khó khăn của doanh nghiệp Việt thời
lạm phát
Doanh nghip tư nhân cũng như dân nghèo là hai đối tượng
"nhạy cảm" nhất với tình hình kinh tế lạm phát của nưc ta hiện
nay. Trong khi giá c mọi mặt hàng đều tăng (trừ mỗi cước viễn
thông) và ngân hàng thc hiện chính sách thắt chặt tiền tệ bằng
việc tăng lãi suất và hạn chế cho vay thì tình trạng của doanh
nghiệp lại càng “bi đát” hơn lúc bao giờ.
Những khó khăn này ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Vậy những khó khăn mà doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay đang phải đối mặt là gì? Đó là phải huy động vốn ở
mi kênh, sự phát triển bị hạn chế, và phải chịu áp lực của ngoại
tệ.
Doanh nghiệp phải huy động vốn bằng mọi cách
Khi các ngân
hàng thương mại
tăng lãi suất cho
vay, la chọn
khách hàng cũng
như lựa chọn các
dự án đầu tư, các
doanh nghiệp khi
ấy "mạnh ai nấy lo", tự huy động vốn từ mọi nguồn bằng mi khả
năng của mình: "Tht lưng buộc bụng", huy động trên thị trường
bằng cổ phiếu, vay tín chấp... Tuy nhiên đây cũng chỉ là giải pháp
tm thời.
Giảm thiểu tối đa chi phí: Doanh nghiệp thường "thắt lưng buộc
bụng" bằng việc tạm thời cắt giảm chi phí cạnh tranh, các chi phí
quản lý và đãi ngộ nhân viên, các khoản đầu tư cho cơ sở hạ
tầng sản xuất, chi phí quảng bá hình ảnh... Đây là một chương
trình ngắn hạn và hiệu quả làm gia tăng doanh thu và lợi nhuận
cho công ty. Tuy nhiên xét về lâu dài cách này mang lại nhiều tác
động không tốt tới tình hình phát triển của doanh nghiệp. Trước
hết, điều này gây xói mòn những nỗ lực cải thiện cạnh tranh về
lâu dài. Đôi khi việc cắt giảm lại “vô tình loại bỏ những thứ quý giá
trong đống lộn xộn cần phải quẳng đi” ví dụ như một vài năng lực
quan trọng sẽ mất đi, và kết quả thu được trở nên ngược lại với
mong muốn. Cuối cùng, công ty lại phải đối mặt với những việc
gia tăng chi phí ở các khu vực khác.
Huy động từ các qu đầu :
Ngoài việc phải trả lãi suất ngân
hàng 1,5 %/tháng (tương đương
18%/năm) còn phải trả thêm phí thu
xếp vốn vay là 0,4 %- 0,5 %/ tháng -
lãi sut thực đã đội lên tới 24%/năm
(tăng thêm 2% so với tớc đây). Việc tăng lãi suất cho người
kinh doanh vay vốn m tăng giá thành sản phẩm và dch vụ, tác
động tăng giá trên thị trường xã hội, đi ngược lại mục tiêu kim
chế lạm phát của việc NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền
tệ. Bên cạnh đó việc doanh nghiệp vay vốn lại càng khó khăn hơn
khi các ngân hàng Thương mại buộc phải lựa chọn khách hàng,
lựa chọn dự án... Nhiều dự án bị từ chối vay vốn, hoặc doanh
nghiệp không dám vay, không dám triển khai dự án. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như lợi
nhuận của doanh nghiệp.
Nguồn vốn từ thị trường: Vay vốn ngân hàng khó khăn buộc
các doanh nghiệp phải huy động nguồn vốn khác đó là những
nguồn vốn trực tiếp mang tính chất thị trường, như: phát hành cổ
phiếu, bán cổ phiếu nội bộ, cổ phần hoá… Hoặc là vay tín chấp
bằng cách huy động nguồn vốn thông qua người nhà, vay trực
tiếp trên thị trường không thông qua ngân hàng hoặc huy động
nguồn vốn nhàn rỗi trong cán bộ công nhân viên hay là kéo dài
thời hạn thanh toán với bạn hàng hoặc ngân hàng... Các giải
pháp này tuy giúp ngăn chặn nạn đầu cơ vào bất động sản,
chứng khoán nhưng không khả quan mấy và không lâu dài nhất
là khi tình hình thị trường cổ phiếu đang sụt giảm. Với những DN
cần vốn dài hạn và các dự án đầu tư lớn, nếu không đủ vốn đế
đáp ứng kịp thời s rất dễ gây đổ bể.
Doanh nghiệp bị hạn chế phát triển
Khó khăn nữa của doanh nghiệp là bkiềm chế sự phát triển.
Tình hình tài chính yếu kém nên vấn đề nợ đọng trong doanh
nghiệp càng tăng. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy tạo vốn dễ đưa
doanh nghiệp tới các việc làm tiêu cực: đầu cơ, buôn lậu... Vấn
đề thiếu nhân sự cũng mang lại nhiều tổn thất lớn cho nhà đầu
tư.
Nợ đọng tăng cao, mất cơ hội hợp tác và đầu tư: Trong bối
cảnh thiếu vốn làm ăn, chuyện các doanh nghiệp sử dụng vốn
của các đối tác, khách hàng là điều không tránh khỏi. Bên phía
doanh nghiệp thì tìm đủ mi cách để thu tiền đúng thời hạn, nếu
không được thì càng sớm càng tt để còn tái đầu tư. Bên phía