BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

----------

LÂM MINH TRÍ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU TỪ MATSUO BASHO ĐẾN MASAOKA SHIKI

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

LÂM MINH TRÍ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU TỪ MATSUO BASHO ĐẾN MASAOKA SHIKI

Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Mã ngành: 52220320

Hướng dẫn khoa học: ThS. Nguyễn Bích Nhã Trúc

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy và truyền đạt kiến thức làm

nền tảng cho tôi trong việc thực hiện luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến nhà nghiên cứu Nhật Chiêu

– người đã chỉ dạy những bước đầu và mang đến niềm say mê thơ haiku cho tôi.

Cảm ơn Th.S Nguyễn Bích Nhã Trúc đã tận tình hướng dẫn, quan tâm và giúp đỡ

tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Cảm ơn các tác giả, nhà nghiên cứu đã mang đến nguồn tài liệu tham khảo

quý giá, góp phần hoàn thiện hơn những cơ sở lý luận trong luận văn.

Và cuối cùng xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đã động viên, ủng hộ tinh thần

cho tôi hoàn thành tốt luận văn.

Tp.HCM ngày 10 tháng 4 năm 2018

Lâm Minh Trí

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn Cách tân nghệ thuật thơ haiku từ Matsuo Basho

đến Masaoka Shiki là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa

học của Th.S Nguyễn Bích Nhã Trúc. Luận văn không có sự trùng lấp hay sao

chép bất kì công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả khác.

Tác giả luận văn

Lâm Minh Trí

i

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7

5. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 8

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 9

7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................ 9

CHƯƠNG 1: THƠ HAIKU TRONG DÒNG CHẢY THƠ CA NHẬT BẢN .... 11

1.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ haiku 俳句 .................................... 11

1.1.1. Khởi nguồn từ waka 和歌 .................................................................... 11

1.1.2. Từ renga 連歌 đến haikai 徘徊 ........................................................... 16

1.1.3. Từ haikai 徘徊 đến haiku 俳句 ........................................................... 19

1.1.4. Một số đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu của haiku ................................. 21

1.2. Những yếu tố ảnh hưởng và xu hướng cách tân thơ haiku ....................... 23

1.2.1. Ảnh hưởng của sự tiếp thu văn hóa phương Tây dưới thời Meiji ....... 24

1.2.2. Chiến tranh và sự phát triển của các thể loại văn học trong thời kì mới

........................................................................................................................ 26

1.2.3. Các xu hướng cách tân thơ haiku......................................................... 27

1.3. Các phạm trù mĩ học trong thơ haiku ........................................................ 29

ii

1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức thẩm mĩ Nhật Bản . 29

1.3.2. Mĩ học Thiền – nền tảng của các cảm thức thẩm mĩ trong thơ haiku . 32

1.3.3. Một số cảm thức thẩm mĩ cơ bản trong thơ haiku ............................... 36

1.3.3.1. Ý thức về vẻ đẹp huyền bí, tâm linh (aware 哀れ, wabi 詫び, sabi

寂, yugen 幽玄) .......................................................................................... 37

1.3.3.2. Ý thức về vẻ đẹp tinh tế, cô đọng (karumi 軽み, yojo 余情, okashimi

おかしみ, shibusa 渋さ) ............................................................................ 44

TIỂU KẾT 1 ......................................................................................................... 52

CHƯƠNG 2: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI BASHO ........ 54

2.1. Những chuyển biến và định hướng hình thành nghệ thuật thơ haiku trước

Basho ................................................................................................................. 54

2.1.1. Xây dựng nền móng và phát triển thơ haiku ....................................... 54

2.1.1.1. Phái Teimon với xu hướng bảo thủ, tri thức ................................. 54

2.1.1.2. Phái Danrin với xu hướng tinh tế, phóng khoáng ......................... 56

2.1.2. Xây dựng nghệ thuật sơ khai và định hình cách viết thơ haiku .......... 59

2.2. Basho và những chặng đường đi tìm nghệ thuật thơ haiku ....................... 60

2.2.1. Tiếp biến và khám phá kĩ thuật mới cho thơ haiku ............................. 61

2.2.1.1. Bước đầu học hỏi và tập tành làm thơ haiku ................................. 61

2.2.1.2. Quá trình nghiên cứu và khám phá kĩ thuật mới ........................... 64

2.2.2. Hình thành phong cách riêng, đưa haiku lên đỉnh cao nghệ thuật ...... 68

2.2.2.1. Các định hướng cho phong cách mới ............................................ 68

iii

2.2.2.2. Nghệ thuật thơ haiku đạt đến đỉnh cao .......................................... 73

2.2.3. Phong cách thơ haiku thực tại, tinh tế ................................................. 78

2.2.3.1. Haiku mang đậm tính triết lý sâu sắc ............................................ 79

2.2.3.2. Lối viết nhẹ nhàng, thanh thoát ..................................................... 81

2.3. Phong cách nghệ thuật thơ haiku sau Basho .............................................. 85

2.3.1. Khuynh hướng thoái trào của thơ haiku .............................................. 85

2.3.2. Giai đoạn phục hưng thơ haiku và các trào lưu đổi mới ..................... 86

2.3.2.1. Các xu hướng mới hình thành trên nền tảng Basho ...................... 86

2.3.2.2. Xu hướng phát triển haiku duy mĩ ................................................. 89

2.3.2.3. Xu hướng “phi haiku”.................................................................... 94

TIỂU KẾT 2 ......................................................................................................... 98

CHƯƠNG 3: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI SHIKI ........... 99

3.1. Công cuộc cải cách thơ haiku thời Meiji ................................................... 99

3.1.1. Sự khuôn mẫu trong việc làm thơ haiku - nguyên nhân dẫn đến suy thoái

........................................................................................................................ 99

3.1.1.1. Sự bảo trợ của chính phủ và những hệ lụy .................................... 99

3.1.1.2. Lệ thơ tsukinami 月並 – lối sáo mòn của haiku hiện đại ............ 101

3.1.2. Những khuynh hướng thay đổi đưa haiku khỏi biến động ................ 103

3.1.2.1. Giữ vững “Nhật Bản tính” trong thơ haiku ................................. 104

3.1.2.2. Đáp ứng tình hình và nhu cầu xã hội ........................................... 105

3.1.2.3. Cách tân toàn diện về mọi mặt .................................................... 106

iv

3.2. Shiki với cuộc cách tân thơ haiku hiện đại .............................................. 107

3.2.1. Bước đầu cho những cải cách thơ haiku hiện đại .............................. 108

3.2.1.1. Báo chí – phương tiện cách tân hoàn hảo .................................... 108

3.2.1.2. Phê bình lối viết haiku truyền thống ............................................ 111

3.2.2. Bước tiến vượt bậc trong cách tân nghệ thuật thơ haiku ................... 114

3.2.2.1. Khuynh hướng tả sinh và những bước tiến mới .......................... 114

3.2.2.2. Đỉnh cao của “haiku dư từ” ......................................................... 119

3.2.2.3. Thay đổi quan niệm về kigo ........................................................ 121

3.3. Thơ haiku sau Shiki và những biến đổi về nghệ thuật ............................. 125

3.3.1. Thơ haiku thời Taisho ........................................................................ 125

3.3.1.1. Khuynh hướng haiku tượng trưng ............................................... 125

3.3.1.2. Khuynh hướng haiku phúng vịnh ................................................ 128

3.3.2. Thơ haiku tiền – hậu chiến ................................................................ 130

3.3.2.1. Sự biến động về quan điểm nghệ thuật ....................................... 131

3.3.2.2. Thơ haiku sau 1945 – nghệ thuật của thời đại mới ..................... 133

TIỂU KẾT 3 ....................................................................................................... 136

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 137

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 140

PHỤ LỤC 1: ....................................................................................................... 146

PHỤ LỤC 2: ....................................................................................................... 149

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài Nhắc đến văn học Nhật Bản, không thể không nhắc đến thơ haiku. Haiku -

linh hồn của thơ ca Nhật Bản, là thể thơ hình thành và phát triển xuyên suốt các

chặng đường văn học của xứ Phù Tang. Haiku đẹp như cánh hoa anh đào, trầm

lắng như tiếng chim cu, thanh khiết như tuyết trắng,... và là con thuyền chuyên

chở văn hóa Nhật Bản đi khắp thế giới. Với lịch sử hình thành hơn 400 năm và

hơn 100 năm phát tán theo làn gió văn học đi khắp nơi, thơ haiku trở thành vấn đề

hấp dẫn dành cho các nhà nghiên cứu, học giả, lý luận và phê bình không chỉ ở

Nhật Bản mà còn nhiều nước khác trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

“Nhỏ nhoi là vậy, thơ haiku vẫn có thể chứa đựng ba nghìn thế giới.

Như một thiền ngôn xưa, trong hạt cải nhỏ xíu bao hàm cả nhật nguyệt, trên

đầu sợi lông dồn tụ cả càn khôn” [9; 6].

Haiku như một ẩn số vô tận, nghiên cứu thơ haiku là con đường dài không

có điểm kết. Thơ haiku mang con người đến với cái đẹp, đưa ta tìm về với bản thể

uyên nguyên. Như một sự mê hoặc đến lạ kì, haiku cuốn hút nhiều người đến với

nó vì “những tuôn chảy trong vỏ ốc nhỏ ấy là tiếng vọng của đại dương tình yêu

và đại dương thiên nhiên, nghĩa là của trái tim vô hạn và của bốn mùa vô tận xứ”

[9; 6].

Ở Việt Nam, tuy chỉ mới được du nhập vào khoảng nửa cuối thế kỉ XX

nhưng thơ haiku cũng đã khẳng định vị trí của mình trong phong trào tiếp nhận

văn học nước ngoài. Thơ haiku dần được đưa vào giảng dạy ở chương trình đại

học, chuyên ngành Văn học, tiếp theo là cấp Trung học phổ thông, điều đó khiến

nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu về thơ haiku trở nên cấp thiết. Không

những vậy, thơ haiku từ khi hình thành đến nay trải qua khá nhiều giai đoạn cách

2

tân sửa đổi để có một diện mạo như hiện tại. Như vậy, nghiên cứu haiku không

đơn thuần là nghiên cứu một tác giả hay một vấn đề riêng biệt mà cần phải nghiên

cứu cả quá trình. Từ đó, nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật thơ haiku ra đời,

nhưng dường như các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa đi sâu tìm hiểu vấn

đề cách tân của thơ haiku từ khởi nguyên cho đến hiện đại, chủ yếu tập trung vào

đặc điểm, tác giả, thể loại mà chưa chỉ rõ được điểm mới qua từng thời kì phát

triển của thơ haiku.

Những nguyên nhân đó đã thôi thúc chúng tôi đi đến quyết định nghiên cứu

và tìm hiểu chặng đường phát triển thơ haiku, góp phần làm rõ hơn những đặc

điểm cách tân từ cổ điển đến hiện đại của thơ haiku qua đề tài Cách tân nghệ

thuật thơ haiku từ Matsuo Basho đến Masaoka Shiki. Với đề tài này, chúng tôi

hy vọng có thể làm rõ được một số đặc điểm cách tân nghệ thuật trong thế giới thơ

haiku bí ẩn mà nhiều gợi mở, còn nhiều mới mẻ ở Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Như đã trình bày, nghiên cứu haiku là mảnh đất hấp dẫn các nhà nghiên cứu.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật thơ haiku trên thế giới và cả Việt

Nam.

Công trình nghiên cứu sớm nhất ở phương Tây về văn học Nhật Bản có thể

kể đến là W.G. Aston với A History of Japanese Literature (Lịch sử văn học Nhật

Bản, 1899). Công trình này đã khái quát toàn bộ tiến trình văn học Nhật Bản, trong

đó có sự hình thành và phát triển của thơ haiku. Đến Basil Hall Chamberlain, thơ

ca Nhật Bản được nghiên cứu với hàng loạt công trình đáng giá, trong đó nổi bật

là phần nghiên cứu: Basho and the Japanese Poetical Epigram (Basho và Thơ trữ

tình Nhật Bản, 1902) công trình đã đề cập đến tác giả Basho và phong cách thơ ca

3

của ông trên thi đàn Nhật Bản, trong đó tác giả nhấn mạnh Basho như người gieo

mầm để haiku bắt đầu nảy nở thành hoa thơm cỏ lạ.

Thơ haiku dần được quan tâm hơn, ngày càng nhiều công trình nghiên cứu

hướng vào tứ trụ haiku ra đời ở phương Tây như: An Introduction to Haiku: An

Anthology of Poems from Basho to Shiki (Giới thiệu thơ haiku: Hợp tuyển thơ từ

Basho đến Shiki, 1958) của Harold G. Henderson đã làm rõ những đặc trưng cơ

bản của từng tác giả qua các bài haiku, từ đó làm nổi bật phong cách của tứ trụ

haiku: Basho, Buson, Issa và Shiki.

Những công trình nghiên cứu độc lập về tác giả xuất hiện nhiều hơn, nghiên

cứu dưới góc độ chuyên sâu hơn như: Masaoka Shiki: His Life and Works

(Masaoka Shiki: cuộc đời và tác phẩm, 2002) khẳng định xu hướng hiện đại hóa

thơ haiku cổ điển đến thơ haiku hiện đại, cho thấy nhiều đặc điểm cách tân mới

trong thơ haiku của Shiki.

Việt Nam cũng ảnh hưởng trào lưu nghiên cứu văn học Nhật Bản đặc biệt

là thơ haiku một cách mạnh mẽ. Từ trước năm 1945, một số nhà thơ, nhà tri thức

đã có những bước manh nha tiếp xúc với thơ haiku như Vũ Hoàng Chương, Hàn

Mạc Tử, Nguyễn Tường Minh, Ngô Văn Tao,... Sự phát triển của nền văn hóa,

học thuật miền Nam lúc bấy giờ đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi và tiền đề thúc

đẩy quá trình dịch thuật, giới thiệu tinh hoa văn học, văn hóa nước ngoài, trong đó

có văn học Nhật Bản. Sớm nhất, phải kể đến một số bài dịch thơ haiku của Hàn

Mạc Tử trong bài viết Thi văn Nhật Bản với phong trào Âu hóa (1936) đăng trên

báo Sài Gòn. Tuệ Sĩ, Nguyễn Tường Minh dịch thơ haiku từ tiếng Anh của H.G.

Henderson sang tiếng Việt như: Hòa ca (nhiều tác giả) (1971), Luyến ca (nhiều

tác giả) (1972), Bản dịch của Nguyễn Tường Minh, Sài Gòn Sông Thao.

4

Sau năm 1975, văn học Nhật Bản nói chung và thơ haiku nói riêng càng ảnh

hưởng mạnh mẽ đến văn đàn Việt Nam. Người tiên phong đưa văn học Nhật Bản

về Việt Nam có thể kể đến nhà nghiên cứu Nhật Chiêu. Các công trình, tham luận,

bài viết về haiku trên nhiều khía cạnh ra đời, góp phần làm rõ nguồn gốc, đặc trưng

của thơ haiku, mang thơ haiku đến gần hơn với người Việt. Cụm công trình tiêu

biểu của Nhật Chiêu có thể kể đến như: Basho và thơ haiku (1994). Công trình

này được viết một cách cô đọng, tập trung vào tác giả Basho và tuyển dịch 119 bài

thơ của Basho theo bốn mùa. Đây có thể xem là nguồn tư liệu đầu tiên về tác giả

Basho ở Việt Nam. Tiếp đó là các công trình: Nhật Bản trong chiếc gương soi

(1997), Thơ ca Nhật Bản (1998), Văn học Nhật Bản - Từ khởi thủy đến năm 1868

(2003) đã giới thiệu văn học Nhật Bản trên phương diện các thể loại: thơ ca, văn

xuôi, kịch No,... Đặc biệt, Ba nghìn thế giới thơm (2007) có lẽ là công trình toàn

vẹn nhất mà Nhật Chiêu đã cho thấy thơ ca Nhật Bản, đặc biệt là thơ haiku “không

hoành tráng thênh thang như đại lộ thơ của nhiều xứ khác [...] không tiêu đề,

không đối, không vần, không cầu kì” [9; 9] và “haiku trao tặng cho ta một niềm

vui lặng lẽ, như một làn hương nhẹ bay đi” [9; 9].

Đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong việc nghiên cứu văn học Nhật Bản

ở Việt Nam là công trình Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản (2011) của Nguyễn

Nam Trân. Với kiến thức và sự am hiểu về Nhật Bản, Nguyễn Nam Trân cho ra

mắt công trình này như một sự tổng hợp, đúc kết toàn bộ tiến trình lịch sử văn học

Nhật Bản. Riêng về thơ haiku Nguyễn Nam Trân dành đến hai chương để phác

họa rõ nét tiến trình hình thành và phát triển từ sơ khởi đến hiện đại. Ở chương

XIII: Hành trình từ haikai đến haiku cổ điển, ông đã khái quát lịch sử thơ haiku

bằng các chặng khác nhau: haikai trước Basho, phong cách Basho, haikai sau

Basho, mối quan hệ giữa Thiền và haiku, kĩ thuật viết haiku cổ điển,... Đến chương

5

XXVI: Haiku cách tân và haiku tiền vệ, Nguyễn Nam Trân đã cho thấy sự ảnh

hưởng của phong trào cách tân thơ ca tác động đến sự đổi mới và sự xuất hiện

haiku hiện đại mà tiêu biểu là tác giả Masaoka Shiki với các đề xuất cách tân thơ

haiku. Trong công trình này, Nguyễn Nam Trân cũng đã dẫn ra những bài haiku

được chọn lọc kỹ lưỡng để minh họa cho các đặc trưng phát triển lịch sử của thơ

haiku, đó là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng để dễ dàng tiếp cận thơ haiku theo

hướng chuyển ngữ.

Trên phương diện dịch thuật, có các công trình dịch thuật được xuất bản

như: Lê Tiến Dũng với bản dịch Hài cú nhập môn của Harold G. Henderson (2000).

Tác giả cũng đã đề cập đến nghệ thuật “renso – liên tưởng”, đến nguyên tắc sử

dụng “kigo”, “nguyên lí đối chiếu nội tại” trong thơ haiku. Vĩnh Sính với cuốn:

Dịch thuật và Khảo cứu – Matsuo Basho và Lối lên miền Oku (2001) là công trình

nghiên cứu về tác phẩm Oku no hosomichi của Basho trong đó có hợp tuyển số

lượng lớn thơ haiku của Basho trong chuyến du hành về miền Đông Bắc. Gần đây

nhất là quyển Matsuo Basho - Bậc đại sư thơ haiku (2016) của Ueda Makoto - một

trong những công trình nghiên cứu có chất lượng cao về thơ haiku ở Nhật, do

Nguyễn Nam Trân biên dịch và chú thích. Tác phẩm này là tài liệu quan trọng,

cung cấp cho độc giả và người yêu thơ haiku ở Việt Nam một cái nhìn khái quát

và chân thực về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Basho, phần nào chỉ rõ những

chặng đường đi tìm phong cách nghệ thuật haiku của đại thi hào Nhật Bản. Bên

cạnh đó, tác phẩm còn cho thấy được tài năng tổng hợp của Basho ở các lĩnh vực:

sáng tác thơ haiku, haibun, bình thơ haiku, lý luận sáng tác haiku,...

Ngoài các công trình kể trên, thơ haiku còn được các nhà nghiên cứu tìm

hiểu chuyên sâu trong các luận văn, luận án trên các bậc học và nghiên cứu ở Việt

Nam. Những công trình khoa học này đã góp phần định hướng chi tiết hơn cho

6

việc nghiên cứu thơ haiku. Với công trình Ý thức thẩm mỹ Nhật Bản trong thơ

haiku (2010), Nguyễn Thị Lam Anh đã làm rõ ý thức thẩm mỹ của người Nhật

Bản thông qua thể thơ truyền thống này, “từ đó tìm hiểu và trình bày chi tiết những

đặc trưng quan trọng nhất của ý thức thẩm mỹ Nhật Bản trên cơ sở khảo sát, phân

tích thơ haiku” [1; 6]. Tiếp đó là luận án Tiến sĩ Ngữ văn Thơ haiku Nhật Bản:

Lịch sử phát triển và đặc điểm thể loại (2013) của Nguyễn Vũ Quỳnh Như, đã bao

quát quá trình hình thành và phát triển của thơ haiku, đặc biệt là những tác động

của haiku ra thế giới, tập trung qua hai hướng tiếp nhận là phương Tây và Việt

Nam. Bên cạnh đó, luận án còn đề cập khá kĩ đến đặc điểm về nội dung và nghệ

thuật cũng như đặc trưng thể loại của thơ haiku. Qua đó, ta thấy rõ hơn phần nào

diện mạo thể thơ mới được du nhập vào Việt Nam, trong hơn bốn mươi năm đã

có những thành tựu đột phá như vậy. Ngoài ra, còn nhiều luận văn tốt nghiệp đại

học và luận văn thạc sĩ có hướng nghiên cứu thơ haiku trên phương diện so sánh

đối chiếu với thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần như Thơ Thiền Việt Nam thời Lý

–Trần trong so sánh với thơ Thiền Nhật Bản (2008) của Tăng Kim Huệ, với thơ

Đường Trung Quốc như Đạm trong tuyệt cú của Vương Duy và Wabi trong thơ

haiku của Basho (2009) của Nguyễn Diệu Minh Chân Như.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới dạng sách, luận văn, luận án vừa

nêu, còn có rất nhiều các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành

cũng đề cập đến hướng nghiên cứu thơ haiku Nhật Bản. Bài viết Một số đặc điểm

nghệ thuật của thơ haiku Nhật Bản (2002), Thơ haiku Nhật Bản viết về mùa xuân

(2004) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á của Hà Văn Lưỡng.

Đoàn Lê Giang với So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ điển Việt Nam

và Nhật Bản đăng trên Tạp chí Văn học số 9 – 1997, Basho – Nguyễn Trãi –

Nguyễn Du, những tâm hồn thơ đồng điệu đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học

7

số 6 – 2003 cùng nhiều tài liệu giảng dạy khác. Tác giả Nguyễn Vũ Quỳnh Như

là nhà nghiên cứu chuyên sâu về thơ haiku, hội viên Hiệp hội thơ haiku thế giới,

cũng đã có những bài viết như Masaoka Shiki và haiku cận đại (2010) đăng trên

tạp chí Nghiên cứu văn học số 07-2010. Tiếp đó là Ngôn ngữ thơ haiku (2010)

đăng trên Tạp chí Đại học Sài Gòn, số chuyên đề Bình Luận văn học – Niên giám.

Tuy số lượng các công trình, bài nghiên cứu, dịch thuật khá nhiều nhưng

theo sự tổng hợp của chúng tôi, các tư liệu còn manh mún về đề tài, chưa xoáy sâu

vào các khía cạnh nên việc nghiên cứu thơ haiku vẫn còn nhiều bất cập và thiếu

sót. Trước thực tế này, thiết nghĩ cần có những bài nghiên cứu tập trung hơn vào

những vấn đề còn thiếu sót, chưa được nghiên cứu kĩ lưỡng như “tiến trình phát

triển, cách tân thơ haiku ở Nhật”. Đó là một trong những vấn đề cấp thiết cần được

nghiên cứu, để thơ haiku có thể phát triển ở Việt Nam đúng hướng hơn.

3. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung là rõ về nguồn gốc hình thành thơ haiku, từ đó tìm hiểu

những biến chuyển, thay đổi qua từng thời kì phát triển của haiku. Nghiên cứu và

nhìn nhận lại sự nghiệp, phong cách sáng tác, giá trị nghệ thuật trong thơ haiku

của các tác gia tiêu biểu, cho thấy những đóng góp vào sự cách tân nghệ thuật thơ

haiku từ cổ điển đến hiện đại.

Phần nào hệ thống hóa lại các tư liệu nghiên cứu về thơ haiku, khắc phục

những thiếu sót và bổ sung những quan điểm về sự đổi mới qua từng thời kì của

thơ haiku. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật và tư duy nghệ thuật đặc biệt là các phạm

trù về mĩ học trong các bài thơ haiku tiêu biểu.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng mà luận văn hướng đến là thơ haiku Nhật bản từ cổ điển đến hiện

đại, bên cạnh đó chú ý đặc biệt đến thời kì hình thành và giai đoạn chuyển tiếp của

8

haiku. Xoay quanh vai trò đặc biệt của ba nhà thơ là Matsuo Basho, Yosa Buson

và Kobayashi Issa vào việc phát triển và “trùng tu” haiku cổ điển. Tiếp đó là tìm

hiểu về haiku cận hiện đại với công cuộc cải cách thơ haiku thời Meiji sau khi

Maosaka Shiki lên tiếng phê bình haiku thời trước. Ngoài ra luận văn còn chú ý

đến thơ haiku sau Shiki với các khuynh hướng haiku thời Taisho, Showa.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghệ thuật thơ haiku từ trước

thời Matsuo Basho đến những năm 1980. Thông qua các tuyển thơ nổi tiếng của

tứ trụ haiku là Basho, Buson, Issa, Shiki và các nhà thơ hiện đại có đóng góp trong

quá trình phát triển nghệ thuật thơ haiku để làm rõ đề tài. Tuy nhiên do giới hạn

về tài liệu gốc, số lượng thơ haiku lớn nên chúng tôi chỉ xoay quanh một số bài

thơ tiêu biểu của các nhà thơ kể trên mà không khảo sát hết toàn bộ sự nghiệp sáng

tác của họ. Thêm vào đó là tham khảo các công trình nghiên cứu haiku ở Việt Nam,

các nước phương Tây,... Ở luận văn này, chúng tôi không chú trọng làm rõ sự khác

biệt cũng như tương đồng của thơ haiku với thơ ca của các nước phương Đông.

5. Đóng góp của luận văn Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi mong muốn hướng đến những đóng

góp sau:

Đóng góp một góc nhìn, hướng tiếp cận vấn đề cách tân nghệ thuật thơ

haiku qua các thời kì, từ đó thấy được giá trị nghệ thuật đặc sắc của thơ haiku đối

với văn học Nhật Bản cũng như đối với sự tiếp nhận haiku trên thế giới.

Công trình có thể trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên

trong quá trình học tập, nghiên cứu văn học Nhật Bản, đặc biệt là thể loại thơ haiku

ở Việt Nam.

9

6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:

Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội, được sử dụng ở Chương 1, xem

haiku như một hiện tượng văn học được hình thành và phát triển gắn chặt với

những biến động, những nhân tố lịch sử - xã hội Nhật Bản.

Phương pháp nghiên cứu thi pháp học, được sử dụng ở Chương 2 và Chương

3, để nghiên cứu về thi pháp thơ haiku. Hệ thống các cấu tạo nghệ thuật của thơ

haiku qua việc tiếp cận tác giả, tác phẩm (nguyên văn và bản dịch) từ đó làm rõ

hơn thi pháp thơ haiku và cho thấy sự đổi mới nghệ thuật.

Ngoài những phương pháp nêu trên, trong luận văn chúng tôi còn sử dụng

các phương pháp như: nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa, phân tích và tổng

hợp để đưa ra những nhận định chính xác và có giá trị trong việc nghiên cứu sự

cách tân nghệ thuật thơ haiku Nhật Bản.

7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (6

trang), luận văn được triển khai thành 3 chương:

Chương 1: Thơ haiku trong dòng chảy thơ ca Nhật Bản (gồm 43 trang).

Ở chương 1, chúng tôi trình bày khái quát về quá trình hình thành, các đặc

trưng cơ bản của thơ haiku. Khai thác các khía cạnh nhân tố ảnh hưởng đến quá

trình cách tân và những xu hướng cách tân tiêu biểu. Ngoài ra, chúng tôi còn dành

một mục để nói về các cảm thức thẩm mĩ, đặc biệt là mĩ học Thiền và hướng phát

sinh các cảm thức khác. Chung quy lại, chúng tôi muốn tạo nền tảng cơn bản làm

tiền đề để phát triển nghiên cứu về quá trình cách tân nghệ thuật thơ haiku sau này.

Chương 2: Cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Basho (gồm 45 trang).

10

Nội dung trọng tâm của chương 2 tập trung vào việc phân tích và tìm ra

những điểm đổi mới của thơ haiku thời kì trước và sau Basho. Chúng tôi chọn mốc

Basho vì nhiều lí do khách quan và mang tính khoa học, thời Basho mà đặc biệt là

Basho là người đầu tiên khẳng định vị thế của haiku như một hình thức nghệ thuật

có giá trị cao. Trong chương này chúng tôi đi sâu vào chặng đường phát triển haiku

cổ điển, cho thấy sự cách tân từ ban đầu của thể thơ này. Qua đó làm cơ sở để phân

tích sự thay đổi qua từng thời kì và đối sánh với thơ haiku thời hiện đại.

Chương 3: Cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Shiki (gồm 38 trang).

Chương 3 là chương tập trung vào các biến đổi mới mẻ, đa dạng của nghệ

thuật thơ haiku sau cuộc cải cách vĩ đại của Shiki. Tập trung phân tích những

phương diện nghệ thuật đặc sắc nhất như ngôn ngữ, quan niệm về quý ngữ, và

hướng vận dụng các chủ nghĩa tả sinh, tả thực từ văn học phương Tây. Có thể nói,

thơ haiku phát triển về nghệ thuật chưa có thời kì nào bằng thời kì này. Ngoài ra,

còn cho thấy chặng đường phát triển mới của thơ haiku sau chiến tranh, nghệ thuật

thơ haiku trở thành nghệ thuật của thời đại mới.

Ngoài ra, luận văn còn có Phụ lục 1: Hệ thống một số thuật ngữ (3 trang),

Phụ lục 2: Tuyển thơ haiku, gồm 362 bài thơ haiku (56 trang).

11

CHƯƠNG 1: THƠ HAIKU TRONG DÒNG CHẢY THƠ CA NHẬT BẢN 1.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ haiku 俳句

Nhật Bản là xứ sở của cái đẹp, và như thế có nghĩa là xứ sở của thi ca, của

ca đạo” [9; 5]. Thật vậy, ngay từ tác phẩm Manyoshu 万葉集 (Vạn Diệp Tập) ta

đã thấy được sự quy tụ của các nhà thơ nổi tiếng và cả những tâm hồn thơ ca không

tên tuổi khắp xứ Phù Tang, cũng như cách người Nhật trân trọng và bảo lưu kho

tàng thơ ca của mình. Thơ ca từ đó như những chiếc lá đâm chồi trên xứ sở Phù

Tang.

“Thơ ca mọc lên từ trái tim con người và lời thơ trở thành vô số lá cành.

Trong cuộc đời biết bao nhiêu điều làm con người xao xuyến xúc động, họ tìm

cách thể hiện cảm xúc của mình qua những hình ảnh mà họ nghe thấy. [...] Vì

nhận ra sự thật là mọi sinh vật đều phát tiết thơ ca. Chính thơ ca đã làm chuyển

động đất trời, ngay cả quỷ thần vô hình cũng phải xuyến xao” [7; 70]. Có thể thấy

người Nhật Bản yêu quý thơ ca đến chừng nào. Khởi nguyên của thơ ca Nhật Bản

là những vần thơ 31 âm tiết, gọi là waka 和歌. Nhưng không dừng ở bài thơ với

31 âm tiết đó, người Nhật dần rút gọn trên nền waka chỉ còn lại 17 tiết gọi là haiku

俳句. Haiku được ngắt theo nhịp 5 – 7 – 5, từ đó đến nay, giữ một vị trí quan trọng

trong nền thơ ca Nhật Bản. Theo thời gian, thơ haiku dần được phát triển và hoàn

thiện, hòa mình vào dòng chảy thơ ca Nhật Bản, đánh dấu một khởi nguồn và bao

sự biến đổi qua năm tháng, trở thành thể thơ ngắn nhất thế giới. Và “muốn hiểu

một cách ngọn ngành về Nhật Bản từ các phương diện: Vật chất, Đạo đức, Mỹ

học, Triết học, thì phải thể vi được “chiếc chìa khóa” Hài cú” [12; 208].

1.1.1. Khởi nguồn từ waka 和歌 Khi nhắc đến thơ ca Nhật Bản, người ta thường chỉ nhớ đến thơ haiku, mà

quên đi một thể thơ khởi nguồn cho thơ ca Phù Tang đó là waka (hòa ca). Nếu

12

không hiểu waka, chúng ta khó mà hiểu được thơ haiku và các thể loại khác. Vì

từ thời cổ đại waka đã chiếm một vị trí quan trọng trong nền thơ ca cổ điển Nhật

Bản. Minh chứng cho điều đó là việc hàng loạt tập thơ kinh điển của văn học Nhật

Bản đều được viết bằng thể waka như Manyoshu gồm hơn 4500 bài thơ trong 20

quyển, trong đó có khoảng 4207 bài là tanka, 265 bài choka, 62 bài sedoka.

Waka được hình thành trên hai cơ sở là ca dao cổ đại và Hán thi. Ca dao cổ

đại được ghi nhận trong một số tác phẩm như Kojiki 古事記 (Cổ sự ký), Fudoki

風土記 (Phong thổ ký), Nihon shoki 日本書紀,... Khi quốc gia được hình thành

thì ca dao cổ cũng thay đổi: thứ nhất do sự hưng thịnh của tầng lớp quý tộc, thứ

hai là tổ chức xã hội lấy đô thị làm trung tâm, nên ca dao mất dần tính chất tập thể

và mang màu sắc chủ thể cá nhân hơn. Từ đó, ca dao cổ đại chuyển dần từ o-uta

大歌 (đại ca) với hình thức 6 – 8 sang hình thức 5 – 7 và sau này gọi là thơ waka.

Waka thường được sử dụng trong các buổi tế lễ, cầu mùa và dâng cúng thần linh

ở các đền. Người Nhật Bản cổ đại thường hay tổ chức các buổi họp mặt, tiệc ăn

uống, ca múa trên núi hay bãi biển vào mùa xuân hoặc mùa thu (những mùa có

khí hậu mát mẻ và trong lành), hình thức này gọi là utagaki うたがき. Utagaki là

thời gian để cho con người gần nhau bộc lộ tình cảm, là cơ hội để nam nữ gặp gỡ,

tìm người yêu. Bởi vậy, thơ waka lúc này mang tâm sự tình yêu mãnh liệt của con

người. Waka có bốn thể loại chính là katauta 片歌 gồm 5 – 7 – 5 âm hoặc 5 – 7 –

7 âm. Sendoka 船頭歌 là cặp thơ katauta gồm 5 – 7 - 7 âm và 5 – 7 – 7 âm, đây

là thể thơ ít thông dụng hơn cả trong thời Nara. Choka 長歌 luân phiên các khổ

thơ 5 – 7 – 7 âm và 5 – 7 – 5 âm với độ dài không giới hạn có khi dài đến 150

dòng, thường viết về đề tài truyện cổ, gian khổ chiến trường, nhưng bên cạnh đó

nó cũng đạt được những vẻ đẹp tráng lệ. Thể loại cuối là tanka 短歌(đoản ca) gồm

13

5 – 7 – 5 – 7 – 7 âm, tanka hiếm khi thể hiện những cảm xúc dữ dội như sự uất

hận, cuồng nộ, kinh hoàng mà thiên về tình yêu, sự nhẹ nhàng, trữ tình và giàu

“nữ tính”. Đa phần trong thơ waka thì thể tanka chiếm số lượng bài nhiều nhất nên

người ta vẫn hay gọi waka là tanka là như vậy. Một bài tanka có thể được sắp xếp

như sau:

Dòng 1: có 5 âm kami no ku 上の句 Dòng 2: có 7 âm (Thượng cú) Dòng 3: có 5 âm

Dòng 4: có 7 âm shimmo no ku 下の句

Dòng 5: có 7 âm (Hạ cú)

Trong Manyoshu thơ waka được viết chủ yếu xoay quanh ba đề tài thiên

nhiên, tình yêu và xã hội. Những khúc luyến ca 蓮歌 như một nỗi niềm sâu thẳm

mà các tác giả đang cố khơi lên. Niềm khao khát tình yêu cháy bỏng:

aiomowanu Người không yêu tôi 相思はぬ

hito wo omouwa tôi vẫn yêu người 人を思ふは

odera no như kẻ vào chùa 大寺の

gaki no shirie ni cầu xin quỷ đói 餓鬼の後方に nuka tsuku gotoshi. cho đến tàn hơi. 額つくごとし (Manyoshu, bài 608) (Nhật Chiêu dịch)

(万葉集)

Vẻ đẹp thiên nhiên thấy rõ trong bài thơ sau của Akahito 赤人:

haru no nu ni Tôi đi hái 春の野に

sumire tsumi nito những bông hoa tím すみれ摘みにと

koshi ware zo trên cánh đồng

14

nu wo natsukashimi và tôi ở lại 來し我れぞ

hitoyo nenikeru ngủ giữa mùa xuân. 野をなつかしみ

(Manyoshu, bài 1424) (Nhật Chiêu dịch) 一夜寢にける

(万葉集)

Tinh thần trào lộng, khát khao giải phóng cuộc đời của Tabito 旅人:

nakanaka ni Tôi không mong なかなかに

hito to arazu wa làm người nữa đâu 人とあらずは

sakatsubo ni mà xin làm bầu rượu 酒壷に

narinite shikamo cho lòng chan chứa なりにてしかも sake ni shiminamu. Sake nhiệm mầu. 酒に染みなむ (Manyoshu, bài 343) (Nhật Chiêu dịch)

(万葉集)

Vào cuối thời kì Nara 奈良, chữ cái ngữ âm kana ra đời đánh dấu bước

chuyển mình và phát triển vượt bậc của chữ viết Nhật Bản. Hệ thống chữ kanji 漢

字, hiragana 平仮名, và katakana 片仮名 lần lược hình thành, nên văn học Hán

ngữ dần được thay thế. Như vậy, hệ thống chữ viết thay đổi kéo theo sự thay đổi

không ngừng để phát triển, đổi mới văn học trong đó có thơ waka. Nhiều nhà thơ

có đóng góp lớn cho thơ waka được vinh danh như Nukata Ookimi 額田王,

Kakinomoto Hitomaro 柿本人麻呂, Sakanoue Korenori 坂上是則,... Thơ waka

giai đoạn này không những được dùng trong lễ hội mà còn dùng để biểu lộ tình

cảm của con người đối với thiên nhiên, sự thương cảm sâu sắc và cô độc,... Trong

đó thơ của Ootomo Yakamochi 大伴家持 bộc lộ những quan niệm rất riêng về

các đề tài và được đánh giá là thơ có tính chất hiện đại.

15

haru no sono Vườn xuân đẹp sao 春のその

kurenai niou đường đi ngời sáng 暮れないにおう

mono no hana bóng hoa hồng đào 物の花

shitaderu michi ni một người con gái したでる道に idetatsu otome. từ đâu bước vào. いでたつおとめ (Manyoshu, bài 4139) (Nhật Chiêu dịch)

(万葉集)

Quá trình phát triển của waka vẫn tiếp diễn, qua đến thời Heian 平安, waka

chỉ tập trung phát triển chủ yếu tanka 31 âm tiết. Lúc này, thơ ca chữ Hán chiếm

địa vị độc tôn, đẩy lùi thơ waka truyền thống Nhật Bản vào bóng tối. Nhưng không

vì thế mà thơ waka biến mất, nó dần trở thành một hình thức thơ để biểu thị tình

cảm riêng tư. Thơ waka vượt khỏi biên giới giai cấp, từ quý tộc, lan sang tầng lớp

bình dân. Không chỉ viết về đề tài tình yêu như ở Manyoshu, thời kì này waka chú

trọng về đề tài thiên nhiên, đánh dấu cho bước phát triển đó là hợp tuyển Kokin

wakashu 古今和歌集 (Cổ Kim Hòa Ca Tập) hay gọi tắt là Kokinshu 古今集 (Cổ

Kim Tập) với các bài tanka của những tác giả là giới quý tộc và những người có

địa vị trong xã hội. Đó là những vần thơ nói về tình yêu thiên nhiên mang mĩ học

về mùa của người Nhật Bản cổ. Chuyển tải nét nhẹ nhàng, tao nhã và đầy “nữ tính”

tanka phù hợp với văn học “nữ lưu” thời Heian, nên phát triển không ngừng. Thơ

waka không trình bày, miêu tả sự vật một cách bày sẵn mà tham chiếu sự vật đó

qua lăng kính nội tâm và tri thức rồi mới tái hiện nó bằng ngôn ngữ tinh tế để gợi

ra mối liên tưởng cho người đọc.

Song hành cùng tiến trình lịch sử Nhật Bản, thơ waka phát triển và biến đổi

từ thời cổ đại đến tận ngày nay với loại hình tiêu biểu là thơ tanka. Waka như khởi

nguồn để thơ ca xứ sở Phù Tang dựa trên nền tảng đó mà hình thành và phát triển.

16

1.1.2. Từ renga 連歌 đến haikai 徘徊 Cùng với sự phát triển của tanka thời Heian, thơ renga (liên ca) được hình

thành, là thú vui tao nhã của giới quý tộc. Renga hay còn gọi là renku 連句 (liên

cú) là thể thơ liên hoàn gồm nhiều bài tanka nối tiếp nhau. Những nhà thơ Nhật

Bản thường sáng tác renga trong các lễ hội, cuộc gặp gỡ, ngày tết,... Người đầu

tiên sẽ sáng tác ba câu đầu gọi là kami no ku 上の句 (thượng cú) gồm 17 âm tiết

(sau này kami no ku được phát triển thành hokku 発句 (phát cú) là tiền đề để phát

triển thành thơ haikai sau này), tiếp đó nhà thơ khác sẽ nối bài thơ bằng 2 câu sau

gọi là shimmo no ku 下の句 (hạ cú) gồm 14 âm tiết, cứ như vậy các bài tanka nối

tiếp nhau thành một chuỗi cho đến khi kết thúc. Vì vậy, một bài renga thường rất

dài không giới hạn có khi lên tới cả trăm khổ thơ nối tiếp nhau nên gọi là kusari

renga 鎖連歌 (chuỗi liên ca). Đến thời Edo 江戸, thì độ dài thông thường của một

bài renga là 36 bài tanka. Mặc dù khá phổ biến, nhưng renga vẫn không được xem

là một thể thơ độc lập. Khi Kinyo wakashu 金葉和歌集 (Kim diệp hòa ca tập) ra

đời năm 1127 thì renga mới chính thức được nhắc đến.

Vào thời Edo, đặc biệt là trung kì Edo, renga trở nên thịnh hành và không

còn khép kín trong phạm vi giới quý tộc. Nó trở thành trò chơi đối đáp, lôi cuốn

mọi người ở nhiều tầng lớp khác nhau. Không những vậy, renga còn được xã hội

sùng mộ, tất cả mọi người ai cũng muốn có mặt trong buổi sáng tác renga, và

mong muốn câu thơ của mình được đánh giá hay nhất. “Những vần thơ hay được

chuộng đến mức mà người ta phải mua lại từ các nhà thơ chuyên nghiệp. Và đám

quân nhân mang những câu thơ đó đến cúng ở chùa để cầu may trước khi ra trận.

Còn phụ nữ thì cúng để cầu sinh đẻ dễ dàng” [17; 129]. Tuy nhiên, renga không

đơn thuần là một trò chơi mà nó là một thể thơ nghệ thuật cao cấp . Vì để tìm thấy

sự đồng điệu trong từng câu thơ không dễ, cho dù những nhà thơ sáng tác renga

17

là những người bạn tri âm tri kỉ. Sogi 宗祇 - nhà thơ đưa renga lên đỉnh cao, đã

đánh dấu một thể renga độc lập với waka vào thời Muromachi. Sogi là người chủ

biên cuốn Shinsen Tsukubashu 新撰菟玖波集 (Tân soạn trúc ba tập, 1495), được

xem là hợp tuyển renga có giá trị và hoàn thiện nhất. Tuy nhiên, trước đó ông

cũng đã cùng hai môn đồ soạn Minase Sangin Hyakuin 水無瀬三吟百韻 (Ba nhà

thơ ở Minase, 1488) đã rất hoàn thiện về thể renga so với giai đoạn đầu mới hình

thành thời Heian và đầu thời Edo. Bài renga dài 250 câu mà Sogi và các đệ tử làm

có tên là Minase sangin hyakunin 水無瀬三吟百韻 (Minase tam ngâm bách vận)

có vài đoạn như sau:

shigemi yori Dù hoa rơi rụng 茂みより

taedae nokoru vẫn còn lưu lại 絶え絶え残る

cành xanh lạ thường hana ochite 花おちて

(Shohaku) (肖柏)

ko no moto wakuru dưới bóng cây dạo bước 木の本わくる

michi no tsuyukesa trên đường lóng lánh sương. みちの露けさ

(Socho) (宗長)

aki wa nado Nhà tôi thềm đá 秋わなど

moranu iwaya mo thu cũng đến gần もらぬ岩やも

shiguru ran với lệ rưng rưng 時雨るらん

(Sogi) (宗祇)

koke no tamoto ni trên tay áo cũ こけの袂も

tsuki wa narekeri trăng từng quen thân. 月和なれけり

(Shohaku) (肖柏)

18

kokoro aru Từ bỏ bụi trần 心ある

kagiri zo shiruki miềm vui ẩn sĩ かぎりぞしるき

yosutebito thật là vô song よすて人

(Socho) (宗長)

osamaru nami ni như con thuyền nhẹ おさまる波に

fune izuru miyu trên biển bình yên. 舟いずる見ゆ

(Sogi) (宗祇)

(Nhật Chiêu dịch)

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhận định: “Trong liên ca, nhà thơ đi lại trong

một thời gian không hạn định, không chịu sự lệ thuộc của riêng khoảnh khắc nào”

[7; 161].

Renga thường được viết theo giọng điệu trào lộng, gọi là haikai no renga

俳徊の連歌. Haikai có ý nghĩ là dàn xếp trình bày một cách vui nhộn hài hòa.

Trong thi tuyển Kokin wakashu (Cổ Kim Hòa Ca Tập), quyển 19 có nhắc đến

haikaika 俳諧歌 (bài hài ca). Thế kỉ XVI, haikai dần trở thành một thể thơ phổ

biến, để phân biệt haikai với renga người ta dựa vào haigon 俳言 (bài ngôn) với

nội dung trào lộng và ngôn ngữ thông tục, khác hẳn với ngôn ngữ của thơ ca truyền

thống. Một đặc trưng rất được xem trọng trong haikai no renga là hokku 発句

(phát cú) vì nó có vai trò định hướng cho ý tưởng toàn bài thơ. Tuy nhiên, renga

bắt đầu bị bỏ rơi và không còn ai hứng thú nhiều với thể thơ cực khó này. Không

chỉ renga đứng đắn (phái hữu tâm) bắt đầu bị bỏ rơi và ngay cả renga hài hước

(phái vô tâm) cũng lâm vào tình trạng như vậy. Cuối cùng chỉ còn tồn tại và được

chấp nhận đoạn hokku 17 âm tiết ở đầu bài renga. Sau này phát triển thành thể thơ

haikai. Haikai bắt đầu tách dần khỏi renga để hình thành thế độc lập riêng cho

19

mình. Các nhà thơ vẫn sáng tác tanka và renga như rất ít vì nó phức tạp và cần sự

thống nhất cao giữa nhiều người. Haikai xuất hiện đã dần khắc phục tính tập thể

của renga, nắm bắt được khoảnh khắc bó gọn trong đoạn hokku.

Như vậy từ tanka người Nhật Bản đã kết nối lại nhiều bài thành renga sau

đó có xu hướng tách đoạn hokku ra để tạo tiền đề cho một thể thơ mới là haikai.

Ta thấy quá trình phát triển của thơ ca Nhật Bản cho đến nay như một chuỗi liên

hoàn và quá trình đó như một bài renga trường thiên.

1.1.3. Từ haikai 徘徊 đến haiku 俳句 Haikai như sự thoát thai từ hai thể thơ quốc âm waka và renga. Nhiều

phương diện ảnh hưởng đến quá trình hình thành haikai như tư tưởng Phật giáo

(có cả Thiền tông Nhật Bản), các tư tưởng triết lý phương Đông mà phần lớn du

nhập từ Trung Quốc. Về nghệ thuật, hội họa là tác nhân lớn ảnh hưởng đến ý vị

bên trong haikai, sự ẩn sâu triết lý xuất phát từ hội họa Trung Quốc (tranh thủy

mặc), tiếp đó là nền tảng của Hán thi và hai thể loại quốc âm waka và renga. Vậy

haikai không phải là một thể thơ hoàn toàn độc lập mà là kết tinh của sự vận động

sáng tác thơ ca của người Nhật Bản trong nhiều thế kỉ. Tuy haikai tách ra từ đoạn

mở đầu của bài renga với hình thức cấu trúc 17 âm tiết, nhưng giữa đoạn hokku

của một bài renga và một bài haikai có nhiều điểm khác biệt nhất định.

Như đã trình bày, haikai đã manh nha hình thành từ thời Muromachi 室町

dưới hình thức renga, sau đó phát triển mạnh nhất vào trung kì thời Edo với sự

xuất hiện của bậc đại sư haikai là Matsuo Basho 松尾芭蕉(1644-1694). Các nhà

thơ thời Muromachi, xem trọng việc đưa đặc tính đùa cợt vào haikai như chính lí

do tồn tại và phục vụ đời sống của nó. Đến đầu sơ kì thời Edo, Matsunaga Teitoku

松永貞徳(1571-1653) đã kế thừa đặc trưng đó, tiếp tục phát triển haikai cận đại.

20

Các thi phái được hình thành, tiêu biểu là hai thi phái Teimon 貞門 (Trinh môn)

đại diện có Matsunaga Teitoku và các môn đệ, và phái Danrin 談林派 với

Nishiyama Soin 西山 宗因 (1605-1682). Sở dĩ hình thành nhiều thi phái giai đoạn

này là do sự bất đồng tư tưởng sáng tác giữa các tác giả. Phái Teimon với đặc

trưng của sự bảo thủ cái truyền thống nên thiếu đi sự cuồng nhiệt còn phái Danrin

thì tinh tế và phóng khoáng không khuôn mẫu. Tuy đã hình thành và phát triển,

nhưng haikai vẫn chỉ là một thể thơ mang tính hài hước, bình dân cho đến khi

Matshou Basho xuất hiện. Basho đã góp phần khẳng định haikai là một thể thơ

độc lập.

