp thông tin bằng việc quan sát, ghi chép, tìm hiểu mọi thứ
về công nghệ để nắm rõ hoàn toàn những gì ông Tuấn làm, công ty Luật đã tìm kiếm
xem có sáng chế nào tương tự không, phân tích xem công nghệ xin bảo hộ sáng chế có
tính mới ra sao và viết một tài liệu về những sáng chế dự định đăng ký rồi nộp cho cơ
quan cấp bằng sáng chế của Mỹ. Hiện nay phía Mỹ cấp hai bằng sáng chế cho ông
Tuấn: Thứ nhất là bằng sáng chế về thiết bị tủ trồng cây thông minh trong nhà; thứ hai là
bằng sáng chế về công nghệ giả lập khí hậu và thổ nhưỡng.
Ở trên đây, ông Tuấn có nhắc đến việc tìm kiếm sáng chế đã nộp có tính
tương tự với sáng chế của mình khi làm hồ sơ yêu cầu bảo hộ sáng chế. Từ kết quả
47
khai thác thông tin kỹ thuật của các sáng chế đã có trước đó, ông Tuấn có thể đánh
giá được tình trạng kỹ thuật của chiếc máy trồng cây của mình liệu có mang tính
mới hay không. Nếu như tại Việt Nam, sáng chế này được đánh giá không mang
tính mới thì sau khi sang Mỹ đăng ký sáng chế, ông đã chứng minh được sự khác
biệt về sản phẩm của mình. Hai chiếc máy là sản phẩm hoàn toàn tự động, hiện T.P
là đơn vị duy nhất có thể làm khu vườn tự động hóa trên thế giới, bởi có hai đối thủ
lớn nhất ở Bắc Mỹ nhưng chỉ đang dừng ở mức bán tự động. Việc được cấp bằng
bảo hộ sáng chế của Mỹ để phát triển nên một hệ thống T-Farm cho thấy khả năng
khai thác thông tin kỹ thuật của sáng chế được T.P áp dụng một cách khéo léo và có
hiệu quả. Khi đã xác định được tính mới và sự khác biệt trong sản phẩm của mình
và được cấp bằng sáng chế, Phạm Anh Tuấn đã xây dựng nên chiến lược công nghệ,
bước đầu phát triển công nghệ ở thị trường Việt Nam và định hướng trong tương lai
sẽ xuất khẩu công nghệ này đi đến nhiều quốc gia, vì khả năng đáp ứng nhu cầu cho
khách nước ngoài phù hợp hơn về điều kiện sống và chi phí. Ông Tuấn cũng đang
nỗ lực xây dựng máy hoàn thiện hơn để có thể phá vỡ các đặc trưng vùng miền,
giúp mọi người có thể trồng bất cứ loại rau, hoa hay dược liệu nào theo mong muốn
của khách hàng.
Có thể nhận ra được công tác quản lý công nghệ trên nền tảng khai thác
thông tin kỹ thuật của sáng chế được T.P thực hiện trong giai đoạn sản sinh sản
phẩm như sau:
- Nghiên cứu công nghệ:
Lựa chọn đổi mới công nghệ: Nghiên cứu sử dụng công nghệ mô phỏng khí
hậu và công nghệ giả lập khí hậu, thổ nhưỡng cùng với tự động cho tất cả các giai
đoạn: phân tích, chuẩn bị, tưới tiêu, quang hợp, cân bằng dinh dưỡng, vệ sinh ,...
Các công nghệ giả lập này thường mới chỉ được nghiên cứu áp dụng cho một loại
môi trường nhất định khi sử dụng trong các nhà máy, T.P đã phát triển công nghệ
để có thể thay đổi lựa chọn nhiều hình thức khí hậu và thổ nhưỡng tại nhiều vùng
đất khác nhau trên toàn thế giới nhằm đa dạng hóa các giống cây trồng được trên
thiết bị này. Ngoài ra, sản phẩm này còn sử dụng bảng điều khiển trên ứng dụng di
động thay vì bảng điều khiển gắn liền với thiết bị để có thể theo dõi và thực hiện tại
bất cứ thời điểm nào mà người dùng muốn.
48
Cải tiến kỹ thuật: Các thiết bị trồng cây được bảo hộ sáng chế hoặc không
chấp nhận bảo hộ đã có trước đó thường sử dụng bảng điều khiển gắn liền. Khác
biệt với điều này, thiết bị của T-farm sử dụng bảng điều khiển trên ứng dụng di
động, giúp người dùng có thể theo dõi và thực hiện điều khiển thiết bị tại bất cứ thời
điểm nào mà họ muốn.
- Triển khai thiết kế, chế tạo:
Thiết bị trồng cây của T-farm tích hợp một số công nghệ đã có và được cải
thiện cho phù hợp với người sử dụng. Theo thông tin kỹ thuật liên quan tới các sản
phẩm máy trồng cây được sử dụng trong các nhà máy công nghệ cao trước đó,
thông thường các máy này có kích cỡ và công suất hoạt động lớn nhằm cho ra số
lượng thành phẩm lớn. Tuy nhiên, ở các hộ gia đình thì cần một chiếc máy với mô
hình nhỏ hơn và có thể dùng để trang trí nhà cửa. Do vậy, thực tế này cũng chính là
tiền đề để T.P tiến hành nghiên cứu và thiết kế nên các thiết bị trồng cây mini di
động, kích cỡ nhỏ phù hợp với không gian hẹp, đồng thời phải mang tính thẩm mỹ.
Máy trồng cây T-farm là sản phẩm sử dụng đồng nhất công nghệ ươm mầm,
chăm sóc cây và công nghệ xử lý, điều khiển từ xa qua thiết bị di động. Với công
nghệ ươm mầm, chăm sóc cây được bảo hộ trước đó mới chỉ dừng ở chế độ bán tự
động. Thông tin kỹ thuật của công nghệ đã có này có những cái không đáp ứng
được yêu cầu giải quyết bài toán công nghệ cho sản phẩm T-farm nhưng được sử
dụng để làm nền tảng cải tiến, kết hợp với kỹ thuật của các ứng dụng trên điện thoại
để cho ra một sản phẩm T-farm hoàn toàn tự động.
- VUFOOD – máy pha chế và bán hàng tự động, sản phẩm của Công ty cổ
phần giải pháp kinh doanh Lê Vũ
Khái quát về công nghệ của Vufood:
Xuất hiện trong chương trình Shark Tank mùa 3, ông Lê Tuấn Vũ mang đến
sản phẩm máy pha chế cafe, trà sữa, bột hoa quả tích hợp bán hàng tự động Vufood
và giới thiệu sáng chế này mang lại nhiều lựa chọn đồ uống cho khách hàng trong
một chiếc máy, có quy trình vận hành khép kín, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Thời đại của công nghệ tự động hóa, các máy bán hàng bắt đầu du nhập vào
Việt Nam ngày càng nhiều, tuy nhiên đều là bán thức uống đóng chai sẵn còn các
máy pha cà phê chỉ được sử dụng nhỏ lẻ ở các công ty, hộ gia đình. Vufood ra đời
49
là lời giải cho nhu cầu mua đồ uống được pha mới hoàn toàn từ máy bán hàng công
cộng khi kết hợp mô hình của cả 2 chiếc máy trên vào làm 1.
Đây là dự án được cho là có tiềm năng với thị trường Việt Nam trong khi chúng
ta ngày càng bận rộn với công việc thì sản phẩm này chính là một giải pháp tiết kiệm thời
gian tối đa cho khách hàng, thời gian pha chế chỉ từ 30 - 60s cho 1 sản phẩm. Thiết bị
này có thể coi là một thành tựu đáng nể mà những người trẻ Việt Nam đã nghiên cứu và
phát triển dựa trên nhu cầu thực tế của chủ doanh nghiệp và khách hàng.
Cây pha chế và bán nước tự động của Vufood được tích hợp nền tảng IoT để
giúp chủ doanh nghiệp kiểm soát từ xa các nguồn lực một cách chính xác nhất. Hệ
thống thông minh cho phép máy chủ thu thập được dữ liệu về các nguồn nguyên
liệu tại máy, còn lại bao nhiêu, cần thêm thứ gì, đồng thời kiểm soát được doanh thu
của từng cây bán hàng theo ngày hay từng giờ. Ngoài ra, máy chủ còn có thể thu
thập thông tin về hành vi khách hàng, sở thích đồ uống của khách hàng tại khu vực
đặt cây bán hàng để giúp chủ doanh nghiệp có thể thay đổi menu, định lượng pha
chế sao cho phù hợp với thị hiếu của khách hàng nhất.
Công nghệ của cây pha chế và bán hàng tự động Vufood bao gồm:
- Menu lên tới 16 món, có thể chỉnh niêm yết giá (thực tế có thể mix được 96
món);
- Quy trình hoàn toàn tự động và khép kín;
- Nhận đồ uống chỉ trong vòng 30-60 giây;
- Thanh toán bằng tiền mặt, hỗ trợ các cổng thanh toán điện tử;
- Tự động vệ sinh và báo lỗi lên hệ thống (nếu có);
- Quản trị trực tuyến 24/7;
- Diện tích nhỏ gọn chỉ 0,72 m2;
- Tích hợp mobile app hỗ trợ người dùng;
Sáng chế này, theo như ông Vũ nói, có khả năng được cấp bằng sáng chế
hoặc giải pháp hữu ích.
Công tác quản lý công nghệ của Vufood từ hoạt động khai thác thông tin
kỹ thuật của sáng chế:
Như đã nói đến ở trên, máy pha chế và bán hàng tự động này có khả năng
được cấp bằng sáng chế hoặc giải pháp hữu ích. Đây không phải là một sự khẳng
50
định cho khả năng bảo hộ của sản phẩm nêu trên mà là đánh giá chủ quan của
startup. Thực tế cho thấy chưa thể khẳng định được đánh giá này là đúng hay sai,
tuy nhiên, có thể nhìn ra được vấn đề là phải có một căn cứ nào đó để Vufood có thể
đưa ra nhận định như vậy.
Để được bảo hộ là sáng chế hoặc giải pháp hữu ích thì cần chứng minh được
sự khác biệt và tính mới cùng công nghệ có thể áp dụng của sản phẩm. Và, để có
thể chứng minh được điều này thì cần có thông tin từ nguồn thông tin sáng chế, cụ
thể hơn là thông tin kỹ thuật của sáng chế. Điều này cho thấy, Vufood phải thực sự
biết khai thác thông tin sáng chế, nắm bắt và tổng hợp được nguồn thông tin này và
căn cứ vào các thông số kỹ thuật của những sáng chế có liên quan để có thể khẳng
định rằng sản phẩm của mình không bị trùng lặp.
Vufood đã thực sự chuẩn bị cho mình một công cụ hỗ trợ đắc lực khi sử
dụng thông tin sáng chế và nộp đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích cho sản
phẩm của mình. Chính bởi sự tích hợp nhiều công nghệ trong sản phẩm, Vufood đã
sử dụng thông tin kỹ thuật của những sáng chế một cách có hiệu quả để áp dụng
được các kỹ thuật đã có vào sản phẩm và phát triển chúng theo nhu cầu phù hợp ví
dụ như về kích cỡ máy hay về công nghệ thanh toán bằng tiền mặt tương tự như ở
các máy bán hàng tự động trước đây.
