BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
----------
LÂM MINH TRÍ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU TỪ MATSUO BASHO ĐẾN MASAOKA SHIKI
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
LÂM MINH TRÍ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU TỪ MATSUO BASHO ĐẾN MASAOKA SHIKI
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã ngành: 52220320
Hướng dẫn khoa học: ThS. Nguyễn Bích Nhã Trúc
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy và truyền đạt kiến thức làm
nền tảng cho tôi trong việc thực hiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến nhà nghiên cứu Nhật Chiêu
– người đã chỉ dạy những bước đầu và mang đến niềm say mê thơ haiku cho tôi.
Cảm ơn Th.S Nguyễn Bích Nhã Trúc đã tận tình hướng dẫn, quan tâm và giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Cảm ơn các tác giả, nhà nghiên cứu đã mang đến nguồn tài liệu tham khảo
quý giá, góp phần hoàn thiện hơn những cơ sở lý luận trong luận văn.
Và cuối cùng xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đã động viên, ủng hộ tinh thần
cho tôi hoàn thành tốt luận văn.
Tp.HCM ngày 10 tháng 4 năm 2018
Lâm Minh Trí
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Cách tân nghệ thuật thơ haiku từ Matsuo Basho
đến Masaoka Shiki là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa
học của Th.S Nguyễn Bích Nhã Trúc. Luận văn không có sự trùng lấp hay sao
chép bất kì công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả khác.
Tác giả luận văn
Lâm Minh Trí
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 9
7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................ 9
CHƯƠNG 1: THƠ HAIKU TRONG DÒNG CHẢY THƠ CA NHẬT BẢN .... 11
1.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ haiku 俳句 .................................... 11
1.1.1. Khởi nguồn từ waka 和歌 .................................................................... 11
1.1.2. Từ renga 連歌 đến haikai 徘徊 ........................................................... 16
1.1.3. Từ haikai 徘徊 đến haiku 俳句 ........................................................... 19
1.1.4. Một số đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu của haiku ................................. 21
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng và xu hướng cách tân thơ haiku ....................... 23
1.2.1. Ảnh hưởng của sự tiếp thu văn hóa phương Tây dưới thời Meiji ....... 24
1.2.2. Chiến tranh và sự phát triển của các thể loại văn học trong thời kì mới
........................................................................................................................ 26
1.2.3. Các xu hướng cách tân thơ haiku......................................................... 27
1.3. Các phạm trù mĩ học trong thơ haiku ........................................................ 29
ii
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức thẩm mĩ Nhật Bản . 29
1.3.2. Mĩ học Thiền – nền tảng của các cảm thức thẩm mĩ trong thơ haiku . 32
1.3.3. Một số cảm thức thẩm mĩ cơ bản trong thơ haiku ............................... 36
1.3.3.1. Ý thức về vẻ đẹp huyền bí, tâm linh (aware 哀れ, wabi 詫び, sabi
寂, yugen 幽玄) .......................................................................................... 37
1.3.3.2. Ý thức về vẻ đẹp tinh tế, cô đọng (karumi 軽み, yojo 余情, okashimi
おかしみ, shibusa 渋さ) ............................................................................ 44
TIỂU KẾT 1 ......................................................................................................... 52
CHƯƠNG 2: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI BASHO ........ 54
2.1. Những chuyển biến và định hướng hình thành nghệ thuật thơ haiku trước
Basho ................................................................................................................. 54
2.1.1. Xây dựng nền móng và phát triển thơ haiku ....................................... 54
2.1.1.1. Phái Teimon với xu hướng bảo thủ, tri thức ................................. 54
2.1.1.2. Phái Danrin với xu hướng tinh tế, phóng khoáng ......................... 56
2.1.2. Xây dựng nghệ thuật sơ khai và định hình cách viết thơ haiku .......... 59
2.2. Basho và những chặng đường đi tìm nghệ thuật thơ haiku ....................... 60
2.2.1. Tiếp biến và khám phá kĩ thuật mới cho thơ haiku ............................. 61
2.2.1.1. Bước đầu học hỏi và tập tành làm thơ haiku ................................. 61
2.2.1.2. Quá trình nghiên cứu và khám phá kĩ thuật mới ........................... 64
2.2.2. Hình thành phong cách riêng, đưa haiku lên đỉnh cao nghệ thuật ...... 68
2.2.2.1. Các định hướng cho phong cách mới ............................................ 68
iii
2.2.2.2. Nghệ thuật thơ haiku đạt đến đỉnh cao .......................................... 73
2.2.3. Phong cách thơ haiku thực tại, tinh tế ................................................. 78
2.2.3.1. Haiku mang đậm tính triết lý sâu sắc ............................................ 79
2.2.3.2. Lối viết nhẹ nhàng, thanh thoát ..................................................... 81
2.3. Phong cách nghệ thuật thơ haiku sau Basho .............................................. 85
2.3.1. Khuynh hướng thoái trào của thơ haiku .............................................. 85
2.3.2. Giai đoạn phục hưng thơ haiku và các trào lưu đổi mới ..................... 86
2.3.2.1. Các xu hướng mới hình thành trên nền tảng Basho ...................... 86
2.3.2.2. Xu hướng phát triển haiku duy mĩ ................................................. 89
2.3.2.3. Xu hướng “phi haiku”.................................................................... 94
TIỂU KẾT 2 ......................................................................................................... 98
CHƯƠNG 3: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI SHIKI ........... 99
3.1. Công cuộc cải cách thơ haiku thời Meiji ................................................... 99
3.1.1. Sự khuôn mẫu trong việc làm thơ haiku - nguyên nhân dẫn đến suy thoái
........................................................................................................................ 99
3.1.1.1. Sự bảo trợ của chính phủ và những hệ lụy .................................... 99
3.1.1.2. Lệ thơ tsukinami 月並 – lối sáo mòn của haiku hiện đại ............ 101
3.1.2. Những khuynh hướng thay đổi đưa haiku khỏi biến động ................ 103
3.1.2.1. Giữ vững “Nhật Bản tính” trong thơ haiku ................................. 104
3.1.2.2. Đáp ứng tình hình và nhu cầu xã hội ........................................... 105
3.1.2.3. Cách tân toàn diện về mọi mặt .................................................... 106
iv
3.2. Shiki với cuộc cách tân thơ haiku hiện đại .............................................. 107
3.2.1. Bước đầu cho những cải cách thơ haiku hiện đại .............................. 108
3.2.1.1. Báo chí – phương tiện cách tân hoàn hảo .................................... 108
3.2.1.2. Phê bình lối viết haiku truyền thống ............................................ 111
3.2.2. Bước tiến vượt bậc trong cách tân nghệ thuật thơ haiku ................... 114
3.2.2.1. Khuynh hướng tả sinh và những bước tiến mới .......................... 114
3.2.2.2. Đỉnh cao của “haiku dư từ” ......................................................... 119
3.2.2.3. Thay đổi quan niệm về kigo ........................................................ 121
3.3. Thơ haiku sau Shiki và những biến đổi về nghệ thuật ............................. 125
3.3.1. Thơ haiku thời Taisho ........................................................................ 125
3.3.1.1. Khuynh hướng haiku tượng trưng ............................................... 125
3.3.1.2. Khuynh hướng haiku phúng vịnh ................................................ 128
3.3.2. Thơ haiku tiền – hậu chiến ................................................................ 130
3.3.2.1. Sự biến động về quan điểm nghệ thuật ....................................... 131
3.3.2.2. Thơ haiku sau 1945 – nghệ thuật của thời đại mới ..................... 133
TIỂU KẾT 3 ....................................................................................................... 136
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 140
PHỤ LỤC 1: ....................................................................................................... 146
PHỤ LỤC 2: ....................................................................................................... 149
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Nhắc đến văn học Nhật Bản, không thể không nhắc đến thơ haiku. Haiku -
linh hồn của thơ ca Nhật Bản, là thể thơ hình thành và phát triển xuyên suốt các
chặng đường văn học của xứ Phù Tang. Haiku đẹp như cánh hoa anh đào, trầm
lắng như tiếng chim cu, thanh khiết như tuyết trắng,... và là con thuyền chuyên
chở văn hóa Nhật Bản đi khắp thế giới. Với lịch sử hình thành hơn 400 năm và
hơn 100 năm phát tán theo làn gió văn học đi khắp nơi, thơ haiku trở thành vấn đề
hấp dẫn dành cho các nhà nghiên cứu, học giả, lý luận và phê bình không chỉ ở
Nhật Bản mà còn nhiều nước khác trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
“Nhỏ nhoi là vậy, thơ haiku vẫn có thể chứa đựng ba nghìn thế giới.
Như một thiền ngôn xưa, trong hạt cải nhỏ xíu bao hàm cả nhật nguyệt, trên
đầu sợi lông dồn tụ cả càn khôn” [9; 6].
Haiku như một ẩn số vô tận, nghiên cứu thơ haiku là con đường dài không
có điểm kết. Thơ haiku mang con người đến với cái đẹp, đưa ta tìm về với bản thể
uyên nguyên. Như một sự mê hoặc đến lạ kì, haiku cuốn hút nhiều người đến với
nó vì “những tuôn chảy trong vỏ ốc nhỏ ấy là tiếng vọng của đại dương tình yêu
và đại dương thiên nhiên, nghĩa là của trái tim vô hạn và của bốn mùa vô tận xứ”
[9; 6].
Ở Việt Nam, tuy chỉ mới được du nhập vào khoảng nửa cuối thế kỉ XX
nhưng thơ haiku cũng đã khẳng định vị trí của mình trong phong trào tiếp nhận
văn học nước ngoài. Thơ haiku dần được đưa vào giảng dạy ở chương trình đại
học, chuyên ngành Văn học, tiếp theo là cấp Trung học phổ thông, điều đó khiến
nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu về thơ haiku trở nên cấp thiết. Không
những vậy, thơ haiku từ khi hình thành đến nay trải qua khá nhiều giai đoạn cách
2
tân sửa đổi để có một diện mạo như hiện tại. Như vậy, nghiên cứu haiku không
đơn thuần là nghiên cứu một tác giả hay một vấn đề riêng biệt mà cần phải nghiên
cứu cả quá trình. Từ đó, nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật thơ haiku ra đời,
nhưng dường như các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa đi sâu tìm hiểu vấn
đề cách tân của thơ haiku từ khởi nguyên cho đến hiện đại, chủ yếu tập trung vào
đặc điểm, tác giả, thể loại mà chưa chỉ rõ được điểm mới qua từng thời kì phát
triển của thơ haiku.
Những nguyên nhân đó đã thôi thúc chúng tôi đi đến quyết định nghiên cứu
và tìm hiểu chặng đường phát triển thơ haiku, góp phần làm rõ hơn những đặc
điểm cách tân từ cổ điển đến hiện đại của thơ haiku qua đề tài Cách tân nghệ
thuật thơ haiku từ Matsuo Basho đến Masaoka Shiki. Với đề tài này, chúng tôi
hy vọng có thể làm rõ được một số đặc điểm cách tân nghệ thuật trong thế giới thơ
haiku bí ẩn mà nhiều gợi mở, còn nhiều mới mẻ ở Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Như đã trình bày, nghiên cứu haiku là mảnh đất hấp dẫn các nhà nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật thơ haiku trên thế giới và cả Việt
Nam.
Công trình nghiên cứu sớm nhất ở phương Tây về văn học Nhật Bản có thể
kể đến là W.G. Aston với A History of Japanese Literature (Lịch sử văn học Nhật
Bản, 1899). Công trình này đã khái quát toàn bộ tiến trình văn học Nhật Bản, trong
đó có sự hình thành và phát triển của thơ haiku. Đến Basil Hall Chamberlain, thơ
ca Nhật Bản được nghiên cứu với hàng loạt công trình đáng giá, trong đó nổi bật
là phần nghiên cứu: Basho and the Japanese Poetical Epigram (Basho và Thơ trữ
tình Nhật Bản, 1902) công trình đã đề cập đến tác giả Basho và phong cách thơ ca
3
của ông trên thi đàn Nhật Bản, trong đó tác giả nhấn mạnh Basho như người gieo
mầm để haiku bắt đầu nảy nở thành hoa thơm cỏ lạ.
Thơ haiku dần được quan tâm hơn, ngày càng nhiều công trình nghiên cứu
hướng vào tứ trụ haiku ra đời ở phương Tây như: An Introduction to Haiku: An
Anthology of Poems from Basho to Shiki (Giới thiệu thơ haiku: Hợp tuyển thơ từ
Basho đến Shiki, 1958) của Harold G. Henderson đã làm rõ những đặc trưng cơ
bản của từng tác giả qua các bài haiku, từ đó làm nổi bật phong cách của tứ trụ
haiku: Basho, Buson, Issa và Shiki.
Những công trình nghiên cứu độc lập về tác giả xuất hiện nhiều hơn, nghiên
cứu dưới góc độ chuyên sâu hơn như: Masaoka Shiki: His Life and Works
(Masaoka Shiki: cuộc đời và tác phẩm, 2002) khẳng định xu hướng hiện đại hóa
thơ haiku cổ điển đến thơ haiku hiện đại, cho thấy nhiều đặc điểm cách tân mới
trong thơ haiku của Shiki.
Việt Nam cũng ảnh hưởng trào lưu nghiên cứu văn học Nhật Bản đặc biệt
là thơ haiku một cách mạnh mẽ. Từ trước năm 1945, một số nhà thơ, nhà tri thức
đã có những bước manh nha tiếp xúc với thơ haiku như Vũ Hoàng Chương, Hàn
Mạc Tử, Nguyễn Tường Minh, Ngô Văn Tao,... Sự phát triển của nền văn hóa,
học thuật miền Nam lúc bấy giờ đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi và tiền đề thúc
đẩy quá trình dịch thuật, giới thiệu tinh hoa văn học, văn hóa nước ngoài, trong đó
có văn học Nhật Bản. Sớm nhất, phải kể đến một số bài dịch thơ haiku của Hàn
Mạc Tử trong bài viết Thi văn Nhật Bản với phong trào Âu hóa (1936) đăng trên
báo Sài Gòn. Tuệ Sĩ, Nguyễn Tường Minh dịch thơ haiku từ tiếng Anh của H.G.
Henderson sang tiếng Việt như: Hòa ca (nhiều tác giả) (1971), Luyến ca (nhiều
tác giả) (1972), Bản dịch của Nguyễn Tường Minh, Sài Gòn Sông Thao.
4
Sau năm 1975, văn học Nhật Bản nói chung và thơ haiku nói riêng càng ảnh
hưởng mạnh mẽ đến văn đàn Việt Nam. Người tiên phong đưa văn học Nhật Bản
về Việt Nam có thể kể đến nhà nghiên cứu Nhật Chiêu. Các công trình, tham luận,
bài viết về haiku trên nhiều khía cạnh ra đời, góp phần làm rõ nguồn gốc, đặc trưng
của thơ haiku, mang thơ haiku đến gần hơn với người Việt. Cụm công trình tiêu
biểu của Nhật Chiêu có thể kể đến như: Basho và thơ haiku (1994). Công trình
này được viết một cách cô đọng, tập trung vào tác giả Basho và tuyển dịch 119 bài
thơ của Basho theo bốn mùa. Đây có thể xem là nguồn tư liệu đầu tiên về tác giả
Basho ở Việt Nam. Tiếp đó là các công trình: Nhật Bản trong chiếc gương soi
(1997), Thơ ca Nhật Bản (1998), Văn học Nhật Bản - Từ khởi thủy đến năm 1868
(2003) đã giới thiệu văn học Nhật Bản trên phương diện các thể loại: thơ ca, văn
xuôi, kịch No,... Đặc biệt, Ba nghìn thế giới thơm (2007) có lẽ là công trình toàn
vẹn nhất mà Nhật Chiêu đã cho thấy thơ ca Nhật Bản, đặc biệt là thơ haiku “không
hoành tráng thênh thang như đại lộ thơ của nhiều xứ khác [...] không tiêu đề,
không đối, không vần, không cầu kì” [9; 9] và “haiku trao tặng cho ta một niềm
vui lặng lẽ, như một làn hương nhẹ bay đi” [9; 9].
Đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong việc nghiên cứu văn học Nhật Bản
ở Việt Nam là công trình Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản (2011) của Nguyễn
Nam Trân. Với kiến thức và sự am hiểu về Nhật Bản, Nguyễn Nam Trân cho ra
mắt công trình này như một sự tổng hợp, đúc kết toàn bộ tiến trình lịch sử văn học
Nhật Bản. Riêng về thơ haiku Nguyễn Nam Trân dành đến hai chương để phác
họa rõ nét tiến trình hình thành và phát triển từ sơ khởi đến hiện đại. Ở chương
XIII: Hành trình từ haikai đến haiku cổ điển, ông đã khái quát lịch sử thơ haiku
bằng các chặng khác nhau: haikai trước Basho, phong cách Basho, haikai sau
Basho, mối quan hệ giữa Thiền và haiku, kĩ thuật viết haiku cổ điển,... Đến chương
5
XXVI: Haiku cách tân và haiku tiền vệ, Nguyễn Nam Trân đã cho thấy sự ảnh
hưởng của phong trào cách tân thơ ca tác động đến sự đổi mới và sự xuất hiện
haiku hiện đại mà tiêu biểu là tác giả Masaoka Shiki với các đề xuất cách tân thơ
haiku. Trong công trình này, Nguyễn Nam Trân cũng đã dẫn ra những bài haiku
được chọn lọc kỹ lưỡng để minh họa cho các đặc trưng phát triển lịch sử của thơ
haiku, đó là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng để dễ dàng tiếp cận thơ haiku theo
hướng chuyển ngữ.
Trên phương diện dịch thuật, có các công trình dịch thuật được xuất bản
như: Lê Tiến Dũng với bản dịch Hài cú nhập môn của Harold G. Henderson (2000).
Tác giả cũng đã đề cập đến nghệ thuật “renso – liên tưởng”, đến nguyên tắc sử
dụng “kigo”, “nguyên lí đối chiếu nội tại” trong thơ haiku. Vĩnh Sính với cuốn:
Dịch thuật và Khảo cứu – Matsuo Basho và Lối lên miền Oku (2001) là công trình
nghiên cứu về tác phẩm Oku no hosomichi của Basho trong đó có hợp tuyển số
lượng lớn thơ haiku của Basho trong chuyến du hành về miền Đông Bắc. Gần đây
nhất là quyển Matsuo Basho - Bậc đại sư thơ haiku (2016) của Ueda Makoto - một
trong những công trình nghiên cứu có chất lượng cao về thơ haiku ở Nhật, do
Nguyễn Nam Trân biên dịch và chú thích. Tác phẩm này là tài liệu quan trọng,
cung cấp cho độc giả và người yêu thơ haiku ở Việt Nam một cái nhìn khái quát
và chân thực về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Basho, phần nào chỉ rõ những
chặng đường đi tìm phong cách nghệ thuật haiku của đại thi hào Nhật Bản. Bên
cạnh đó, tác phẩm còn cho thấy được tài năng tổng hợp của Basho ở các lĩnh vực:
sáng tác thơ haiku, haibun, bình thơ haiku, lý luận sáng tác haiku,...
Ngoài các công trình kể trên, thơ haiku còn được các nhà nghiên cứu tìm
hiểu chuyên sâu trong các luận văn, luận án trên các bậc học và nghiên cứu ở Việt
Nam. Những công trình khoa học này đã góp phần định hướng chi tiết hơn cho
6
việc nghiên cứu thơ haiku. Với công trình Ý thức thẩm mỹ Nhật Bản trong thơ
haiku (2010), Nguyễn Thị Lam Anh đã làm rõ ý thức thẩm mỹ của người Nhật
Bản thông qua thể thơ truyền thống này, “từ đó tìm hiểu và trình bày chi tiết những
đặc trưng quan trọng nhất của ý thức thẩm mỹ Nhật Bản trên cơ sở khảo sát, phân
tích thơ haiku” [1; 6]. Tiếp đó là luận án Tiến sĩ Ngữ văn Thơ haiku Nhật Bản:
Lịch sử phát triển và đặc điểm thể loại (2013) của Nguyễn Vũ Quỳnh Như, đã bao
quát quá trình hình thành và phát triển của thơ haiku, đặc biệt là những tác động
của haiku ra thế giới, tập trung qua hai hướng tiếp nhận là phương Tây và Việt
Nam. Bên cạnh đó, luận án còn đề cập khá kĩ đến đặc điểm về nội dung và nghệ
thuật cũng như đặc trưng thể loại của thơ haiku. Qua đó, ta thấy rõ hơn phần nào
diện mạo thể thơ mới được du nhập vào Việt Nam, trong hơn bốn mươi năm đã
có những thành tựu đột phá như vậy. Ngoài ra, còn nhiều luận văn tốt nghiệp đại
học và luận văn thạc sĩ có hướng nghiên cứu thơ haiku trên phương diện so sánh
đối chiếu với thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần như Thơ Thiền Việt Nam thời Lý
–Trần trong so sánh với thơ Thiền Nhật Bản (2008) của Tăng Kim Huệ, với thơ
Đường Trung Quốc như Đạm trong tuyệt cú của Vương Duy và Wabi trong thơ
haiku của Basho (2009) của Nguyễn Diệu Minh Chân Như.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới dạng sách, luận văn, luận án vừa
nêu, còn có rất nhiều các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
cũng đề cập đến hướng nghiên cứu thơ haiku Nhật Bản. Bài viết Một số đặc điểm
nghệ thuật của thơ haiku Nhật Bản (2002), Thơ haiku Nhật Bản viết về mùa xuân
(2004) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á của Hà Văn Lưỡng.
Đoàn Lê Giang với So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ điển Việt Nam
và Nhật Bản đăng trên Tạp chí Văn học số 9 – 1997, Basho – Nguyễn Trãi –
Nguyễn Du, những tâm hồn thơ đồng điệu đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học
7
số 6 – 2003 cùng nhiều tài liệu giảng dạy khác. Tác giả Nguyễn Vũ Quỳnh Như
là nhà nghiên cứu chuyên sâu về thơ haiku, hội viên Hiệp hội thơ haiku thế giới,
cũng đã có những bài viết như Masaoka Shiki và haiku cận đại (2010) đăng trên
tạp chí Nghiên cứu văn học số 07-2010. Tiếp đó là Ngôn ngữ thơ haiku (2010)
đăng trên Tạp chí Đại học Sài Gòn, số chuyên đề Bình Luận văn học – Niên giám.
Tuy số lượng các công trình, bài nghiên cứu, dịch thuật khá nhiều nhưng
theo sự tổng hợp của chúng tôi, các tư liệu còn manh mún về đề tài, chưa xoáy sâu
vào các khía cạnh nên việc nghiên cứu thơ haiku vẫn còn nhiều bất cập và thiếu
sót. Trước thực tế này, thiết nghĩ cần có những bài nghiên cứu tập trung hơn vào
những vấn đề còn thiếu sót, chưa được nghiên cứu kĩ lưỡng như “tiến trình phát
triển, cách tân thơ haiku ở Nhật”. Đó là một trong những vấn đề cấp thiết cần được
nghiên cứu, để thơ haiku có thể phát triển ở Việt Nam đúng hướng hơn.
3. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung là rõ về nguồn gốc hình thành thơ haiku, từ đó tìm hiểu
những biến chuyển, thay đổi qua từng thời kì phát triển của haiku. Nghiên cứu và
nhìn nhận lại sự nghiệp, phong cách sáng tác, giá trị nghệ thuật trong thơ haiku
của các tác gia tiêu biểu, cho thấy những đóng góp vào sự cách tân nghệ thuật thơ
haiku từ cổ điển đến hiện đại.
Phần nào hệ thống hóa lại các tư liệu nghiên cứu về thơ haiku, khắc phục
những thiếu sót và bổ sung những quan điểm về sự đổi mới qua từng thời kì của
thơ haiku. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật và tư duy nghệ thuật đặc biệt là các phạm
trù về mĩ học trong các bài thơ haiku tiêu biểu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng mà luận văn hướng đến là thơ haiku Nhật bản từ cổ điển đến hiện
đại, bên cạnh đó chú ý đặc biệt đến thời kì hình thành và giai đoạn chuyển tiếp của
8
haiku. Xoay quanh vai trò đặc biệt của ba nhà thơ là Matsuo Basho, Yosa Buson
và Kobayashi Issa vào việc phát triển và “trùng tu” haiku cổ điển. Tiếp đó là tìm
hiểu về haiku cận hiện đại với công cuộc cải cách thơ haiku thời Meiji sau khi
Maosaka Shiki lên tiếng phê bình haiku thời trước. Ngoài ra luận văn còn chú ý
đến thơ haiku sau Shiki với các khuynh hướng haiku thời Taisho, Showa.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghệ thuật thơ haiku từ trước
thời Matsuo Basho đến những năm 1980. Thông qua các tuyển thơ nổi tiếng của
tứ trụ haiku là Basho, Buson, Issa, Shiki và các nhà thơ hiện đại có đóng góp trong
quá trình phát triển nghệ thuật thơ haiku để làm rõ đề tài. Tuy nhiên do giới hạn
về tài liệu gốc, số lượng thơ haiku lớn nên chúng tôi chỉ xoay quanh một số bài
thơ tiêu biểu của các nhà thơ kể trên mà không khảo sát hết toàn bộ sự nghiệp sáng
tác của họ. Thêm vào đó là tham khảo các công trình nghiên cứu haiku ở Việt Nam,
các nước phương Tây,... Ở luận văn này, chúng tôi không chú trọng làm rõ sự khác
biệt cũng như tương đồng của thơ haiku với thơ ca của các nước phương Đông.