Haikai tiếp tục phát triển trong thời Edo với nhiều nhà thơ nổi tiếng, ngoài

Basho còn có Yosha Buson 与謝蕪村 (1716-1784), Kobayashi Issa 小林一茶

(1763-1827) cuối thời Mạc Phủ. Haikai các thời kì này có sự biến đổi khá lớn, với

nhiều công cuộc cách tân lớn thay đổi cả về nội dung, nghệ thuật mà haikai muốn

hướng tới. Tất cả sự vật dung dị tầm thường trong cuộc sống dần được đưa vào

haikai, haikai không những mang tính hài mà bây giờ nó còn mang cả tâm trạng,

nổi buồn, sự đau khổ của kiếp đời, lòng thương vạn vật. Cho đến thời Meiji, haikai

lột đi bộ áo bấy lâu để có một cái tên mới là haiku1 (hài cú) cho đến ngày nay.

Hành trình từ haikai đến haiku không đơn giản là một sự thay đổi tên gọi mà đó

còn là cả sự thay đổi về tư duy và cải cách thơ ca. Người đề xuất đó là Masaoka

Shiki 正岡子規 (1867-1902), mục đích của ông là thay đổi haiku với một diện

1 Do tính chất phát triển theo từng thời kì lịch sử, haiku có nhiều tên gọi khác nhau. Để đảm bảo tính thống nhất xuyên suốt cho luận văn, từ sau nội dung này chúng tôi sử dụng tên gọi chung là thơ haiku, trừ các trích dẫn đôi khi vẫn giữ tên gọi theo các thời kì để tôn trọng nguyên tác.

mạo mới, không đơn thuần là vẻ đẹp mà là ý nghĩa. Haiku dần có cái nhìn khách

21

quan hơn về thực tế. Haiku là sự kết hợp giữa hai tên haikai và hokku mà thành để

phân biệt với dạng haikai nguyên thủy hay renku 連句(liên cú).

Như vậy, quá trình hình thành và phát triền thơ haiku không chỉ dừng ở

điểm cuối cùng của tên gọi mà còn sau đó cả một hành trình đi tìm nghệ thuật và

cách tân riêng của các tác giả. Haiku khởi sinh từ “mười nghìn chiếc lá” và bây

giờ nó như một rừng cây vô hạn, không những mang ý thơ mà nó còn mang cả ba

nghìn thế giới, mang cả vũ trụ vào ba dòng thơ 17 âm tiết nhỏ nhoi đó, quả thật kì

diệu.

1.1.4. Một số đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu của haiku Haiku có những đặc trưng nghệ thuật cơ bản, khó có thể nhầm lẫn với các

thể thơ trên thế giới và ngay cả trong thơ ca Nhật Bản. Tính ngắn gọn và hàm súc

là đặc trưng nổi bật của haiku. Chỉ 17 âm tiết, haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới,

đặc biệt là khi viết haiku theo kiểu truyền thống từ trên xuống thì haiku chỉ có một

dòng. Vì ngắn gọn như vậy, để truyền tải hết dụng ý và hơn thế nữa của tác giả,

bắt buộc haiku phải sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế, thủ pháp nghệ thuật điêu

luyện. Bên trong một bài haiku phải có không gian nằm trong không gian, nhờ đó

tạo ra tiểu vũ trụ trong một đại vũ trụ, có như vậy mới chứa đựng và bao hàm tất

cả ý vị của bài thơ. “Để làm được điều đó, các nhà thơ còn phải khai sáng các

quan niệm mĩ học mang thuần chất Nhật Bản để tô điểm thêm nét tĩnh lặng giàu

nội tâm của thơ haiku” [31; 126].

Như đã trình bày, haiku cổ điển được viết theo chiều dọc thành một dòng.

Khi được dịch sang chữ Latin, thơ haiku được viết cách dòng để phù hợp với việc

đọc theo kiểu phương Tây, nên trong luận văn chúng tôi thống nhất trình bày chỉ

viết hoa chữ cái đầu tiên của dòng thứ nhất, còn lại không viết hoa và sử dụng dấu

chấm cuối câu để thấy rõ việc ngắt câu của thơ haiku. Âm tiết là yếu tố quan trọng

22

trong một bài haiku nên việc sử dụng âm tiết kiểu 5 – 7 – 5 không nhất thiết các

âm tiết đều có nghĩa, vì tiếng Nhật là đa âm. Việc các tác giả sử dụng số lượng âm

tiết cho bài haiku của mình không nhất thiết phải tuân thủ khắc khe quy luật, vì có

một số trường hợp bắt buộc phải nhiều hơn số âm tiết qui định, ngay cả Basho

cũng phá vỡ qui định về âm tiết này. Điều đó thể hiện tính linh hoạt để phát triển

của thơ haiku, chúng tôi sẽ đề cập rõ hơn ở phần cách tân thơ haiku.

Khi xét trên các bài haiku nguyên bản, ta thấy nổi bật hai đặc trưng về ngôn

ngữ trong một bài thơ đó là kigo 季語 (quý ngữ) hay là kidai 季題 (quý đề) và

kireji 切字(từ ngắt).

Nói đến kidai và kigo, có rất nhiều quan điểm xoay quanh hai thuật ngữ này

và cả hai đều nói về mùa. Hai thuật ngữ này hình thành dựa trên cơ sở kisetsukan

季節感 (cảm thức về mùa) của người Nhật Bản. Người ta nhìn kidai là đề tài về

mùa, có tính cổ điển do thơ ca cổ đại đã đề cập đến từ rất lâu và kidai quan trọng

về tả thực thời tiết, mùa vụ. Còn kigo thì hiện đại hơn vì xuất hiện từ thời cận đại,

thể hiện thiên nhiên và chú trọng vào từ ngữ. Kidai trong thơ waka là các hình ảnh

biểu trưng cho bốn mùa như hoa, chim, trăng, tuyết,... sau này được tiếp nối và

chuyển thành kigo trong haiku. Mùa xuân thường được sử dụng bằng hình ảnh như

hoa đào, hoa mơ; mùa hạ là tiếng chim cu, đỗ quyên; mùa thu là trăng tròn, lá đỏ;

còn mùa đông là tuyết trắng. Yoshimoto Nijo 二条 良基 đã nhận định: “đề tài thơ

hokku phải nói về mùa, trong thơ phải có kidai hoặc kigo” [46; 91]. Như vậy, thiên

nhiên đã mang đến cho Nhật Bản vô số kigo, với vai trò quan trọng của kigo, nó

như linh hồn và sinh mệnh của thơ haiku. Ngoài ra kigo còn là cánh cửa mở ra sự

cảm nhận cho người đọc haiku, có kigo, haiku như có thêm ánh sáng khơi dậy

những đóa hướng dương và muôn hoa trong vườn. Khi sử dụng haiku, ta phải thể

23

hiện được đặc trưng và bản chất nổi bật của hình ảnh thiên nhiên, như vậy mới gọi

là thành công và đạt đỉnh cao nghệ thuật ngôn ngữ haiku.

Tiếp đó là kireji là quy ước cơ bản và bắt buộc của haiku. Để tạo cho bài

thơ có vần điệu, các nhà thơ sử dụng kireji như một thủ pháp nghệ thuật để kết

thúc hoặc ngắt ý cần thiết. Tuy không có ý nghĩa về mặt ngữ pháp nhưng kireji

trong bài thơ là rất quan trọng. Nó có tác dụng nâng cao bậc cảm xúc, sự trầm

bổng, tạo nút thắt đúng chổ để bài thơ hay hơn, nói đơn giản kireji như những sợi

dây đàn tạo ra âm thanh mà bài haiku là bản nhạc tuyệt vời. Kireji còn có vai trò

thay thế các từ hay dấu câu cảm thán trong bài thơ, làm bài thơ thêm da diết tràn

đầy cảm xúc và là chìa khóa để người đọc mở cách ẩn ý của tác giả. Bài thơ haiku

không bao giờ có dấu câu hay mang vần điệu nhưng khi mang kireji nó trở nên

hoàn toàn khác, làm cho người đọc nhận thấy được haiku không đơn thuần là một

dòng thơ xuyên suốt.

Bên cạnh đó, haiku còn mang tính mơ hồ và đa nghĩa. Bằng cách giản lược

hết mức có thể các hình ảnh và từ ngữ, chỉ giữ lại những đặc điểm nổi bật nhất của

khung cảnh thiên nhiên. Có lẽ haiku cũng giống như thơ ca phương Đông mang

hơi hướng “ý tại ngôn ngoại”, cảm xúc không bao giờ bộc lộ trực tiếp mà ẩn sâu

bên trong lớp áo ngôn từ. Qua sự vận động đặc sắc của từ ngữ đặc biệt là các kigo,

kidai, kireji, haiku hướng chúng ta đến tinh thần của Thiền, không những nhìn

thấy mà còn phải biết lắng nghe, biết suy ngẫm và biết cảm thụ tất cả vạn vật trên

cuộc đời này. Đó là những đặc trưng nghệ thuật cơ bản nhất của một bài haiku.

1.2. Những yếu tố ảnh hưởng và xu hướng cách tân thơ haiku

Bất kì thể loại nào khi hình thành cũng kéo theo sự phát triển đổi mới để

phù hợp với “môi trường”, thời kỳ văn học. Nếu không có sự phát triển phù hợp

đó thì chắc chắn, thể loại sẽ không thể nào tồn tại được, haiku cũng vậy, nó phải

24

vận động và phát triển không ngừng theo tiến trình phát triển của văn học Nhật

Bản. Từ khi hình thành, haiku đã gián tiếp đổi mới qua waka và renga để rồi tinh

chất cuối cùng là một thể loại haiku độc lập và phát triển đỉnh cao như ngày nay.

Không những vậy, haiku đã dược các nhà thơ cải cách một cách âm thầm trong

quá trình tự đi tìm phong cách nghệ thuật cá nhân, nhưng điều đó không được thể

hiện rõ vì có rất ít nhà thơ có thể đổi mới haiku. Nhìn chung, haiku có nhiều yếu

tố tác động, bắt buộc nó phải cách tân. Từ trước thời Basho rồi đến Basho đã có

nhiều xu hướng và nhiều trường phái haiku khác nhau. Nhưng haiku chỉ bước vào

quá trình cách tân thực thụ và đổi mới hoàn hảo vào thời Meiji với đề xướng đổi

mới thơ ca của Shiki, và phong trào duy tân Meiji. Các thể loại văn học Nhật Bản

thời này nói chung và thơ haiku nói riêng ráo riết chạy đua với công cuộc cách tân

nghệ thuật này.

1.2.1. Ảnh hưởng của sự tiếp thu văn hóa phương Tây dưới thời Meiji Năm 1868, lực lượng của của Tokugawa 徳川氏 bị thua trận ở Toba –

Fushimi, chính quyền Tokugawa sụp đổ, Nhật Bản bước vào thời kì Meiji 明治

(Minh Trị), chủ trương mở cửa giao thương với các nước phương Tây. Năm 1871,

phái đoàn Nhật Bản do công tước Iwakura Tomoni 岩倉具視 lên đường viếng

thăm Âu – Mỹ. Những chính sách cải cách từ đó bắt đầu. Chính sách cải cách

trong thời kì này chính yếu nhất là tiếp thu văn minh phương Tây. Với chính quyền

trẻ, không có kinh nghiệm về việc quản lý và điều phối đất nước, thêm đó là

phương tiện kĩ thuật thua xa phương Tây khiến Nhật Bản lâm vào tình trạng tuột

hậu nặng nề. Vì thế, việc tiếp thu văn minh tiên tiến từ phương Tây là cơ hội để

đất nước phát triển. Mục tiêu chính của chính quyền Minh Trị là lập nền độc lập

và từng bước tạo mối quan hệ với các nước Âu – Mỹ. Tháng 4 năm 1868, 5 điều

thề được Thiên hoàng Minh Trị công bố trong đó điều thứ năm có nội dung: phải

25

thu thập tri thức trên thế giới để chấn hưng cơ bản của hoàng triều. Từ đó cho

thấy mức độ quan tâm đến việc học hỏi và tiếp thu nguồn văn minh từ bên ngoài

vào Nhật Bản. Ngoài các cải cách về kinh tế, giáo dục, quân đội, bộ máy chính

quyền, chính sách ngoại giao được đề cao và chú trọng.

Nhật Bản đã học tập được nhiều điều từ ngoại quốc, trong đó tiêu biểu là về

lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Được mô tả theo tập san phương Tây, báo chí Nhật

bản ra đời, phục vụ cho hoạt động văn hóa văn nghệ. Văn học từ đó bắt đầu thay

đổi xu hướng để phát triển phù hợp. Qua những năm 1880, chủ nghĩa tả thực hình

thành ở Nhật Bản, người tiên phong là Tsubouchi Shoyo 坪内 逍遥, với các đề

xướng văn học: phải tôn trọng sự thật, thái độ khách quan với chủ thể sáng tác,

phủ nhận những lập trường luân lý trước đó của nền văn học cũ. Điều này một

phần cũng ảnh hưởng đến xu thế sáng tác thơ haiku đương thời, thay đổi cách nhìn

trực quan mới mẻ cho thể loại thơ này. Nhiều nhà thơ haiku đã chuyển dần sang

chủ nghĩa tả thực. Ngoài ra, thơ phương Tây còn ảnh hưởng đến văn học nói chung

và thơ ca Nhật bản nói riêng một cách mạnh mẽ. Một lối thơ tự do, không bị bó

buộc niêm luật chặt chẽ dần xuất hiệ trên thi đàn. Tiêu biểu có Toyama Masakazu

外山正一 với thể loại thơ mới, Masaoka Shiki với những đóng góp trong phong

trào cách tân thơ haiku và phục hồi thơ waka,...

Tiếp đó là chủ nghĩa tự nhiên từ văn học Pháp và Nga, chiếm vị trí quan

trọng trên văn đàn vào cuối thời Miji. Với định hướng xoáy sâu vào chủ thể là con

người và xã hội để khai thác chủ đề sáng tác, chủ nghĩa tự nhiên bắt đầu có sự đối

chọi lại với chủ nghĩa tả thực. Do đó, đề tài giai đoạn này có sự thay đổi theo xu

hướng quay về với cổ điển nhưng đào sâu tâm trạng con người. Haiku giai đoạn

này cũng được các nhà thơ sau Shiki chia làm nhiều trường phái với các xu hướng

khác nhau. Nhìn chung, chỉ sau gần 45 cai trị của Thiên hoàng Minh Trị, nước

26

Nhật có sự thay đổi thần kì, thoát xác để phát triển trở thành một cường quốc châu

Á. Bên cạnh đó, văn hóa và nghệ thuật cũng có những chuyển biến không hề nhỏ.

Người Nhật bắt đầu nâng cao năng lực và tư duy, nhiều tác phẩm mới có giá trị ra

đời phục vụ cho đời sống của người dân.

1.2.2. Chiến tranh và sự phát triển của các thể loại văn học trong thời

kì mới

Yếu tố chiến tranh tác động đến sự vận động của thơ haiku khá lớn. Trong

thời gian khói lửa này, haiku được xem là nghệ thuật hạng nhì, khó có thể phát

triển, vấp phải nhiều hệ lụy. Haiku trong chiến tranh được dùng với nhiều mục

đích khác nhau nhưng chung quy lại là phục vụ chính trị. Thể thơ truyền thống

này dường như bị biến chất nặng nề trước quan điển phục vụ chế độ quân chủ.

Đặc biệt giai đoạn này, nhiều trào lưu haiku bị bất động tư tưởng với nhau, các

nhà thơ phân tách thành nhiều phái, nhóm, hoạt động riêng lẽ. Thơ haiku lúc này

cần người vực dậy, đưa nó ra khỏi khói lửa chiến tranh, đây là điều cấp thiết nhất.

Chiến tranh không những tàn phá đất nước, con người mà còn cả nền văn hóa,

nghệ thuật lâu đời của Nhật Bản. Nếu văn hóa phương Tây phát triển mạnh vào

thời Meiji, thì đến thế chiến, nền văn hóa này bắt đầu hủy hoại dần nền văn hóa

truyền thống bởi những tiêu cực trong quá trình tiếp nhận. Sau chiến tranh, nước

Nhật như đổ vụn, cần khôi phục lại gần như hoàn toàn. Trong đó thơ ca nói chung

và thơ haiku nói riêng cần phát triển để giữ vững truyền thống văn hóa của Nhật

Bản. Nền văn hóa đại chúng phát triển song song với trào lưu dân chủ thời đầu

thời Showa 昭和 là bước đà để văn hóa giai đoạn này thay đổi. Chiến tranh dường

như là thay đổi hẳn ý thức của nhân dân, môi trường sống thoải mái và không

vướn bận vào chính trị nhiều như thời Meiji. Có thể nói, thời kì này dân trí được

nâng cao cho chính sách cưỡng bách giáo dục. Vì thế văn học cũng phát triển một

cách vượt bậc sau chiến tranh, đặt ra bước tiến lớn cho thơ haiku phát triển.

27

Trong thời đại mới, các thể loại văn học mà đa phần ảnh hưởng từ phương

Tây như văn xuôi và tiểu thuyết, thơ mới phát triển mạnh. Đòi hỏi các thể loại văn

học truyền thống phải phát triển theo để đuổi kịp xu hướng. Phải thay đổi để tồn

tại hoặc sẽ bị tiêu diệt nếu văn học truyền thống vẫn giữ định hướng cũ. Như đã

trình bày ở phần ảnh hưởng văn hóa phương Tây thời Meiji, nhiều chủ nghĩa mới

được du nhập và văn học hiện đại phát triển nhanh chóng. Đến thời tiền và hậu

chiến, văn học lại phát triển không ngừng với xu hướng báo chí đại chúng. “Văn

học vô sản (puroretaria bungaku) bắt đầu vào khoảng đầu thập niên 1920, song

song với sự bành trướng của phong trào lao động và phong trào xã hội sau Thế

chiến thứ nhất” [33; 236]. Kéo theo đó là các thể loại văn học được nâng cấp, ra

đời ngày càng nhiều. Nhiều phong trào văn chương nhất là phong trào tiểu thuyết

và thơ mới đã làm lu mờ và có phần đã kích văn học truyền thống. Vì thế, văn học

truyền thống trong đó có thơ haiku cũng cần có những tiếp thu và cải cách. Tác

động từ việc thay đổi các thể loại văn học là yếu tố tiên quyết trong việc cạnh tranh

mảnh đất văn chương trên văn đàn giai đoạn này.

Tóm lại, nhờ những yếu tố tác động trên mà thơ haiku có “động cơ” để tiến

lên trong các phong trào cách tân. Thơ haiku ngày càng mới mẻ, phù hợp với đời

sống hiện đại và bắt kịp nhu cầu thị hiếu của nhân dân. Như vậy, nếu không có

những yếu tố ảnh hưởng này, haiku có lẽ chỉ dừng lại ở những vần thơ cổ điển mà

không mang màu sắc hiện đại như bây giờ.

1.2.3. Các xu hướng cách tân thơ haiku Cách tân thơ haiku là một quá trình kéo dài dường như bằng cả thời gian

haiku hình thành. Bởi từ lúc mới sinh ra, thơ haiku đã có xu hướng thay đổi mạnh

mẽ để đạt được đỉnh nghệ thuật cao nhất. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi

nhận thấy nên chia các xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku theo quá trình lịch

28

sử hình thành và phát triển của chính nó. Bởi nếu không chia như vậy sẽ gây ra

tình trạng dễ dàng trùng lập các yếu tố nghệ thuật trong quá trình nghiên cứu. Thơ

haiku phát triển và cách tân theo định hướng dựa vào nền tảng cái cũ đề ra phương

hướng mới chứ không triệt tiêu hoàn toàn nền tảng ấy. Nên nếu không tuân theo

tiến trình lịch sử văn học thì khó có thể phân chia xu hướng. Chính sự hòa kết của

nghệ thuật thơ haiku trong các giai đoạn sẽ nảy sinh sự trùng lập nếu không phân

tích theo tiến trình phát triển.

Trong luận văn này, chúng tôi đề xuất thành hai xu hướng chính đó là cách

tân nghệ thuật thơ haiku Basho và cách tân nghệ thuật thơ haiku Shiki. Mục đích

chia như vậy để dễ dàng thấy được hai móc thời điểm thơ haiku đạt trình độ nghệ

thuật cao nhất của cổ điển và hiện đại. Bên cạnh đó là các xu hướng phụ, bổ sung

và phát triển thêm hai xu hướng chính. Ở xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku

thời Basho có xu hướng “tiền Basho” và “hậu Basho”. Tương tự cũng có xu hướng

“tiền Shiki” và “hậu Shiki”. Trong giới hạn nghiên cứu đề tài này chúng tôi chỉ

giới hạn những xu hướng cơ bản như vậy, ngoài ra còn có xu hướng cách tân

“haiku thế kỉ XXI”. Ở đây, chúng tôi chỉ trình bày những nét cơ bản về các xu

hướng để làm tiền đề phân tích kĩ ở những phần sau.

Về xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Basho với những đặc điểm

cơ bản về sự thay đổi quan điểm nghệ thuật, lần đầu thơ haiku đạt trình độ nghệ

thuật đỉnh cao về nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật triết lý. Thơ haiku là phản chiếu

đời sống và tình cảm con người thông qua miêu tả vạn vật.

Còn xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Shiki có hướng phát triển

và tiếp thu văn hóa hiện đại phương Tây. Thơ haiku giản đơn mà mang xu hướng

hiện đại. Không câu nệ nghệ thuật truyền thống mà đề cao tính chất hiện thực đời

thường. Phong cách nghệ thuật tự do phóng khoáng và không có qui định chặt chẽ.

29

Đó là các xu hướng chính để haiku có thể phát triển ngày một sinh động và

hấp dẫn người đọc nhiều hơn. Là tiền đề quan trọng giúp toàn cầu hóa haiku, đưa

haiku đi khắp thế giới và trở thành thể thơ không chỉ riêng Nhật Bản mà là thể thơ

của cả nhân loại.

1.3. Các phạm trù mĩ học trong thơ haiku

Đối với người Nhật Bản, mĩ học như một yếu tố văn hóa không thể tách

rời cuộc sống của họ. Cái đẹp được đề cao ở mọi lĩnh vực. Và mĩ học là nguồn

sống vô tận của văn chương Nhật Bản trong đó có thơ haiku. Bởi “cái đẹp không

được thế giới thừa nhận, nên nó đã nhào trộn thành sản phẩm có giá trị trực tiếp

từ tất cả mọi nguồn gốc và xuát hiện trước mắt bạn” [12; 207].

1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức thẩm mĩ Nhật

Bản

Nhật Bản là đất nước của cái đẹp nghệ thuật, của thiên nhiên tuyệt mĩ. Thế

giới quan mĩ học của Nhật Bản dẫn con người hướng tới cái đẹp của thiên nhiên,

văn hóa và cuộc sống con người. Mĩ học Nhật Bản không chú ý đến những sự vật,

hình tượng lớn lao cao cả mà luôn hướng tới những gì nhỏ bé, nhẹ nhàng và thanh

khiết. Cái đẹp đối với người Nhật Bản là mối song hành giữa chủ thể và khách thể,

không mang tính chủ quan, cũng không quá khách quan mà được sinh ra từ mối

quan hệ tương quan đó. Nói đến cảm thức thẩm mĩ, ta phải xem xét các yếu tố tác

động đến nó, có như vậy mới dễ dàng nắm bắt và thấu hiểu. Có nhiều nguyên nhân

dẫn đến sự hình thành thế giới quan duy mĩ của người Nhật Bản, nhưng quan trọng

và đáng chú ý nhất là yếu tố bản địa và yếu tố ngoại lai.

Đầu tiên là yếu tố tự nhiên của Nhật Bản. Đặc trưng thiên nhiên đã có tác

động khá lớn đến quá trình hình thành ý thức thẩm mĩ của người Nhật. Địa hình

đa phần là đồi núi và nhiều quần đảo lớn nhỏ, bốn mặt đều giáp biển, vì thế tạo

30

cho Nhật Bản có một thiên nhiên đặc biệt có phần khác biệt với các nước khác

trên thế giới. Tuy nhiên, do có địa hình kiến tạo không đồng đều và được hình

thành muộn so với đại lục địa Á - Âu, một phần nằm trên vành đai núi lửa Thái

Bình Dương nên Nhật Bản chịu nhiều tác động lớn, thiên tai, động đất, sóng thần

từ thiên nhiên. Tuy vậy, con người nơi đây vẫn biết vươn lên và thích ứng với cuộc

sống, môi trường, biết khắc phục hậu quả thiên tai để tạo nên một đất nước tươi

đẹp. Về thiên nhiên, do có sự phân tầng địa hình khác nhau nên thiên nhiên Nhật

Bản đa dạng và phong phú, bốn mùa đều có những đặc trưng riêng biệt. Không

những thiên nhiên, Nhật Bản còn đa dạng về khí hậu, là đảo quốc hình cánh cung

trải dài trên Thái Bình Dương nên khí hậu có sự khác biệt rõ rệt từng vùng. Miền

Bắc có mùa hè ngắn, mùa đông dài còn miền Nam có khí hậu bán nhiệt đới, nắng

nhiều và chan hòa.

Dễ dàng nhận thấy, tư tưởng của con người xứ Phù Tang từ lâu đã hòa cùng

vào thiên nhiên và thơ ca. Những tâm hồn mỏng manh, lãng mạn nhưng cũng nhiệt

huyết và cháy bỏng đam mê qua tập thơ đầu tiên Manyoshu có nghĩa là “mười

nghìn chiếc lá”. Ngay từ tên tập thơ đã thấy xuất hiện hình ảnh thiên nhiên. Không

chỉ trong thơ ca mà trong các loại hình nghệ thuật khác cũng đề cập nhiều đến mối

liên hệ với thiên nhiên như trà đạo, vườn khô, cắm hoa,... Nhiều lễ hội truyền

thống mang con người đến với thiên nhiên, hòa mình và cảm nhận về nó như lễ

hội hoa anh đào, lễ hội đom đóm,... Bên cạnh đó, văn hóa Nhật Bản còn thấm đẫm

màu sắc thiên nhiên trong lối kiến trúc nhà ở và “ngay cả khi không còn một mẩu

đất thừa nào nữa, người Nhật vẫn cố tìm mọi cách để tạo dựng những kiến trúc

nhỏ, trông tựa như một khoảnh vườn cỏn con, và tại đó thế nào cũng bài trí một

vài tảng đá thô theo mô thức các thạch viên (vườn đá) nổi tiếng” [41; 54].

31

Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên Shinto 神道 là đức tin vào tạo hóa thiên nhiên

của người Nhật Bản. Con người tin vào sự hiện diện của kami 神 (thần linh) nhưng

những quan niệm này khác hẳn với phương Tây không cụ thể hóa vị thần nào mà

kami ở đây được chỉ chung cho sự thiêng liêng của vạn vật trong tự nhiên. Với tín

ngưỡng Shinto vì có những vị thần như thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng,...Nhưng

đa phần là các vị thần không tên được thờ phụng ở những tảng đá, bờ sông, gốc

cây, vì họ quan niệm nơi đó có thần linh trú ngụ. Như vậy, thiên nhiên được người

Nhật Bản rất quan tâm và chú trọng về mặt tâm linh.

Yếu tố lịch sử - xã hội cũng góp phần không nhỏ vào quá trình tạo nên ý

thức thẩm mĩ này. Nhật Bản từ khởi thủy cho đến ngày nay trải qua nhiều triều đại

và quá trình biến đổi về mặt chính trị xã hội. Từ lúc hình thành, vay mượn chữ

Hán và ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc hầu như ý thức con người chỉ được

giới hạn ở tầng lớp quý tộc. Nhưng qua các thời đại Heian, Kamakura, Muromachi,

Edo ý thức con người dần được phát triển rộng ra khỏi sự hạn chế của tầng lớp

quý tộc, người bình dân, dần dần tiếp thu được các giá trị tư tưởng từ cuộc sống

và nâng cao theo từng giai đoạn lịch sử. Thời Heian, cái đẹp dịu dàng “nữ tính”

được đề cao, văn chương nữ lưu ra đời và tiếng nói người phụ nữ dần có giá trị

hơn. Đến cuối thời Heian, chế độ Thiên Hoàng bắt đầu lung lay do tầng lớp võ sĩ

lớn mạnh. Thời kì Mạc phủ bắt đầu, kéo theo đó là nỗi buồn trước thực trạng thế

giới xung quanh thay đổi, niềm bi cảm trước cảnh “biến thiên” đó là khởi đầu cho

cảm thức thẩm mĩ mono no aware ものの哀れ. Cuối thế kỉ XII với sự lên ngôi

của chế độ Mạc phủ, vẻ đẹp thướt tha, mềm mại được thay đổi bằng sự đơn sơ,

khỏe khoắn để phù hợp với phong cách võ sĩ. Từ đó, ý thưc thẩm mĩ bắt đầu có xu

hướng chuyển dịch, không còn trau chuốt, mà đơn sơ, các cảm thức thẩm mĩ như

sabi 寂 , wabi 詫 び . Nhưng các cảm thức chính thức hoàn thiện vào thời

32

Muromachi với sự kết hợp tinh tế giữa phong cách quý tộc và bình dân. Quan niệm

về sabi, wabi, yugen 幽玄, okashimi おかしみ, ... được định nghĩa rõ ràng hơn.

Như vậy, yếu tố lịch sử - xã hội, cũng là nhân tố xúc tác chính để hình thành nền

tảng các cảm thức thẩm mĩ quan trọng. Yếu tố ngoại lai mà tiêu biểu là tư tưởng

Phật giáo, tác động đến luồng tư tưởng con người vì nó lý giải nhiều căn nguyên,

dẫn dắt con người đốn ngộ. Thế giới quan Phật giáo nói đến sự không tính trong

cuộc sống con người, với các khái niệm như vô thường, vô ngã. Do ảnh hưởng bởi

tư tưởng Phật giáo, trong đó có Thiền tông, ý thức về thẩm mĩ của con người bị

chi phối hầu hết các nội dung về mĩ học, về nhận thức cái đẹp. Mĩ học Phật giáo

hình thành với những triết lý sâu sắc qua các Thiền ngôn. Ở đây chúng tôi chỉ nói

đến các tác động chính của Phật giáo vào tư tưởng, ý thức và quan niệm về cuộc

sống, vạn vật của con người Nhật Bản, mà chú trọng đi sâu vào nhánh Thiền tông

Nhật Bản.

Như vậy, từ các yếu tố tác động, ảnh hưởng và tạo tiền đề, ý thức mĩ học

của người Nhật rất đa dạng và phong phú về mọi mặt cuộc sống. Những rung cảm

ấy, được đưa vào nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng tạo một màu sắc khá

riêng biệt cho từng thể loại. Thơ haiku cũng đã nhanh chóng chứa đựng các cảm

thức ấy để rồi nó mang thêm những thế giới, những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả

và người đọc.

1.3.2. Mĩ học Thiền – nền tảng của các cảm thức thẩm mĩ trong thơ

haiku

“Dĩ tâm truyền tâm; bất lập văn tự; giáo ngoại biệt truyền; trực chỉ nhân

tâm; kiến tính thành Phật” [34; 250]. Đó là chủ trương giáo pháp của Thiền tông.

Khác hẳn với các tông phái khác, Thiền tông muốn con người là chủ thể tự tìm

đến sự tĩnh tại để đạt Niết Bàn. Không bị các nhân tố bên ngoài tác động đến tâm

33

thế, tự khai mở và tự nhìn thấy chân như, đó là Thiền (Zen 禅). Từ đó, Nhật Bản

đã tiếp thu những giáo lý Thiền tông hình thành nên mĩ học Thiền hay mĩ học Phật

giáo với các ý vị và cảm thức tĩnh lặng cho tâm hồn. “Những nghệ thuật gia ảnh

hưởng của Thiền học Nhật Bản, bất luận lúc nào, nơi nào cũng đều sử dụng câu

từ và bút pháp một cách tối thiểu để biểu đạt tình cảm của mình. Bởi nếu biểu hiện

hết thảy tình cảm ra thì những điều ám thị sẽ hóa ra trần truồng quá, mà sức ám

thị có thể nói là sự uyên nguyên thăm thẳm của nền nghệ thuật Nhật Bản” [12;

221]. Những vần thơ waka đầu tiên của Nhật Bản cũng đã thấm đẫm chất mĩ học

Thiền này, tiêu biểu là thơ của Saigyo Hoshi 西行 法師. Điều đó cũng thể hiện rõ

trong lời dạy đệ tử Myoe 明恵 của ông “Tôi nhuộm đầy các cảm xúc, cảm hứng

khác nhau lên tâm, nhưng tâm ấy không lưu giữ lại một dấu vết nào cả. Thơ tôi,

do đó, chính là hình thế chân thật của Như Lai” [21]. Mĩ học Thiền đã phần nào

đồng nhất giữa ngôn ngữ thơ ca và tâm hồn con người, qua lăng kính “chân ngôn”

để đưa con người đến với chân lý, đến với vô thường, vô ngã. Trong triết lý Phật

giáo, yu 有 (hữu) và mu 無 (vô) là hai vế đối lập nhau. Hữu là cái đang tồn tại

nhưng “vô” lại là vế phủ định sự tồn tại đó của vạn vật. Nhìn ở một góc độ mĩ học

“vô” đứng ngoài sự đối lập đó, bởi sự vật cho rằng luôn có tính bất biến thì “vô”

là mệnh đề phủ nhận tính bất biến ấy. Mượn cái vô để tả cái hữu, mượn hữu để

nói đến vô là kĩ thuật xây dựng ngôn từ khá phức tạp mà người Nhật Bản đã thừa

hưởng từng triết lý trên. Mang màu sắc thấm nhuần tư tưởng phương Đông, văn

hóa Nhật Bản lại mang những đặc sắc cơ bản riêng mà các quốc gia khác không

có được, đó là một tâm hồn nhạy cảm.

“Thông thường thì trực giác tôn giáo cũng dùng ngôn ngữ đơn giản, trong

sáng để biểu đạt, ấy là vì như thế mới có thể miêu tả sự thể nghiệm về tinh thần

của nó một cách bình dị được. Nhưng, phần lớn thì Thiền dùng hình thức thơ để

34

biểu hiện về trực giác, về điểm này có thể nói là nó rất gần gũi với Hài cú” [12;

204].

Thật vậy, chính sự vật cũng mang trong mình một sự biến đổi khác lạ. Nó

biến đổi theo quy luật tự nhiên và cũng biến đổi theo cái nhìn của con người. Như

vậy, trăng, hoa, gió, sương,.. những sự vật ấy đang căn đầy một sự sống và mang

trong mình một giá trị thẩm mĩ thâm sâu. Những bài thơ miêu tả thiên nhiên, ngợi

ca vẻ đẹp bốn mùa ấy thấm đẫm yếu tính Thiền. Ở haiku cũng vậy, nó hàm chứa

triết lý nhân sinh sâu sắc, chứa đựng tinh thần từ bi bác ái của Phật giáo. Theo

quan niệm của Thiền tông thì vạn vật tồn tạo trong mối tương giao và hòa hợp lẫn

nhau. “Với triết lý Thiền, không có sự phân biệt về bản chất giữa những sự vật,

hiện tượng vốn được xem là khác biệt do định kiến về sự sang - hèn, cao - thấp,

thanh khiết- ô trọc” [1; 23]. Nhưng với con mắt bình thường ta chỉ thấy được

những bề nổi thô sơ và bất động của vạn vật mà không thấy được những điều ẩn

sâu bên trong chúng. Ta có thể nhìn thấy trời, mây, sương gió, hoa đào rơi,...nhưng

thực chất những điều ta thấy đó là kết quả của sự vận động ngầm bên trong vạn

vật để tạo thành thế giới.

Thiền thường dùng công án 公案 (ko-an ) như phương tiện hữu đắc để

truyền đạt, giáo huấn tư tưởng cho môn đồ bởi “Công án (tiếng Trung Hoa là

kung-an) là câu đố nghịch lý mà “câu trả lời” của nó sẽ đưa đến sự giác ngộ, hay

thể nghiệm về ngộ” [13; 167]. Haiku cũng vậy, thường không đề cập rõ ràng chủ

thể trữ tình vì thế khoảng cách giữa tác giả và người đọc dường như không có. Nó

như một dòng sông, như một cánh đồng, như một con đường mà ở đó mọi người

có thể tự do trải bước, tự do làm điều mình muốn. Từ haiku, ta bắt gặp sự giao

thoa giữa tư tưởng Thiền và ý thức con người Phù Tang, nó dần chuyển thành một

biểu hiện nghệ thuật có xu hướng cô đọng, ẩn giấu điều muốn nói, để người đọc

35

tự khai phá. Haiku là một lựa chọn thích hợp nhất cho mĩ học Thiền vận dụng và

dùng làm phương tiện truyền tải như một công án Thiền.

Ngộ 悟 (satori) là trạng thái mà con người đạt được khi tiếp xúc với một

hay nhiều luồng tư tưởng, hiểu và thọ đắc được chính nó. Chỉ khi con người ngộ

mới giải thoát được tâm hồn khỏi thể xác, thoát khỏi sự “vô minh” của cái nhìn

thiên kiến, hạn hẹp trong quan niệm về đời sống. Bởi “nguyên tắc của ngộ tính,

chính là vì đạt đến chân lý của sự vật mà không dựa vào khái niệm” [12; 180].

Thiền dạy cho con người không đơn thuần là ngồi tĩnh tại mà tâm hồn phải yên

lặng trong không gian nhiều cám dỗ, được vậy mới gọi là ngộ. Nếu như thanh đạm

chọn thứ đơn sơ là nền tảng của wabi, tịch liêu yên ả là sabi, thương cảm, rung

động trước vạn vật là aware thì ngộ - có thể xem là nền tảng của karumi – thư thái,

khinh thanh, thoát tục. Như Basho trong hành trình du hành của đời mình, đến

cuối cùng mới nhận ra được sự khinh thanh ấy qua bài thơ cuối cùng nghe như

tiếng gió đang phiêu du giữa cuộc đời:

tabi ni yande Đau yếu giữa hành trình 旅に病んで

yume wa kareno wo chỉ còn mộng tôi phiêu lãng 夢わ枯野を

kakemeguru trên những cánh đồng hoang. 駆け巡る

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Và ông qua đời đúng như lời tiên đoán trước ngày khởi hành: sẽ chết trên

con đường ấy. Nhưng có lẽ Basho không biến mất mà đang tiếp tục chuyến hành

trình tiếp tục con đường đến với thơ ca của mình, đấy là karumi, đấy là ngộ.

Khi tiếp thu những triết lý Phật giáo, người Nhật không đưa những triết lý

đó vào đời sống vô hình, tâm linh mà ứng dụng ngay vào cuộc sống thường nhật,

tạo cho nó một sự gần gũi với con người, với vạn vật. Và trước tấm kính của sự

36

đốn ngộ, con người nhận thấy tất cả đều nằm trong một chữ “vô”: vô ngã, vô ngôn,

vô ý và cả vô tâm, vô tình. Điều này không phải sự phủ định chính cuộc sống, phủ

định thế giới vạn vật mà thực chất là đang hòa mình vào tự nhiên. Không cần định

hướng muôn ngã, không cần nói, không cần tỏ lòng, và không cần suy nghĩ nhưng

ở họ đang mở ra một thế giới mới thế giới của cái đẹp. Nói như vậy để thấy, mĩ

học Thiền là nền tảng vững chắc hình thành và định hướng nên những cảm thức

thẩm mĩ khác. “Có sáu sắc thái lớn mà Zen đã ảnh hưởng đến tinh thần Nhật Bản:

sự hướng nội, thẳng thắn, giản dị, mộc mạc, không phân biệt và u tịch cô liêu. Các

sắc thái này đã hun đúc, tạo nên tinh thần thẩm mĩ mà nó tự biểu lộ trong nghệ

thuật” [31; 185]

1.3.3. Một số cảm thức thẩm mĩ cơ bản trong thơ haiku Các cảm thức thẩm mỹ là linh hồn cho những bài haiku. Nó mang haiku từ

giá trị hài hước bình dân thành những ý vị đẹp, triết lý sâu xa. Cảm thức thẩm mỹ

được hình thành trong mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển haiku. Tuy

vậy, chúng có điểm chung là mang lại cho haiku làn gió suy ngẫm, những không

gian ẩn ý đầy u huyền mà người đọc là nhân tố để nó tác động đến. Các cảm thức

thẩm mỹ có rất nhiều, nhưng chung qui lại có thể chia làm hai nhóm chính: ý thức

về cái đẹp huyền bí, tâm linh và ý thức về cái đẹp tinh tế cô đọng. Trong nhóm ý

thức về cái đẹp huyền bí, tâm linh ta có thể bắt gặp các cảm thức quen thuộc như

aware, sabi, wabi, yugen,... còn nhóm ý thức về vẻ đẹp tinh tế cô đọng là karumi,

yojo, okashimi, shibusa,... Mỗi cảm thức thẩm mỹ đều có vẻ đẹp riêng, khi khoát

lên haiku như một lớp áo thay đổi cách nhìn triết luận về haiku, làm cho haiku trở

thành dòng thơ mang tính chất Thiền của Nhật Bản. Ở luận văn này, chúng tôi xin

khái quát lại các cảm thức thẩm mĩ tiêu biểu có trong thơ haiku, từ đó làm nền

tảng để đi vào phân tích sự cách tân về nghệ thuật thơ haiku. Trong đó có cách tân

về các cảm thức thẩm mĩ này qua từng giai đoạn phát triển của haiku.

37

1.3.3.1. Ý thức về vẻ đẹp huyền bí, tâm linh (aware 哀れ, wabi 詫

び, sabi 寂, yugen 幽玄) Nói về niềm bi cảm (aware), đó là một trong bốn khái niệm cơ bản về mĩ

học của người Nhật Bản. Aware là một trực giác thẩm mĩ chịu ảnh hưởng sâu sắc

của Phật giáo, gợi tả một vẻ đẹp chóng tàn, mà nỗi buồn man mác trước sự tàn

phai đó là một phạp trù mĩ học. Với người Nhật, họ quan niệm việc nhìn một cánh

hoa anh đào bị cơn gió phẩy lìa cành rơi lả tả thì đẹp và đáng xem hơn một bông

hoa còn nguyên trên cành. Họ thích nhìn vầng trăng bị che khuất một phần bởi

đám mây hơn là ngắm một vầng trăng tròn vằng vặc. Họ đáng giá cao cái giá trị

vẻ đẹp đang quay trở về với nguyên thủy, cái buồn lúc buổi xế tà cũng là lúc bắt

đầu cho buổi bình minh. Một vẻ đẹp mong manh, thấm đượm những cảm thức vô

thường của Phật giáo, và đó chính là aware.

Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu thì aware là:

“Chữ aware, có thể ghi sang Hán tự là “ai” (bi ai), mang nhiều ý nghĩa

khó xác định. Các học giả Nhật đã theo dõi cách sử dụng nó từ thời cổ đại với tập

thơ Manyoshu (Vạn diệp tập) cho đến thời hiện đại. Không cần thiết phải nhắc lại

ý kiến của họ ở đây. Chỉ cần biết rằng trong thời Heian, chữ aware được dùng để

gợi tả vẻ đẹp tao nhã, nỗi buồn dịu dàng, pha lẫn cảm thức vô thường của Phật

giáo.” [7; 121].

Nói tóm lại aware là một niềm bi cảm trước mọi vẻ đẹp u buồn, não lòng

của sự vật và con người.

Nhưng theo Motoori Norigana 本居 宣長 (học giả phái Kokugaku 國學) thì

aware không phải là “nỗi buồn sự vật” mà là sự nhạy cảm, tính dễ xúc cảm của

con người trước sự vật, là sự rung động từ trái tim bởi tất cả các cảm xúc từ niềm

vui, nỗi buồn và cả sự yêu thương. Motoori Norigana cho rằng aware là tất cả các

38

cảm xúc của con người thay vì là nỗi buồn, và tiếng thở dài trước những hiện

tượng. Và aware không phải là những cảm xúc thông thường, thoáng qua chốc lát,

mà là những cảm xúc mang tính chất sâu lắng, mãnh liệt, trào lên từ tận đáy lòng

của con người.

Trong tập Oku no hosomichi 奥の細道, Basho đã để lại những vần thơ mang

nỗi buồn miên man sâu sắc:

yuku haru ya Mùa xuân ra đi 行く春や

tori naki uo no tiếng chim thổn thức 鳥蹄き魚の

me wa namida mắt cá lệ đầy. 目は涙

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Nỗi buồn tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ, hòa điệu cùng với nỗi buồn của

tiếng chim, nỗi buồn của mắt cá, đó là nỗi buồn vô thường trước cảnh khổ đau của

nhân thế, cảnh chia ly của lòng người. Và những vần thơ ấy còn khóc than cho số

phận nhỏ bé của vạn vật. Nếu con người là một tạo vật hoàn hảo của thế gian, là

kẻ thống trị muôn loài, mà chính họ cũng bị vùi dập, cũng bị khổ ải thì nói chi đến

những sự vật nhỏ bé ngoài kia đang bất hạnh nhường nào.

katatsumuri Chậm rì, chậm rì かたつむり

soro soro nobore kìa con ốc nhỏ そろそろ登れ

fuji no yama trèo núi Fuji. 富士の山

(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)

Đó là những bi cảm mà thi nhân đang run động từ tận đáy lòng trước cảnh

vật đáng thương. Lê Thị Thanh Tâm đã khẳng định “aware là sáng tạo vĩ đại của

39

dân tộc Nhật Bản, mang đậm bản sắc tinh thần và thẫm mĩ của người Nhật” [34;

64].

Wabi được hiểu là “vẻ đẹp hoang vắng, cô liêu, không cầu kì, giả tạo. Theo

quan niệm của người Nhật Bản, wabi là vẻ đẹp thường ngày, là sự đơn giản, biết

tự kiềm chế” [48; 341]. Wabi là một yếu tố quan trọng trong quan niệm mĩ học về

cái đẹp của Nhật Bản. Theo như ý kiến của nhà nghiên cứu Miyamoto cho đến

ngày nay, cho dù wabi là một khái niệm mĩ học cơ bản, nhưng số người có thể lý

giải cặn kẽ về nó là khá ít. Wabi nguyên thủy được danh từ hóa bởi động từ wabu

侘ぶ có nghĩa là suy giảm, nhạt phai và tính từ wabishii 侘しい có nghĩa chỉ sự

đơn sơ, nghèo nàn.

Cuối thế kỉ XII, Phật giáo du nhập vào Nhật Bản song song đó là Thiền.

Thật ra wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông, nói đến cái cảm nghiệm

về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và

vạn vật. Theo quan niệm “vạn vật hữu linh” thì mọi thứ bao quanh con người dù

to lớn hay bé nhỏ, vô tri hay có ý thức đều là biểu hiện của đời sống. Wabi chính

là cuộc hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị, tâm hồn và thiên nhiên, tính chất phác,

mộc mạc và sự sâu thẳm, tuyệt diệu.

Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu: “wabi là cái đơn sơ bình thường mà ta

bắt gặp ở những sự vật khiêm tốn nhất và dường như nghèo nàn nhất, sự nghèo

nàn của một con ốc nhỏ, một chiếc lá rơi” [7; 273]. Vì thế wabi được thi nhân đưa

vào thơ haiku như một ẩn ý sâu xa.

cha no hana ni Trên nương trà 茶の花に

kakurembo suru một bầy se sẻ 隠んぼする

suzume kana trốn tìm trong hoa.

40

(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) 雀哉

(小林一茶)

Wabi làm cho haiku thêm sâu lắng, thêm giản dị, nhưng cũng làm cho haiku

thêm chiều sâu tâm thức, thêm những ẩn chứa tâm hồn. Ngoài cái giản dị và đơn

sơ ấy, wabi còn là điểm nhìn chuyên biệt với các sự vật, làm cho chúng trở thành

điểm nhấn nhẹ nhàng tinh tế và sâu sắc hơn. Đó là chú chim nhỏ vui đùa trên

nương trà với sự nhẹ nhàng tươi vui. Và wabi cũng mang nghĩa như sự lựa chọn,

ý thức hình thành trên trực quan về sự vật.

yoku mireba Nhìn kĩ mới nhận ra よく見れば

nazuna hana saku dưới chân hàng dậu 薺花咲く

kakine kana khóm khúc tần nở hoa. 垣根かな

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Đóa hoa dại dù nhỏ bé, nép mình dưới chân hàng dậu, nhưng nó vẫn mang

trong mình một sự sống mãnh liệt để rồi nở hoa. Vẻ đẹp của hoa là vẻ đẹp tĩnh tại,

đơn sơ, không cần rực rỡ, bon chen nhưng cũng đủ làm rung động tâm hồn thi sĩ,

cũng đủ làm nhân thế phải cúi nhìn. Đó là wabi, cái đẹp của sự nhẹ nhàng đơn

giản nhất có thể.

Sabi (tịch liêu) xuất phát tính từ sabishii 寂しい có nghĩa là buồn, cô đơn

quạnh quẽ mong muốn có người tâm sự, thể hiện mối liên hệ giữa nghệ thuật và

tự nhiên. Paul Varley cho rằng, cảm thức thẩm mĩ sabi bao gồm 3 yếu tố: “không

phô trương; chưa hoàn thiện, bất cân xứng; khắc khổ, hoang vắng” [43; 160]. Về

phương diện chưa hoàn thiện và bất cân xứng của sabi ta có thể thấy rõ qua từng

thời kì như trong Manyoshu sabi dùng để tả tâm trạng phiền muộn trước không

gian thanh vắng, trong Tsurezuregusa 徒然草 sabi được dùng với ý nghĩa cảm

41

thức có chiều sâu cổ kính. Dần dần, sabi trở thành ý thức về cái đẹp cổ xưa, lặng

lẽ và mang dấu ấn thời gian. Trong haiku ta có thể thấy thể hiện sự tịch liêu của

sự vật và tĩnh lặng của lòng người.

shizukasa ya Vắng lặng u trầm 静かさや

seki ni shimi iru thấm sâu vào đá 岩にしみ入る

semi no koe tiếng ve ngâm. 蝉の声

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Tiếng ve chỉ xuất hiện vào mùa hè, nhưng tiếng ve ngâm vang là lúc chúng

sắp chết, đọc bài thơ ta nghĩ ngay đến thành ngữ semishigure (ve kêu như mưa).