Việc khai thác thông tin sáng chế hiệu quả nhằm tiếp cận được với các kỹ
thuật đã góp phần nâng cao công tác quản lý công nghệ của Vufood trong quá trình
sử dụng kết hợp nhiều công nghệ trong sản phẩm. Từ đó, Vufood có thể theo dõi
được công nghệ của mình và phát triển nó cho phù hợp với nhu cầu khách hàng.
Công tác quản lý công nghệ trên nền tảng khai thác thông tin kỹ thuật của
sáng chế được Vufood thực hiện như sau:
i) Tổ chức hoạt động nghiên cứu, phát triển: Có thể nói, những kỹ thuật liên
quan đến sáng chế về máy bán hàng tự động đều được Vufood áp dụng vào sản
phẩm này. Tuy nhiên, Vufood đã nghiên cứu tích hợp công nghệ làm cho chiếc máy
bán hàng này có thêm chức năng là bartender, pha chế đồ uống mới cho khách hàng
thay vì chỉ bán những sản phẩm đóng chai.
ii) Lựa chọn và đổi mới công nghệ: Đối với một sản phẩm pha chế đồ uống
bình thường thì cá nhân người sử dụng phải tự tay vệ sinh đồ dùng. Tuy nhiên,
51
trong trường hợp Vufood lựa chọn phát triển một hệ thống pha chế hoàn toàn tự
động thì phải tích hợp luôn việc làm sạch tự động và báo lỗi khi không thực hiện
được chức năng này. Điều này là bắt buộc khi yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm
được đặt lên hàng đầu nhằm đảm bảo sức khỏe cho người sử dụng. Ngoài ra, sản
phẩm này còn có chức năng quản trị trực tuyến 24/7 và tích hợp mobile app, khác
biệt hoàn toàn so với các máy bán hàng tự động trước đó. Các chức năng quản trị
này giúp cho Vufood có thể hỗ trợ khách hàng một cách nhanh nhất trong trường
hợp cần thiết.
iii) Tổ chức cải tiến kỹ thuật: Các máy bán hàng tự động đã có chỉ áp dụng cho
việc giao dịch tiền mặt. Ở sản phẩm của mình, Vufood đã khắc phục hạn chế này
bằng cách bổ sung chức năng hỗ trợ các cổng thanh toán điện tử trong trường hợp
người dùng muốn mua hàng nhưng không sử dụng tiền mặt.
2.3.1.2 Đánh giá chung
Thống kê của chương trình Shark Tank mùa 3 cho thấy có đến 70% startup
về công nghệ và trong 30% còn lại thì có tới 15% là ứng dụng công nghệ vào cuộc
sống. Theo ông Trí Hoàng - Nhà sáng lập và Giám đốc điều hành Trung tâm ươm
tạo khởi nghiệp và thúc đẩy kinh doanh Ai20x tại Silicon Valley: “Việt Nam đang
có nhiều mảng công nghệ phát triển tốt, gần đây là phần mềm, thuật toán. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp không nên cố gắng viết ra một số sản phẩm mới ở trên thị
trường mà nên phát triển công nghệ đã có sẵn. Không nên có suy nghĩ là cái này
người ta làm rồi thì mình không làm nữa mà nên nhìn thẳng vào vấn đề, nếu có thể
tối ưu được những công nghệ đã có rồi vào sản phẩm và đưa ra những cái mới dựa
trên đó thì rất tốt”. [17]
Vấn đề phát triển công nghệ có sẵn được nhắc đến ở đây mang tính khuyến
khích các startup có sự tìm hiểu sâu và nắm bắt được các công nghệ hiện có để
nghiên cứu, cải tiến ra một sản phẩm tối ưu hơn. Để làm được việc này, nhiệm vụ
cơ bản nhất là startup cần phải biết tìm kiếm và khai thác thông tin liên quan đến
công nghệ hay nói một cách cụ thể hơn là khai thác thông tin sáng chế. Phát triển
công nghệ đã có cần phải dựa vào thông tin kỹ thuật của công nghệ đó, xử lý kỹ
thuật đã có theo hướng đi mới để cải thiện kỹ thuật đó tốt hơn và hiệu quả hơn.
52
Từ điển hình T-farm và Vufood, có thể thấy rằng các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo hiện nay đã có những động thái thể hiện sự quan tâm về sở
hữu trí tuệ nói chung và sáng chế nói riêng. Các doanh nghiệp này đã có một sự tích
cực nhất định trong việc tìm và khai thác thông tin kỹ thuật của sáng chế để phục vụ
cho công tác quản lý công nghệ của mình.
Tuy nhiên, một điều cần lưu ý đối với các startup cho ra đời những sản phẩm
công nghệ là phần mềm, chương trình máy tính/điện thoại thì cần phải chú trọng
công nghệ lõi và xác định bảo hộ công nghệ lõi dạng sáng chế là việc làm thực sự
cần thiết. Phần mềm máy tính/điện thoại thì không được bảo hộ dưới dạng sáng chế
mà chỉ được bảo hộ quyền tác giả (theo Điều 22 và Điều 59 Luật Sở hữu trí tuệ)
nhưng công nghệ lõi của nó lại có thể được bảo hộ dưới dạng sáng chế. Do đó, các
startup đương nhiên có thể biết được công nghệ của những phần mềm đã có trước
đó mang tính chất tương đương với sản phẩm của mình thông qua thông tin kỹ thuật
của sáng chế để có thể lựa chọn kỹ thuật áp dụng cho công nghệ mà mình đang
nghiên cứu để tránh tình trạng nghiên cứu trùng lặp.
Có một thực tế là dù các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ý thức về sở
hữu trí tuệ thì cơ bản họ vẫn yếu về kỹ năng tạo lập sáng chế. Theo ông Lê Huy Anh
(Trưởng phòng Thực thi và Giải quyết khiếu nại – Cục Sở hữu trí tuệ): “Ở các nước phát
triển, sáng chế được tạo lập một cách bài bản, chuyên nghiệp, có chiến lược, định hướng,
lộ trình rõ ràng. Trước khi bắt tay vào tạo lập sáng chế, bao giờ người ta cũng tìm hiểu
tình trạng kỹ thuật. Họ xem xét cẩn thận trong lĩnh vực đó, công nghệ đã được công bố
trên thế giới đang ở trình độ thế nào, những gì đã được công bố... để có thể tránh được
hành vi xâm phạm một cách vô tình do thiếu hiểu biết hoặc trong những trường hợp cần
thiết, có thể yêu cầu chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Với các nhà sáng chế của Việt
Nam, tất cả các khâu đó đều yếu. Ngay cả các nhà sáng chế chuyên nghiệp của chúng ta
tại các trường, các viện mà chúng tôi đã làm việc vẫn còn chưa chuyên nghiệp và thiếu
kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng tra cứu và tạo lập sáng chế”.
Để có thể tra cứu hiệu quả tư liệu sáng chế và các nguồn thông tin công nghệ
khác thường đòi hỏi nền kiến thức vững về lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến sáng
chế. Hiểu biết về thuật ngữ và các vấn đề liên quan trong lĩnh vực này cũng là rất
cần thiết nếu phải xác định các tiêu chuẩn tra cứu phù hợp.
53
2.3.1.3 Rào cản trong công tác khai thác thông tin kỹ thuật
Như đã nói đến ở trên, thông tin sáng chế là một kho dữ liệu khổng lồ, bởi
vậy, các thông số kỹ thuật liên quan đến sáng chế rất lớn. Trong khi đó, sự tiếp cận
của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với kênh thông tin này chưa thực sự
mang lại hiệu quả do còn thiếu kỹ năng trong tra cứu.
- Khác với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, sáng chế là đối tượng liên
quan trực tiếp nhất đến công nghệ và chứa đựng rất nhiều thông tin và kiến thức kỹ
thuật. Do đó, các kiến thức liên quan đến sáng chế và thông tin sáng chế nói chung
phức tạp hơn so với các đối tượng khác. Việc làm thế nào để tìm kiếm thông tin
sáng chế có mối liên quan gần nhất đến sản phẩm, quy trình của mình, đồng thời
không bỏ sót bất kì dữ liệu quan trọng nào chính là một thách thức đối với startup.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đa phần có nguồn nhân lực trẻ, kiến
thức chuyên sâu và trình độ nghiệp vụ cần thiết chưa có đủ để phát huy khả năng
khai thác thông tin sáng chế từ các nguồn thông tin sẵn có khiến cho việc tra cứu
tốn quá nhiều thời gian và công sức.
- Rào cản về ngôn ngữ: Với lý do đặc thù, những thuật ngữ sử dụng trong tư
liệu sáng chế chủ yếu là những thuật ngữ chuyên ngành. Đồng thời, tư liệu sáng chế
tồn tại dưới nhiều ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới, điều này gây khó khăn khi
tiến hành tra cứu sáng chế. Ví dụ, đơn quốc tế được nộp theo Hiệp ước Hợp tác về
sáng chế (PCT) phải có tên sáng chế và bản tóm tắt bằng cả tiếng Anh và tiếng
Pháp, nhưng các nội dung khác của đơn (ví dụ, bản mô tả và yêu cầu bảo hộ) có thể
dùng các ngôn ngữ khác. Vì vậy, việc sử dụng các thuật ngữ bằng tiếng Anh để tra
cứu chỉ có thể mang lại kết quả là các tài liệu bằng tiếng Anh. Một vài thuật ngữ
nhất định có thể tồn tại ở nhiều ngôn ngữ nhưng lại có nghĩa khác nhau trong từng
ngôn ngữ. Trong bản mô tả, các công nghệ có thể được mô tả bằng cách sử dụng
nhiều thuật ngữ thông dụng hoặc kỹ thuật khác nhau. Thông tin sáng chế cố ý sử
dụng các biểu thức trừu tượng do bản chất của nó là thông tin liên quan đến quyền
và một phần vì thuật ngữ liên quan thường không được thiết lập tốt bởi công nghệ
của sáng chế là đột phá. Đồng thời, mặc dù đã có các cơ chế kiểm soát chất lượng
trong quá trình cấp bằng độc quyền sáng chế, nhưng không phải lúc nào các thuật
ngữ cũng được đánh máy đúng. Tất cả những rào cản về ngôn ngữ này gây ảnh
54
hưởng không nhỏ đến việc khai thác thông tin kỹ thuật của doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nói riêng, khiến cho họ mất nhiều thời gian
vào việc tra cứu và dịch thuật chính xác nội dung. Trong trường hợp dịch không chính
xác nghĩa của từ, thông tin kỹ thuật thu thập được có thể sẽ bị sai lệch. Điều này gây ảnh
hưởng không nhỏ đến việc quản lý công nghệ, mà cụ thể hơn là hoạt động nghiên cứu,
triển khai, lựa chọn đổi mới công nghệ và tổ chức cải tiến kỹ thuật.
- Ngoài ra, một lượng lớn thông tin sáng chế được công bố mỗi năm khiến cho
startup muốn sử dụng nguồn thông tin này một cách hữu ích thì cần phải tìm lại các
tài liệu đã được công bố trong quá khứ, việc truy cập chính xác nguồn thông tin cần
thiết tương đối khó khăn và mất thời gian.