5. Đóng góp của luận văn Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi mong muốn hướng đến những đóng
góp sau:
Đóng góp một góc nhìn, hướng tiếp cận vấn đề cách tân nghệ thuật thơ
haiku qua các thời kì, từ đó thấy được giá trị nghệ thuật đặc sắc của thơ haiku đối
với văn học Nhật Bản cũng như đối với sự tiếp nhận haiku trên thế giới.
Công trình có thể trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên
trong quá trình học tập, nghiên cứu văn học Nhật Bản, đặc biệt là thể loại thơ haiku
ở Việt Nam.
9
6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội, được sử dụng ở Chương 1, xem
haiku như một hiện tượng văn học được hình thành và phát triển gắn chặt với
những biến động, những nhân tố lịch sử - xã hội Nhật Bản.
Phương pháp nghiên cứu thi pháp học, được sử dụng ở Chương 2 và Chương
3, để nghiên cứu về thi pháp thơ haiku. Hệ thống các cấu tạo nghệ thuật của thơ
haiku qua việc tiếp cận tác giả, tác phẩm (nguyên văn và bản dịch) từ đó làm rõ
hơn thi pháp thơ haiku và cho thấy sự đổi mới nghệ thuật.
Ngoài những phương pháp nêu trên, trong luận văn chúng tôi còn sử dụng
các phương pháp như: nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa, phân tích và tổng
hợp để đưa ra những nhận định chính xác và có giá trị trong việc nghiên cứu sự
cách tân nghệ thuật thơ haiku Nhật Bản.
7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (6
trang), luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Thơ haiku trong dòng chảy thơ ca Nhật Bản (gồm 43 trang).
Ở chương 1, chúng tôi trình bày khái quát về quá trình hình thành, các đặc
trưng cơ bản của thơ haiku. Khai thác các khía cạnh nhân tố ảnh hưởng đến quá
trình cách tân và những xu hướng cách tân tiêu biểu. Ngoài ra, chúng tôi còn dành
một mục để nói về các cảm thức thẩm mĩ, đặc biệt là mĩ học Thiền và hướng phát
sinh các cảm thức khác. Chung quy lại, chúng tôi muốn tạo nền tảng cơn bản làm
tiền đề để phát triển nghiên cứu về quá trình cách tân nghệ thuật thơ haiku sau này.
Chương 2: Cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Basho (gồm 45 trang).
10
Nội dung trọng tâm của chương 2 tập trung vào việc phân tích và tìm ra
những điểm đổi mới của thơ haiku thời kì trước và sau Basho. Chúng tôi chọn mốc
Basho vì nhiều lí do khách quan và mang tính khoa học, thời Basho mà đặc biệt là
Basho là người đầu tiên khẳng định vị thế của haiku như một hình thức nghệ thuật
có giá trị cao. Trong chương này chúng tôi đi sâu vào chặng đường phát triển haiku
cổ điển, cho thấy sự cách tân từ ban đầu của thể thơ này. Qua đó làm cơ sở để phân
tích sự thay đổi qua từng thời kì và đối sánh với thơ haiku thời hiện đại.
Chương 3: Cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Shiki (gồm 38 trang).
Chương 3 là chương tập trung vào các biến đổi mới mẻ, đa dạng của nghệ
thuật thơ haiku sau cuộc cải cách vĩ đại của Shiki. Tập trung phân tích những
phương diện nghệ thuật đặc sắc nhất như ngôn ngữ, quan niệm về quý ngữ, và
hướng vận dụng các chủ nghĩa tả sinh, tả thực từ văn học phương Tây. Có thể nói,
thơ haiku phát triển về nghệ thuật chưa có thời kì nào bằng thời kì này. Ngoài ra,
còn cho thấy chặng đường phát triển mới của thơ haiku sau chiến tranh, nghệ thuật
thơ haiku trở thành nghệ thuật của thời đại mới.
Ngoài ra, luận văn còn có Phụ lục 1: Hệ thống một số thuật ngữ (3 trang),
Phụ lục 2: Tuyển thơ haiku, gồm 362 bài thơ haiku (56 trang).
11
CHƯƠNG 1: THƠ HAIKU TRONG DÒNG CHẢY THƠ CA NHẬT BẢN 1.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ haiku 俳句
Nhật Bản là xứ sở của cái đẹp, và như thế có nghĩa là xứ sở của thi ca, của
ca đạo” [9; 5]. Thật vậy, ngay từ tác phẩm Manyoshu 万葉集 (Vạn Diệp Tập) ta
đã thấy được sự quy tụ của các nhà thơ nổi tiếng và cả những tâm hồn thơ ca không
tên tuổi khắp xứ Phù Tang, cũng như cách người Nhật trân trọng và bảo lưu kho
tàng thơ ca của mình. Thơ ca từ đó như những chiếc lá đâm chồi trên xứ sở Phù
Tang.
“Thơ ca mọc lên từ trái tim con người và lời thơ trở thành vô số lá cành.
Trong cuộc đời biết bao nhiêu điều làm con người xao xuyến xúc động, họ tìm
cách thể hiện cảm xúc của mình qua những hình ảnh mà họ nghe thấy. [...] Vì
nhận ra sự thật là mọi sinh vật đều phát tiết thơ ca. Chính thơ ca đã làm chuyển
động đất trời, ngay cả quỷ thần vô hình cũng phải xuyến xao” [7; 70]. Có thể thấy
người Nhật Bản yêu quý thơ ca đến chừng nào. Khởi nguyên của thơ ca Nhật Bản
là những vần thơ 31 âm tiết, gọi là waka 和歌. Nhưng không dừng ở bài thơ với
31 âm tiết đó, người Nhật dần rút gọn trên nền waka chỉ còn lại 17 tiết gọi là haiku
俳句. Haiku được ngắt theo nhịp 5 – 7 – 5, từ đó đến nay, giữ một vị trí quan trọng
trong nền thơ ca Nhật Bản. Theo thời gian, thơ haiku dần được phát triển và hoàn
thiện, hòa mình vào dòng chảy thơ ca Nhật Bản, đánh dấu một khởi nguồn và bao
sự biến đổi qua năm tháng, trở thành thể thơ ngắn nhất thế giới. Và “muốn hiểu
một cách ngọn ngành về Nhật Bản từ các phương diện: Vật chất, Đạo đức, Mỹ
học, Triết học, thì phải thể vi được “chiếc chìa khóa” Hài cú” [12; 208].
1.1.1. Khởi nguồn từ waka 和歌 Khi nhắc đến thơ ca Nhật Bản, người ta thường chỉ nhớ đến thơ haiku, mà
quên đi một thể thơ khởi nguồn cho thơ ca Phù Tang đó là waka (hòa ca). Nếu
12
không hiểu waka, chúng ta khó mà hiểu được thơ haiku và các thể loại khác. Vì
từ thời cổ đại waka đã chiếm một vị trí quan trọng trong nền thơ ca cổ điển Nhật
Bản. Minh chứng cho điều đó là việc hàng loạt tập thơ kinh điển của văn học Nhật
Bản đều được viết bằng thể waka như Manyoshu gồm hơn 4500 bài thơ trong 20
quyển, trong đó có khoảng 4207 bài là tanka, 265 bài choka, 62 bài sedoka.
Waka được hình thành trên hai cơ sở là ca dao cổ đại và Hán thi. Ca dao cổ
đại được ghi nhận trong một số tác phẩm như Kojiki 古事記 (Cổ sự ký), Fudoki
風土記 (Phong thổ ký), Nihon shoki 日本書紀,... Khi quốc gia được hình thành
thì ca dao cổ cũng thay đổi: thứ nhất do sự hưng thịnh của tầng lớp quý tộc, thứ
hai là tổ chức xã hội lấy đô thị làm trung tâm, nên ca dao mất dần tính chất tập thể
và mang màu sắc chủ thể cá nhân hơn. Từ đó, ca dao cổ đại chuyển dần từ o-uta
大歌 (đại ca) với hình thức 6 – 8 sang hình thức 5 – 7 và sau này gọi là thơ waka.
Waka thường được sử dụng trong các buổi tế lễ, cầu mùa và dâng cúng thần linh
ở các đền. Người Nhật Bản cổ đại thường hay tổ chức các buổi họp mặt, tiệc ăn
uống, ca múa trên núi hay bãi biển vào mùa xuân hoặc mùa thu (những mùa có
khí hậu mát mẻ và trong lành), hình thức này gọi là utagaki うたがき. Utagaki là
thời gian để cho con người gần nhau bộc lộ tình cảm, là cơ hội để nam nữ gặp gỡ,
tìm người yêu. Bởi vậy, thơ waka lúc này mang tâm sự tình yêu mãnh liệt của con
người. Waka có bốn thể loại chính là katauta 片歌 gồm 5 – 7 – 5 âm hoặc 5 – 7 –
7 âm. Sendoka 船頭歌 là cặp thơ katauta gồm 5 – 7 - 7 âm và 5 – 7 – 7 âm, đây
là thể thơ ít thông dụng hơn cả trong thời Nara. Choka 長歌 luân phiên các khổ
thơ 5 – 7 – 7 âm và 5 – 7 – 5 âm với độ dài không giới hạn có khi dài đến 150
dòng, thường viết về đề tài truyện cổ, gian khổ chiến trường, nhưng bên cạnh đó
nó cũng đạt được những vẻ đẹp tráng lệ. Thể loại cuối là tanka 短歌(đoản ca) gồm
13
5 – 7 – 5 – 7 – 7 âm, tanka hiếm khi thể hiện những cảm xúc dữ dội như sự uất
hận, cuồng nộ, kinh hoàng mà thiên về tình yêu, sự nhẹ nhàng, trữ tình và giàu
“nữ tính”. Đa phần trong thơ waka thì thể tanka chiếm số lượng bài nhiều nhất nên
người ta vẫn hay gọi waka là tanka là như vậy. Một bài tanka có thể được sắp xếp
như sau:
Dòng 1: có 5 âm kami no ku 上の句 Dòng 2: có 7 âm (Thượng cú) Dòng 3: có 5 âm
Dòng 4: có 7 âm shimmo no ku 下の句
Dòng 5: có 7 âm (Hạ cú)
Trong Manyoshu thơ waka được viết chủ yếu xoay quanh ba đề tài thiên
nhiên, tình yêu và xã hội. Những khúc luyến ca 蓮歌 như một nỗi niềm sâu thẳm
mà các tác giả đang cố khơi lên. Niềm khao khát tình yêu cháy bỏng:
aiomowanu Người không yêu tôi 相思はぬ
hito wo omouwa tôi vẫn yêu người 人を思ふは
odera no như kẻ vào chùa 大寺の
gaki no shirie ni cầu xin quỷ đói 餓鬼の後方に nuka tsuku gotoshi. cho đến tàn hơi. 額つくごとし (Manyoshu, bài 608) (Nhật Chiêu dịch)
(万葉集)
Vẻ đẹp thiên nhiên thấy rõ trong bài thơ sau của Akahito 赤人:
haru no nu ni Tôi đi hái 春の野に
sumire tsumi nito những bông hoa tím すみれ摘みにと
koshi ware zo trên cánh đồng
14
nu wo natsukashimi và tôi ở lại 來し我れぞ
hitoyo nenikeru ngủ giữa mùa xuân. 野をなつかしみ
(Manyoshu, bài 1424) (Nhật Chiêu dịch) 一夜寢にける
(万葉集)
Tinh thần trào lộng, khát khao giải phóng cuộc đời của Tabito 旅人:
nakanaka ni Tôi không mong なかなかに
hito to arazu wa làm người nữa đâu 人とあらずは
sakatsubo ni mà xin làm bầu rượu 酒壷に
narinite shikamo cho lòng chan chứa なりにてしかも sake ni shiminamu. Sake nhiệm mầu. 酒に染みなむ (Manyoshu, bài 343) (Nhật Chiêu dịch)
(万葉集)
Vào cuối thời kì Nara 奈良, chữ cái ngữ âm kana ra đời đánh dấu bước
chuyển mình và phát triển vượt bậc của chữ viết Nhật Bản. Hệ thống chữ kanji 漢
字, hiragana 平仮名, và katakana 片仮名 lần lược hình thành, nên văn học Hán
ngữ dần được thay thế. Như vậy, hệ thống chữ viết thay đổi kéo theo sự thay đổi
không ngừng để phát triển, đổi mới văn học trong đó có thơ waka. Nhiều nhà thơ
có đóng góp lớn cho thơ waka được vinh danh như Nukata Ookimi 額田王,
Kakinomoto Hitomaro 柿本人麻呂, Sakanoue Korenori 坂上是則,... Thơ waka
giai đoạn này không những được dùng trong lễ hội mà còn dùng để biểu lộ tình
cảm của con người đối với thiên nhiên, sự thương cảm sâu sắc và cô độc,... Trong
đó thơ của Ootomo Yakamochi 大伴家持 bộc lộ những quan niệm rất riêng về
các đề tài và được đánh giá là thơ có tính chất hiện đại.
15
haru no sono Vườn xuân đẹp sao 春のその
kurenai niou đường đi ngời sáng 暮れないにおう
mono no hana bóng hoa hồng đào 物の花
shitaderu michi ni một người con gái したでる道に idetatsu otome. từ đâu bước vào. いでたつおとめ (Manyoshu, bài 4139) (Nhật Chiêu dịch)
(万葉集)
Quá trình phát triển của waka vẫn tiếp diễn, qua đến thời Heian 平安, waka
chỉ tập trung phát triển chủ yếu tanka 31 âm tiết. Lúc này, thơ ca chữ Hán chiếm
địa vị độc tôn, đẩy lùi thơ waka truyền thống Nhật Bản vào bóng tối. Nhưng không
vì thế mà thơ waka biến mất, nó dần trở thành một hình thức thơ để biểu thị tình
cảm riêng tư. Thơ waka vượt khỏi biên giới giai cấp, từ quý tộc, lan sang tầng lớp
bình dân. Không chỉ viết về đề tài tình yêu như ở Manyoshu, thời kì này waka chú
trọng về đề tài thiên nhiên, đánh dấu cho bước phát triển đó là hợp tuyển Kokin
wakashu 古今和歌集 (Cổ Kim Hòa Ca Tập) hay gọi tắt là Kokinshu 古今集 (Cổ
Kim Tập) với các bài tanka của những tác giả là giới quý tộc và những người có
địa vị trong xã hội. Đó là những vần thơ nói về tình yêu thiên nhiên mang mĩ học
về mùa của người Nhật Bản cổ. Chuyển tải nét nhẹ nhàng, tao nhã và đầy “nữ tính”
tanka phù hợp với văn học “nữ lưu” thời Heian, nên phát triển không ngừng. Thơ
waka không trình bày, miêu tả sự vật một cách bày sẵn mà tham chiếu sự vật đó
qua lăng kính nội tâm và tri thức rồi mới tái hiện nó bằng ngôn ngữ tinh tế để gợi
ra mối liên tưởng cho người đọc.
Song hành cùng tiến trình lịch sử Nhật Bản, thơ waka phát triển và biến đổi
từ thời cổ đại đến tận ngày nay với loại hình tiêu biểu là thơ tanka. Waka như khởi
nguồn để thơ ca xứ sở Phù Tang dựa trên nền tảng đó mà hình thành và phát triển.
16
1.1.2. Từ renga 連歌 đến haikai 徘徊 Cùng với sự phát triển của tanka thời Heian, thơ renga (liên ca) được hình
thành, là thú vui tao nhã của giới quý tộc. Renga hay còn gọi là renku 連句 (liên
cú) là thể thơ liên hoàn gồm nhiều bài tanka nối tiếp nhau. Những nhà thơ Nhật
Bản thường sáng tác renga trong các lễ hội, cuộc gặp gỡ, ngày tết,... Người đầu
tiên sẽ sáng tác ba câu đầu gọi là kami no ku 上の句 (thượng cú) gồm 17 âm tiết
(sau này kami no ku được phát triển thành hokku 発句 (phát cú) là tiền đề để phát
triển thành thơ haikai sau này), tiếp đó nhà thơ khác sẽ nối bài thơ bằng 2 câu sau
gọi là shimmo no ku 下の句 (hạ cú) gồm 14 âm tiết, cứ như vậy các bài tanka nối
tiếp nhau thành một chuỗi cho đến khi kết thúc. Vì vậy, một bài renga thường rất
dài không giới hạn có khi lên tới cả trăm khổ thơ nối tiếp nhau nên gọi là kusari
renga 鎖連歌 (chuỗi liên ca). Đến thời Edo 江戸, thì độ dài thông thường của một
bài renga là 36 bài tanka. Mặc dù khá phổ biến, nhưng renga vẫn không được xem
là một thể thơ độc lập. Khi Kinyo wakashu 金葉和歌集 (Kim diệp hòa ca tập) ra
đời năm 1127 thì renga mới chính thức được nhắc đến.
Vào thời Edo, đặc biệt là trung kì Edo, renga trở nên thịnh hành và không
còn khép kín trong phạm vi giới quý tộc. Nó trở thành trò chơi đối đáp, lôi cuốn
mọi người ở nhiều tầng lớp khác nhau. Không những vậy, renga còn được xã hội
sùng mộ, tất cả mọi người ai cũng muốn có mặt trong buổi sáng tác renga, và
mong muốn câu thơ của mình được đánh giá hay nhất. “Những vần thơ hay được
chuộng đến mức mà người ta phải mua lại từ các nhà thơ chuyên nghiệp. Và đám
quân nhân mang những câu thơ đó đến cúng ở chùa để cầu may trước khi ra trận.
Còn phụ nữ thì cúng để cầu sinh đẻ dễ dàng” [17; 129]. Tuy nhiên, renga không
đơn thuần là một trò chơi mà nó là một thể thơ nghệ thuật cao cấp . Vì để tìm thấy
sự đồng điệu trong từng câu thơ không dễ, cho dù những nhà thơ sáng tác renga
17
là những người bạn tri âm tri kỉ. Sogi 宗祇 - nhà thơ đưa renga lên đỉnh cao, đã
đánh dấu một thể renga độc lập với waka vào thời Muromachi. Sogi là người chủ
biên cuốn Shinsen Tsukubashu 新撰菟玖波集 (Tân soạn trúc ba tập, 1495), được
xem là hợp tuyển renga có giá trị và hoàn thiện nhất. Tuy nhiên, trước đó ông
cũng đã cùng hai môn đồ soạn Minase Sangin Hyakuin 水無瀬三吟百韻 (Ba nhà
thơ ở Minase, 1488) đã rất hoàn thiện về thể renga so với giai đoạn đầu mới hình
thành thời Heian và đầu thời Edo. Bài renga dài 250 câu mà Sogi và các đệ tử làm
có tên là Minase sangin hyakunin 水無瀬三吟百韻 (Minase tam ngâm bách vận)
có vài đoạn như sau:
shigemi yori Dù hoa rơi rụng 茂みより
taedae nokoru vẫn còn lưu lại 絶え絶え残る
cành xanh lạ thường hana ochite 花おちて
(Shohaku) (肖柏)
ko no moto wakuru dưới bóng cây dạo bước 木の本わくる
michi no tsuyukesa trên đường lóng lánh sương. みちの露けさ
(Socho) (宗長)
aki wa nado Nhà tôi thềm đá 秋わなど
moranu iwaya mo thu cũng đến gần もらぬ岩やも
shiguru ran với lệ rưng rưng 時雨るらん
(Sogi) (宗祇)
koke no tamoto ni trên tay áo cũ こけの袂も
tsuki wa narekeri trăng từng quen thân. 月和なれけり
(Shohaku) (肖柏)
18
kokoro aru Từ bỏ bụi trần 心ある
kagiri zo shiruki miềm vui ẩn sĩ かぎりぞしるき
yosutebito thật là vô song よすて人
(Socho) (宗長)
osamaru nami ni như con thuyền nhẹ おさまる波に
fune izuru miyu trên biển bình yên. 舟いずる見ゆ
(Sogi) (宗祇)
(Nhật Chiêu dịch)
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhận định: “Trong liên ca, nhà thơ đi lại trong
một thời gian không hạn định, không chịu sự lệ thuộc của riêng khoảnh khắc nào”
[7; 161].
Renga thường được viết theo giọng điệu trào lộng, gọi là haikai no renga
俳徊の連歌. Haikai có ý nghĩ là dàn xếp trình bày một cách vui nhộn hài hòa.
Trong thi tuyển Kokin wakashu (Cổ Kim Hòa Ca Tập), quyển 19 có nhắc đến
haikaika 俳諧歌 (bài hài ca). Thế kỉ XVI, haikai dần trở thành một thể thơ phổ
biến, để phân biệt haikai với renga người ta dựa vào haigon 俳言 (bài ngôn) với
nội dung trào lộng và ngôn ngữ thông tục, khác hẳn với ngôn ngữ của thơ ca truyền
thống. Một đặc trưng rất được xem trọng trong haikai no renga là hokku 発句
(phát cú) vì nó có vai trò định hướng cho ý tưởng toàn bài thơ. Tuy nhiên, renga
bắt đầu bị bỏ rơi và không còn ai hứng thú nhiều với thể thơ cực khó này. Không
chỉ renga đứng đắn (phái hữu tâm) bắt đầu bị bỏ rơi và ngay cả renga hài hước
(phái vô tâm) cũng lâm vào tình trạng như vậy. Cuối cùng chỉ còn tồn tại và được
chấp nhận đoạn hokku 17 âm tiết ở đầu bài renga. Sau này phát triển thành thể thơ
haikai. Haikai bắt đầu tách dần khỏi renga để hình thành thế độc lập riêng cho
19
mình. Các nhà thơ vẫn sáng tác tanka và renga như rất ít vì nó phức tạp và cần sự
thống nhất cao giữa nhiều người. Haikai xuất hiện đã dần khắc phục tính tập thể
của renga, nắm bắt được khoảnh khắc bó gọn trong đoạn hokku.
Như vậy từ tanka người Nhật Bản đã kết nối lại nhiều bài thành renga sau
đó có xu hướng tách đoạn hokku ra để tạo tiền đề cho một thể thơ mới là haikai.
Ta thấy quá trình phát triển của thơ ca Nhật Bản cho đến nay như một chuỗi liên
hoàn và quá trình đó như một bài renga trường thiên.
1.1.3. Từ haikai 徘徊 đến haiku 俳句 Haikai như sự thoát thai từ hai thể thơ quốc âm waka và renga. Nhiều
phương diện ảnh hưởng đến quá trình hình thành haikai như tư tưởng Phật giáo
(có cả Thiền tông Nhật Bản), các tư tưởng triết lý phương Đông mà phần lớn du
nhập từ Trung Quốc. Về nghệ thuật, hội họa là tác nhân lớn ảnh hưởng đến ý vị
bên trong haikai, sự ẩn sâu triết lý xuất phát từ hội họa Trung Quốc (tranh thủy
mặc), tiếp đó là nền tảng của Hán thi và hai thể loại quốc âm waka và renga. Vậy
haikai không phải là một thể thơ hoàn toàn độc lập mà là kết tinh của sự vận động
sáng tác thơ ca của người Nhật Bản trong nhiều thế kỉ. Tuy haikai tách ra từ đoạn
mở đầu của bài renga với hình thức cấu trúc 17 âm tiết, nhưng giữa đoạn hokku
của một bài renga và một bài haikai có nhiều điểm khác biệt nhất định.
Như đã trình bày, haikai đã manh nha hình thành từ thời Muromachi 室町
dưới hình thức renga, sau đó phát triển mạnh nhất vào trung kì thời Edo với sự
xuất hiện của bậc đại sư haikai là Matsuo Basho 松尾芭蕉(1644-1694). Các nhà
thơ thời Muromachi, xem trọng việc đưa đặc tính đùa cợt vào haikai như chính lí
do tồn tại và phục vụ đời sống của nó. Đến đầu sơ kì thời Edo, Matsunaga Teitoku
松永貞徳(1571-1653) đã kế thừa đặc trưng đó, tiếp tục phát triển haikai cận đại.