Bây giờ, với Basho không đơn thuần là tiếng ve ngâm nữa mà là tiếng ngâm của

con người cô đơn, trong không gian vắng lặng, u trầm. Sự cô đơn tịch liêu ấy thấm

sâu vào từng tảng đá vô tri, nỗi buồn đang len sâu vào sự cô độc tuyệt đối. Tác giả

mượn tiếng ve để làm không gian u tịch trở nên vắng lặng hơn, một không gian

vắng đến nỗi nghe rõ từng tiếng ve thấm vào trong thớ đá. Tiếng ve ở đây cũng

như nỗi ai oán, thức tĩnh con người trước sự cô đơn, chiều sâu vạn dặm của nỗi

tịch liêu. Các hình ảnh và không gian không đối lập mà song hành cùng nhau để

làm nhấn mạnh thêm ý vị của bài thơ, làm cho bài thơ đẫm chất sabi.

Hay cũng dễ dàng nhận thấy sự tĩnh mịch, trong buổi chiều tàn thu, không

gian dường như yên lặng tuyệt đối để mở ra chiều sâu nội cảm cho người đọc trước

khung cảnh không một âm thanh.

kare eda ni Trên cành khô 枯れ枝に

karasu no tomari keri cánh quạ đậu 烏のとまりけり

aki no kure chiều thu. 秋の暮れ

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch)

42

(松尾芭蕉)

Khác với bài tiếng ve, ở đây không có tiếng quạ mà chỉ thấy con quạ đậu

trên cành khô, một cành cây không sức sống, con quạ không kêu, cả không gian

như chết lặng, không còn sự sống trong buổi chiều tàn thu. Basho đã khá tinh tế

khắc họa tức thời khung cảnh ảm đạm, u buồn. Phải chăng con quạ đang chờ điều

gì, và cành khô có chờ để đâm chồi sau mùa đông lạnh giá để sang xuân. Nội cảm

tăng dần trước không gian im lặng không một tiếng trả lời, sự lặng im của sự vật

như không muốn đáp trả lại càng làm khắc sâu hơn nỗi đau cô đơn này.

Vị đại sư thơ haiku Basho trên con đường du hành, thẩng thơ, mơ hồ với

tâm thế không định, nỗi cô đơn của người lữ khách.

furuhaya ya Cánh đồng xưa 古畑や

nazuna tsumiyuku hoa khúc tần nở rộ 薺摘行

otoko domo lầm lỗi hắn bước đi. 男ども

(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)

Cũng bắt gặp tâm trạng ấy ở Buson trong bài haiku mà thi sĩ mùa xuân viết

cho buổi chiều thu cô đơn.

mon wo dereba Chiều mùa thu 門を出れば

watashi mo yuku hito khi rời tổ ấm 私も行く人

aki no kure tôi thành khách lãng du. 秋の暮

(Yosa Buson) (Lam Anh dịch) (与謝蕪村)

Bước chân vào cuộc đời, như bước chân vào sự tĩnh mịch, yên lặng của tâm

hồn. Thi sĩ đang rảo bước lữ khách để thấy được cuộc đời, thấy được thiên nhiên.

Cảm nhận của thi nhân là cảm nhận về một thế giới khác, tồn tại song song với

43

đời sống hằng ngày. Nơi đó, họ tìm được chính mình, tìm được lí tưởng và hoài

bão, với độ sâu không thể với tới của những nỗi lòng riêng tư, với khoảng cách vô

tận giữa con người với con người trong tình cảm và sự trải nghiệm cuộc sống.

Yugen tạm dịch là u huyền. Trong các văn tự triết học cổ xưa của Trung

Quốc, yugen được ghép bởi hai Hán tự, yu 幽 nghĩa là u uẩn, gen 玄 nghĩa là bóng

tối, mù mịch. Yugen có lẽ là thuật ngữ mĩ học khó hiểu nhất của Nhật Bản bởi nó

đề cầm đến sự huyền bí, sâu thẳm mà có ít người mới hiểu được. Tác phẩm

Wakajisshu 和歌十種 (Mười kiểu waka), đã nhắc tới yugen như một cảm xúc sâu

thẳm vươn tới đỉnh cao của mĩ học. Nhưng yugen chỉ thực tế được được trở thành

sự biểu đạt trong thơ ca qua bàn tay phát triển của Fujiwara Shunzei 藤原俊成

(1114- 1204). Ban đầu yugen được thể hiện nhiều trong thơ waka nhưng loại hình

nghệ thuật mang đạm chất yugen là kịch No 能. Kịch No xoáy sâu vào tâm trạng

nhân vật và thế giới tâm linh hơn là chú trọng vào cách tạo hình, trang phục diễn

xuất. Như vậy kịch No ngoài tính trang trọng vốn có của nó, bây giờ nó còn thêm

tính mộc mạc, đơn sơ và đầy huyền bí.

Yugen có từ trong thơ waka, haiku có cội nguồn từ waka nên yugen vẫn giữ

một vai trò mĩ học quan trọng. Trong thơ haiku, thủ pháp đối lập hữu và vô thường

được sử dụng để tạo nên nét đặc sắc của cảm thức yugen. Như trong bài thơ sau ta

cảm nhận được một thế giớ u huyền hiện ra:

meigetsu ya Bóng trăng âm u 名月や

tatami no ue ni trên manh chiếu 畳の上に

matsu no kage vời vợi trăng thu. 松の陰

(Takarai Kikaku) (Lam Anh dịch) (宝井其角)

44

Hình ảnh được nhắc đến mang một màu sắc mờ ảo u huyền là bóng thông,

tác giả không đơn thuần miêu tả cây thông mà đang mượn bóng thông dưới ánh

trăng để là cho nó thêm huyền ảo, mang chiều sâu tâm tưởng. Như Shiki đã từng

viết về cây thông nhưng mang một màu sắc khác biệt:

matsu no ne ni Gốc thông bên đường 松 の 根 に

usumurasaki no ánh lên màu tím 薄 紫 の

sumire kana một ngọn oải hương. 菫 か な

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Bây giờ là gốc thông, chứ không còn là một bóng thông đêm trăng nữa.

Nhưng gốc thông ấy lại làm nền cho ngọn oải hương tô lên màu sắc, phải chăng

gốc thông giờ mang cả màu tím, đang là một ngọn oải hương chứ không còn là

chính nó. Shiki đã có một điểm nhìn cực kì tinh tế và độc đáo để thấy được cả cây

thông mộng tưởng bên cạnh cành oải hương bé nhỏ bên đường.

Từ thời Mạc phủ, ý tưởng đối lập giữ hư và thực đã được thịnh hành và dần

trở thành xu thế sáng tác, nên yugen nói riêng và các cảm thức thẩm mĩ mang vẻ

u huyền, tâm linh nói chung dần hoàn thiện đến độ tuyệt mĩ. Thơ haiku tiếp thu

những tinh hoa đó, và các cảm thức này tiếp tục ẩn chứa trong các loại hình nghệ

thuật khác nhau để tạo cho chúng một linh hồn, nhưng chính linh hồn nhạy cảm

của người Nhật Bản.

1.3.3.2. Ý thức về vẻ đẹp tinh tế, cô đọng (karumi 軽み, yojo 余

情, okashimi おかしみ, shibusa 渋さ) “Karumi nghĩa là nhẹ nhàng, thánh thoát tìm thấy ngay trong cuộc đời ô

trọc như một niềm khinh thanh êm đềm bay giữa tro than và cát bụi trần gian” [9;

199]. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội

45

dung. Trong hành trình của mình, đến cuối đời Basho mới nhận ra được cảm thức

karumi, và cuộc hành trình của ông như chính tiếng chuông chùa để ông đốn ngộ.

Đối với Basho, haiku giờ không còn mang nặng tính hàn lâm nữa mà là những lời

cười cợt, nhưng ẩn trong đó là phản ánh cuộc sống đau thương, bi đát của vạn vật

trong nhân thế. Tính bi – hài dần phát triển trong thơ haiku của Basho, đối với ông

cuộc đời này quan trọng nhất là phải có niềm tin, niềm lạc quan có như vậy cuộc

hành trình mới bớt gian khổ, cuộc đời mới bớt trầm luân. Nhờ vậy, cách diễn đạt

nhẹ nhàng ấy dần được ưa chuộng và trở thành những vần thơ mang tâm tưởng

karumi.

fuji no kaze ya Gió Phú Sĩ 富士の風や

ogi ni nosete trèo lên quạt 扇にのせて

edo miyage món quà Edo. 江戸土産

(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)

Suốt chuyến hành trình từ Edo, các bài thơ của Basho thể hiện sự ảnh hưởng

bởi karumi rất nhiều bởi “karumi là niềm khinh thanh dịu nhẹ mà vào cuối đời,

Basho hay nhắc tới như một phong thái ung dung tự tại” [7; 273]. Và “Karumi

chính là cảm thức thẩm mỹ khi độc giả nhận ra trạng thái an nhàn thanh thoát

phía sau những hình ảnh đời thường như vậy” [1; 87]

“Karumi là một trong những nguyên tắc được Basho đặt ra vào những năm

cuối đời với mong muốn khoác một phong cách mới cho thi ca được thanh thoát,

nhẹ nhàng cởi mở, trong sáng hơn để tô đậm bản chất vô thường của vạn vật” [32;

142]. Trong cuộc hành trình ấy, Basho được mọi người tiếp đón, nhưng ông thích

ở những mái lều, đơn sơ nhưng mang đầy tính vô thường của cuộc sống:

kusa no to mo Mái lều tả tơi 草のとも

46

sumi kawaru yo zo sẽ thành ngôi nhà khác すみ変わるよぞ

hina no ie Tết về, con trẻ chơi. 雛の家

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Hay đến khi qua đời, bài thơ cuối cùng của Basho đã nói lên những điều

ông muốn trong cả chuyến đi dài:

tabi ni yande Đau yếu giữa hành trình 旅に病んで

yume wa kareno wo chỉ còn mộng tôi phiêu lãng 夢わ枯野を

kakemeguru trên những cánh đồng hoang. 駆け巡る

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Tuy vậy, đến Shiki, lại có cái nhìn khác về karumi, với ông haiku phải gần

hơn với nhân dân và cảm thức thẩm mĩ cũng vậy. Vì thế cuộc cách tân thơ haiku

của Shiki phần nào làm thay đổi diện mạo của các cảm thức. Phần này chúng tôi

sẽ đề cập đến ở chương tiếp theo về các xu hướng và hành trình cách tân nghệ

thuật thơ haiku.

Đến với cảm thức yojo, đây là một cảm thức nền tảng làm nên yugen. Yojo

được kết hợp bằng hai Hán tự yo 余 có nghĩa là dư thừa, còn lại, jo 情 là cảm xúc,

hay tình cảm. Vậy có thể tạm dịch yojo là những cảm xúc còn vương vấn lại.

Fujiwara Shunzei 藤原俊成 cho rằng yugen là đỉnh cao thể hiện cảm xúc của yojo,

còn yojo đơn giản chỉ là những nét phác thảo đơn sơ nhất cho cảm thức này.

“Đạo thơ ở chỗ diệu ngộ... Chỗ kì diệu của nó trong suốt lung linh, không

thể nắm bắt được, như thanh âm giữa trời, sắc đẹp trong dung nhan, ánh trăng

dưới đáy nước, hình ảnh trong gương, lời có hạn mà ý nghĩa vô cùng” [26; 260].

Đó là cái hay bởi tính mơ hồ khiến cho thi ca mở ra nhiều chân trời mới.

47

Trong thơ haiku nói riêng và các loại hình nghệ thuật khác nói chung, nếu

không có yojo thì sẽ giảm sút một phần nghệ thuật và giá trị của tác phẩm. Bởi

yojo là một cảm thức thẩm mĩ quan trọng làm nên sự dư âm của người đọc sau khi

thưởng thức. Yojo được biểu hiện trong haiku là sự mơ hồ, suy diễn. Bởi haiku là

nơi chứa đựng chiều sâu tâm thức, nơi ẩn chứa cả ba nghìn thế giới. Nên yojo trở

nên quan trong khi góp phần tạo thêm một khoảng trống để người đọc có thể suy

diễn. Ngôn ngữ Nhật Bản vố đã khó hiểu bởi tính mơ hồ và nhiều tầng nghĩa, vào

haiku nó lại trở nên một cách mờ ảo hơn nữa khiến người đọc suy ngẫm từ đó sản

sinh ra yojo – sự dư âm sau khi đọc. Nếu xét về cơ bản có ba cách để thể hiện yojo

trong thơ haiku.

Thứ nhất là sự thiếu chủ ngữ. Người Nhật thường lược bỏ chủ ngữ nếu bản

thân họ là người phát ngôn.

Thứ hai là từ ngữ và cách chỉ số lượng trong tiếng Nhật. Số từ thường được

sử dụng kèm theo với danh từ để chỉ số lượng, không giống như một số ngôn ngữ

biến hình khác. Tùy vào trường hợp mà số từ được sử dụng như thế nào và đa phần

trong văn chương ít sử dụng số từ nên sự mơ hồ về số lượng sự vật mà danh từ

biểu thị gây sự suy ngẫm cho người đọc.

Thứ ba là do hiện tượng đa nghĩa và đồng nghĩa trong tiếng Nhật. Tiếng

Nhật gồm hệ thống nhiều dạng chữ viết như đã trình bày, nên khi viết bằng một

dạng chữ thì có thể ý nghĩ sẽ thay đổi vì thế sản sinh ra sự mơ hồ về nghĩa. Ngoài

ra cách đọc cũng ảnh hưởng đến nghĩa của từ, có những từ đồng âm thì cách đọc

giống nhau những nghĩa thì hoàn toàn khác.

Những lý do nêu trên đã tạo ra yojo khi sáng tác thơ ca ở Nhật Bản đặc biệt

là thơ haiku. Chẳng hạn có thể thấy rõ ở bài thơ sau:

48

hi no kure ya Gió thu lạnh lùng 日の暮や

hito no kao yori những gương mặt xa lạ 人の顔より

aki no kure hoàng hôn buông. 秋の風

(Kobayashi Issa) (Lam Anh dịch)

Khó có thể xác định ai là người quan sát khung cảnh trong bài thơ này, sự

xuất hiện “những gương mặt xa lạ” cũng không rõ bao nhiêu người, là ai. Điều đó

tạo ra một cảm giác những con người này là những thế giới khép kín, khóa chặt

tâm hồn, lướt qua nhau như những con người xa lạ, trong một khung cảnh ảm đạm

là lòng người đượm buồn trước cảnh nhân thế tha hương.

kono michi ya Con đường tôi đi この道や

yuku hito nashi ni không còn ai đi nữa 行く人なしに

aki no kure chiều tàn mùa thu. 秋の暮れ

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Như thế, chủ thể quan sát con đường không được tác giả nhắc đến, không

biết đó là ai, sự mơ hồ và trống rỗng trong bài thơ đã đúc kết lại nỗi buồn của vạn

vật, chốn rừng thiên nước độc không có một bóng người, mà có lẽ tác giả là người

hiếm hoi đặt chân trên con đường này. Cái hay của một bài thơ không phải nằm

trên câu chữ mà nằm trong ý vị sâu xa bên ngoài của bài thơ đó.

Như đã nói, bi và hài là hai khía cạnh làm nên điểm đặc sắc trong thơ haiku.

Cảm thức okashimi đã làm nên điều đó. Okashimi được hiểu một cách đơn giản

với ý nghĩa hài hước, nhưng cũng tùy vào từng trường hợp mà okashimi có ý nghĩa

khác nhau. Xuất phát từ tính từ okashii おかしい có nghĩa là kỳ lạ, khác thường,

nhưng okashii lại mang nghĩa không tích cực nên đôi lúc tạo cảm giác đùa cợt, hài

hước.

49

Đối với haiku từng thời kì mà okashimi mang những ý nghĩa khác nhau, có

lúc hài hước, có lúc nhẹ nhàng. Như bài thơ của nữ sĩ Chiyo ta thấy rõ okashimi

như một làn gió nhẹ nhàng tươi vui:

asagao ni Hoa triêu nhan 朝顔 に

tsurube torarete dây gàu vươn hoa bên giếng 釣瓶とられて

morai mizu đành xin nước nhà bên. もらい水

(Kato Chiyoko) (Nhật Chiêu dịch) (加藤知世子)

Bài thơ là sự trân trọng loài hoa tiêu nhan mỏng manh, tác giả không nở là

nó mất đi vẻ đẹp tự nhiên trong buổi sớm mai. Hoa triêu nhan sớm nở chiều tàn,

nhưng tình cảm của con người với hoa là vĩnh cữu. Sự nhẹ nhàng thánh thoát “xin

nước nhà bên” như lời tâm tình cùng loài hoa bé nhỏ, hãy cứ nở là vui đời vui hoa,

còn ta sẵn sàng hi sinh để hoa tồn tại.

Okashimi đôi lúc nhẹ nhàng vậy, nhưng cũng lắm lúc là lời đùa cợt hóm

hỉnh nhưng sâu trong đó là nỗi niềm âm thầm của tác giả.

ka no ato Dấu muỗi đốt 蚤の跡

sore mo kawaki wa trên làn da thanh xuân それも若きは

utsukushiki đẹp xinh ửng hồng. 美しき

(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)

Đọc vào ta thấy sự tươi vui, đùa giỡn của Issa, nhưng sâu thẫm bên trong là

nỗi buồn thương cho vạn vật, cho con muỗi đốt mình. Con vật nhỏ bé, loài vật có

hại, nhưng chính nó cũng mang trong mình một cuộc sống. Nó đốt người tìm máu

nuôi thân cũng như chính con người tàn hại bao sinh linh cũng chỉ để nuôi bản

thân mà thôi. Ý niệm về vạn vật hữu linh hiện lên sau những lời hí hững đó là cả

một ý vị Thiền mà ta phải suy ngẫm. Okashimi đa dạng và biến hình theo từng

50

trường hợp, nên trong thế giới haiku dễ dàng bắt gặp nó qua ngòi bút của nhiều

tác giả, làm cho haiku trở nên phong phú và đang dạng hơn về tầng ý nghĩa cũng

như nghệ thuật cấu thành.

Shibusa là danh từ hóa từ tính từ shibui 渋い với ý nghĩa là vị chát, thường

dùng trong đời sống hằng ngày, bên cạnh đó shibui còn là một từ đa nghĩa nên nó

mang nhiều tầng nghĩa và sắc thái khác nhau tùy theo từng trường hợp. Shibusa

dùng để chỉ vẻ đẹp trong đời sống và cả nghệ thuật, nên trở thành một danh từ

thông dụng và giữ nguyên bản thể không thể chuyển đổi sang ngôn ngữ khác.

Tổng quát hơn để hiểu rõ shibusa là tinh thần cốt lõi của mỹ học Nhật Bản kết tinh

bằng sự đơn giản, mộc mạc. Có thể nói, shibusa biểu hiện ở khắp các loại hình

nghệ thuật ở Nhật Bản, có thể bắt gặp nhiều nhất trong kiến trúc, nghệ thuật gốm

sứ, trà đạo và đặc biệt là thơ haiku. Shibusa thể hiện tinh thần kề cận và hòa hợp

với tự nhiên, ngắm nhìn thiên nhiên một cách tinh tế và đưa thiên nhiên trở thành

người bạn với con người.

Trong haiku, shibusa thể hiện một cách giản dị nhưng đầy tinh tế, trước hết

có thể thấy ở thể thơ và cách sử dụng ngôn từ một cách nghiêm ngặt. Xuất phát từ

ảnh hưởng của tranh thủy mặc với quan niệm giản đơn nhưng tràn đầy ý nghĩa,

shibusa đã vẽ nên một bức tranh trong thơ haiku cực kì đơn sơ, bên cạnh đó là một

góc quan sát cực kì tinh tế:

utsukushi ya Đẹp vô cùng 美しや

shoji no ana no nhìn qua, ô cửa rách 障子の穴の

ama no kawa ô kìa sông Ngân. 天の川

(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)

Hay bài thơ của Basho về ánh trăng đêm huyền diệu:

51

meigetsu ya Trăng rằm mùa thu 名月や

hokkoku biyori tiết trời Đông bắc 北国日和

sadame naki bất định. 定めなき

(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)

Tất cả sự vật hiện diện điều thật giản đơn qua góc nhìn của tác giả. Issa nhìn

sông Ngân qua lỗ thủng trên ô cửa giấy, Basho ngắm vầng trăng dưới túp lều rách

bên hồ. Trăng và muôn sao là những thứ hiện diện hằng ngày, quen thuộc vào buổi

tối, nhưng khi qua đôi mắt của hai nhà thơ nó trở nên lạ lẫm, bất ngờ khi nhìn thấy.

Có lẽ, tâm hồn phải nhạy cảm, tinh tế mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp thiên

nhiên này. Trong nền trời tối, xuất hiện một cảm thức giản dị, vẻ đẹp đơn sơ, tinh

tế shibusa như vậy mới có thể xuất hiện sông Ngân và vầng trăng trong đêm mùa

thu.

Khác với quan niệm về cái đẹp của phương Tây – vẻ đẹp hoành tráng, hoa

lệ, người phương Đông đặc biệt là người Nhật Bản lại yêu thích vẻ đẹp nhẹ nhàng,

đơn giản, nhỏ bé của vạn vật tự nhiên. Vì thế tất cả các cảm thức mĩ học của người

Nhật đều xoay quanh cái đẹp bình dị, tâm trạng sâu lắng, niềm bi cảm trước vũ trụ

bao la và những kiếp đời nhỏ bé.

52

TIỂU KẾT 1

Ở chương 1, chúng tôi đã khái quát lại và cố gắng bao quát về mặt lý luận

những vấn đề liên quan đến quá trình phát triển thơ haiku qua các thời kì. Thơ

haiku được xây dựng trên loại hình thơ ca truyền thống waka đến renga rồi định

hình và phát triển độc lập ở thời Basho với tên gọi hokku. Quá trình đó được giải

thích rõ thông qua việc giới thiệu, phân tích cấu trúc, đặc điểm loại hình haiku. Từ

đó, người đọc có thể tiếp cận haiku một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. Ngoài ra,

chúng tôi còn xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cách tân văn học Nhật

Bản nói chung và thơ haiku nói riêng. Công cuộc cải cách lớn nhất xảy ra vào thời

Meiji với các nhân tố ảnh hưởng chính là sự du nhập văn hóa phương Tây, chiến

tranh và quá trình vận động tiếp thu văn học phương Tây của nền văn học Nhật

Bản. Thơ haiku chịu nhiều ảnh hưởng về mặt lý luận từ cuộc vận động đó, là tiền

đề cho công cuộc cải cách sau này.

Trong chương này, chúng tôi còn đề cập đến các đặc điểm nghệ thuật của

thơ haiku như cấu trúc cơ bản 5-7-5, kigo (quý ngữ) và kidai (quý đề), kire-ji (từ

ngắt) đặc biệt là các phạm trù mỹ học cơ bản hình thành và phát triển trong thơ

haiku. Nhằm mục đích để người đọc có thể hiểu rõ đặc trưng nghệ thuật thơ haiku

qua việc nắm được các khái niệm then chốt của “mĩ học Thiền”. “Mĩ học Thiền”

như cội nguồn của các phạm trù mĩ học, có sự tác động lớn trong quá trình hình

thành ý thức, sự cảm nhận và quy chiếu sự vật hiện tượng. Từ đó định hướng cách

nhìn nhận các bước cách tân nghệ thuật. Các phạm trù mĩ học là yếu tố quan trọng

trong thơ haiku, mang lại màu sắc khác biệt cho thể loại thơ này. Ở mỗi thời kì,

các cảm thức, phạm trù mĩ học được xây dựng và thay đổi, vận động,... từ đó hoàn

thiện hơn về quan niệm thẩm mĩ, góp phần kiến tạo nền mĩ học Nhật Bản.

53

Từ chương 1, chúng tôi xây dựng tiền đề để triển khai các chương còn lại,

giúp người đọc có thể nắm bắt được cả quá trình cách tân nghệ thuật của đề tài.

54

CHƯƠNG 2: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI BASHO

2.1. Những chuyển biến và định hướng hình thành nghệ thuật thơ haiku trước Basho

Trước Basho, haiku chưa được định hướng như một thể thơ độc lập mà chịu

ảnh hưởng nhiều bởi renga. Như đã trình bày, haikai no renga bắt đầu hình thành,

phân biệt với renga của giới quý tộc, thượng lưu. Haikai no renga hay gọi tắt là

haikai được sáng tác với ngôn ngữ dung dị, hài hước phục vụ đời sống bình dân.

Người cách tân haiku đầu tiên là nhà thơ Arakida Moritake 荒木田 守武 đã bước

đầu tiến hành tách haiku dần dần ra khỏi renga. Tiếp đó là các trường phái thời

Edo bắt đầu tiến hành công cuộc gầy dựng và phát triển tiếp tục thơ haiku với

nhiều định hướng khác nhau.

2.1.1. Xây dựng nền móng và phát triển thơ haiku Vào khoảng sơ kì Edo, thơ haiku dần tách khỏi renga và bắt đầu xây dựng

loại hình độc lập. Nhiều trường phái thơ haiku ra đời, trong đó tiêu biểu có thể kể

đến hai trường phái lớn là Teimom 貞門 và Danrin 談林派 đã có công hình thành

và phát triển haiku trong bước đầu chập chững. Tuy nhiên, các trường phái tiếp

nối nhau nhưng cũng có nhiều biến đổi đa dạng làm haiku trở nên hoàn thiện hơn

từng ngày.

2.1.1.1. Phái Teimon với xu hướng bảo thủ, tri thức

Dưới sự dẫn dắt của Matsuna Teitoku 松永 貞徳, phái Teimon trở nên lớn

mạnh và hưng thịnh. Xuất thân từ một gia đình thầy dạy renga, Teitoku nhanh

chóng học hỏi và trở thành một thầy dạy renga nổi tiếng. Tuy nhiên định hướng

của ông không ngừng ở phát triển renga mà là phát triển haiku. Ông là người khai

sáng các niêm luật trong thơ haiku với xu hướng mang haiku gần gũi với tầng lớp

bình dân qua hình thức chơi chữ. Với hình thức này, ông đã vận dụng tối đa tính

đa nghĩa của tiếng Nhật để sáng tác haiku nhằm đem lại tiếng cười thi vị, lý thú

55

cho người đọc. Những vần thơ của Teitoku mang tính chất hài hước và nhiều tầng

nghĩa, điều đó đã mang lại một hướng sáng tác thơ haiku mới so với kiểu truyền

thống của đoạn hokku trong bài renga.

shioruru wa Nhợt nhạt しをるゝは

nani ka anzu no cành hoa hạnh 何かあんずの

hana no iro héo tàn2. 花の色

(Matsuna Teitoku) (松永 貞徳)

Với bài haiku này, Teitoku đã dùng hoa hoa hạnh như một hình ảnh cho

mùa xuân tươi đẹp, mùa xuân đầy sức sống. Trong tiếng Nhật, “anzu” vừa có nghĩa

là hoa hạnh, nhưng lại có nghĩa khác là sự âu lo. Như vậy Teitoku đã khéo léo sử

dụng tính đa nghĩa của từ để gieo vào đó ẩn ý của lòng mình. Màu hoa hạnh nhợt

nhạt báo hiệu cho sự chuyển mùa sắp đến, cũng là sự lo lắng của tự nhiên hay

chăng đó là sự lo lắng của cả tâm hồn tác giả. Cái hay ở đây là nhà thơ đã viết bài

haiku này theo hệ chữ hiragana, thể hiện không rõ ý nghĩa của từ “anzu” nên càng

làm cho bài thơ nhiều sự suy đoán, nhiều chiều sâu suy ngẫm, đó là lối chơi chữ

độc đáo trong thơ haiku thời kì này của phái Teimon.

minnahito no Nhà nhà say giấc ban trưa 皆人の

hirune no tane ya bởi đêm qua 昼寝の種や

aki no tsuki trăng thu đẹp quá. 秋の月

2 Người viết có đưa vào một số bài haiku tự dịch, các bài này không đề tên dịch giả, còn lại các bài dịch thơ haiku của dịch giả khác sẽ được đề tên rõ ràng bên dưới.

(Matsuna Teitoku) (Lam Anh dịch) (松永 貞徳)

56

Các bài thơ của Teitoku gây sự liên tưởng mạnh. Ở bài thơ này ta thấy sự

liên kết giữa không gian ban trưa với buổi tối, đó là sự đối nghịch về không gian

vật lý và cả không gian liên tưởng.

Không dừng ở đó, phái Teimon đã xuất bản tập sách mang tên Gosan 御傘

(Cái lọng) gồm 10 tập bao gồm các hệ thống lý luận và quy tắc để viết thơ haiku,

từ đó phổ biến rộng rãi đến quần chúng nhân dân, một phần giúp cho haiku định

hình vị trí độc lập trở thành một thể loại thơ mới. Với định hướng dùng renga là

khuôn thước để sáng tác haiku, cùng sắc thái bảo thủ và tri thức. Việc học theo

renga và waka nhằm đưa haiku lên hàng nghệ thuật đã làm cho phái Teimon dần

đi vào suy thoái và tuột hậu. Đó là nhược điểm lớn nhất mà phái Teimon mắc phải

trong việc đặt nền móng và cải cách haiku. Nhưng chung quy, họ đã góp phần khá

lớn vào công cuộc thúc đẩy sự phát triển thơ haiku bằng hình thức nghệ thuật chơi

chữ độc đáo.

2.1.1.2. Phái Danrin với xu hướng tinh tế, phóng khoáng Khoảng năm 1673, phái Teimon trở nên suy yếu và rơi vào bế tắt vì phong

cách nghệ thuật haiku không còn được ưa chuộng, Nishiyama Soin 西山宗因

(1605-1682) thành lập phái thơ Danrin, với xu hướng phát triển kĩ thuật và cách

tân ngôn ngữ thơ haiku theo hướng tiến bộ bằng những trò chơi trí tuệ. Là một

thầy chuyên dạy kĩ thuật làm thơ haiku, Soin trở thành bậc thầy thơ haiku với

phong cách mới mẻ. Ở Osaka, phái Danrin phát triển mạnh với xu hướng tinh tế

phóng khoáng. Một phần hình thành nên xu hướng này là do người Osaka đang

trong thời kinh tế phát triển, nhân dân no ấm, khí tiết dồi dào nên phong thái ung

dung và cực kì phóng khoáng. Đánh dấu bước chuyển mình ngoạn mục của phái

Danrin là tập thơ Danrin Toppaku in 談林十百 韻 (Âm vực ngàn bài thơ phái

Danrin) của Soin chứng tỏ sự trưởng thành sơ khai của nghệ thuật thơ haiku Nhật

57

Bản. Những bài thơ mà Soin làm ra mang màu sắc thanh nhã và đầy tinh tế, chứng

tỏ sự đóng góp to lớn trong quá trình phát triển thơ haiku của phái Danrin.

sabera koko ni Dưới bóng hoa mơ さればここに

danrin no ki ari trong nhà Danrin 談林の木あり

ume no hana hứng thú, ta làm thơ. 梅の花

(Nishiyama Soin) (Quỳnh Như dịch) (西山宗因)

Hay:

na no hana ya Dưới góc tùng thâm niên 菜の花や

ippon sakishi âm thầm khoe sắc 一本咲きし

matsu no moto một bông cải mỏng manh 松のもと

(Nishiyama Soin) (Lam Anh dịch) (西山宗因)

Khác hẳn với phái Teimon, phái Danrin chủ trương và khẳng định: vô ích

nếu tốn hàng tháng, có thể hàng năm để hoàn thành những bài thơ theo kiểu chuỗi

renga mà Teimon lấy làm khuôn mẫu. Danrin muốn một phong cách nhanh chóng

và chớp nhoáng nhưng vẫn mang được dụng ý nghệ thuật của thơ ca, nên hình

thức thi làm thơ haiku bắt đầu được tổ chức rộng rãi với tiêu chí về số lượng. Họ

không muốn có sự ràng buộc và qui định về đề tài, ngôn ngữ, vị trí trước sau trong

bài haiku, vì thế tất cả dần bị thay đổi. Môn đệ nổi tiếng của Soin là Ihara Saikaku

井原 西鶴 có thể làm gần 23.500 câu thơ trong vòng một ngày đêm, vượt hơn

nhiều lần số lượng thơ mà phái Teimon sáng tác trong một năm. Điều đó chứng tỏ

tài năng thiên bẩm của người làm thơ và đó cũng là một trò tiêu khiển mang tính

chất trí tuệ cao, vì không chỉ nhanh trí mà còn phải nhạy bén, bắt kịp cảm xúc.

Tuy với số lượng lớn như vậy thì chất lượng của các bài haiku không đảm bảo tính

58

đồng đều, nhưng phần lớn các bài thơ đều có giá trị nghệ thuật cao và các biện

pháp nghệ thuật đặc sắc.

haikai no Nín thở 俳諧の

iki no ne tomen trào dâng 息の根とめ

ooyakazu ngàn bài haikai. 大矢数

(Ihara Saikaku) (Quỳnh Như dịch) (井原 西鶴)

Với lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, những bài haiku của Ihara Saikaku mang

tính hóm hỉnh, thu hút người đọc bởi màu sắc mới lại và phóng khoáng trong

những vần thơ. Việc thi thơ với số lượng bài thơ sáng tác ra khá lớn là cho người

sáng tác haiku tập trung và nâng cao trình độ hơn. Từ đó, nghệ thuật thơ haiku

được tăng cấp nhanh chóng và đa dạng, độc đáo hơn. Hay như bài thơ về đêm

pháo hoa của Ihara Saikaku dưới đây đã thấy được phần nào nghệ thuật độc đáo

mang trường liên tưởng phong phú trước cảnh sắc của sự vật.

atagobi no Pháo bông Atago あたご火の

kawarakenage ya như đĩa gốm xoay tròn かわらけなげや

Itamizaka trượt dốc Itami. 伊丹坂

(Ihara Saikaku) (Quỳnh Như dịch) (井原 西鶴)

Những viên pháo hoa bay lên bầu trời, nổ ra thành từng tán tròn như những

chiếc đĩa. Mỗi cái khác nhau, không lặp lại bao giờ , tạo một không gian rực rỡ,

lộng lẫy. Khi pháo hoa tàn, những tán tròn từ từ vỡ ra và rơi xuống, như một cú

trượt dốc dài, tia pháo hoa dần biến mất trong không gian. Những chiếc đĩa pháo

hoa đó xoay tròn, rồi trượt dốc nhưng chính tâm trạng nuối tiếc của tác giả trước

cảnh đẹp chóng tàn. Pháo hoa dẫu đẹp rồi cũng mất, cuộc đời người đẹp rồi dần

phai, quy luật tự nhiên đang bó buộc nó và như bó buộc cả sự vận động không

59

ngừng của thế giới. Làm cách nào để nó tuần hoàn mãi mãi? Không có sự tuần

hoàn mà chỉ có sự phát triển rồi thụt lùi, vươn xa rồi suy thoái. Bài haiku đó cũng

như bức tranh mà Ihara Saikaku đang vẽ về công cuộc chấn hưng và phát triển,

đổi mới thơ haiku từng ngày. Làm cho nó tiến tới hay làm nó phải thụt lùi tuột dốc

đó là trách nhiệm của mỗi nhà thơ phái Danrin, của cả nước Nhật không riêng một

người nào.

Tuy vậy, nhiều môn đồ của phái Danrin vẫn không cam lòng với xu hướng

dùng haiku để mua vui như vậy. Không ngừng ở việc haiku đem lại tiếng cười cho

cuộc sống mà phải phát triển haiku lên một tầng cao mới. Uejima Onitsura 上島

鬼貫(1660-1738) với quan điểm “sẽ không có haikai nếu không nói lên tình thật”

[38; 200], tác phẩm Hitorigoto (Nói một mình) đã đánh dấu phong cách sáng tạo

mới của riêng ông với xu hướng ảnh hưởng của Basho.

2.1.2. Xây dựng nghệ thuật sơ khai và định hình cách viết thơ haiku Nghệ thuật thơ haiku khi mới hình thành còn đơn giản và sơ khai. Người

sáng tác chỉ chú trọng đến sự hài hước, dí dỏm xem haiku chỉ là phương tiện mua

vui. Tập sách đầu tiên qui định về cách viết thơ haiku do Teitoku viết nhưng chưa

thực sự hoàn hảo vì quá dài dòng, gồm 10 tập. Người học haiku khó có thể tìm

hiểu và quá trình tiếp thu chủ yếu từ các thầy dạy haiku.

Ngoài ra, tổng hợp các lý thuyết khác chúng tôi rút ra được cách viết một

bài haiku hoàn chỉnh theo khuynh hướng cổ điển. Khi viết haiku cần chú ý hai yếu

tố, mà theo các thầy haiku truyền dạy là tính khôi hài và nghệ thuật chơi chữ. Ngay

cả Basho một bậc đại sư cũng phải tuân thủ qui định chặt chẽ này. Yếu tố thứ hai

đó là mô hình cấu trúc âm tiết của bài haiku phải chặt chẽ đúng với qui định 5 - 7

- 5. Về sau nhiều nhà thơ đã cải cách mô hình này nhưng đa phần vẫn giữa kiểu

kết cấu ấy trong các sáng tác.

60

Tiếp theo là yếu tố mùa, ở haiku trước Basho chưa thực sự chú ý, mãi đến

Basho ông mới đưa thiên nhiên trở thành đề tài chính để làm tiêu chí nghệ thuật

thơ haiku. Nên yếu tố mùa và các kigo (quý ngữ) là không thể thiếu. Haiku hiện

đại không quan trọng về yếu tố này nhưng nó vẫn là điều kiện bắt buộc trong một

bài haiku truyền thống. Ở phần này chúng tôi chỉ khái quát những điều cơ bản nhất

để hình thành một bài haiku, còn quá trình cụ thể qua các giai đoạn phát triển sẽ

được trình bày trong các phần sau.

Tuy còn sơ khai và thiếu tính chuyên nghiệp, nhưng các nhà thơ giai đoạn

trước Basho đã có công định hình và phát triển các nguyên lý cơ bản cho nghệ

thuật thơ haiku. Bởi, bất cứ một sự thay đổi nào cũng phải dựa trên nguồn gốc

khởi sinh, đó là nền tảng quyết định sự vững chắc của một quá trình dài lâu. Về

sau, các nhà thơ haiku nổi tiếng tạo ra các phong cách mới, khác biệt, đặc sắc

nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bởi các nhà thơ đi trước. Đây là bước đà cơ bản thúc

đẩy haiku bay cao, bay xa hơn trong sự nghiệp đổi mới.

2.2. Basho và những chặng đường đi tìm nghệ thuật thơ haiku

Sinh ra trong một gia đình võ sĩ, Basho được cha mình là Matsuo

Yozaemon chú trọng cho học một thầy renga trong vùng. Năm 19 tuổi, ông viết

những vần thơ đầu tiên về đề tài năm mới, được lưu truyền như một thiên tài thơ

haiku, sự nghiệp thơ ca của Basho bắt đầu từ đó và sau này gắn bó với những

chuyến du hành. Nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Basho, không nhận thấy gì ấn

tượng về số lượng khi ông chỉ để lại khoảng 1000 bài thơ haiku. Có thể thấy, sáng

tác của Basho không nhiều, tập trung vào việc lựa chọn câu chữ, sự tinh tế và cô

đọng đầy triết lý của haiku. Vì thế, thơ haiku Basho đã đạt đến trình độ nghệ thuật

đỉnh cao, mang hơi hướng phi thực. “Lý do là Basho luôn tiến bộ, cho dù đến khi

đã thành danh, ông vẫn không ngừng trau dồi để tìm ra những hướng mới cho

61

thơ” [27; 52]. Với Basho, công cuộc cách tân thơ haiku là một vấn đề lâu dài, cần

sự tìm hiểu và trải qua nhiều thời kì để có thể hoàn thiện nghệ thuật thơ haiku.

Basho đã viết những trang nhật kí đời mình về sự nghiệp đi tìm cái mới cho haiku:

“có lúc cảm thấy mệt mỏi với chuyện làm thơ và cũng muốn từ bỏ, nhưng có lúc

lại muốn trở thành thi sĩ để gầy dựng danh tiếng hơn cả. Sự tranh đấu ấy cứ giằng

co trong tâm trí khiến cuộc đời tôi không bao giờ ngơi nghỉ” [46; 23]. Bởi sự

không ngừng nghỉ đó, Basho trở thành một đại sư thơ haiku và có những đóng góp

to lớn trong quá trình định hình và phát triển haiku cổ điển.

2.2.1. Tiếp biến và khám phá kĩ thuật mới cho thơ haiku Chặng đường đầu tiên của Basho có thể nói là chặng đường quan trọng để

bắt đầu những đổi mới thơ haiku. Ông bị ảnh hưởng đa phần bởi hai trường phái

Teimon và Danrin, nhưng với sự nhạy bén và sáng tạo Basho đã đưa thơ haiku từ

tầm thường, dung dị, trở nên tao nhã, đầy tính triết lý. Quá trình đó phải trải qua

thời gian khá dài cho dù đã thành công với ý muốn mang haiku đạt độ nghệ thuật

bậc thầy nhưng ông vẫn với mong muốn đổi mới thêm nữa.

2.2.1.1. Bước đầu học hỏi và tập tành làm thơ haiku

Sau khi người bạn thân nhất của mình là Todo Yoshitada 藤堂 良忠 mất

năm 1666, Basho rời bỏ cung điện để đến Kyoto học tập và tìm hiểu nghiên cứu

văn học cổ Nhật Bản. Ở đây, ông được tiếp xúc với nhiều luồng tư tưởng mang

hơi hướng Trung Hoa. Tuy nhiên, xu hướng thơ quốc âm vẫn ảnh hưởng nhiều

đến ông và ông quyết định trở thành một thầy dạy renku và sau này là haiku. Hình

thức haiku hài hước, mang lối chơi chữ của phái Teimon được Basho tiếp nhận và

bắt đầu sáng tác trên khuôn mẫu và những qui định của phái. Haiku Basho viết ra

tuy theo khuôn sáo ấy, nhưng từ ban đầu đã pha vào đó phong thái của chính nhà

thơ.

62

haru ya koshi Đêm trừ tịch 春や来し

toshi ya iki ken năm cũ bước qua 年や行きけん

kotsugo mori mùa xuân chớm dậy. 小晦日

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Bài thơ này là kết quả của sự khuôn thước trong lối viết haiku của phái

Teimon mà Basho đã được người thầy Kitamura Kigin 北村 季吟 – một nhà thơ

lừng danh ủng hộ xu hướng haiku Teimon, dạy dỗ. Hình ảnh trong bài thơ quá cũ

đối với thi ca Nhật Bản. Ở đây, Basho thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của mình

trước thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Nhưng trước đó, nhiều nhà

thơ khác đã đưa hình ảnh này vào các bài tanka với ý vị giống hệt bài thơ haiku

đầu tiên mà Basho sáng tác này. Như vậy, phái Teimon đã không đem lại sự mong

muốn cho Basho trong công cuộc trở thành một thầy haiku xuất sắc. Ông quan

niệm, cứ mãi đi theo cái cũ sẽ có một ngày haiku là những bài thơ sáo rỗng, như

những món hàng sản xuất hàng loạt và giống y chang nhau về chất lượng, không

có sự vượt bậc.

Lối chơi chữ của phái Teimon vẫn bám chặt lấy các sáng tác của Basho

trong khi ông đang cố tìm một hướng mới cho haiku.

ubazakura Hoa đào cằn cỗi 姥桜

saku ya rogo no nở rồi lại tàn 咲くや老後の

omoide nhớ thương. 思い出

(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)

Không chỉ có lối chơi chữ phong phú, Basho còn đang đưa sự châm biếm

sâu cay vào chính bài haiku của mình. Cây anh đào già nở hoa trong sự cằn cỗi để

nhớ về ngày xa xưa, hình ảnh đó gợi lại hình ảnh những người phụ nữ quá tuổi

63

nhưng vẫn cố chăm chút giữ cho mình nét thanh xuân. Tiếng cười bật ra qua hàm

nghĩa ẩn khuất là không gian mới để bài thơ trở nên sâu hơn về mặt ý nghĩa và có

sự dàn trải hơn về mặt nghệ thuật câu từ.

Không chờ đến khi gặp tư tưởng phái Danrin, Basho mới có sự sáng tạo, mà

ngay cả khi ở trong sự gò bó đặt nặng về vấn đề kĩ thuật, ta vẫn thấy Basho dần

trưởng thành hơn trong cách sáng tác thơ haiku của mình. Điều đó có thể thấy rõ

qua hợp tuyển thơ haiku Kai Oi (Trò chơi của sò) năm 1672 của ông và các đồng

môn dâng tặng đền ở Ueno. Trong đó, một số bài haiku đã thấy rõ sự đổi mới của

Basho mà ít có môn đồ nào của phái Teimon làm được.

kitemo mi yo Cứ mặc thử xem きてもみよ

jinbega haori chiếc áo 甚べが羽織

hanagoro mo mùa hoa anh đào. 花ごろも

(Matsuo Basho) (松尾芭蕉)

Bài thơ là sự tinh tế với lối chơi chữ đầy nghệ thuật của Basho. Thơ haiku

Basho giảm dần sự miêu tả và tăng thêm phần gợi. Bằng những vần thơ nhẹ nhàng

hơn, không đặt nặng vấn đề kĩ thuật nhưng lại mang ý nghĩ gợi tả sâu lắng. Từ

“kite” mang nghĩa “đến đây” và vừa mang nghĩa “mặc”. Lối dùng từ đồng âm của

phái Teimon đã có từ lâu nhưng khi qua bàn tay của Basho dừng như ý nghĩa đó

tăng lên một tầng bậc mới không đơn thuần là hai nghĩa trái ngược nhau. Đọc bài

thơ, ta liên tưởng ngay đến sự hào hứng chờ đợi của con người khi chuẩn bị ngắm

hoa anh đòa. Những chiếc áo “hanagoromo”biểu trưng cho ngày hội ngắm hoa,

đây có lẽ là những kigo đầu tiên trong thơ haiku của Basho. Đó là những bước

manh nha trong chặng đường đổi mới thơ haiku của ông.

64

2.2.1.2. Quá trình nghiên cứu và khám phá kĩ thuật mới Như đã trình bày, Basho không chịu sự gò bó về kĩ thuật và khuôn sáo trong

thơ haiku của phái Teimon. Ông tiếp tục chặng đường đến với haiku bằng cách rời

Kyoto. “Thời kì quá độ từ khuynh hướng làm dáng và cơ trí qua đến nụ cười có

tính cách bình dân của Basho có lẽ chỉ xảy ra sau khi ông đặt chân đến Edo” [27;

61]. Ở đây, ông lại tiếp tục học thơ haiku và bắt đầu chịu ảnh hưởng bởi phái

Danrin với xu hướng dùng khẩu ngữ mang tính chất hài hước. Từ đó, Basho bắt

đầu sáng tác theo khuynh hướng của phái Danrin. Các bài haiku đầu tiên của ông

ở Edo đã nói lên điều đó.

neko no tsuma Chị mèo cái kia đang 猫の妻

hetsui no kuzure yori trèo qua gian bếp sập 竃の崩れより

kayoi keri để đến thăm anh chồng. 通ひけり

(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)

Lấy ý từ Ise Monogatari 伊勢物語 (Truyện Ise), nhưng đáng lẽ ra phải là

một cuộc tình lãng mạn giữa một vương tử và một cô gái khi họ lén lút gặp nhau

trong đêm khuya, Basho lại đem chuyện đó ra làm một trò cười để bỡn cợt xã hội.

Thế giới loài mèo chỉ có con cái đi tìm con đực và xã hội loài người cũng đang

sắp chuyển thành thế giới mèo khi những bà quý tộc lén lút đi tìm những chàng

trai trẻ. “Kĩ thuật ẩn dụ và chơi chữ vẫn được dùng nhưng không phải để khoa

trương cái cơ trí (wit) của con người mà chỉ nhằm bộc lộ tính hài hước do sự

tương phản nằm trong những chủ đề thế tục thường nhật” [27; 62]. Basho phát

triển haiku kiểu so sánh và ẩn dụ chơi chữ với nhiều hình thức đa hợp khác nhau

tạo nên độ hứng thú cho những bài thơ đó.

65

sokai no Kìa trên mặt biển xanh 蒼海の

nami sake kusashi sóng cùng nồng men rượu 浪酒臭し

kyo no tsuki giống vầng trăng đêm nay. 今日の月

(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)

Ở đây, phép so sánh (như các biện pháp nghệ thuật) đã được Basho sử dụng

làm nên một bức tranh mang ý nghĩa nhẹ nhàng, thanh thoát. Chén rượu như vầng

trăng, mặt biển in bóng sáng. Tất cả được ví von so sánh với nhau như thể hòa vào

cùng nhau. Người trên thuyền ngắm trăng bên chén rượu, trăng vô tình đọng lại

chén rượu cay, lòng người cũng cay theo men rượu. Không dám uống cũng bởi sợ

mất ánh trăng vàng, và uống rồi chén rượu lại thành vầng trăng. Bài thơ như làn

khói nhẹ đêm trăng phủ lấy tác giả, mơ mơ, thực thực đó là nghệ thuật Basho đã

dùng cho haiku.