2.3.2 Hoạt động khai thác thông tin pháp lý
2.3.2.1 Một số ví dụ thực tiễn
Tại chương trình Shark Tank, các Shark thường hay hỏi startup một câu hỏi
tình huống là: “Bạn đã đăng ký sáng chế sản phẩm này chưa? Lỡ người khác xem
chương trình này làm sản phẩm giống y như bạn nhưng mang thương hiệu khác và
họ có nguồn lực sẵn, làm ra nhiều sản phẩm hơn với giá rẻ hơn thì sao?”. Điều này
có thể cho thấy việc các nhà đầu tư thực sự quan tâm đến tính pháp lý của sáng chế
của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
- Ý tưởng mới lạ của startup DôTA Việt Nam: Cầu dắt xe thông minh
Khái quát về công nghệ của DôTA:
Theo hai nhà sáng lập DôTA Việt Nam (Quốc Việt và Hoàng Nam), thị
trường Việt Nam có 45 triệu xe máy đang lưu hành và đang tiếp tục tăng thêm 3
triệu xe/năm. Trong khi đó, phần lớn nhà ở phải xây cao nền so với mặt đường
phòng khi mưa ngập. Để dắt xe vào nhà cần phải làm dốc bê tông hoặc cầu sắt hàn
thủ công hay ván gỗ... Tuy nhiên, đây đều là những giải pháp không an toàn vì gây
trơn trượt, bất tiện khi sử dụng do cồng kềnh, chưa kể còn xâm lấn không gian công
cộng. Do vậy, họ đã nghĩ ra mô hình khởi nghiệp chuyên về các sản phẩm cơ khí kỹ
thuật, trong đó chủ lực là cầu dắt xe thông minh. Sản phẩm của startup này được
làm từ hợp kim nhôm cao cấp, siêu bền và nhẹ. Bề mặt cầu được đột dập những lỗ
với hình dạng đặc biệt giúp chống trơn trượt. Nhờ thiết kế bản lề một chiều nên sản
phẩm có thể gấp gọn lại khi không dùng đến.
55
Tính năng này đặc biệt hữu ích với những ngôi nhà nhỏ hẹp ở đô thị, không
có diện tích để xe riêng. Hai nhà sáng lập DôTA đang nhắm đến mục tiêu kết hợp
với các hãng xe máy lớn như Honda, Piaggio để bán chéo (cross-sell).
Công tác quản lý công nghệ của DôTA từ hoạt động khai thác thông tin
pháp lý của sáng chế:
Mặc dù có thị trường nhưng với sản phẩm dễ bị sao chép, không ít người lo
ngại: "Liệu sản phẩm của DôTA có bị các doanh nghiệp với thế mạnh về nhà
xưởng, kênh bán hàng, dòng vốn "đánh bại" khi họ sẵn sàng thay đổi thiết kế, hạ giá
thành do lợi thế sản xuất hàng loạt?" khi Shark Phú đưa ra giả thuyết sản phẩm này
có thể bị đơn vị khác cạnh tranh bằng cách thay đổi thiết kế, đơn cử là Sunhouse.
Bởi đã có sẵn xưởng sản xuất, kênh phân phối bán hàng, nếu biết giá thành sản
phẩm và cho sản xuất hàng loạt, dù không phải là người tiên phong, Sunhouse vẫn
đủ sức "đè bẹp" DôTA.
Tuy nhiên, với kiến thức của người từng học luật và có kinh nghiệm làm việc
ở các tập đoàn luật nước ngoài, hai nhà sáng lập tự tin cho biết nếu đăng ký bản
quyền thiết kế, đối thủ có thể thay đổi mẫu mã. Thế nên DôTA đã đăng ký bản
quyền sáng chế nhằm tạo nền tảng vững chắc về mặt pháp lý cho sản phẩm.
Trong hoạt động quản lý công nghệ, DôTA đã thực hiện tốt công tác quản
trị: bảo vệ bản quyền và tính pháp lý cho sản phẩm sáng tạo của mình. Ý thức đăng
ký bảo hộ sáng chế sớm của DôTA đã đem lại lợi thế trong kinh doanh, đảm bảo
việc không có bất kỳ doanh nghiệp nào có thể nhận sản phẩm mang tính đạo nhái là
sáng chế của họ. Thông tin pháp lý của sáng chế được DôTA sử dụng trong công
tác quản lý công nghệ: Phục vụ lựa chọn và đổi mới công nghệ: Khi nắm trong tay
thông tin pháp lý của những sáng chế có liên quan, DôTA có thể thực hiện việc đổi
mới công nghệ bằng cách phát triển thêm nhiều mẫu mã và thay đổi kỹ thuật cho
phù hợp với từng loại xe và mô hình nhà ở mà vẫn tránh được việc xâm phạm
quyền của đối tượng khác. Điều này giúp hạn chế xảy ra sự tranh chấp sáng chế.
- Luxstay - ứng dụng kết nối chủ nhà với người có nhu cầu thuê nhà ngắn hạn:
Các sản phẩm có sự liên kết giữa bất động sản và du lịch đã ra đời hàng trăm
năm nay. Đó là hoạt động kinh doanh các khách sạn, khu nghỉ dưỡng, resort, được
gọi chung là ngành lưu trú. Tuy nhiên mô hình lưu trú truyền thống với sự hiện diện
56
của các thương hiệu hàng đầu Việt Nam như Vinpearl và Mường Thanh thì dù có
cạnh tranh, cũng phải mất 5 - 10 năm nữa, các startup non trẻ mới có thể bắt kịp.
Với thế mạnh của mình là Internet, CEO Nguyễn Văn Dũng đã nảy ra ý tưởng tạo
ra Luxstay, một mô hình áp dụng kinh tế chia sẻ (sharing economy) vào ngành bất
động sản và du lịch. Luxstay một nền tảng trực tuyến kết nối các chủ nhà với người
có nhu cầu thuê nhà trong ngắn hạn.
Ứng dụng hoạt động trên nền tảng “home-sharing” ở trên thế giới có rất
nhiều như Google, Airbnb, Agoda, Booking.com, Traveloka, Trivago, Vntrip,… và
mô hình kinh doanh của Luxstay không khác Airbnb, Agoda hay Booking là mấy;
vậy điều gì làm nên sự khác biệt và thành công ở Luxstay, nhất là trong bối cảnh thế
giới đã có Airbnb? Khác với các nền tảng khác như Airbnb - vốn là một nền tảng
toàn cầu chưa có sự tập trung cho thị trường khách Việt Nam, Luxstay tập trung
phát triển hướng tới người dùng nội địa và kết hợp với các đối tác địa phương tại
các quốc gia có nhiều khách du lịch tới Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản... để
phát triển người dùng.
Không chỉ dừng lại ở cho thuê nhà homestay, mô hình kinh doanh của
Luxstay còn cung cấp các dịch vụ có liên quan đến hoạt động bất động sản, cho
phép các chủ nhà kinh doanh thông qua căn hộ của mình, đồng thời mang tới chất
lượng căn hộ ngắn hạn tốt nhất cho những người thuê nhà. Hiện tại, Luxstay đã có
mặt ở TP.HCM, Hà Nội và các thành phố lớn trên khắp cả nước và tại đây, Luxstay
đã đánh dấu được những bản sắc riêng có của mình.
Người ta hay so sánh về các dịch vụ, tiện ích giữa khách sạn và homestay.
Do đó, nếu Luxstay có thể cung cấp cho chủ nhà lẫn khách thuê những trải nghiệm,
tiện ích tốt nhất, sự so sánh này sẽ không còn nữa. Mục tiêu của Luxstay là tạo ra
một hệ sinh thái đủ lớn để đáp ứng mọi yêu cầu về lưu trú của khách hàng. Luxstay
không chỉ cho thuê chỗ ở, mà là khám phá những trải nghiệm mới.
Đôi khi nhắc tới Luxstay, nhiều người thường mang Airbnb ra để so sánh.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là sẽ như thế nào nếu Airbnb vào Việt Nam và Luxstay sẽ
lấy gì để đấu lại họ trên cùng một môi trường kinh doanh? Ở đây, có một công cụ
mà nếu sử dụng sẽ có thể bảo vệ được Luxstay trong trường hợp giả thuyết tham gia
thị trường Việt Nam của Airbnb xảy ra, đó chính là sáng chế công nghệ. Thực tế,
57
Airbnb đã nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế đối với công nghệ lõi của họ ngay từ
đầu và tiếp tục bảo hộ khi cải tiến công nghệ của mình ở quy mô toàn cầu. Trong
khi đó, Luxstay chưa có đơn đăng ký sáng chế nào. [1]
Có thể lý giải cho việc chưa nộp đơn đăng ký sáng chế công nghệ cuả
Luxstay là doanh nghiệp này vẫn đang trong quá trình khai thác thông tin pháp lý
của các sáng chế công nghệ tương đương hoặc có liên quan để định hướng và phát
triển công nghệ của mình sao cho tính mới của nó được thể hiện rõ nét nhằm hạn
chế tối đa khả năng vi phạm bản quyền sáng chế của người khác trước khi thực hiện
đăng ký sáng chế. Tuy nhiên, việc chưa có động thái bảo hộ sáng chế công nghệ của
mình có thể sẽ gây bất lợi cho Luxstay trong trường hợp có người ăn cắp công nghệ
và đi đăng ký bảo hộ sáng chế hoặc một công nghệ được nghiên cứu sau có tính
tương đương nhưng lại được bảo hộ sáng chế. Điều này sẽ dẫn đến khá nhiều phiền
phức cho Luxstay nếu gặp phải tranh chấp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Từ
đó, việc quản lý công nghệ như đổi mới công nghệ, quản lý quy trình, quy phạm kỹ
thuật cũng phải cân nhắc thực hiện một cách rất cẩn thận.
Đánh giá chung:
Từ ví dụ của DôTA và Luxstay đã cho thấy nhìn chung các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có biết đến nguồn thông tin sáng chế và khai thác
nguồn thông tin này để có các tư liệu kỹ thuật, đảm bảo công tác nghiên cứu-triển
khai được liền mạch, thông suốt, không bị ngắt quãng bởi rủi ro pháp lý. Tuy nhiên,
sự thể hiện của hai doanh nghiệp trên khác nhau, khi một doanh nghiệp đã chủ động
đăng ký sáng chế còn một doanh nghiệp chưa có động thái bảo hộ cho sáng chế
công nghệ của mình. Điều này cũng cho thấy rằng sự quan tâm về thông tin pháp lý
của các startup là khác nhau, do ý thức và sự hiểu biết khác nhau. Thậm chí, có
những doanh nghiệp không cần quan tâm đến tính pháp lý của các sáng chế đã có
trước đó, dẫn đến tốn công sức nghiên cứu nhưng lại bị đánh giá là xâm phạm
quyền; hoặc có những startup dù đã biết thực hiện đăng ký sáng chế nhưng thực sự
chủ quan khi không theo dõi thông tin pháp lý của sáng chế của mình, dẫn đến kết
quả bị người khác xâm phạm quyền, gây ảnh hưởng lớn đến quá trình quản lý công
nghệ cũng như hoạt động kinh doanh.