20
Các thi phái được hình thành, tiêu biểu là hai thi phái Teimon 貞門 (Trinh môn)
đại diện có Matsunaga Teitoku và các môn đệ, và phái Danrin 談林派 với
Nishiyama Soin 西山 宗因 (1605-1682). Sở dĩ hình thành nhiều thi phái giai đoạn
này là do sự bất đồng tư tưởng sáng tác giữa các tác giả. Phái Teimon với đặc
trưng của sự bảo thủ cái truyền thống nên thiếu đi sự cuồng nhiệt còn phái Danrin
thì tinh tế và phóng khoáng không khuôn mẫu. Tuy đã hình thành và phát triển,
nhưng haikai vẫn chỉ là một thể thơ mang tính hài hước, bình dân cho đến khi
Matshou Basho xuất hiện. Basho đã góp phần khẳng định haikai là một thể thơ
độc lập.
Haikai tiếp tục phát triển trong thời Edo với nhiều nhà thơ nổi tiếng, ngoài
Basho còn có Yosha Buson 与謝蕪村 (1716-1784), Kobayashi Issa 小林一茶
(1763-1827) cuối thời Mạc Phủ. Haikai các thời kì này có sự biến đổi khá lớn, với
nhiều công cuộc cách tân lớn thay đổi cả về nội dung, nghệ thuật mà haikai muốn
hướng tới. Tất cả sự vật dung dị tầm thường trong cuộc sống dần được đưa vào
haikai, haikai không những mang tính hài mà bây giờ nó còn mang cả tâm trạng,
nổi buồn, sự đau khổ của kiếp đời, lòng thương vạn vật. Cho đến thời Meiji, haikai
lột đi bộ áo bấy lâu để có một cái tên mới là haiku1 (hài cú) cho đến ngày nay.
Hành trình từ haikai đến haiku không đơn giản là một sự thay đổi tên gọi mà đó
còn là cả sự thay đổi về tư duy và cải cách thơ ca. Người đề xuất đó là Masaoka
Shiki 正岡子規 (1867-1902), mục đích của ông là thay đổi haiku với một diện
1 Do tính chất phát triển theo từng thời kì lịch sử, haiku có nhiều tên gọi khác nhau. Để đảm bảo tính thống nhất xuyên suốt cho luận văn, từ sau nội dung này chúng tôi sử dụng tên gọi chung là thơ haiku, trừ các trích dẫn đôi khi vẫn giữ tên gọi theo các thời kì để tôn trọng nguyên tác.
mạo mới, không đơn thuần là vẻ đẹp mà là ý nghĩa. Haiku dần có cái nhìn khách
21
quan hơn về thực tế. Haiku là sự kết hợp giữa hai tên haikai và hokku mà thành để
phân biệt với dạng haikai nguyên thủy hay renku 連句(liên cú).
Như vậy, quá trình hình thành và phát triền thơ haiku không chỉ dừng ở
điểm cuối cùng của tên gọi mà còn sau đó cả một hành trình đi tìm nghệ thuật và
cách tân riêng của các tác giả. Haiku khởi sinh từ “mười nghìn chiếc lá” và bây
giờ nó như một rừng cây vô hạn, không những mang ý thơ mà nó còn mang cả ba
nghìn thế giới, mang cả vũ trụ vào ba dòng thơ 17 âm tiết nhỏ nhoi đó, quả thật kì
diệu.
1.1.4. Một số đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu của haiku Haiku có những đặc trưng nghệ thuật cơ bản, khó có thể nhầm lẫn với các
thể thơ trên thế giới và ngay cả trong thơ ca Nhật Bản. Tính ngắn gọn và hàm súc
là đặc trưng nổi bật của haiku. Chỉ 17 âm tiết, haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới,
đặc biệt là khi viết haiku theo kiểu truyền thống từ trên xuống thì haiku chỉ có một
dòng. Vì ngắn gọn như vậy, để truyền tải hết dụng ý và hơn thế nữa của tác giả,
bắt buộc haiku phải sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế, thủ pháp nghệ thuật điêu
luyện. Bên trong một bài haiku phải có không gian nằm trong không gian, nhờ đó
tạo ra tiểu vũ trụ trong một đại vũ trụ, có như vậy mới chứa đựng và bao hàm tất
cả ý vị của bài thơ. “Để làm được điều đó, các nhà thơ còn phải khai sáng các
quan niệm mĩ học mang thuần chất Nhật Bản để tô điểm thêm nét tĩnh lặng giàu
nội tâm của thơ haiku” [31; 126].
Như đã trình bày, haiku cổ điển được viết theo chiều dọc thành một dòng.
Khi được dịch sang chữ Latin, thơ haiku được viết cách dòng để phù hợp với việc
đọc theo kiểu phương Tây, nên trong luận văn chúng tôi thống nhất trình bày chỉ
viết hoa chữ cái đầu tiên của dòng thứ nhất, còn lại không viết hoa và sử dụng dấu
chấm cuối câu để thấy rõ việc ngắt câu của thơ haiku. Âm tiết là yếu tố quan trọng
22
trong một bài haiku nên việc sử dụng âm tiết kiểu 5 – 7 – 5 không nhất thiết các
âm tiết đều có nghĩa, vì tiếng Nhật là đa âm. Việc các tác giả sử dụng số lượng âm
tiết cho bài haiku của mình không nhất thiết phải tuân thủ khắc khe quy luật, vì có
một số trường hợp bắt buộc phải nhiều hơn số âm tiết qui định, ngay cả Basho
cũng phá vỡ qui định về âm tiết này. Điều đó thể hiện tính linh hoạt để phát triển
của thơ haiku, chúng tôi sẽ đề cập rõ hơn ở phần cách tân thơ haiku.
Khi xét trên các bài haiku nguyên bản, ta thấy nổi bật hai đặc trưng về ngôn
ngữ trong một bài thơ đó là kigo 季語 (quý ngữ) hay là kidai 季題 (quý đề) và
kireji 切字(từ ngắt).
Nói đến kidai và kigo, có rất nhiều quan điểm xoay quanh hai thuật ngữ này
và cả hai đều nói về mùa. Hai thuật ngữ này hình thành dựa trên cơ sở kisetsukan
季節感 (cảm thức về mùa) của người Nhật Bản. Người ta nhìn kidai là đề tài về
mùa, có tính cổ điển do thơ ca cổ đại đã đề cập đến từ rất lâu và kidai quan trọng
về tả thực thời tiết, mùa vụ. Còn kigo thì hiện đại hơn vì xuất hiện từ thời cận đại,
thể hiện thiên nhiên và chú trọng vào từ ngữ. Kidai trong thơ waka là các hình ảnh
biểu trưng cho bốn mùa như hoa, chim, trăng, tuyết,... sau này được tiếp nối và
chuyển thành kigo trong haiku. Mùa xuân thường được sử dụng bằng hình ảnh như
hoa đào, hoa mơ; mùa hạ là tiếng chim cu, đỗ quyên; mùa thu là trăng tròn, lá đỏ;
còn mùa đông là tuyết trắng. Yoshimoto Nijo 二条 良基 đã nhận định: “đề tài thơ
hokku phải nói về mùa, trong thơ phải có kidai hoặc kigo” [46; 91]. Như vậy, thiên
nhiên đã mang đến cho Nhật Bản vô số kigo, với vai trò quan trọng của kigo, nó
như linh hồn và sinh mệnh của thơ haiku. Ngoài ra kigo còn là cánh cửa mở ra sự
cảm nhận cho người đọc haiku, có kigo, haiku như có thêm ánh sáng khơi dậy
những đóa hướng dương và muôn hoa trong vườn. Khi sử dụng haiku, ta phải thể
23
hiện được đặc trưng và bản chất nổi bật của hình ảnh thiên nhiên, như vậy mới gọi
là thành công và đạt đỉnh cao nghệ thuật ngôn ngữ haiku.
Tiếp đó là kireji là quy ước cơ bản và bắt buộc của haiku. Để tạo cho bài
thơ có vần điệu, các nhà thơ sử dụng kireji như một thủ pháp nghệ thuật để kết
thúc hoặc ngắt ý cần thiết. Tuy không có ý nghĩa về mặt ngữ pháp nhưng kireji
trong bài thơ là rất quan trọng. Nó có tác dụng nâng cao bậc cảm xúc, sự trầm
bổng, tạo nút thắt đúng chổ để bài thơ hay hơn, nói đơn giản kireji như những sợi
dây đàn tạo ra âm thanh mà bài haiku là bản nhạc tuyệt vời. Kireji còn có vai trò
thay thế các từ hay dấu câu cảm thán trong bài thơ, làm bài thơ thêm da diết tràn
đầy cảm xúc và là chìa khóa để người đọc mở cách ẩn ý của tác giả. Bài thơ haiku
không bao giờ có dấu câu hay mang vần điệu nhưng khi mang kireji nó trở nên
hoàn toàn khác, làm cho người đọc nhận thấy được haiku không đơn thuần là một
dòng thơ xuyên suốt.
Bên cạnh đó, haiku còn mang tính mơ hồ và đa nghĩa. Bằng cách giản lược
hết mức có thể các hình ảnh và từ ngữ, chỉ giữ lại những đặc điểm nổi bật nhất của
khung cảnh thiên nhiên. Có lẽ haiku cũng giống như thơ ca phương Đông mang
hơi hướng “ý tại ngôn ngoại”, cảm xúc không bao giờ bộc lộ trực tiếp mà ẩn sâu
bên trong lớp áo ngôn từ. Qua sự vận động đặc sắc của từ ngữ đặc biệt là các kigo,
kidai, kireji, haiku hướng chúng ta đến tinh thần của Thiền, không những nhìn
thấy mà còn phải biết lắng nghe, biết suy ngẫm và biết cảm thụ tất cả vạn vật trên
cuộc đời này. Đó là những đặc trưng nghệ thuật cơ bản nhất của một bài haiku.
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng và xu hướng cách tân thơ haiku
Bất kì thể loại nào khi hình thành cũng kéo theo sự phát triển đổi mới để
phù hợp với “môi trường”, thời kỳ văn học. Nếu không có sự phát triển phù hợp
đó thì chắc chắn, thể loại sẽ không thể nào tồn tại được, haiku cũng vậy, nó phải
24
vận động và phát triển không ngừng theo tiến trình phát triển của văn học Nhật
Bản. Từ khi hình thành, haiku đã gián tiếp đổi mới qua waka và renga để rồi tinh
chất cuối cùng là một thể loại haiku độc lập và phát triển đỉnh cao như ngày nay.
Không những vậy, haiku đã dược các nhà thơ cải cách một cách âm thầm trong
quá trình tự đi tìm phong cách nghệ thuật cá nhân, nhưng điều đó không được thể
hiện rõ vì có rất ít nhà thơ có thể đổi mới haiku. Nhìn chung, haiku có nhiều yếu
tố tác động, bắt buộc nó phải cách tân. Từ trước thời Basho rồi đến Basho đã có
nhiều xu hướng và nhiều trường phái haiku khác nhau. Nhưng haiku chỉ bước vào
quá trình cách tân thực thụ và đổi mới hoàn hảo vào thời Meiji với đề xướng đổi
mới thơ ca của Shiki, và phong trào duy tân Meiji. Các thể loại văn học Nhật Bản
thời này nói chung và thơ haiku nói riêng ráo riết chạy đua với công cuộc cách tân
nghệ thuật này.
1.2.1. Ảnh hưởng của sự tiếp thu văn hóa phương Tây dưới thời Meiji Năm 1868, lực lượng của của Tokugawa 徳川氏 bị thua trận ở Toba –
Fushimi, chính quyền Tokugawa sụp đổ, Nhật Bản bước vào thời kì Meiji 明治
(Minh Trị), chủ trương mở cửa giao thương với các nước phương Tây. Năm 1871,
phái đoàn Nhật Bản do công tước Iwakura Tomoni 岩倉具視 lên đường viếng
thăm Âu – Mỹ. Những chính sách cải cách từ đó bắt đầu. Chính sách cải cách
trong thời kì này chính yếu nhất là tiếp thu văn minh phương Tây. Với chính quyền
trẻ, không có kinh nghiệm về việc quản lý và điều phối đất nước, thêm đó là
phương tiện kĩ thuật thua xa phương Tây khiến Nhật Bản lâm vào tình trạng tuột
hậu nặng nề. Vì thế, việc tiếp thu văn minh tiên tiến từ phương Tây là cơ hội để
đất nước phát triển. Mục tiêu chính của chính quyền Minh Trị là lập nền độc lập
và từng bước tạo mối quan hệ với các nước Âu – Mỹ. Tháng 4 năm 1868, 5 điều
thề được Thiên hoàng Minh Trị công bố trong đó điều thứ năm có nội dung: phải
25
thu thập tri thức trên thế giới để chấn hưng cơ bản của hoàng triều. Từ đó cho
thấy mức độ quan tâm đến việc học hỏi và tiếp thu nguồn văn minh từ bên ngoài
vào Nhật Bản. Ngoài các cải cách về kinh tế, giáo dục, quân đội, bộ máy chính
quyền, chính sách ngoại giao được đề cao và chú trọng.
Nhật Bản đã học tập được nhiều điều từ ngoại quốc, trong đó tiêu biểu là về
lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Được mô tả theo tập san phương Tây, báo chí Nhật
bản ra đời, phục vụ cho hoạt động văn hóa văn nghệ. Văn học từ đó bắt đầu thay
đổi xu hướng để phát triển phù hợp. Qua những năm 1880, chủ nghĩa tả thực hình
thành ở Nhật Bản, người tiên phong là Tsubouchi Shoyo 坪内 逍遥, với các đề
xướng văn học: phải tôn trọng sự thật, thái độ khách quan với chủ thể sáng tác,
phủ nhận những lập trường luân lý trước đó của nền văn học cũ. Điều này một
phần cũng ảnh hưởng đến xu thế sáng tác thơ haiku đương thời, thay đổi cách nhìn
trực quan mới mẻ cho thể loại thơ này. Nhiều nhà thơ haiku đã chuyển dần sang
chủ nghĩa tả thực. Ngoài ra, thơ phương Tây còn ảnh hưởng đến văn học nói chung
và thơ ca Nhật bản nói riêng một cách mạnh mẽ. Một lối thơ tự do, không bị bó
buộc niêm luật chặt chẽ dần xuất hiệ trên thi đàn. Tiêu biểu có Toyama Masakazu
外山正一 với thể loại thơ mới, Masaoka Shiki với những đóng góp trong phong
trào cách tân thơ haiku và phục hồi thơ waka,...
Tiếp đó là chủ nghĩa tự nhiên từ văn học Pháp và Nga, chiếm vị trí quan
trọng trên văn đàn vào cuối thời Miji. Với định hướng xoáy sâu vào chủ thể là con
người và xã hội để khai thác chủ đề sáng tác, chủ nghĩa tự nhiên bắt đầu có sự đối
chọi lại với chủ nghĩa tả thực. Do đó, đề tài giai đoạn này có sự thay đổi theo xu
hướng quay về với cổ điển nhưng đào sâu tâm trạng con người. Haiku giai đoạn
này cũng được các nhà thơ sau Shiki chia làm nhiều trường phái với các xu hướng
khác nhau. Nhìn chung, chỉ sau gần 45 cai trị của Thiên hoàng Minh Trị, nước
26
Nhật có sự thay đổi thần kì, thoát xác để phát triển trở thành một cường quốc châu
Á. Bên cạnh đó, văn hóa và nghệ thuật cũng có những chuyển biến không hề nhỏ.
Người Nhật bắt đầu nâng cao năng lực và tư duy, nhiều tác phẩm mới có giá trị ra
đời phục vụ cho đời sống của người dân.
1.2.2. Chiến tranh và sự phát triển của các thể loại văn học trong thời
kì mới
Yếu tố chiến tranh tác động đến sự vận động của thơ haiku khá lớn. Trong
thời gian khói lửa này, haiku được xem là nghệ thuật hạng nhì, khó có thể phát
triển, vấp phải nhiều hệ lụy. Haiku trong chiến tranh được dùng với nhiều mục
đích khác nhau nhưng chung quy lại là phục vụ chính trị. Thể thơ truyền thống
này dường như bị biến chất nặng nề trước quan điển phục vụ chế độ quân chủ.
Đặc biệt giai đoạn này, nhiều trào lưu haiku bị bất động tư tưởng với nhau, các
nhà thơ phân tách thành nhiều phái, nhóm, hoạt động riêng lẽ. Thơ haiku lúc này
cần người vực dậy, đưa nó ra khỏi khói lửa chiến tranh, đây là điều cấp thiết nhất.
Chiến tranh không những tàn phá đất nước, con người mà còn cả nền văn hóa,
nghệ thuật lâu đời của Nhật Bản. Nếu văn hóa phương Tây phát triển mạnh vào
thời Meiji, thì đến thế chiến, nền văn hóa này bắt đầu hủy hoại dần nền văn hóa
truyền thống bởi những tiêu cực trong quá trình tiếp nhận. Sau chiến tranh, nước
Nhật như đổ vụn, cần khôi phục lại gần như hoàn toàn. Trong đó thơ ca nói chung
và thơ haiku nói riêng cần phát triển để giữ vững truyền thống văn hóa của Nhật
Bản. Nền văn hóa đại chúng phát triển song song với trào lưu dân chủ thời đầu
thời Showa 昭和 là bước đà để văn hóa giai đoạn này thay đổi. Chiến tranh dường
như là thay đổi hẳn ý thức của nhân dân, môi trường sống thoải mái và không
vướn bận vào chính trị nhiều như thời Meiji. Có thể nói, thời kì này dân trí được
nâng cao cho chính sách cưỡng bách giáo dục. Vì thế văn học cũng phát triển một
cách vượt bậc sau chiến tranh, đặt ra bước tiến lớn cho thơ haiku phát triển.
27
Trong thời đại mới, các thể loại văn học mà đa phần ảnh hưởng từ phương
Tây như văn xuôi và tiểu thuyết, thơ mới phát triển mạnh. Đòi hỏi các thể loại văn
học truyền thống phải phát triển theo để đuổi kịp xu hướng. Phải thay đổi để tồn
tại hoặc sẽ bị tiêu diệt nếu văn học truyền thống vẫn giữ định hướng cũ. Như đã
trình bày ở phần ảnh hưởng văn hóa phương Tây thời Meiji, nhiều chủ nghĩa mới
được du nhập và văn học hiện đại phát triển nhanh chóng. Đến thời tiền và hậu
chiến, văn học lại phát triển không ngừng với xu hướng báo chí đại chúng. “Văn
học vô sản (puroretaria bungaku) bắt đầu vào khoảng đầu thập niên 1920, song
song với sự bành trướng của phong trào lao động và phong trào xã hội sau Thế
chiến thứ nhất” [33; 236]. Kéo theo đó là các thể loại văn học được nâng cấp, ra
đời ngày càng nhiều. Nhiều phong trào văn chương nhất là phong trào tiểu thuyết
và thơ mới đã làm lu mờ và có phần đã kích văn học truyền thống. Vì thế, văn học
truyền thống trong đó có thơ haiku cũng cần có những tiếp thu và cải cách. Tác
động từ việc thay đổi các thể loại văn học là yếu tố tiên quyết trong việc cạnh tranh
mảnh đất văn chương trên văn đàn giai đoạn này.
Tóm lại, nhờ những yếu tố tác động trên mà thơ haiku có “động cơ” để tiến
lên trong các phong trào cách tân. Thơ haiku ngày càng mới mẻ, phù hợp với đời
sống hiện đại và bắt kịp nhu cầu thị hiếu của nhân dân. Như vậy, nếu không có
những yếu tố ảnh hưởng này, haiku có lẽ chỉ dừng lại ở những vần thơ cổ điển mà
không mang màu sắc hiện đại như bây giờ.
1.2.3. Các xu hướng cách tân thơ haiku Cách tân thơ haiku là một quá trình kéo dài dường như bằng cả thời gian
haiku hình thành. Bởi từ lúc mới sinh ra, thơ haiku đã có xu hướng thay đổi mạnh
mẽ để đạt được đỉnh nghệ thuật cao nhất. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
nhận thấy nên chia các xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku theo quá trình lịch
28
sử hình thành và phát triển của chính nó. Bởi nếu không chia như vậy sẽ gây ra
tình trạng dễ dàng trùng lập các yếu tố nghệ thuật trong quá trình nghiên cứu. Thơ
haiku phát triển và cách tân theo định hướng dựa vào nền tảng cái cũ đề ra phương
hướng mới chứ không triệt tiêu hoàn toàn nền tảng ấy. Nên nếu không tuân theo
tiến trình lịch sử văn học thì khó có thể phân chia xu hướng. Chính sự hòa kết của
nghệ thuật thơ haiku trong các giai đoạn sẽ nảy sinh sự trùng lập nếu không phân
tích theo tiến trình phát triển.
Trong luận văn này, chúng tôi đề xuất thành hai xu hướng chính đó là cách
tân nghệ thuật thơ haiku Basho và cách tân nghệ thuật thơ haiku Shiki. Mục đích
chia như vậy để dễ dàng thấy được hai móc thời điểm thơ haiku đạt trình độ nghệ
thuật cao nhất của cổ điển và hiện đại. Bên cạnh đó là các xu hướng phụ, bổ sung
và phát triển thêm hai xu hướng chính. Ở xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku
thời Basho có xu hướng “tiền Basho” và “hậu Basho”. Tương tự cũng có xu hướng
“tiền Shiki” và “hậu Shiki”. Trong giới hạn nghiên cứu đề tài này chúng tôi chỉ
giới hạn những xu hướng cơ bản như vậy, ngoài ra còn có xu hướng cách tân
“haiku thế kỉ XXI”. Ở đây, chúng tôi chỉ trình bày những nét cơ bản về các xu
hướng để làm tiền đề phân tích kĩ ở những phần sau.
Về xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Basho với những đặc điểm
cơ bản về sự thay đổi quan điểm nghệ thuật, lần đầu thơ haiku đạt trình độ nghệ
thuật đỉnh cao về nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật triết lý. Thơ haiku là phản chiếu
đời sống và tình cảm con người thông qua miêu tả vạn vật.
Còn xu hướng cách tân nghệ thuật thơ haiku thời Shiki có hướng phát triển
và tiếp thu văn hóa hiện đại phương Tây. Thơ haiku giản đơn mà mang xu hướng
hiện đại. Không câu nệ nghệ thuật truyền thống mà đề cao tính chất hiện thực đời
thường. Phong cách nghệ thuật tự do phóng khoáng và không có qui định chặt chẽ.
29
Đó là các xu hướng chính để haiku có thể phát triển ngày một sinh động và
hấp dẫn người đọc nhiều hơn. Là tiền đề quan trọng giúp toàn cầu hóa haiku, đưa
haiku đi khắp thế giới và trở thành thể thơ không chỉ riêng Nhật Bản mà là thể thơ
của cả nhân loại.
1.3. Các phạm trù mĩ học trong thơ haiku
Đối với người Nhật Bản, mĩ học như một yếu tố văn hóa không thể tách
rời cuộc sống của họ. Cái đẹp được đề cao ở mọi lĩnh vực. Và mĩ học là nguồn
sống vô tận của văn chương Nhật Bản trong đó có thơ haiku. Bởi “cái đẹp không
được thế giới thừa nhận, nên nó đã nhào trộn thành sản phẩm có giá trị trực tiếp
từ tất cả mọi nguồn gốc và xuát hiện trước mắt bạn” [12; 207].
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức thẩm mĩ Nhật
Bản
Nhật Bản là đất nước của cái đẹp nghệ thuật, của thiên nhiên tuyệt mĩ. Thế
giới quan mĩ học của Nhật Bản dẫn con người hướng tới cái đẹp của thiên nhiên,
văn hóa và cuộc sống con người. Mĩ học Nhật Bản không chú ý đến những sự vật,
hình tượng lớn lao cao cả mà luôn hướng tới những gì nhỏ bé, nhẹ nhàng và thanh
khiết. Cái đẹp đối với người Nhật Bản là mối song hành giữa chủ thể và khách thể,
không mang tính chủ quan, cũng không quá khách quan mà được sinh ra từ mối
quan hệ tương quan đó. Nói đến cảm thức thẩm mĩ, ta phải xem xét các yếu tố tác
động đến nó, có như vậy mới dễ dàng nắm bắt và thấu hiểu. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến sự hình thành thế giới quan duy mĩ của người Nhật Bản, nhưng quan trọng
và đáng chú ý nhất là yếu tố bản địa và yếu tố ngoại lai.