Còn nói đến thủ pháp ẩn dụ, ta thấy rõ qua bài thơ sau:

kiku no ka ya Ở cố đô Nại Lương 菊の香や

Nara ni wa furuki hoa cúc và tượng Phật cổ 奈良にわ古き

hotoketachi ngào ngạt hương. 仏たち

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Hình ảnh trong bài thơ dường như không mấy liên quan với nhau, nhưng ta

có thể thấy những hình ảnh đó lại mang ý nghĩa ngầm ẩn khác. Cố đô và hoa cúc

là hai hình ảnh đối chọi và va chạm lẫn nhau nhưng nó lại tạo ra thủ pháp đặc biệt

cho bài thơ. Hoa cúc được ngầm hiểu là sự trường thọ (quan niệm của người Nhật

Bản), cố đô Nại Lương 奈良(Nara) một thời huy hoàng Phật giáo, một điểm sáng

của dân tộc Nhật. Cả hai hình ảnh là sự bổ sung cho vẻ hưng thịnh của những

vương triều cũ nơi cố đô, từng có một thời hùng mạnh và thịnh vượng cũng như

66

đóa cúc “ngạt ngào hương” bên tượng Phật cổ. Khi đọc bài thơ này, nếu không

ngầm hiểu ẩn ý bên trong thì khó có thể hiểu hết được dụng ý của tác giả đưa vào

đó.

Tuy nhiên, một thời gian sau, Basho nhận thấy sự cười cợt và trào phúng

mang tính chất giải trí của phái Danrin không phù hợp với lý tưởng, con đường

thơ của ông. Basho bắt đầu chuyển sang một khuynh hướng khác, đây có thể xem

là cột mốc chính thức để Basho khẳng định phong cách thơ haiku của mình. Các

bài thơ của Basho không còn hoặc mang rất ít tính giải trí hoa lệ kiểu thị thành,

mà dần trở nên lắng đọng và buồn hơn. Khác với phái Danrin, cơ bản dùng kigo

(quý ngữ) như một lối chơi chữ thì đối với Basho đã sử dụng kigo như một chiếc

chìa khóa để mở bài haiku. Ông đã rất tinh tế vận dụng và phối hợp tính tao nhã

trong renga (phái Teimon) và tính khôi hài (phái Danrin) để tạo nên một phong

cách nghệ thuật mới cho thơ haiku. Quý ngữ bắt đầu được chú trọng đến và có vai

trò thiết yếu trong một bài haiku.

yoru hisokani Con sâu lặng yên 夜ル竊ニ

mushi wa gekka no ăn mòn hạt dẻ 虫は月下の

kuri wo ugatsu trong đêm trăng huyền. 栗を穿ツ

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Bài thơ không mang tiếng cười, nhưng mang đầy tính triết lý và nghệ thuật.

Không gian không còn rộn ràng kiểu thành thị mà bây giờ là thiên nhiên tĩnh lặng.

Kuri (ánh trăng) quý ngữ chỉ mùa thu dường như trở thành thiên nhãn của bài thơ

chiếu rọi nghệ thuật toàn bài. Không gian quạnh hiu có lẽ là hạt mầm lý tưởng

nhất để Basho phát kiến thành cảm thức sabi sau này. Sự vật bé nhỏ, không gian

bao la như bao trùm lấy kiếp đời ấy, đó là tình thương, đó là sự thật cuộc sống.

67

Bởi haiku là tiếng nói cõi lòng của tác giả về cuộc đời chứ không phải là một thứ

văn chương cung đình như thơ ca quốc âm nữa.

Trong giai đoạn này, dường như Basho đã chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi

văn học Trung Quốc, đặc biệt là Đường thi. Nên haiku của Basho có phần trang

trọng hơn khi dùng nhiều từ Hán. Lối viết haiku với qui định khắc khe 5 – 7 – 5

cũng được chính bậc đại sư thơ haiku này biến đổi và có phần thoáng hơn các qui

định cũ. Nhiều bài thơ haiku sau này được ông viết theo phong cách phá vỡ qui

tắc, vượt quá 17 âm tiết nhưng vẫn đảm bảo một bài haiku hoàn thiện và có phần

độc đáo hơn. Bài thơ sau đây được sáng tác theo lối viết đó:

ro no koe Dạ rét căm căm 櫓の声

namida wo utte harawata kooru tiếng chèo khua sóng 波をうって腸氷る

yo ya namida nước mắt và bóng đêm. 夜や涙

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Với cách sáng tác bất qui tắc 4 – 13 – 5, Basho đã phá vỡ khuôn mẫu của

một bài haiku truyền thống, mà sau này các nhà thơ haiku hiện đại sử dụng rất

nhiều thể loại haiku dư từ này.

Như vậy, thơ haiku của Basho dần dần có những định hướng đổi mới, làm

bàn đạp cho sự cách tân vượt bậc mà khó có thi sĩ nào làm được, đó là đưa nghệ

thuật haiku lên đỉnh cao nghệ thuật. Basho đã bắt đầu chinh phục ước mơ mà ông

dường như bỏ dở trong thời niên thiếu, và giờ Basho trở thành một thầy dạy haiku

danh tiếng.

68

2.2.2. Hình thành phong cách riêng, đưa haiku lên đỉnh cao nghệ

thuật

Với ý chí quyết tâm không để thơ haiku phải “ngừng nghỉ” và chính bản

thân cũng không dừng tiến bộ. Basho trở thành một lữ nhân trên con đường mang

thơ haiku đi khắp nước Nhật. Có lẽ, những chuyến đi là cảm hứng hình thành nơi

thi sĩ. Giai đoạn vào khoảng những năm 1680 “là giai đoạn chuyển tiếp khi ông

làm lung lây cấu trúc thi ca có sẵn để hướng đến một sắc thái riêng biệt cho thơ

mình” [27; 72]. Với thi phẩm Nozarashi kiko 野ざらし紀行 (Dọc đường mưa gió,

1685), Basho đã đánh dấu bước khởi đầu trong phong cách riêng biệt và sau đó là

đưa haiku đến nghệ thuật đỉnh cao.

2.2.2.1. Các định hướng cho phong cách mới

Năm 1680, bên dòng sông Sumida, túp lều cỏ được dựng lên, bên cạnh là

cây chuối do một đệ tử trồng tặng cho Basho. Bút danh Basho ra đời từ đó. Quá

trình ở Basho –an (Ba Tiêu am), phong cách thơ Basho có phần dịch chuyển về

đề tài thiên nhiên. Bài thơ đầu tiên về nơi đây được ông sáng tác:

te wo tateba Tôi vỗ bàn tay 手を打てば

kodama ni akaruku dưới trăng mùa hạ こだまに明くる

natsu no tsuki tiếng dội về, ban mai! 夏の月

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Tiếng vỗ tay vọng về trong đêm tĩnh mịch, tâm hồn Basho như bị dao động

bởi âm thanh bàn tay. Dưới ánh trăng, sự tịch liêu thẫm thấu vào không gian, chỉ

có nhà thơ và cảnh vật, Basho như đốn ngộ đời mình với vạn vật tự nhiên, đốn ngộ

lòng mình với một phong cách mới, xu hướng viết về thiên nhiên và bắt đầu chú

trọng kigo (quý ngữ) như một hình thức nghệ thuật ngôn ngữ đặc thù. Và khung

cảnh gần lều cỏ bước vào bài thơ:

69

basho no waki shite Cây chuối bão giông 芭蕉野分して

tarai ni ame wo nghe mùa thu nhỏ giọt 盥に雨を

kiku yo kana nửa đêm vào bồn. 聞夜かな

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Sự chuyển biến của thiên nhiên là động cơ và trở thành chất liệu cho thơ

haiku của Basho. Nhưng chung quy lại, thơ haiku của Basho vẫn còn xu hướng

tách rời chưa thực sự thống nhất về phương diện nghệ thuật. Tiêu biểu là thơ ông

đi theo ba khuynh hướng cơ bản: thơ lấy cảm hứng từ thơ ca Trung Quốc; thơ sử

dụng kỹ thuật đối chiếu tức thời và thơ hướng đến thiên nhiên.

Trong thi tập Minashiguri (Hạt dẻ rỗng), nhiều bài thơ bị ảnh hưởng sâu sắc

từ thơ ca Trung Quốc. Basho sau khi rời khỏi lâu đài nơi mình làm việc, chu du

khắp nơi và điều ông tiếp thu đó là tư tưởng Trung Hoa.

Có thể nói, tinh hoa của Basho hun đúc trong giai đoạn này nằm ở phong

cách thơ sử dụng hình ảnh đối chiếu tức thời. Có lẽ, đây là nghệ thuật đặc sắc nhất

trong thơ haiku mà Basho đã mất một thời gian dài nghiên cứu và sáng tạo ra nó.

Nghệ thuật này cũng cho thấy nội lực của một Basho có cảm quan tinh nhạy và

yếu tính trực cảm sâu xa từ bên trong. Ở giai đoạn trước, chưa thấy một nhà thơ

nào, hoặc chăng có cũng chỉ mang ý nghĩa hình thức và vô tình sử dụng hình ảnh

đối chiếu. Còn đối với Basho, đó là sự cố tình tạo nên hình ảnh đối chiếu, có chủ

đích và định hướng sáng tạo.

hana no kumo Từ đám mây hoa 花の雲

kane wa ueno ka tiếng chuông vọng lại 鐘わ上野か

asakusa ka? chùa Uneno hay Asakusa? 浅草か

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch)

70

(松尾芭蕉)

Khi đọc bài haiku trên, dường như có sự không liền mạch giữa các hình ảnh

“đám mây hoa” và “tiếng chuông chùa”. Nhưng chính sự gấp khúc trong không

gian bởi hai hình ảnh đó làm cho bài thơ trở nên sâu sắc và mang thêm sự nghi

vấn. Bằng chứng rõ ràng là khi hai hình ảnh này tạo nên trong cùng một không

gian, nhà thơ cũng không thể phân biệt được Uneno hay Asakusa, có lẽ bởi sự

trùng hợp đáng lạ thường của sự vật. Đám mây hoa là đám mây đang bay giữa trời

hay cũng có thể là đám mây do những cánh anh đào rơi tạo nên và cũng là đám

mây tươi đẹp trong lòng người thi sĩ. Tiếng chuông chùa vang vọng, âm thanh như

một điểm nhấn mạnh làm thức tỉnh bầu không gian mơ hồ để chợt nhận ra trong

lòng đang mang nghi vấn. Cùng một hình thức nghệ thuật sử dụng hình ảnh đối

chiếu đột ngột nhưng mỗi bài haiku đều có những màu sắc và phong vị riêng,

chứng tỏ sự vận dụng nghệ thuật khéo léo của Basho.

tsutsuji ikete Hoa đỗ uyên trên bàn 躑躅生けて

sono kage ni hidara dưới bóng hoa その陰に干鱈

saku onna một chị ngồi xẻ cá. 割く女

(Matsuo Basho) (松尾芭蕉)

Hay:

kimi hi wo take Cời lửa lên đi 君火をたけ

yoki monomisen món quà của tôi rất tuyệt よきもの見せむ

yuki maroge quả cầu tuyết đây! ゆきまろげ

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Hàng loạt hình ảnh được Basho chồng chất lên nhau tạo sự sinh động và ý

nghĩa sâu thẳm cho các bài haiku. “Hoa đỗ uyên” và “cá khô”; “ngọn lửa” và “cầu

71

tuyết” tất cả dường như chẳng liên quan nhưng qua bàn tay nghệ thuật của Basho,

tất cả vừa khít với nhau như một sự sắp đặt của tạo hóa. Basho đã thành công trong

biện pháp nghệ thuật mới của mình.

Đến xu hướng thơ thứ ba, đây là xu hướng gắn bó với Basho đến cuối đời.

Không mang ý vị thơ Trung Quốc, hình ảnh không chồng chất, đối sánh với nhau,

mà ở đây mang hơi thở đơn sơ, tự nhiên, mộc mạc nhất. Bài thơ tiêu biểu trong xu

hướng này có thể kể đến bài cánh quạ:

kare eda ni Trên cành khô 枯れ枝に

karasu no tomari keri cánh quạ đậu 烏のとまりけり

aki no kure chiều thu. 秋の暮れ

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Bài thơ là hiện thân của sự giản đơn, tự nhiên đến tuyệt đối. Có thể bài thơ

bị ảnh hưởng bởi phong cách tranh thủy mặc Trung Hoa, với phông nền trắng đen.

Cánh quạ dường như bất động trong ánh sáng cuối ngày của mùa thu. Cánh quạ

nhỏ nhoi như một chấm đen ngưng tụ cả không gian và thời gian trong ấy. Sự dừng

lại, sự nghỉ ngơi tĩnh tại của vạn vật tạo ra một không gian im lặng của đất trời và

tâm thế con người. Bài thơ mang một ý vị Thiền sâu xa trong sự ngưng đọng và

dừng lại ấy. Vạn vật, từ cái nhỏ bé đến cái vô cùng, cái thiên thu và khoảnh khắc,

cái động lẫn tĩnh…tất cả đều hiện hình trong bức tranh mùa thu, như “chân như”

của ba ngàn thế giới. Một tầng bậc nghệ thuật mới của Basho lại được phát triển

trên phong nền thiên nhiên mà ông thường sử dụng. Trước thời Basho, các nhà thơ

haiku cũng viết nhiều về thiên nhiên, nhưng không đạt được sự tao nhã và thuần

khiết tinh túy như Basho.

72

kogarashi no Gió heo may 凩の

ate wa arikeri thiên điểu kéo bầy 果はありけり

umi no oto biển rì rào. 海の音

(Ikenishi Gonsui) (Quỳnh Như dịch) (池西言水)

Tuy là người theo phong cách tiêu phong của Basho, nhưng các bài thơ về

thiên nhiên của Gonsui vẫn chưa thể hiện được sự tinh tế về mặt hình ảnh và đa

dạng về mặt kỹ thuật như Basho. Có thể thấy qua một số bài haiku sau:

yamaro kite Màu hoa tầm xuân 山路来て

naniyara yukashi trên con đường núi 何やらゆかし

sumiregusa níu hoài bước chân. すみれ草

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Và:

kumo to hedatsu Mây nghìn trùng 雲とへだつ

tomo ka yakari no bằng hữu và chim én 友かや雁の

ikiwakare cuộc sống đầy chia ly. 生き別れ

(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)

Qua những bài haiku đó, chứng tỏ khi viết về thiên nhiên qua những chuyến

du hành, Basho đã hình thành cách viết với mẻ, thoát khỏi sự khuôn mẫu của phái

Teimon, bổ sung vào sự tinh tế, nhẹ nhàng của phái Danrin và hình thành nên

phong cách riêng cho bản thân mình. Có thể nói, ở giai đoạn này phong cách Basho

shofu 松風 (tiêu phong) gần như hoàn thiện nhất về mặt nghệ thuật thơ haiku, là

bước đà để Basho tiếp tục phát triển nghệ thuật thơ haiku đến độ toàn mĩ và đạt

đỉnh cao trong con đường thi đạo. Bởi nó “không đề cao mức sống trên ý nghĩa

73

của hiện đại. mà là chỉ cho một thứ “ưu nhã của cuộc sống”. Nó trông mong vào

cái đẹp của “cô tịch”, “nhàn tịch” để hưởng thụ cuộc sống tự nhiên thuần túy”

[12; 222].

2.2.2.2. Nghệ thuật thơ haiku đạt đến đỉnh cao

Với Basho, cuộc đời là những chuyến hành trình để thỏa mãn niềm khát

khao của bản thân. Và những chuyến hành trình đó không bao giờ dừng lại, đó

cũng là nơi sản sinh ra những xu hướng thơ haiku mới. Vì còn đi là còn sáng tạo.

Còn đi là còn khao khát thấu hiểu, khám phá bản thân mình. Có thể thấy, những

cuộc hành trình từ năm 1686 đến 1691 là đỉnh cao cho phong cách thơ haiku của

Basho. Đó là sự trải nghiệm sâu sắc và trưởng thành phong cách Basho. Những

tác phẩm ông để lại chứng minh rất rõ cho điều đó như: Haru no hi 春の日(Ngày

xuân, 1686), Kashima kiko 鹿島紀行 (Nhật kí kỉ hành Kashima, 1687), Oi no

kobubumi 笈の小文 (Văn ngắn trong chiếc gùi, 1688), Arano 阿羅野 (Cánh đồng

không, 1689), Oku no hosomichi 奥 の 細 道 (Nẻo đường Đông Bắc, 1689),

Sarumino 猿蓑 (Áo tơi cho khỉ, 1691), Saga nikki 嵯峨日記 (Nhật kí Saga,

1691),..

Có lẽ, tư tưởng Thiền tông mà Basho học được từ thầy của mình là nhà sư

Butcho đã phát tán và ảnh hưởng mạnh mẽ thơ ca ông trong giai đoạn này. Sự u

hoài, tĩnh mịch, vô thường của cuộc sống dần được Basho đưa vào các thi phẩm

của mình. Thơ haiku của Basho đã tinh tế và đặc sắc nay lại khoác thêm tấm áo

thanh cao hơn và đẳng cấp hơn. Theo xu hướng “sắc tức thị không, không tức thị

sắc” thơ haiku Basho bắt đầu sử dụng những khoảng trống, hình ảnh giản đơn để

tạo ra ấn tượng âu sắc nhất. Tiếp tục phát huy xu hướng ở thời kì trước với tinh

thần hướng về thiên nhiên vạn vật, Basho chuyển hóa những hình ảnh tầm thường

ấy trở nên thanh cao và vô thượng. Haiku của Basho giai đoạn này có thể nói là

74

thoát ly hẳn trần tục, không còn là hình thức mua vui cho tầng lớp bình dân mà trở

thành một thể thơ có giá trị tinh thần cao cấp, mang tính nghệ thuật đặc sắc. Điểm

đặc biệt đánh dấu cho một shofu phong nhã và thấm đẫm tư tưởng Thiền là việc

đưa cảm thức sabi vào thơ haiku. Sabi trong thơ haiku là phạm trù mĩ học xuất

phát từ hai tính từ: sabishi(寂し) và shizuka (しずか) . Việc sử dụng dày

đặc các từ này trong thơ đã làm cho haiku Basho trong thời kỳ này có một phong

vị tĩnh tại, sâu lắng riêng. Đó là một phong cách haiku khác biệt mà chưa bao giờ

bắt gặp như là một tư tưởng trong thơ haiku ở các nhà thơ trước.

shizukasa ya Vắng lặng u trầm 閑さや

iwa ni shimiiru thấm sâu vào đá 岩にしみ入る

semi no koe tiếng ve ngâm. 蝉の声

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Đây là bài thơ tiêu biểu cho chất sabi ấy của Basho. Không gian dần được

gợi mở để âm thanh len vào. Mượn cảm giác của âm thanh gợi tả sự tịch liêu, yên

ả. Tâm hồn con người như hòa vào sự im lặng lạ thường của không gian, sự vô

thường của cuộc đời xuất hiện trong tiếng ve ngâm dài (ve ngân vang rồi sẽ chết).

Cảm giác nhân sinh từ đó bộc phát trong cõi lòng để Basho ghi lại những khoảnh

khắc ấy qua thơ haiku. Hay những bài thơ đầy chất sabi sau:

sabishisa ya Cô liêu 桜しさや

kabe ni taketaru lồng treo trên vách 壁にたけたる

kirigirisu một con dế kêu. きりぎりす

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Hay:

75

hototogisu Tiếng chim quyên ホトトギス

kieyuku kata ya tan dần về phía 消え行くかたや

shima hitotsu đảo cô liêu. 島一つ

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Basho đã nâng những bài haiku thường nhật dùng để chế giễu, cười cợt

thành Thi Đạo. “Đấy là con đường thơ ca đi giữa cuộc đời, ghi nhận những dấu

vết nhỏ nhoi tình cờ mà kỳ diệu, bí ẩn của thiên nhiên” [39; 190]. Nói như vậy để

hiểu rõ về “cái không khí cô quạnh hay lặng lẽ đã được tạo ra khi những sinh vật

nhỏ nhoi ấy đóng nốt vai trò số phận của cuộc đời chúng trong cái bao la của vũ

trụ” [27; 87]. Basho bây giờ không đơn giản ghi lại những khoảnh khắc tức thời

đấy mà đang đi tìm cho chúng một cuộc sống, thổi vào cho chúng một linh hồn.

Năm 1686, trở về lại Edo, Basho đã viết những vần thơ ngắn gọn nhưng

mang tính triết lý sâu xa. Bài thơ ấy là tuyệt tác minh chứng cho một bậc đại sư

đã và đang hoàn thành chặng đường phong cách nghệ thuật của chính mình.

furu ike ya Ao cũ 古池や

kawazu topikomu con ếch nhảy vào 蛙飛びこむ

mizu no oto vang tiếng nước xao. 水の音

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Theo như Hiekata Tomizo “cái mĩ học tĩnh lặng của Basho” đã đạt đến đỉnh

cao trong bài thơ này và “thể hiện được cái đẹp trong cái tĩnh mịch nhất”. Bài thơ

là bức tranh về một tiểu vũ trụ bên trong đại vũ trụ. Tiếng thủy âm như một điểm

nhấn không lời, diễn tả xuất sắc cái động trong cái tĩnh. “Không có âm thanh ấy

thì Ba Tiêu không thể nào thấu triệt được một thứ: vừa là nguồn hoạt động sáng

tạo, vừa là cảnh giới vô thức” [12; 202]. Cả không gian dường như vang lên bởi

76

tiếng nước nhẹ nhàng, sự vật đang im lìm bỗng xáo động bởi bước nhảy của con

ếch. Vạn vật như chuyển mình thức dậy sau sự tác động nhỏ bé, tâm hồn thiên

nhiên dồn tụ nơi cái ao cũ bao ngày bừng ngộ trong tiếng thủy âm vĩnh cửu và tịch

mịch. Bởi “tính cách đặc trưng của haiku Basho là chuẩn bị cho chúng ta hướng

đến cái tình cảm siêu thoát đó” [27; 88].

Và “trong bài thơ Hài cú chỉ có mười bảy con chữ, lại biểu hiện được chân

lý trực giác sâu sắc nhất. Chân lý trực giác đó đặc biệt độc đáo như thế, mà thậm

chí đến cái thể hệ lý luận đường hoàng nhất, cũng không thể giải thích nổi về nó”

[12; 204].

horo horo to Âm thầm không tiếng vang ほろほろと

yamabiki chiru ka rơi bao cánh chùm vàng 山吹散るか

takino oto bên bờ thác nước réo. 滝の音

(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)

Cái tịch liêu không chỉ biểu hiện khi có tính từ sabishi mà còn biểu hiện bên

trong những bài thơ, đó là cách biểu hiện ngầm. Như bài thơ trên, sabi không xuất

hiện trên câu chữ mà lại xuất hiện qua các hình ảnh. Tưởng chừng nó là những

cánh tường vi vàng đang rơi không tiếng động, nhưng thực chất sabi ở đây là tiếng

thác réo. Vì sao Basho tạo ra được tứ thơ như vậy, có lẽ không gì hợp lí hơn vì

“âm thanh” trong chính tâm hồn thi nhân: thứ âm thanh “tĩnh như không tĩnh, động

như không động” trong lòng người. Âm thanh tiếng thác có hãi hùng, âm vang cỡ

nào thì trong thâm sâu nó vẫn là tiếng thủy âm vô thanh. Có chăng âm thanh đó là

do va chạm vào đá, chứ bản chất của nước là vô thanh, là nhẹ nhàng, khoan lạc.

Cánh hoa tường vi là chìa khóa để mở cánh cửa vô thanh của nước, sự đối nghịch

nhưng hòa quyện ở đây một phần do kết hợp biện pháp nghệ thuật sử dụng hình

77

ảnh đối chiếu đột ngột mà chúng tôi đã nêu rõ ở phần trên. Đó là hệ quả của việc

hòa trộn một cách hài hòa các phong cách để đạt được phong cách hoàn thiện

mang dấu ấn shofu.

“Sabi thời kỳ trung đại được nâng lên tính nghệ thuật, khoác thêm cái đẹp,

tô đậm cái cao cả gắn kết nghệ thuật và thiên nhiên, giữa thiên nhiên và cuộc sống

đời thường của con người” [31; 194].

Sự so sánh nội tại giữa cái hữu hạn và cái vô hạn được Basho vận dụng

trong haiku một cách tinh tế và điêu luyện. Trong thơ haiku của Basho, ông thường

sử dụng cách so sánh (có cách tân từ dạng so sánh sự vật ban đầu) bỏ lửng, để một

khoảng trống để người đọc có thể thêm phần cảm nghĩ của mình vào. Bởi vậy, sự

hữu hạn, không gian, sự vật được bộc lộ mạnh mẽ vô cùng.

kogarashi ni Trụ được cơn giông bão 木枯に

iwa fukitogaru thổi mạnh, và ghềnh đá 岩吹きとがる

sugima kana len giữa đám tuyết tùng. 杉間かな

(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)

Khi đến một ngôi chùa nổi tiếng vùng Mikawa, Basho viết bài thơ mang

phong vị của sự so sánh bỏ lửng này. Ở đây, sự hiện diện của thiên nhiên là vô

hạn, không thấy bóng dáng con người. Thiên nhiên hãi hùng chống lại sức mạnh

của giông bão. Những cây tuyết tùng vững vàng đứng đó, nhưng một sức mạnh

của tự nhiên, đại diện cho tầng lớp võ sĩ ở Nhật. Không gian náo động bởi bão

giông, nhưng trong từng ghềnh đá, từng gốc tuyết tùng là sự lặng im đến tịch liêu.

Đó là sự ẩn chứa sức mạnh. Trận cuồng phong không quật ngã rừng tuyết tùng và

sự khó khăn trở ngại không quật ngã được tâm hồn của nhà thơ. Ở đây, cuộc đời

của những tạo vật thiên nhiên phải chịu sự khắc nghiệt của chính thiên nhiên, sự

78

vô thường của đời sống luôn diễn ra, cả vạn vật đều phải gánh chịu. Đó là những

ý nghĩa, những khoảng trống mà Basho đã để lại cho người đọc cảm nhận. Kỹ

thuật này, về sau được ông hoàn thiện, tạo ra những bài học triết lý sâu sắc, chúng

tôi sẽ đề cập rõ hơn ở phần sau.

Như vậy, thời kì này là giai đoạn phát triển rực rỡ và là đỉnh cao trong sự

nghiệp thơ ca của Basho. Các kĩ thuật thơ haiku dần như hoàn thiện và tiếp tục

được ông nâng cao. Xu hướng đưa Thiền vào thơ haiku tạo sự trang trọng, ý vị sâu

sắc đã giúp Basho trở thành một bậc đại sư thơ haiku, là người đầu tiên cách tân

hoàn mĩ thơ haiku về mặt nghệ thuật. Tiếp sau đó, là sự truyền thụ để tạo nên

những bậc thầy haiku sau này, cùng Basho đóng góp vào sự nghiệp đổi mới thơ

haiku. Các cảm thức thẩm mĩ dần được định hình và tạo cho haiku thêm một lớp

áo mới. Đó là giai đoạn không thể không nhấn mạnh trong toàn bộ quá trình cách

tân thơ haiku từ cổ điển đến hiện đại.

2.2.3. Phong cách thơ haiku thực tại, tinh tế Như đã trình bày, giai đoạn huy hoàng nhất của thơ haiku Basho gói gọn

trong những tháng năm du hành (đỉnh cao từ 1686 đến 1691). Nhưng có lẽ, sự nuối

tiếc của Basho là nhận ra chân lý quá muộn trong ba năm cuối đời (từ 1692 đến

1694), khiến ông không thể theo đuổi giấc mộng haiku tiếp tục. Basho viết bài thơ

cuối đời, như một chiếc chìa khóa để đời sau có thể dùng nó để tiếp tục khám phá

những tầng nghệ thuật trong thơ haiku.

tabi ni yande Đau yếu giữa hành trình 旅に病んで

yume wa kareno wo chỉ còn mộng tôi phiêu lãng 夢わ枯野を

kakemeguru trên những cánh đồng hoang. 駆け巡る

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

79

Bài thơ chứa đựng sự hoàn hảo và tinh tế mà Basho đã viết nên khi từ biệt

giấc mộng đồng hoang của mình. Từ “tabi” nghĩa là lữ nhân, và Basho suốt đời là

lữ nhân bước đi không dừng lại. Ba năm cuối đời, Basho giác ngộ sự vô thường

của cuộc đời không chỉ nằm trong cái hiu quạnh tịch liêu (sabi) mà ẩn chứa trong

sự khinh thanh nhẹ nhàng (karumi) với cái nhìn về đời sống: “Một niềm khinh

thanh êm đềm bay giữa tro than và cát bụi trần gian, một lý tưởng được thể hiện

trong thi tuyển gọi là Sumidawara (Túi đựng than) mà học trò của ông ấn hành

vào năm 1694” [9; 199]. Chỉ vỏn vẹn trong ba năm, Basho đã sáng tạo thêm cho

sự nghiệp cách tân thơ haiku của mình những điều đáng trân trọng. Vì “ý đồ của

Hài cú là sáng tạo ra biểu tượng thích đáng nhất, để đánh thức trực giác vốn có

trong tâm của con người” [12; 204].

2.2.3.1. Haiku mang đậm tính triết lý sâu sắc

Thơ haiku của Basho thực chất từ khi mới sáng tác đã mang những triết lý

sâu sắc nhưng phần lớn chưa được thể hiện một cách nghệ thuật. Đến mãi những

năm 1690, những quan điểm triết lý trong Thiền tông mới được khơi sáng trong

thơ của Basho. Tiêu biểu có thể thấy rõ nhất trong tuyệt phẩm Oku no hosomochi.

Ở đây, con đường sâu thẳm về miền Đông Bắc không chỉ là con đường địa lý mà

còn là con đường giác ngộ, con đường sâu thẳm đi vào chiều sâu tâm thức của con

người. Basho trở về với nỗi vô thường vĩnh cửu của đời sống. Trải nghiệm trong

những chuyến đi là những bài học được Basho hun đúc trong các bài haiku, tạo

nên những trang sách tuyệt đẹp của sự kết hợp giữa haiku và văn xuôi như một

kiểu nhật kí hành trình (haibun). Tuy được sáng tác vào những năm 1689, nhưng

Oku no hosomichi vẫn có giá trị đến tận bây giờ, và được coi là một kiệt tác trứ

danh của nền thi ca Nhật Bản. Đa phần những bài thơ mang đậm triết lí Thiền,

được coi là tiêu biểu cho phong cách Basho trong giai đoạn đỉnh cao, đều nằm

trong thi tuyển này.

80

tabibito Mưa đầu đông 旅人と

towaga na yobaren hãy gọi ta là 我名よばれん

hatsu shigure lữ nhân. 初時雨

(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)

Hành trình trở thành lữ nhân cũng là hành trình Basho trở thành thầy giáo

dạy haiku cho những môn đồ. Đây là lần đầu tiên người ta bắt gặp những triết lý

Thiền tông bên trong một bài hài thường dùng để giễu nhại. Đó là điểm khác biệt

hoàn toàn với haiku thời trước. Nghệ thuật thơ haiku đã đạt đến đỉnh cao khi nó

trở thành phương tiện truyền tải những triết lý thâm sâu.

Tính triết lý càng ngày càng trở nên sâu sắc và thấm nhuần trong tất cả các

bài thơ haiku cuối đời của Basho. Những bài thơ haiku được sáng tác tuy ít hơn

giai đoạn trước nhưng mang sắc thái khác hẳn và ý vị Thiền càng rõ rệt. Niềm băn

khoăn, lo lắng cũng bộc lộ kín đáo qua các bài thơ:

asagao ya Hoa triêu nhan ơi 朝顔や

hiru wa jo orosu giữa ngày cổng khóa 昼は鎖おろす

mon no kaki chỉ còn em thôi. 門の垣

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Hay:

kono aki wa Thu này この秋わ

nande toshiyoru sao già nhanh hơn thế 何で年寄る

kumo ni tori cánh chim khuất trên mây. 雲に鳥

(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)

81

Đó là những tâm sự mà Basho đã để lại vào giai đoạn cuối đời, cuộc đi tìm

nghệ thuật mới cho thơ haiku vẫn không ngừng lại đó.

2.2.3.2. Lối viết nhẹ nhàng, thanh thoát

Nếu hơn bảy năm đắm chìm bởi cảm thức sabi, cái cô đơn, quạnh hiu đã có

phần trói buộc phong cách của Basho, mặc dù phải thừa nhân rằng nó là giai đoạn

phát triển vượt bậc trong nghệ thuật thơ haiku; thì trong những năm cuối đời,

Basho chợt nhận ra phải vứt bỏ cái tôi, để cuộc đời mình hoà vào với vũ trụ rộng

lớn, để nghe được tiếng gió hát, hiểu được lối mây bay. “Cao ngộ quy tục”, con

người chưa bao giờ chán lang bạt ấy đã quyết định quay về đối diện với đời sống

thường nhật. Sau khi trở về, Basho chuyển sang lối viết nhẹ nhàng, thanh thoát

hơn theo xu hướng của cảm thức karumi (khinh thanh). Lối viết đó làm giảm bớt

cái cô đơn, nỗi buồn tuyệt vọng của cuộc sống, khiến tâm hồn nhẹ nhàng bay bổng.

Những nỗi âu lo mà trước đó vẫn ám ảnh nhà thơ dường như tan biến vào thinh

không, chỉ còn lại những câu thơ dịu nhẹ trong tâm thế “nhường nhịn chính mình”:

asagao ya Hoa triêu nhan ơi 朝顔や

kore mo mata waga cả em rồi cũng 是も又我が

tomo narazu chẳng là bạn tôi. 友ならず

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Nỗi cô đơn lúc về già dường như cũng tiêu biến, thay vào đó là những vần

thơ lạc quan, thanh thoát hơn:

ki no moto ni Dưới cây, lao xao 木のもとに

shiru mo namasu mo chén canh, đĩa cá 汁も膾も

sakura kana đều vương hoa đào. 桜かな

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

82

Những hình ảnh cuộc sống thường ngày của con người dần dần xuất hiện

trong các bài thơ của Basho. Đây là hướng thay đổi đề tài từ thiên nhiên sang con

người thế tục. Nhưng Basho không từ bỏ hẳn thiên nhiên mà giờ ông nhận thấy

nên quay về cuộc sống trần tục. Là một Thiền sư, giữ lúc Basho đạt đến đỉnh cao

với những vần thơ đầy tư tưởng triết lý, giờ đây Basho lại mong muốn trở thành

một ông già bình thường, tiếp tục là một khách lãng du.

ika uri no Anh hàng cá mực rao 烏賊売の

koe magirawashi nghe sao không phân biệt 声まぎらはし

hototogisu với tiếng đỗ uyên kêu. 時鳥

(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)

Niềm vui đã trở lại với Basho, sự nhẹ nhàng buông bỏ tất cả để trở về thực

tại. Phong cách haiku giai đoạn này không thay đổi nhiều nhưng có sự đặc sắc

mới. Nếu như trước đó, những bài haiku là ghi lại khoảnh khắc nhất thời, là những

triết lý chứa đựng sâu sắc, thì bây giờ mỗi bài haiku của Basho như một câu chuyện

thường nhật, giản đơn và chân thật nhất. Ta ngạc nhiên tại sao một bậc đại sư thơ

haiku lại bỏ đi xu hướng triết lý thơ ca quay về với những vần thơ nhẹ nhàng chân

thật. Đó là một dụng ý mà chính Basho đã cố tình thêm khắc vào thơ haiku như

một sự nêm nếm gia vị. Một món ăn ngon cần có đầy đủ hương vị đắng, chát, ngọt,

mặn, chua, cay, chứ không phải là một vị độc tôn duy nhất. Bởi “cái đẹp tìm thấy

được là khi thiên nhiên nới vòng tay và ôm trọn được con người trong sinh hoạt

thường ngày của họ” [27; 118]. Vẻ đẹp thơ haiku Basho có lẽ đạt đỉnh cao nhất về

sự tinh tế nhẹ nhàng là ngay lúc này khi hàng loạt bài thơ ra đời với phong cách

mới tuy chỉ cách với thời đỉnh cao của sự tịch liêu vài năm. Chứng tỏ sự vận động

của Basho là không ngừng nghỉ trong suốt cuộc đời thơ ca.

83

tsuki yuki to Theo suốt đời tôi 月雪と

nosabari kerashi những năm tháng cuối のさばりけらし

toshi no kure chỉ trăng và tuyết thôi. 年の暮れ

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Hay:

shiragiku no Một cành hoa cúc trắng 白菊の

me ni tatete miru dù nhướng mắt nhìn kĩ 目に立てゝ見る

chiri mo nashi cũng không thấy bụi trần. 塵もなし

(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)

Tất cả là tiếng vui cười ngày nào nhưng được Basho kết hợp với tất cả những

gì ông học được để tạo nên những bài haiku cuối cùng tuyệt tác. Basho đã cố gắng

thay đổi quan niệm sabi từ hướng con người tìm về hòa nhập với thiên nhiên.

Khiến cái ego (tự ngã) tiêu biến khỏi bản chất con người. Quan niệm về sabi dần

được đổi mới, có xu hướng nới rộng ra về sự hoàn nhập cuộc sống và thiên nhiên.

Cái quan trọng nhất là con người phải biết chấp nhận, đối mặt với cuộc đời, xem

nhẹ đời thường và cố hướng đến sự giải thoát, tìm cho bản thân sự bình an nhẹ

nhàng.

niwa hakite Quét tuyết sương 庭掃きて

yuki o wasururu mà quên sương tuyết 雪を忘るる

hahaki kana cây chổi trong vườn. 帚かな

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Bài thơ được làm ở giai đoạn cuối đời của Basho, khi ông trở về với thế tục

sau những cuộc hành trình dài. Đó là một cái nhìn nhẹ nhàng về đời sống. Thân

84

phận cây chổi - vật vốn phải chịu mọi dơ bẩn, thấp hèn trong đời sống nhưng lại

“quên đời sương tuyết”, nghĩa là quên đi những thiệt thòi, đau đớn mà mình phải

gánh chịu, để làm tròn chức phận nhỏ bé trong đời. Rõ ràng đó là cái nhìn nhẹ

tênh, khinh thanh của karumi. Không còn đặt nặng sự đòi hỏi đền bù, hay so sánh...

đó là cái tâm của Bồ tát - người luôn cứu nhân độ thế nhưng không bao giờ nghĩ

mình là người ban ơn hay người khác là người cầu ban ơn.

Cả cuộc đời, Basho đã gắn bó và xây dựng tâm hồn nghệ thuật cho thơ

haiku. Là người đem lại sức sống mãnh liệt và bất diệt, trở thành bậc đại sư thơ

haiku không chỉ riêng ở Nhật Bản mà còn khắp trên thế giới. Phong cách thơ ca

của Basho là quá trình lâu dài cho những chặng đường khám phá, có ảnh hưởng

sâu rộng lên các thiên tài thơ haiku sau này như Chiyo, Buson, Issa,.... Cho dù

những nhà thơ haiku cổ điển và hiện đại sau này có đi theo nhiều khuynh hướng

khác nhau, nhưng tất cả đều phải cúi đầu ngưỡng mộ tài năng và công cuộc cách

tân thơ haiku cổ điển đạt đến mức hoàn mĩ của ông. Basho đã để lại bài haiku với

mong muốn hậu bối hãy tiếp tục công cuộc gầy dựng, chấn hưng, phát triển mới

mẻ thể thơ truyền thống này.

ware ni ni wa Đừng theo tôi 我にには

fatatsu ni wareshi quả dưa dù xẻ nửa ふたつに割わし

maku wauri cần chi hai cuộc đời. まくわうり

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Basho với tư tưởng mới mẻ, dù rằng là một bậc đại sư, nhưng ông không

muốn người khác bị ảnh hưởng bởi phong cách của mình, mà hãy đi tìm một phong

cách mới. Haiku luôn cần vẻ mởi mẻ cũng như các du nữ luôn cần những chiếc áo

85

mới khi mùa xuân đến. Đó là Basho, đó là một phong cách, một tượng đài bất tử

trong lòng mỗi con người Nhật Bản.

2.3. Phong cách nghệ thuật thơ haiku sau Basho

Sau Basho nhiều nhà thơ dựa trên phong cách thơ haiku của ông để nghiên

cứu và tiếp tục phát triển. Bởi “Matsuo Basho là ngôi sao sáng trong những vì sao

lấp lánh trên nền trời của thi đàn Nhật” [32; 536]. Nhưng thơ haiku cũng bắt đầu

trên đà tuột dốc về chất lượng cũng như giá trị nghệ thuật. Nhiều nhà thơ đã ra sức

chấn hưng và tiếp tục cải cách đổi mới để haiku có thể vượt qua và phát triển lại

sau nhiều sự khủng hoảng. Một loạt những phong cách nghệ thuật thơ haiku mới

ra đời dựa trên nền tảng phong cách của Basho và có những đổi mới nhất định.

2.3.1. Khuynh hướng thoái trào của thơ haiku Từ ban đầu, thơ haiku đã mang dáng dấp của những bài thơ mua vui, hài

hước và giễu nhại, qua thời gian dài biến đổi và hoàn thiện nghệ thuật của Basho,

thơ haiku dần trở thành loại hình thơ ca cao cấp. Nhưng vào giữa trùng kì Edo,

người đọc thơ trở nên nhiều và xu hướng sáng tác thơ haiku trở nên gia tăng đột

biến. Số lượng thi sĩ và những bài thơ hay đạt chất lượng khá ít, đa phần là các

nhà thơ xuất phát theo phong trào, không qua trường lớp. Họ chỉ đọc thơ của các

bậc thầy đi trước như Basho rồi tự làm theo mà không có sự hướng dẫn chuyên

môn. Phần vì sau khi mất, Basho không để lại một sách lý luận nào viết về nghệ

thuật và định hướng làm thơ haiku nên nhiều môn đồ của ông đi theo nhiều khuynh

hướng khác nhau, tạo thành sự dị biệt không thống nhất. Từ đó, tầng lớp đam mê

thơ haiku theo phong trào bị lệch hướng và sáng tác kém chất lượng. Nhiều đề

xuất giải quyết sự suy thoái của thơ haiku nhưng do chưa có sự thống nhất và một

đội ngũ chuyên nghiệp nên tàn dư vẫn còn kéo dài mãi đến gần nữa cuối thế kỉ

XVIII. Mười môn đồ xuất sắc của Basho đi theo các xu hướng riêng, tuy có phát

86

triển về nghệ thuật thơ haiku Basho nhưng không đồng đều và chưa triệt để. Có

thể thấy rõ sự tương phản về tư tưởng của Takarai Kikaku 宝井其角(1661–1707)

và Kagami Shiko 各務支考 (1665 – 1731). Takarai Kikaku hình thành trường phái

Edo với văn phong khoáng đạt, trau chuốt, còn Kagami Shito lại thích lối văn

phong dung dị, đời thường, hình thành trường phái Mino. Như vậy, có thể thấy chỉ

trong mười đệ tử xuất sắc nhất của Basho mỗi người đã đi theo một xu hướng khác

nhau và có người khác hẳn thầy mình. Điều đó không phải để phê phán, ngay cả

ý định của Basho trước khi mất cũng mong muốn không một ai ảnh hưởng phong

cách của mình mà hãy đi tìm cái mới. Ở đây, đệ tử của ông cũng đi tìm cái mới,

nhưng chưa đạt được đỉnh cao nghệ thuật và có xu hướng quay lại bước khởi đầu

của haiku. Các đệ tử của Basho đều là những người tài năng, cũng đóng góp một

phần vào giai đoạn trung hưng thơ haiku nhưng chưa thật nổi bật.

2.3.2. Giai đoạn phục hưng thơ haiku và các trào lưu đổi mới Trước tình hình suy thoái trầm trọng nhiều nhà thơ đã ra sức giữ gìn và tiếp

tục phát triển thơ haiku. Nhưng có thể nói giai đoạn chính thức phục hưng thơ

haiku diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII và đạt nhiều thành tựu nhất. Nhận thấy thơ

haiku càng ngày càng tuột dốc suy thoái, phong trào phục hưng thơ haiku được

phát động mạnh mẽ. Những lời kêu gọi quay về với phong cách Basho và đổi mới

haiku nhằm vực dậy tinh thần shofu của Basho. Công cuộc cách tân với nhiều xu

hướng mới ra đời.

2.3.2.1. Các xu hướng mới hình thành trên nền tảng Basho Hưởng ứng phong trào phục hưng thơ haiku sau những suy thoái, nhiều nhà

thơ haiku đã thể hiện hướng đi và phong cách riêng biệt của chính mình. Không

chờ đến cuối thế kỉ XVIII, mà trước đó các môn đồ của Basho đã tiến hành phát

động giữ vững và cải cách thơ haiku trên nền tảng của Basho. Tuy có nhiều nhược

87

điểm trong việc hình thành lý luận nhưng phần đóng góp của các môn đồ vào sự

phát triển haiku rất đáng ghi nhận.

Với mười đệ tử xuất sắc nhất trong gần 2000 môn đệ, những người này đã

tiếp tục con đường của Basho phát triển haiku. Trong đó có thể kể đến Takarai

Kikaku 榎 本 其 角 (1611-1707), Hattori Ransetsu 服 部 嵐 雪 (1654-1707),

Morikawa Kyoriku 森川許六 (1656-1715), Mukai Kyorai 向井 去来 (1651-

1704), Kagami Shiko 各務支考 (1665-1731), Naito Joso 内藤 丈草 (1662-1704),

Sugiyama Sanpu 杉山杉風 (1647-1732), Tachibana Hokushi 立花北枝 (?-1718),

Shida Yaba 志田野坡 (1662-1740), Ochi Etsujin 越智越人 (1656-?). Nổi bật nhất

là Kikaku và Ransetsu với hai phong cách thơ trái ngược nhau. Kikaku có phong

cách khác hẳn lại với Basho, thể hiện sự vật được miêu tả từ bên ngoài, không có

chiều sâu nội tại. Tuy vậy, Basho lại đánh giá cao Kikaku trong các sáng tác và

sau này khi Basho mất Kikaku hình thành phái Edo với một phong cách haiku

mới.

meigetsu ya Bóng trăng âm u 名月や

tatami no ue ni trên manh chiếu 畳の上に

matsu no kage vời vợi trăng thu. 松の陰

(Takarai Kikaku) (Lam Anh dịch) (榎本其角)

Thơ haiku của Kikaku có thiên hướng đào sâu tình cảm hơn là miêu tả cảnh

vật. Cảm xúc trong thơ ông dạt dào, biểu hiện rõ qua bài thơ chứ ít khi mang hàm

ẩn. Đó là một đặc trưng mới của haiku chuyển từ tả cảnh sang tả tình.

yume ni kuru Mẹ trở về 夢に来る

haha wo kaesu ka trong giấc mơ con thấy 母をかえすか

88

hototogisu chim quyên ơi. ほととぎす

(Takarai Kikaku) (榎本其角)

Còn đối với Ransetsu thì trái lại với đồng môn Kikaku của mình, thơ ông

đầy chất tự sự, giản đơn và sâu lắng. Ông tiếp tục phát triển sự nghiệp của thầy

Basho tạo nên những vần thơ tinh khiết.

meigetsu ya Sương khói tỏa lan 名月や

kemuri wa hiiku dưới ánh trăng vằng vặc 煙はひゆく

mizu no ue mặt hồ mênh mang. 水の上

(Hattori Ransetsu) (Lam Anh dịch) (服部嵐雪)

Như vậy, các học trò của Basho tiếp tục con đường của thầy mình là cố gắng

phát triển haiku và không đi theo lối mòn khuôn phạm. Bên cạnh đó, nhiều nhà

thơ nữ xuất hiện, tạo thêm là gió mới cho thơ haiku. Chất nữ tính bắt đầu ẩn chứa

trong những bài thơ mà tiêu biểu đó là Tagami Kikusha 田上菊舎 (1753-1826) và

Kagano Chiyojo 加賀千代 (1703-1775). Thơ Kikusha thấm đẫm màu sắc Phật

giáo, hình ảnh con người và đồng quê. Xuất phát từ một góa phụ, Kikusha nhận

được sự giúp đỡ và tình thương của mọi người trên đường hành hương nên thơ

haiku của bà chứa nặng tình cảm nhân sinh.

sanmon wo Ra khỏi cổng chùa 山門を

dereba nihon zo ơ kìa Nhật Bản 出れば日本ぞ

chatsumi uta khúc ca hái trà. 茶摘みうた

(Tagami Kikusha) (Quỳnh Như dịch) (田上菊舎)

Còn Chiyojo vốn là mộ ni sư nên thơ của bà tinh khiết và giản dị. Sự duyên

dáng và màu sắc nữ tính là điểm nổi bật trong những bài haiku của bà. Nhưng đôi

89

lúc cũng có phần thoải mái, phóng khoáng đời thường, nên thơ bà tuy được đánh

giá cao nhưng không được xem là uyên thâm nhưng các bậc đại sư khác.

nani kite mo Gì cũng được 何来ても

utsukushiu naru hơn cả tuyệt trần 美しうなる

tsukimi kana là ngắm trăng. 月見かな

(Kagano Chiyojo) (Quỳnh Như dịch) (加賀千代)

Như vậy, nhiều xu hướng sáng tác có phần sáng tạo dựa trên nền tảng thơ

haiku của Basho. Đó là điểm đáng ghi nhận, tuy chỉ đóng góp một phần nhỏ và

bắt đầu bị phân hóa nhưng cũng là sự đổi mới về nghệ thuật thơ haiku, góp phần

giúp haiku đứng vững trong thời đại suy thoái.