58
Do tính chất pháp lý của sáng chế có phạm vi lãnh thổ. Bởi vậy, nếu biết tận
dụng những sáng chế đã được bảo hộ tại các quốc gia khác trên thế giới để tham
khảo, tận dụng và học hỏi nhằm phát triển sản phẩm mới chưa từng có trên thị
trường mục tiêu thì việc xâm phạm quyền được coi như không xảy ra và không vi
phạm luật pháp quốc tế. Việc nhìn nhận và coi trọng thông tin pháp lý của sáng chế
bởi các startup là chưa cao nên đôi khi chính họ đã tự bỏ qua cơ hội tận dụng công
nghệ đã có trên thế giới để có thể đi tắt đón đầu cũng như phát triển thị trường mới.
2.3.2.2 Rào cản trong công tác khai thác thông tin pháp lý
Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của nhiều chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Tình trạng
doanh nghiệp không chú ý tới việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật là khá phổ biến.
Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc cập nhật kiến thức pháp luật kinh
doanh, coi nhẹ yếu tố pháp lý trong kinh doanh nên không dành thời gian cho cán
bộ đi tham gia các chương trình bồi dưỡng. Một lý do lớn nhất mà các DN không
tham gia các lớp bồi bưỡng là các DN thường không lo phòng tránh rủi ro trong
kinh doanh mà có quan điểm là chỉ đến khi sự việc pháp lý xảy ra sẽ thuê luật sư
hoặc nhờ vả các mối quan hệ để giải quyết vụ việc.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết cách khai thác hiệu quả các
thông tin pháp luật vì hiện tại hệ thống pháp luật của chúng ta đặc biệt pháp luật về
kinh tế, thương mại vừa nhiều, vừa chồng chéo và bất cập. Mặt khác, các cơ quan
quản lý nhà nước dù có sự quan tâm đến doanh nghiệp nhưng vẫn còn nhiều khó
khăn trong phương thức để phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thi hành pháp luật cho
doanh nghiệp; nhiều thắc mắc của doanh nghiệp về nội dung các quy định của pháp
luật và việc áp dụng pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải
đáp kịp thời khiến cho việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp càng gặp nhiều khó
khăn hơn.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý
của nhiều người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp còn khó
khăn về nguồn lực để tiếp cận với thông tin pháp lý và tư vấn pháp luật, hoạt động
hỗ trợ của các hiệp hội doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu hiệu quả;
các cơ quan quản lý nhà nước chưa thi hành tốt nhiệm vụ của mình trong việc tổ
59
chức triển khai thực hiện pháp luật cho doanh nghiệp, nhiều văn bản được ban hành
cùng thời điểm nhưng không nhất quán, chồng chéo cũng gây nhiều khó khăn cho
doanh nghiệp. Chất lượng thông tin mà doanh nghiệp có được chưa đầy đủ, kịp
thời và độ tin cậy cao. Đa số các trang thông tin cho doanh nghiệp cung cấp các
thông tin chung chung, lạc hậu, thiếu các thông tin phục vụ thiết thực cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo hiện nay vẫn chưa quan tâm nhiều đến giá trị của thông tin sáng chế. Để đảm
bảo công tác quản lý công nghệ được hiệu quả, điều đầu tiên các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo cần phải biết được rằng công nghệ của mình có bị xâm
phạm quyền của các sáng chế đã có trước đó hay không. Việc đảm bảo tính pháp lý
của sáng chế sẽ giúp cho startup có những kế hoạch phát triển lâu dài, lựa chọn
đúng công nghệ, triển khai cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất.
Có khoảng 8% các startup gặp phải các rủi ro pháp lý khi hoạt động dẫn đến
khởi nghiệp thất bại (theo nghiên cứu Tổ chức nghiên cứu thị trường CB Insights
trên 135 dự án startup thất bại). Có thể nói, những hiểu biết về sáng chế và thông tin
sáng chế của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nhìn chung còn hạn
chế, không phải doanh nghiệp nào khi đưa ra một sáng chế cũng nghĩ ngay đến việc
đi đăng ký bảo hộ. Điều này thể hiện rõ rằng công tác tuyên truyền nhận thức về sở
hữu trí tuệ cho các startup bước đầu tham gia thị trường là chưa tốt mặc dù nhu cầu
được đào tạo một cách bài bản và chuyên nghiệp hơn về sáng chế và sở hữu trí tuệ
ngày một tăng cao. Đôi khi chính họ có nghe đến và muốn tìm hiểu về sáng chế
nhưng không biết tra cứu thông tin ở đâu, cách tra cứu như thế nào cho hiệu quả.
Ngoài ra, đối với một số doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực với startup lựa
chọn bảo vệ các ý tưởng của mình bằng cách giữ bí mật kinh doanh thì hoạt động
sáng tạo và chiến lược của họ không được tìm thấy khi tiến hành tra cứu sáng chế.
2.3.3 Hoạt động khai thác thông tin thương mại
2.3.3.1 Đánh giá chung
Hiện nay, các startup Việt Nam được đánh giá cao về tư duy sáng tạo, đặc
biệt là trong lĩnh vực công nghệ. Hòa cùng với nền công nghiệp 4.0, những sáng
kiến và sản phẩm mới được các startup nghiên cứu có tác động tích cực đến thị
trường và nền kinh tế. Trên thực tế, để sản phẩm sáng tạo mang tính khác biệt thì
60
nhà sáng chế không thể làm theo cảm tính để đánh giá tính ưu việt của sản phẩm mà
phải có cơ sở để so sánh. Cơ sở so sánh được nhắc đến ở đây chính là các sáng chế
đã được công bố và được thể hiện bởi thông tin sáng chế.
Dựa vào thông tin kỹ thuật của các sáng chế trước đó, startup đã biết tận
dụng công nghệ sẵn có để phát triển và hình thành nên sản phẩm mang tính khác
biệt. Tuy nhiên, con số startup biết khai thác thông tin sáng chế để xác định xu
hướng phát triển và tư duy công nghệ chưa phải là một con số lớn.
Theo số liệu thống kê, tại Việt Nam, số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn
bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm, hoạt động khai thác, thương
mại hóa tài sản trí tuệ được chú trọng, đẩy mạnh; tỷ lệ sáng chế được khai thác
thương mại đạt 8-10% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ trong năm 2019.
Việc xác định và nắm bắt được thông tin sáng chế của đối thủ kinh doanh là
một thế mạnh nếu các startup có thể khai thác một cách hiệu quả. Tuy nhiên, không
phải startup nào cũng tận dụng được thế mạnh này vào trong công tác quản lý công
nghệ của mình.
Có rất nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo không thể trụ vững
trên con đường khởi nghiệp. Con số startup thất bại chiếm khoảng 75-90% trên tổng
số startup. Theo ước tính của Shark Nguyễn Hòa Bình (Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch
Tập đoàn NextTech), mỗi năm thế giới có 50 triệu dự án startup công nghệ ra đời, ở
Việt Nam là khoảng 1.000 dự án. Tuy nhiên, trong 3 năm đầu khởi nghiệp, có đến
92% trong số này sẽ thất bại và phải giải thể. Lý do là startup chưa tìm ra được
chiến lược phù hợp cho thị trường, cũng như thiếu một hệ sinh thái làm bệ phóng.
Ông Bình cho rằng, 49% startup làm những thứ mà thị trường không cần; 29% do
thiếu vốn; 23% do sử dụng sai người… [10]
Đôi khi các startup tự tin với sản phẩm của mình đến mức quá chắc chắn vào
tính “ưu việt” của ý tưởng mà bất chấp tình hình thị trường. Theo kết quả phân tích
của Tổ chức nghiên cứu thị trường CB Insights sau khi “mổ xẻ” 135 dự án startup
thất bại thì 85% startup thất bại một phần là do sự ngạo mạn:
- Bất chấp nhu cầu thị trường: 47%
- Xác định sai thời điểm tung sản phẩm: 13%
- Mô hình kinh doanh chưa hợp lý: 17%
61
- Không tận dụng các mối quan hệ hoặc không tham khảo ý kiến các chuyên
gia: 8%.
Việc bất chấp nhu cầu thị trường của startup là thể hiện của sự chủ quan
không nghiên cứu những công nghệ hiện tại hoặc không biết khai thác thông tin liên
quan đến công nghệ hoặc xem nhẹ hoạt động này. Nhu cầu thị trường và thời điểm
tung sản phẩm có mối liên quan với nhau, khi mà người dùng có mong muốn về
một sản phẩm mới hơn, tiện dụng hơn thì những sản phẩm đáp ứng được những nhu
cầu này nếu được đưa ra sẽ có tính hiệu quả cao hơn. Tất cả những thông tin này
startup có thể tự phân tích được nếu như biết cách sử dụng thông tin sáng chế.
Thông tin sáng chế sẽ cung cấp cho startup thông tin công nghệ hiện tại đang được
sử dụng để có thể định hướng lựa chọn nghiên cứu công nghệ phù hợp, từ đó xây
dựng mô hình kinh doanh hiệu quả.
Ngoài một số doanh nghiệp khởi nghiệp có ý thức khai thác thông tin sáng
chế nhằm tìm kiếm thông tin thương mại để quản lý công nghệ hiệu quả thì đa số
startup vẫn chưa làm được điều đó. Đây là vấn đề thực sự cần được quan tâm nếu
startup muốn tìm cho mình chỗ đứng trên thị trường đổi mới sáng tạo.
2.3.3.2 Rào cản trong công tác khai thác thông tin thương mại
Đối với việc hình thành bản đồ sáng chế: Mỗi doanh nghiệp khai thác thông
tin sáng chế sẽ tự lập cho mình một bản đồ sáng chế và có sử dụng các phương pháp
phân tích sáng chế khác nhau. Tuy nhiên, các phương pháp phân tích trên thực tế
không được biết đến đầy đủ. Điều này là do các doanh nghiệp tự tạo ra bản đồ sáng
chế của riêng mình và bảo vệ chúng một cách nghiêm ngặt. Trong trường hợp tiết lộ
lý do tạo ra bản đồ sáng chế và cho công nghệ gì thì sẽ gián tiếp tiết lộ bí mật kinh
doanh. Nếu doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh nắm giữ được bản đồ sáng chế, họ có
thể sử dụng để thực hiện phân tích cho riêng mình. Do vậy, các startup không thể có
được bản đồ sáng chế của doanh nghiệp khác đã lập nên mà phải tự tìm kiếm thông
tin và hình thành cho mình một bản đồ riêng.
Với một doanh nghiệp khởi nghiệp còn non trẻ với các kỹ năng khai thác
thông tin sáng chế chưa bài bản thì bản đồ sáng chế do starup tự tạo ra có thể không
hiệu quả do các quy trình có hệ thống để xây dựng bản đồ cho sáng chế không được
xác định. Hầu hết các phương pháp phân tích phổ biến để tạo nên bản đồ sáng chế
được phát triển bởi các tổ chức Chính phủ và Cơ quan Nhà nước.
62
Ông Lê Huy Anh (Trưởng phòng Thực thi và Giải quyết khiếu nại – Cục
SHTT) nhận xét: “Phạm vi bảo hộ của các sáng chế của Việt Nam thường hẹp.
Phạm vi bảo hộ hẹp sẽ gây khó khăn cho chủ sở hữu khi thực thi độc quyền sáng
chế, bởi việc đăng ký sáng chế đi kèm với việc công bố sáng chế. Đối thủ cạnh
tranh có thể căn cứ vào thông tin sáng chế được công bố để tạo ra các sáng chế có
bản chất tương đương, thậm chí tốt hơn”.