Đầu tiên là yếu tố tự nhiên của Nhật Bản. Đặc trưng thiên nhiên đã có tác
động khá lớn đến quá trình hình thành ý thức thẩm mĩ của người Nhật. Địa hình
đa phần là đồi núi và nhiều quần đảo lớn nhỏ, bốn mặt đều giáp biển, vì thế tạo
30
cho Nhật Bản có một thiên nhiên đặc biệt có phần khác biệt với các nước khác
trên thế giới. Tuy nhiên, do có địa hình kiến tạo không đồng đều và được hình
thành muộn so với đại lục địa Á - Âu, một phần nằm trên vành đai núi lửa Thái
Bình Dương nên Nhật Bản chịu nhiều tác động lớn, thiên tai, động đất, sóng thần
từ thiên nhiên. Tuy vậy, con người nơi đây vẫn biết vươn lên và thích ứng với cuộc
sống, môi trường, biết khắc phục hậu quả thiên tai để tạo nên một đất nước tươi
đẹp. Về thiên nhiên, do có sự phân tầng địa hình khác nhau nên thiên nhiên Nhật
Bản đa dạng và phong phú, bốn mùa đều có những đặc trưng riêng biệt. Không
những thiên nhiên, Nhật Bản còn đa dạng về khí hậu, là đảo quốc hình cánh cung
trải dài trên Thái Bình Dương nên khí hậu có sự khác biệt rõ rệt từng vùng. Miền
Bắc có mùa hè ngắn, mùa đông dài còn miền Nam có khí hậu bán nhiệt đới, nắng
nhiều và chan hòa.
Dễ dàng nhận thấy, tư tưởng của con người xứ Phù Tang từ lâu đã hòa cùng
vào thiên nhiên và thơ ca. Những tâm hồn mỏng manh, lãng mạn nhưng cũng nhiệt
huyết và cháy bỏng đam mê qua tập thơ đầu tiên Manyoshu có nghĩa là “mười
nghìn chiếc lá”. Ngay từ tên tập thơ đã thấy xuất hiện hình ảnh thiên nhiên. Không
chỉ trong thơ ca mà trong các loại hình nghệ thuật khác cũng đề cập nhiều đến mối
liên hệ với thiên nhiên như trà đạo, vườn khô, cắm hoa,... Nhiều lễ hội truyền
thống mang con người đến với thiên nhiên, hòa mình và cảm nhận về nó như lễ
hội hoa anh đào, lễ hội đom đóm,... Bên cạnh đó, văn hóa Nhật Bản còn thấm đẫm
màu sắc thiên nhiên trong lối kiến trúc nhà ở và “ngay cả khi không còn một mẩu
đất thừa nào nữa, người Nhật vẫn cố tìm mọi cách để tạo dựng những kiến trúc
nhỏ, trông tựa như một khoảnh vườn cỏn con, và tại đó thế nào cũng bài trí một
vài tảng đá thô theo mô thức các thạch viên (vườn đá) nổi tiếng” [41; 54].
31
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên Shinto 神道 là đức tin vào tạo hóa thiên nhiên
của người Nhật Bản. Con người tin vào sự hiện diện của kami 神 (thần linh) nhưng
những quan niệm này khác hẳn với phương Tây không cụ thể hóa vị thần nào mà
kami ở đây được chỉ chung cho sự thiêng liêng của vạn vật trong tự nhiên. Với tín
ngưỡng Shinto vì có những vị thần như thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng,...Nhưng
đa phần là các vị thần không tên được thờ phụng ở những tảng đá, bờ sông, gốc
cây, vì họ quan niệm nơi đó có thần linh trú ngụ. Như vậy, thiên nhiên được người
Nhật Bản rất quan tâm và chú trọng về mặt tâm linh.
Yếu tố lịch sử - xã hội cũng góp phần không nhỏ vào quá trình tạo nên ý
thức thẩm mĩ này. Nhật Bản từ khởi thủy cho đến ngày nay trải qua nhiều triều đại
và quá trình biến đổi về mặt chính trị xã hội. Từ lúc hình thành, vay mượn chữ
Hán và ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc hầu như ý thức con người chỉ được
giới hạn ở tầng lớp quý tộc. Nhưng qua các thời đại Heian, Kamakura, Muromachi,
Edo ý thức con người dần được phát triển rộng ra khỏi sự hạn chế của tầng lớp
quý tộc, người bình dân, dần dần tiếp thu được các giá trị tư tưởng từ cuộc sống
và nâng cao theo từng giai đoạn lịch sử. Thời Heian, cái đẹp dịu dàng “nữ tính”
được đề cao, văn chương nữ lưu ra đời và tiếng nói người phụ nữ dần có giá trị
hơn. Đến cuối thời Heian, chế độ Thiên Hoàng bắt đầu lung lay do tầng lớp võ sĩ
lớn mạnh. Thời kì Mạc phủ bắt đầu, kéo theo đó là nỗi buồn trước thực trạng thế
giới xung quanh thay đổi, niềm bi cảm trước cảnh “biến thiên” đó là khởi đầu cho
cảm thức thẩm mĩ mono no aware ものの哀れ. Cuối thế kỉ XII với sự lên ngôi
của chế độ Mạc phủ, vẻ đẹp thướt tha, mềm mại được thay đổi bằng sự đơn sơ,
khỏe khoắn để phù hợp với phong cách võ sĩ. Từ đó, ý thưc thẩm mĩ bắt đầu có xu
hướng chuyển dịch, không còn trau chuốt, mà đơn sơ, các cảm thức thẩm mĩ như
sabi 寂 , wabi 詫 び . Nhưng các cảm thức chính thức hoàn thiện vào thời
32
Muromachi với sự kết hợp tinh tế giữa phong cách quý tộc và bình dân. Quan niệm
về sabi, wabi, yugen 幽玄, okashimi おかしみ, ... được định nghĩa rõ ràng hơn.
Như vậy, yếu tố lịch sử - xã hội, cũng là nhân tố xúc tác chính để hình thành nền
tảng các cảm thức thẩm mĩ quan trọng. Yếu tố ngoại lai mà tiêu biểu là tư tưởng
Phật giáo, tác động đến luồng tư tưởng con người vì nó lý giải nhiều căn nguyên,
dẫn dắt con người đốn ngộ. Thế giới quan Phật giáo nói đến sự không tính trong
cuộc sống con người, với các khái niệm như vô thường, vô ngã. Do ảnh hưởng bởi
tư tưởng Phật giáo, trong đó có Thiền tông, ý thức về thẩm mĩ của con người bị
chi phối hầu hết các nội dung về mĩ học, về nhận thức cái đẹp. Mĩ học Phật giáo
hình thành với những triết lý sâu sắc qua các Thiền ngôn. Ở đây chúng tôi chỉ nói
đến các tác động chính của Phật giáo vào tư tưởng, ý thức và quan niệm về cuộc
sống, vạn vật của con người Nhật Bản, mà chú trọng đi sâu vào nhánh Thiền tông
Nhật Bản.
Như vậy, từ các yếu tố tác động, ảnh hưởng và tạo tiền đề, ý thức mĩ học
của người Nhật rất đa dạng và phong phú về mọi mặt cuộc sống. Những rung cảm
ấy, được đưa vào nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng tạo một màu sắc khá
riêng biệt cho từng thể loại. Thơ haiku cũng đã nhanh chóng chứa đựng các cảm
thức ấy để rồi nó mang thêm những thế giới, những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả
và người đọc.
1.3.2. Mĩ học Thiền – nền tảng của các cảm thức thẩm mĩ trong thơ
haiku
“Dĩ tâm truyền tâm; bất lập văn tự; giáo ngoại biệt truyền; trực chỉ nhân
tâm; kiến tính thành Phật” [34; 250]. Đó là chủ trương giáo pháp của Thiền tông.
Khác hẳn với các tông phái khác, Thiền tông muốn con người là chủ thể tự tìm
đến sự tĩnh tại để đạt Niết Bàn. Không bị các nhân tố bên ngoài tác động đến tâm
33
thế, tự khai mở và tự nhìn thấy chân như, đó là Thiền (Zen 禅). Từ đó, Nhật Bản
đã tiếp thu những giáo lý Thiền tông hình thành nên mĩ học Thiền hay mĩ học Phật
giáo với các ý vị và cảm thức tĩnh lặng cho tâm hồn. “Những nghệ thuật gia ảnh
hưởng của Thiền học Nhật Bản, bất luận lúc nào, nơi nào cũng đều sử dụng câu
từ và bút pháp một cách tối thiểu để biểu đạt tình cảm của mình. Bởi nếu biểu hiện
hết thảy tình cảm ra thì những điều ám thị sẽ hóa ra trần truồng quá, mà sức ám
thị có thể nói là sự uyên nguyên thăm thẳm của nền nghệ thuật Nhật Bản” [12;
221]. Những vần thơ waka đầu tiên của Nhật Bản cũng đã thấm đẫm chất mĩ học
Thiền này, tiêu biểu là thơ của Saigyo Hoshi 西行 法師. Điều đó cũng thể hiện rõ
trong lời dạy đệ tử Myoe 明恵 của ông “Tôi nhuộm đầy các cảm xúc, cảm hứng
khác nhau lên tâm, nhưng tâm ấy không lưu giữ lại một dấu vết nào cả. Thơ tôi,
do đó, chính là hình thế chân thật của Như Lai” [21]. Mĩ học Thiền đã phần nào
đồng nhất giữa ngôn ngữ thơ ca và tâm hồn con người, qua lăng kính “chân ngôn”
để đưa con người đến với chân lý, đến với vô thường, vô ngã. Trong triết lý Phật
giáo, yu 有 (hữu) và mu 無 (vô) là hai vế đối lập nhau. Hữu là cái đang tồn tại
nhưng “vô” lại là vế phủ định sự tồn tại đó của vạn vật. Nhìn ở một góc độ mĩ học
“vô” đứng ngoài sự đối lập đó, bởi sự vật cho rằng luôn có tính bất biến thì “vô”
là mệnh đề phủ nhận tính bất biến ấy. Mượn cái vô để tả cái hữu, mượn hữu để
nói đến vô là kĩ thuật xây dựng ngôn từ khá phức tạp mà người Nhật Bản đã thừa
hưởng từng triết lý trên. Mang màu sắc thấm nhuần tư tưởng phương Đông, văn
hóa Nhật Bản lại mang những đặc sắc cơ bản riêng mà các quốc gia khác không
có được, đó là một tâm hồn nhạy cảm.
“Thông thường thì trực giác tôn giáo cũng dùng ngôn ngữ đơn giản, trong
sáng để biểu đạt, ấy là vì như thế mới có thể miêu tả sự thể nghiệm về tinh thần
của nó một cách bình dị được. Nhưng, phần lớn thì Thiền dùng hình thức thơ để
34
biểu hiện về trực giác, về điểm này có thể nói là nó rất gần gũi với Hài cú” [12;
204].
Thật vậy, chính sự vật cũng mang trong mình một sự biến đổi khác lạ. Nó
biến đổi theo quy luật tự nhiên và cũng biến đổi theo cái nhìn của con người. Như
vậy, trăng, hoa, gió, sương,.. những sự vật ấy đang căn đầy một sự sống và mang
trong mình một giá trị thẩm mĩ thâm sâu. Những bài thơ miêu tả thiên nhiên, ngợi
ca vẻ đẹp bốn mùa ấy thấm đẫm yếu tính Thiền. Ở haiku cũng vậy, nó hàm chứa
triết lý nhân sinh sâu sắc, chứa đựng tinh thần từ bi bác ái của Phật giáo. Theo
quan niệm của Thiền tông thì vạn vật tồn tạo trong mối tương giao và hòa hợp lẫn
nhau. “Với triết lý Thiền, không có sự phân biệt về bản chất giữa những sự vật,
hiện tượng vốn được xem là khác biệt do định kiến về sự sang - hèn, cao - thấp,
thanh khiết- ô trọc” [1; 23]. Nhưng với con mắt bình thường ta chỉ thấy được
những bề nổi thô sơ và bất động của vạn vật mà không thấy được những điều ẩn
sâu bên trong chúng. Ta có thể nhìn thấy trời, mây, sương gió, hoa đào rơi,...nhưng
thực chất những điều ta thấy đó là kết quả của sự vận động ngầm bên trong vạn
vật để tạo thành thế giới.
Thiền thường dùng công án 公案 (ko-an ) như phương tiện hữu đắc để
truyền đạt, giáo huấn tư tưởng cho môn đồ bởi “Công án (tiếng Trung Hoa là
kung-an) là câu đố nghịch lý mà “câu trả lời” của nó sẽ đưa đến sự giác ngộ, hay
thể nghiệm về ngộ” [13; 167]. Haiku cũng vậy, thường không đề cập rõ ràng chủ
thể trữ tình vì thế khoảng cách giữa tác giả và người đọc dường như không có. Nó
như một dòng sông, như một cánh đồng, như một con đường mà ở đó mọi người
có thể tự do trải bước, tự do làm điều mình muốn. Từ haiku, ta bắt gặp sự giao
thoa giữa tư tưởng Thiền và ý thức con người Phù Tang, nó dần chuyển thành một
biểu hiện nghệ thuật có xu hướng cô đọng, ẩn giấu điều muốn nói, để người đọc
35
tự khai phá. Haiku là một lựa chọn thích hợp nhất cho mĩ học Thiền vận dụng và
dùng làm phương tiện truyền tải như một công án Thiền.
Ngộ 悟 (satori) là trạng thái mà con người đạt được khi tiếp xúc với một
hay nhiều luồng tư tưởng, hiểu và thọ đắc được chính nó. Chỉ khi con người ngộ
mới giải thoát được tâm hồn khỏi thể xác, thoát khỏi sự “vô minh” của cái nhìn
thiên kiến, hạn hẹp trong quan niệm về đời sống. Bởi “nguyên tắc của ngộ tính,
chính là vì đạt đến chân lý của sự vật mà không dựa vào khái niệm” [12; 180].
Thiền dạy cho con người không đơn thuần là ngồi tĩnh tại mà tâm hồn phải yên
lặng trong không gian nhiều cám dỗ, được vậy mới gọi là ngộ. Nếu như thanh đạm
chọn thứ đơn sơ là nền tảng của wabi, tịch liêu yên ả là sabi, thương cảm, rung
động trước vạn vật là aware thì ngộ - có thể xem là nền tảng của karumi – thư thái,
khinh thanh, thoát tục. Như Basho trong hành trình du hành của đời mình, đến
cuối cùng mới nhận ra được sự khinh thanh ấy qua bài thơ cuối cùng nghe như
tiếng gió đang phiêu du giữa cuộc đời:
tabi ni yande Đau yếu giữa hành trình 旅に病んで
yume wa kareno wo chỉ còn mộng tôi phiêu lãng 夢わ枯野を
kakemeguru trên những cánh đồng hoang. 駆け巡る
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Và ông qua đời đúng như lời tiên đoán trước ngày khởi hành: sẽ chết trên
con đường ấy. Nhưng có lẽ Basho không biến mất mà đang tiếp tục chuyến hành
trình tiếp tục con đường đến với thơ ca của mình, đấy là karumi, đấy là ngộ.
Khi tiếp thu những triết lý Phật giáo, người Nhật không đưa những triết lý
đó vào đời sống vô hình, tâm linh mà ứng dụng ngay vào cuộc sống thường nhật,
tạo cho nó một sự gần gũi với con người, với vạn vật. Và trước tấm kính của sự
36
đốn ngộ, con người nhận thấy tất cả đều nằm trong một chữ “vô”: vô ngã, vô ngôn,
vô ý và cả vô tâm, vô tình. Điều này không phải sự phủ định chính cuộc sống, phủ
định thế giới vạn vật mà thực chất là đang hòa mình vào tự nhiên. Không cần định
hướng muôn ngã, không cần nói, không cần tỏ lòng, và không cần suy nghĩ nhưng
ở họ đang mở ra một thế giới mới thế giới của cái đẹp. Nói như vậy để thấy, mĩ
học Thiền là nền tảng vững chắc hình thành và định hướng nên những cảm thức
thẩm mĩ khác. “Có sáu sắc thái lớn mà Zen đã ảnh hưởng đến tinh thần Nhật Bản:
sự hướng nội, thẳng thắn, giản dị, mộc mạc, không phân biệt và u tịch cô liêu. Các
sắc thái này đã hun đúc, tạo nên tinh thần thẩm mĩ mà nó tự biểu lộ trong nghệ
thuật” [31; 185]
1.3.3. Một số cảm thức thẩm mĩ cơ bản trong thơ haiku Các cảm thức thẩm mỹ là linh hồn cho những bài haiku. Nó mang haiku từ
giá trị hài hước bình dân thành những ý vị đẹp, triết lý sâu xa. Cảm thức thẩm mỹ
được hình thành trong mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển haiku. Tuy
vậy, chúng có điểm chung là mang lại cho haiku làn gió suy ngẫm, những không
gian ẩn ý đầy u huyền mà người đọc là nhân tố để nó tác động đến. Các cảm thức
thẩm mỹ có rất nhiều, nhưng chung qui lại có thể chia làm hai nhóm chính: ý thức
về cái đẹp huyền bí, tâm linh và ý thức về cái đẹp tinh tế cô đọng. Trong nhóm ý
thức về cái đẹp huyền bí, tâm linh ta có thể bắt gặp các cảm thức quen thuộc như
aware, sabi, wabi, yugen,... còn nhóm ý thức về vẻ đẹp tinh tế cô đọng là karumi,
yojo, okashimi, shibusa,... Mỗi cảm thức thẩm mỹ đều có vẻ đẹp riêng, khi khoát
lên haiku như một lớp áo thay đổi cách nhìn triết luận về haiku, làm cho haiku trở
thành dòng thơ mang tính chất Thiền của Nhật Bản. Ở luận văn này, chúng tôi xin
khái quát lại các cảm thức thẩm mĩ tiêu biểu có trong thơ haiku, từ đó làm nền
tảng để đi vào phân tích sự cách tân về nghệ thuật thơ haiku. Trong đó có cách tân
về các cảm thức thẩm mĩ này qua từng giai đoạn phát triển của haiku.
37
1.3.3.1. Ý thức về vẻ đẹp huyền bí, tâm linh (aware 哀れ, wabi 詫
び, sabi 寂, yugen 幽玄) Nói về niềm bi cảm (aware), đó là một trong bốn khái niệm cơ bản về mĩ
học của người Nhật Bản. Aware là một trực giác thẩm mĩ chịu ảnh hưởng sâu sắc
của Phật giáo, gợi tả một vẻ đẹp chóng tàn, mà nỗi buồn man mác trước sự tàn
phai đó là một phạp trù mĩ học. Với người Nhật, họ quan niệm việc nhìn một cánh
hoa anh đào bị cơn gió phẩy lìa cành rơi lả tả thì đẹp và đáng xem hơn một bông
hoa còn nguyên trên cành. Họ thích nhìn vầng trăng bị che khuất một phần bởi
đám mây hơn là ngắm một vầng trăng tròn vằng vặc. Họ đáng giá cao cái giá trị
vẻ đẹp đang quay trở về với nguyên thủy, cái buồn lúc buổi xế tà cũng là lúc bắt
đầu cho buổi bình minh. Một vẻ đẹp mong manh, thấm đượm những cảm thức vô
thường của Phật giáo, và đó chính là aware.
Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu thì aware là:
“Chữ aware, có thể ghi sang Hán tự là “ai” (bi ai), mang nhiều ý nghĩa
khó xác định. Các học giả Nhật đã theo dõi cách sử dụng nó từ thời cổ đại với tập
thơ Manyoshu (Vạn diệp tập) cho đến thời hiện đại. Không cần thiết phải nhắc lại
ý kiến của họ ở đây. Chỉ cần biết rằng trong thời Heian, chữ aware được dùng để
gợi tả vẻ đẹp tao nhã, nỗi buồn dịu dàng, pha lẫn cảm thức vô thường của Phật
giáo.” [7; 121].
Nói tóm lại aware là một niềm bi cảm trước mọi vẻ đẹp u buồn, não lòng
của sự vật và con người.
Nhưng theo Motoori Norigana 本居 宣長 (học giả phái Kokugaku 國學) thì
aware không phải là “nỗi buồn sự vật” mà là sự nhạy cảm, tính dễ xúc cảm của
con người trước sự vật, là sự rung động từ trái tim bởi tất cả các cảm xúc từ niềm
vui, nỗi buồn và cả sự yêu thương. Motoori Norigana cho rằng aware là tất cả các
38
cảm xúc của con người thay vì là nỗi buồn, và tiếng thở dài trước những hiện
tượng. Và aware không phải là những cảm xúc thông thường, thoáng qua chốc lát,
mà là những cảm xúc mang tính chất sâu lắng, mãnh liệt, trào lên từ tận đáy lòng
của con người.
Trong tập Oku no hosomichi 奥の細道, Basho đã để lại những vần thơ mang
nỗi buồn miên man sâu sắc:
yuku haru ya Mùa xuân ra đi 行く春や
tori naki uo no tiếng chim thổn thức 鳥蹄き魚の
me wa namida mắt cá lệ đầy. 目は涙
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Nỗi buồn tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ, hòa điệu cùng với nỗi buồn của
tiếng chim, nỗi buồn của mắt cá, đó là nỗi buồn vô thường trước cảnh khổ đau của
nhân thế, cảnh chia ly của lòng người. Và những vần thơ ấy còn khóc than cho số
phận nhỏ bé của vạn vật. Nếu con người là một tạo vật hoàn hảo của thế gian, là
kẻ thống trị muôn loài, mà chính họ cũng bị vùi dập, cũng bị khổ ải thì nói chi đến
những sự vật nhỏ bé ngoài kia đang bất hạnh nhường nào.
katatsumuri Chậm rì, chậm rì かたつむり
soro soro nobore kìa con ốc nhỏ そろそろ登れ
fuji no yama trèo núi Fuji. 富士の山
(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)
Đó là những bi cảm mà thi nhân đang run động từ tận đáy lòng trước cảnh
vật đáng thương. Lê Thị Thanh Tâm đã khẳng định “aware là sáng tạo vĩ đại của
39
dân tộc Nhật Bản, mang đậm bản sắc tinh thần và thẫm mĩ của người Nhật” [34;
64].
Wabi được hiểu là “vẻ đẹp hoang vắng, cô liêu, không cầu kì, giả tạo. Theo
quan niệm của người Nhật Bản, wabi là vẻ đẹp thường ngày, là sự đơn giản, biết
tự kiềm chế” [48; 341]. Wabi là một yếu tố quan trọng trong quan niệm mĩ học về
cái đẹp của Nhật Bản. Theo như ý kiến của nhà nghiên cứu Miyamoto cho đến
ngày nay, cho dù wabi là một khái niệm mĩ học cơ bản, nhưng số người có thể lý
giải cặn kẽ về nó là khá ít. Wabi nguyên thủy được danh từ hóa bởi động từ wabu
侘ぶ có nghĩa là suy giảm, nhạt phai và tính từ wabishii 侘しい có nghĩa chỉ sự
đơn sơ, nghèo nàn.
Cuối thế kỉ XII, Phật giáo du nhập vào Nhật Bản song song đó là Thiền.
Thật ra wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông, nói đến cái cảm nghiệm
về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và
vạn vật. Theo quan niệm “vạn vật hữu linh” thì mọi thứ bao quanh con người dù
to lớn hay bé nhỏ, vô tri hay có ý thức đều là biểu hiện của đời sống. Wabi chính
là cuộc hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị, tâm hồn và thiên nhiên, tính chất phác,
mộc mạc và sự sâu thẳm, tuyệt diệu.
Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu: “wabi là cái đơn sơ bình thường mà ta
bắt gặp ở những sự vật khiêm tốn nhất và dường như nghèo nàn nhất, sự nghèo
nàn của một con ốc nhỏ, một chiếc lá rơi” [7; 273]. Vì thế wabi được thi nhân đưa
vào thơ haiku như một ẩn ý sâu xa.
cha no hana ni Trên nương trà 茶の花に
kakurembo suru một bầy se sẻ 隠んぼする
suzume kana trốn tìm trong hoa.
40
(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) 雀哉
(小林一茶)
Wabi làm cho haiku thêm sâu lắng, thêm giản dị, nhưng cũng làm cho haiku
thêm chiều sâu tâm thức, thêm những ẩn chứa tâm hồn. Ngoài cái giản dị và đơn
sơ ấy, wabi còn là điểm nhìn chuyên biệt với các sự vật, làm cho chúng trở thành
điểm nhấn nhẹ nhàng tinh tế và sâu sắc hơn. Đó là chú chim nhỏ vui đùa trên
nương trà với sự nhẹ nhàng tươi vui. Và wabi cũng mang nghĩa như sự lựa chọn,
ý thức hình thành trên trực quan về sự vật.
yoku mireba Nhìn kĩ mới nhận ra よく見れば
nazuna hana saku dưới chân hàng dậu 薺花咲く
kakine kana khóm khúc tần nở hoa. 垣根かな
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Đóa hoa dại dù nhỏ bé, nép mình dưới chân hàng dậu, nhưng nó vẫn mang
trong mình một sự sống mãnh liệt để rồi nở hoa. Vẻ đẹp của hoa là vẻ đẹp tĩnh tại,
đơn sơ, không cần rực rỡ, bon chen nhưng cũng đủ làm rung động tâm hồn thi sĩ,
cũng đủ làm nhân thế phải cúi nhìn. Đó là wabi, cái đẹp của sự nhẹ nhàng đơn
giản nhất có thể.