2.3.2.2. Xu hướng phát triển haiku duy mĩ

Người tiên phong và hoạt động tích cực trong phong trào phục hưng thơ

haiku là Yosa Buson 与謝 蕪村(1716-1784). Theo lời dạy của sư phụ là Hayano

Hajin (1676-1742) “để viết thơ haikai, thì cố gắng đừng đi theo các phong cách

của người đi trước, hãy biến đổi phong cách tùy vào thời điểm, tùy trường hợp,

đem lại cho chúng điều riêng biệt với những gì đi trước hoặc có thể sẽ đến sau”

[45; 5]. Năm 1751, Buson tập trung sáng tác haiku, sự nghiệp thơ ca và hội họa

của ông phát triển mạnh. Những sáng tác của Buson lúc đầu có ảnh hưởng bởi

phong cách của Basho, các đặc điểm nghệ thuật của thơ haiku vẫn tuân thủ theo

Basho. Nhưng khi nhớ lại lời người thầy quá cố Hajin thì Buson đã phát triển thơ

haiku đi theo một xu hướng mới, có thể gọi là haiku theo lối duy mĩ. Bài thơ sau

như minh chứng cho sự sống động trong thơ Buson:

shira ume ni Hoa mơ trắng 白梅に

akaruku yobakari ni rực sáng 明るく世ばかりに

90

nari ni keri màn đêm. なりにけり

(Yosa Buson) (Quỳnh Như dịch) (与謝蕪村)

Nếu như Basho chú trọng về sự tĩnh lặng, cái tịch liêu trong không gian thì

ở Buson sự sôi động lấn át cả không gian làm cho bài thơ trở nên hào hứng với

những hình ảnh tươi vui. Như vậy “thơ Basho có tính chủ quan thì ở thơ haiku của

Buson tính khách quan là phần ưu thế” [49; 240]. Theo nhiều nhận định, nhưng

đối với chúng tôi, thơ Buson chưa hẳn là những trãi nghiệm thực tế từ các chuyến

đi mà có phần mô phỏng theo phong cách cổ điển và thêm vào đó sự mới mẻ.

Theo nhiều chiều hướng khác Basho, Buson chủ trương “thoát tục”. Những

bài thơ haiku của Buson đi theo xu hướng nghệ thuật mới haiga 俳画 (bài họa)

nghĩa là kết hợp thơ ca và hội họa tạo nên một nét nghệ thuật đặc sắc. Sự tinh tế

nhất của Buson là biện pháp mô tả kép giữa tính hiện thực và phi hiện thực, tạo

nên những vần thơ duy mỹ đầy nghệ thuật. Để làm rõ hơn luận điểm này chúng

tôi xin trích dẫn vài bài thơ của Buson:

ima ha haya Lá non 今ははや

udo mo kuwanrenu thổ đương quy 独活も食われぬ

wakaba kana nào đã được ăn! 若葉かな

(Yosa Buson) (Quỳnh Như dịch) (与謝蕪村)

Hiện thực đang bày ra trước mắt nhà thơ, cây Udo (thổ đương quy) đang

đâm chồi ra lá mới. Theo kinh nghiệm cây Udo được dùng làm rau, và khi Buson

nhìn thấy cây đâm chồi thì biết chưa thể ăn được phải chờ một thời gian nữa mới

là độ ngon nhất. Sự duy mĩ trong bài thơ nằm ở chổ nhìn cây nhưng biết là chưa

ăn được. Sự cảm tính đó (khi chưa thử lá Udo) của thi sĩ là hình thức của sự phi

thực, khi nhìn nhận sự vật ngay tức thời. Nhưng lối song hành duy mỹ hiện thực

91

và cảm tính phi thực càng làm cho nghệ thuật thơ haiku của Buson phát triển vượt

bậc. Bởi thơ haiku của Buson “sinh ra từ “vô minh”, và là nguồn gốc bất định có

trong thế gian” [12; 211].

Thơ của Basho giàu hình ảnh thì khi đến với Buson thơ haiku lại mang đậm

tính âm thanh. Với biện pháp dùng nhiều từ tượng thanh trong bài thơ, cho dù là

âm thanh trực tiếp hay âm thanh gián tiếp cũng bật lên sự sinh động.

haru no umi Biển ngày xuân 春の海

hinemosu notari cả ngày dài không ngừng 終日のたり

notari kana nhấp nhô, nhấp nhô ngọn sóng. のたりかな

(Yosa Buson) (Lam Anh dịch) (与謝蕪村)

Buson đã khéo léo dùng từ láy “notari notari” để mang lại âm thanh sóng

biển cho bài thơ. Sự nhấp nhô không ngừng nghĩ khi đọc có thể ta liên tưởng thành

hình ảnh sóng biển, nhưng khi cảm nhận ta có thể nghe được âm thanh của biển

cả đang dậy sóng. Với cách sử dụng từ tượng thanh nhấn mạnh như vậy, Buson

đã tạo ra âm thanh ngầm cho bài thơ, và âm thanh đó có thể bộc phát lên bất cứ

lúc nào.

Tuy nói thơ Buson chú trọng về âm thanh nhưng hình ảnh trong thơ ông còn

dạt dào và đẫm sắc hơn cả. Là thi sĩ của mùa xuân, Buson thường viết về sự vật

tươi đẹp lúc xuân đến. Với sự phối màu đặc biệt của một họa sĩ, trong thơ haiku

Buson cũng dùng nghệ thuật phối màu đồng nghiệm nhưng nổi bật và đặc sắc.

na no hana ya Hoa cải rực vàng 菜の花や

tsuki wa higashi ni phương Tây mặt trời ngả bóng 月和東に

hi wa nishi ni phương đông mặt trăng lên 日わ西に

92

(Yosa Buson) (Đoàn Lê Giang dịch) (与謝蕪村)

Sự phối màu tuyệt diệu giữa hoa cải vàng, ánh mặt trời và ánh trăng, tất cả

đều là màu vàng. Nhưng màu vàng là sự tiếp nối không hề giống nhau, hoa cải

vàng rực dưới ánh mặt trời buổi chiều tàn, rồi sau đó đó ánh trăng lên. Không gian

nghệ thuật trong bài thơ như sự giao hòa mà cây cải là chủ thể tiếp nối giữa ngày

và đêm. Cho dù có sáng hay tối thì hoa cải vẫn nhuốm một màu vàng, vàng của

mặt trời và của mặt trăng. Sự tiếp biến ấy là một bảng màu hoà trộn mà chỉ có một

thi họa thiên tài như Buson mới có thể làm được.

Đặc biệt các bài thơ về mùa xuân càng thấm đẫm màu sắc và cách sử dụng

kigo điêu luyện.

furuniwa ni Còn đâu trong vườn 古庭い

uguisu nakinu tiếng chim oanh thuở nọ 鶯なきぬ

hi mo sugara ngày dài vẫn trôi. 日もすがな

(Yosa Buson) (与謝蕪村)

Hay:

harusame ni Mưa mùa xuân 春雨に

ikikaeritaru làm bừng tỉnh 生きかえりたる

wakame kana một mầm non xanh. 若め哉

(Yosa Buson) (与謝蕪村)

Mùa xuân ấy mang cả sự sống, mang đậm màu sắc xinh tươi, sôi động, là

lúc vạn vật hồi sinh. Đó cũng là lúc haiku bắt đầu hồi sinh lại sau những suy thoái

bởi làn gió mùa xuân Buson thổi vào tâm hồn nghệ thuật mới mẻ.

93

Không dừng ở những sự thay đổi nghệ thuật thơ ca ấy, Buson tiếp tục sự

nghiệp cách tân cho thể loại thơ haiku. Nếu Basho đã tiến hành phá cấu trúc thơ

haiku nhưng chưa triệt để hoặc bắt buộc để có bài thơ theo ý muốn, thì ở Buson,

ông tiếp tục ý định biến thơ haiku thành thể tự do, báo hiệu xu hướng phát triển

gần với haiku cận đại. Những bài thơ phá cách của Buson là sự cố ý dùng từ ngữ

nhằm nhấn mạnh ý nghĩa và sự vật trong bài thơ.

hi wa hi kure yo Từ sáng đến hoàng hôn 日は日くれよ

yo wa yo ake yo to từ đêm đến bình minh 夜は夜明よと

naku kaeru vang vang tiếng ếch. 啼蛙

(Yosa Buson) (Đoàn Lê Giang dịch) (与謝蕪村)

Cấu trúc bài thơ có sự phá cách 6 – 7 – 5, tuy có phần mới nhưng không lạ,

vì chính Basho còn phá cách kiểu vỡ hoàn toàn cả dòng đầu và dòng cuối của bài

haiku. Nhưng cái mới mà Buson thể hiện ở đây là kết hợp sự phá vỡ khuôn mẫu

với biện pháp điệp âm. Hình thức nghệ thuật này haiku chưa hề thấy. Buson điệp

âm hai câu đầu “hi wa hi” (ngày qua ngày” và “yo wa yo” (đêm qua đêm)và hai

vế điệp này đối lại nhau một cách hết sức tinh tế bằng ngôn từ mà khó nhà thơ nào

làm được ngay cả Basho. “hi wa hi kure yo” đối với “yo wa yo ake yo” tức ngày

qua rồi đến đêm đối với đêm qua lại đến ngày và cuối cùng chốt lại ở tiếng ếch

kêu vang. Tất cả những hình ảnh truyền thống được Buson đưa vào thơ với những

biện pháp nghệ thuật mới khiến cho thơ haiku thêm đặc sắc và sáng tạo. Nói như

vậy để thấy Buson như cánh hoa mùa xuân đem đến cho thơ haiku một luồng sinh

khí mới, thay đổi cuộc đời haiku từ nỗi u buồn tịch liêu sang một trang mới đầy

tươi vui và sinh động. Cả cuộc đời, Buson để lại 20850 bài thơ với nhiều xu hướng

đổi mới khác nhau. Các tập thơ như Zoku Ake garasu (Cánh quạ buổi sơm, 1784),

94

Buson kushu (Tuyển tập haiku Buson, 1784), là dấu ấn cho một thi sĩ bất diệt của

haiku Nhật Bản.

2.3.2.3. Xu hướng “phi haiku”

Nếu như Buson là người khai sáng phong cách haiku duy mĩ, mang lại mùa

xuân cho haiku đang điêu tàn. Thì Kobayashi Issa lại đi theo một lối khác, tạo lập

một phong cách nghệ thuật cho riêng mình. Sau Basho và Buson, chưa có nhà thơ

nào kiệt xuất có thể tiếp tục vực dậy tinh thần và linh hồn nghệ thuật cho thơ haiku.

Cuối thời kì Edo, một phong cách haiku khác lạ xuất hiện trên thi đàn làm chao

đảo nền haiku cổ điển vì nó mang một xu hướng “phi haiku”. Thơ haiku Issa là

nỗi buồn triền miên, sự thống khổ và cam chịu đến tột cùng. Có thể nói, thơ haiku

của Isa đời thường đến mức không thể đời thường hơn nữa, sự cảm thông và lòng

trắc ẩn bao trùm toàn bộ các thi phẩm của ông. Văn phong thô mộc, dân dã với

nhiều khẩu ngữ và phương ngữ địa phương khác hẳn với phong cách tiêu phong

trữ tình của Basho và lối duy mỹ hoa lệ của Buson. Khi đọc haiku của Issa, chúng

ta có thể thấy đó không phải là haiku mà là những lời cảm thán, thương xót, vì thế

nó phi truyền thống và phi haiku. Vứt bỏ lối chơi chữ điêu luyện, lối dùng từ trau

chuốt và các triết lý nhân sinh sâu sắc, Issa đem vào thơ mình những hình ảnh hết

sức nhỏ bé và thân thuộc, số phận đớn đau như chính cuộc đời ông. Ở đâu cung

thấy được hình bóng thi sĩ trong từng bài thơ, đây như thiên tự truyện mang nặng

tính tự sự về cuộc đời.

kome maku mo Giành nhau mổ thóc 米幕も

tsumi zoyo tori wa thương thay chú gà 罪ぞよ鳥は

keai zoyo mắc phải tội. 蹴合ぞよ

(Kobayashi Issa) (小林一茶)

95

Đó phải chăng lối sống tranh giành mà Issa phải chịu đựng trong suốt quãng

đời. Tranh giành sự sống của người thân từ tay thần chết, tranh giành miếng ăn từ

sự lao động khổ cực, tranh giành giá trị nhân sinh cho những kiếp đời, bởi cuộc

đời Issa là những chuỗi ngày dài sống trong sự tranh giành đấy. Cách diễn đạt khác

thường, lạ lẫm với những lối haiku truyền thống mang tính hài hước, vui đùa, bản

chất tao nhã của haiku đã biến mất qua trái tim trần của Issa.

naki haha ya Ôi, biển khơi 亡母や

umi miru tabi ni khi tôi nhìn thấy biển 海見度に

miru tabi ni mẹ tôi ơi! 見る度に

(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)

Hay:

ware to kite Đến đây nào, với tôi 我と来て

asobe ya oya no cùng chơi đùa, chim sẻ 遊べや親の

nai suzume không còn mẹ trên đời. ない雀

(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)

Niềm xúc cảm lúc Issa mồ côi mẹ lúc lên ba, và tiếp đó là những nỗi đau

mất đi người thân mà ông chỉ biết ngước nhìn chứ không làm gì thay đổi được.

ware shinaba Châu chấu voi ơi 我死なば

haka mori to nare mai này tôi chết 墓守となれ

kirigirisu canh mộ dùm nhé. きりぎりす

(Kobayashi Issa) (Quỳnh Như dịch) (小林一茶)

Sự cô đơn làm nên màu sắc đau thương trong thơ Issa như tất cả những gì

ông có được. Nghệ thuật thượng thừa đỉnh cao của thơ haiku phút chốc tuột xuống

96

trần thế để khóc cùng trái tim trần đau khổ này. Đó là đỉnh cao nghệ thuật thực tại

mà người đời sau không thể nào quên Issa và quên những vần thơ đẫm lệ này.

Giọng thơ sâu thẳm cái tôi trữ tình và sự cảm thông với nhân thế. Ngoài ra, haiku

đối với Issa còn là phương tiện lột tả xã hội hai mặt cuối thời Edo. Thơ haiku của

Issa thể hiện sự song chiếu, chồng xếp giữa trữ tình và hiện thực.

Nếu Basho đưa Thiền vào như những công án chứa đựng triết lý, thì ở Issa

giá trị Phật tính được tôn lên hàng đầu. Bởi theo Issa, thế giới có tạo thành cũng

do những hạt bụi và thiên nhiên có vĩ đại cũng do vạn vật nhỏ bé làm nên. Xu

hướng đưa haiku hướng đến sự thầm thường “phi không” để từ đó đào sâu giá trị

nghệ thuật của thơ ca.

aonoke ni Ngửa mình 仰のけに

ochite naki keri con ve mùa thu ấy 落ちて鳴きけり

aki no semi thảm thiết, kêu gào. 秋の蝉

(Kobayashi Issa) (小林一茶)

Và:

katatsumuri Chậm rì, chậm rì かたつむり

soro soro nobore kìa con ốc nhỏ そろそろ登れ

fuji no yama trèo núi Fuji. 富士の山

(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)

Hay:

hitori naku wa Chú chim mồ côi ひとり鳴くは

oya nashi tori yo tiếng kêu đơn độc 親無し鳥よ

aki no kure trong bóng chiều thu 秋の暮

97

(Kobayashi Issa) (Lam Anh dịch) (小林一茶)

Giá trị thi ca giờ đây đơn giản chỉ bó gọn trong những hình ảnh bình dị, nhỏ

bé nhưng đầy đau đớn. “Con ve”, “con ốc nhỏ” hay “ chú chim mồ côi” là những

hình ảnh hiện thực giữa đời thường. Và nỗi đau khổi thốt lên từ những kiếp lầm

than đó là sự phản ánh xã hội một cách tựu trung. Đến thời Shiki, hình thức chủ

nghĩa tả thực mới được tiếp thu từ phương Tây, nhưng ngay lúc này ở Issa là những

vần thơ chân thật hơn những gì chân thật.

Như đã trình bày phía trên, phong cách nghệ thuật của Issa còn được chú

trọng vào các yếu tố khẩu ngữ. Sau này, nhiều nhà thơ hiện đại chủ trương theo

xu hướng này, Issa là người khơi gợi đầu tiên cho phong cách nghệ thuật khẩu ngữ

trong thơ haiku. Thay vì sử dùng những từ ngữ bóng bẩy, Issa đã “tầm thường

hóa” ngôn ngữ thơ haiku để trở nên gần gũi với cuộc sống thực tại nhất.

chiru sakura Lả tả rơi 散る桜

kyo mo muchakucha những cánh anh đào 今日もむちゃくちゃ

kurashikeri rối ren như cuộc đời. 暮しけり

(Kobayashi Issa) (小林一茶)

Hoa anh đào lả tả rơi, khẩu ngữ “muchakucha” thể hiện sự hỗn tạp, không

hoàn mĩ được Issa sử dụng. Những vần thơ này đã vượt qua tính qui phạm, chuẩn

mực của thơ haiku.

Như vậy, sau Buson, Issa tiếp tục mang đến sự mới mẻ cho thơ haiku. Nghệ

thuật thơ haiku dần được nâng cao và đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Nhiều nhà thơ,

trong đó tiêu biểu là Buson và Issa đã có tính kế thừa và phát huy phong cách nghệ

thuật thơ haiku, như chính lời Basho nhắn nhủ trước khi từ giã cõi đời.

98

TIỂU KẾT 2

Ở chương 2, chúng tôi đã đi sâu phân tích quá trình cách tân nghệ thuật thơ

haiku thời Basho. Tuy lấy Basho là trọng tâm, cột mốc của quá trình đổi mới nghệ

thuật haiku nhưng trong chương này chúng tôi cũng phân tích cụ thể về giai đoạn

haiku trước cũng như sau thời Basho. Điều này cho thấy sự phát triển theo lịch đại

của haiku qua các thời kì lịch sử cũng như thời kì văn học. Ở đây chúng tôi chú

trọng đến những bước cách tân khởi đầu, tuy chưa có sự rõ rệt nhưng phần nào đã

cho thấy dấu hiệu sự đổi mới của thơ haiku cổ điển. Trước thời Basho, xoay quanh

hai trường phái thi ca là Teimon và Danrin với quá trình hình thành và chấn hưng

thơ haiku theo nhiều phương cách, tuy có gặp những khuyết điểm nhưng đóng góp

là đáng kể. Từ nền tảng này, Basho bắt đầu phát triển qua những chặng đường đi

tìm nghệ thuật cho thơ haiku. Các cách tân của Basho được kể đến như: phát triển

độc lập thơ haiku, xây dựng phong cách nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, đưa mĩ

học Thiền vào thi pháp thơ, giúp haiku đạt đến trình độ nghệ thuật đỉnh cao về tính

triết lý. Quá trình này là một chặng đường dài, được Basho đánh đổi bằng tất cả

sự cố gắng và cả cuộc đời lang bạt. Đó là một đóng góp vĩ đại, góp phần lí giải vì

sao Basho được tôn là bậc đại sư thơ haiku. Sau thời Basho là những tháng ngày

haiku lâm vào sự suy thoái, điều này được nhắc đi nhắc lại ở nhiều giai đoạn, ngay

cả vào thời Shiki. Vì bản chất của quá trình thành công là dựa trên sự thất bại, phải

có thoái trào mới dẫn đến sự vận động, đổi mới. Các nhà thơ nổi bật như Buson

và Issa tiếp bước quá trình cách tân đó với những phong cách nghệ thuật đầy mới

mẻ và đặc sắc.

Như vậy, qua chương 2, chúng tôi giới thiệu và phân tích những bước đầu

hoàn thiện thơ haiku những gợi mở để các nhà thơ sau này tiếp tục đưa haiku qua

một trang mới.

99

CHƯƠNG 3: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI SHIKI

3.1. Công cuộc cải cách thơ haiku thời Meiji Sau nhiều năm trong tình trạng “bế quan tỏa cảng”, Nhật Bản bắt đầu mở

cửa, thông thương trở lại với các nước bên ngoài. Thời đại Meiji đánh dấu bước

ngoặt phát triển về mọi mặt của Nhật Bản, một kỷ nguyên mới được mở ra. Thiên

Hoàng Minh Trị cùng những quyết sách cải cách sáng suốt, Nhật Bản bắt đầu thay

da đổi thịt về mọi mặt. Kinh tế - xã hội, văn hóa, tiếp thu từ phương Tây tạo ra

bước tiến vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản. Cùng với đó, văn học không ngừng đổi

mới. Trước sự du nhập văn học, tư tưởng phương Tây, nhu cầu đổi mới của văn

học Nhật lúc bấy giờ (ở mọi thể loại) ngày càng trở nên cấp thiết. Trong đó, thơ

haiku nói riêng và nền văn học truyền thống Nhật Bản nói chung cũng đã ráo riết

chạy theo công cuộc cách tân này.

3.1.1. Sự khuôn mẫu trong việc làm thơ haiku - nguyên nhân dẫn đến

suy thoái

Đầu thời Meiji, và sau đó kéo dài hơn một thập kỉ, thơ haiku tiếp tục rơi vào

tình trạng dần suy thoái khi haiku dần đi vào sự lặp lại và bế tắc trong đề tài lẫn

nguyên lí sáng tạo. Không có một nhà thơ nào đủ khả năng tham gia vào công

cuộc cách tân nghệ thuật thơ haiku từ thời Issa. Chất lượng thơ kém, đôi khi haiku

vẫn là một loại hình mua vui tầm thường, nghệ thuật không có sự đặc sắc, mới mẻ.

Sáng tác thơ haiku mang tính thiếu chuyên nghiệp và ít chú trọng đến giá trị nghệ

thuật, thơ haiku dần dần đi vào sự thoái trào do nhiều yếu tố tác động tiêu cực.

3.1.1.1. Sự bảo trợ của chính phủ và những hệ lụy

Lúc này Nhật Bản mở cửa giao lưu với các nước phương Tây, tình trạng du

nhập văn hóa ồ ạt khiến chính phủ bắt đầu lo ngại việc phát triển văn hóa ngoại lai

sẽ lấn át văn hóa nội sinh. Vì thế, chính phủ muốn biến các loại hình nghệ thuật

truyền thống thành công cụ hỗ trợ tinh thần yêu nước, chống lại sự ngoại lai văn

100

hóa, trong đó có haiku. Đây không hẳn là việc làm tích cực, mong muốn phát triển

văn học nước nhà mà đơn giản là giữ vững nền quân chủ chuyên chế. Thơ haiku

được chính phủ giúp đỡ phát triển nhưng lại đi theo hướng thụt lùi vì chỉ phục vụ

cho chính trị, không quan tâm đến tính sáng tạo nghệ thuật và tính văn học. Đó là

một điều đáng lo ngại trong quá trình phát triển của thơ haiku. Nhiều nhà thơ vì

phục vụ cho quan điểm của chính phủ nên đã gần như đánh mất bản chất nghệ

thuật của thơ haiku. Cơ bản là sau chiến tranh Nhật - Thanh, văn học lúc này bắt

đầu đả phá xu hướng truyền thống mà chính phủ bảo trợ bấy lâu. Thơ haiku cũng

bắt đầu phá vỡ lối mòn: sáng tác để phục vụ chính quyền.

Tiên phong trong phong trào này là các nhà thơ ủng hộ thơ mới. Haiku lâm

vào tình trạng bị xâu xé, đánh giá, tấn công từ những lý thuyết hiện đại. Theo

Tsubouchi Shoyo 坪内 逍遥 - một nhà lí luận nổi tiếng, thì haiku lúc này không

có một giá trị hiện thực nào đối với cuộc sống của con người thời hiện đại. Còn

theo như quan điểm mới của Yatebe thì “nói chung, người trên thế giới, chứ không

cứ gì ở phương Tây, khi làm thơ đều dùng ngôn ngữ hằng ngày” và “có thể bày tỏ

dễ dàng và trực tiếp những gì họ cảm thấy trong lòng” [38; 448]. Lối viết phúng

vịnh hoa mỹ đã biến thơ haiku thành mục tiêu của sự khai trừ trong xã hội mới.

Suzuki Shoku ra sức bênh vực, kéo haiku về với giá trị truyền thống của nó. Cho

rằng nếu nói thơ mới có định hướng sát sao với đời sống hiện đại nhưng không có

khoảng trống để người đọc liên tưởng, cách miêu tả trực tiếp, bộc bạch làm giảm

giá trị nghệ thuật trong thơ ca (đối với thơ ca phương Đông, giá trị nghệ thuật

tưởng tượng được chú trọng). Chỉ có thơ ca truyền thống mới mang đầy đủ tính

sâu sắc của cả nghệ thuật dân tộc và có giá trị đặc sắc lâu đời. Tuy nhiên những

quan điểm đó vẫn không được đánh giá cao và công nhận. Vì giai đoạn này thơ

mới phát triển hết sức mạnh mẽ.

101

Chính phủ bắt đầu thấy sự lung lay của công cụ cai trị tinh thần của nhân dân nên

dần nới lỏng sự bảo trợ và sau này hủy bỏ lối bảo trợ mang tính chính trị đó. Từ

đó, thơ haiku bắt đầu bị đánh giá thấp trong việc tạo mối quan hệ xã hội thực tế.

Như vậy, dưới sự bảo trợ của chính phủ, thơ haiku phát triển theo khuôn

khổ chính trị và những giá trị chuyên chế. Các nhà thơ sáng tác nhằm mục đích

“trung quân ái quốc” chứ chưa thực sự phát triển một cách thực sự nghệ thuật thơ

haiku mà các tiền bối đã để lại. Thơ haiku bắt đầu giai đoạn suy thoái, một phần

chủ quan do người sáng tác và các loại hình sáng tác, phần khách quan do chính

trị - xã hội quyết định. Nói để thấy, giai đoạn này, thơ haiku thực sự phụ thuộc và

các yếu tố xã hội, khác với sự độc lập và phát triển mạnh trong giai đoạn tiền và

hậu chiến sau này. Điều này là minh chứng cho sự thoái trào của văn học Nhật

Bản nói chung và thơ haiku nói riêng trong trào lưu Duy Tân Minh Trị.

3.1.1.2. Lệ thơ tsukinami 月並 – lối sáo mòn của haiku hiện đại

Tsukinami là hình thức họp thơ mỗi tháng, cùng sáng tác và mỗi nhóm

tsukinami sẽ đưa ra một qui chế về hình thức và qui luật thơ riêng. Vì nhiều nguyên

nhân tiêu cực nên tsukinami là một tàn dư, và là nguyên nhân chính ở thời kì Meiji

khiến haiku suy thoái. Tuy không trực tiếp phê phán nhưng chính Masaoka Shiki

đã nhận định đây là một sự sáo rỗng vì ngôn ngữ thơ không có sự sáng tạo và đi

theo lối thống nhất. Thơ haiku bắt đầu chịu sự khép kín, bị hạn chế về đề tài và

nghệ thuật thể hiện, chất liệu sáng tác và các quan điểm đổi mới. Tuy không bị

cuộc đổi mới văn học thời Meiji tác động mạnh mẽ nhưng vì sự gò bó quá hạn hẹp

của các trường phái, haiku không thể phát triển một cách toàn diện. Gần như toàn

bộ xu hướng sáng tác trong các tsukinami đều chịu sự ảnh hưởng của ba nhà thơ

cuối thời Edo là Narita Sokyuu (1761-1842), Sakurai Baishitsu 桜井梅室 (1769-

1852) và Horo (?-?). Nghệ thuật thi ca của những tác giả này mang tính lề lối và

102

qui cũ, vì luôn chú trọng vào kigo và không hề phát triển được ý nghĩa nghệ thuật

của nó. Các bài haiku sáng tác với số lượng khá nhiều và được sắp xếp thành tuyển

tập, với các bài haiku có khuynh hướng sáng tác theo lệ tsukinami của từng nhóm,

trường phái thơ. Đó là một mối nguy hiểm đối với sự tồn vinh của thơ haiku mà

chính Basho đã cảnh báo trước đó. Haiku đã rất nhiều lần rơi vào tình trạng tương

tự như vậy, nhưng đây là lần nghiêm trọng nhất cho sự phá vỡ nền nghệ thuật đặc

sắc của thơ haiku. Nếu quay về thời kì trước, các phái Teimon hay Danrin đi theo

lối riêng nhưng vẫn chú trọng phát triển đặt nền móng nghệ thuật. Đến thời kì sau

Basho, haiku lại tiếp tục đà tuột dốc với những qui lối sáng tác, nhưng lại có phần

tiến bộ là hình thành những phong cách mới riêng biệt. Cho đến thời kì này, haiku

bị bắt buộc sáng tác theo khuôn mẫu của từng nhóm riêng biệt. Tuy có sự phong

phú nhưng vẫn chưa phát triển được nghệ thuật như những thời kì trước đó.

Lệ thơ tsukinami có ảnh hưởng toàn bộ và sâu sắc đến những sáng tác lúc

này. Như đã trình bày về sự chi phối và bảo hộ của hệ thống chính trị, các nhóm

thơ này ra sức thể hiện lòng trung thành với chế độ. Sức ảnh hưởng không tưởng

của lệ thơ tsukinami chứng minh qua việc Shiki – một nhà cách tân thơ haiku vĩ

đại, lúc đầu cũng bị ảnh hưởng bởi nó. Những bài thơ Shiki viết khi đến Tokyo đã

mang hơi hướng của sự rập khuôn ấy:

ki wo tsumite Tỉa mấy cành cây 木をつみて

yono akeyasuki hừng đông thật sớm 夜の明やすき

komado kana trên cửa nhỏ này. 小窓かな

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Những bài thơ này về sau chính Shiki đánh giá là vô vị và không có phong

cách haiku khi chỉ đơn giản viết theo lối chủ quan mang tính logic thông thường.

103

Cắt đi những nhành cây trước nhà thì ô cửa sẽ đón được ánh sáng. Nói như vậy để

thấy lệ thơ tsukinami đã góp phần làm giảm giá trị nghệ thuật thay vào đó là tăng

tính chủ quan theo trật tự logic của quá trình miêu tả.

Lệ thơ tsukinami không được khắc phục, bên cạnh đó nó còn phát triển rộng

khắp với những mô hình nhóm thơ ca lớn. Tư duy người sáng tác dần bị chi phối

đông đảo. Suốt hơn 20 năm dưới sự phát triển của lệ thơ tsukinami, thơ haiku càng

rơi vào suy thoái nặng nề. Nhiều nhà thơ có định hướng thoát khỏi khuynh hướng

tsukinami nhưng chưa thể tìm được hướng phát triển tốt nhất. Vì mô hình này đã

đi sâu vào quần chúng, quan niệm sáng tác dễ dàng phù hợp với tầng lớp ham mê

sáng tác đại trà nên việc thay đổi tức thời là không thể. Việc thay đổi để haiku có

thể thoát khỏi sự ràng buộc kép kín là một điều cấp thiết, cần có sự phối hợp giữa

những nhà thơ thật sự hiểu biết và chuyên môn về haiku.

Chỉ đến năm 1892, xu hướng về các lệ thơ tsukinami mới bắt đầu suy thoái

sau những đề xuất thay đổi của Shiki về việc cách tân mọi mặt thơ haiku. Như thế,

bất cứ thể loại văn học nào cũng có lúc phải suy thoái bởi những trào lưu mang

tính chủ quan, haiku là một trường hợp không ngoại lệ. Từ đó, các phong trào cải

cách dưới sự lãnh đạo của nhà thơ Shiki, haiku bắt đầu sự sống mới trong dòng

chảy văn học hiện đại Nhật Bản.

3.1.2. Những khuynh hướng thay đổi đưa haiku khỏi biến động Trước tình trạng đầy biến động của thời cuộc do sức ép của văn học phương

Tây và sự đả kích từ các nhà thơ mới, thơ haiku cần có những khuynh hướng thay

đổi. Xã hội hiện đại với các trào lưu mới xuất hiện ngày càng nhiều, thơ haiku

buộc phải đứng trước nhu cầu đổi mới, cần tìm ra những lối đi riêng, từ đó nhiều

phương án đề xuất cách tân được từng bước vận dụng. Dưới đây là một vài khuynh

104

hướng theo các tiêu chí khác nhau đã diễn ra trong quá trình đổi mới, cách tân

haiku:

3.1.2.1. Giữ vững “Nhật Bản tính” trong thơ haiku

Đây là hướng phát triển haiku được Suzuki Shoko đề xuất khi ông lên tiếng

bênh vực thể thơ truyền thống trước sức ép của các nhà thơ mới. Với quan điểm

thơ haiku phải mang đầy đủ “Nhật Bản tính”, là linh hồn của dân tộc nên cần phát

huy hơn nữa bản chất đó của haiku. Suzuki Shoko vạch ra nhiều dẫn chứng về

“Nhật Bản tính” trong haiku từ thời Basho – người được kính trọng nhất trong thi

đàn.

kyou nite mo Chim quyên hót 京にても

kyou natsukashi ya ở Kinh Đô 京なつかしや

hototogisu mà nhớ Kinh Đô. ほととぎす

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)

Đó là tinh thần của cảm xúc hướng nội, đặc trưng của người Nhật, tình cảm

sâu lắng được thể hiện qua tâm hồn. Tính lịch thiệp, đúng mực, kiềm chế được

cảm xúc nhất thời là một điểm nổi bật trong văn hóa ứng xử và giao tiếp của người

Nhật Bản. Điều đó được Shoko hướng đến nhằm bảo tồn và phát triển trong thời

đại hội nhập văn hóa ngoại lai.

Tiếp đó là giữ vững phong tục, tập quán của dân tộc qua các bài haiku truyền

thống nổi tiếng của Buson, Issa. Tôn vinh “Nhật Bản tính” như tôn vinh những “vị

thần ” (kami) - truyền thống của Thần đạo Shinto.

hi no hikari Hừng sáng 日の光

kesa ya iwashi no ánh mặt trời 今朝や鰯の

kashira yori rọi đầu cá khô.

105

(Yosa Buson) (Quỳnh Như dịch) 頭より

(与謝蕪村)

Hay:

hitonami ni Trên dãy chiếu 人並みに

tatami no ue no người người xếp hàng 畳の上の

tsukimi kana ngắm trăng. 月見かな

(Kobayashi Issa) (Quỳnh Như dịch) (小林一茶)

Đó là những phong tục không thể thiếu trong cuộc sống của người Nhật,

làm nên sự khác biệt văn hóa đời nay. Hay các lễ hội: ngắm hoa đào, ngắm trăng,

lễ hội đom đóm… theo từng mùa là nét văn hóa đặc sắc mà cả dân tộc đều yêu

chuộng và gìn giữ.

Tuy nhiên, xu hướng này không được nhiều người tán thành vì nó không

còn phù hợp với thời đại mới. Truyền thống là thứ giữ gìn và phát huy, nhưng đôi

khi cũng cần phải đổi mới, hòa trộn thêm vào đó màu sắc hiện đại, như vậy mới

tạo ra sự cân bằng và đà tiến về phía trước. Quan niệm của Shoko vẫn được xem

là một khuynh hướng để làm cho haiku không bị hủy diệt trước những biến động,

suy thoái, đặc biệt là trước trào lưu thơ mới lúc bấy giờ. Về sau, các nhà cách tân

cũng quay về với xu hướng truyền thống này nhưng có sự cải cách nổi bật hơn.

3.1.2.2. Đáp ứng tình hình và nhu cầu xã hội

Một vấn đề quan trọng cần giải quyết để haiku phát triển đó là đáp ứng được

nhu cầu xã hội đề ra. Với sự phát triển quá hiện đại, như việc tiếp thu quá nhiều lý

thuyết, khuynh hướng và chủ nghĩa mới của phương Tây, haiku cần có sự chạy

đua để bắt kịp thời đại, đáp ứng nhu cầu đọc mới… Vấn đề về nghệ thuật và đề tài

cần sửa đổi, nhiều đề tài mới như cuộc sống của dân thành thị, xoay quanh khai

106

thác nội tâm con người. Hệ thống hình ảnh mới được đưa vào thơ haiku như lối

sinh hoạt, các phương tiện, hoạt động vui chơi hiện đại… Tuy nhiên, truyền thống

vẫn được đề cao và có phần biến đổi theo thời gian. Tầng lớp xã hội dần bị phân

hóa do xã hội mang xu hướng tư bản hóa, nên các hình thức văn học và lực lượng

sáng tác cũng thay đổi theo. Văn học chịu ảnh hưởng nhiều bởi văn học “tự do”

phương Tây nên hình thức haiku tự do cũng phát triển mạnh, đạt đỉnh cao vào

trung kì Meiji. Các nhà thơ cách tân lần lượt xuất hiện, mang tư tưởng tiến bộ và

phong cách sáng tác mới mẻ. Haiku từ đó được cải cách và nâng cấp theo từng

giai đoạn, tiêu biểu nhất là cuộc cải cách của Shiki. Haiku dưới quan điểm phục

vụ thời đại và xã hội, con người mới đạt nhiều thành tựu về nghệ thuật.

3.1.2.3. Cách tân toàn diện về mọi mặt

Như đã trình bày, haiku cần phát triển theo kịp thời đại xã hội, nên công

cuộc cách tân rất quan trọng. Các khuynh hướng cách tân liên tục ra đời. Thơ

haiku được đổi mới về mọi mặt để bắt kịp không khí ấy.

Quá trình này được chia thành nhiều giai đoạn với xu hướng cách tân khác

nhau. Nhưng chung quy vẫn góp phần phát triển và đổi mới nghệ thuật thơ haiku.

Với sự tác động mạnh từ sự vận động của văn học hiện đại, một số hình thức nghệ

thuật trong thơ haiku cần đổi mới. Về mặt ngôn từ và cấu trúc phải có sự thích

nghi với các ảnh hưởng của thơ ca phương Tây như tính tự do, trực quan, hiện

thực. Về hình ảnh cần có sự hòa kết giữa truyền thống và hiện đại. Các thủ pháp

nghệ thuật cần da dạng và đặc sắc, là sự phối hợp tổng thể nghệ thuật trong một

chỉnh thể thống nhất để đạt được trình độ nghệ thuật cao. Đó là những thách thức

cần các nhà cách tân thực hiện để đưa haiku khỏi suy thoái và biến động trong thời

đại mới.

107

Với sự ra đời của nhiều trường phái, nhiều nhà cách tân vĩ đại như Shiki đã

đặt những tảng đá đầu tiên cho trào lưu cách tân thơ haiku mới. Nhiều phương tiện

phục vụ công cuộc truyền bá các trào lưu như ngành báo chí, xuất bản… đã trở

thành cánh tay đắc lực cho các nhà cách tân haiku. Nói chung, haiku cần thay đổi

về mọi mặt, và sự đóng góp trong công cuộc cải cách của các nhà thơ là điều kiện

cần và đủ để haiku tồn tại.

3.2. Shiki với cuộc cách tân thơ haiku hiện đại

Masaoka Shiki 正岡子規(1868-1912) đã bước một bước dài thành công

trong công cuộc cách tân thơ haiku hiện đại. Đúng như Jannie Beichman đã nhận

định về Masaoka Shiki: “Khi so sánh các bài haiku mà Shiki viết trong những năm

1892-1895, lúc đó phong cách của Shiki phát triển đỉnh cao, so với những bài thơ

đầu tiên sáng tác vào những năm 1880 lúc chỉ biết đến kiểu viết thơ theo kiểu lệ

thơ tsukinami, sẽ thấy rất rõ” [43; 48]. Theo quan niệm về cách viết haiku của

Shiki, thơ haiku mang sự quyến rũ đơn thuần là ở trực giác và nhận thức trực quan

sâu sắc, không nằm ở chỗ phân tích mổ xẻ bài thơ. Cho nên, Shiki chủ trương đi

theo một lối mới với công cuộc cách tân thơ haiku triệt để trên nhiều phương diện

trong đó chú trọng đến nghệ thuật thơ haiku. Đối với Shiki, công cuộc hướng đến

haiku và cách tân haiku là niềm say mê vô hạn, bởi “chỉ có niềm đam mê với thơ

ca, không có gì có thể cứu vãn được tôi ngoài nữ thần haiku” [43; 16]. Năm 1892

là năm đánh dấu việc hình thành phong cách haiku mới cho thơ haiku của Shiki.

Và sau đó là chặng đường phát triển mạnh mẽ trở lại của haiku. Shiki là người đầu

tiên thay thế tên gọi haiku cho thể thơ hokku truyền thống mà các thi nhân thời

trước vẫn thường dùng. Bởi, haiku đến thời Shiki, ý thức độc lập về mặt thể loại

mới chính thức được đề xướng vì đó không đơn thuần là việc đổi tên mà cần thay

đổi tất cả để được hoàn thiện.

108

3.2.1. Bước đầu cho những cải cách thơ haiku hiện đại Từng bước Shiki và các đồng môn, sau này là các đệ tử phát triển thơ haiku

theo xu hướng đáp ứng được mọi yêu cầu của xã hội hiện đại. Những bước phát

triển đầu tiên để vực dậy thơ haiku trong thời đại suy thoái trầm trọng, tuy gặp

nhiều khó khăn, nhưng bằng tất cả nỗ lực, và tình yêu dành cho haiku Shiki đã có

định hướng đúng đắn trong con đường cách tân. Có thể nói, cách tân nghệ thuật

thơ haiku thời Shiki là mạnh mẽ và toàn diện nhất.

3.2.1.1. Báo chí – phương tiện cách tân hoàn hảo

Để cải cách và thoát khỏi lối sáo mòn hiện tại, Shiki đã phát triển thơ haiku

trên phương tiện chủ yếu là báo chí. Bởi chỉ có báo chí thời kì hiện đại mới gây

được sự chú ý của độc giả và dễ dàng truyền tải thông tin đến nhiều người.

Shiki chủ trương phát triển haiku rộng rãi trên các tờ báo, không chỉ về số

lượng mà còn về chất lượng nghệ thuật. Ông phát động chống lại lề lối, khuôn sáo

của haiku hiện hành và đề ra nhiều phương hướng thay đổi. Phái Nhật Bản (do

Shiki đứng đầu) chủ trương nâng cao vị trí văn học và giá trị nghệ thuật của thơ

haiku. Nhiều tạp chí và báo ra đời nhằm phục vụ mục đích trên, trong đó có các

báo do chính Shiki là chủ bút. Nippon 日本(Nhật Bản, 1892) đánh dấu thời đại

báo chí phục vụ cho phát triển haiku, nhưng hai năm sau do một số vấn đề Nippon

buộc phải đóng cửa (1894). Thay vào đó là sự hình thành của Sho-Nippon 小日本

(Tiểu Nhật Bản), tiếp tục công cuộc cánh tân. Năm 1892, Shiki viết Dansai Shyo

– oku Haiwa (Bàn về cách viết haiku qua tìm tòi sách vở), sau đó 1895 lại viết

Haikai Taiyo (Bài hài đại yếu) với mục đích đưa ra những nguyên tắc cơ bản để

làm một bài haiku mới. Không dừng ở đó, Shiki tiếp tục phát triển các tạp chí như

Hototogisu 時鳥 (Chim quyên, 1897), xuất bản Tuyển haiku (1897) và nhiều bài

109

báo khác chủ yếu chú trọng vào nguyên tắc và cách viết thơ haiku. Chính Shiki

cũng đăng tải các bài haiku của mình để làm mẫu:

sekkyou ni Những lời thuyết giáo 説教に

kegareta mimi wo nghe chói cả tai 汚れた耳を

hototogisu chim quyên ơi. ホトトギス

(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)

Đó là hình thức đả kích lệ thơ tsukinami, với những lời thuyết giáo khuôn

mẫu không có sự sáng tạo và mang tính chủ quan, điều mà các nhà thơ haiku hiện

đại không nên học theo để sáng tác thơ haiku. Chỉ có tiếng chim quyên (nhằm chỉ

tạp chí Hototogisu) là tiếng kêu thanh âm trong trẻo để hướng haiku lên hàng nghệ

thuật mới.

Shiki cho đăng tải tất cả các bài haiku mà tác giả gửi về các báo do ông chủ

bút, số lượng lên đến hàng ngàn bài. Không chỉ hoạt động báo chí ở Tokyo, ông

còn phát triển rộng rãi ra nhiều nơi để phổ biến haiku đi khắp quần chúng, đây là

thành tựu mang giá trị chưa từng có của thơ haiku mà trước đó chưa thấy. Các bài

thơ được chính Shiki tuyển chọn, góp ý và định hướng nghệ thuật. Các báo, tạp

chí liên tục xuất bản với số lượng lớn, nhiều tạp chí vẫn hoạt động đến bây giờ

như Hototogisu, chứng tỏ sức ảnh hưởng lớn của báo chí trong xã hội hiện đại.

Với số lượng bài đăng hơn 10 ngàn bài haiku và 20 ngàn bài tanka, Shiki

trở thành bậc đại sư cải cách thơ haiku và định hướng phát triển tanka trong thời

Meiji.

sanzen no Nghiền ngẫm 三千の

haiku wo kemishi ba ngàn bài haiku 俳句を閲し

110

kaki futatsu ăn trọn hai quả hồng. 柿二つ

(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)

Bài thơ như sự tập trung của Shiki, thể hiện quyết tâm cách tân haiku đến

mức quên đi những việc mình làm, không quan tâm đến bên ngoài. Ngay cả khi

trên giường bệnh (năm 1892, khi sức khỏe Shiki kém đi), công việc này vẫn diễn

ra bình thường, như thường nhật vì đó là một sứ mệnh. Sự thôi thúc đó vẫn rạo

rực trong một con người mang ngọn lửa niềm tin và ngọn lửa đam mê thơ ca.

yomei Còn bao lâu 餘命

ikubaku ka aru cuộc đời tôi いくばくかある

yo mijikashi một đêm ngắn ngủi. 夜短し

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Để tiếp tục công việc cách tân nghệ thuật haiku qua báo chí, Kawahigashi

Hekigodo 河東碧梧桐 (1873-1937), Naito Meisetsu 内藤鳴雪 (1847-1926) và

Takahama Kyoshi 高濱虛子 (1874-1959) cũng ra sức thành lập nhiều tờ báo địa

phương, các hội thơ, trường phái để góp phần phổ biến thơ haiku hiện đại. Trong

đó phái Hototogisu sau này của Kyoshi là phát triển nhất với nhiều bài haiku thuộc

phong cách phúng vịnh.

Như vậy, bằng báo chí, thơ haiku được phát triển theo khuynh hướng hiện

đại. Không những góp phần vào việc cải cách haiku mà phái Nhật Bản của Shiki

còn góp phần vào việc hình thành và phát triển nền báo chí hiện đại Nhật Bản.

Những thành công gặt hái được từ phương tiện thông tin này mở ra một trang mới

cho lịch sử văn học Nhật Bản nói chung và thơ haiku nói riêng. Du nhập từ phương

Tây nhưng loại hình báo và tạp chí nhanh chóng tiếp cận với văn hóa, xã hội Nhật

Bản hiện đại, trở thành công cụ cho những nhà cải cách văn học như Shiki.

111

3.2.1.2. Phê bình lối viết haiku truyền thống

Ngoài việc lên tiếng đã kích lối thơ haiku “lỗi thời” bởi lệ thơ tsukinami,

Shiki còn phê bình lối viết haiku của các bậc đại sư đi trước, trong đó có cả Basho.

Năm 1893, trong Zatsudan Basho (Chuyện phiếm Basho), Shiki ngoài việc đề xuất

tên haiku thay hokku, ông còn trực tiếp phê bình cách viết haiku của Basho. Trong

Haikai Taiyo, ông có chỗ đánh giá thấp Basho: “Tôi phải nói rằng đa số haiku của

Basho chẳng hay ho gì cả nếu không nói là không chỉnh về âm vận. Số bài xếp vào

hạng đầu không có lấy một phần mười” [38; 492]. Để làm rõ điều đó ông tiến hành

phân tích lại các bài thơ hay nhất của Basho, trong đó số lượng bài làm Shiki khâm

phục khá ít. Nói như vậy để thấy, lối thơ của Shiki mới mẻ hoàn toàn so với kiểu

haiku cổ điển. Để chứng minh, chúng tôi xin trích dẫn so sánh thử đôi chỗ để thấy

sự khác biệt của Shiki so với Basho trong cùng một đề tài.

asagao ni Bữa điểm tâm 朝顔に

ware wa meshiku tôi ăn và ngắm 我は飯食ふ

otoko kana những đóa triêu nhan. 男かな

(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)

Và:

asagao no Ôi hoa triêu nhan 朝顔の

chi wo haiwataru lê mình trên đất 地を這ひわる

akiya kana trong sân nhà hoang. 空家哉

(Masaoka Shiki) (Nhật Chiêu dịch) (正岡子規)

Ta hãy đối sánh bài thơ của Basho với bài haiku cùng đề tài của Shiki về

hoa triêu nhan. Basho đắm mình với thiên nhiên, quên đi thực tại chìm sâu vào vẻ

đẹp của những đóa triêu nhan, ông đang dùng “bữa điểm tâm” bằng đôi mắt u

112

huyền để thấy triêu nhan như một món ăn ngon. Dường như thiên nhiên ban tặng

cho con người những điều trân quý, bức tranh của Basho mang hơi thở sự tịch liêu

của không gian và chứa đựng cảnh đẹp thực tại, chỉ có người và hoa. Nhưng đến

với Shiki, hoa triêu nhan nở không còn là vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng, giờ là

nỗi buồn, sự cười nhại số phận. Đó là nỗi buồn theo khuynh hướng xã hội hiện

đại. Trong sự điêu tàn nhất của xã hội, thân phận con người vẫn như những đóa

triêu nhan, vẫn nở, vẫn khoe sắc dù cô đơn, dù hoang phế, không ai ngắm nhìn.

Sân nhà hoang là bến đỗ, thân phận không nơi bấu víu phải lê mình dưới đất của

những đóa triêu nhan. Đó là tư tưởng “hiện thực” trong thơ haiku thời hiện đại mà

Shiki đang muốn hướng đến. Nhưng cho dù có đánh giá và phê bình lối viết “quá

truyền thống”, thì chính Shiki cũng khâm phục trước những đóng góp to lớn của

Basho. Basho đã vực dậy những phương thức nghệ thuật đặc sắc cho riêng haiku

mà các phái thơ trước đó, và cả sau này không hề làm được.