Một công nghệ không nhất thiết phải được thương mại hóa bởi chính chủ sở
hữu bằng độc quyền sáng chế mà có thể được li-xăng cho một hoặc nhiều người
khác. Vì thế, không phải lúc nào đơn đăng kỷ sáng chế được công bố cũng chứa
đựng hết hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh.
Về thực tế, thông tin sáng chế được thể hiện trên các kênh thông tin khai thác
chỉ cung cấp những gì người dùng cần liên quan đến các sáng chế đã có trước đó để
hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cân nhắc về đối tượng
nghiên cứu, định hướng chiến lược phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, chính họ lại
chưa có được sự tư vấn định hướng phát triển từ những người trong cuộc trong
trường hợp sáng chế của họ được bảo hộ. Startup cần có những tổ chức tư vấn, hỗ
trợ trong việc sử dụng quyền và lợi ích hợp pháp của mình để phát triển, chuyển
giao công nghệ, huy động vốn.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hiện nay có tuổi đời rất non
trẻ, đồng thời việc khai thác thông tin sáng chế trong các doanh nghiệp khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo chưa thực sự được chú trọng, có nghĩa là có cũng được mà không
có cũng được. Điều này gây ra tình trạng lãng phí nguồn lực, đôi khi các nghiên cứu
bị trùng lặp với giải pháp có sẵn trên thế giới khiến cho startup không hoạch định
được chiến lược nghiên cứu hiệu quả và dài hạn. Ngoài ra, Do thiếu sự tham gia và
hỗ trợ tư vấn từ các chuyên gia trong ngành cũng như các chương trình hỗ trợ, định
hướng ngay từ giai đoạn đầu mà rất nhiều startup không đủ năng lực để duy trì mô
hình kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, có khả năng tăng trưởng nhanh và
nhân rộng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực. Cùng với đó, các
tổ chức cung cấp thông tin sáng chế chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, song hành cùng với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống sáng
chế trong nhiều lĩnh vực là những khó khăn được đặt ra: Làm thế nào để các startup
khai thác hiệu quả những sáng chế đã có trong khi nước ta chưa có hệ thống cơ sở
dữ liệu sáng chế trong nhiều lĩnh vực khác nhau để các doanh nghiệp tìm kiếm, cập
nhật, khai thác thông tin.
63
Tiểu kết chƣơng 2
Trong một nền kinh tế dựa trên tri thức, việc sử dụng hiệu quả thông tin sáng
chế là yếu tố góp phần vào sự thành công của bất kỳ doanh nghiệp nào vì trong các
tài liệu bằng sáng chế có vô số thông tin kinh doanh, pháp lý và kỹ thuật định
hướng thực tế hơn so với bất kỳ các loại hình kinh doanh, pháp lý, khoa học hoặc
kỹ thuật nào khác trên toàn thế giới. Hơn nữa, sự phát triển nhanh chóng trong việc
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, kết hợp với cơ sở dữ liệu công nghệ,
sáng chế miễn phí hoặc sử dụng phần mềm phân tích để phân tích nhanh chóng và
chi tiết thông tin sáng chế, đã mở ra các vistas mới cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo hình thành chiến lược và chiến thuật sử dụng thông tin
sáng chế để mài giũa chiến lược kinh doanh của mình trên thị trường trong nước và
xuất khẩu.
Công nghệ thường là đặc tính tiêu biểu của sản phẩm từ một startup. Một
trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập có phải là doanh
nghiệp khởi nghiệp hay không, chính là trình độ công nghệ làm nền tảng cho tính
đổi mới sáng tạo. Bởi vậy, ngay cả khi sản phẩm không dựa nhiều vào công nghệ
thì startup cũng cần áp dụng công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như
tham vọng tăng trưởng.
Trong quá trình khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp phải tự nghiên
cứu ra công nghệ và quản lý công nghệ được đánh giá là hoạt động tất yếu để đưa
công nghệ trở thành công cụ chiến lược. Một khi doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo quan tâm đến công nghệ của mình và muốn quản lý một cách có hiệu quả
thì phải sử dụng thông tin sáng chế. Thông tin sáng chế có những vai trò nhất định
trong công tác quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo,
thông tin sáng chế là nguồn thông tin kỹ thuật, nguồn thông tin pháp lý và nguồn
thông tin thương mại. Những thông tin này tạo động lực cho đổi mới sáng tạo; kích
thích hoạt động nghiên cứu, triển khai; thúc đẩy chuyển giao công nghệ và thu hút
đầu tư.
Với số liệu sáng chế lên tới đơn vị hàng chục triệu cho thấy đây là một
nguồn thông tin dồi dào và mang tính đặc thù. Tuy nhiên, Phần lớn các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đều gặp phải những rào cản chung trong quá
64
trình khai thác thông tin sáng chế, bao gồm: thiếu năng lực và kỹ năng; thiếu thông
tin đào tạo và tuyên truyền; thiếu sự liên kết với các tổ chức. Do đó, vấn đề đặt ra là
làm thế nào để khắc phục được các rào cản này nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
thông tin sáng chế phục vụ cho quá trình quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
65
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ CÔNG
NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
TRÊN NỀN TẢNG KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ
3.1 Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc trong phát triển các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo
Cùng với sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo cũng như vai trò của các doanh nghiệp này trong cuộc cách mạng công
nghệ 4.0 mà Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương nhằm hỗ trợ cho họ có
thêm điều kiện thuận lợi. Bên cạnh việc tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho
khởi nghiệp, Thủ tướng đã chỉ thị hỗ trợ 3 trung tâm đổi mới sáng tạo và thành lập
sàn giao dịch vốn cho startup khi nhận định được rằng vốn là vấn đề cơ bản mà đa
số các startup gặp phải trong quá trình hoạt động của mình.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, Thủ
tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng các cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập
trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ.
Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đôn đốc, yêu cầu các cơ quan đăng
ký kinh doanh tại các địa phương hướng dẫn chi tiết, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong việc đối chiếu, ghi nhận ngành, nghề kinh
doanh của doanh nghiệp chưa có trong các mã ngành kinh doanh theo quy định hiện
hành vào cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên
quan và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội sớm đề xuất Chính phủ việc sửa đổi Luật Đầu
tư theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thành lập, góp vốn, mua
cổ phần, phần vốn góp của quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam; xây dựng
dự thảo Nghị định về cơ chế, chính sách ưu đãi và khuyến khích đối với Trung tâm
Đổi mới sáng tạo Quốc gia.
Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án Hỗ trợ hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025, hoàn thiện cơ chế
quản lý nhà nước đối với hoạt động khởi nghiệp sáng tạo; rà soát, xây dựng cơ sở
66
dữ liệu các tổ chức khoa học và công nghệ, trung tâm nghiên cứu, vườn ươm công
nghệ, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo công lập và ngoài công lập
trên cả nước; nghiên cứu, đề xuất giải pháp thúc đẩy kết nối, hợp tác giữa các tổ
chức với nhau.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, lựa chọn từ
những đơn vị có tiềm năng về sáng tạo công nghệ và đã có khởi đầu tích cực, đúng
hướng về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp để hỗ trợ phát triển 3 trung tâm hỗ trợ về
đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại 3 trường đại học, phát triển hệ sinh thái khởi
nghiệp, đổi mới sáng tạo của ngành giáo dục.
Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất giải pháp khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo
trong các cơ sở giáo dục đại học, giải pháp kết nối các trường đại học với các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, đề xuất giải pháp liên quan đến việc
phát triển các doanh nghiệp trong các trường đại học, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo
tại các trường đại học; chỉ đạo, hỗ trợ các trường đại học xây dựng mới, mở rộng
các chương trình đào tạo ngành công nghệ mới, công nghệ cốt lõi của Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư; xây dựng nội dung, chương trình đào tạo để cung cấp kiến
thức cho sinh viên về khởi nghiệp, sáng tạo; phát triển các hình thức liên kết đào tạo
giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp công nghệ để mở rộng hiệu
quả và nâng cao chất lượng đào tạo cho các ngành công nghệ mới.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ nghiên cứu, xây dựng thể chế cho các ngành, lĩnh
vực kinh doanh trên nền tảng công nghệ mới, đã xuất hiện hoặc có tiềm năng xuất
hiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp công nghệ. Ở các ngành có
tiềm năng nhưng có mức độ ảnh hưởng cao tới kinh tế, xã hội như tài chính, ngân
hàng, nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm (Regulatory Sandbox) để
doanh nghiệp có thể phát triển và thí điểm sản phẩm, dịch vụ mới.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo cơ quan chuyên
môn và cơ quan có thẩm quyền tại địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thực hiện các thủ tục hành chính về đăng ký ngành
nghề kinh doanh có điều kiện; xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các
trường hợp gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hành
67
chính, trong đó có thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đăng ký đầu tư, đăng ký góp vốn,
mua cổ phần, phần vốn góp.
3.2 Phƣơng hƣớng tăng cƣờng quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo
Trong những năm gần đây, khi khởi nghiệp sáng tạo thực sự trở thành trào
lưu mạnh mẽ, các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
của Chính phủ càng lúc càng đa dạng và tập trung hơn, cả về mục tiêu, cách thức
triển khai lẫn quy mô hỗ trợ. Để tăng cường quản lý công nghệ của các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp
thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ, khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo
trên nhiều lĩnh vực, bởi có nhiều công nghệ mới thì vấn đề quản lý công nghệ càng
được chú trọng.
Ngày 27/9/2019, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết
của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Tại Nghị quyết đã thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu
và một số chủ trương, chính sách để thực hiện mục tiêu; trong đó xác định khoa học
công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao là động lực phát triển.
“Nhà nước có các chính sách và biện pháp sau đây để xây dựng và phát
triển thị trường công nghệ:
1. Khuyến khích mọi hoạt động chuyển nhượng, chuyển giao công nghệ theo
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi;
2. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;
3. Áp dụng các chính sách ưu đãi đối với sản phẩm đang trong thời kỳ sản
xuất thử nghiệm bằng công nghệ mới; sản phẩm được làm ra từ công nghệ mới lần
đầu tiên áp dụng tại Việt Nam; hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ; thiết bị
công nghệ cao nhập khẩu, xuất khẩu công nghệ;
4. Áp dụng chế độ thưởng cho tập thể lao động và cá nhân có sáng chế, sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và ứng dụng công nghệ mới được chuyển giao;
5. Các tổ chức khoa học và công nghệ được thành lập tổ chức dịch vụ khoa
học và công nghệ, doanh nghiệp trực thuộc; được hợp tác, liên doanh với tổ chức,
cá nhân để tiến hành hoạt động chuyển giao công nghệ.” [26, Điều 33]
68
- Thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái khởi
nghiệp sáng tạo quốc gia để phát triển mạnh lực lượng doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng nhanh. Tiếp cận với hệ sinh thái khởi nghiệp
quốc tế bằng hình thức tổ chức chương trình Techfest cả trong nước và quốc tế
nhằm quảng bá các startup và hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt
Nam ra thế giới. Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia – Techfest
Vietnam là sự kiện thường niên lớn nhất dành cho cộng đồng khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo tại Việt Nam, do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các Bộ
ngành, cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội. Techfest có ý nghĩa quan trọng trong việc
tạo ra một sự kiện mang tầm quốc tế để các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tiếp
cận với khách hàng tiềm năng, các nhà đầu tư, các chuyên gia, tổ chức hỗ trợ khởi
nghiệp và các cơ quan truyền thông trong nước và quốc tế. Đây cũng là dịp để các
bên chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và liên kết các thành phần của hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam từ Trung ương đến địa phương với hệ sinh
thái khởi nghiệp trong khu vực.
- Tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch của Chương trình đổi mới công nghệ quốc
gia đến năm 2020: tập trung phát triển về số lượng và chất lượng của doanh nghiệp,
nhân lực quản lý doanh nghiệp trong việc thực hiện đổi mới công nghệ, làm chủ và
tạo ra công nghệ tiên tiến. Nội dung chính của Chương trình được xác định rõ: Một
là, xây dựng và thực hiện lộ trình nâng cao năng lực công nghệ quốc gia, bao gồm
các hoạt động chính: xây dựng bản đồ công nghệ quốc gia và lộ trình đổi mới công
nghệ đối với một số lĩnh vực sản xuất ưu tiên; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và
thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ; tổ chức đào tạo về quản lý, quản trị công
nghệ... Hai là, hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, làm chủ, ứng dụng công nghệ tiên
tiến, khai thác cơ sở dữ liệu về sở hữu công nghiệp để sản xuất sản phẩm chủ lực,
sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia; Ba là, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đổi mới công nghệ, bao gồm các hoạt động: ứng dụng công nghệ thông tin; xây
dựng cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên gia công nghệ; nghiên cứu và sản xuất
thử nghiệm; ươm tạo công nghệ và doanh nghiệp khoa học và công nghệ; Bốn là,
tăng cường nguồn lực cho đổi mới công nghệ vùng nông thôn, miền núi, địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
69
- Duy trì thực hiện Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 trong đó nhấn
mạnh đến việc gia tăng số lượng, chất lượng tài sản trí tuệ và chú trọng khai thác tài
sản trí tuệ
- Phát triển mạng lưới TISC (Tra cứu thông tin sáng chế dành cho Mạng lưới
các Trung tâm hỗ trợ công nghệ và đổi mới sáng tạo), đồng thời lập kế hoạch và xây
dựng chương trình đào tạo chuyên sâu cho các thành viên mạng lưới để có đủ kỹ
năng tra cứu thông tin, tư vấn thủ tục xác lập quyền, thương mại hóa và chuyển giao
công nghệ cho các nhà sáng chế trong tổ chức của viện nghiên cứu, trường đại học
hoặc doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cho các viện, trường tăng cường năng lực nội
tại trong việc xác lập quyền SHTT và chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chú trọng
vào việc tăng số lượng sáng chế của Việt Nam cũng như thúc đẩy các hoạt động
chuyển giao công nghệ, thương mại hóa tài sản trí tuệ. Từ đó, nêu cao vai trò quản
lý công nghệ của các startup để họ có ý thức bảo vệ, phát triển và khai thác hiệu quả
công nghệ của mình và thể hiện chúng qua những sản phẩm hữu ích.
- Cục SHTT tiếp tục cùng WIPO triển khai Dự án khởi tạo môi trường SHTT
nhằm tạo ra một hệ sinh thái SHTT, tức là xây dựng một mạng lưới các tổ chức
SHTT của các viện/trường, trong đó sẽ giúp cho các viện trường xây dựng được đội
ngũ cán bộ chuyên trách có kỹ năng chuyên sâu về khai thác thông tin sáng chế
phục vụ xác lập quyền và quản trị tài sản trí tuệ, để trên cơ sở đó hỗ trợ cho các hoạt
động sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ trong các viện/trường. Để làm được
điều này, trước tiên các viện/trường phải xây dựng được một tổ chức có chuyên
môn, có chức năng riêng biệt về SHTT và chuyển giao công nghệ. Dự án sẽ xây
dựng được một mạng lưới kết nối tạo ra hệ sinh thái SHTT theo mô hình "Trục
xoay" và "Nan hoa".
3.3 Giải pháp tăng cƣờng quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế
3.3.1 Giải pháp về chính sách
Các rào cản liên quan đến chính sách đối với việc sử dụng thông tin sáng chế vào
quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bao gồm:
- Doanh nghiệp chưa hiểu biết rõ về những ưu đãi mà Nhà nước áp dụng
liên quan đến đổi mới công nghệ;
70
- Cơ chế chính sách của Nhà nước chưa khuyến khích doanh nghiệp đổi mới
công nghệ; quy trình xin hỗ trợ cho đổi mới công nghệ còn phức tạp và kéo dài;
- Việc thương mại hoá các kết quả nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn; việc
đầu tư vào công nghệ mới không phải lúc nào cũng thành công, do đó cần sự hỗ trợ
từ phía Nhà nước;
Từ thực trạng này, tác giả luận văn đề xuất các giải pháp liên quan đến chính
sách như sau:
3.3.1.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và triển khai các chính sách đã ban hành
Để sử dụng có hiệu quả thông tin sáng chế trong quản lý công nghệ ở các
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, việc hỗ trợ các doanh nghiệp này trong
quá trình đổi mới công nghệ là rất cần thiết.
Việc cải thiện hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển khoa học
công nghệ đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo là bước đi tiên quyết mà Nhà nước có thể can thiệp được trong quá trình quản lý
công nghệ. Chẳng hạn, phải đảm bảo hiệu quả thực thi từ khi ban hành chính sách
đến người thực hiện xét duyệt hồ sơ; đồng thời, cắt giảm những thủ tục, giấy tờ
không cần thiết, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, công nghệ hỗ
trợ nhanh nhất. Nghiên cứu thêm các chính sách cụ thể về vấn đề công nghệ mới
giống như các quỹ đầu tư mạo hiểm chấp nhận rủi ro trong lĩnh vực công nghệ mới,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận vốn.
Nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo chưa thực sự hiểu biết rõ
về những ưu đãi mà Nhà nước áp dụng có liên quan đến đổi mới công nghệ. Điều
này có nghĩa là các chính sách ưu đãi hiện hành chưa được triển khai một cách rộng
rãi. Để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, các văn bản pháp quy về ưu
đãi thuế, về tài chính, tín dụng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,... đã được ban
hành, nhưng hiệu quả thúc đẩy của nhân tố này còn hạn chế. Một phần do việc tiếp
cận thông tin của doanh nghiệp, một phần do doanh nghiệp chưa có hoạch định kinh
doanh và đầu tư đổi mới công nghệ bền vững. Phần khác, phía cơ quan quản lý
chưa phổ biến đầy đủ kịp thời đến các đối tượng được hưởng ưu đãi, hoặc cơ chế
chính sách chưa thực sự hấp dẫn đối với doanh nghiệp, hoặc chỉ áp dụng đối với dự
án đầu tư đủ lớn và việc xét duyệt còn phức tạp, rườm rà. Cần chú ý khắc phục các
71
nguyên nhân hạn chế này thì chính sách ưu đãi, hỗ trợ ứng dụng công nghệ mới hy
vọng chuyển biến và phát huy hiệu quả thiết thực.
Một biện pháp hữu hiệu mà Nhà nước có thể thực hiện ngay đó là tổng hợp,
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tập
trung vào một đầu mối giúp cho doanh nghiệp tiếp cận và thực hiện được một cách
nhanh chóng và thuận tiện.
3.3.1.2 Bổ sung và ban hành các chính sách mới
Ngoài việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền và triển khai các chính sách đã ban
hành, Nhà nước cần tiếp tục bổ sung và ban hành các chính sách mới để hỗ trợ cho
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nói riêng.
“Cơ quan chức năng Nhà nước cần xây dựng những chính sách mang tính
khả thi cao hơn, bám sát thực tiễn hoạt động công nghệ cả về chiều rộng và chiều
sâu để từ đó tạo ra hành lang pháp lý hoàn chỉnh, đơn giản, giúp các doanh nghiệp
tiếp cận “đúng” và “trúng” thông tin sáng chế áp dụng vào quản lý công nghệ,
qua đó rút ngắn thời gian tìm hiểu và quy trình sáng tạo, xin hỗ trợ cho đổi mới
công nghệ khi cần thiết. Ngoài ra, cần tạo điều kiện về chính sách thuế, ưu đãi về
vốn, nhân lực, mặt bằng và cơ sở hạ tầng, thiết bị máy móc nghiên cứu... đối với
những doanh nghiệp thực sự có tiềm năng sáng tạo và ứng dụng sáng chế vào trong
quá trình sản xuất, thương mại hoá.”
Một trong số những khó khăn lớn mà các startup gặp phải chính là về vốn.
Để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, Nhà nước cần cho phép các
doanh nghiệp được thành lập quỹ nghiên cứu đổi mới công nghệ, các chi phí cho
nghiên cứu khoa học được tính vào giá thành sản xuất. Đối với các sản phẩm có ý
nghĩa kinh tế, nhà nước cần khuyến khích doanh nghiệp phát triển các sản phẩm
mới và cải tiến các sản phẩm hiện có thông qua quỹ hỗ trợ phát triển sản phẩm. Để
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và triển khai, chi phí
cho nghiên cứu và triển khai cần được hạch toán vào chi phí cố định, các thiết bị
được sử dụng cho hoạt động này cần được miễn thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu.
Khó khăn khác đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay trong việc quản
lý công nghệ và sở hữu trí tuệ là thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn cần thiết.
Do đó, việc đào tạo nguồn nhân lực có kinh nghiệm về quản lý công nghệ nói
72
chung, quản lý sáng chế nói riêng phục vụ cho nhu cầu của doanh nghiệp cần được
các cơ quan quản lý Nhà nước hoạch định rõ. Hiện nay, nguồn nhân lực được đào
tạo trong lĩnh vực này phần lớn vẫn hoạt động trong các cơ quan quản lý Nhà nước
hoặc các tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu trí tuệ mà chưa tham gia nhiều vào hoạt
động trong các doanh nghiệp. Trừ các doanh nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh với
nước ngoài đã chú trọng đến nguồn nhân lực này, các doanh nghiệp trong nước
dường như chưa có được hoặc không có được các nhân lực có trình độ chuyên môn
cần thiết trong lĩnh vực quản lý sáng chế. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ
đào tạo nguồn nhân lực này cho doanh nghiệp, chẳng hạn giảm hoặc miễn học phí
đối với các học viên là cán bộ của các doanh nghiệp
Nhà nước cần phải có nhiều hơn những hình thức khuyến khích và những lớp
tập huấn cho doanh nghiệp để họ tự xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh của
mình, trong đó có chiến lược công nghệ và chiến lược sản phẩm trong kế hoạch dài
hạn, đảm bảo các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các chính sách của Nhà nước cũng phải tạo được sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp có hình thức sở hữu khác nhau (doanh nghiệp Nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) để tạo ra môi trường chính
sách đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Việc xây dựng cơ chế chính sách được Bộ Khoa học và Công nghệ thực
hiện, trong khi đó, các Sở Khoa học và Công nghệ của tỉnh/thành phố có vai trò hỗ
trợ và liên kết các doanh nghiệp trong việc tiếp cận và thực hiện quyền lợi/nghĩa vụ
của mình theo chính sách mà Nhà nước đưa ra.