Sabi (tịch liêu) xuất phát tính từ sabishii 寂しい có nghĩa là buồn, cô đơn
quạnh quẽ mong muốn có người tâm sự, thể hiện mối liên hệ giữa nghệ thuật và
tự nhiên. Paul Varley cho rằng, cảm thức thẩm mĩ sabi bao gồm 3 yếu tố: “không
phô trương; chưa hoàn thiện, bất cân xứng; khắc khổ, hoang vắng” [43; 160]. Về
phương diện chưa hoàn thiện và bất cân xứng của sabi ta có thể thấy rõ qua từng
thời kì như trong Manyoshu sabi dùng để tả tâm trạng phiền muộn trước không
gian thanh vắng, trong Tsurezuregusa 徒然草 sabi được dùng với ý nghĩa cảm
41
thức có chiều sâu cổ kính. Dần dần, sabi trở thành ý thức về cái đẹp cổ xưa, lặng
lẽ và mang dấu ấn thời gian. Trong haiku ta có thể thấy thể hiện sự tịch liêu của
sự vật và tĩnh lặng của lòng người.
shizukasa ya Vắng lặng u trầm 静かさや
seki ni shimi iru thấm sâu vào đá 岩にしみ入る
semi no koe tiếng ve ngâm. 蝉の声
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Tiếng ve chỉ xuất hiện vào mùa hè, nhưng tiếng ve ngâm vang là lúc chúng
sắp chết, đọc bài thơ ta nghĩ ngay đến thành ngữ semishigure (ve kêu như mưa).
Bây giờ, với Basho không đơn thuần là tiếng ve ngâm nữa mà là tiếng ngâm của
con người cô đơn, trong không gian vắng lặng, u trầm. Sự cô đơn tịch liêu ấy thấm
sâu vào từng tảng đá vô tri, nỗi buồn đang len sâu vào sự cô độc tuyệt đối. Tác giả
mượn tiếng ve để làm không gian u tịch trở nên vắng lặng hơn, một không gian
vắng đến nỗi nghe rõ từng tiếng ve thấm vào trong thớ đá. Tiếng ve ở đây cũng
như nỗi ai oán, thức tĩnh con người trước sự cô đơn, chiều sâu vạn dặm của nỗi
tịch liêu. Các hình ảnh và không gian không đối lập mà song hành cùng nhau để
làm nhấn mạnh thêm ý vị của bài thơ, làm cho bài thơ đẫm chất sabi.
Hay cũng dễ dàng nhận thấy sự tĩnh mịch, trong buổi chiều tàn thu, không
gian dường như yên lặng tuyệt đối để mở ra chiều sâu nội cảm cho người đọc trước
khung cảnh không một âm thanh.
kare eda ni Trên cành khô 枯れ枝に
karasu no tomari keri cánh quạ đậu 烏のとまりけり
aki no kure chiều thu. 秋の暮れ
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch)
42
(松尾芭蕉)
Khác với bài tiếng ve, ở đây không có tiếng quạ mà chỉ thấy con quạ đậu
trên cành khô, một cành cây không sức sống, con quạ không kêu, cả không gian
như chết lặng, không còn sự sống trong buổi chiều tàn thu. Basho đã khá tinh tế
khắc họa tức thời khung cảnh ảm đạm, u buồn. Phải chăng con quạ đang chờ điều
gì, và cành khô có chờ để đâm chồi sau mùa đông lạnh giá để sang xuân. Nội cảm
tăng dần trước không gian im lặng không một tiếng trả lời, sự lặng im của sự vật
như không muốn đáp trả lại càng làm khắc sâu hơn nỗi đau cô đơn này.
Vị đại sư thơ haiku Basho trên con đường du hành, thẩng thơ, mơ hồ với
tâm thế không định, nỗi cô đơn của người lữ khách.
furuhaya ya Cánh đồng xưa 古畑や
nazuna tsumiyuku hoa khúc tần nở rộ 薺摘行
otoko domo lầm lỗi hắn bước đi. 男ども
(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)
Cũng bắt gặp tâm trạng ấy ở Buson trong bài haiku mà thi sĩ mùa xuân viết
cho buổi chiều thu cô đơn.
mon wo dereba Chiều mùa thu 門を出れば
watashi mo yuku hito khi rời tổ ấm 私も行く人
aki no kure tôi thành khách lãng du. 秋の暮
(Yosa Buson) (Lam Anh dịch) (与謝蕪村)
Bước chân vào cuộc đời, như bước chân vào sự tĩnh mịch, yên lặng của tâm
hồn. Thi sĩ đang rảo bước lữ khách để thấy được cuộc đời, thấy được thiên nhiên.
Cảm nhận của thi nhân là cảm nhận về một thế giới khác, tồn tại song song với
43
đời sống hằng ngày. Nơi đó, họ tìm được chính mình, tìm được lí tưởng và hoài
bão, với độ sâu không thể với tới của những nỗi lòng riêng tư, với khoảng cách vô
tận giữa con người với con người trong tình cảm và sự trải nghiệm cuộc sống.
Yugen tạm dịch là u huyền. Trong các văn tự triết học cổ xưa của Trung
Quốc, yugen được ghép bởi hai Hán tự, yu 幽 nghĩa là u uẩn, gen 玄 nghĩa là bóng
tối, mù mịch. Yugen có lẽ là thuật ngữ mĩ học khó hiểu nhất của Nhật Bản bởi nó
đề cầm đến sự huyền bí, sâu thẳm mà có ít người mới hiểu được. Tác phẩm
Wakajisshu 和歌十種 (Mười kiểu waka), đã nhắc tới yugen như một cảm xúc sâu
thẳm vươn tới đỉnh cao của mĩ học. Nhưng yugen chỉ thực tế được được trở thành
sự biểu đạt trong thơ ca qua bàn tay phát triển của Fujiwara Shunzei 藤原俊成
(1114- 1204). Ban đầu yugen được thể hiện nhiều trong thơ waka nhưng loại hình
nghệ thuật mang đạm chất yugen là kịch No 能. Kịch No xoáy sâu vào tâm trạng
nhân vật và thế giới tâm linh hơn là chú trọng vào cách tạo hình, trang phục diễn
xuất. Như vậy kịch No ngoài tính trang trọng vốn có của nó, bây giờ nó còn thêm
tính mộc mạc, đơn sơ và đầy huyền bí.
Yugen có từ trong thơ waka, haiku có cội nguồn từ waka nên yugen vẫn giữ
một vai trò mĩ học quan trọng. Trong thơ haiku, thủ pháp đối lập hữu và vô thường
được sử dụng để tạo nên nét đặc sắc của cảm thức yugen. Như trong bài thơ sau ta
cảm nhận được một thế giớ u huyền hiện ra:
meigetsu ya Bóng trăng âm u 名月や
tatami no ue ni trên manh chiếu 畳の上に
matsu no kage vời vợi trăng thu. 松の陰
(Takarai Kikaku) (Lam Anh dịch) (宝井其角)
44
Hình ảnh được nhắc đến mang một màu sắc mờ ảo u huyền là bóng thông,
tác giả không đơn thuần miêu tả cây thông mà đang mượn bóng thông dưới ánh
trăng để là cho nó thêm huyền ảo, mang chiều sâu tâm tưởng. Như Shiki đã từng
viết về cây thông nhưng mang một màu sắc khác biệt:
matsu no ne ni Gốc thông bên đường 松 の 根 に
usumurasaki no ánh lên màu tím 薄 紫 の
sumire kana một ngọn oải hương. 菫 か な
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Bây giờ là gốc thông, chứ không còn là một bóng thông đêm trăng nữa.
Nhưng gốc thông ấy lại làm nền cho ngọn oải hương tô lên màu sắc, phải chăng
gốc thông giờ mang cả màu tím, đang là một ngọn oải hương chứ không còn là
chính nó. Shiki đã có một điểm nhìn cực kì tinh tế và độc đáo để thấy được cả cây
thông mộng tưởng bên cạnh cành oải hương bé nhỏ bên đường.
Từ thời Mạc phủ, ý tưởng đối lập giữ hư và thực đã được thịnh hành và dần
trở thành xu thế sáng tác, nên yugen nói riêng và các cảm thức thẩm mĩ mang vẻ
u huyền, tâm linh nói chung dần hoàn thiện đến độ tuyệt mĩ. Thơ haiku tiếp thu
những tinh hoa đó, và các cảm thức này tiếp tục ẩn chứa trong các loại hình nghệ
thuật khác nhau để tạo cho chúng một linh hồn, nhưng chính linh hồn nhạy cảm
của người Nhật Bản.
1.3.3.2. Ý thức về vẻ đẹp tinh tế, cô đọng (karumi 軽み, yojo 余
情, okashimi おかしみ, shibusa 渋さ) “Karumi nghĩa là nhẹ nhàng, thánh thoát tìm thấy ngay trong cuộc đời ô
trọc như một niềm khinh thanh êm đềm bay giữa tro than và cát bụi trần gian” [9;
199]. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội
45
dung. Trong hành trình của mình, đến cuối đời Basho mới nhận ra được cảm thức
karumi, và cuộc hành trình của ông như chính tiếng chuông chùa để ông đốn ngộ.
Đối với Basho, haiku giờ không còn mang nặng tính hàn lâm nữa mà là những lời
cười cợt, nhưng ẩn trong đó là phản ánh cuộc sống đau thương, bi đát của vạn vật
trong nhân thế. Tính bi – hài dần phát triển trong thơ haiku của Basho, đối với ông
cuộc đời này quan trọng nhất là phải có niềm tin, niềm lạc quan có như vậy cuộc
hành trình mới bớt gian khổ, cuộc đời mới bớt trầm luân. Nhờ vậy, cách diễn đạt
nhẹ nhàng ấy dần được ưa chuộng và trở thành những vần thơ mang tâm tưởng
karumi.
fuji no kaze ya Gió Phú Sĩ 富士の風や
ogi ni nosete trèo lên quạt 扇にのせて
edo miyage món quà Edo. 江戸土産
(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)
Suốt chuyến hành trình từ Edo, các bài thơ của Basho thể hiện sự ảnh hưởng
bởi karumi rất nhiều bởi “karumi là niềm khinh thanh dịu nhẹ mà vào cuối đời,
Basho hay nhắc tới như một phong thái ung dung tự tại” [7; 273]. Và “Karumi
chính là cảm thức thẩm mỹ khi độc giả nhận ra trạng thái an nhàn thanh thoát
phía sau những hình ảnh đời thường như vậy” [1; 87]
“Karumi là một trong những nguyên tắc được Basho đặt ra vào những năm
cuối đời với mong muốn khoác một phong cách mới cho thi ca được thanh thoát,
nhẹ nhàng cởi mở, trong sáng hơn để tô đậm bản chất vô thường của vạn vật” [32;
142]. Trong cuộc hành trình ấy, Basho được mọi người tiếp đón, nhưng ông thích
ở những mái lều, đơn sơ nhưng mang đầy tính vô thường của cuộc sống:
kusa no to mo Mái lều tả tơi 草のとも
46
sumi kawaru yo zo sẽ thành ngôi nhà khác すみ変わるよぞ
hina no ie Tết về, con trẻ chơi. 雛の家
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Hay đến khi qua đời, bài thơ cuối cùng của Basho đã nói lên những điều
ông muốn trong cả chuyến đi dài:
tabi ni yande Đau yếu giữa hành trình 旅に病んで
yume wa kareno wo chỉ còn mộng tôi phiêu lãng 夢わ枯野を
kakemeguru trên những cánh đồng hoang. 駆け巡る
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Tuy vậy, đến Shiki, lại có cái nhìn khác về karumi, với ông haiku phải gần
hơn với nhân dân và cảm thức thẩm mĩ cũng vậy. Vì thế cuộc cách tân thơ haiku
của Shiki phần nào làm thay đổi diện mạo của các cảm thức. Phần này chúng tôi
sẽ đề cập đến ở chương tiếp theo về các xu hướng và hành trình cách tân nghệ
thuật thơ haiku.
Đến với cảm thức yojo, đây là một cảm thức nền tảng làm nên yugen. Yojo
được kết hợp bằng hai Hán tự yo 余 có nghĩa là dư thừa, còn lại, jo 情 là cảm xúc,
hay tình cảm. Vậy có thể tạm dịch yojo là những cảm xúc còn vương vấn lại.
Fujiwara Shunzei 藤原俊成 cho rằng yugen là đỉnh cao thể hiện cảm xúc của yojo,
còn yojo đơn giản chỉ là những nét phác thảo đơn sơ nhất cho cảm thức này.
“Đạo thơ ở chỗ diệu ngộ... Chỗ kì diệu của nó trong suốt lung linh, không
thể nắm bắt được, như thanh âm giữa trời, sắc đẹp trong dung nhan, ánh trăng
dưới đáy nước, hình ảnh trong gương, lời có hạn mà ý nghĩa vô cùng” [26; 260].
Đó là cái hay bởi tính mơ hồ khiến cho thi ca mở ra nhiều chân trời mới.
47
Trong thơ haiku nói riêng và các loại hình nghệ thuật khác nói chung, nếu
không có yojo thì sẽ giảm sút một phần nghệ thuật và giá trị của tác phẩm. Bởi
yojo là một cảm thức thẩm mĩ quan trọng làm nên sự dư âm của người đọc sau khi
thưởng thức. Yojo được biểu hiện trong haiku là sự mơ hồ, suy diễn. Bởi haiku là
nơi chứa đựng chiều sâu tâm thức, nơi ẩn chứa cả ba nghìn thế giới. Nên yojo trở
nên quan trong khi góp phần tạo thêm một khoảng trống để người đọc có thể suy
diễn. Ngôn ngữ Nhật Bản vố đã khó hiểu bởi tính mơ hồ và nhiều tầng nghĩa, vào
haiku nó lại trở nên một cách mờ ảo hơn nữa khiến người đọc suy ngẫm từ đó sản
sinh ra yojo – sự dư âm sau khi đọc. Nếu xét về cơ bản có ba cách để thể hiện yojo
trong thơ haiku.
Thứ nhất là sự thiếu chủ ngữ. Người Nhật thường lược bỏ chủ ngữ nếu bản
thân họ là người phát ngôn.
Thứ hai là từ ngữ và cách chỉ số lượng trong tiếng Nhật. Số từ thường được
sử dụng kèm theo với danh từ để chỉ số lượng, không giống như một số ngôn ngữ
biến hình khác. Tùy vào trường hợp mà số từ được sử dụng như thế nào và đa phần
trong văn chương ít sử dụng số từ nên sự mơ hồ về số lượng sự vật mà danh từ
biểu thị gây sự suy ngẫm cho người đọc.
Thứ ba là do hiện tượng đa nghĩa và đồng nghĩa trong tiếng Nhật. Tiếng
Nhật gồm hệ thống nhiều dạng chữ viết như đã trình bày, nên khi viết bằng một
dạng chữ thì có thể ý nghĩ sẽ thay đổi vì thế sản sinh ra sự mơ hồ về nghĩa. Ngoài
ra cách đọc cũng ảnh hưởng đến nghĩa của từ, có những từ đồng âm thì cách đọc
giống nhau những nghĩa thì hoàn toàn khác.
Những lý do nêu trên đã tạo ra yojo khi sáng tác thơ ca ở Nhật Bản đặc biệt
là thơ haiku. Chẳng hạn có thể thấy rõ ở bài thơ sau:
48
hi no kure ya Gió thu lạnh lùng 日の暮や
hito no kao yori những gương mặt xa lạ 人の顔より
aki no kure hoàng hôn buông. 秋の風
(Kobayashi Issa) (Lam Anh dịch)
Khó có thể xác định ai là người quan sát khung cảnh trong bài thơ này, sự
xuất hiện “những gương mặt xa lạ” cũng không rõ bao nhiêu người, là ai. Điều đó
tạo ra một cảm giác những con người này là những thế giới khép kín, khóa chặt
tâm hồn, lướt qua nhau như những con người xa lạ, trong một khung cảnh ảm đạm
là lòng người đượm buồn trước cảnh nhân thế tha hương.
kono michi ya Con đường tôi đi この道や
yuku hito nashi ni không còn ai đi nữa 行く人なしに
aki no kure chiều tàn mùa thu. 秋の暮れ
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Như thế, chủ thể quan sát con đường không được tác giả nhắc đến, không
biết đó là ai, sự mơ hồ và trống rỗng trong bài thơ đã đúc kết lại nỗi buồn của vạn
vật, chốn rừng thiên nước độc không có một bóng người, mà có lẽ tác giả là người
hiếm hoi đặt chân trên con đường này. Cái hay của một bài thơ không phải nằm
trên câu chữ mà nằm trong ý vị sâu xa bên ngoài của bài thơ đó.
Như đã nói, bi và hài là hai khía cạnh làm nên điểm đặc sắc trong thơ haiku.
Cảm thức okashimi đã làm nên điều đó. Okashimi được hiểu một cách đơn giản
với ý nghĩa hài hước, nhưng cũng tùy vào từng trường hợp mà okashimi có ý nghĩa
khác nhau. Xuất phát từ tính từ okashii おかしい có nghĩa là kỳ lạ, khác thường,
nhưng okashii lại mang nghĩa không tích cực nên đôi lúc tạo cảm giác đùa cợt, hài
hước.
49
Đối với haiku từng thời kì mà okashimi mang những ý nghĩa khác nhau, có
lúc hài hước, có lúc nhẹ nhàng. Như bài thơ của nữ sĩ Chiyo ta thấy rõ okashimi
như một làn gió nhẹ nhàng tươi vui:
asagao ni Hoa triêu nhan 朝顔 に
tsurube torarete dây gàu vươn hoa bên giếng 釣瓶とられて
morai mizu đành xin nước nhà bên. もらい水
(Kato Chiyoko) (Nhật Chiêu dịch) (加藤知世子)
Bài thơ là sự trân trọng loài hoa tiêu nhan mỏng manh, tác giả không nở là
nó mất đi vẻ đẹp tự nhiên trong buổi sớm mai. Hoa triêu nhan sớm nở chiều tàn,
nhưng tình cảm của con người với hoa là vĩnh cữu. Sự nhẹ nhàng thánh thoát “xin
nước nhà bên” như lời tâm tình cùng loài hoa bé nhỏ, hãy cứ nở là vui đời vui hoa,
còn ta sẵn sàng hi sinh để hoa tồn tại.
Okashimi đôi lúc nhẹ nhàng vậy, nhưng cũng lắm lúc là lời đùa cợt hóm
hỉnh nhưng sâu trong đó là nỗi niềm âm thầm của tác giả.
ka no ato Dấu muỗi đốt 蚤の跡
sore mo kawaki wa trên làn da thanh xuân それも若きは
utsukushiki đẹp xinh ửng hồng. 美しき
(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)
Đọc vào ta thấy sự tươi vui, đùa giỡn của Issa, nhưng sâu thẫm bên trong là
nỗi buồn thương cho vạn vật, cho con muỗi đốt mình. Con vật nhỏ bé, loài vật có
hại, nhưng chính nó cũng mang trong mình một cuộc sống. Nó đốt người tìm máu
nuôi thân cũng như chính con người tàn hại bao sinh linh cũng chỉ để nuôi bản
thân mà thôi. Ý niệm về vạn vật hữu linh hiện lên sau những lời hí hững đó là cả
một ý vị Thiền mà ta phải suy ngẫm. Okashimi đa dạng và biến hình theo từng
50
trường hợp, nên trong thế giới haiku dễ dàng bắt gặp nó qua ngòi bút của nhiều
tác giả, làm cho haiku trở nên phong phú và đang dạng hơn về tầng ý nghĩa cũng
như nghệ thuật cấu thành.
Shibusa là danh từ hóa từ tính từ shibui 渋い với ý nghĩa là vị chát, thường
dùng trong đời sống hằng ngày, bên cạnh đó shibui còn là một từ đa nghĩa nên nó
mang nhiều tầng nghĩa và sắc thái khác nhau tùy theo từng trường hợp. Shibusa
dùng để chỉ vẻ đẹp trong đời sống và cả nghệ thuật, nên trở thành một danh từ
thông dụng và giữ nguyên bản thể không thể chuyển đổi sang ngôn ngữ khác.
Tổng quát hơn để hiểu rõ shibusa là tinh thần cốt lõi của mỹ học Nhật Bản kết tinh
bằng sự đơn giản, mộc mạc. Có thể nói, shibusa biểu hiện ở khắp các loại hình
nghệ thuật ở Nhật Bản, có thể bắt gặp nhiều nhất trong kiến trúc, nghệ thuật gốm
sứ, trà đạo và đặc biệt là thơ haiku. Shibusa thể hiện tinh thần kề cận và hòa hợp
với tự nhiên, ngắm nhìn thiên nhiên một cách tinh tế và đưa thiên nhiên trở thành
người bạn với con người.
Trong haiku, shibusa thể hiện một cách giản dị nhưng đầy tinh tế, trước hết
có thể thấy ở thể thơ và cách sử dụng ngôn từ một cách nghiêm ngặt. Xuất phát từ
ảnh hưởng của tranh thủy mặc với quan niệm giản đơn nhưng tràn đầy ý nghĩa,
shibusa đã vẽ nên một bức tranh trong thơ haiku cực kì đơn sơ, bên cạnh đó là một
góc quan sát cực kì tinh tế:
utsukushi ya Đẹp vô cùng 美しや
shoji no ana no nhìn qua, ô cửa rách 障子の穴の
ama no kawa ô kìa sông Ngân. 天の川
(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)
Hay bài thơ của Basho về ánh trăng đêm huyền diệu:
51
meigetsu ya Trăng rằm mùa thu 名月や
hokkoku biyori tiết trời Đông bắc 北国日和
sadame naki bất định. 定めなき
(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)
Tất cả sự vật hiện diện điều thật giản đơn qua góc nhìn của tác giả. Issa nhìn
sông Ngân qua lỗ thủng trên ô cửa giấy, Basho ngắm vầng trăng dưới túp lều rách
bên hồ. Trăng và muôn sao là những thứ hiện diện hằng ngày, quen thuộc vào buổi
tối, nhưng khi qua đôi mắt của hai nhà thơ nó trở nên lạ lẫm, bất ngờ khi nhìn thấy.
Có lẽ, tâm hồn phải nhạy cảm, tinh tế mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp thiên
nhiên này. Trong nền trời tối, xuất hiện một cảm thức giản dị, vẻ đẹp đơn sơ, tinh
tế shibusa như vậy mới có thể xuất hiện sông Ngân và vầng trăng trong đêm mùa
thu.
Khác với quan niệm về cái đẹp của phương Tây – vẻ đẹp hoành tráng, hoa
lệ, người phương Đông đặc biệt là người Nhật Bản lại yêu thích vẻ đẹp nhẹ nhàng,
đơn giản, nhỏ bé của vạn vật tự nhiên. Vì thế tất cả các cảm thức mĩ học của người
Nhật đều xoay quanh cái đẹp bình dị, tâm trạng sâu lắng, niềm bi cảm trước vũ trụ
bao la và những kiếp đời nhỏ bé.
52
TIỂU KẾT 1
Ở chương 1, chúng tôi đã khái quát lại và cố gắng bao quát về mặt lý luận
những vấn đề liên quan đến quá trình phát triển thơ haiku qua các thời kì. Thơ
haiku được xây dựng trên loại hình thơ ca truyền thống waka đến renga rồi định
hình và phát triển độc lập ở thời Basho với tên gọi hokku. Quá trình đó được giải
thích rõ thông qua việc giới thiệu, phân tích cấu trúc, đặc điểm loại hình haiku. Từ
đó, người đọc có thể tiếp cận haiku một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. Ngoài ra,
chúng tôi còn xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cách tân văn học Nhật
Bản nói chung và thơ haiku nói riêng. Công cuộc cải cách lớn nhất xảy ra vào thời
Meiji với các nhân tố ảnh hưởng chính là sự du nhập văn hóa phương Tây, chiến
tranh và quá trình vận động tiếp thu văn học phương Tây của nền văn học Nhật
Bản. Thơ haiku chịu nhiều ảnh hưởng về mặt lý luận từ cuộc vận động đó, là tiền
đề cho công cuộc cải cách sau này.