Người mà Shiki chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong sự nghiệp sáng tác của

mình là Buson. Tuy nhiên, không ngoại lệ Shiki vẫn lên tiếng phê bình lối viết quá

duy mĩ và hoa lệ của Buson. Ông đả phá quan niệm “thơ haiku không thích hợp

miêu tả nhân tình mà chỉ thích hợp miêu tả cảnh thiên nhiên” [43; 32]. Thơ haiku

về thiên nhiên của Buson tuy có vẻ đẹp nhưng chưa mang đậm tình cảm, một sự

duy mĩ “thiếu sót” cho haiku. Ông mạnh mẽ nói “dù có giống Buson nhưng lại

biến hóa hơn so với Buson” [43; 30]. Không phải Shiki đang tự cao và đạp đổ nền

tảng ban đầu mà ông đang muốn hướng đến những sửa đổi cơ bản để giúp haiku

hiện đại hoàn thiện hết mức có thể. Minh chứng điều đó, chúng ta hãy đọc hai bài

thơ sau:

shiratsuyu ya Bụi cỏ ngây 白露や

ibara to toge ni mỗi giọt sương trắng

113

hitotsu zutsu đọng một cành gai. 茨の刺に

(Yosa Buson) (Nhật Chiêu dịch) 一つずつ

(与謝蕪村)

Và:

asatsuyu ya Sương ban mai 朝露や

meshi taku kemuri một làn khói trắng 飯焚く煙草

kusa wo hau trên cỏ lướt dài. を這ふ

(Masaoka Shiki) (Nhật Chiêu dịch) (正岡子規)

Cũng là giọt sương, cũng vào buổi sớm ban mai, nhưng giọi sương của

Buson có phần tĩnh lặng và thụ động khi treo mình trên cành gai. Còn đối với

Shiki, giọt sương có tính chủ động, linh hoạt hơn khi lướt dài trên cỏ, tạo ra một

làn khói trắng ấn tượng trong thơ. Có thể thấy, nếu như Buson còn ảnh hưởng bởi

sự chất sabi của Basho với hình thức nghệ thuật không gian tĩnh, thì Shiki khác

hẳn với lối viết sinh động và gắn với nhịp sống hối hả của thời đại mới – thời đại

giao lưu văn hóa với phương Tây.

Như vậy, với các bước khởi đầu định hình cho công cuộc cách tân lớn nhất

của thơ haiku, Shiki có những quan điểm mới so với các quan điểm trước đó. Đầu

tiên chính Shiki tự phê bình bản thân bị ảnh hưởng quá nhiều bởi phong cách

tsukinami sau đó là phê bình cách viết thiếu tính chủ động của haiku truyền thống.

Đây là những cơ sở để làm mẫu cho sự hình thành luồng tư tưởng và lối nghệ thuật

mới. Nếu không có những nhân tố đó, có lẽ Shiki khó có thể thành công trong

công cuộc cách tân của mình.

114

3.2.2. Bước tiến vượt bậc trong cách tân nghệ thuật thơ haiku Năm 1900, tác phẩm Haiku Bunrui 俳句分類 (Phân loại tuyển tập Haiku)

được xuất bản. Có thể nói đây là bước ngoặt đưa Shiki đạt bước tiến vượt bậc

trong việc cách tân haiku của mình. Dành hơn 10 năm để nghiên cứu, sáng tác và

thử nghiệm nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau. Tuy thời gian hoạt động thơ

ca không quá dài nhưng Shiki đạt được nhiều thành công đáng kể, với Shiki –

zenshu (Shiki toàn tập) gồm 22 quyển. Bài thơ thành công đầu tiên năm 1895 Shiki

được ông xem như là tiêu chuẩn nghệ thuật thơ haiku đổi mới.

kaki kueba Ăn quả hồng 柿食えば

kane ga naru nari chuông Pháp Long tự 鐘が鳴るなり

houryuji ngân vang. 法隆寺

(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)

Để hiểu thêm quá trình cách tân thơ haiku hiện đại của Shiki, trong phần

dưới đây, chúng tôi sẽ đi làm rõ ba phương diện thay đổi nghệ thuật (có nhiều

phương diện nhưng chúng tôi chỉ chú trọng vào các phương diện tiêu biểu nhất)

mà Shiki đã có đóng góp lớn nhất vào công cuộc cải cách này.

3.2.2.1. Khuynh hướng tả sinh và những bước tiến mới

Mô hình thuật ngữ shasei 写生 (tả sinh) lần đầu tiên du nhập vào Nhật Bản

do họa sĩ Fusetsu Nakamura 中村 不折 (1866-1943). Thực chất trước đó Buson

đã thể hiện được điều này nhưng chưa hình thành thuật ngữ và có tính khái quát

sơ khai qua loại hình haiga 俳画 (bài họa). Bởi shasei đang trở thành xu hướng

trong buổi giao thời văn hóa phương Tây nên Shiki quyết định dựa trên khuynh

hướng này để phát triển cách tân thơ haiku. Ngoài ra, Shiki còn kết hợp cả mô

hình lí tưởng shajitsu 写実 (tả thực) được họa sĩ người Pháp Raphael Collin (1850-

115

1916) khởi xướng tại Nhật Bản vào đầu thời Meiji. Sự hòa quyện giữa shasei và

shajitsu làm cho haiku như được “tái sinh” sau những ngày chìm đắm trong suy

thoái. Mô hình sáng tác haiku mới với nghệ thuật tả sinh hình thành và bắt đầu

phát triển mạnh mẽ.

Từ lý thuyết tả sinh, Shiki định hướng lại cách sáng tác haiku thực tế hơn

với đời sống xã hội. Lối chơi chữ và tưởng tượng trong haiku dần bị xóa bỏ, thay

vào đó là sự quan sát thực tế, sinh động sự vật một cách tự nhiên.

kuruki made ni Tím chuyển 黒 き ま で に

murasaki fukaki sang đen 紫 深 き

budo kana những chùm nho. 葡萄 か

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Hay:

kaburitsuku Tôi cắn chặt răng かぶりつく

jukushi ya hige o vào trái hồng chín 熟柿や髯お

yogoshikeri rơi từng giọt xuống râu. 汚しけり

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Những bài thơ hết sức chân thực miêu tả lại những quá trình tự nhiên diễn

ra trong đời sống. Càng ngày, thơ haiku của Shiki càng thấm đẫm tính hiện thực,

bởi chất liệu làm thơ của ông là những gì có sẵn trước mắt, là cái hiện thời. Shiki

từng khẳng định điều đó như sau “hãy lấy tư liệu từ chính những thứ đang hiện

diện xung quanh – nếu thấy cây bồ công anh thì hãy viết về cây bồ công anh. Nếu

thấy sương mù hãy viết về sương mù. Nguồn thi liệu cho văn chương là vô tận.

Ngay cả đôi giày cũ cũng có thể trở thành thi liệu cho thơ văn còn hay hơn là viết

về đôi giày của phương Tây” [43; 46].

116

Không dừng ở lối tả thực đầy sinh động như vậy, Shiki còn đề xuất hướng

lối thơ “Phi Không Phi Thực”. Shiki cho rằng haiku không chỉ mang tính thực tế

sát sao mà cần thêm sự không tưởng, nếu giao hòa tốt hai yếu tố này haiku sẽ đạt

được trình độ nghệ thuật tuyệt vời nhất. Chúng ta thấy, trong một khuynh hướng

Shiki vẫn không hài lòng với cái có sẵn mà còn phải kết hợp để chúng thêm tính

đa dạng.

byosho no Tôi cảm thấy 病牀 の

ware ni tsuyu chiru sương rơi trên tôi 我 に 露 ち る

omoi ari khi nằm trên giường. 思 ひ あ

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Hay:

kobai no Hoa mận đỏ thẫm 紅梅 の

chirinu sabishiki rải trên sự cô đơn 散りぬ淋 し き

makura moto chiếc giường. 枕 元まくら

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Hai bài thơ này tiêu biểu cho lối viết sáng tạo kết hợp chất hiện thực và tâm

tưởng của Shiki. “Sương” và “hoa mận” là hai sự vật mang tính chất hiện thực,

hoạt động ở đây diễn ra thường nhật như chính qui luật của tạo hóa “sương rơi”,

“hoa rụng”. Nhưng ở đây, “sương” lại rơi trong tâm tưởng của thi sĩ, một sự việc

diễn ra có vẻ như nghịch lý so với tự nhiên, làm sao sương có thể rơi trong nhà,

rơi trên tác giả. Hoa mận rụng trong sự cô đơn, không phải là sự cô đơn của con

người mà là sự cô đơn của chiếc giường. Lại thêm một trường liên tưởng đầy tính

ngoạn mục, hai bài thơ như có mối liên kết thực tại tuyệt vời. Tác giả nghĩ đến

ngày mình rời khỏi chốn trần thế này, sương phủ đầy người trong sự lạnh lẽo và

117

chiếc giường cô đơn không ai nằm trải đầy hoa mận đỏ. Không gian ảo đang dần

là không gian thực khi chính nhà thơ tiên định được căn bệnh của đời mình. Sự

phối trộn hiện thực và liên tưởng khiến cho haiku thêm phần đặc sắc. Nếu đứng

trên một phương diện duy nhất (hoặc hiện thực, hoặc lãng mạn), haiku có khi sẽ

không đạt đến sự hòa quyện ấy.

Những bài haiku của Shiki luôn mang tính miêu tả khách quan, Buson cũng

từng làm thơ mang tính khách quan nhưng ở Shiki lại có điểm mới hơn. Điểm mới

là cái khách quan của Shiki không đi sâu vào cái ta chung mà có sự hòa phối nhịp

nhàng. Kết hợp giữa khách quan và chủ quan, giữa giản đơn và tinh tế, giữa hiện

thực và huyền ảo. Bởi thế, haiku của Shiki như một hiện tượng kết tinh của tất cả

nghệ thuật trước đó và thêm phần đổi mới sáng tạo. Hàng loạt bài thơ hình thành

trên phong cách đó:

harukaze ya Đứng trên đồi 春風や

toushi idakite tôi thách thức 闘志いだきて

oka ni tatsu gió xuân. 丘にたつ

(Masaoka Shiki) (Đoàn Lê Giang dịch) (正岡子規)

Hay:

kurimishi ya Hạt dẻ trắng 栗 飯 ヤ

byonin nagara mặc dù tôi bệnh 病人 ナ ガ ラ 大

okurai vẫn cứ háu ăn. 食 ヒ

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Để tìm ra được những đặc trưng nghệ thuật đó, không hề đơn giản, mà cần

phải có một quá trình lâu dài nghiền ngẫm và sáng tạo không ngừng. Cuộc đời

ngắn ngủi chỉ 35 năm, trong khi chính thức hoạt động thơ ca khoảng hơn 10 năm,

118

vậy động lực nào đã giúp Shiki rút ngắn quá trình tìm tòi, khám phá ra một phong

cách nghệ thuật mới? Có lẽ một phần do sự nhạy bén trước cuộc sống, xã hội hiện

đại, một mặc do lí tưởng sục sôi bắt buộc phải cách tân thơ haiku. Và cũng phải

kể đến tinh thần dân tộc, thôi thúc Shiki cứu lấy văn hóa truyền thống. Shiki bắt

đầu viết rất nhiều, tiếp cận vô vàng sự vật, hiện tượng xung quanh đời sống, phát

triển khuynh hướng tả sinh lên một tầm cao mới. Chỉ trong năm 1893, Shiki sáng

tác hơn 4000 bài haiku. Khuynh hướng tả sinh được Shiki vận dụng thành công

trong hầu như tất cả các bài haiku của mình, những bài tuyệt tác cũng mang bóng

dáng của tả sinh.

Không hề mệt mỏi với công cuộc cách tân thơ haiku, Shiki bỏ qua bệnh tật

và tiếp tục cuộc hành trình về với cái mới.

futasuji ni Hai cầu vồng 二 筋 に

niji no tattaru đã hiện lên 虹 の 立 っ た る

aota kana trên cánh đồng xanh ngát. 青田哉

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Đó là bức tranh thiên nhiên sử dụng phương pháp tả thực khách quan dường

như là cuối cùng của Shiki. Lối viết vừa khách quan vừa lột tả được cả tâm trạng

của tác giả. Có mấy khi xuất hiện hai cầu vồng, rồi sự phối màu hòa điệu với thiên

nhiên được sử dụng tinh tế, trên nền cỏ xanh. Đó là cảnh vật, đó cũng là mong ước

có thêm nhiều người mang niềm đam mê cách tân cho thơ haiku. Sự mong mỏi

haiku ngày càng phát triển, đạt trình độ nghệ thuật cao và đạt được chiều sâu tâm

thức chân thực. Đó là Shiki, người phát triển khuynh hướng tả sinh trong thơ haiku

đầu tiên thời Meiji.

119

Cũng bằng lối tả thực khách quan này, các quan niệm về cảm thức thẩm mĩ

cũng được thay đổi đáng kể trong thơ haiku. Không như thơ haiku truyền thống,

thơ haiku hiện đại xem cảm thức thẩm mĩ đơn giản là những run cảm bình dị nhất

mà sự hài hước hóm hỉnh của thơ haiku mang lại. Không câu nệ, ẩn ý Thiền như

Basho, Shiki khuyến khích sáng tác những vần thơ chân thực, thoát khỏi sự bộn

bề, căng thẳng, đưa tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng vào trong thơ. Sự đổi mới đó

cũng là bước ngoặc giúp chúng ta có cái nhìn mới mẻ hơn về quan niệm thẩm mĩ.

3.2.2.2. Đỉnh cao của “haiku dư từ”

Nếu nói, đến thời hiện đại, haiku mới bắt đầu phá vỡ cấu trúc truyền thống

(5-7-5) để đổi mới thì không phải. Từ thời Basho đã có sự biến đổi này, nhưng đến

thời kì hiện đại, sự phá vỡ cấu trúc ấy mới mang một chủ đích cụ thể và đạt đỉnh

cao thực sự.

Có lẽ, sự phát triển của haiku dư từ bị tác động bởi phong trào thơ mới khi

văn học phương Tây du nhập vào Nhật Bản ngày một mạnh mẽ. Các nhà cách tân

thơ haiku phát động phong trào jiyuu – ritsu (luật tự do) để phát triển một lối thơ

phóng khoáng, không bị ràng buộc. Tạp chí Hototogisu là phương tiện giúp phát

triển rộng rãi trào lưu ji –amari 字余り(haiku dư từ) ra đại chúng. Shiki không

ngừng nghỉ sáng tác nhiều bài thơ với trào lưu mới như bài thơ sau (6-8-5):

yu-ki-no-i-e-ni Trong nhà tuyết 雪の家に

ne-te-i-ru-to-o-mo-fu lim dim ngủ 寝て居ると思ふ

ba-ka-ri-ni-te mãi vẫn vơ. ばかりにて

(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)

Phong cách viết một cách phóng khoáng, thay thế từ ngữ bằng những từ

khác có âm dài hoặc ngắn hơn để diễn tả, thay vì bó hẹp theo khuôn khổ. Thử so

120

sánh điểm mới mẻ trong haiku dư từ của các nhà thơ như Basho, Buson và các nhà

thơ hiện đại:

ro-no-ko-e Dạ rét căm căm 櫓の声

na-mi-da-wo-ut-te-ha-ra-wa-ta-ko-o-ru tiếng chèo khua sóng 波 を う っ て 腸

yo-ya-na-mi-da nước mắt và bóng đêm. 氷る

(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) 夜や涙

(松尾芭蕉)

Và:

gek-ko-u-ni-shi-ni-wa-ta-re-ba Dưới tán hoa đằng đông 月光西に渡れば

ha-na-ka-ge-hi-ga-shi-ni dạo bước thong dong 花陰東に

a-yu-mu-ka-na phía trời tây trăng dõi. 歩むかな

(Yosa Buson) (Lam Anh dịch) (与謝蕪村)

Với bài thơ hiện đại của Mitsuhashi Takajo:

kono ki noberaba Leo lên cây này この樹登らば

kijo to narubeshi tôi sẽ thành thần nữ 鬼女となるべし

yuu momiji giữa bạt ngàn lá đỏ chiều nay. 夕紅葉

(Mitsuhashi Takajo) (Đoàn Lê Giang dịch) (三橋鷹女)

Có thể thấy, lối haiku dư từ đơn giản giống nhau về cách sử dụng từ ngữ

theo lối mở rộng, bất qui tắc. Nhưng đối với haiku dư từ hiện đại vẫn có điểm mới

hơn so với kiểu haiku dư từ cổ điển. Nếu các nhà thơ cổ điển như Basho, Buson

dùng cách thêm vào các từ ngắt (kire-ji) để tạo khoảng cách, ngắt câu trong bài

thơ, nên lượng âm tiết sẽ nhiều hơn bình thường. Các từ ngắt thường được sử dụng

như kana かな(哉)(có lẽ), mo も(cũng), keri けり(dường như), yo よ(ấy, thế)

121

được sử dụng nhiều trong haiku dư từ cổ điển. Còn đến thời hiện đại, haiku dư từ

dường như là sự cố ý thêm vào các từ ngữ mới mẻ, diễn tả một cách bộc bạch và

thường ít sử dụng từ ngắt, chủ trương dùng dấu phẩy để ngăn cách các vế câu. Đó

là sự khác biệt cơ bản, ngoài ra ở haiku dư từ hiện đại còn là phương thức cơ bản

thể hiện sự tự do theo lối phương Tây. Còn haiku dư từ cổ điển do các yếu tố phụ

như không tìm được từ diễn tả, không thể nói hết ý trong một khuôn mẫu nhất định

nên phải phá vỡ qui tắc.

Ảnh hưởng bởi đề xuất mới mẻ này nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện

đại, sau này nhiều nhà thơ theo phong trào haiku dư từ với lối viết đặc sắc thể hiện

cái tôi cá nhân trong haiku.

Shiki cho rằng sự hạn định số âm tiết trong haiku là một trong những nguyên

nhân khiến haiku suy thoái. Vì vậy, việc đề ra giải pháp haiku dư từ sẽ phần nào

giúp haiku thoát khỏi sự hạn định với hơi hướng “lạc hậu” khó bày tỏ cảm xúc.

Trong thời Shiki và sau đó, trào lưu này phát triển mạnh mẽ. Nhưng vào thời

Showa, một số khuynh hướng quay về với haiku truyền thống đã dần từ bỏ trào

lưu này. Bởi họ cho rằng phát triển nghệ thuật không nên chỉ đơn thuần dựa vào

cấu trúc hình thức mà đầu tiên phải phát triển về tư tưởng.

Suy cho cùng, đây cũng là một hướng phát triển tốt trong sự nghiệp cách

tân mà Shiki đã đề ra, nghệ thuật thơ haiku phát triển theo nhiều hướng và haiku

dư từ là một trong những hướng đó.

3.2.2.3. Thay đổi quan niệm về kigo

Kigo 季語 (quý ngữ) có thể xem là linh hồn của thơ haiku. Thiên nhiên Nhật

Bản đa dạng và phong phú, vì vậy kigo từ thời haiku cổ điển đã đang dạng không

kém. Hầu như tất cả các nhà thơ đều sử dụng kigo trong các bài thơ như một qui

122

định bắt buộc, cho dù thể hiện trực tiếp hay gián tiếp. Basho là người tiên phong

trong việc đưa kigo vào haiku. Nhưng đến Shiki, ông lại quan niệm kigo theo một

hàm nghĩa rộng hơn, sự vật chỉ mùa thay vì từ chỉ mùa. Có nghĩa, kigo có vai trò

là kidai –me 季題目 (đề tài mùa) và thay thế kigo bằng kidai 季題. Đó là quan

niệm khá mới mẻ, phù hợp với thời đại mới, thoát khỏi những qui tắc truyền thống

không thể vận dụng vào cuộc sống hiện đại. Nói như vậy không phải Shiki phủ

nhận hoàn toàn kigo như từ chỉ mùa, ở đây quan niệm của ông bao quát cả đề tài

mùa. Shiki vẫn làm những bài haiku sử dụng kigo như từ chỉ mùa:

yuuzuki ya Chạng vạng trăng cao 夕 月 や

hitokatamari ni những cánh hoa rụng 一 か た た り り に

chiru sakura từ cây anh đào. 散桜

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Hay:

unohana o Chim đỗ quyên 卯の花を

megakete kitaka ngước nhìn めかけてきたか

hototogisu hoa cẩm tú cầu. ほととぎす

(Masaoka Shiki) (正岡子規)

Cây anh đào, và chim đỗ quyên là kigo chỉ mùa xuân và mùa hạ những bài

thơ trên hết sức bình thường về kigo nhưng lại mang màu sắc hình ảnh mới về

tương tác tâm trạng của sự vật. Nhưng một số bài Shiki lại mang hàm nghĩa kigo

hoàn toàn mới.

kodomo gachi ni Đám trẻ nhỏ 子供がちに

kurisumasu no hito vây quanh クリスマスの人

123

atsuhikeri Ông già Noel. 集ひけり

(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)

Kigo “kurisumasu” loại hình từ ngữ vay mượn sau đó phiên âm mang nghĩa

là Giáng sinh. Ở đây, kigo đóng vai trò là đề tài mùa chứ không phải từ chỉ mùa.

Hình ảnh ông già Noel chỉ mùa đông, ở các nước phương Tây theo quan niệm

Thiên chúa giáo, mùa đông là mùa chúa sinh ra đời. Ảnh hưởng bởi sự tiếp thu

văn hóa phương Tây, Shiki đưa những từ ngữ mới mẻ làm kigo cho các bài haiku.

Như vậy, haiku đã thay đổi về cấu trúc kigo và cách ấn định kigo tự do.

Tương tự vậy, nhiều bài thơ của Shiki có những kigo đặc biệt dùng để chỉ

mùa như mùa xuân thì có “tiền mừng tuổi”, rồi những từ ngữ hiện đại được vay

mượn từ tiếng Anh như “mùa giảm giá”, “mùa tốt nghiệp”,... Đối với Shiki, haiku

có hoặc không có kigo thì đó vẫn là sự giao hòa giữa thiên nhiên và cuộc sống con

người, cần phát triển cả hai mặt chứ không đơn thuần phát triển một mặt nào cả.

otoshidama wo Tiền mừng tuổi 年玉を

narabete oku ya đã sắp sẵn 並べて置くや

makura moto dưới gối đầu. 枕元

(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)

Hay:

seru wo kite Mùa giảm giá セルを着て

fuufu hanarete phu thê xa cách 夫婦離れて

Kyoshi ni ari Kyoshi đã từng . 虚子に在り

(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)

124

Quan niệm kigo này về sau được nhiều nhà thơ haiku hiện đại phát triển trên

nền tảng của Shiki. Khái niệm muki – haiku 無季俳句 (haiku không mùa) được

phổ biến trong các bài thơ thời kì sau rất nhiều. Nói như vậy không phải phủ nhận

hoàn toàn việc xuất hiện của kigo, mà ở đây đổi mới haiku khi biết vận dụng những

ngôn ngữ sinh hoạt có tính chu kì vào để tạo ra tư liệu mới cho kigo. Nhiều kigo

mang tính chất chu kì tuần hoàn như “tốt nghiệp” (mùa tốt nghiệp khoảng cuối

tháng 3), “nhập học” (mùa tựu trường khoảng đầu tháng 4), “nhân viên mới” (mùa

tuyển dụng từ đầu đến giữa tháng 4), “thơ haiku” (mùa thơ haiku vào ngày 19

tháng 8),...

sotsugyo no Trên bàn 卒業の

tsukue ni hotto luận văn tốt nghiệp 机にホット

keiki kana chiếc bánh nướng. ケーキかな

(Suda Yasuko) (Quỳnh Như dịch) (須田康子)

Không những mang màu sắc mới về mùa mà đó còn là một cách chơi chữ

sử dụng ngôn ngữ độc đáo. Nếu phân tích kĩ ngôn ngữ của từ haiku dưới mức độ

phối âm trùng thì sẽ nhận thấy cái tuyệt diệu đó. Âm “ha” trùng âm với âm đầu

trong từ hachi (số 8), âm “i” trùng âm với âm đầu trong ichi (số 1) còn âm “ku”

gần trùng với kyu (số 9). Sắp xếp các âm lại với nhau ta sẽ ra ngày 19 tháng 8

(Nhật Bản sử dụng cách sắp xếp: năm, tháng, ngày; nên từ haiku (ha- i – ku ) sẽ

sắp xếp thành 8 -1 -9). Tương tự vậy ta có ngày của hoa “hana no hi” vào ngày 7

tháng 8, ngày côn trùng “mushi” vào ngày 4 tháng 6. Cách phân tích các ngày này

tương tự bằng biện pháp trùng âm như trên. Đây là một sự sáng tạo khá đặc sắc

trong ngôn ngữ Nhật Bản làm cho haiku thêm phần giá trị nghệ thuật độc đáo.

125

Như vậy, dựa vào sự đề xuất thay đổi quan niệm về kigo của Shiki, thơ

haiku gần như thay đổi linh hồn từ thiên nhiên quay về với cuộc sống sôi động của

thời hiện đại. Không khước từ các kigo thiên nhiên, mà bổ sung vào đó các kigo

hiện đại để nâng cao giá trị nghệ thuật của thơ ca, phù hợp với xu hướng phát triển

của văn học giai đoạn hiện đại hóa. Sự thay đổi đó cũng là cầu nối từ người sáng

tác đến độc giả, tạo sự gần gũi, đơn giản hóa, không cầu kì, rắc rối.

3.3. Thơ haiku sau Shiki và những biến đổi về nghệ thuật Sau khi Shiki mất, các nhà thơ tiếp tục con đường cách tân mà Shiki đã vạch

ra. Tuy có sự trái ngược nhau về khuynh hướng nhưng nói chung giai đoạn này và

sau nữa sự cách tân thơ haiku đã có những bước tiến đáng kể.

3.3.1. Thơ haiku thời Taisho Haiku thời Taisho 大正 tiêu biểu cho khuynh hướng của các nhà thơ sau

Shiki trong đó có Kawahigashi Kekigodo 河東碧梧桐 (1873-1937), Takahama

Kyoshi 高濱虛子 (1874-1959) đồng môn của Shiki và các nhà thơ như Osuga

Otsuji 大須賀 乙字 (1881-1920), Ogiwara Seisensui 荻原井泉水(1884-1976),

Ozaki Hosai 尾崎 放哉 (1885-1926), Taneda Santoka 種田 山頭火 (1862-1940),

cùng các nhà thơ thuộc phái Hototogisu (Chim quyên) do Kyoshi sáng lập. Các

nhà thơ haiku “mới” đã cùng nhau bồi đắp tiếp tục con đường nghệ thuật mà Shiki

đã hướng đến cho nó ngày một rộng và xa hơn. Như dịch giả Hoàng Long đã gọi

giai đoạn này là “hai lối mộng trong thơ haiku hiện đại” [52], hai lối mộng cách

tân của Kekigodo và Kyoshi.

3.3.1.1. Khuynh hướng haiku tượng trưng

Kekigodo từng tranh cãi và bàn luận với Shiki về xu hướng thơ haiku tượng

trưng (miêu tả phong cảnh như thật) nhưng không được Shiki chủ trương đồng ý.

126

Sau khi Shiki mất Kekigodo đã đi theo hướng phát triển haiku riêng biệt. Ông chủ

trương theo lối haiku miêu tả sự vật vô trung tâm luận (không cần có trọng tâm).

akai tsuboki Sơn trà trắng 赤い椿

shiroi tsuboki to sơn trà hồng 白い椿と

ochi ni keri cùng rụng xuống mênh mông. 落ちにけり

(Kawahigashi Kekigodo) (Hoàng Long dịch) (河東碧梧桐)

Khi đọc bài thơ của Kekigodo ta có thể nhận thấy không có một điểm nhấn

trung tâm nào. Sự vật được miêu tả như một tần số ổn định, bình thường và chân

thật nhất. Ảnh hưởng bởi xu hướng tả sinh của Shiki, nhưng Kekigodo đã biết vận

dụng sáng tạo chuyển thành xu hướng tượng trưng độc đáo. Hoa trà đỏ và trắng là

hai sự vật tuy liên quan nhưng không cùng tồn tại trong một chủ thể là cây trà, bởi

mỗi loại cây có một đặc trưng riêng. Sự liên tưởng này tuy có hơi hướng giống

khuynh hướng “Phi Không Phi Thực” nhưng lại mang tính khách quan về chủ

thể sự vật nhiều hơn, nội dung liên tưởng mang tính hiện thực và sát với chủ thể

thực tế. Còn ở bài haiku sau Hekigodo lại mang sự tượng trưng đặc biệt và có thể

nói là vô cùng đặc sắc, khuynh hướng tả thực dường như bị chèn ép và chỉ làm

nền cho xu hướng tượng trưng:

harusamu shi Xuân giá rét 春寒し

suiden no ue no trên ruộng lúa nước 水田の上の

kon nashi kumo đám mây không chân trời. 根なし雲

(Kawahigashi Kekigodo) (Quỳnh Như dịch) (河東碧梧桐)

Hình ảnh “đám mây không chân trời” tượng trưng cho mặt nước dưới ruộng

lúa đang in bóng những đám mây. Màu của nước hòa lẫn vào màu của mây như

đám mây không thể bay đến một chân trời, nằm im và níu lấy những thân lúa. Sự

127

gán ghép ấy không phải là một hóan dụ hay ẩn dụ mà là sự thay thế sự vật độc lập

không có mối quan hệ tương cận hoặc tương đồng. Nghệ thuật tượng trưng này

khi đưa vào haiku làm cho haiku thêm phần đặc sắc và giàu hình ảnh mang tính

chỉnh thể hơn. Tiếp nối Kekigodo trong khuynh hướng haiku tượng trưng có

Ogiwara Seisensui và Osuga Otsuji.

sora wa sabishi yo Trời âm u 空わさびしよ

ie araba nhà mọc lên nhiều 家あらば

kemuri wo age yo khói lại càng cao. 煙をあげよ

(Ogiwara Seisensui) (荻原井泉水)

Bài haiku này còn mang tính tượng trương hiện đại hơn cả các bài haiku

của Kekigodo. Hình ảnh nhà mọc cao, khói bay cao chỉ sự hiện đại hóa mà xã hội

đang tiếp diễn. Muốn phát triển, cần vươn lên và haiku muốn mới cần nhiều sự cải

cách. Như vậy, lối viết tượng trưng gần như đồng bộ hóa thiên nhiên và cuộc sống

của con người, thiên nhiên vẫn như vậy còn cuộc sống con người ngày càng hiện

đại hơn, kéo theo thiên nhiên phải đổi thay. Hình ảnh trong thơ haiku của khuynh

hướng tượng trưng không mâu thuẫn về hình ảnh và nhận thức của người đọc mà

có sự giao hòa tuyệt diệu.

Như vậy, “lối mộng” của Hekigodo đã đưa haiku theo một quỹ đạo mới,

khác lạ, sáng tạo đặc sắc. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như vẫn đi theo lối cũ

và dựa trên nền tả khuynh hướng tả thực khó tách rời. Đôi lúc các bài thơ mang

tính tượng trưng còn nặng về câu chữ và nghệ thuật bị bó hẹp trong các xu hướng

trước và đương thời. Nhưng nói chung, đó cũng được xem là một hướng đóng góp

mới cho nghệ thuật thơ haiku phát triển trong thời buổi hiện đại hóa, hội nhập.

128

3.3.1.2. Khuynh hướng haiku phúng vịnh

Người dẫn đầu đề ra khuynh hướng haiku phúng vịnh là Takahama Kyoshi

– người tiếp tục lãnh đạo tạp chí Hototogisu phát triển. Ông phát động trào lưu

haiku “Hoa điểu phúng vịnh” (ka-chou-fu-ei). Hoa – điểu là thiên nhiên vạn vật,

phúng – vịnh ý nói tình cảm con người, như vậy haiku là sự giao hòa giữa con

người với thiên nhiên. Lối viết này về sau được Kyoshi phát triển nhiều trên tạp

chí Hototogisu và trở thành một trào lưu sau Shiki. Thơ haiku của Kyoshi mang

tình cảm con người, nhưng không phải là thứ tình cảm chủ quan, cá nhân mà là

tình cảm khách quan, mang tính đại chúng. Ông chủ trương gìn giữ tính truyền

thống của haiku và phát triển chiều sâu nghệ thuật thay vì thay đổi hình thức nghệ

thuật bên ngoài. Rút kinh nghiệm từ người bạn đồng môn là Hekigodo với lối viết

chủ quan, Kyoshi không đi theo hướng đó vì lo sợ ngôn ngữ thơ haiku sẽ hướng

đến sự tầm thường, lạc hậu, không bắt kịp nhu cầu của thời đại.

hatsu cho wo Dường như giấc mơ 初蝶を

yume no gotoku ni bay đi mất 夢の如くに

mi ushinafu theo đàn bướm xuân. 見失ふ

(Takahama Kyoshi) (高浜虚子)

Đàn bướm là một chủ thể của thiên nhiên, giấc mơ là ảo mộng của con

người, một lối kết hợp đặc sắc, trau chuốt về mặt lý tính và cảm xúc. Khi con

người hòa vào thiên nhiên là khi những vần thơ mang âm điệu của thiên đàng.

Khác với các nhà thơ trước hướng về thiên nhiên với sự hòa hợp cá thể chủ quan

thì Kyoshi hướng về thiên nhiên với cái ta chung của mọi người.

ame harete Mưa tạnh rồi 雨晴れて

shibaraku bara no cánh tường vi ấy しばらく薔薇の

129

nioi kana một thoáng hương trôi. 匂いかな

(Takahama Kyoshi) (Nhật Chiêu dịch) (高浜虚子)

Sự đớn đau nhưng mang niềm hạnh phúc. Sự hi sinh nhưng lại là nụ cười

mới. Quan niệm về cuộc sống con người và thiên nhiên của Kyoshi là một quan

niệm cực kì mới, ảnh hưởng bởi môi trường văn hóa hiện đại và cuộc sống bon

chen của xã hội. Những bài haiku của Kyoshi và các nhà thơ sau đi theo khuynh

hướng phúng vịnh này mang đậm chất suy ngẫm. Bởi theo ông:

kono yama ni Ở trong núi 此の山に

sumikeru karasu, chim, rắn và thú dữ 住みける烏、

kemono, hebi sống cùng nhau. 獣、蛇

(Takahama Kyoshi) (高浜虚子)

Và tiếp đó là Iida Dakotsu 飯田蛇笏 (1888-1962) người kế thừa, phát huy

cao độ khuynh hướng phúng vịnh của Kyoshi trên tạp chí Hototogisu và trở thành

trụ cột chính cho trường phái này. Thơ ông là tiếng than ai oán trước cuộc đời và

giữ được sự bất dịch của thơ haiku truyền thống.

fuyu kawa ni Bước ra sông đông 冬川に

dete nani wo miru ơ kìa thiếu phụ 出て何を見る

hito no tsuma đang ngắm chi chi. 人の妻

(Iida Dakotsu) (Quỳnh Như dịch) (飯田蛇笏)

Hay:

tamashihi no Tĩnh lặng hồn ta たましひの

shizukani utsuru ngắm nhìn しずかにうつる

kikumi kana hoa cúc.

130

(Iida Dakotsu) 菊見かな

(飯田蛇笏)

Lẫn trong các màu sắc haiku đó là lối thơ độc đáo của nữ sĩ Sugita Hisajo

杉田 久女 (1890-1946), tuy về sau bà không còn tham gia vào phái Hototogisu

nhưng những vần thơ của bà để lại đầy ấn tượng và tiêu biểu cho lối viết phúng

vịnh sâu xa tình cảm con người.

hana gomoro Từng mãnh xiêm y 花衣

nyguya matsuwara rời thân thể ngọc đi ngắm hoa về ぬぐやまつはる

himo iroiro sợi hồng lưu luyến. 紐いろいろ

(Sugita Hisajo) (Quỳnh Như dịch) (杉田 久女)

Tiếng nói mạnh mẽ từ người phụ nữ chân yếu tay mềm trở nên đanh thép

và tự nhiên mang sức mạnh chống lại các quan niệm cổ hủ. Người phụ nữ dần

được nâng cao giá trị hơn trong xã hội. Quyền tự do mà người phụ nữ phải có như

những bông hoa được thêm phân bón và tưới nước hằng ngày.

Khuynh hướng Hoa Điểu Phúng Vịnh mà nhóm Hototogisu của Kyoshi đề

ra tuy có khuynh hướng quay về với haiku truyền thống nhưng vẫn mang xu hướng

mới. Tình cảm con người và lối thể hiện sự phúng vịnh tinh tế đã tôn lên vẻ đẹp

nghệ thuật trong thơ haiku hiện đại. Đây cũng là bước đà để các nhà thơ giai đoạn

sau cùng chủ trương giữ gìn tính truyền thống của thơ haiku thay vì biến đổi nó

thành một thể thơ tự do hoàn toàn xa lạ.

3.3.2. Thơ haiku tiền – hậu chiến Trải qua nhiều giai đoạn cải cách từ thời Meiji đến thời Taisho, haiku với

những chuyển biến không ngừng nhưng vẫn đi theo những xu hướng nhất định.

131

Nhưng đến thời khói lửa chiến tranh Showa 昭和, haiku lại thêm một lần nữa “vật

lộn” với việc tìm đường giữa các xu hướng khác nhau. Nhưng lần này không phát

triển theo xu hướng nhất định mà có sự pha trộn, phối vị của nhiều xu hướng khác

nhau. Do tác động của chiến tranh, sự kiềm nén của chế độ, haiku bắt đầu suy

thoái. Nhưng với nền tảng vững chắc từ thời Edo đến Meiji, Taisho, haiku đã đứng

vững để phát triển về mặt nghệ thuật. Một xu hướng nghệ thuật haiku hiện đại mới

ra đời, hoàn thiện bởi sự tổng hợp nhiều ưu điểm của các thời đại trước.

3.3.2.1. Sự biến động về quan điểm nghệ thuật

Vào thời kì này, sự biến động về quan điểm nghệ thuật của nhiều nhà thơ

dẫn đến sự không thống nhất một trường phái để chống lại Hototogisu. Cho đến

khi Mizuhara Shuoushi 水原 秋櫻子 (1892-1981) với những bài haiku đổi mới về

nghệ thuật thì thi đàn haiku mới bắt đầu sự ổn định dần. Nhưng về sau, quan điểm

của Shuoushi vẫn bị nhiều nhà thơ trong đó có đệ tử của mình không tán thành và

hình thành nên nhiều xu hướng xung quanh các vấn đề nghệ thuật. Thời kì biến

loạn của nghệ thuật thơ haiku bắt đầu.

Shuoushi thành lập tạp chí Ashibi năm 1928, sau đó viết bài phê bình tính

khách quan trong thơ haiku của phái Hototogisu, chủ trương quay về tính chủ

quan. Nhiều phong trào được Shuoushi cổ động để thay đổi một nền haiku mới.

Nhưng Shuoushi mắc phải một khuyết điểm lớn là vẫn đề cập lại những cái đã bàn

đến như từ chỉ mùa, văn khẩu ngữ, cái mới chỉ là việc tập trung vào việc phát huy

tính trữ tình trong thơ haiku. Từ ngữ trong sáng, phong phú trong haiku là cách

mà Shuoushi tiến hành thay đổi nghệ thuật trong thơ haiku.

no no niji ni Cầu vồng trên đồng 野の虹と

haruta no niji to cầu vồng vụ xuân 春田の虹と

132

sora ni afu gặp nhau trên trời. 空に会ふ

(Mizuhara Shuoushi) (Quỳnh Như dịch) (水原 秋櫻子)

Hay:

tsuri bashi ya Trên cầu dây văng 吊橋や

hyappo no chuu no trăm bước không trung 百歩の宙の

aki no kaze gió thu. 秋の風

(Mizuhara Shuoushi) (Quỳnh Như dịch) (水原 秋櫻子)

Quan niệm của Shuoushi là xây dựng một nghệ thuật haiku không những

đẹp mà còn đủ độ bền, cứng để không dễ phá vỡ. Muốn được như vậy thì phải có

sự kết hợp giữa thiên nhiên theo kiểu truyền thống và hiện đại theo điều kiện cải

cách. Như những chiếc cầu vồng gặp nhau, cùng nhau tô điểm cho cuộc đời tươi

đẹp. Nhưng sau này khuynh hướng của ông bị lên án phê phán.

Tiếp đó, sự xuất hiện của nhiều nhà thơ khác như Yamaguchi Seishi 山口

誓子 (1901-1994) với lối đã kích “Hoa Điểu Phúng Vịnh” đề xuất “sự trống

rỗng” trong thơ haiku thời chiến tranh, nhưng không được chấp nhận. Kawabata

Bosha 川端茅舎 (1897-1941) với việc sử dụng nhiều ngôn ngữ Phật giáo, hình

ảnh mang tính chất đặc trưng hội họa. Nhưng các xu hướng này không tồn tại lâu

và không có ảnh hưởng đủ lớn để cải cách nghệ thuật thơ haiku theo hướng tiến

bộ.

Yamaguchi Seishi với lối diễn đạt cái tôi trong thơ haiku, được sự ủng hộ

nồng nhiệt từ mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Haiku như sống lại với lối viết của

ông.

natsu no kawa Sợi xích đỏ neo tàu 夏の河

133

akaki tessa no thấm cái nóng mùa hạ 赤き鉄鎖の

hashi hitaru xuống sông sâu. 端浸る

(Yamaguchi Seishi) (Đoàn Lê Giang dịch) (山口 誓子)

Những nhà thơ nhân bản bắt đầu xuất hiện, trong đó tiêu biểu là Nakamura

Kusaota 中村暮田男 (1901-1983) thành lập phái Ningen sankyuuha (Nghiên cứu

về con người). Những vần thơ của Kusaota hướng đến khai thác tâm hồn con

người, đi đến sâu thẳm trong tâm trí để tìm cái bình dị nhất.

furu ame ya Mưa rơi 降る雪や

meiji wa tooku làng Meiji 明治わ遠く

nari ni keri xa vời vợi. なりにけり

(Nakamura Kusaota) (Quỳnh Như dịch) (中村暮田男)

Hay những vần thơ về nói lên cảm nghĩ, niềm hi vọng về cuộc sống hạnh

phúc:

sora wa taisho no Da trời xanh 空わ太初の

aosa tsuma yori màu của thuở ban đầu ta đón quả táo từ ngày 青さ妻より

ringo uku người vợ. 林檎うく

(Nakamura Kusaota) (Nguyễn Nam Trân dịch) (中村暮田男)

3.3.2.2. Thơ haiku sau 1945 – nghệ thuật của thời đại mới Thơ haiku sau năm 1945 là cuộc cách tân đột phá về của mặt nghệ thuật lẫn

nội dung. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữ truyền thống và hiện đại là xu hướng

chung để haiku phát triển. Cách tân haiku với tư tưởng không phải đổi mới tất cả

mà luôn hướng đến sự hòa trộn hoàn hảo ấy.

134

Diện mạo mới của thơ haiku sau chiến tranh đã khẳng đinh vị thế quan

trọng, lôi cuốn, hấp dẫn của nó trong văn đàn Nhật Bản hiện đại. Haiku không hề

vắng bóng, mà cái bóng đó càng bao phủ rộng khắp và mới mẻ. Bài thơ sau của

Hirahata Seito 平畑静搭 (1905-1997) đã cho thấy tính hiện đại hòa quyện trong

những vần thơ truyền thống:

kuni no densha Xe điện quê tôi くにの電車

ima mo nishibi ni chiều về hướng tây 今はも西日に

kashira furu đầu xe rung lắc. 頭振る

(Hirahata Seito) (Quỳnh Như dịch) (平畑静搭)

Sự gồ ghề của đường xe điện chưa hoàn thành như thúc giục xã hội và nghệ

thuật phát triển để hoàn thiện hơn. Một xã hội Nhật Bản hiện đại với sự phát triển

“thần kì”, cũng như haiku, sự “thần kì” đó đã mang đến những màu sắc mới.

Nghệ thuật haiku thời đại mới không có sự hạn định và độ mở rộng vô hạn.

Không chỉ hướng về cuộc sống, haiku còn hướng về cả hậu quả chiến tranh. Chứng

tỏ sự phát triển về nghệ thuật đã góp phần vào việc thay đổi nội dung đề tài. Thơ

haiku, kinh tế, văn hóa Nhật Bản phát triển tỉ lệ thuận với sự mất mát đau thương

mà chiến tranh gây ra, người Nhật Bản phải gánh chịu. Đó không đơn thuần là sự

đối sánh mà đó là sự ca ngợi thành quả tột bậc mà người Nhật đã làm được. Như

bài haiku sau:

wan kyoku shi Ngoằn ngoèo 湾曲し

kashou shi vết thương cháy xém 火傷し爆心地の

bakushinchi no đường marathon. マラソン

marason (Quỳnh Như dịch) (金子兜太) (Kaneko Tota)

135

Bài thơ là sự mở rộng vô hạn về nghệ thuật thơ haiku. Không theo qui tắc

truyền thống, cấu trúc bị phá vỡ (5-8-4), không mang kigo, không có kire –ji (từ

ngắt), bao trùm bài thơ là một sức mạnh không khuất phục. Nhưng đâu đó, trong

cái mạnh mẽ ấy, sự đau đớn, trầm buồn, luôn hiện diện. Tâm hồn của người Nhật

nhẹ nhàng, mỏng manh như cây anh đào cổ thụ hiên ngang với gió sương nhưng

lại nở những cánh hoa mỏng manh bị gió thổi tung khắp đất trời. Thảm họa bom

nguyên tử ở Nagasaki và Hiroshima đã làm nước Nhật kinh hoàng, nhưng đáp trả

lại sự kinh hoàng đó là sự phát triển vượt bậc, phục hồi thần tốc, trở thành cường

quốc trên thế giới. Bài thơ như lời than vãn nhưng cũng là lời động viên tha thiết.

Đó là tập hợp toàn bộ tinh hoa của sự cách tân và phát triển gần 400 năm của thơ

haiku, chỉ gói gọn trong bài thơ này.

Thật sự việc cách tân thơ haiku không phải đến thời hiện đại mới có, mà nó

đã manh nha từ khi haiku bắt đầu hình thành. Trong cuộc sống, sự vận động của

vạn vật là yếu tố không ngừng để phát triển. Con người đạt được thành tựu văn

minh như hôm nay cũng phải trải qua hàng triệu năm tiến hóa. Haiku cũng vậy,

qua một quá trình dài, có cả thăng trầm, hào nhoáng, đúng lẫn sai,... mới mang

được màu sắc và nghệ thuật đặc sắc như bây giờ. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó,

haiku tiếp tục phát triển theo làn gió mới của văn học, bay xa khắp thế giới. Như

một thông điệp gửi đến mọi nơi, haiku là món quà của sự vận động và chuyển hóa

không ngừng của nghệ thuật và đời sống.

136

TIỂU KẾT 3

Ở chương 3, chúng tôi trình bày quá trình đổi mới theo xu hướng hiện đại,

một thế giới haiku mới đã hiện hình. Cuộc Duy Tân Minh Trị là nhân tố ảnh hưởng

rất lớn đến các trào lưu đổi mới trong đó có văn học, đặc biệt là thơ haiku. Nhưng

cũng chính sự du nhập của văn hóa phương Tây đã dẫn đến sự suy thoái của thơ

haiku so với các thể loại văn học khác. Haiku cần được đổi mới để thích ứng.

Người khởi đầu cho trào lưu cách tân đó là Shiki. Ở đây, chúng tôi trình bày công

cuộc cách tân xoay quanh Shiki nhưng cũng có điểm qua các xu hướng trước và

sau Shiki, để góp phần toàn diện và khách quan hơn. Sự ảnh hưởng bởi xã hội hiện

đại đã kéo haiku chạy đua với quá trình phát triển của các thể loại văn học khác.

Shiki là người có công lớn nhất trong quá trình định hình xu hướng và thành lập

các báo, tạp chí để tuyên truyền phát triển haiku. Các xu hướng như phá vỡ cấu

trúc truyền thống (đã có từ thời kì cổ điển), thay đổi quan niệm về kigo, haiku

tượng trưng, haiku phúng vịnh và haiku tự do hiện đại. Sau năm 1945, thơ haiku

có khuynh hướng đa dạng hóa về hình thức nghệ thuật, tiếp tục thay đổi không

ngừng. Sự kết hợp các xu hướng nghệ thuật thơ haiku sau này là đỉnh cao cho

haiku hiện đại mang màu sắc nghệ thuật đa dạng. Đó là bước ngoặc vĩ đại cho sự

lột xác của thơ haiku Nhật Bản. Chính nhu cầu của xã hội với những thị hiếu thẩm

mĩ mới, là lời kêu gọi cho sự vận động phát triển đó. Bằng sức sống tự thân và sự

kết hợp, trao dồi, bổ sung và phát triển của các nhà thơ cách tân, thơ haiku ngày

một hoàn thiện và phong phú về phương diện nghệ thuật. Thơ haiku vẫn tiếp tục

phát triển cho đến bây giờ và không bao giờ dừng lại sự đổi mới đó.

137

KẾT LUẬN

Qua quá trình phát triển hơn 400 năm ở Nhật và sự lan tỏa khắp thế giới,

thơ haiku Nhật Bản đã trải qua nhiều lần thay đổi và cải cách. Loại hình thơ ca đặc

biệt này đã mang lại hứng thú, khơi gợi quá trình tìm tòi và nghiên cứu chuyên

sâu để tìm ra nhiều điểm đặc sắc. Trong đó, sự biến đổi về mặt nghệ thuật là điều

quan trọng làm nên giá trị bất hủ của thơ haiku.

Nghệ thuật thơ haiku được biến đổi và phát triển theo từng thời kì văn học.

Không thể so sánh thời kì nào phát triển hơn thời kì nào mà cần có sự nhìn nhận

khách quan, chân xác về giá trị và sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật haiku

qua các thời kì.