3.3.1.3 Phát triển hoạt động các quỹ đầu tư mạo hiểm
Trong thực tế, khi các doanh nghiệp có nhu cầu và phát hiện ra tiềm năng thị
trường có thể khai thác được thì ý tưởng đổi mới công nghệ sẽ nảy sinh. Tuy nhiên,
việc đầu tư vào công nghệ mới không phải lúc nào cũng đạt được hiệu quả chắc
chắn. Doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ đã gặp khó khăn về vốn lại có thể
gặp phải rủi ro khi đầu tư, đó chính là nguyên nhân làm doanh nghiệp e ngại và cản
trở tiến trình đổi mới công nghệ. Vì vậy, quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giúp doanh nghiệp
vượt qua trở ngại này. Quỹ này có thể hình thành do sự đóng góp của các nhà đầu tư
và có thể bao gồm sự đóng góp của Nhà nước. Cần phải hiểu là quỹ đầu tư mạo
73
hiểm không phải là quỹ sử dụng để cho vay thông thường mà là quỹ được sử dụng
để đầu tư cho những công trình nghiên cứu công nghệ có độ rủi ro cao. Khi thấy các
nghiên cứu công nghệ có tiềm năng sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao và có tính khả
thi, quỹ này sẽ đứng ra đầu tư cho hoạt động nghiên cứu đó. Khi thành công, lợi
nhuận thu được theo thoả thuận đầu tư. Vai trò của Nhà nước là khuyến khích cho
việc hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm như vậy.
3.3.2 Giải pháp tăng cường hoạt động khai thác thông tin sáng chế phục vụ quản
lý công nghệ
3.3.2.1 Giải pháp tăng cường hoạt động khai thác thông tin kỹ thuật
Một trong những khó khăn đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo Việt Nam hiện nay trong việc quản lý công nghệ và sở hữu trí tuệ là thiếu
nhân lực có trình độ chuyên môn cần thiết. Do đó, việc đào tạo nguồn nhân lực có
kinh nghiệm về quản lý công nghệ nói chung, quản lý sáng chế nói riêng phục vụ
cho nhu cầu của doanh nghiệp cần được các cơ quan quản lý Nhà nước hoạch định
rõ. Hiện nay, nguồn nhân lực được đào tạo trong lĩnh vực này phần lớn vẫn hoạt
động trong các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc các tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu
trí tuệ mà chưa tham gia nhiều vào hoạt động trong các doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo dường như chưa có được hoặc không có được
các nhân lực có trình độ chuyên môn cần thiết trong lĩnh vực quản lý sáng chế. Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực này cho doanh nghiệp.
Sáng chế là đối tượng liên quan trực tiếp nhất đến công nghệ, chứa đựng
nhiều thông tin và kiến thức kỹ thuật. Bởi vậy, thông tin sáng chế phức tạp hơn, thời
gian để đào tạo một tra cứu viên có đủ khả năng tra cứu đáp ứng yêu cầu của các
startup cũng vì thế mà kéo dài hơn so với các đối tượng khác. Việc đào tạo kỹ năng
tra cứu cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng ta đòi hỏi khoảng thời gian
dài tương đương 1-2 năm để có thể phân tích chuyên sâu các thông tin về kỹ thuật,
cạnh tranh, chiến lược; đối với những lớp đào tạo ngắn hạn thì học viên chỉ nắm
được những kiến thức cơ bản.
Trước những rào cản trong quá trình khai thác thông tin sáng chế phục vụ
hoạt động quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo,
Cục Sở hữu trí tuệ, với vai trò là tổ chức dịch vụ thông tin sáng chế có thể đưa ra
một số giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bằng cách:
74
- Tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo, hướng dẫn tra cứu thông tin sáng
chế chuyên sâu, hội nghị chuyên đề mang tính chuyên ngành giữa các chuyên gia
trong và ngoài nước để doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được giao lưu,
trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau; đồng thời tranh thủ liên kết thế mạnh của
từng bên để cùng tổ chức nghiên cứu, triển khai công nghệ, tạo ra thế và lực trong
môi trường kinh doanh cạnh tranh;
- Đội ngũ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đóng vai trò lớn trong
sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước thời đại cách mạng công nghệ. Bởi vậy,
các hoạt động đào tạo về sáng chế và thông tin sáng chế nói riêng, sở hữu trí tuệ nói
chung cần được mở rộng hơn nữa tới các đối tượng doanh nghiệp khởi nghiệp trong
cả nước. Sinh viên của các trường đại học được xác định là tiềm năng lớn trong lực
lượng khởi nghiệp tương lai nên việc đào tạo nguồn nhân lực sở hữu trí tuệ trong
trường đại học cũng cần được chú trọng hơn nữa cả về chất và về lượng;
3.3.2.2 Giải pháp tăng cường hoạt động khai thác thông tin pháp lý
Như đã nói ở trên, thông tin pháp lý nắm vai trò quan trọng trong hoạt động
quản lý công nghệ của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nhằm giúp
starup hạn chế được việc xâm phạm quyền của người khác hoặc ngăn chặn sự xâm
phạm của người khác đối với sáng chế của mình. Điều này mang lại giá trị nền tảng
cho sản phẩm của startup. Chính bởi vậy, cần phải nâng cao nhận thức và tăng
cường sự hiểu biết của startup về sở hữu trí tuệ nói chung, thông tin sáng chế để
chính họ có thể khai thác nguồn thông tin này một cách hiệu quả, phù hợp với công
nghệ của mình. Chỉ khi nhận thức của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
về tính pháp lý của sáng chế càng cao thì tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
càng thấp và đó là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thông qua tuyên truyền, nhận thức của doanh nghiệp về sáng chế nói riêng,
sở hữu trí tuệ nói chung sẽ được nâng cao. Nhà nước cần có chiến lược tuyên truyền
về thông tin sáng chế một cách bài bản, khoa học trên nhiều kênh truyền thông,
đồng thời nội dung tuyên truyền cũng nên được truyền tải một cách linh hoạt để
doanh nghiệp dễ tiếp cận, tiếp thu, nắm bắt và có những hiểu biết sâu rộng hơn về
sáng chế, thông tin sáng chế, áp dụng vào quản lý công nghệ của đơn vị, doanh
nghiệp để nắm bắt kịp thời, cải tiến, sáng tạo, đổi mới phù hợp với nhu cầu, đúng
75
thời điểm và định hướng phát triển bền vững. Qua đó góp phần quan trọng đổi mới
công nghệ, quảng bá thương hiệu, đảm bảo sự phát triển hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước.
3.3.2.3 Giải pháp tăng cường hoạt động khai thác thông tin thương mại
Bộ Khoa học và Công nghệ hiện nay đang chủ trì việc sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, tuy nhiên Luật này vẫn đang chú trọng về xác lập và
thực thi quyền liên quan đến sáng chế. Trong khi đó, thúc đẩy thương mại hóa sáng
chế là một việc làm cần thiết nhằm phát triển công nghệ mới, sản phẩm mới và thị
trường mới, nâng cao tinh thần tư duy đổi mới sáng tạo trong mọi lĩnh vực. Chính vì
vậy, để có thể thực hiện được các mục tiêu nêu trong Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến
năm 2030 về khai thác tài sản trí tuệ, Nhà nước cần có một cơ chế pháp lý về khai
thác và thúc đẩy thương mại hóa sáng chế cùng các văn bản hướng dẫn đi kèm để
cụ thể hóa Chiến lược này và có học tập kinh nghiệm từ Luật Sáng chế Ấn Độ năm
1970 và Đạo luật Bayh-Dole 1980 của Mỹ.
Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thường không có bộ
phận nghiên cứu và triển khai (R&D) riêng biệt, có thể vì một trong hai lý do: một
là, việc thành lập bộ phận quá tốn kém mà không phải lúc nào cũng sử dụng đến;
hai là, chưa thực sự nhận ra tầm quan trọng của bộ phận này hoặc chưa tìm được
nguồn nhân lực phù hợp. Dù với bất cứ lý do nào thì việc không có bộ phận R&D
cũng chính là rào cản đối với startup trong quá trình khai thác thông tin sáng chế
phục vụ hoạt động quản lý công nghệ. Nếu như cách đây vài năm, hoạt động R&D
vẫn còn rất xa lạ với các doanh nghiệp Việt Nam thì hiện nay, các doanh nghiệp sản
xuất, cung ứng dịch vụ đã bắt đầu chú trọng đến hoạt động này. Nhìn ra thế giới,
chức năng nghiên cứu và triển khai không chỉ giới hạn ở việc cho ra đời sản phẩm
mới. Một bộ phận R&D chuyên nghiệp trong một tập đoàn đa quốc gia thường “bao
sân” đồng thời nhiều chức năng sau: nghiên cứu - triển khai công nghệ (Technology
R&D); nghiên cứu - triển khai quy trình (Process R&D); nghiên cứu - triển khai
sản phẩm (Product R&D); nghiên cứu - triển khai bao bì (Packaging R&D). Như
vậy, hoạt động nghiên cứu và triển khai cần được hiểu rộng ra, không giới hạn ở
khuôn khổ thuần túy và cứng nhắc của sản phẩm hoặc dịch vụ. Với cách hiểu này,
chức năng của bộ phận R&D sẽ được mở rộng, tạo điều kiện cho việc mở rộng
76
phạm vi nghiên cứu, triển khai để nhờ đó doanh nghiệp tận dụng được nguồn lực và
tiết kiệm chi phí.
Do đó, với thực trạng hiếm có startup thành lập bộ phận R&D, Nhà nước cần
phải can thiệp nhằm tạo sự gắn kết giữa các tổ chức nghiên cứu - triển khai và
startup thông qua việc thúc đẩy startup thực hiện thuê tư vấn, liên doanh liên kết với
doanh nghiệp khác, hoặc đặt hàng các tổ chức nghiên cứu triển khai khác. Cần tổ
chức nhiều cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề mang tính chuyên ngành giữa các
chuyên gia trong và ngoài nước để doanh nghiệp được giao lưu, trao đổi, học tập
kinh nghiệm lẫn nhau; đồng thời tranh thủ liên kết thế mạnh của từng bên để cùng
tổ chức nghiên cứu, triển khai công nghệ, tạo ra thế và lực trong môi trường kinh
doanh cạnh tranh.
Chủ yếu các Startup hiện nay vẫn đang sử dụng kênh tra cứu thông tin sáng
chế trực tiếp trên internet và công báo sở hữu công nghiệp, điều này dễ khiến xảy ra
thiếu sót trong việc tìm kiếm và thu thập thông tin, dẫn đến hệ lụy đưa ra những
định hướng và quyết định không chính xác cho doanh nghiệp của mình. Nếu có tổ
chức thực hiện cung cấp sản phẩm, dịch vụ tra cứu sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong
việc tìm kiếm thông tin, đưa ra nguồn số liệu chuẩn xác, chi tiết, phục vụ cho việc
đưa ra quyết định và xây dựng chiến lược kinh doanh. Do đó, một biện pháp mà
Nhà nước có thể can thiệp trong trường hợp này là tổ chức mạng lưới cung cấp sản
phẩm và dịch vụ phân tích thông tin sáng chế trên phạm vi toàn quốc, trong đó, có
cung cấp dịch vụ xây dựng bản đồ sáng chế.