Trong chương này, chúng tôi còn đề cập đến các đặc điểm nghệ thuật của
thơ haiku như cấu trúc cơ bản 5-7-5, kigo (quý ngữ) và kidai (quý đề), kire-ji (từ
ngắt) đặc biệt là các phạm trù mỹ học cơ bản hình thành và phát triển trong thơ
haiku. Nhằm mục đích để người đọc có thể hiểu rõ đặc trưng nghệ thuật thơ haiku
qua việc nắm được các khái niệm then chốt của “mĩ học Thiền”. “Mĩ học Thiền”
như cội nguồn của các phạm trù mĩ học, có sự tác động lớn trong quá trình hình
thành ý thức, sự cảm nhận và quy chiếu sự vật hiện tượng. Từ đó định hướng cách
nhìn nhận các bước cách tân nghệ thuật. Các phạm trù mĩ học là yếu tố quan trọng
trong thơ haiku, mang lại màu sắc khác biệt cho thể loại thơ này. Ở mỗi thời kì,
các cảm thức, phạm trù mĩ học được xây dựng và thay đổi, vận động,... từ đó hoàn
thiện hơn về quan niệm thẩm mĩ, góp phần kiến tạo nền mĩ học Nhật Bản.
53
Từ chương 1, chúng tôi xây dựng tiền đề để triển khai các chương còn lại,
giúp người đọc có thể nắm bắt được cả quá trình cách tân nghệ thuật của đề tài.
54
CHƯƠNG 2: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI BASHO
2.1. Những chuyển biến và định hướng hình thành nghệ thuật thơ haiku trước Basho
Trước Basho, haiku chưa được định hướng như một thể thơ độc lập mà chịu
ảnh hưởng nhiều bởi renga. Như đã trình bày, haikai no renga bắt đầu hình thành,
phân biệt với renga của giới quý tộc, thượng lưu. Haikai no renga hay gọi tắt là
haikai được sáng tác với ngôn ngữ dung dị, hài hước phục vụ đời sống bình dân.
Người cách tân haiku đầu tiên là nhà thơ Arakida Moritake 荒木田 守武 đã bước
đầu tiến hành tách haiku dần dần ra khỏi renga. Tiếp đó là các trường phái thời
Edo bắt đầu tiến hành công cuộc gầy dựng và phát triển tiếp tục thơ haiku với
nhiều định hướng khác nhau.
2.1.1. Xây dựng nền móng và phát triển thơ haiku Vào khoảng sơ kì Edo, thơ haiku dần tách khỏi renga và bắt đầu xây dựng
loại hình độc lập. Nhiều trường phái thơ haiku ra đời, trong đó tiêu biểu có thể kể
đến hai trường phái lớn là Teimom 貞門 và Danrin 談林派 đã có công hình thành
và phát triển haiku trong bước đầu chập chững. Tuy nhiên, các trường phái tiếp
nối nhau nhưng cũng có nhiều biến đổi đa dạng làm haiku trở nên hoàn thiện hơn
từng ngày.
2.1.1.1. Phái Teimon với xu hướng bảo thủ, tri thức
Dưới sự dẫn dắt của Matsuna Teitoku 松永 貞徳, phái Teimon trở nên lớn
mạnh và hưng thịnh. Xuất thân từ một gia đình thầy dạy renga, Teitoku nhanh
chóng học hỏi và trở thành một thầy dạy renga nổi tiếng. Tuy nhiên định hướng
của ông không ngừng ở phát triển renga mà là phát triển haiku. Ông là người khai
sáng các niêm luật trong thơ haiku với xu hướng mang haiku gần gũi với tầng lớp
bình dân qua hình thức chơi chữ. Với hình thức này, ông đã vận dụng tối đa tính
đa nghĩa của tiếng Nhật để sáng tác haiku nhằm đem lại tiếng cười thi vị, lý thú
55
cho người đọc. Những vần thơ của Teitoku mang tính chất hài hước và nhiều tầng
nghĩa, điều đó đã mang lại một hướng sáng tác thơ haiku mới so với kiểu truyền
thống của đoạn hokku trong bài renga.
shioruru wa Nhợt nhạt しをるゝは
nani ka anzu no cành hoa hạnh 何かあんずの
hana no iro héo tàn2. 花の色
(Matsuna Teitoku) (松永 貞徳)
Với bài haiku này, Teitoku đã dùng hoa hoa hạnh như một hình ảnh cho
mùa xuân tươi đẹp, mùa xuân đầy sức sống. Trong tiếng Nhật, “anzu” vừa có nghĩa
là hoa hạnh, nhưng lại có nghĩa khác là sự âu lo. Như vậy Teitoku đã khéo léo sử
dụng tính đa nghĩa của từ để gieo vào đó ẩn ý của lòng mình. Màu hoa hạnh nhợt
nhạt báo hiệu cho sự chuyển mùa sắp đến, cũng là sự lo lắng của tự nhiên hay
chăng đó là sự lo lắng của cả tâm hồn tác giả. Cái hay ở đây là nhà thơ đã viết bài
haiku này theo hệ chữ hiragana, thể hiện không rõ ý nghĩa của từ “anzu” nên càng
làm cho bài thơ nhiều sự suy đoán, nhiều chiều sâu suy ngẫm, đó là lối chơi chữ
độc đáo trong thơ haiku thời kì này của phái Teimon.
minnahito no Nhà nhà say giấc ban trưa 皆人の
hirune no tane ya bởi đêm qua 昼寝の種や
aki no tsuki trăng thu đẹp quá. 秋の月
2 Người viết có đưa vào một số bài haiku tự dịch, các bài này không đề tên dịch giả, còn lại các bài dịch thơ haiku của dịch giả khác sẽ được đề tên rõ ràng bên dưới.
(Matsuna Teitoku) (Lam Anh dịch) (松永 貞徳)
56
Các bài thơ của Teitoku gây sự liên tưởng mạnh. Ở bài thơ này ta thấy sự
liên kết giữa không gian ban trưa với buổi tối, đó là sự đối nghịch về không gian
vật lý và cả không gian liên tưởng.
Không dừng ở đó, phái Teimon đã xuất bản tập sách mang tên Gosan 御傘
(Cái lọng) gồm 10 tập bao gồm các hệ thống lý luận và quy tắc để viết thơ haiku,
từ đó phổ biến rộng rãi đến quần chúng nhân dân, một phần giúp cho haiku định
hình vị trí độc lập trở thành một thể loại thơ mới. Với định hướng dùng renga là
khuôn thước để sáng tác haiku, cùng sắc thái bảo thủ và tri thức. Việc học theo
renga và waka nhằm đưa haiku lên hàng nghệ thuật đã làm cho phái Teimon dần
đi vào suy thoái và tuột hậu. Đó là nhược điểm lớn nhất mà phái Teimon mắc phải
trong việc đặt nền móng và cải cách haiku. Nhưng chung quy, họ đã góp phần khá
lớn vào công cuộc thúc đẩy sự phát triển thơ haiku bằng hình thức nghệ thuật chơi
chữ độc đáo.
2.1.1.2. Phái Danrin với xu hướng tinh tế, phóng khoáng Khoảng năm 1673, phái Teimon trở nên suy yếu và rơi vào bế tắt vì phong
cách nghệ thuật haiku không còn được ưa chuộng, Nishiyama Soin 西山宗因
(1605-1682) thành lập phái thơ Danrin, với xu hướng phát triển kĩ thuật và cách
tân ngôn ngữ thơ haiku theo hướng tiến bộ bằng những trò chơi trí tuệ. Là một
thầy chuyên dạy kĩ thuật làm thơ haiku, Soin trở thành bậc thầy thơ haiku với
phong cách mới mẻ. Ở Osaka, phái Danrin phát triển mạnh với xu hướng tinh tế
phóng khoáng. Một phần hình thành nên xu hướng này là do người Osaka đang
trong thời kinh tế phát triển, nhân dân no ấm, khí tiết dồi dào nên phong thái ung
dung và cực kì phóng khoáng. Đánh dấu bước chuyển mình ngoạn mục của phái
Danrin là tập thơ Danrin Toppaku in 談林十百 韻 (Âm vực ngàn bài thơ phái
Danrin) của Soin chứng tỏ sự trưởng thành sơ khai của nghệ thuật thơ haiku Nhật
57
Bản. Những bài thơ mà Soin làm ra mang màu sắc thanh nhã và đầy tinh tế, chứng
tỏ sự đóng góp to lớn trong quá trình phát triển thơ haiku của phái Danrin.
sabera koko ni Dưới bóng hoa mơ さればここに
danrin no ki ari trong nhà Danrin 談林の木あり
ume no hana hứng thú, ta làm thơ. 梅の花
(Nishiyama Soin) (Quỳnh Như dịch) (西山宗因)
Hay:
na no hana ya Dưới góc tùng thâm niên 菜の花や
ippon sakishi âm thầm khoe sắc 一本咲きし
matsu no moto một bông cải mỏng manh 松のもと
(Nishiyama Soin) (Lam Anh dịch) (西山宗因)
Khác hẳn với phái Teimon, phái Danrin chủ trương và khẳng định: vô ích
nếu tốn hàng tháng, có thể hàng năm để hoàn thành những bài thơ theo kiểu chuỗi
renga mà Teimon lấy làm khuôn mẫu. Danrin muốn một phong cách nhanh chóng
và chớp nhoáng nhưng vẫn mang được dụng ý nghệ thuật của thơ ca, nên hình
thức thi làm thơ haiku bắt đầu được tổ chức rộng rãi với tiêu chí về số lượng. Họ
không muốn có sự ràng buộc và qui định về đề tài, ngôn ngữ, vị trí trước sau trong
bài haiku, vì thế tất cả dần bị thay đổi. Môn đệ nổi tiếng của Soin là Ihara Saikaku
井原 西鶴 có thể làm gần 23.500 câu thơ trong vòng một ngày đêm, vượt hơn
nhiều lần số lượng thơ mà phái Teimon sáng tác trong một năm. Điều đó chứng tỏ
tài năng thiên bẩm của người làm thơ và đó cũng là một trò tiêu khiển mang tính
chất trí tuệ cao, vì không chỉ nhanh trí mà còn phải nhạy bén, bắt kịp cảm xúc.
Tuy với số lượng lớn như vậy thì chất lượng của các bài haiku không đảm bảo tính
58
đồng đều, nhưng phần lớn các bài thơ đều có giá trị nghệ thuật cao và các biện
pháp nghệ thuật đặc sắc.
haikai no Nín thở 俳諧の
iki no ne tomen trào dâng 息の根とめ
ooyakazu ngàn bài haikai. 大矢数
(Ihara Saikaku) (Quỳnh Như dịch) (井原 西鶴)
Với lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, những bài haiku của Ihara Saikaku mang
tính hóm hỉnh, thu hút người đọc bởi màu sắc mới lại và phóng khoáng trong
những vần thơ. Việc thi thơ với số lượng bài thơ sáng tác ra khá lớn là cho người
sáng tác haiku tập trung và nâng cao trình độ hơn. Từ đó, nghệ thuật thơ haiku
được tăng cấp nhanh chóng và đa dạng, độc đáo hơn. Hay như bài thơ về đêm
pháo hoa của Ihara Saikaku dưới đây đã thấy được phần nào nghệ thuật độc đáo
mang trường liên tưởng phong phú trước cảnh sắc của sự vật.
atagobi no Pháo bông Atago あたご火の
kawarakenage ya như đĩa gốm xoay tròn かわらけなげや
Itamizaka trượt dốc Itami. 伊丹坂
(Ihara Saikaku) (Quỳnh Như dịch) (井原 西鶴)
Những viên pháo hoa bay lên bầu trời, nổ ra thành từng tán tròn như những
chiếc đĩa. Mỗi cái khác nhau, không lặp lại bao giờ , tạo một không gian rực rỡ,
lộng lẫy. Khi pháo hoa tàn, những tán tròn từ từ vỡ ra và rơi xuống, như một cú
trượt dốc dài, tia pháo hoa dần biến mất trong không gian. Những chiếc đĩa pháo
hoa đó xoay tròn, rồi trượt dốc nhưng chính tâm trạng nuối tiếc của tác giả trước
cảnh đẹp chóng tàn. Pháo hoa dẫu đẹp rồi cũng mất, cuộc đời người đẹp rồi dần
phai, quy luật tự nhiên đang bó buộc nó và như bó buộc cả sự vận động không
59
ngừng của thế giới. Làm cách nào để nó tuần hoàn mãi mãi? Không có sự tuần
hoàn mà chỉ có sự phát triển rồi thụt lùi, vươn xa rồi suy thoái. Bài haiku đó cũng
như bức tranh mà Ihara Saikaku đang vẽ về công cuộc chấn hưng và phát triển,
đổi mới thơ haiku từng ngày. Làm cho nó tiến tới hay làm nó phải thụt lùi tuột dốc
đó là trách nhiệm của mỗi nhà thơ phái Danrin, của cả nước Nhật không riêng một
người nào.
Tuy vậy, nhiều môn đồ của phái Danrin vẫn không cam lòng với xu hướng
dùng haiku để mua vui như vậy. Không ngừng ở việc haiku đem lại tiếng cười cho
cuộc sống mà phải phát triển haiku lên một tầng cao mới. Uejima Onitsura 上島
鬼貫(1660-1738) với quan điểm “sẽ không có haikai nếu không nói lên tình thật”
[38; 200], tác phẩm Hitorigoto (Nói một mình) đã đánh dấu phong cách sáng tạo
mới của riêng ông với xu hướng ảnh hưởng của Basho.
2.1.2. Xây dựng nghệ thuật sơ khai và định hình cách viết thơ haiku Nghệ thuật thơ haiku khi mới hình thành còn đơn giản và sơ khai. Người
sáng tác chỉ chú trọng đến sự hài hước, dí dỏm xem haiku chỉ là phương tiện mua
vui. Tập sách đầu tiên qui định về cách viết thơ haiku do Teitoku viết nhưng chưa
thực sự hoàn hảo vì quá dài dòng, gồm 10 tập. Người học haiku khó có thể tìm
hiểu và quá trình tiếp thu chủ yếu từ các thầy dạy haiku.
Ngoài ra, tổng hợp các lý thuyết khác chúng tôi rút ra được cách viết một
bài haiku hoàn chỉnh theo khuynh hướng cổ điển. Khi viết haiku cần chú ý hai yếu
tố, mà theo các thầy haiku truyền dạy là tính khôi hài và nghệ thuật chơi chữ. Ngay
cả Basho một bậc đại sư cũng phải tuân thủ qui định chặt chẽ này. Yếu tố thứ hai
đó là mô hình cấu trúc âm tiết của bài haiku phải chặt chẽ đúng với qui định 5 - 7
- 5. Về sau nhiều nhà thơ đã cải cách mô hình này nhưng đa phần vẫn giữa kiểu
kết cấu ấy trong các sáng tác.
60
Tiếp theo là yếu tố mùa, ở haiku trước Basho chưa thực sự chú ý, mãi đến
Basho ông mới đưa thiên nhiên trở thành đề tài chính để làm tiêu chí nghệ thuật
thơ haiku. Nên yếu tố mùa và các kigo (quý ngữ) là không thể thiếu. Haiku hiện
đại không quan trọng về yếu tố này nhưng nó vẫn là điều kiện bắt buộc trong một
bài haiku truyền thống. Ở phần này chúng tôi chỉ khái quát những điều cơ bản nhất
để hình thành một bài haiku, còn quá trình cụ thể qua các giai đoạn phát triển sẽ
được trình bày trong các phần sau.
Tuy còn sơ khai và thiếu tính chuyên nghiệp, nhưng các nhà thơ giai đoạn
trước Basho đã có công định hình và phát triển các nguyên lý cơ bản cho nghệ
thuật thơ haiku. Bởi, bất cứ một sự thay đổi nào cũng phải dựa trên nguồn gốc
khởi sinh, đó là nền tảng quyết định sự vững chắc của một quá trình dài lâu. Về
sau, các nhà thơ haiku nổi tiếng tạo ra các phong cách mới, khác biệt, đặc sắc
nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bởi các nhà thơ đi trước. Đây là bước đà cơ bản thúc
đẩy haiku bay cao, bay xa hơn trong sự nghiệp đổi mới.
2.2. Basho và những chặng đường đi tìm nghệ thuật thơ haiku
Sinh ra trong một gia đình võ sĩ, Basho được cha mình là Matsuo
Yozaemon chú trọng cho học một thầy renga trong vùng. Năm 19 tuổi, ông viết
những vần thơ đầu tiên về đề tài năm mới, được lưu truyền như một thiên tài thơ
haiku, sự nghiệp thơ ca của Basho bắt đầu từ đó và sau này gắn bó với những
chuyến du hành. Nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Basho, không nhận thấy gì ấn
tượng về số lượng khi ông chỉ để lại khoảng 1000 bài thơ haiku. Có thể thấy, sáng
tác của Basho không nhiều, tập trung vào việc lựa chọn câu chữ, sự tinh tế và cô
đọng đầy triết lý của haiku. Vì thế, thơ haiku Basho đã đạt đến trình độ nghệ thuật
đỉnh cao, mang hơi hướng phi thực. “Lý do là Basho luôn tiến bộ, cho dù đến khi
đã thành danh, ông vẫn không ngừng trau dồi để tìm ra những hướng mới cho
61
thơ” [27; 52]. Với Basho, công cuộc cách tân thơ haiku là một vấn đề lâu dài, cần
sự tìm hiểu và trải qua nhiều thời kì để có thể hoàn thiện nghệ thuật thơ haiku.
Basho đã viết những trang nhật kí đời mình về sự nghiệp đi tìm cái mới cho haiku:
“có lúc cảm thấy mệt mỏi với chuyện làm thơ và cũng muốn từ bỏ, nhưng có lúc
lại muốn trở thành thi sĩ để gầy dựng danh tiếng hơn cả. Sự tranh đấu ấy cứ giằng
co trong tâm trí khiến cuộc đời tôi không bao giờ ngơi nghỉ” [46; 23]. Bởi sự
không ngừng nghỉ đó, Basho trở thành một đại sư thơ haiku và có những đóng góp
to lớn trong quá trình định hình và phát triển haiku cổ điển.
2.2.1. Tiếp biến và khám phá kĩ thuật mới cho thơ haiku Chặng đường đầu tiên của Basho có thể nói là chặng đường quan trọng để
bắt đầu những đổi mới thơ haiku. Ông bị ảnh hưởng đa phần bởi hai trường phái
Teimon và Danrin, nhưng với sự nhạy bén và sáng tạo Basho đã đưa thơ haiku từ
tầm thường, dung dị, trở nên tao nhã, đầy tính triết lý. Quá trình đó phải trải qua
thời gian khá dài cho dù đã thành công với ý muốn mang haiku đạt độ nghệ thuật
bậc thầy nhưng ông vẫn với mong muốn đổi mới thêm nữa.
2.2.1.1. Bước đầu học hỏi và tập tành làm thơ haiku
Sau khi người bạn thân nhất của mình là Todo Yoshitada 藤堂 良忠 mất
năm 1666, Basho rời bỏ cung điện để đến Kyoto học tập và tìm hiểu nghiên cứu
văn học cổ Nhật Bản. Ở đây, ông được tiếp xúc với nhiều luồng tư tưởng mang
hơi hướng Trung Hoa. Tuy nhiên, xu hướng thơ quốc âm vẫn ảnh hưởng nhiều
đến ông và ông quyết định trở thành một thầy dạy renku và sau này là haiku. Hình
thức haiku hài hước, mang lối chơi chữ của phái Teimon được Basho tiếp nhận và
bắt đầu sáng tác trên khuôn mẫu và những qui định của phái. Haiku Basho viết ra
tuy theo khuôn sáo ấy, nhưng từ ban đầu đã pha vào đó phong thái của chính nhà
thơ.
62
haru ya koshi Đêm trừ tịch 春や来し
toshi ya iki ken năm cũ bước qua 年や行きけん
kotsugo mori mùa xuân chớm dậy. 小晦日
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Bài thơ này là kết quả của sự khuôn thước trong lối viết haiku của phái
Teimon mà Basho đã được người thầy Kitamura Kigin 北村 季吟 – một nhà thơ
lừng danh ủng hộ xu hướng haiku Teimon, dạy dỗ. Hình ảnh trong bài thơ quá cũ
đối với thi ca Nhật Bản. Ở đây, Basho thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của mình
trước thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Nhưng trước đó, nhiều nhà
thơ khác đã đưa hình ảnh này vào các bài tanka với ý vị giống hệt bài thơ haiku
đầu tiên mà Basho sáng tác này. Như vậy, phái Teimon đã không đem lại sự mong
muốn cho Basho trong công cuộc trở thành một thầy haiku xuất sắc. Ông quan
niệm, cứ mãi đi theo cái cũ sẽ có một ngày haiku là những bài thơ sáo rỗng, như
những món hàng sản xuất hàng loạt và giống y chang nhau về chất lượng, không
có sự vượt bậc.
Lối chơi chữ của phái Teimon vẫn bám chặt lấy các sáng tác của Basho
trong khi ông đang cố tìm một hướng mới cho haiku.
ubazakura Hoa đào cằn cỗi 姥桜
saku ya rogo no nở rồi lại tàn 咲くや老後の
omoide nhớ thương. 思い出
(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)
Không chỉ có lối chơi chữ phong phú, Basho còn đang đưa sự châm biếm
sâu cay vào chính bài haiku của mình. Cây anh đào già nở hoa trong sự cằn cỗi để
nhớ về ngày xa xưa, hình ảnh đó gợi lại hình ảnh những người phụ nữ quá tuổi
63
nhưng vẫn cố chăm chút giữ cho mình nét thanh xuân. Tiếng cười bật ra qua hàm
nghĩa ẩn khuất là không gian mới để bài thơ trở nên sâu hơn về mặt ý nghĩa và có
sự dàn trải hơn về mặt nghệ thuật câu từ.
Không chờ đến khi gặp tư tưởng phái Danrin, Basho mới có sự sáng tạo, mà
ngay cả khi ở trong sự gò bó đặt nặng về vấn đề kĩ thuật, ta vẫn thấy Basho dần
trưởng thành hơn trong cách sáng tác thơ haiku của mình. Điều đó có thể thấy rõ
qua hợp tuyển thơ haiku Kai Oi (Trò chơi của sò) năm 1672 của ông và các đồng
môn dâng tặng đền ở Ueno. Trong đó, một số bài haiku đã thấy rõ sự đổi mới của
Basho mà ít có môn đồ nào của phái Teimon làm được.
kitemo mi yo Cứ mặc thử xem きてもみよ
jinbega haori chiếc áo 甚べが羽織
hanagoro mo mùa hoa anh đào. 花ごろも
(Matsuo Basho) (松尾芭蕉)
Bài thơ là sự tinh tế với lối chơi chữ đầy nghệ thuật của Basho. Thơ haiku
Basho giảm dần sự miêu tả và tăng thêm phần gợi. Bằng những vần thơ nhẹ nhàng
hơn, không đặt nặng vấn đề kĩ thuật nhưng lại mang ý nghĩ gợi tả sâu lắng. Từ
“kite” mang nghĩa “đến đây” và vừa mang nghĩa “mặc”. Lối dùng từ đồng âm của
phái Teimon đã có từ lâu nhưng khi qua bàn tay của Basho dừng như ý nghĩa đó
tăng lên một tầng bậc mới không đơn thuần là hai nghĩa trái ngược nhau. Đọc bài
thơ, ta liên tưởng ngay đến sự hào hứng chờ đợi của con người khi chuẩn bị ngắm
hoa anh đòa. Những chiếc áo “hanagoromo”biểu trưng cho ngày hội ngắm hoa,
đây có lẽ là những kigo đầu tiên trong thơ haiku của Basho. Đó là những bước
manh nha trong chặng đường đổi mới thơ haiku của ông.
64
2.2.1.2. Quá trình nghiên cứu và khám phá kĩ thuật mới Như đã trình bày, Basho không chịu sự gò bó về kĩ thuật và khuôn sáo trong
thơ haiku của phái Teimon. Ông tiếp tục chặng đường đến với haiku bằng cách rời
Kyoto. “Thời kì quá độ từ khuynh hướng làm dáng và cơ trí qua đến nụ cười có
tính cách bình dân của Basho có lẽ chỉ xảy ra sau khi ông đặt chân đến Edo” [27;
61]. Ở đây, ông lại tiếp tục học thơ haiku và bắt đầu chịu ảnh hưởng bởi phái
Danrin với xu hướng dùng khẩu ngữ mang tính chất hài hước. Từ đó, Basho bắt
đầu sáng tác theo khuynh hướng của phái Danrin. Các bài haiku đầu tiên của ông
ở Edo đã nói lên điều đó.
neko no tsuma Chị mèo cái kia đang 猫の妻
hetsui no kuzure yori trèo qua gian bếp sập 竃の崩れより
kayoi keri để đến thăm anh chồng. 通ひけり
(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)
Lấy ý từ Ise Monogatari 伊勢物語 (Truyện Ise), nhưng đáng lẽ ra phải là
một cuộc tình lãng mạn giữa một vương tử và một cô gái khi họ lén lút gặp nhau
trong đêm khuya, Basho lại đem chuyện đó ra làm một trò cười để bỡn cợt xã hội.