Thơ haiku về phương diện nghệ thuật đã có sự phát triển đa dạng và phóng

phú. Nhiều bài thơ haiku đạt giá trị nghệ thuật cao về mặt ngôn ngữ, thủ pháp, cảm

thức thẩm mĩ,.. Ngôn ngữ thơ haiku như một rừng cây bao la, nơi đó ẩn chứa nhiều

điều thú vị và ngày càng sinh sôi nảy nở những chiếc lá non mới mẻ, độc đáo. Các

nhà cách tân thơ haiku đã có những khám phá, tìm hiểu và khai thác “khu rừng

ngôn ngữ” đó một cách sáng tạo để tạo ra những vần thơ mới mẻ. Thủ pháp nghệ

thuật là tấm màn che đậy sự bí ẩn. Bên trong tấm màn thủ pháp là một thế giới đầy

quyến rũ, lôi cuốn đi tâm hồn của người đọc một cách tinh tế, mang họ đến với

haiku và yêu haiku. Cảm thức thẩm mĩ như linh hồn của thơ haiku, tâm hồn đó

luôn đẹp, thanh thoát, nhẹ nhàng và triết lý. Thơ haiku có phát huy tối đa những

hình thức nghệ thuật đó hay không một phần lớn nhờ công cuộc cách tân của các

nhà thơ haiku. Từ khởi nguồn qua một chặng đường dài, các nhà thơ, phái thơ đã

đóng góp không ít công sức vào sự đổi mới của thơ haiku. Tứ trụ Basho, Buson,

Issa, Shiki, cùng các nhà thơ khác đã thổi vào haiku vô vàn luồng gió mới mẻ, mát

lành. Mỗi người có mỗi cách thức đổi mới nhưng chung quy đều như các nhánh

138

sông cũng hòa vào một biển lớn haiku. Biển haiku nổi sóng, mỗi con sóng là mỗi

bước đổi mới, con sóng này tiếp nối con sóng kia mãi mãi không ngừng nghỉ.

Thơ haiku là thể thơ ngắn, nhưng không đơn giản để hiểu, để sáng tác và

đặc biệt là để đổi mới về hình thức nghệ thuật theo thời gian. Nhưng hiểu được cái

hồn của haiku là điều tuyệt vời mà mỗi người cần trải nghiệm trong đời.

Như vậy, lịch sử thơ haiku phát triển kéo theo sự phát triển về nghệ thuật

một cách đặc sắc. Quá trình đó là một sự phấn đấu không mệt mỏi của các nhà

thơ. Nếu không có sự vận động cách tân đó thì thơ haiku không thể tồn tại và phát

tán đi khắp nơi như hiện nay. Bối cảnh giao lưu văn hóa hiện nay chắc hẳn là điều

kiện thuận lợi để haiku có thể phát triển hơn nữa. Sự phát triển rầm rộ của haiku

trên những miền đất mới là dấu hiệu tốt cho thể thơ truyền thống của Nhật Bản.

Haiku được bạn bè thế giới tiếp nhận một cách nồng nhiệt và trân quý, như chính

tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới dành cho Nhật Bản. Thơ haiku ảnh

hưởng ra thế giới rất nhanh, trong đó có Việt Nam. Nhiều câu lạc bộ, phong trào

dịch thuật và tiếp nhận thơ haiku từng bước phát triển mạnh ở Việt Nam và các

nước trên khắp thế giới. Trong sự giao thoa văn học Á Đông, và trong bối cảnh

toàn cầu hóa mạnh mẽ, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để haiku phát triển. Với

phương hướng đó, qua luận văn chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất và phương

hướng phát triển thơ haiku từ đề tài này:

Xét thấy nhu cầu tiếp nhận thơ haiku ngày càng cao ở Việt Nam, vì vậy cần

tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo nghiên cứu sâu về thơ haiku. Hiện tại các

công trình nghiên cứu về thơ haiku vẫn còn khá ít hoặc khá sơ sài.

Cần xuất bản nhiều tài liệu, sách báo liên quan đến thơ haiku, để người đọc

dễ dàng từng bước tiếp nhận thơ haiku dễ dàng hơn. Cần biên soạn nhiều bài khảo

139

cứu, tuyển thơ của các nhà thơ tiêu biểu, vì tài liệu tiếng Việt về các tuyển thơ

haiku hầu như chưa có.

Phổ biến giảng dạy thơ haiku ở các cấp học, đặc biệt nên đưa vào cấp tiểu

học để góp phần phục vụ định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Vì thơ

haiku giúp phát huy tối đa năng lực tưởng tượng và tư duy của con người đặc biệt

là trẻ em. Ở Nhật Bản từ lâu haiku đã được giảng dạy ở các cấp lớp tiểu học.

Từ đề tài này, có thể phát triển các hướng nghiên cứu sâu hơn về thơ haiku.

Tìm hiểu sự ảnh hưởng và xu hướng tiếp nhận thơ haiku trên thế giới cũng như ở

Việt Nam, cho thấy sự ảnh hưởng bởi các nhân tố tác động khác nhau trong từng

trường hợp. Có thể nghiên cứu sâu hơn về các cảm thức thẩm mĩ trong thơ haiku

theo từng thời kì, để thấy tầm quan trọng của các cảm thức trong việc tìm hiểu thơ

haiku. Nghiên cứu về giáo dục phát triển năng lực tưởng tượng thông qua giảng

dạy thơ haiku. Nói chung, việc nghiên cứu và tìm hiểu thơ haiku cũng như công

cuộc cách tân, cần có thời gian và công sức đầu tư một cách nghiêm túc và tỉ mỉ.

Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do năng lực của người thực hiện có hạn

nên chắc chắn luận văn cũng không đáp ứng được hết việc nghiên cứu về các xu

hướng cách tân thơ haiku. Nhiều vấn đề do sự hạn hẹp về nguồn tài liệu cũng như

quá trình tiếp cận nguyên tác gặp hạn chế nên chúng tôi không thể trình bày rõ, đó

là thiếu sót lớn nhất của luận văn. Chúng tôi mong rằng sẽ có nhiều chuyên đề, bài

báo khoa học, khảo cứu để làm rõ hơn quá trình cách tân nghệ thuật thơ haiku một

cách sâu sắc hơn.

140

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt:

1. Nguyễn Thị Lam Anh (2010), Ý thức thẩm mỹ Nhật Bản trong thơ haiku, Luận

văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.

2. Eiichi Aoki (2008), Nhật Bản – Đất nước và con người (Nguyễn Kiên Trường

dịch), NXB Văn học.

3. Câu lạc bộ haiku Việt – Thơ haiku Việt, Sáng tác – Bình giảng – Nghiên cứu –

Trao đổi, số 3, 4, 7 (2011-2012).

4. Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ haiku, NXB Văn học.

5. Nhật Chiêu (1997), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục.

6. Nhật Chiêu (1997), Câu chuyện văn chương phương Đông, NXB Giáo dục.

7. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản – Từ khởi thủy đến 1868, NXB Giáo dục.

8. Nhật Chiêu (2003), Cảm thức thiên nhiên của người Việt và người Nhật, Thơ –

Nghiên cứu Lý luận phê bình, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa

Ngữ văn Báo chí Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.298 – 308.

9. Nhật Chiêu (2016), Ba nghìn thế giới thơm, NXB Văn học.

10. Daisetz Teirato Suzuki (2003), Thiền và thơ haiku (Lê Thị Thanh Tâm dịch),

Thơ – Nghiên cứu Lý luận phê bình, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn Khoa Ngữ văn Báo chí Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.251 – 297.

11. Daisetz Teirato Suzuki (2005), Thiền luận (hạ) (Trúc Thiên dịch), NXB Tổng

hợp TP Hồ Chí Minh.

141

12. Daisetz Teirato Suzuki (2013), Thiền và văn hóa Nhật Bản (Đào Cương, Thích

Nhuận Tánh dịch), Công ty sách Thời đại & NXB Hồng Đức.

13. Diane Morgan (2006), Triết học và tôn giáo phương Đông (Lưu Văn Hy biên

dịch), NXB Tôn giáo, Hà Nội.

14. Dương Ngọc Dũng (2008), Chuyên luận Nhật Bản học, NXB Tổng hợp TP Hồ

Chí Minh.

15. Đoàn Lê Giang (2003), Basho – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du, những hồn thơ

đồng điệu, Hội nghị Nhật Bản trong thế giới Đông Á, NXB TP HCM, (tr.318 -

334), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh.

16. Đoàn Lê Giang (2003), Thi đại tự và Cổ kim Hòa ca tập tự, Thơ – Nghiên cứu

Lý luận phê bình, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Ngữ văn

Báo chí Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.191 – 202.

17. G.B. Sansom (1989), Lược sử văn hóa Nhật Bản (tập II), NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

18. Harold G. Henderson (2000), Hài cú nhập môn (Lê Thiện Dũng dịch), NXB

Trẻ.

19. Lê Từ Hiển – Nguyễn Hữu Tình (2008), Đôi nét về gương mặt thơ haiku hôm

nay, Tạp chí Thơ, 9 (2008), tr.63 – 70.

20. Joseph M. Kitagawa (2002), Nghiên cứu văn hóa Nhật Bản (Hoàng Thị Thơ

dịch), NXB Khoa học Xã hội.

21. Nguyễn Lương Hải Khôi (2016), Mỹ học Phật giáo của Saigyo Hoshi, Tạp chí

Nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học, Viện Văn học – Viện Hàn lâm

Khoa học Xã hội Việt Nam, 9-2016, tr.95-105.

142

22. Mai Liên (2010), Hợp tuyển văn học Nhật Bản, NXB Lao Động Trung tâm

Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

23. Hà Văn Lưỡng (2002), Một số đặc điểm nghệ thuật của thơ haiku Nhật Bản,

Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn

Quốc gia, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, 3(39), tr.38 – 42.

24. Hà Văn Lưỡng (2004), Thơ haiku Nhật Bản viết về mùa xuân, Nghiên cứu

Nhật Bản và Đông Bắc Á, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu

Đông Bắc Á, 1(49), tr.41 – 49.

25. Phương Lựu – Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1986), Lý luận văn học tập I,

NXB Giáo dục.

26. Phương Lựu (2004), Lí luận phê bình văn học, NXB Đà Nẵng.

27. Ueda Makoto (2016), Matsuo Basho – Bậc đại sư thơ haiku (Nguyễn Nam

Trân biên dịch và chú thích), NXB Hồng Đức.

28. Nguyễn Tường Minh (1971), Hòa ca – Đoản ca & Hài cú, Trung tâm Nghiên

cứu và Dịch thuật Xuất bản Sông Thao.

29. Nguyễn Vũ Quỳnh Như (2010), Masaoka Shiki và haiku cận đại, Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 07-2010, tr. 131-141.

30. Nguyễn Vũ Quỳnh Như (2010), Ngôn ngữ thơ haiku, Tạp chí Đại học Sài Gòn,

số chuyên đề Bình Luận văn học – Niên giám, tr.163-168.

31. Nguyễn Vũ Quỳnh Như (2013), Thơ haiku Nhật Bản: Lịch sử phát triển và

đặc điểm thể loại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn TP.HCM.

143

32. Vĩnh Sính (2001), Dịch thuật và Khảo cứu – Matsuo Basho và Lối lên miền

Oku, Việt Nam và Nhật Bản – Giao lưu văn hóa, NXB Văn nghệ.

33. Vĩnh Sính (2015), Nhật Bản cận đại, NXB Lao động.

34. Junjiro Takakusu (2007), Tinh hoa triết học Phật giáo (Tuệ Sỹ dịch), NXB

Phương Đông, TP.HCM.

35. Lê Thị Thanh Tâm (2012), Mĩ học Mono no aware và văn chương Nhật Bản,

Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 2 (480), tr.53 – 64, Viện Văn học.

36. Nguyễn Trường Tân (2011), Tìm hiểu Văn hóa Nhật Bản, NXB Thông tin.

37. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục.

38. Nguyễn Nam Trân (2011), Tổng quan lịch sử Văn học Nhật Bản, NXB Giáo

dục.

39. Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên) (2008), Văn học Nhật Bản ở Việt Nam,

Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn.

40. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2012), Haiku – Lục bát, một vài ghi nhận, Tạp chí

Nghiên cứu Văn học, 2 (480), tr.83 – 90, Viện Văn học.

41. V. Pronikov & I. Ladanov (2004), Người Nhật (Đức Dương biên soạn), NXB

Tổng hợp TP.HCM.

B. Tiếng Anh

42. Harold G. Henderson (1958), An Introduction to Haiku: An Anthology of

Poems from Basho to Shiki, A Doubleday Anchor Books, United States of

America.

144

43. Janie Beichman (2002), Masaoka Shiki: His Life and Works, Boston.

44. Paul Varley (2000), Japanese Culture (Fourth Edition), Updatead &

Expanded, United States of America.

45. Ueda Makoto (1998), The path of Flowering thorn – The life and poetry of

Yosa Buson, Staford University Press.

46. Ueda Makoto (2008), The Master Haiku Poet – Matsuo Basho, Kodansha

Internatinal, Japan.

47. William J. Higginson (2008), The Haiku handbook – How to write, share, and

Teach Haiku, Kodansha Intl.com, Japan.

48. Wm. Theodore de Barry, Donald Keene, George Tanabe and Paul Varley

(2001), Sources of Japanese Tradition, Columbia University Press, New York.

49. Yuki Sawa (2007), Haiku Master Buson, White Pine Press/Buffalo, New York.

C. Trang web

50. Basho's Haiku: Selected Poems of Matsuo Basho,

https://books.google.com.vn/books?id=V0LQ0DSJ2tcC&pg=PA318&lpg=PA31

8&dq=Ki+no+moto+ni&source=bl&ots=wxuu0lxJ48&sig=FNJeIfGlFsh7iGK5

Dmw3qFanJ1Y&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwiw1oL07-

bZAhVCO48KHfR7ApUQ6AEIPTAK#v=onepage&q=Ki%20no%20moto%20

ni&f=false, truy cập 16/1/2018.

51. Kobayashi Issa 小林一茶, https://terebess.hu/haiku/baso/terebess2abc.pdf,

truy cập 14/1/2018.

145

52. Hoàng Long (2011), Hai lối mộng trong thơ haiku hiện đại,

http://tapchivan.com/hai-loi-mong-trong-tho-haiku-nhat-ban-hien-dai, truy cập

27/2/2018.

53. Masaoka Shiki 正岡子規, https://terebess.hu/english/haiku/shiki.html, truy

cập 14/1/2018.

146

PHỤ LỤC 1: HỆ THỐNG MỘT SỐ THUẬT NGỮ

Tiếng Nhật

Phiên âm

Tiếng Việt

Số trang trong

luận văn

Phái thơ haiku Đàm Lâm

Danrin

56

談林派

kami

Thần linh

31

Shinto

Thần Đạo

31

神道

Teimon

Trinh môn

54

貞門

Zen

Thiền

33

choka

Trường ca

12

長歌

haiga

Hài họa – Tranh và thơ

89

俳画

haigon

Bài ngôn

18

俳言

haikai

Thơ haikai

19

俳諧

18

haikaika

Bài hài ca

俳諧歌

18

haikai no renga

Bài hài liên ca

俳諧の連歌

haiku

Thơ haiku

20

俳句

hiragana

Chữ hiragana trong tiếng

14

平仮名

Nhật

hokku

Thơ phát cú

18

発句

ji-amari

Thơ haiku dư từ

118

字余り

ka-chou-fu-ei

Hoa Điểu Phúng Vịnh

126

花鳥諷詠

kami no ku

Thượng cú

13

上の句

kanji

Hán tự

14

漢字

karumi

Nhẹ nhàng, thanh thoát

44

軽み

katakana

Chữ katakana của tiếng

14

片仮名

Nhật

Thể loại thơ phiến ca

12

katauta

片歌

Quý đề

22

kidai

季題

kidai-me

Đề tài nói về mùa

121

季題目

Quý ngữ

22

kigo

季語

Từ ngắt

23

kire-ji

切れ字

kisetsukan

Cảm thức về mùa

22

季節感

kusari renga

Chuỗi liên ca

16

鎖連歌

mono no aware

Bi cảm

36

物哀れ

muki – haiku

Haiku không mùa

112

無季俳句

okashimi

Cảm

thức

thẩm mĩ

48

おかしみ

okashimi

Đại ca

12

o-uta

大歌

Hình thức tiệc họp mặt

16

utagaki

うたがき

vào mùa xuân hoặc mùa

thu

Liên ca

16

renga

連歌

Liên cú

16

renku

連句

12

riyu-ritsu

Luật thơ tự do

理由律

Tịch tĩnh

40

sabi

さび

Tuyển đầu ca

12

sendoka

選頭歌

Tả thực

113

shajitsu

写実

Tả sinh

113

shasei

写生

147

shibusa

Cảm

thức

thẩm mĩ

50

渋さ

shibusa

shimmo no ku

Hạ cú

13

下の句

shofu

Tiêu phong (phong cách

72

蕉風

Basho)

Du hành

78

tabi

Đoản ca

13

tanka

短歌

tsukinami

Họp thơ mỗi tháng

100

月並

Giản đạm

38

wabi

わび

Hòa ca

12

waka

和歌

Cảm thức thẫm mĩ yojo

46

yojo

余情

U huyền

42

yugen

幽玄

148

149

PHỤ LỤC 2: TUYỂN THƠ HAIKU

Tuyển thơ haiku gồm 362 bài thơ được chọn lọc từ nhiều nguồn, có sự đối sánh

giữa các dị bản (tiếng Nhật), tuyển chọn những bản dịch hay và sát với nguyên bản gốc.

Trong tuyển thơ này, chúng tôi có đưa vào một số bài haiku tự dịch trong quá trình học

tập và nghiên cứu (không đề tên người dịch), các bản dịch khác được đề tên dịch giả bên

dưới. Các bài thơ haiku được sắp xếp theo thứ tự tên tác giả, thứ tự chữ cái phiên âm đầu

bài, ngoài ra còn có ghi chú các bài thơ được sử dụng trong luận văn, để người đọc có

thể thuận tiện tra cứu.

Do nguồn tư liệu về thơ haiku còn khá ít ở Việt Nam và cũng rất ít dịch giả dịch

thơ haiku nên có thể chúng tôi còn thiếu sót trong khâu biên soạn tuyển thơ. Mong rằng

với tuyển thơ haiku, phần nào có thể làm tài liệu tra cứu phục vụ cho học tập và nghiên

cứu thơ haiku sau này.

STT

Tiếng Nhật

Phiên âm

Tiếng Việt

Ghi

chú3

(1) Enomoto Saikaku4 榎本西鶴 (1661-1707)

hi no haru wo

Mặt trời mùa xuân

日の春を

1

susuga ni tsuru no

chim hạc

すすがに鶴の

ayumu kana

lững thững bước đi.

歩み哉

(Quỳnh Như dịch)

meigetsu ya

Trăng tròn

名月や

2

tatami no ue ni

trải dài trên manh chiếu

畳の上に

matsu no kage

dưới bóng cây thông.

松の影

yabuiri ya

Ngày cố hương

やぶいりや

3 Số trang trong luận văn sử dụng bài thơ. 4 Học trò của Basho, thường dùng khẩu ngữ trong thơ haiku.

minikui kane wo

mắt kính mờ

3 見にくいを

chichi no tame

chỉ vì cha.

父の為

(Quỳnh Như dịch)

(2) Hattori Ransetsu5 服部嵐雪(1654-1707)

kusa no ha wo

Giọt sương

草の葉を

4

asobiarike yo

rong chơi

遊びありけよ

tsuyu no tama

trên cành lá.

露の玉

meigetsu ya

Sương khói tỏa lan

名月や

5

kemuri wa hiiku

dưới ánh trăng vằng vặc

88

煙はひゆく

mizu no ue

mặt hồ mênh mang.

水の上

(Lam Anh dịch)

warau ni mo

Không như nụ cười

笑うにも

6

naku ni mo nizaru

không như giọt lệ

泣きに喪になる

mukuge hana

cành hoa bụt ơi!

むくげ花

(Nhật Chiêu dịch)

(3) Hirahata Seito 平畑静搭6 (1905-1997)

ippon no

Một con đường

一本の

7

michi wo hohoemi no

Đang rao bán

道を微笑の

kingyo uri

Cá vàng cười tươi.

金魚売り

(Quỳnh Như dịch)

kuni no densha

Xe điện quê tôi

くにの電車

8

ima mo nishibi ni

chiều về hướng tây

134

今はも西日に

kashira furu

đầu xe rung lắc.

頭振る

(Quỳnh Như dịch)

5 Học trò của Basho. 6 Nhà thơ có nhiều công trình lý luận văn học, đạt giải Hội văn học thi ca năm 1986.

150

(4) Iida Dakotsu 飯田蛇笏7(1885-1962)

furu yuki ya

Chùi cây đèn dầu

降る雪や

9

tama no gotoku ni

ngoài trời tuyết phủ

玉のごとくに

ranpu fuku

từng hạt rơi rơi.

ランプ拭く

fuyu kawa ni

Bước ra sông đông

128

冬川に

10

dete nani wo miru

ơ kìa thiếu phụ

出て何を見る

hito no tsuma

đang ngắm chi chi.

人の妻

(Quỳnh Như dịch)

kurogane no

Chuông gió mùa thu

くろがねの

11

aki no furin

cũ nhèm

秋の風鈴

nari ni keri

kêu lắc cắc.

鳴りにけり

tamashihi no

Tĩnh lặng hồn ta

たましひの

12

shizukani utsuru

ngắm nhìn

129

しずかにうつる

kikumi kana

hoa cúc.

菊見かな

(5) Ikenishi Gonsui 池西言水8(1650-1722)

kogarashi no

Gió heo may

凩の

13

ate wa arikeri

thiên điểu kéo bầy

72

果はありけり

umi no oto

biển rì rào.

海の音

(Quỳnh Như dịch)

neko nigete

Mèo bỏ chạy

猫逃げて

14

ume ugokikeri

hoa mơ lay nhẹ

梅動きけり

oborozuki

trăng mờ sương.

朧月

(Quỳnh Như dịch)

7 Học trò của Takahama Kyoshi, đã phá phong cách thơ Basho. 8 Nhà thơ cổ súy phong cách thơ của phái Danrin, theo đuổi phong cách thơ Basho.

151

wakamochi ya

Bánh dày đầu năm

若餅や

15

chouzui tobashiru

với nước rửa tay

手水 とばしる

mino no taki

ngọn thác Mino.

美濃の滝

(Quỳnh Như dịch)

(6) Ihara Saikaku 井原西鶴9(1642-1693)

atagobi no

Pháo bông Atago

あたご火の

16

kawarakenage ya

như đĩa gốm xoay tròn

58

かわらけなげや

Itamizaka

trượt dốc Itami.

伊丹坂

(Quỳnh Như dịch)

haikai no

Nín thở

俳諧の

17

iki no ne tomen

trào dâng

58

息の根とめ

ooyakazu

ngàn bài haikai.

大矢数

(Quỳnh Như dịch)

kami makoto o

Ơn Thần

神誠お

18

motte

iki no ne

hít sâu, nín thở

もって息の根とめよ

tomeyo

tuôn ngàn bài thơ!

大矢数

ooyakazu

(Quỳnh Như dịch)

(7) Ishida Hakyo 石田波郷10(1913-1969)

basu wo machi

Chờ xe buýt

バスを待ち

19

ooji no haru wo

chẳng chờ chi

大路の春を

utagahazu

đại lộ mùa xuân.

うたがはず

(Quỳnh Như dịch)

inazuma no

Ước gì

稲妻の

20

hoshii mama nari

tia chớp xẹt qua

ほしいままなり

asu arunari

mong có ngày mai.

9 Nhà thơ tiêu biểu của phái Danrin. 10 Nhà thơ thời hậu chiến, có nhiều đóng góp trong việc phát triển thơ haiku thời kì này.

152

明日あるなり

yuki wa shizukani

Không một tiếng động

雪わしずかに

21

yutaka ni hayashi

tuyết rơi nhanh, lấp đầy

ゆたかにはやし

kabane shitsu

ngôi nhà xác.

屍室

(Nguyễn Nam Trân dịch)

(8) Kagano Chiyojo 加賀千代11(1703-1775)

nani kite mo

Gì cũng được

何来ても

22

utsukushiu naru

hơn cả tuyệt trần

89

美しうなる

tsukimi kana

là ngắm trăng.

月見かな

(Quỳnh Như dịch)

tonbo tsuri

Chuồn chuồn nay nhanh

トンボつり

23

kyo wa doko made

để hôm nay đuổi bắt

今日わどこまで

itta yara

đi tận nơi đâu?

行ったやら

(9) Kaneko Tota12 金子兜太(1919-2018)

kiri ni hakucho

Thiên nga mờ sương

霧に白鳥

24

hakucho ni kiri

sương mờ thiên nga

白鳥に霧

toiu bekika

sao thế nhỉ ?

というべきか

(Quỳnh Như dịch)

niju no terebi ni

Bật 20 tivi

二十のテレビに

25

sutato dasshu no

trên màn hình

スタートダッシュの

kokujin bakari

toàn người da màu.

黒人ばかり

(Quỳnh Như dịch)

11 Nhà thơ nữ thời kì Edo. 12 Hội trưởng Hiệp hội thơ haiku hiện đại năm 1983.

153

sake tomeyo

Cai rượu

酒止めよう

26

kado no honno to

như ta đang đùa

かどの本能と

asobouka

với bản năng.

遊ぼうか

(Quỳnh Như dịch)

wan kyoku shi

Ngoằn ngoèo

134

湾曲し

27

kashou shi

vết thương cháy xém

火傷し爆心地の

bakushinchi no

đường marathon.

マラソン

marason

(Quỳnh Như dịch)

(10) Kato Chiyoko 加藤知世子13(1909-1986)

asagao ni

Ôi hoa triêu nhan

朝顔 に

28

tsurube torarete

dây gàu vươn hoa bên

釣瓶とられて

morai mizu

giếng

もらい水

đành xin nước nhà bên.

(Nhật Chiêu dịch)

(11) Kawabata Bousha 川端茅舎14(1897-1941)

harugetsu ya

Vầng trăng mùa xuân

春月や

29

mizuumi no gotoku

soi hồ in bóng

湖のごとく

taiko utsu

như tiếng trống mừng.

太鼓打つ

ichimai no

Đám tuyết ngoài kia

一枚の

30

mochi no gotoku ni

vắt ngang trắng ngần

餅のごとくに

yuki nokoru

tưởng nhầm cái bánh.

雪残る

kongou no

Một giọt sương rơi

金剛の

31

tsuyu hitotsubu ya

kim cương lấp lánh

露一つぶや

ishi no ue

lăn trên đá này.

石の上

13 Nhà thơ nữ thời hậu chiến, có đóng góp tích cực trong phong trào haiku nữ giới. 14 Nhà thơ haiku thời Edo, lối sáng tác dung dị, trang nhã.

154

shungyo ya

Xuân bình minh

春暁 や

32

oto motatezu ni

tĩnh lặng

音もたてずに

boutan yuki

hoa mẫu đơn tuyết.

牡丹雪

(Quỳnh Như dịch)

yuki no naka

Trong tuyết

雪の中

abura no gotoki

lạnh như đá

33

膏の如き

kyo kana

nhớ Kinh Đô.

泉かな

(Quỳnh Như dịch)

(12) Kawahigashi Hekigodo 河東碧梧桐15(1873-1937)

akai tsuboki

Sơn trà trắng

赤い椿

34

shiroi tsuboki to

sơn trà hồng

126

白い椿と

ochi ni keri

cùng rụng xuống mênh

落ちにけり

mông.

(Hoàng Long dịch)

harusamu shi

Xuân giá rét

春寒し

35

suiden no ue no

trên ruộng lúa nước

126

水田の上の

kon nashi kumo

đám mây không chân trời.

根なし雲

(Quỳnh Như dịch)

nadeshiko ya

Biển hừng đông

撫子や

36

umi no yoake no

bông hoa cẩm chướng

海の夜明けの

kusa no hara

lẫn cỏ xanh rì.

草の原

taiboku no

Vươn mây

大木の

37

kumo ni sobiyuru

trên cây cổ thụ

雲にそびゆる

kare no kana

cánh đồng khô kia.

枯野哉

(13) Kobayashi Issa 小林一茶(1762- 1826)

15 Nhà thơ tiếp nối Shiki trong phong trào cách tân thơ haiku, phát triển phong cách tả thực.

155

akatsuki no

Đỗ quyên kêu chi

暁の

38

mugi no saki yori

bên kia đồng lúa

麦の先より

hototogisu

bình minh đang lên.

ほととぎす

aki no yo ya

Đêm thu

秋のよや

39

tabi no otoko no

gã lữ khách

旅の男の

hari sigoto

cặm cụi vá may.

はり仕事

(Quỳnh Như dịch)

akisamu ya

Gió thu

秋寒や

40

yuku sakizaki wa

mỗi nơi dừng chân

行く先々は

hito no ie

là nhà ai đó

人の家

(Quỳnh Như dịch)

aonoke ni

Ngửa mình

仰のけに

41

ochite naki keri

con ve mùa thu ấy

96

落ちて鳴きけり

aki no semi

thảm thiết, kêu gào.

秋の蝉

ari no michi

Đường kiến đi

蟻の道

42

kumo no mine yori

vươn ra mãi

雲の峰より

tsuzukiken

từ đỉnh núi mây

つづきけん

(Đoàn Lê Giang dịch)

ariyou wa

Đối với tôi

有様は

43

ware mo hana yori

bánh dango

我も花より

dango kana

đẹp hơn hoa ngàn.

団子哉

beta beta to

Trong khí xuân tràn

べたべたと

44

mono ni tsukitaru

vạn vật

物につきたる

haru no yuki

ướt át.

春の雪

bijinra ni

Các mỹ nhân

美人等に

45

mizu shiboraruru

đang vắt nước

156

hechima kana

ơ kìa hoa mướp !

水しぼらるゝ

(Quỳnh Như dịch)

糸瓜哉

cha no hana ni

Trên nương trà

39

茶の花に

46

kakurembo suru

một bầy se sẻ

隠んぼする

suzume kana

trốn tìm trong hoa.

雀哉

(Nhật Chiêu dịch)

chiru hara wo

Ếch há miệng

ちる花を

47

kuchi akete matsu

trông chờ

口開けて待

kaeru kana

hoa rơi.

蛙かな

(Quỳnh Như dịch)

chiru sakura

Lả tả rơi

散る桜

48

kyo mo muchakucha

những cánh anh đào

97

今日もむちゃくちゃ

kurashikeri

rối ren như cuộc đời.

暮しけり

daibutsu no

Từ mũi tượng Phật

大仏の

49

hana kara detari

sương mù ban mai

鼻からでたり

kesa no kiri

ló dạng

けさの霧

dainoji ni

Buồn thì ngủ thôi

大の字に

50

nete suzushisa yo

trời thì đang mát

寝て涼しさよ

sabishisa yo

thẳng cẳng ta nằm.

寂しさよ

dondo taku

Lửa cháy hừng hực

どんど焼

51

dondo to yuki no

vang tiếng rơi

どんどと雪の

furi ni keri

tuyết phủ đầy.

降りにけり

furu ame ni

Bất chợt mưa rào

降る雨に

52

hitori nokiri

chỉ một người còn lại

一人のきり

hana no kage

dưới bóng hoa anh đào.

花の陰

157

(Nhật Chiêu dịch)

furu inu ya

Vẫn là bầy chó

古犬が

53

saki ni tatsu

dẫn lối đường xưa

先に立也

haka mairi

trong ngày tảo mộ.

はか参り

furusato ya

Về làng cũ

故郷や

54

yoru mo sawaru mo

những bụi hoa xưa

よるも障るも

bara no hana

chìa gai ra đón.

茨の花

(Nhật Chiêu dịch)

haru ame ya

Bên dòng Sumida

春雨や

55

nezumi no nameru

chú chuột kia uống nước

鼠のなめる

sumidagawa

mưa mùa xuân pha.

隅田川

(Nhật Chiêu dịch)

haru kaze ni

Cha con chú khỉ

春風に

56

saru mo oyako no

trong gió xuân

猿も親子の

touji kana

tắm suối nóng với nhau.

湯治かな

(Quỳnh Như dịch)

haru same ya

Mưa mùa xuân

春雨や

57

yabu ni fukaruru

thổi bay lên lều

藪に吹かるる

sute tegami

lá thư không còn nữa.

捨手紙

(Lam Anh dịch)

harusame ya

Mưa mùa xuân

春雨や

58

kuware nokori no

những chú vị trời chết hụt

食われ残りの

kamoga naku

khóc than

鴨がなく

(Đoàn Lê Giang dịch)

hi no kure ya

Gió thu lạnh lùng

日の暮や

59

hito no kao yori

những gương mặt xa lạ

48

人の顔より

aki no kure

hoàng hôn buông.

158

(Lam Anh dịch)

秋の風

hitonami ni

Trên dãy chiếu

人並みに

60

tatami no ue no

người người xếp hàng

畳の上の

tsukimi kana

ngắm trăng.

月見かな

(Quỳnh Như dịch)

hitori naku wa

Chú chim mồ côi

ひとり鳴くは

61

oya nashi tori yo

tiếng kêu đơn độc

96

親無し鳥よ

aki no kure

trong bóng chiều thu

秋の暮

(Lam Anh dịch)

ie nashi mo

Kẻ không nhà

家なしも

62

edo no ganjitsu

Edo ngày năm mới

江戸の元日

shitari keri

rộn ràng.

したりけり

inu domo ga

Trên đường tuyết

犬どもが

63

yokete iru nari

các chú chó

よけて居る也

yuki no michi

cụp cả tai.

雪の道

(Quỳnh Như dịch)

katatsumuri

Chậm rì, chậm rì

かたつむり

64

soro soro nobore

kìa con ốc nhỏ

38

そろそろ登れ

fuji no yama

trèo núi Fuji.

96

富士の山

(Nhật Chiêu dịch)

ka no ato

Dấu muỗi đốt

蚤の跡

65

sore mo kawaki wa

trên làn da thanh xuân

49

それも若きは

utsukushiki

đẹp xinh ửng hồng.

美しき

(Nhật Chiêu dịch)

kasa no hae

Ruồi trên nón ta ơi

傘の蝿

66

mo kyo kara wa

hôm nay vào thành phố

も今日からは

Edo mono zo

thành dân Edo rồi.

159

(Nhật Chiêu dịch)

江戸ものぞ

ki no kage ya

Dưới bóng cây

木の陰や

67

chou to yadoru mo

trú mưa cùng bướm

蝶と宿るも

tasho no en

duyên trần ai hay.

他生の絵

(Nhật Chiêu dịch)

kiri no ki ya

Cây ngô đồng

桐の木や

68

tekibaki chitte

rụng dần lá

てきばき散って

tsun to tatsu

ào ạt rơi, chất đống.

つんと立つ

kojiki mo

Ăn mày

乞食も

69

fuku daigoku no

cũng mong

福大黒の

tsumori kana

Phúc Đại Hắc.

つもり哉

(Quỳnh Như dịch)

kome maku mo

Giành nhau mổ thóc

米幕も

70

tsumi zoyo tori wa

thương thay chú gà

94

罪ぞよ鳥は

keai zoyo

mắc phải tội.

蹴合ぞよ

ku no shaba ya

Ta bà một cõi đau

苦の娑婆や

71

sakura ga sakeba

cho dù mùa xuân đó

桜が咲けば

saita tote

đang nở những anh đào.

咲いたとて

(Nhật Chiêu dịch)

machi wo dete

Rời quê xưa

町を出て

72

hotto ikisuru

thở phào nhẹ nhõm

ほっと息する

hotaru kana

đom đóm ơi.

蛍かな

meigetsu wo

Lấy xuống đây nào

名月を

73

totte kureru to

đứa bé nức nở

取ってくれると

naku ko kana

đòi vầng trăng cao.

泣く子かな

(Nhật Chiêu dịch)

160

mi hotoke ya

Trong mơ

御仏や

74

nete gozattemo

Đức Phật giáng trần

寝てござっても

saki ni keri

ban tiền và hoa.

咲きにけり

(Quỳnh Như dịch)

mikagirishi

Làng xưa

見かぎりし

75

kokyo no sakura

cây hoa anh đào ấy

故郷の桜

saki ni keri

ra hoa rồi.

咲きにけり

naki haha ya

Ôi, biển khơi

亡母や

76

umi miru tabi ni

khi tôi nhìn thấy biển

95

海見度に

miru tabi ni

mẹ tôi ơi!

見る度に

(Nhật Chiêu dịch)

nakuna kari

Kêu chi, nhạn ơi

鳴くな雁

77

dokko mo onaji

đi đâu thì cũng

どっこも同じ

ukiyo zo ya

cõi phù thế thôi.

浮世ぞや

(Nhật Chiêu dịch)

naku neko ni

Tiếng mèo kêu

鳴くねこに

78

akan me wo shite

bé trợn mắt

赤ん目をして

temari kana

bóng tròn temari.

手まりかな

(Quỳnh Như dịch)

namu namu to

Dưới ánh hoa đào

なむなむと

79

sakura akari ni

Nam mô lạy Phật!

桜明りに

netari keri

say giấc nồng.

ねたりけり

(Quỳnh Như dịch)

nete okite

Vừa tan giấc ngủ

寝て起きて

80

oo akubi shite

con mèo ngáp dài

大欠して

neko no koi

đi tìm tình ái.

猫の恋

(Nhật Chiêu dịch)

161

niwatori ni

Chú gà

鶏に

81

horidasaretaru

đào bới mãi mới ra

掘り出されたる

fukuju sou

hoa Phúc thọ thảo.

福寿草

(Quỳnh Như dịch)

nukunuku to

Trời nóng dần

ぬくうくと

82

yukini kurumaru

tuyết cũng bắt đầu tan

雪にくるまる

ko ie kae

ngôi nhà nhỏ.

小家哉

osanago ya

Không còn mẹ

をさな子や

83

warau ni tsukete

một mình em bé tập cười

笑ふにつけて

aki no kure

đêm mùa thu rơi.

秋の暮

(Nhật Chiêu dịch)

soko fumu na

Đừng dẫm lên đó

そこふむな

84

yuube hotaru no

nơi đó đêm qua

夕べ蛍の

ita atari

đom đóm ở trọ.

居たあたり

(Quỳnh Như dịch)

ta no hito ya

Người nông dân

田の人や

85

tatami no ue mo

nằm trên chiếu

畳の上も

samui no ni

lạnh

寒いのに

(Nguyễn Thị Thanh Xuân

dịch)

temakura ya

Vắt tay làm gối

手枕や

86

kogoto iutemo

càu nhàu vài tiếng

小言いうても

kuru hotaru

đom đóm xuống cùng.

来る蛍

tsuyu no yo wa

Thế giới giọt sương này

露の世は

87

tsuyu no yo nagara

giọt sương, cho dù thế

露の世ながら

sarinagara

ai hay, ai hay...

さりながら

162

(Nhật Chiêu dịch)

uma sou na

Tuyết rơi ngoài kia

むまそうな

88

yuki ga fuuwari

bềnh bồng

雪がふうわり

fuuwari to

rồi lại bềnh bồng.

ふうわりと

ume ga kaori ya

Khách đến nhà

梅が香や

89

donata ga kite mo

không thể thiếu

どなたが来ても

kake chawan

hương trà hoa mơ.

欠け茶碗

(Quỳnh Như dịch)

urakabe ya

Sau tường nhà

浦壁や

90

shigamitsukitaru

bám đầy mớ tuyết

しがみつきたる

binbouyuki

nghèo nàn.

貧乏雪

utsukushi ya

Đẹp vô cùng

美しや

91

shoji no ana no

nhìn qua, ô cửa rách

50

障子の穴の

ama no kawa

ô kìa sông Ngân.

天の川

(Nhật Chiêu dịch)

waga haru wa

Mùa xuân tôi ư

我春は

take ippon ni

cây trúc đơn độc

92

竹一本に

yanagi kana

và cành liễu tơ.

柳かな

(Nhật Chiêu dịch)

ware shinaba

Châu chấu voi ơi

我死なば

93

haka mori to nare

mai này tôi chết

95

墓守となれ

kirigirisu

canh mộ dùm nhé.

きりぎりす

(Quỳnh Như dịch)

ware to kite

Đến đây nào, với tôi

我と来て

94

asobe ya oya no

cùng chơi đùa, chim sẻ

95

遊べや親の

nai suzume

không còn mẹ trên đời.

ない雀

163

(Nhật Chiêu dịch)

yama yake no

Chiếc tàu đêm

山焼の

95

akari ni kudaru

rọi sáng cả

明かりに下る

yobune kana

ngọn núi độ hoàng hôn.

夜船哉

yamadera ya

Chùa Yamadera

山寺や

96

yuki no sokonaru

từ đáy sâu núi tuyết

雪の底なる

kane no koe

tiếng chuông ngân.

鐘の声

(Đoàn Lê Giang dịch)

yare utsu na

Thôi đừng đập nữa

やれうつな

97

hae ga te wo suri

tay chân chú ruồi

蝿が手をすり

ashi wo suru

đang run bắn.

足をする

(Quỳnh Như dịch)

yase gaeru

Con ếch gầy ơi

瘦蛙

98

makeru na Issa

đừng cam lòng khuất phục

まけるな一茶

kore ni ari

Issa đến rồi.

是に有り

(Nhật Chiêu dịch)

yo no naka wa

Trong thế giới này

世の中は

99

chigoku no ue no

bước đi trên mái địa ngục

地獄の上の

hanami kana

ta nhìn hoa bay.

花見かな

(Nhật Chiêu dịch)

yuki chiru ya

Bỡn cợt

雪散るや

100

odokemo ienu

vẫn không nguôi

おどけもいへぬ

shinano zora

Shinanao tuyết rơi.

信濃空

(Quỳnh Như dịch)

yuki tokete

Tuyết đã tan

雪解けて

101

mura ippai no

Phía trong làng

村いっぱいの

kodomo kana

toàn lũ trẻ con.

164

こどもかな

yuki tokete

Tuyết tan rồi

雪とけて

102

kurikuri shitaru

tròn xoe láng bóng

クリクリしたる

tsukiyo kana

ông trăng trên trời.

月夜かな

(Đoàn Lê Giang dịch)

yuu dachi ya

Mưa rào

夕立や

103

hadaka de norishi

thân trần

裸で乗し

hadaka uma

cưỡi ngựa trần.

はだか馬

(Quỳnh Như dịch)

yuu tsubame

Chim yến ban đêm

夕燕

104

ware ni wa asu no

tim tôi thổn thức

我には翌の

ate mo nashi

không có ngày mai.

あてはなき

(Quỳnh Như dịch)

yuukage ya

Hoàng hôn buông

夕陰や

105

tsure ni hagurete

trở nên lạc lõng

連れにはぐれて

naku kaeru

tiếng ếch.

なく蛙

(14) Masaoka Shiki 正岡子規(1868-1912)

asagao no

Ôi hoa triêu nhan

朝顔の

106

chi wo haiwataru

lê mình trên đất

111

地を這ひわる

akiya kana

trong sân nhà hoang.

空家哉

(Nhật Chiêu dịch)

atsukurushi

Nóng bức

暑くるし

107

midare gokoro ya

tâm thần bấn loạn

乱れ心や

rai o kiku

tiếng sấm rền vang.

雷おきく

(Quỳnh Như dịch)

asatsuyu ya

Sương ban mai

朝露や

165

meshi taku kemuri

một làn khói trắng

108 飯焚く煙草

kusa wo hau

trên cỏ lướt dài.

を這ふ

(Nhật Chiêu dịch)

byosho no

Tôi cảm thấy

病牀 の

109

ware ni tsuyu chiru

sương rơi trên tôi

我 に 露 ち る

omoi ari

khi nằm trên giường.

思 ひ あ

fujo saite

Phù dung nở rộ

芙蓉咲いて

110

furu-ike no sagi

cái vạc cô đơn

古い池の鷺

yamome nari

bên đầm nước cũ

やもめなり

(Nhật Chiêu dịch)

furusato wa

Ở quê nhà

故郷わ

111

itoko no ooshi

còn nhiều anh em họ

いとこの多し

momo no hana

và hoa hồng đào.

桃の花

(Quỳnh Như dịch)

futasuji ni

Hai cầu vồng

二 筋 に

112

niji no tattaru

đã hiện lên

虹 の 立 っ た る

aota kana

trên cánh đồng xanh ngát.

青田哉

fuyukawa ni

Chó kia chết rồi

冬川に

113

sutetaru inu no

xác trôi sông lạnh

捨てたる犬の

kabane kana

lững lờ, mùa đông.

かばねかな

ganjitsu no

Tết Nguyên đán

元日の

114

hito doori towa

dòng người tấp nập

人通りとわ

nari ni keri

qua lại.

なりにけり

gyozui no

Ơ kìa quạ

行水の

115

onna ni horeru

sao mãi ngắm nhìn

女にほれる

166

karasu kana

cô gái bên gàu nước.

烏かな

(Quỳnh Như dịch)

harukaze ni

Trong gió xuân

春風に

116

o wo hirogetaru

kìa con công

尾をひろげたる

kujaku kana

xòe chiếc đuôi xinh

孔雀かな

harukaze ya

Đứng trên đồi

春風や

117

toushi idakite

tôi thách thức

117

闘志いだきて

oka ni tatsu

gió xuân.

丘にたつ

(Đoàn Lê Giang dịch)

harusamse ya

Mưa xuân

春雨や

118

kasa sashite miru

nghiêng ô hé nhìn

傘さして見る

kashi ya

mơ về miếng bánh.

菓子や

(Quỳnh Như dịch)

harusamu shi

Xuân lạnh tê

春寒し

119

mizuta no ue no

mây che hết

水田の上の

kon nashi gumo

trên cánh đồng.

根なし雲

hototogisu

Chim đỗ quyên

時鳥

120

kumo ni nuretaru

bên ô cửa sớm

雲にぬれたる

asa no mado

thấm đẫm mây.

朝の窓

iku aki no

Thu đi

行く秋の

121

ware ni kami nashi

ta chẳng còn gì

我に神無し

hotoke nashi

Thần và Phật.

仏無し

(Quỳnh Như dịch)

ikutabi mo

Biết bao lần

いくたびも

122

yuki no fukasa wo

hỏi đi hỏi lại

雪の深さを

tazune keri

tuyết ơi sao cao mãi?

尋ねけり

167

(Quỳnh Như dịch)

ine no hana

Núi Doukan

稲の花

doukan yama no

lúa trổ từng vùng

123

道灌山の

hiyori kana

đẹp làm sao.

日和かな

juuichi nin

Mười người

十一人

124

hitori ni nari te

hay chỉ một

一人になりて

aki no kure

mãi là tàn thu.

秋の暮れ

(Quỳnh Như dịch)

kaburitsuku

Tôi cắn chặt răng

かぶりつく

125

jukushi ya hige o

vào trái hồng chín

115

熟柿や髯お

yogoshikeri

rơi từng giọt xuống râu.

汚しけり

kaki kueba

Ăn quả hồng

柿食えば

126

kane ga naru nari

chuông Pháp Long tự

114

鐘が鳴るなり

houryuji

ngân vang.

法隆寺

(Quỳnh Như dịch)

kawa wo miru

Rơi từ tay người

川を見る

127

banana no kawa wa

vỏ chuối

バナナの皮わ

te yori ochi

ngước nhìn sông.

手より落ち

(Quỳnh Như dịch)

keitou no

Cơn mưa cuối thu

鶏頭の

128

kuroki ni sosogu

trút màu đen sẫm

黒きにそそぐ

shigure kana

xuống hoa màu gà.

時雨かな

(Quỳnh Như dịch)

ki wo tsumite

Tỉa mấy cành cây

木をつみて

129

yono akeyasuki

hừng đông thật sớm

102

夜の明やすき

komado kana

trên cửa nhỏ này.

小窓かな

168

kobai no

Hoa mận đỏ thẫm

紅梅 の

130

chirinu sabishiki

rải trên sự cô đơn

116

散りぬ淋 し き

makura moto

chiếc giường.

枕 元まくら

kodomo gachi ni

Đám trẻ nhỏ

子供がちに

131

kurisumasu no hito

vây quanh

122

クリスマスの人

atsuhikeri

Ông già Noel.

集ひけり

(Quỳnh Như dịch)

kuruki made ni

Tím chuyển

黒 き ま で に

132

murasaki fukaki

sang đen

115

紫 深 き

budo kana

những chùm nho.

葡萄 か

kurimishi ya

Hạt dẻ trắng

栗 飯 ヤ

133

byonin nagara

mặc dù tôi bệnh

117

病人 ナ ガ ラ 大

okurai

vẫn cứ háu ăn.

食 ヒ

maki wo waru

Chỉ mỗi mình em

薪をわる

134

imouto hitori

miệt mài chẻ củi

いもうと一人

fuyu gomori

đầy giỏ mùa đông.

冬篭り

(Quỳnh Như dịch)

makuro ni

Cây đen thui

真黒に

135

nasu hikaru ya

hoa cà tím rực sáng

茄子ひかるや

natsu no tsuki

ánh trăng hè.

夏の月

(Quỳnh Như dịch)

matsu no ne ni

Gốc thông bên đường

松 の 根 に

usumurasaki no

ánh lên màu tím

44

136

薄 紫 の

sumire kana

một ngọn oải hương.

菫 か な

natsu no getsu

Tháng hè

夏の月

jingo sonohen wo

tiếng ai đó

137

169

ittari kitari

qua lại nhiều lần.

人語其辺を

行ったり来たり

no ni ide

Bước ra đồng

野に出で

138

shasei suru haru to

tả thực cảnh xuân

写生するはると

nari ni keri

không gian vô cùng.

なりにけり

(Quỳnh Như dịch)

osoroshi ya

Buồn cười nhỉ

おそろしや

139

ishigaki kuzusu

đá cũng vỡ tan

石垣崩す

neko no koi

tình yêu chú mèo.

猫の恋

(Quỳnh Như dịch)

otoshidama wo

Tiền mừng tuổi

年玉を

140

narabete oku ya

đã sắp sẵn

123

並べて置くや

makura moto

dưới gối đầu.

枕元

(Quỳnh Như dịch)

samidare ya

Mưa tháng 5 rơi

五月雨や

141

tana e toritsuku

bâng khuâng

棚えとりつく

mono no tsuru

dọc ngang trên giàn.

ものの蔓

(Quỳnh Như dịch)

sanzen no

Nghiền ngẫm

三千の

142

haiku wo kemishi

ba ngàn bài haiku

109

俳句を閲し

kaki futatsu

ăn trọn hai quả hồng.

柿二つ

(Quỳnh Như dịch)

sekkyou ni

Những lời thuyết giáo

説教に

143

kegareta mimi wo

nghe chói cả tai

109

汚れた耳を

hototogisu

chim quyên ơi.