Trên thực tế, Cục Sở hữu trí tuệ có cung cấp dịch vụ tra cứu thông tin, các
doanh nghiệp có thể gửi yêu cầu dịch vụ đến Trung tâm Thông tin. Tuy nhiên, công
cụ này ít được sử dụng, hoặc có thể do doanh nghiệp thấy việc tra cứu thông tin
chưa thực sự cần thiết, hoặc hoạt động tuyên truyền về dịch vụ tra cứu của Cục Sở
hữu trí tuệ đến các doanh nghiệp chưa thực sự mang lại hiệu quả. Ngoài ra, Sở
Khoa học và Công nghệ ở các địa phương cũng chưa thực sự thể hiện rõ vai trò của
mình trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tra cứu thông tin cần thiết trong
khi doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ đó. Trong trường hợp này, nếu có sự phối hợp
giữa Cục Sở hữu trí tuệ và các Sở Khoa học và Công nghệ địa phương nhằm tạo
thành mạng lưới tra cứu nhanh chóng chắc chắn sẽ thúc đẩy các startup trong việc
khai thác thông tin sáng chế.
77
Để thực hiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp khai thác thông tin sáng chế trong
nhiều lĩnh vực khác nhau một cách có hiệu quả,
Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là các doanh nghiệp non trẻ nên
sự kết nối với các tổ chức đầu tư còn rất mỏng. Một sản phẩm, quy trình sáng tạo có
thể được chuyển giao hoặc huy động vốn nếu như starup tiếp cận được với các nhà
đầu tư, từ đó có các chuyển biến trong quá trình quản lý và sử dụng công nghệ một
cách có hiệu quả. Do vậy, những biện pháp mà Nhà nước có thể thực hiện:
- Thiết lập bộ phận tư vấn sau bảo hộ sáng chế (học tập Nhật Bản trong hình
thành tổ tư vấn), cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thông tin cho các đối tượng có
nhu cầu sử dụng thông tin sở hữu công nghiệp, đặc biệt là thông tin sáng chế;
- Khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm Các khoản đầu tư mạo
hiểm có thể được thực hiện thông qua các quỹ đầu tư Nhà nước hoặc đầu tư gián
tiếp thông qua việc phối hợp đầu tư với các nhà đầu tư/quỹ đầu tư tư nhân hoặc
cung cấp các chương trình bảo lãnh đầu tư cho các nhà đầu tư/quỹ đầu tư tư nhân
đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo;
- Tạo sân chơi kết nối giữa doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với
các nhà đầu tư, điển hình là chương trình Techfest được tổ chức hàng năm. Ngày
hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia - Techfest Vietnam là sự kiện thường
niên lớn nhất dành cho cộng đồng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, do
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành, cơ quan, tổ chức
chính trị - xã hội. Techfest có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra một sự kiện mang
tầm quốc tế để các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tiếp cận với khách hàng tiềm năng,
các nhà đầu tư, các chuyên gia, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và các cơ quan truyền thông
trong nước và quốc tế. Đồng thời, tổ chức chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và liên kết
các thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam từ Trung
ương đến địa phương với hệ sinh thái khởi nghiệp trong khu vực.
- Ngoài ra, nguyên nhân chính của việc các startup tự tra cứu thông tin sáng
chế trên internet có thể bởi doanh nghiệp chưa biết tới các tổ chức dịch vụ cung cấp
thông tin; hoặc do thấy bất cập trong việc gửi yêu cầu tra cứu: tốn phí, mất thời gian
chờ, chất lượng dịch vụ chưa đủ để đáp ứng; hoặc chính bản thân doanh nghiệp lo
sợ bị lộ giải pháp công nghệ. Do đó, các tổ chức cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
78
thông tin cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình. Trung tâm
dịch vụ thông tin có thể khai thác thương mại một cách có hiệu quả vì tần suất tra
cứu lớn. Việc nắm trong tay các cơ sở dữ liệu mạnh có độ tin cậy cao chính là chìa
khoá để đem lại các sản phẩm thông tin chất lượng tốt cho khách hàng. Đồng thời,
tra cứu viên ngoài việc tập hợp các tài liệu đối chứng liên quan đến đối tượng yêu
cầu tra cứu thì cần phải có kỹ năng phân tích, xếp hạng của các tài liệu này, từ đó tư
vấn cho doanh nghiệp một cách có hiệu quả.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của các cán bộ làm việc trong lĩnh vực thông
tin sáng chế để tăng độ tin cậy, đảm bảo yêu cầu bí mật công nghệ cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Tiểu kết chƣơng 3
Vai trò của thông tin sáng chế đối với quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là rất quan trọng. Dữ liệu sáng chế đảm bảo được tính
mới, tính sáng tạo của sản phẩm, quy trình và đem lại các thông tin cần thiết cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, công tác tiếp cận và sử dụng
thông tin sáng chế của startup còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài việc tự bản thân
doanh nghiệp phải có những biện pháp khắc phục như đầu tư về năng lực, trình độ
hay trang thiết bị thì Nhà nước cũng cần phải có các giải pháp hỗ trợ thích đáng và
kịp thời, bao gồm:
- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của công chúng về sở hữu trí tuệ;
- Đào tạo kỹ năng và phát triển năng lực sử dụng thông tin sáng chế;
- Hỗ trợ liên kết giữa doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với các tổ
chức tư vấn;
- Tăng cường giới thiệu về sản phẩm và dịch vụ thông tin sáng chế;
- Nâng cao năng lực của tổ chức dịch vụ.
Các phương hướng và giải pháp nêu trên, với trọng tâm hướng tới là quá
trình quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp, cần được thực hiện một cách đồng bộ
và toàn diện. Đó chính là những điều kiện cần thiết để khai thác có hiệu quả thông
tin sáng chế phục vụ quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo trong bối cảnh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thời kỳ cách mạng công
nghiệp 4.0.
79
KẾT LUẬN
Trong thời đại phát triển công nghệ như hiện nay, việc sử dụng có hiệu quả
thông tin sáng chế trong quản lý công nghệ sẽ góp phần vào sự thành công của
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Hoạt động khai thác thông tin sáng chế
và quản lý công nghệ có mối tương quan nhất định, nhờ sự phát triển của công nghệ
thông tin, viễn thông và nguồn dữ liệu khổng lồ về thông tin sáng chế đã giúp cho
các startup có được điều kiện thuận lợi hơn trong công cuộc khai thác và tìm kiếm
thông tin liên quan đến sản phẩm, quy trình công nghệ của mình, từ đó hình thành
chiến lược sản xuất và phương hướng kinh doanh trên thị trường.
Thông tin sáng chế có vai trò quan trọng trong quản lý công nghệ của các
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, nó đem lại cho doanh nghiệp các nguồn
thông tin dồi dào về kỹ thuật, cạnh tranh và chiến lược. Tuy nhiên, bản thân doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình khai
thác các nguồn thông tin này dẫn đến kết quả khai thác chưa được triệt để. Do đó,
để có thể sử dụng hiệu quả nhất thông tin sáng chế phục vụ hoạt động quản lý công
nghệ ở các doanh nghiệp này, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm khắc phục
các rào cản hiện có.
Sự hoàn thiện về chính sách, can thiệp của Nhà nước và sự nỗ lực của bản
thân doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là những tiền dề để thông tin sáng
chết phát huy tốt nhất vai trò của mình phục vụ quản lý công nghệ ở các doanh
nghiệp này, đồng thời phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baohosangche.vn, ngày 26/7/2019 - Bàn luận chút về LUXSTAY trong lĩnh vực
Sở hữu trí tuệ
2. Bộ Khoa học và Công nghệ - Trường Nghiệp vụ quản lý Khoa học và Công
nghệ (2006) – Quản lý công nghệ cho doanh nghiệp.
3. Trần Ngọc Ca (2009), Quản lý công nghệ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa kinh tế, Tài liệu tham khảo
về Công nghệ và quản lý công nghệ, Chương trình Cao học về Quản lý khoa
học và công nghệ.
4. Global Entrepreneurship Công nghiệp Việt Nam - VCCI.Monitor - GEM
2017/18 Global Report.
5. Phùng Minh Hải, Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ, Khai
thác sáng chế: Góc nhìn từ ngành dược phẩm Ấn Độ.
6. Nguyên Hạnh, http://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Khong-nen-danh-
dong--startup-voi-khoi-nghiep-10325.
Phương Hiền, https://bssc.vn/khoi-nghiep-start-va/. 7.
8. Japan Patent Office, Introduction to Patent Map Analysis, 2011.
9. Lee Yuke Chin (1999), Patent Information and Documentation, World
Intellectual Property Organization, WIPO/IP/PYN/03/2.
10. Thu Phương, ngày 29/12/2019 - Vì sao hơn 90% startup thất bại?
11. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật Khoa học
và Công nghệ, số 21/2000/QH10 ngày 09/06/2000, có hiệu lực từ 01/01/2001.
12. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Sở hữu trí
tuệ, số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ 01/07/2006, được sửa
đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, số
36/2009/QH12 ngày 19/06/2009, có hiệu lực từ 01/01/2010 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, số 42/2019/QH14 ngày
14/06/2019.
13. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật chuyển
giao công nghệ, số 80/2006/QH11 ngày 29/11/2006, có hiệu lực từ
01/07/2007.
81
14. Soonwoo Hong, Counsellor, SMEs Division, WIPO, The Magic of Patent
Information.
15. Steve Blank (2010), What’s A Startup, First Principles
16. Tổng cục Thống kê - Thông cáo báo chí Kết quả chính thức Tổng điều tra
Kinh tế năm 2017 (ngày 19/9/2018).
17. Trung tâm NC&PT truyền thông KH&CN, Văn phòng 844, ngày 07/12/2019,
Thị trường, con người, sản phẩm công nghệ: Để doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo là lựa chọn của nhà đầu tư và các chuyên gia quốc tế,
https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/17202/thi-truong--con-nguoi--san-pham-
cong-nghe--de-doanh-nghiep-khoi-nghiep-sang-tao-la-lua-chon-cua-nha-dau-
tu-va-cac-chuyen-gia-quoc-te.aspx.
18. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê, Giáo trình quản lý công nghệ.
19. World Intellectual Property Organization, “Patents: Frequently Asked
Questions". http://www.wipo.int/patentscope/en/patents_faq.html#protection,
ngày cập nhật 29/04/2011.
20. World Intellectual Property Organization, Patent Cooperation Treaty, ký ngày
19/06/1970.
21. World Intellectual Property Organization, What is “Patent Information”?,
Using Patent Information for the Benefit of Your SME.
22. World Intellectual Property Organization, WIPO Handbook on Industrial
Property Information and Documentation
23. http://www.wipo.int/standards/en/.
24. https://en.wikipedia.org/wiki/Technology_management, Technology
management, cập nhật ngày 07/04/2019.
25. https://steveblank.com/2010/01/25/whats-a-startup-first-principles.
26. https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%B4ng_tin, Thông tin, cập nhật ngày
07/04/2019.
27. https://www.facebook.com/baohosangche.vn/posts/2421974131374570?__tn__=K-R.
82