Thế giới loài mèo chỉ có con cái đi tìm con đực và xã hội loài người cũng đang
sắp chuyển thành thế giới mèo khi những bà quý tộc lén lút đi tìm những chàng
trai trẻ. “Kĩ thuật ẩn dụ và chơi chữ vẫn được dùng nhưng không phải để khoa
trương cái cơ trí (wit) của con người mà chỉ nhằm bộc lộ tính hài hước do sự
tương phản nằm trong những chủ đề thế tục thường nhật” [27; 62]. Basho phát
triển haiku kiểu so sánh và ẩn dụ chơi chữ với nhiều hình thức đa hợp khác nhau
tạo nên độ hứng thú cho những bài thơ đó.
65
sokai no Kìa trên mặt biển xanh 蒼海の
nami sake kusashi sóng cùng nồng men rượu 浪酒臭し
kyo no tsuki giống vầng trăng đêm nay. 今日の月
(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)
Ở đây, phép so sánh (như các biện pháp nghệ thuật) đã được Basho sử dụng
làm nên một bức tranh mang ý nghĩa nhẹ nhàng, thanh thoát. Chén rượu như vầng
trăng, mặt biển in bóng sáng. Tất cả được ví von so sánh với nhau như thể hòa vào
cùng nhau. Người trên thuyền ngắm trăng bên chén rượu, trăng vô tình đọng lại
chén rượu cay, lòng người cũng cay theo men rượu. Không dám uống cũng bởi sợ
mất ánh trăng vàng, và uống rồi chén rượu lại thành vầng trăng. Bài thơ như làn
khói nhẹ đêm trăng phủ lấy tác giả, mơ mơ, thực thực đó là nghệ thuật Basho đã
dùng cho haiku.
Còn nói đến thủ pháp ẩn dụ, ta thấy rõ qua bài thơ sau:
kiku no ka ya Ở cố đô Nại Lương 菊の香や
Nara ni wa furuki hoa cúc và tượng Phật cổ 奈良にわ古き
hotoketachi ngào ngạt hương. 仏たち
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Hình ảnh trong bài thơ dường như không mấy liên quan với nhau, nhưng ta
có thể thấy những hình ảnh đó lại mang ý nghĩa ngầm ẩn khác. Cố đô và hoa cúc
là hai hình ảnh đối chọi và va chạm lẫn nhau nhưng nó lại tạo ra thủ pháp đặc biệt
cho bài thơ. Hoa cúc được ngầm hiểu là sự trường thọ (quan niệm của người Nhật
Bản), cố đô Nại Lương 奈良(Nara) một thời huy hoàng Phật giáo, một điểm sáng
của dân tộc Nhật. Cả hai hình ảnh là sự bổ sung cho vẻ hưng thịnh của những
vương triều cũ nơi cố đô, từng có một thời hùng mạnh và thịnh vượng cũng như
66
đóa cúc “ngạt ngào hương” bên tượng Phật cổ. Khi đọc bài thơ này, nếu không
ngầm hiểu ẩn ý bên trong thì khó có thể hiểu hết được dụng ý của tác giả đưa vào
đó.
Tuy nhiên, một thời gian sau, Basho nhận thấy sự cười cợt và trào phúng
mang tính chất giải trí của phái Danrin không phù hợp với lý tưởng, con đường
thơ của ông. Basho bắt đầu chuyển sang một khuynh hướng khác, đây có thể xem
là cột mốc chính thức để Basho khẳng định phong cách thơ haiku của mình. Các
bài thơ của Basho không còn hoặc mang rất ít tính giải trí hoa lệ kiểu thị thành,
mà dần trở nên lắng đọng và buồn hơn. Khác với phái Danrin, cơ bản dùng kigo
(quý ngữ) như một lối chơi chữ thì đối với Basho đã sử dụng kigo như một chiếc
chìa khóa để mở bài haiku. Ông đã rất tinh tế vận dụng và phối hợp tính tao nhã
trong renga (phái Teimon) và tính khôi hài (phái Danrin) để tạo nên một phong
cách nghệ thuật mới cho thơ haiku. Quý ngữ bắt đầu được chú trọng đến và có vai
trò thiết yếu trong một bài haiku.
yoru hisokani Con sâu lặng yên 夜ル竊ニ
mushi wa gekka no ăn mòn hạt dẻ 虫は月下の
kuri wo ugatsu trong đêm trăng huyền. 栗を穿ツ
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Bài thơ không mang tiếng cười, nhưng mang đầy tính triết lý và nghệ thuật.
Không gian không còn rộn ràng kiểu thành thị mà bây giờ là thiên nhiên tĩnh lặng.
Kuri (ánh trăng) quý ngữ chỉ mùa thu dường như trở thành thiên nhãn của bài thơ
chiếu rọi nghệ thuật toàn bài. Không gian quạnh hiu có lẽ là hạt mầm lý tưởng
nhất để Basho phát kiến thành cảm thức sabi sau này. Sự vật bé nhỏ, không gian
bao la như bao trùm lấy kiếp đời ấy, đó là tình thương, đó là sự thật cuộc sống.
67
Bởi haiku là tiếng nói cõi lòng của tác giả về cuộc đời chứ không phải là một thứ
văn chương cung đình như thơ ca quốc âm nữa.
Trong giai đoạn này, dường như Basho đã chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi
văn học Trung Quốc, đặc biệt là Đường thi. Nên haiku của Basho có phần trang
trọng hơn khi dùng nhiều từ Hán. Lối viết haiku với qui định khắc khe 5 – 7 – 5
cũng được chính bậc đại sư thơ haiku này biến đổi và có phần thoáng hơn các qui
định cũ. Nhiều bài thơ haiku sau này được ông viết theo phong cách phá vỡ qui
tắc, vượt quá 17 âm tiết nhưng vẫn đảm bảo một bài haiku hoàn thiện và có phần
độc đáo hơn. Bài thơ sau đây được sáng tác theo lối viết đó:
ro no koe Dạ rét căm căm 櫓の声
namida wo utte harawata kooru tiếng chèo khua sóng 波をうって腸氷る
yo ya namida nước mắt và bóng đêm. 夜や涙
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Với cách sáng tác bất qui tắc 4 – 13 – 5, Basho đã phá vỡ khuôn mẫu của
một bài haiku truyền thống, mà sau này các nhà thơ haiku hiện đại sử dụng rất
nhiều thể loại haiku dư từ này.
Như vậy, thơ haiku của Basho dần dần có những định hướng đổi mới, làm
bàn đạp cho sự cách tân vượt bậc mà khó có thi sĩ nào làm được, đó là đưa nghệ
thuật haiku lên đỉnh cao nghệ thuật. Basho đã bắt đầu chinh phục ước mơ mà ông
dường như bỏ dở trong thời niên thiếu, và giờ Basho trở thành một thầy dạy haiku
danh tiếng.
68
2.2.2. Hình thành phong cách riêng, đưa haiku lên đỉnh cao nghệ
thuật
Với ý chí quyết tâm không để thơ haiku phải “ngừng nghỉ” và chính bản
thân cũng không dừng tiến bộ. Basho trở thành một lữ nhân trên con đường mang
thơ haiku đi khắp nước Nhật. Có lẽ, những chuyến đi là cảm hứng hình thành nơi
thi sĩ. Giai đoạn vào khoảng những năm 1680 “là giai đoạn chuyển tiếp khi ông
làm lung lây cấu trúc thi ca có sẵn để hướng đến một sắc thái riêng biệt cho thơ
mình” [27; 72]. Với thi phẩm Nozarashi kiko 野ざらし紀行 (Dọc đường mưa gió,
1685), Basho đã đánh dấu bước khởi đầu trong phong cách riêng biệt và sau đó là
đưa haiku đến nghệ thuật đỉnh cao.
2.2.2.1. Các định hướng cho phong cách mới
Năm 1680, bên dòng sông Sumida, túp lều cỏ được dựng lên, bên cạnh là
cây chuối do một đệ tử trồng tặng cho Basho. Bút danh Basho ra đời từ đó. Quá
trình ở Basho –an (Ba Tiêu am), phong cách thơ Basho có phần dịch chuyển về
đề tài thiên nhiên. Bài thơ đầu tiên về nơi đây được ông sáng tác:
te wo tateba Tôi vỗ bàn tay 手を打てば
kodama ni akaruku dưới trăng mùa hạ こだまに明くる
natsu no tsuki tiếng dội về, ban mai! 夏の月
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Tiếng vỗ tay vọng về trong đêm tĩnh mịch, tâm hồn Basho như bị dao động
bởi âm thanh bàn tay. Dưới ánh trăng, sự tịch liêu thẫm thấu vào không gian, chỉ
có nhà thơ và cảnh vật, Basho như đốn ngộ đời mình với vạn vật tự nhiên, đốn ngộ
lòng mình với một phong cách mới, xu hướng viết về thiên nhiên và bắt đầu chú
trọng kigo (quý ngữ) như một hình thức nghệ thuật ngôn ngữ đặc thù. Và khung
cảnh gần lều cỏ bước vào bài thơ:
69
basho no waki shite Cây chuối bão giông 芭蕉野分して
tarai ni ame wo nghe mùa thu nhỏ giọt 盥に雨を
kiku yo kana nửa đêm vào bồn. 聞夜かな
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Sự chuyển biến của thiên nhiên là động cơ và trở thành chất liệu cho thơ
haiku của Basho. Nhưng chung quy lại, thơ haiku của Basho vẫn còn xu hướng
tách rời chưa thực sự thống nhất về phương diện nghệ thuật. Tiêu biểu là thơ ông
đi theo ba khuynh hướng cơ bản: thơ lấy cảm hứng từ thơ ca Trung Quốc; thơ sử
dụng kỹ thuật đối chiếu tức thời và thơ hướng đến thiên nhiên.
Trong thi tập Minashiguri (Hạt dẻ rỗng), nhiều bài thơ bị ảnh hưởng sâu sắc
từ thơ ca Trung Quốc. Basho sau khi rời khỏi lâu đài nơi mình làm việc, chu du
khắp nơi và điều ông tiếp thu đó là tư tưởng Trung Hoa.
Có thể nói, tinh hoa của Basho hun đúc trong giai đoạn này nằm ở phong
cách thơ sử dụng hình ảnh đối chiếu tức thời. Có lẽ, đây là nghệ thuật đặc sắc nhất
trong thơ haiku mà Basho đã mất một thời gian dài nghiên cứu và sáng tạo ra nó.
Nghệ thuật này cũng cho thấy nội lực của một Basho có cảm quan tinh nhạy và
yếu tính trực cảm sâu xa từ bên trong. Ở giai đoạn trước, chưa thấy một nhà thơ
nào, hoặc chăng có cũng chỉ mang ý nghĩa hình thức và vô tình sử dụng hình ảnh
đối chiếu. Còn đối với Basho, đó là sự cố tình tạo nên hình ảnh đối chiếu, có chủ
đích và định hướng sáng tạo.
hana no kumo Từ đám mây hoa 花の雲
kane wa ueno ka tiếng chuông vọng lại 鐘わ上野か
asakusa ka? chùa Uneno hay Asakusa? 浅草か
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch)
70
(松尾芭蕉)
Khi đọc bài haiku trên, dường như có sự không liền mạch giữa các hình ảnh
“đám mây hoa” và “tiếng chuông chùa”. Nhưng chính sự gấp khúc trong không
gian bởi hai hình ảnh đó làm cho bài thơ trở nên sâu sắc và mang thêm sự nghi
vấn. Bằng chứng rõ ràng là khi hai hình ảnh này tạo nên trong cùng một không
gian, nhà thơ cũng không thể phân biệt được Uneno hay Asakusa, có lẽ bởi sự
trùng hợp đáng lạ thường của sự vật. Đám mây hoa là đám mây đang bay giữa trời
hay cũng có thể là đám mây do những cánh anh đào rơi tạo nên và cũng là đám
mây tươi đẹp trong lòng người thi sĩ. Tiếng chuông chùa vang vọng, âm thanh như
một điểm nhấn mạnh làm thức tỉnh bầu không gian mơ hồ để chợt nhận ra trong
lòng đang mang nghi vấn. Cùng một hình thức nghệ thuật sử dụng hình ảnh đối
chiếu đột ngột nhưng mỗi bài haiku đều có những màu sắc và phong vị riêng,
chứng tỏ sự vận dụng nghệ thuật khéo léo của Basho.
tsutsuji ikete Hoa đỗ uyên trên bàn 躑躅生けて
sono kage ni hidara dưới bóng hoa その陰に干鱈
saku onna một chị ngồi xẻ cá. 割く女
(Matsuo Basho) (松尾芭蕉)
Hay:
kimi hi wo take Cời lửa lên đi 君火をたけ
yoki monomisen món quà của tôi rất tuyệt よきもの見せむ
yuki maroge quả cầu tuyết đây! ゆきまろげ
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Hàng loạt hình ảnh được Basho chồng chất lên nhau tạo sự sinh động và ý
nghĩa sâu thẳm cho các bài haiku. “Hoa đỗ uyên” và “cá khô”; “ngọn lửa” và “cầu
71
tuyết” tất cả dường như chẳng liên quan nhưng qua bàn tay nghệ thuật của Basho,
tất cả vừa khít với nhau như một sự sắp đặt của tạo hóa. Basho đã thành công trong
biện pháp nghệ thuật mới của mình.
Đến xu hướng thơ thứ ba, đây là xu hướng gắn bó với Basho đến cuối đời.
Không mang ý vị thơ Trung Quốc, hình ảnh không chồng chất, đối sánh với nhau,
mà ở đây mang hơi thở đơn sơ, tự nhiên, mộc mạc nhất. Bài thơ tiêu biểu trong xu
hướng này có thể kể đến bài cánh quạ:
kare eda ni Trên cành khô 枯れ枝に
karasu no tomari keri cánh quạ đậu 烏のとまりけり
aki no kure chiều thu. 秋の暮れ
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Bài thơ là hiện thân của sự giản đơn, tự nhiên đến tuyệt đối. Có thể bài thơ
bị ảnh hưởng bởi phong cách tranh thủy mặc Trung Hoa, với phông nền trắng đen.
Cánh quạ dường như bất động trong ánh sáng cuối ngày của mùa thu. Cánh quạ
nhỏ nhoi như một chấm đen ngưng tụ cả không gian và thời gian trong ấy. Sự dừng
lại, sự nghỉ ngơi tĩnh tại của vạn vật tạo ra một không gian im lặng của đất trời và
tâm thế con người. Bài thơ mang một ý vị Thiền sâu xa trong sự ngưng đọng và
dừng lại ấy. Vạn vật, từ cái nhỏ bé đến cái vô cùng, cái thiên thu và khoảnh khắc,
cái động lẫn tĩnh…tất cả đều hiện hình trong bức tranh mùa thu, như “chân như”
của ba ngàn thế giới. Một tầng bậc nghệ thuật mới của Basho lại được phát triển
trên phong nền thiên nhiên mà ông thường sử dụng. Trước thời Basho, các nhà thơ
haiku cũng viết nhiều về thiên nhiên, nhưng không đạt được sự tao nhã và thuần
khiết tinh túy như Basho.
72
kogarashi no Gió heo may 凩の
ate wa arikeri thiên điểu kéo bầy 果はありけり
umi no oto biển rì rào. 海の音
(Ikenishi Gonsui) (Quỳnh Như dịch) (池西言水)
Tuy là người theo phong cách tiêu phong của Basho, nhưng các bài thơ về
thiên nhiên của Gonsui vẫn chưa thể hiện được sự tinh tế về mặt hình ảnh và đa
dạng về mặt kỹ thuật như Basho. Có thể thấy qua một số bài haiku sau:
yamaro kite Màu hoa tầm xuân 山路来て
naniyara yukashi trên con đường núi 何やらゆかし
sumiregusa níu hoài bước chân. すみれ草
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Và:
kumo to hedatsu Mây nghìn trùng 雲とへだつ
tomo ka yakari no bằng hữu và chim én 友かや雁の
ikiwakare cuộc sống đầy chia ly. 生き別れ
(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)
Qua những bài haiku đó, chứng tỏ khi viết về thiên nhiên qua những chuyến
du hành, Basho đã hình thành cách viết với mẻ, thoát khỏi sự khuôn mẫu của phái
Teimon, bổ sung vào sự tinh tế, nhẹ nhàng của phái Danrin và hình thành nên
phong cách riêng cho bản thân mình. Có thể nói, ở giai đoạn này phong cách Basho
shofu 松風 (tiêu phong) gần như hoàn thiện nhất về mặt nghệ thuật thơ haiku, là
bước đà để Basho tiếp tục phát triển nghệ thuật thơ haiku đến độ toàn mĩ và đạt
đỉnh cao trong con đường thi đạo. Bởi nó “không đề cao mức sống trên ý nghĩa
73
của hiện đại. mà là chỉ cho một thứ “ưu nhã của cuộc sống”. Nó trông mong vào
cái đẹp của “cô tịch”, “nhàn tịch” để hưởng thụ cuộc sống tự nhiên thuần túy”
[12; 222].
2.2.2.2. Nghệ thuật thơ haiku đạt đến đỉnh cao
Với Basho, cuộc đời là những chuyến hành trình để thỏa mãn niềm khát
khao của bản thân. Và những chuyến hành trình đó không bao giờ dừng lại, đó
cũng là nơi sản sinh ra những xu hướng thơ haiku mới. Vì còn đi là còn sáng tạo.
Còn đi là còn khao khát thấu hiểu, khám phá bản thân mình. Có thể thấy, những
cuộc hành trình từ năm 1686 đến 1691 là đỉnh cao cho phong cách thơ haiku của
Basho. Đó là sự trải nghiệm sâu sắc và trưởng thành phong cách Basho. Những
tác phẩm ông để lại chứng minh rất rõ cho điều đó như: Haru no hi 春の日(Ngày
xuân, 1686), Kashima kiko 鹿島紀行 (Nhật kí kỉ hành Kashima, 1687), Oi no
kobubumi 笈の小文 (Văn ngắn trong chiếc gùi, 1688), Arano 阿羅野 (Cánh đồng
không, 1689), Oku no hosomichi 奥 の 細 道 (Nẻo đường Đông Bắc, 1689),
Sarumino 猿蓑 (Áo tơi cho khỉ, 1691), Saga nikki 嵯峨日記 (Nhật kí Saga,
1691),..
Có lẽ, tư tưởng Thiền tông mà Basho học được từ thầy của mình là nhà sư
Butcho đã phát tán và ảnh hưởng mạnh mẽ thơ ca ông trong giai đoạn này. Sự u
hoài, tĩnh mịch, vô thường của cuộc sống dần được Basho đưa vào các thi phẩm
của mình. Thơ haiku của Basho đã tinh tế và đặc sắc nay lại khoác thêm tấm áo
thanh cao hơn và đẳng cấp hơn. Theo xu hướng “sắc tức thị không, không tức thị
sắc” thơ haiku Basho bắt đầu sử dụng những khoảng trống, hình ảnh giản đơn để
tạo ra ấn tượng âu sắc nhất. Tiếp tục phát huy xu hướng ở thời kì trước với tinh
thần hướng về thiên nhiên vạn vật, Basho chuyển hóa những hình ảnh tầm thường
ấy trở nên thanh cao và vô thượng. Haiku của Basho giai đoạn này có thể nói là
74
thoát ly hẳn trần tục, không còn là hình thức mua vui cho tầng lớp bình dân mà trở
thành một thể thơ có giá trị tinh thần cao cấp, mang tính nghệ thuật đặc sắc. Điểm
đặc biệt đánh dấu cho một shofu phong nhã và thấm đẫm tư tưởng Thiền là việc
đưa cảm thức sabi vào thơ haiku. Sabi trong thơ haiku là phạm trù mĩ học xuất
phát từ hai tính từ: sabishi(寂し) và shizuka (しずか) . Việc sử dụng dày
đặc các từ này trong thơ đã làm cho haiku Basho trong thời kỳ này có một phong
vị tĩnh tại, sâu lắng riêng. Đó là một phong cách haiku khác biệt mà chưa bao giờ
bắt gặp như là một tư tưởng trong thơ haiku ở các nhà thơ trước.
shizukasa ya Vắng lặng u trầm 閑さや
iwa ni shimiiru thấm sâu vào đá 岩にしみ入る
semi no koe tiếng ve ngâm. 蝉の声
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Đây là bài thơ tiêu biểu cho chất sabi ấy của Basho. Không gian dần được
gợi mở để âm thanh len vào. Mượn cảm giác của âm thanh gợi tả sự tịch liêu, yên
ả. Tâm hồn con người như hòa vào sự im lặng lạ thường của không gian, sự vô
thường của cuộc đời xuất hiện trong tiếng ve ngâm dài (ve ngân vang rồi sẽ chết).
Cảm giác nhân sinh từ đó bộc phát trong cõi lòng để Basho ghi lại những khoảnh
khắc ấy qua thơ haiku. Hay những bài thơ đầy chất sabi sau:
sabishisa ya Cô liêu 桜しさや
kabe ni taketaru lồng treo trên vách 壁にたけたる
kirigirisu một con dế kêu. きりぎりす
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Hay:
75
hototogisu Tiếng chim quyên ホトトギス
kieyuku kata ya tan dần về phía 消え行くかたや
shima hitotsu đảo cô liêu. 島一つ
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Basho đã nâng những bài haiku thường nhật dùng để chế giễu, cười cợt
thành Thi Đạo. “Đấy là con đường thơ ca đi giữa cuộc đời, ghi nhận những dấu
vết nhỏ nhoi tình cờ mà kỳ diệu, bí ẩn của thiên nhiên” [39; 190]. Nói như vậy để
hiểu rõ về “cái không khí cô quạnh hay lặng lẽ đã được tạo ra khi những sinh vật
nhỏ nhoi ấy đóng nốt vai trò số phận của cuộc đời chúng trong cái bao la của vũ
trụ” [27; 87]. Basho bây giờ không đơn giản ghi lại những khoảnh khắc tức thời
đấy mà đang đi tìm cho chúng một cuộc sống, thổi vào cho chúng một linh hồn.
Năm 1686, trở về lại Edo, Basho đã viết những vần thơ ngắn gọn nhưng
mang tính triết lý sâu xa. Bài thơ ấy là tuyệt tác minh chứng cho một bậc đại sư
đã và đang hoàn thành chặng đường phong cách nghệ thuật của chính mình.
furu ike ya Ao cũ 古池や
kawazu topikomu con ếch nhảy vào 蛙飛びこむ
mizu no oto vang tiếng nước xao. 水の音
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Theo như Hiekata Tomizo “cái mĩ học tĩnh lặng của Basho” đã đạt đến đỉnh
cao trong bài thơ này và “thể hiện được cái đẹp trong cái tĩnh mịch nhất”. Bài thơ
là bức tranh về một tiểu vũ trụ bên trong đại vũ trụ. Tiếng thủy âm như một điểm
nhấn không lời, diễn tả xuất sắc cái động trong cái tĩnh. “Không có âm thanh ấy
thì Ba Tiêu không thể nào thấu triệt được một thứ: vừa là nguồn hoạt động sáng
tạo, vừa là cảnh giới vô thức” [12; 202]. Cả không gian dường như vang lên bởi
76
tiếng nước nhẹ nhàng, sự vật đang im lìm bỗng xáo động bởi bước nhảy của con
ếch. Vạn vật như chuyển mình thức dậy sau sự tác động nhỏ bé, tâm hồn thiên
nhiên dồn tụ nơi cái ao cũ bao ngày bừng ngộ trong tiếng thủy âm vĩnh cửu và tịch
mịch. Bởi “tính cách đặc trưng của haiku Basho là chuẩn bị cho chúng ta hướng
đến cái tình cảm siêu thoát đó” [27; 88].
Và “trong bài thơ Hài cú chỉ có mười bảy con chữ, lại biểu hiện được chân
lý trực giác sâu sắc nhất. Chân lý trực giác đó đặc biệt độc đáo như thế, mà thậm
chí đến cái thể hệ lý luận đường hoàng nhất, cũng không thể giải thích nổi về nó”
[12; 204].
horo horo to Âm thầm không tiếng vang ほろほろと
yamabiki chiru ka rơi bao cánh chùm vàng 山吹散るか
takino oto bên bờ thác nước réo. 滝の音
(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)
Cái tịch liêu không chỉ biểu hiện khi có tính từ sabishi mà còn biểu hiện bên
trong những bài thơ, đó là cách biểu hiện ngầm. Như bài thơ trên, sabi không xuất
hiện trên câu chữ mà lại xuất hiện qua các hình ảnh. Tưởng chừng nó là những
cánh tường vi vàng đang rơi không tiếng động, nhưng thực chất sabi ở đây là tiếng
thác réo. Vì sao Basho tạo ra được tứ thơ như vậy, có lẽ không gì hợp lí hơn vì
“âm thanh” trong chính tâm hồn thi nhân: thứ âm thanh “tĩnh như không tĩnh, động
như không động” trong lòng người. Âm thanh tiếng thác có hãi hùng, âm vang cỡ
nào thì trong thâm sâu nó vẫn là tiếng thủy âm vô thanh. Có chăng âm thanh đó là
do va chạm vào đá, chứ bản chất của nước là vô thanh, là nhẹ nhàng, khoan lạc.