ホトトギス

(Quỳnh Như dịch)

seru wo kite

Mùa giảm giá

セルを着て

170

fuufu hanarete

phu thê xa cách

123

144 夫婦離れて

Kyoshi ni ari

Kyoshi đã từng.

虚子に在り

(Quỳnh Như dịch)

suna hama ni

Vết chân dài

砂浜に

145

ashi ato nagaki

in trên bờ cát

足跡長き

haru hi kana

ngày xuân.

春日かな

(Quỳnh Như dịch)

susuharai

Lễ tẩy uế

煤払や

146

kami mo hotoke mo

Thần và Phật

神も仏も

kusa no ue

trên bãi cỏ.

草の上

(Quỳnh như dịch)

tsuki ichirin

Trăng tròn vành

月一輪

147

hoshi musuu sora

trời đầy sao

星無数空

midori nari

xanh thẳm.

緑なり

tsurigane ni

Trên chuông chùa

釣蟹に

148

tomarite hikaru

đom đóm

止まりて光る

hotaru kana

đậu yên, tỏa sáng.

蛍かな

(Quỳnh Như dịch)

unohana o

Chim đỗ quyên

卯の花を

149

megakete kitaka

ngước nhìn

122

めかけてきたか

hototogisu

hoa cẩm tú cầu.

ほととぎす

yomei

Còn bao lâu

餘命

150

ikubaku ka aru

cuộc đời tôi

110

いくばくかある

yo mijikashi

một đêm ngắn ngủi.

夜短し

yukino ie ni

Trong nhà tuyết

雪の家に

151

neteiruto omofu

lim dim ngủ

119

寝て居ると思ふ

171

bakari nite

mãi vẫn vơ.

ばかりにて

(Quỳnh Như dịch)

yuuzuki ya

Chạng vạng trăng cao

夕 月 や

152

hitokatamari ni

những cánh hoa rụng

122

一 か た た り り に

chiru sakura

từ cây anh đào.

散桜

yuuzuki ya

Đêm trăng

夕月や

153

ume chirikakaru

hoa mơ rơi lả tả

梅散り掛かる

koto no koe

hòa tiếng đàn koto.

琴の声

(15) Matsunaga Teitoku16松永 貞徳(1571-1653)

heburasete

Bé say sưa bú

ねふらせて

154

yashinaitate yo

như đang ngậm mút

養ひ立よ

hana no ame

viên kẹo mưa hoa.

花の雨

(Quỳnh Như dịch)

minnahito no

Nhà nhà say giấc ban trưa

皆人の

155

hirune no tane ya

bởi đêm qua

55

昼寝の種や

aki no tsuki

trăng thu đẹp quá.

秋の月

(Lam Anh dịch)

shioruru wa

Nhợt nhạt

しをるゝは

156

nani ka anzu no

cành hoa hạnh

55

何かあんずの

hana no iro

héo tàn.

花の色

(16) Matsuo Basho 枕尾芭蕉(1644-1694)

aki fukaki

Thu vàng

秋深き

157

tonari wa nani wo

ở bên kia ấy

隣わ何を

suru hito zo

Người làm gì nhỉ?

する人ぞ

16 Nhà thơ haiku thời Edo, có công khai sáng niêm luật cho thơ haiku.

172

(Đoàn Lê Giang dịch)

aki no yoru

Đêm thu

秋の夜

158

uchikuzushitaru

vỡ tan

打ち崩したる

hanashi kana

chuyện đời.

話かな

(Quỳnh Như dịch)

aogi naku

Hươu đẫm lệ

仰ぎ鳴く

159

shika no namida ya

ngước nhìn

しかの涙や

tsuki no tsuyu

giọt sương trăng.

月の露

(Quỳnh Như dịch)

ara umi ya

Ôi biển hoang vu

荒海や

160

Sado ni yokotafu

Ngân hà vươn trải

佐渡に横たふ

Ama no gawa

trên đảo Sado.

天の川

(Nhật Chiêu dịch)

asagao ni

Bữa điểm tâm

朝顔に

161

ware wa meshiku

tôi ăn và ngắm

111

我は飯食ふ

otoko kana

những đóa triêu nhan.

男かな

(Nhật Chiêu dịch)

asagao ya

Hoa triêu nhan ơi

朝顔や

162

hiru wa jo orosu

giữa ngày cổng khóa

80

昼は鎖おろす

mon no kaki

chỉ còn em thôi.

門の垣

(Nhật Chiêu dịch)

asagao ya

Hoa triêu nhan ơi

朝顔や

163

kore mo mata waga

cả em rồi cũng

81

是も又我が

tomo narazu

chẳng là bạn tôi.

友ならず

(Nhật Chiêu dịch)

ayame kusa

Hoa diên vĩ

あやめ草

164

ashi ni musuban

buộc quanh bàn chân

足に結ばん

173

waraji no o

mang dép rơm.

草鞋の緒

(Nhật Chiêu dịch)

basho no waki shite

Cây chuối bão giông

芭蕉野分して

165

tarai ni ame wo

nghe mùa thu nhỏ giọt

69

盥に雨を

kiku yo kana

nửa đêm vào bồn.

聞夜かな

(Nhật Chiêu dịch)

fuji no kaze ya

Gió Phú Sĩ

富士の風や

166

ogi ni nosete

trèo lên quạt

45

扇にのせて

edo miyage

món quà Edo.

江戸土産

(Quỳnh Như dịch)

furu ike ya

Ao cũ

古池や

167

kawazu topikomu

con ếch nhảy vào

75

蛙飛びこむ

mizu no oto

vang tiếng nước xao.

水の音

(Nhật Chiêu dịch)

furuhaya ya

Cánh đồng xưa

古畑や

168

nazuna tsumiyuku

hoa khúc tần nở rộ

42

薺摘行

otoko domo

lầm lỗi hắn bước đi.

男ども

(Quỳnh Như dịch)

fuuryu no

Phong lưu khởi đầu

風流の

169

hajime ya oku no

bài ca trồng lúa

はじめや奥の

taue uta

nơi miền quê thâm sâu.

田植うた

(Nhật Chiêu dịch)

fuyu no hi ya

Ngày đông

冬の日や

170

bajou ni kouru

trên lưng ngựa

馬上に

kageboushi

bóng tôi đông cứng.

影法師

(Quỳnh Như dịch)

ganjitsu ya

Nỗi buồn

元日や

174

omocba sabishi

Sao ngày đầu năm nhớ lại

171 思えばさびし

aki no kure

chiều thu.

秋の暮

hamaguri no

Như con sò

蛤の

172

futami ni wakare

rút ruột ra khỏi vỏ

ふたみにわかれ

iku aki zo

chia tay mùa thu.

行く秋ぞ

(Đoàn Lê Giang dịch)

hana no kumo

Từ đám mây hoa

花の雲

173

kane wa ueno ka

tiếng chuông vọng lại

69

鐘わ上野か

asakusa ka?

chùa Uneno hay Asakusa?

浅草か

(Đoàn Lê Giang dịch)

hara naka ya

Trên cánh đồng

原仲や

174

mono nimo tsukazu

chim vân tước hát

物にもつかず

naku hibari

chơi cùng hư không.

啼く雲雀

(Nhật Chiêu dịch)

haru kaze ni

Gió mùa xuân

春風に

175

fukidashi warau

thổi tung tăng

吹き出し笑う

hana mo gana

hoa cười khắp nơi.

花もがな

haru ya koshi

Đêm trừ tịch

春や来し

176

toshi ya iki ken

năm cũ bước qua

62

年や行きけん

kotsugo mori

mùa xuân chớm dậy.

小晦日

(Đoàn Lê Giang dịch)

hatsu shigure

Mùa đông giăng đầy trời

初時雨

177

saru mo komino wo

một chú khỉ đơn độc

猿も小蓑を

hoshige nari

cũng mong chiếc áo tơi.

ほしげなり

(Đoàn Lê Giang dịch)

hebi tabefu to

Rắn đớp mồi

蛇食べふと

175

kikeba osoroshi

nghe mùi chim trĩ

178 聞けば恐ろし

kiji no koe

rợn người.

雉の声

(Đoàn Lê Giang dịch)

hi wa hana ni

Nắng chói chang

日わ花に

179

kurete sabishi ya

hoa rũ buồn

暮れてさびしや

asu narafu

mơ một ngày mai.

あすならふ

(Quỳnh Như dịch)

hitotsu ya ni

Chung quán bên đường

一つ屋に

180

yojo mo netari

các du nữ ngủ

遊女も寝たり

hagi to tsuki

trăng và đinh hương.

萩と月

(Nhật Chiêu dịch)

horo horo to

Âm thầm không tiếng vang

ほろほろと

181

yamabiki chiru ka

rơi bao cánh chùm vàng

76

山吹散るか

takino oto

bên bờ thác nước réo.

滝の音

(Nguyễn Nam Trân dịch)

hototogisu

Chim đỗ quyên ơi

時鳥

182

shougatsu wa ume no

hoa mơ đầu năm mới

正月わ梅の

hanasakeri

bung cánh.

花咲けり

hototogisu

Tiếng chim quyên

ホトトギス

183

kieyuku kata ya

tan dần về phía

75

消え行くかたや

shima hitotsu

đảo cô liêu.

島一つ

(Đoàn Lê Giang dịch)

ika – uri no

Anh hàng cá mực rao

烏賊売の

184

koe magirawashi

nghe sao không phân biệt

82

声まぎらはし

hototogisu

với tiếng đỗ quyên kêu.

時鳥

(Nguyễn Nam Trân dịch)

inazuma ya

Trên mặt biển

稲妻や

176

umi no men wo

ánh chớp

185 海の面を

hiramekasu

lóe sáng.

ひらめかす

(Quỳnh Như dịch)

inazuma ya

Chớp sáng

稲妻や

186

yami no katayuku

tiếng diệc kêu vang

闇の方行く

go i no koe

xuyên màn đêm.

五位の声

kare eda ni

Trên cành khô

枯れ枝に

187

karasu no tomari keri

cánh quạ đậu

41

烏のとまりけり

aki no kure

chiều thu.

秋の暮れ

(Nhật Chiêu dịch)

kiku no ka ya

Cố đô Nại Lương

菊の香や

188

Nara ni wa ikuyo no

ngào ngạt hoa cúc

奈良は幾代の

otoko buri

toàn là đàn ông.

男ぶり

(Quỳnh Như dịch)

kiku no ka ya

Ở cố đô Nại Lương

菊の香や

189

Nara ni wa furuki

hoa cúc và tượng Phật cổ

65

奈良にわ古き

hotoketachi

ngào ngạt hương.

仏たち

(Đoàn Lê Giang dịch)

kimi hi wo take

Cời lửa lên đi

君火をたけ

190

yoki monomisen

món quà của tôi rất tuyệt

70

よきもの見せむ

yuki maroge

quả cầu tuyết đây!

ゆきまろげ

(Nhật Chiêu dịch)

ki no moto ni

Dưới cây, lao xao

木のもとに

191

shiru mo namasu mo

chén canh, đĩa cá

81

汁も膾も

sakura kana

đều vương hoa đào.

桜かな

(Nhật Chiêu dịch)

177

kirishigure

Sương mùa bao phủ

霧時雨

192

Fuji wo minu hi zo

Fuji chìm khuất rồi

富士を見ぬ日ぞ

omoshiroki

Núi hiện hình trong tôi.

おもしろき

(Đoàn Lê Giang dịch)

Kisakata ya

Ở Kisakata

象潟や

193

ryori nani kuu

ngày tế lễ thần

料理何くう

kami matsuri

họ ăn gì nhỉ?

神祭

(Quỳnh Như dịch)

kitemo mi yo

Cứ mặc thử

きてもみよ

194

jinbega haori

chiếc áo

63

甚べが羽織

hanagoro mo

mùa hoa anh đào.

花ごろも

ki wo kirite

Đốn xong thân cây

木を切りて

195

motokuchi miru ya

vầng trăng đêm giống hệt

本口見るや

kyo no tsuki

nhát chém vừa vun tay.

今日の月

kochira muke

Nỗi buồn của ta

こちら向け

196

waremo sabishiki

nhìn lại

我も寂しき

aki no kure

chiều thu đã tàn.

秋の暮れ

kogarashi ni

Trụ được cơn giông bão

木枯に

197

iwa fukitogaru

thổi mạnh, và ghềnh đá

77

岩吹きとがる

sugima kana

len giữa đám tuyết tùng.

杉間かな

(Nguyễn Nam Trân dịch)

kono aki wa

Thu này

この秋わ

nande toshiyoru

sao già nhanh hơn thế

80

198

何で年寄る

kumo ni tori

cánh chim khuất trên mây.

雲に鳥

(Quỳnh Như dịch)

178

kono michi ya

Con đường tôi đi

この道や

199

yuku hito nashi ni

không còn ai đi nữa

48

行く人なしに

aki no kure

chiều tàn mùa thu.

秋の暮れ

(Đoàn Lê Giang dịch)

kono ume ni

Hoa mơ hé nở

此梅に

200

ushi mo hatsune to

khiến chú bò

牛も初音と

naki tsubeshi

rống tiếng đầu tiên.

鳴きつべし

(Quỳnh Như dịch)

kumo to hedatsu

Mây nghìn trùng

雲とへだつ

201

tomo ka yakari no

bằng hữu và chim én

72

友かや雁の

ikiwakare

cuộc sống đầy chia ly.

生き別れ

(Quỳnh Như dịch)

kusa no to mo

Mái lều tả tơi

草のとも

202

sumi kawaru yo zo

sẽ thành ngôi nhà khác

46

すみ変わるよぞ

hina no ie

Tết về, con trẻ chơi.

雛の家

(Nhật Chiêu dịch)

kyo made wa

Mênh mông đường về

京までわ

203

mada nakazora ya

kinh đô

まだ中空や

yuki no kumo

mây và tuyết trắng.

雪の雲

kyou nite mo

Chim quyên hót

京にても

204

kyou natsukashi ya

ở Kinh Đô

104

京なつかしや

hototogisu

mà nhớ Kinh Đô.

ほととぎす

(Đoàn Lê Giang dịch)

matsushima no

Ánh trăng

枕島の

205

tsuki mazu kokoro ni

Tùng Đào

月まず心に

kakarite

rơi vào tim tôi.

かかりて

(Quỳnh Như dịch)

179

matsushima ya

Matsushima

松島や

206

aa matsushima ya

Tùng Đào

ああ松島や

matsushima ya

Ôi! đảo-thông.

松島や

(Đoàn Lê Giang dịch)

meigetsu ya

Trăng rằm mùa thu

名月や

207

hokkoku biyori

tiết trời Đông bắc

51

北国日和

sadame naki

bất định.

定めなき

(Quỳnh Như dịch)

nagakihi mo

Dẫu ngày dài ra

奈き日も

208

saezuri taranu

mà vân tước hát

囀り足らぬ

hibari kana

vẫn còn hát ca.

雲雀かな

(Nhật Chiêu dịch)

naho mitashi

Ánh hừng đông lên

なほ見たし

209

hana ni akeyuku

hoa nở

花に明けゆく

kami no kao

gương mặt của Thần.

神の顔

natsu kite mo

Hè sang

夏来ても

210

tada hitotsu ba no

âu một chiếc lá

ただひとつ葉の

hitoha kana

chỉ một mà thôi.

一葉かな

(Quỳnh Như dịch)

natsugusa ya

Cỏ mùa hạ đầy

夏草や

tsuwamono domo ga

giấc mơ người tráng sĩ

211

兵どもが

yume no ato

còn vươn đâu đây.

夢の跡

(Nhật Chiêu dịch)

neko no koi

Tình yêu của mèo

猫の恋い

212

yamu toki neya no

lặng yên bên giường bệnh

やむとき閨の

oborozuki

trăng mờ sương.

朧日

(Quỳnh Như dịch)

180

neko no tsuma

Chị mèo cái kia đang

猫の妻

213

hetsui no kuzure yori

trèo qua gian bếp sập

64

竃の崩れより

kayoi keri

để đến thăm anh chồng.

通ひけり

(Nguyễn Nam Trân dịch)

neta hito ni

Người ngủ

寝た人に

214

nemuru hito ari

cạnh người cũng ngủ

眠る人あり

haru no ame

mưa mùa xuân pha.

春の雨

niwa hakite

Quét tuyết sương

庭掃きて

215

yuki o wasururu

mà quên sương tuyết

83

雪を忘るる

hahaki kana

cây chổi trong vườn.

帚かな

(Nhật Chiêu dịch)

nomi shirami

Nào chấy, rận, ngựa đói

蚤虱

216

uma no shito suru

bên gối

馬の屍する

makura moto

chỗ ta nằm

枕もと

(Nguyễn Nam Trân dịch)

nozarashi wo

Lang thang đồng nội

野ざらしを

217

kokoro ni kaze no

để cho mưa gió

志に風の

shimumi kana

thấm vào hồn tôi.

しむ身哉

(Đoàn Lê Giang dịch)

omoshiroshi

Lạ lùng

面白し

218

yuki ni yanaran

tuyết rơi đầy

雪にやならん

fuyu no ame

cơn mưa dông.

冬の雨

omoshirou te

Ngộ nghĩnh

おもしろうて

219

yagate kanashiki

man mác buồn

やがて悲しき

ubene kana

thuyền tam bản.

鵜舟哉

(Quỳnh Như dịch)

181

ougi nite

Trong khúc quạt xòe

扇にて

220

sakekumu kageya

nâng chén rượu

酒組む影や

chiru sakura

bóng hoa đào rơi.

散る桜

(Quỳnh Như dịch)

ro no koe

Dạ rét căm căm

櫓の声

221

namida wo

utte

tiếng chèo khua sóng

67

波をうって腸氷る

120

harawata kooru

nước mắt và bóng đêm.

夜や涙

yo ya namida

(Đoàn Lê Giang dịch)

ryou no te ni

Trên đôi tay tôi

両の手に

222

momo to sakura ya

hồng đào và anh đào

桃と桜や

kusa no mochi

và cả bánh rau xanh.

草の餅

(Quỳnh Như dịch)

sabishisa ya

Cô liêu

桜しさや

223

kabe ni taketaru

lồng treo trên vách

74

壁にたけたる

kirigirisu

một con dế kêu.

きりぎりす

(Nhật Chiêu dịch)

sakura yori

Đã ba mùa trăng

桜より

224

matsu wa nihon wo

hoa đào không nở

松わ二ホを

mitsuki goshi

đồi thông, vui hơn.

三月越し

samazama no

Hồi tưởng

様々の

225

koto omoidasu

về rất nhiều điều

こと思い出す

sakura kana

hoa anh đào.

桜かな

samidare no

Mưa tháng năm rơi

五月雨の

226

furi nokoshite ya

sừng sững trơ mình

降り残してや

hikari do

tháp Quang Đường.

光堂 松尾

(Quỳnh Như dịch)

182

samidare wo

Mưa tháng năm rơi

五月雨を

227

atsumete hayashi

bụi trần rơi vãi

あつめて早し

mogami gawa

trên sông Mogami.

最上川

(Quỳnh Như dịch)

shiragiku no

Một cành hoa cúc trắng

白菊の

228

me ni tatete miru

dù nhướng mắt nhìn kĩ

83

目に立てゝ見る

chiri mo nashi

cũng không thấy bụi trần.

塵もなし

(Nguyễn Nam Trân dịch)

shizukasa ya

Vắng lặng u trầm

静かさや

229

seki ni shimi iru

thấm sâu vào đá

41

岩にしみ入る

semi no koe

tiếng ve ngâm.

74

蝉の声

(Đoàn Lê Giang dịch)

shoyuki ya

Tuyết đầu mùa

初雪や

230

saiwahi anni

vào trong am

幸ひ庵に

makari aru

niềm hạnh phúc.

まかりある

sokai no

Kìa trên mặt biển xanh

蒼海の

231

nami sake kusashi

sóng cùng nồng men rượu

65

浪酒臭し

kyo no tsuki

giống vầng trăng đêm nay.

今日の月

(Nguyễn Nam Trân dịch)

tabi ni yande

Đau yếu giữa hành trình

旅に病んで

232

yume wa kareno wo

chỉ còn mộng tôi phiêu

35

夢わ枯野を

kakemeguru

lãng

46

駆け巡る

trên những cánh đồng

78

hoang.

(Nhật Chiêu dịch)

183

tabibito

Mưa đầu đông

旅人と

233

towaga na yobaren

hãy gọi ta là

80

我名よばれん

hatsu shigure

lữ nhân.

初時雨

(Quỳnh Như dịch)

tako tsubo ya

Trăng mùa hè

蛸壺や

234

hakanaki yume wo

soi chú mực trong bẫy

はかなき夢を

natsu no tsuki

giấc mộng phù du.

夏の月

(Đoàn Lê Giang dịch)

te wo tateba

Tôi vỗ bàn tay

手を打てば

235

kodama ni akaruku

dưới trăng mùa hạ

68

こだまに明くる

natsu no tsuki

tiếng dội về, ban mai!

夏の月

(Nhật Chiêu dịch)

toginaosu

Chùi lại chiếc gương

磨直す

236

kagami mo kiyoshi

sáng lóa

鏡も清し

yuki no hana

bông hoa tuyết.

雪の花

torinaku ya

Dưới chân núi nhỏ Fuji

鶏なくや

237

kofuji no fumoto

tiếng gà gáy

小窓士の麓

momo no hana

và cánh hoa mơ.

桃の花

(Quỳnh Như dịch)

tsuki mite mo

Dẫu ngắm nhìn trăng

月見ても

238

mono tarahazu ya

sao thấy thiếu sáng

物たらはずや

suma no natsu

mùa hè Suma.

須磨の夏

(Quỳnh Như dịch)

tsuki yuki to

Theo suốt đời tôi

月雪と

239

nosabari kerashi

những năm tháng cuối

83

のさばりけらし

toshi no kure

chỉ trăng và tuyết thôi.

年の暮れ

184

(Đoàn Lê Giang dịch)

tsutsuji ikete

Hoa đỗ uyên trên bàn

躑躅生けて

240

sono kage ni hidara

dưới bóng hoa

70

その陰に干鱈

saku onna

một chị ngồi xẻ cá.

割く女

ubaguruma

Sóng hè phẫn nộ

乳母車

241

natsu no doto wo

chiếc xe nôi

夏の怒涛を

yokomuki ni

lật ngang.

よこむきに

(Quỳnh Như dịch)

ubazakura

Hoa đào cằn cỗi

姥桜

242

saku ya rogo no

nở rồi lại tàn

62

咲くや老後の

omoide

nhớ thương.

思い出

(Quỳnh Như dịch)

uma ni nete

Trên lưng ngựa mơ màng

馬に寝て

243

zanmu tsuki tooshi

mộng tỉnh

残夢月遠し

cha no kemuri

trăng lặng rồi, khói nấu trà

茶の煙

tỏa lan.

(Đoàn Lê Giang dịch)

umi kurete

Biển chạng vạng

海暮れて

244

kamo no koe

mờ nhạt

鴨の声

honokani shiroshi

tiếng ngan.

ほのかに白し

(Quỳnh Như dịch)

ushi beya ni

Chuồng bò

牛部屋に

245

ka no koe yowashi

vang lên tiếng muỗi

蚊の声よわし

aki no kaze

gió thu.

秋の風

185

ware ni ni wa

Đừng theo tôi

我にには

246

fatatsu ni wareshi

quả dưa dù xẻ nửa

84

ふたつに割わし

maku wauri

cần chi hai cuộc đời.

まくわうり

(Nhật Chiêu dịch)

yagate shinu

Cái chết đến gần

やがて死ぬ

247

keshiki wa miezu

mà không hay biết

景色わ見えず

semi no koe

vẫn hoài tiếng ve.

蝉の声

(Lê Thị Thanh Tâm dịch)

yamaro kite

Màu hoa tầm xuân

山路来て

248

naniyara yukashi

trên con đường núi

72

何やらゆかし

sumiregusa

níu hoài bước chân.

すみれ草

(Đoàn Lê Giang dịch)

yuku haru ya

Mùa xuân ra đi

行く春や

249

tori naki uo no

tiếng chim thổn thức

38

鳥蹄き魚の

me wa namida

mắt cá lệ đầy.

目は涙

(Nhật Chiêu dịch)

yoku mireba

Nhìn kĩ mới nhận ra

よく見れば

250

nazuna hana saku

dưới chân hàng dậu

40

薺花咲く

kakine kana

khóm khúc tần nở hoa.

垣根かな

(Đoàn Lê Giang dịch)

yoru hisokani

Con sâu lặng yên

夜ル竊ニ

251

mushi wa gekka no

ăn mòn hạt dẻ

66

虫は月下の

kuri wo ugatsu

trong đêm trăng huyền.

栗を穿ツ

(Nhật Chiêu dịch)

yuugao ya

Mùa thu

夕顔や

252

aki wa iroiro no

hoa bìm bìm nở

秋わ色々の

hisago kana

xen lẫn bầu và bí.

瓢かな

186

(17) Mitsuhashi Takajo 三橋鷹女17(1899-1972)

kono ki noberaba

Leo lên cây này

この樹登らば

253

kijo to narubeshi

tôi sẽ thành thần nữ

120

鬼女となるべし

yuu momiji

giữa bạt ngàn lá đỏ chiều

夕紅葉

nay.

(Đoàn Lê Giang dịch)

usu momiji

Lá ửng hồng

薄紅葉

254

koibito naraba

người tôi yêu

恋人ならば

eboshi deko

đội nón Edoshi.

烏帽子で来

(Quỳnh Như dịch)

(18) Mitsuhashi Toshio 三橋敏雄18(1920-2001)

Hiroshima ni

Tại Hiroshima

広島に

255

roujin shouzu

người già héo hắt

老人正ず

aki no kure

tàn thu.

秋の暮

(Quỳnh Như dịch)

ie goto ni

Trong mỗi nhà

家毎に

256

chikyu no hito ni

nhân gian

地球の人に

ama no gawa

và sông Ama.

天の川

(Quỳnh Như dịch)

mata no yo wo

Lại một đêm

またの夜を

257

tokyo akaku

Tokyo đỏ đèn

東京赤く

akaku naru

rực sáng.

赤くなる

(Quỳnh Như dịch)

sennso ni

Chiến tranh

戦争に

258

takaru musuu no

vô vàn

たかる無数の

17 Nhà thơ haiku chủ trương theo phong cách khẩu ngữ. 18 Nhà thơ haiku với lối viết cách tân thơ haiku không có từ chỉ mùa.

187

hae shizuka

ruồi đậu.

蝿しずか

(Quỳnh như dịch)

shonen ari

Thời niên thiếu

初年あり

259

pikaso no ao no

màu xanh Picasso

ピカソの青の

naka ni yamu

ôi nỗi đau.

なかに病む

(Quỳnh Như dịch)

taiyo no

Mặt trời vừa lên

太陽の

260

agareru haru wo

luyến tiếc thay

あがれる春を

oshimi keri

một mùa xuân phai.

惜しみけり

(19) Mizuhara Shuoushi19水原 秋櫻子(1892-1981)

ameni eshi

Trong cơn mưa

雨に獲し

261

shira uwo no kasa

bắt đám cá trắng

白魚の嵩

awarenari

buồn mênh mang.

哀れなり

(Quỳnh Như dịch)

beta beta ni

Nhớp nháp, ướt át

べたべたに

262

ta mo na no hana mo

hoa cải và cánh đồng

田も菜の花も

teri mi daru

tỏa sáng.

照りみだる

(Quỳnh Như dịch)

no no niji ni

Cầu vồng trên đồng

野の虹と

263

haruta no niji to

cầu vồng vụ xuân

131

春田の虹と

sora ni afu

gặp nhau trên trời.

空に会ふ

(Quỳnh Như dịch)

tsuki iku yo

Trăng dài đằng đẳng

月幾世

264

terashi tobino ni

soi chiếu đuôi công

照らせし鴟尾に

kyo no tsuki

trăng hôm nay.

今日の月

19 Chủ tịch Hiệp hội nhà thơ năm 1962, có nhiều đóng góp phát triển thơ haiku hiện đại.

188

(Quỳnh Như dịch)

tsuri bashi ya

Trên cầu dây văng

吊橋や

265

hyappo no chuu no

trăm bước không trung

132

百歩の宙の

aki no kaze

gió thu.

秋の風

(Quỳnh Như dịch)

(20) Naito Joso20内藤 丈草(1662-1704)

mizu no soko no

Đáy nước sâu

水の底の

266

iwa ni ochitsuku

im lìm trên đá

岩に落ち着く

kono ha kana

chiếc lá nào.

此の葉かな

(Đoàn Lê Giang dịch)

no mo yama mo

Tuyết rơi dày

野も山も

267

no ni toraeta

bao phủ đồng núi

雪にとられて

nani mo nashi

trống trãi.

何もなし

ukauka to

Bồn chồn

うかうかと

268

kite wa hanami no

lễ hội ngắm hoa

来わ花見の

rusui kana

đến lượt trông nhà.

留守居哉

(Quỳnh Như dịch)

(21) Nakamura Kusatao 中村暮田男21(1901-1983)

furu ame ya

Mưa rơi

降る雪や

269

meiji wa tooku

làng Meiji

133

明治わ遠く

nari ni keri

xa vời vợi.

なりにけり

(Quỳnh Như dịch)

20 Học trò của Basho. 21 Chủ tịch hiệp hội thơ haiku hiện đại năm 1960.

189

fuyu umi ya

Biển mùa đông

冬海や

270

rakka no gotoku

ngỡ hoa rụng

落花のごとく

kamome uku

và mòng biển trôi.

鷗浮く

sora wa taisho no

Da trời xanh

空わ太初の

271

aosa tsuma yori

màu của thuở ban đầu ta

133

青さ妻より

ringo uku

đón quả táo từ ngày

林檎うく

người vợ.

(Nguyễn Nam Trân dịch)

(22) Nishiyama Soin22 西山宗因(1605-1682)

na no hana ya

Dưới góc tùng thâm niên

菜の花や

272

ippon sakishi

Âm thầm khoe sắc

57

一本咲きし

matsu no moto

Một bông cải mỏng manh

松のもと

(Lam Anh dịch)

sabera koko ni

Dưới bóng hoa mơ

さればここに

273

danrin no ki ari

trong nhà Danrin

57

談林の木あり

ume no hana

hứng thú, ta làm thơ.

梅の花

(Quỳnh Như dịch)

(23) Ogiwara Seisensui23 荻原井泉水(1884-1947)

sora wa sabishi yo

Trời âm u

空わさびしよ

274

ie araba

nhà mọc lên nhiều

127

家あらば

kemuri wo age yo

khói lại càng cao.

煙をあげよ

(24) Shinohara Hosaku24 篠原鳳作(1905-1936)

gakko no

Ánh trăng

月光の

22 Nhà thơ phái Danrin. 23 Nhà thơ theo phong trào thơ tự do thời Meiji. 24 Nhà thơ theo phong trào thơ haiku mới, chủ trương thơ haiku không có từ chỉ mùa.

190

omodakarazu ya

soi vào, nhẹ nhàng

275 おもだからずや

nagaki kami

mái tóc dài.

長き髪

inshoku no

Chùa Ango

飲食の

276

mono oto mo naku

giờ ăn uống

もの音もなき

angoji

im lim.

安居寺

(Quỳnh Như dịch)

(25) Suda Yasuko 須田康子25(1944-)

sotsugyo no

Trên bàn

卒業の

277

tsukue ni hotto

luận văn tốt nghiệp

124

机にホット

keiki kana

chiếc bánh nướng.

ケーキかな

(Quỳnh Như dịch)

(26) Sugita Hisajo 杉田久女26(1890-1946)

hana gomoro

Từng mãnh xiêm y

花衣

278

nyguya matsuwara

rời thân thể ngọc đi ngắm

130

ぬぐやまつはる

himo iroiro

hoa về

紐いろいろ

sợi hồng lưu luyến.

(Quỳnh Như dịch)

taka taka to

Đàn bướm bay

高々と

279

chou koyuru tani no

cao mãi, cao mãi

蝶こゆる谷の

fukasa kana

tận trong thác sâu.

深さかな

yuku haru no

Bàn chân

ゆく春の

280

nagare ni sou te

rảo bước

流れに沿うて

ayumi keri

theo mùa xuân đi.

歩みけり

25 Nhà thơ haiku hiện đại. 26 Nhà thơ nữ thời kì Meiji.

191

(27) Tachibana Hokushi 立花北枝27(-1718)

ike no hoshi

Ngôi sao trên hồ

池の星

281

mata ha harahara to

ào ào

またははらはらと

shigure kana

mưa đầu đông.

時雨かな

(Quỳnh Như dịch)

sabishisa ya

Nỗi u buồn

さびしさや

282

isshaku kiete

khiến con đom đóm

一尺消えて

yuku hotaru

cũng bay đi.

ゆくほたる

(28) Tagami Kikusha28田上菊舎(1753-1826)

kumo ka kumo

Mây và mây

雲か雲かと

283

ka to kite mireba

nhìn kỹ mới nhận ra

来て見れば

sakura kana

hoa anh đào.

さくら哉

(Quỳnh Như dịch)

midori ni wa

Trong đám cây

みどりにわ

284

michi mo mayohitsu

bước chân lạc lối

道も迷ひつ

yamazakura

hoa anh đào núi.

山桜

sanmon wo

Ra khỏi cổng chùa

山門を

285

dereba nihon zo

ơ kìa Nhật Bản

88

出れば日本ぞ

chatsumi uta

khúc ca hái trà.

茶摘みうた

(Quỳnh Như dịch)

(29) Takada Choi 高田蝶衣29(1726-1798)

aru toki wa

Bất chợt

ある時わ

286

kabe no naka yori

từ vách tường

壁の中より

27 Học trò của Basho. 28 Nhà thơ nữ thời kì Edo. 29 Học trò của Takahama Kyoshi.

192

aki no koe

văng vẳng tiếng mùa thu.

秋の声

kamitsudo

Các vị thần quy tụ

神集ふ

287

norisutemashishi

giáng trần

乗り捨てましと

kumo tomaru

mây ngừng trôi.

雲泊まる

(Quỳnh Như dịch)

koe dashite

Cô độc

声出して

288

mitari dokkyo no

trong căn phòng gọi

みたり独居の

aki no kure

nhìn vào tàn thu.

秋のくれ

mado akete

Tung cửa sổ

窓あけて

289

miyuru kagiri no

trong không trung

見ゆる限りの

haru oshimu

xao xuyến mùa xuân.

春惜む

(Quỳnh Như dịch)

(30) Takahama Kyoshi 高浜虚子30(1874-1959)

aki kaze ya

Trong gió thu

秋風や

290

ganchu no mono

vạn vật trước mắt

眼中のもの

mina haiku

đều là haiku.

皆俳句

(Quỳnh Như dịch)

ame harete

Mưa tạnh rồi

雨晴れて

291

shibaraku bara no

cánh tường vi ấy

128

しばらく薔薇の

nioi kana

một thoáng hương trôi.

匂いかな

(Nhật Chiêu dịch)

hatsu cho wo

Dường như giấc mơ

初蝶を

292

yume no gotoku ni

bay đi mất

128

夢の如くに

mi ushinafu

theo đàn bướm xuân

見失ふ

30 Nhà thơ tiếp nối Shiki trong phong trào cách tân thơ haiku.

193

kare ichi go

Hắn buông một tiếng

彼一語

293

ware ichi go aki

ta một từ thu

我一語秋

fukami kamo

sâu thẳm làm sao.

深みかも

(Quỳnh Như dịch)

kono yama ni

Ở trong núi

此の山に

294

sumikeru karasu,

chim, rắn và thú dữ

129

住みける烏、

kemono, hebi

sống cùng nhau.

獣、蛇

(31) Takarai Kikaku 宝井其角31(1661-1707)

amagaeru

Con ếch xanh

雨蛙

295

basho ni norite

trên tàu lá chuối

43

芭蕉にのりて

soyogi keri

đánh đu một mình.

87

そよぎけり

(Nhật Chiêu dịch)

meigetsu ya

Bóng trăng âm u

名月や

296

tatami no ue ni

trên manh chiếu

88

畳の上に

matsu no kage

vời vợi trăng thu.

松の陰

(Lam Anh dịch)

yume ni kuru

Mẹ trở về

夢に来る

297

haha wo kaesu ka

trong giấc mơ con thấy

母をかえすか

hototogisu

chim quyên ơi.

ほととぎす

(32) Tomizawa Kakio 32富澤赤黄男(1902-1962)

chou ochi te

Cánh bướm đang rơi

蝶落ちて

298

dai onkyo no

phát ra tiếng lớn

大音響の

ketsu hyouki

thời tan băng.

結氷期

garasu mado

Vỡ ô cửa

ガラス窓

31 Học trò của Basho. 32 Nhà thơ trong phong trào tân hưng thơ haiku hiện đại.

194

kowareshimafu

để nhìn

299 壊れてしまふ

yoi tenki

tiết trời đẹp.

よい天気

gunkan ga

Rồi cũng đến ngày

軍艦が

300

shizunda umi no

tàu chiến cũ kĩ

沈んだ海の

oitaru

chìm trên biển.

老いたる

samui tsuki

Trăng lạnh

寒い月

301

aa bou ganai

không tròn nổi vành

ああ貌がない

bou ganai

chẳng định hình.

貌がない

(33) Yamaguchi Seishi33山口 誓子(1901-1994)

natsu no kawa

Sợi xích đỏ neo tàu

夏の河

302

akaki tessa no

thấm cái nóng mùa hạ

133

赤き鉄鎖の

hashi hitaru

xuống sông sâu.

端浸る

(Đoàn Lê Giang dịch)

umi ni dete

Bước ra biển

海に出て

303

kogarashi kaeru

câu héo tàn

木枯らし帰る

tokoro nashi

không chổ quay về.

ところなし

(Quỳnh Như dịch)

(35) Yosa Buson 与謝蕪村(1716-1784)

akebono no

Rạng đông

曙の

304

murasaki no maku ya

màu tím

むらさきの幕や

haru no kaze

gió xuân.

春の風

(Quỳnh Như dịch)

Basho sarite

Basho đi xa

芭蕉去て

305

sononochi imada

vạn vật vẫn thế

そののちいまだ

33 Nhà thơ theo phong trào cách tân thơ haiku hiện đại.

195

toshi kurezu

năm ngừng trôi.

年くれず

(Quỳnh Như dịch)

fuji wo mite

Nhìn núi Phú Sĩ

富士を見て

306

toru hitoari

người người qua lại

通る人有

toshino ichi

hội chợ cuối năm.

年の市

(Quỳnh Như dịch)

furu ie no

Ngôi nhà ngày xưa

古家の

307

yugami wo naosu

sắp hỏng

ゆがみを直す

koharu kana

tháng mười cuối năm.

小春かな

furuniwa ni

Còn đâu trong vườn

古庭い

308

uguisu nakinu

tiếng chim oanh thuở nọ

92

鶯なきぬ

hi mo sugara

ngày dài vẫn trôi.

日もすがな

fuyu kawa ya

Sông lạnh

冬川や

309

fune ni na wo

bên thành xuồng

舟に菜を

arau onna ari

em gái rửa rau.

洗う女あり

gekkou nishi ni

Dưới tán hoa đằng đông

月光西に渡れば

310

watareba

dạo bước thong dong

120

花陰東に

hanakage

higashini

phía trời tây trăng dõi.

歩むかな

ayumu kana

(Lam Anh dịch)

hana chirite

Hoa đào rụng

花ちりて

311

konoma no tera

Giữa những khoảng không

木の間の寺

tonari ni keri

hiện lên ngôi chùa cổ.

となりにけり

(Đoàn Lê Giang dịch)

haramori no

Giữ hoa làm chi

花守りの

312

mi wa yumiya naki

không mang cung tên

みわ弓矢なき

kagashi kana

gã bù nhìn!

196

かがしかな

haru no umi

Biển ngày xuân

春の海

313

hinemosu notari

cả ngày dài không ngừng

91

終日のたり

notari kana

nhấp nhô, nhấp nhô ngọn

のたりかな

sóng.

(Lam Anh dịch)

haru same ya

Mưa xuân

春雨や

314

kawazu no hara wa

bụng chú ếch

蛙の腹わ

mada nurezu

chưa ướt.

まだぬれず

(Quỳnh Như dịch)

Mưa mùa xuân

harusame ni

春雨に

làm bừng tỉnh

315

ikikaeritaru

92

生きかえりたる

wakame kana

một mầm non xanh.

若め哉

harusame no

Mưa mùa xuân

春雨の

316

naka wo nagaruru

hạt rơi, lất phất

中を流るる

taiga kana

sông Taiga.

大河哉

harusame ya

Mưa xuân

春雨や

dousha no kimi ga

gã đồng hành trên xe

317

同車の君が

sazamegoto

cằn nhằn mãi.

さざめ事

(Quỳnh Như dịch)

harusame ya

Mưa xuân

春雨や

koiso no kogai

sò nhỏ, ngôi nhà nhỏ

318

小礒の小貝

nururu hodo

ướt đẫm.

ぬるるほど

(Quỳnh Như dịch)

197

hi kururu ni

Bên kia núi

日くるるに

319

kiji utsu haru no

chim trĩ hót

雉子うつ春の

yama be kana

xuân trôi lặng thầm.

山辺かな

hi no hikari

Hừng sáng

日の光

320

kesa ya iwashi no

ánh mặt trời

104

今朝や鰯の

kashira yori

rọi đầu cá khô.

頭より

(Quỳnh Như dịch)

hi wa hi kure yo

Từ sáng đến hoàng hôn

日は日くれよ

321

yo wa yo ake yo to

từ đêm đến bình minh

93

夜は夜明よと

naku kaeru

vang vang tiếng ếch.

啼蛙

(Đoàn Lê Giang dịch)

hitori kite

Một người đến

一人来て

322

hitori wo tobu ya

rồi một người đi

一人をとぶや

aki no kure

trong buổi tàn thu.

秋の暮

hosoki hi ni

Trong đêm

細き灯に

323

yorugara hinano

ngọn nến nhỏ

夜がら雛の

hikari kana

hina lung linh.

光かな

(Quỳnh Như dịch)

ibarano ya

Đêm mờ ảo

茨野や

324

yoru ha utukushiki

trên bụi gai

夜はうつくしき

mushi no oto

tiếng côn trùng.

虫の音

ika nobori

Cánh diều bay

イカ登り

325

sakujitsu no sora

bầu trời hôm trước

昨日の空

ri dokoro

nay đà nơi đâu?

ありどころ

(Quỳnh Như dịch)

198

ima ha haya

Lá non

今ははや

326

udo mo kuwanrenu

thổ đương quy

90

独活も食われぬ

wakaba kana

nào đã được ăn!

若葉かな

(Quỳnh Như dịch)

kabedonari

Tiếng động nhẹ

壁隣

327

mono gototsukasu

cạnh bên

ものごとつかす

yosamu kana

đêm lạnh giá.

夜さむかな

kagiri aru

Đời là phù du

かぎりある

328

inochi no hima ya

mang sinh mệnh

命のひまや

aki no koe

tiếng thu.

秋の声

kanashisa ya

Nỗi buồn

悲しさや

329

tsuri no ito fuku

sợi chỉ câu cá

釣りの糸ふく

aki no kaze

lửng lơ gió thu.

秋の風

(Quỳnh Như dịch)

kimi iku ya

Đường dài

君行くや

330

yanagi midori ni

em đi mãi

柳緑に

michi nagashi

rừng liễu.

道長し

kinofu hana

Hôm qua hoa nở

きのふ花

331

asu wo momiji ya

ngày mai lá đỏ

明日を紅葉や

kyo mo tsuki

trăng là hôm nay.

今日も月

kusa kasumi

Cỏ mờ sương

草霞み

332

mizu ni koe naki

nước không động đậy

水に声なき

higure kana

chiều tà.

日暮れかな

kyonen yori

Năm này

去年より

333

mata sabishiizo

buồn hơn năm qua

又さびしいぞ

199

aki no kure

tàn thu.

秋の暮れ

(Quỳnh Như dịch)

mijika yo ya

Đêm mùa hạ trôi nhanh

みじか夜や

334

kemushi no ue ni

trên lưng sâu bướm

毛虫の上に

tsuyu no tama

giọt sương còn long lanh.

露の玉

(Lam Anh dịch)

mugi no aki

Cánh đồng thu

麦の秋

3375

sabishiki kao no

mặt em buồn

さびしきかおの

kyojo kana

như điên dại.

狂女かな

(Quỳnh Như dịch)

mon wo dereba

Chiều mùa thu

門を出れば

336

watashi mo yuku hito

khi rời tổ ấm

42

私も行く人

aki no kure

tôi thành khách lãng du.

秋の暮

(Lam Anh dịch)

na no hana ya

Hoa cải rực vàng

菜の花や

337

tsuki wa higashi ni

phương tây mặt trời ngả

91

月わ東に

hi wa nishi ni

bóng

日わ西に

phương đông mặt trăng

lên.

(Đoàn Lê Giang dịch)

natsugawa wo

Sướng sao

夏河を

338

kosu ureshisa yo

lội sông hè

越すうれしさよ

te ni zouri

đôi dép xách trên tay

手に増量

(Nguyễn Nam Trân dịch)

ochi kochi ni

Ở đâu

遠近に

339

taki no oto kiku

tiếng thác đổ nhẹ

滝のお音聞く

wakaba kana

lá non trên cành.

200

若林かな

oikaze ni

Gió sau lưng

追風に

340

susuki karitoru

cắt cỏ trên đồng

薄刈り取る

okina kana

ơ kìa lão nông.

翁かな

(Quỳnh Như dịch)

ono ga yo ni

Ánh trăng

おのが葉に

341

tsuki oboro nari

trên lá

月おぼろなり

take no haru

tre non.

竹の春

sabishi sa ni

Nỗi buồn

寂しさに

342

hana saki numeri

làm hoa đào dại

花さきぬめり

yamazakura

bung nở.

山ざくら

sabishisa no

Trong buồn

寂しさの

343

ureshikumo ari

cũng có vui

嬉しくもあり

aki no kure

tàn thu.

秋の暮れ

(Quỳnh Như dịch)

saitan wo

Viết xong

さいたを

344

shitari gao naru

bài thơ năm mới

したり顔なる

haikaishi

vui thay.

俳諧詩

saru wo kiku hito

Vượn hú não nề

猿を聞く人

345

sutego ni aki no

hay trẻ bị bỏ rơi than khóc?

すて子に秋の

kaze ikani

gió mùa thu tái tê.

風いかに

(Đoàn Lê Giang dịch)

shigo nin ni

Trăng ngả bóng

四五人に

346

tsuki ochikakaru

soi chiếu bốn năm người

月落ちかかる

odori kana

nhảy múa.

201

(Quỳnh Như dịch)

踊りかな

shiratsuyu ya

Bụi cỏ ngây

白露や

347

ibara to toge ni

mỗi giọt sương trắng

112

茨の刺に

hitotsu zutsu

đọng một cành gai.

一つずつ

(Nhật Chiêu dịch)

shira ume ni

Hoa mơ trắng

白梅に

348

akaruku yobakari ni

rựng sáng

89

明るく夜ばかりに

nari ni keri

màn đêm.

なりにけり

(Quỳnh Như dịch)

sumizumi ni

Vấn vương

隅々に

349

nokoru samosa ya

trong từng ngóc ngách

残る寒さや

ume no hana

giá rét và hoa mơ.

梅の花

(Quỳnh Như dịch)

suzushisa ya

Trời mát dịu

涼しさや

350

kane wo hanaruru

chuông rung lắc

鐘を離るる

kane no koe

ngân nga tiếng chuông.

鐘の声

(Quỳnh Như dịch)

tsuki tenshin

Trăng lên cao

月天心

351

mazushiki machi wo

soi chiếu vào

貧しき町を

toori keri

xóm nghèo nơi đây.

通りけり

tsurigane ni

Trên chuông chùa

釣鐘に

352

tomarite nemuru

một con bướm đậu

止まりて眠る

kochou kana

nghiêng mình ngủ mơ.

胡蝶かな

(Nhật Chiêu dịch)

202

uguisuno

Chim oanh

鶯の

353

eda fumihazusu

vướng chân trên cành

枝ふみはづす

hatsune kana

cất tiếng đầu xuân.

初音

(Quỳnh Như dịch)

ume no hana

Những cánh hoa mơ

梅の花

354

kasa ni kabutte

kết thành chiếc nón

笠にかぶって

naku kawazu

đội đầu ếch kêu.

鳴く蛙

(Quỳnh Như dịch)

utsutsu naki

Mơ hồ

うつつなき

355

tsumami gokoro no

trong lòng tay tôi

つまみごころの

kochou kana

bươm bướm.

胡蝶かな

(Đoàn Lê Giang dịch)

waga de ni

Ta rồi cũng

我がでに

356

ware wo maneku ya

tự mời ta thôi

我を招くや

aki no kure

tàn thu.

秋の暮れ

ware mo shi shite

Rồi tôi cũng chết

我も死て

357

hi ni hotori semu

xung quanh bia đá

碑に辺せむ

kare wo bana

hoa tàn héo khô.

枯を花

(Quỳnh Như dịch)

yama ha kinofu

Hôm qua là núi

山はきのふ

358

no ha kefuasu asu wo

cánh đồng là ngày mai

野はけふあすを

yado no yuki

tuyết là nơi ta ở.

宿るの雪

(Quỳnh Như dịch)

yama-dori no

Chim trĩ

山鳥の

359

o wo fumu haru no

Trải đuôi dài

尾を踏む春の

irihi kana

chiều xuân.

入日哉

203

yanagi chiri

Liễu xác xơ

柳散り

360

shimizu kare ishi

suối cạn

清水涸れ石

tokoro dokoro

đá bày hàng lô nhô.

ところどころ

(Nguyễn Nam Trân dịch)

yuku haru ya

Ôm đàn tì bà

行く春や

361

omotaki biwa no

lòng tôi nặng trĩu

おもたき琵琶の

daki gokoro

mùa xuân trôi.

抱きごころ

(Quỳnh Như dịch)

yuku toshi ya

Năm trôi

行く年や

362

akuta nagaruru

bụi trần rơi vãi

芥流るる

sakura gawa

trên sông Sakura.

さくら川

(Quỳnh Như dịch)

204