Cánh hoa tường vi là chìa khóa để mở cánh cửa vô thanh của nước, sự đối nghịch
nhưng hòa quyện ở đây một phần do kết hợp biện pháp nghệ thuật sử dụng hình
77
ảnh đối chiếu đột ngột mà chúng tôi đã nêu rõ ở phần trên. Đó là hệ quả của việc
hòa trộn một cách hài hòa các phong cách để đạt được phong cách hoàn thiện
mang dấu ấn shofu.
“Sabi thời kỳ trung đại được nâng lên tính nghệ thuật, khoác thêm cái đẹp,
tô đậm cái cao cả gắn kết nghệ thuật và thiên nhiên, giữa thiên nhiên và cuộc sống
đời thường của con người” [31; 194].
Sự so sánh nội tại giữa cái hữu hạn và cái vô hạn được Basho vận dụng
trong haiku một cách tinh tế và điêu luyện. Trong thơ haiku của Basho, ông thường
sử dụng cách so sánh (có cách tân từ dạng so sánh sự vật ban đầu) bỏ lửng, để một
khoảng trống để người đọc có thể thêm phần cảm nghĩ của mình vào. Bởi vậy, sự
hữu hạn, không gian, sự vật được bộc lộ mạnh mẽ vô cùng.
kogarashi ni Trụ được cơn giông bão 木枯に
iwa fukitogaru thổi mạnh, và ghềnh đá 岩吹きとがる
sugima kana len giữa đám tuyết tùng. 杉間かな
(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)
Khi đến một ngôi chùa nổi tiếng vùng Mikawa, Basho viết bài thơ mang
phong vị của sự so sánh bỏ lửng này. Ở đây, sự hiện diện của thiên nhiên là vô
hạn, không thấy bóng dáng con người. Thiên nhiên hãi hùng chống lại sức mạnh
của giông bão. Những cây tuyết tùng vững vàng đứng đó, nhưng một sức mạnh
của tự nhiên, đại diện cho tầng lớp võ sĩ ở Nhật. Không gian náo động bởi bão
giông, nhưng trong từng ghềnh đá, từng gốc tuyết tùng là sự lặng im đến tịch liêu.
Đó là sự ẩn chứa sức mạnh. Trận cuồng phong không quật ngã rừng tuyết tùng và
sự khó khăn trở ngại không quật ngã được tâm hồn của nhà thơ. Ở đây, cuộc đời
của những tạo vật thiên nhiên phải chịu sự khắc nghiệt của chính thiên nhiên, sự
78
vô thường của đời sống luôn diễn ra, cả vạn vật đều phải gánh chịu. Đó là những
ý nghĩa, những khoảng trống mà Basho đã để lại cho người đọc cảm nhận. Kỹ
thuật này, về sau được ông hoàn thiện, tạo ra những bài học triết lý sâu sắc, chúng
tôi sẽ đề cập rõ hơn ở phần sau.
Như vậy, thời kì này là giai đoạn phát triển rực rỡ và là đỉnh cao trong sự
nghiệp thơ ca của Basho. Các kĩ thuật thơ haiku dần như hoàn thiện và tiếp tục
được ông nâng cao. Xu hướng đưa Thiền vào thơ haiku tạo sự trang trọng, ý vị sâu
sắc đã giúp Basho trở thành một bậc đại sư thơ haiku, là người đầu tiên cách tân
hoàn mĩ thơ haiku về mặt nghệ thuật. Tiếp sau đó, là sự truyền thụ để tạo nên
những bậc thầy haiku sau này, cùng Basho đóng góp vào sự nghiệp đổi mới thơ
haiku. Các cảm thức thẩm mĩ dần được định hình và tạo cho haiku thêm một lớp
áo mới. Đó là giai đoạn không thể không nhấn mạnh trong toàn bộ quá trình cách
tân thơ haiku từ cổ điển đến hiện đại.
2.2.3. Phong cách thơ haiku thực tại, tinh tế Như đã trình bày, giai đoạn huy hoàng nhất của thơ haiku Basho gói gọn
trong những tháng năm du hành (đỉnh cao từ 1686 đến 1691). Nhưng có lẽ, sự nuối
tiếc của Basho là nhận ra chân lý quá muộn trong ba năm cuối đời (từ 1692 đến
1694), khiến ông không thể theo đuổi giấc mộng haiku tiếp tục. Basho viết bài thơ
cuối đời, như một chiếc chìa khóa để đời sau có thể dùng nó để tiếp tục khám phá
những tầng nghệ thuật trong thơ haiku.
tabi ni yande Đau yếu giữa hành trình 旅に病んで
yume wa kareno wo chỉ còn mộng tôi phiêu lãng 夢わ枯野を
kakemeguru trên những cánh đồng hoang. 駆け巡る
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
79
Bài thơ chứa đựng sự hoàn hảo và tinh tế mà Basho đã viết nên khi từ biệt
giấc mộng đồng hoang của mình. Từ “tabi” nghĩa là lữ nhân, và Basho suốt đời là
lữ nhân bước đi không dừng lại. Ba năm cuối đời, Basho giác ngộ sự vô thường
của cuộc đời không chỉ nằm trong cái hiu quạnh tịch liêu (sabi) mà ẩn chứa trong
sự khinh thanh nhẹ nhàng (karumi) với cái nhìn về đời sống: “Một niềm khinh
thanh êm đềm bay giữa tro than và cát bụi trần gian, một lý tưởng được thể hiện
trong thi tuyển gọi là Sumidawara (Túi đựng than) mà học trò của ông ấn hành
vào năm 1694” [9; 199]. Chỉ vỏn vẹn trong ba năm, Basho đã sáng tạo thêm cho
sự nghiệp cách tân thơ haiku của mình những điều đáng trân trọng. Vì “ý đồ của
Hài cú là sáng tạo ra biểu tượng thích đáng nhất, để đánh thức trực giác vốn có
trong tâm của con người” [12; 204].
2.2.3.1. Haiku mang đậm tính triết lý sâu sắc
Thơ haiku của Basho thực chất từ khi mới sáng tác đã mang những triết lý
sâu sắc nhưng phần lớn chưa được thể hiện một cách nghệ thuật. Đến mãi những
năm 1690, những quan điểm triết lý trong Thiền tông mới được khơi sáng trong
thơ của Basho. Tiêu biểu có thể thấy rõ nhất trong tuyệt phẩm Oku no hosomochi.
Ở đây, con đường sâu thẳm về miền Đông Bắc không chỉ là con đường địa lý mà
còn là con đường giác ngộ, con đường sâu thẳm đi vào chiều sâu tâm thức của con
người. Basho trở về với nỗi vô thường vĩnh cửu của đời sống. Trải nghiệm trong
những chuyến đi là những bài học được Basho hun đúc trong các bài haiku, tạo
nên những trang sách tuyệt đẹp của sự kết hợp giữa haiku và văn xuôi như một
kiểu nhật kí hành trình (haibun). Tuy được sáng tác vào những năm 1689, nhưng
Oku no hosomichi vẫn có giá trị đến tận bây giờ, và được coi là một kiệt tác trứ
danh của nền thi ca Nhật Bản. Đa phần những bài thơ mang đậm triết lí Thiền,
được coi là tiêu biểu cho phong cách Basho trong giai đoạn đỉnh cao, đều nằm
trong thi tuyển này.
80
tabibito Mưa đầu đông 旅人と
towaga na yobaren hãy gọi ta là 我名よばれん
hatsu shigure lữ nhân. 初時雨
(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)
Hành trình trở thành lữ nhân cũng là hành trình Basho trở thành thầy giáo
dạy haiku cho những môn đồ. Đây là lần đầu tiên người ta bắt gặp những triết lý
Thiền tông bên trong một bài hài thường dùng để giễu nhại. Đó là điểm khác biệt
hoàn toàn với haiku thời trước. Nghệ thuật thơ haiku đã đạt đến đỉnh cao khi nó
trở thành phương tiện truyền tải những triết lý thâm sâu.
Tính triết lý càng ngày càng trở nên sâu sắc và thấm nhuần trong tất cả các
bài thơ haiku cuối đời của Basho. Những bài thơ haiku được sáng tác tuy ít hơn
giai đoạn trước nhưng mang sắc thái khác hẳn và ý vị Thiền càng rõ rệt. Niềm băn
khoăn, lo lắng cũng bộc lộ kín đáo qua các bài thơ:
asagao ya Hoa triêu nhan ơi 朝顔や
hiru wa jo orosu giữa ngày cổng khóa 昼は鎖おろす
mon no kaki chỉ còn em thôi. 門の垣
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Hay:
kono aki wa Thu này この秋わ
nande toshiyoru sao già nhanh hơn thế 何で年寄る
kumo ni tori cánh chim khuất trên mây. 雲に鳥
(Matsuo Basho) (Quỳnh Như dịch) (松尾芭蕉)
81
Đó là những tâm sự mà Basho đã để lại vào giai đoạn cuối đời, cuộc đi tìm
nghệ thuật mới cho thơ haiku vẫn không ngừng lại đó.
2.2.3.2. Lối viết nhẹ nhàng, thanh thoát
Nếu hơn bảy năm đắm chìm bởi cảm thức sabi, cái cô đơn, quạnh hiu đã có
phần trói buộc phong cách của Basho, mặc dù phải thừa nhân rằng nó là giai đoạn
phát triển vượt bậc trong nghệ thuật thơ haiku; thì trong những năm cuối đời,
Basho chợt nhận ra phải vứt bỏ cái tôi, để cuộc đời mình hoà vào với vũ trụ rộng
lớn, để nghe được tiếng gió hát, hiểu được lối mây bay. “Cao ngộ quy tục”, con
người chưa bao giờ chán lang bạt ấy đã quyết định quay về đối diện với đời sống
thường nhật. Sau khi trở về, Basho chuyển sang lối viết nhẹ nhàng, thanh thoát
hơn theo xu hướng của cảm thức karumi (khinh thanh). Lối viết đó làm giảm bớt
cái cô đơn, nỗi buồn tuyệt vọng của cuộc sống, khiến tâm hồn nhẹ nhàng bay bổng.
Những nỗi âu lo mà trước đó vẫn ám ảnh nhà thơ dường như tan biến vào thinh
không, chỉ còn lại những câu thơ dịu nhẹ trong tâm thế “nhường nhịn chính mình”:
asagao ya Hoa triêu nhan ơi 朝顔や
kore mo mata waga cả em rồi cũng 是も又我が
tomo narazu chẳng là bạn tôi. 友ならず
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Nỗi cô đơn lúc về già dường như cũng tiêu biến, thay vào đó là những vần
thơ lạc quan, thanh thoát hơn:
ki no moto ni Dưới cây, lao xao 木のもとに
shiru mo namasu mo chén canh, đĩa cá 汁も膾も
sakura kana đều vương hoa đào. 桜かな
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
82
Những hình ảnh cuộc sống thường ngày của con người dần dần xuất hiện
trong các bài thơ của Basho. Đây là hướng thay đổi đề tài từ thiên nhiên sang con
người thế tục. Nhưng Basho không từ bỏ hẳn thiên nhiên mà giờ ông nhận thấy
nên quay về cuộc sống trần tục. Là một Thiền sư, giữ lúc Basho đạt đến đỉnh cao
với những vần thơ đầy tư tưởng triết lý, giờ đây Basho lại mong muốn trở thành
một ông già bình thường, tiếp tục là một khách lãng du.
ika uri no Anh hàng cá mực rao 烏賊売の
koe magirawashi nghe sao không phân biệt 声まぎらはし
hototogisu với tiếng đỗ uyên kêu. 時鳥
(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)
Niềm vui đã trở lại với Basho, sự nhẹ nhàng buông bỏ tất cả để trở về thực
tại. Phong cách haiku giai đoạn này không thay đổi nhiều nhưng có sự đặc sắc
mới. Nếu như trước đó, những bài haiku là ghi lại khoảnh khắc nhất thời, là những
triết lý chứa đựng sâu sắc, thì bây giờ mỗi bài haiku của Basho như một câu chuyện
thường nhật, giản đơn và chân thật nhất. Ta ngạc nhiên tại sao một bậc đại sư thơ
haiku lại bỏ đi xu hướng triết lý thơ ca quay về với những vần thơ nhẹ nhàng chân
thật. Đó là một dụng ý mà chính Basho đã cố tình thêm khắc vào thơ haiku như
một sự nêm nếm gia vị. Một món ăn ngon cần có đầy đủ hương vị đắng, chát, ngọt,
mặn, chua, cay, chứ không phải là một vị độc tôn duy nhất. Bởi “cái đẹp tìm thấy
được là khi thiên nhiên nới vòng tay và ôm trọn được con người trong sinh hoạt
thường ngày của họ” [27; 118]. Vẻ đẹp thơ haiku Basho có lẽ đạt đỉnh cao nhất về
sự tinh tế nhẹ nhàng là ngay lúc này khi hàng loạt bài thơ ra đời với phong cách
mới tuy chỉ cách với thời đỉnh cao của sự tịch liêu vài năm. Chứng tỏ sự vận động
của Basho là không ngừng nghỉ trong suốt cuộc đời thơ ca.
83
tsuki yuki to Theo suốt đời tôi 月雪と
nosabari kerashi những năm tháng cuối のさばりけらし
toshi no kure chỉ trăng và tuyết thôi. 年の暮れ
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Hay:
shiragiku no Một cành hoa cúc trắng 白菊の
me ni tatete miru dù nhướng mắt nhìn kĩ 目に立てゝ見る
chiri mo nashi cũng không thấy bụi trần. 塵もなし
(Matsuo Basho) (Nguyễn Nam Trân dịch) (松尾芭蕉)
Tất cả là tiếng vui cười ngày nào nhưng được Basho kết hợp với tất cả những
gì ông học được để tạo nên những bài haiku cuối cùng tuyệt tác. Basho đã cố gắng
thay đổi quan niệm sabi từ hướng con người tìm về hòa nhập với thiên nhiên.
Khiến cái ego (tự ngã) tiêu biến khỏi bản chất con người. Quan niệm về sabi dần
được đổi mới, có xu hướng nới rộng ra về sự hoàn nhập cuộc sống và thiên nhiên.
Cái quan trọng nhất là con người phải biết chấp nhận, đối mặt với cuộc đời, xem
nhẹ đời thường và cố hướng đến sự giải thoát, tìm cho bản thân sự bình an nhẹ
nhàng.
niwa hakite Quét tuyết sương 庭掃きて
yuki o wasururu mà quên sương tuyết 雪を忘るる
hahaki kana cây chổi trong vườn. 帚かな
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Bài thơ được làm ở giai đoạn cuối đời của Basho, khi ông trở về với thế tục
sau những cuộc hành trình dài. Đó là một cái nhìn nhẹ nhàng về đời sống. Thân
84
phận cây chổi - vật vốn phải chịu mọi dơ bẩn, thấp hèn trong đời sống nhưng lại
“quên đời sương tuyết”, nghĩa là quên đi những thiệt thòi, đau đớn mà mình phải
gánh chịu, để làm tròn chức phận nhỏ bé trong đời. Rõ ràng đó là cái nhìn nhẹ
tênh, khinh thanh của karumi. Không còn đặt nặng sự đòi hỏi đền bù, hay so sánh...
đó là cái tâm của Bồ tát - người luôn cứu nhân độ thế nhưng không bao giờ nghĩ
mình là người ban ơn hay người khác là người cầu ban ơn.
Cả cuộc đời, Basho đã gắn bó và xây dựng tâm hồn nghệ thuật cho thơ
haiku. Là người đem lại sức sống mãnh liệt và bất diệt, trở thành bậc đại sư thơ
haiku không chỉ riêng ở Nhật Bản mà còn khắp trên thế giới. Phong cách thơ ca
của Basho là quá trình lâu dài cho những chặng đường khám phá, có ảnh hưởng
sâu rộng lên các thiên tài thơ haiku sau này như Chiyo, Buson, Issa,.... Cho dù
những nhà thơ haiku cổ điển và hiện đại sau này có đi theo nhiều khuynh hướng
khác nhau, nhưng tất cả đều phải cúi đầu ngưỡng mộ tài năng và công cuộc cách
tân thơ haiku cổ điển đạt đến mức hoàn mĩ của ông. Basho đã để lại bài haiku với
mong muốn hậu bối hãy tiếp tục công cuộc gầy dựng, chấn hưng, phát triển mới
mẻ thể thơ truyền thống này.
ware ni ni wa Đừng theo tôi 我にには
fatatsu ni wareshi quả dưa dù xẻ nửa ふたつに割わし
maku wauri cần chi hai cuộc đời. まくわうり
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Basho với tư tưởng mới mẻ, dù rằng là một bậc đại sư, nhưng ông không
muốn người khác bị ảnh hưởng bởi phong cách của mình, mà hãy đi tìm một phong
cách mới. Haiku luôn cần vẻ mởi mẻ cũng như các du nữ luôn cần những chiếc áo
85
mới khi mùa xuân đến. Đó là Basho, đó là một phong cách, một tượng đài bất tử
trong lòng mỗi con người Nhật Bản.
2.3. Phong cách nghệ thuật thơ haiku sau Basho
Sau Basho nhiều nhà thơ dựa trên phong cách thơ haiku của ông để nghiên
cứu và tiếp tục phát triển. Bởi “Matsuo Basho là ngôi sao sáng trong những vì sao
lấp lánh trên nền trời của thi đàn Nhật” [32; 536]. Nhưng thơ haiku cũng bắt đầu
trên đà tuột dốc về chất lượng cũng như giá trị nghệ thuật. Nhiều nhà thơ đã ra sức
chấn hưng và tiếp tục cải cách đổi mới để haiku có thể vượt qua và phát triển lại
sau nhiều sự khủng hoảng. Một loạt những phong cách nghệ thuật thơ haiku mới
ra đời dựa trên nền tảng phong cách của Basho và có những đổi mới nhất định.
2.3.1. Khuynh hướng thoái trào của thơ haiku Từ ban đầu, thơ haiku đã mang dáng dấp của những bài thơ mua vui, hài
hước và giễu nhại, qua thời gian dài biến đổi và hoàn thiện nghệ thuật của Basho,
thơ haiku dần trở thành loại hình thơ ca cao cấp. Nhưng vào giữa trùng kì Edo,
người đọc thơ trở nên nhiều và xu hướng sáng tác thơ haiku trở nên gia tăng đột
biến. Số lượng thi sĩ và những bài thơ hay đạt chất lượng khá ít, đa phần là các
nhà thơ xuất phát theo phong trào, không qua trường lớp. Họ chỉ đọc thơ của các
bậc thầy đi trước như Basho rồi tự làm theo mà không có sự hướng dẫn chuyên
môn. Phần vì sau khi mất, Basho không để lại một sách lý luận nào viết về nghệ
thuật và định hướng làm thơ haiku nên nhiều môn đồ của ông đi theo nhiều khuynh
hướng khác nhau, tạo thành sự dị biệt không thống nhất. Từ đó, tầng lớp đam mê
thơ haiku theo phong trào bị lệch hướng và sáng tác kém chất lượng. Nhiều đề
xuất giải quyết sự suy thoái của thơ haiku nhưng do chưa có sự thống nhất và một
đội ngũ chuyên nghiệp nên tàn dư vẫn còn kéo dài mãi đến gần nữa cuối thế kỉ
XVIII. Mười môn đồ xuất sắc của Basho đi theo các xu hướng riêng, tuy có phát
86
triển về nghệ thuật thơ haiku Basho nhưng không đồng đều và chưa triệt để. Có
thể thấy rõ sự tương phản về tư tưởng của Takarai Kikaku 宝井其角(1661–1707)
và Kagami Shiko 各務支考 (1665 – 1731). Takarai Kikaku hình thành trường phái
Edo với văn phong khoáng đạt, trau chuốt, còn Kagami Shito lại thích lối văn
phong dung dị, đời thường, hình thành trường phái Mino. Như vậy, có thể thấy chỉ
trong mười đệ tử xuất sắc nhất của Basho mỗi người đã đi theo một xu hướng khác
nhau và có người khác hẳn thầy mình. Điều đó không phải để phê phán, ngay cả
ý định của Basho trước khi mất cũng mong muốn không một ai ảnh hưởng phong
cách của mình mà hãy đi tìm cái mới. Ở đây, đệ tử của ông cũng đi tìm cái mới,
nhưng chưa đạt được đỉnh cao nghệ thuật và có xu hướng quay lại bước khởi đầu
của haiku. Các đệ tử của Basho đều là những người tài năng, cũng đóng góp một
phần vào giai đoạn trung hưng thơ haiku nhưng chưa thật nổi bật.
2.3.2. Giai đoạn phục hưng thơ haiku và các trào lưu đổi mới Trước tình hình suy thoái trầm trọng nhiều nhà thơ đã ra sức giữ gìn và tiếp
tục phát triển thơ haiku. Nhưng có thể nói giai đoạn chính thức phục hưng thơ
haiku diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII và đạt nhiều thành tựu nhất. Nhận thấy thơ
haiku càng ngày càng tuột dốc suy thoái, phong trào phục hưng thơ haiku được
phát động mạnh mẽ. Những lời kêu gọi quay về với phong cách Basho và đổi mới
haiku nhằm vực dậy tinh thần shofu của Basho. Công cuộc cách tân với nhiều xu
hướng mới ra đời.
2.3.2.1. Các xu hướng mới hình thành trên nền tảng Basho Hưởng ứng phong trào phục hưng thơ haiku sau những suy thoái, nhiều nhà
thơ haiku đã thể hiện hướng đi và phong cách riêng biệt của chính mình. Không
chờ đến cuối thế kỉ XVIII, mà trước đó các môn đồ của Basho đã tiến hành phát
động giữ vững và cải cách thơ haiku trên nền tảng của Basho. Tuy có nhiều nhược
87
điểm trong việc hình thành lý luận nhưng phần đóng góp của các môn đồ vào sự
phát triển haiku rất đáng ghi nhận.
Với mười đệ tử xuất sắc nhất trong gần 2000 môn đệ, những người này đã
tiếp tục con đường của Basho phát triển haiku. Trong đó có thể kể đến Takarai
Kikaku 榎 本 其 角 (1611-1707), Hattori Ransetsu 服 部 嵐 雪 (1654-1707),
Morikawa Kyoriku 森川許六 (1656-1715), Mukai Kyorai 向井 去来 (1651-
1704), Kagami Shiko 各務支考 (1665-1731), Naito Joso 内藤 丈草 (1662-1704),
Sugiyama Sanpu 杉山杉風 (1647-1732), Tachibana Hokushi 立花北枝 (?-1718),
Shida Yaba 志田野坡 (1662-1740), Ochi Etsujin 越智越人 (1656-?). Nổi bật nhất
là Kikaku và Ransetsu với hai phong cách thơ trái ngược nhau. Kikaku có phong
cách khác hẳn lại với Basho, thể hiện sự vật được miêu tả từ bên ngoài, không có
chiều sâu nội tại. Tuy vậy, Basho lại đánh giá cao Kikaku trong các sáng tác và
sau này khi Basho mất Kikaku hình thành phái Edo với một phong cách haiku
mới.
meigetsu ya Bóng trăng âm u 名月や
tatami no ue ni trên manh chiếu 畳の上に
matsu no kage vời vợi trăng thu. 松の陰
(Takarai Kikaku) (Lam Anh dịch) (榎本其角)
Thơ haiku của Kikaku có thiên hướng đào sâu tình cảm hơn là miêu tả cảnh
vật. Cảm xúc trong thơ ông dạt dào, biểu hiện rõ qua bài thơ chứ ít khi mang hàm
ẩn. Đó là một đặc trưng mới của haiku chuyển từ tả cảnh sang tả tình.
yume ni kuru Mẹ trở về 夢に来る
haha wo kaesu ka trong giấc mơ con thấy 母をかえすか
88
hototogisu chim quyên ơi. ほととぎす
(Takarai Kikaku) (榎本其角)
Còn đối với Ransetsu thì trái lại với đồng môn Kikaku của mình, thơ ông
đầy chất tự sự, giản đơn và sâu lắng. Ông tiếp tục phát triển sự nghiệp của thầy
Basho tạo nên những vần thơ tinh khiết.
meigetsu ya Sương khói tỏa lan 名月や
kemuri wa hiiku dưới ánh trăng vằng vặc 煙はひゆく
mizu no ue mặt hồ mênh mang. 水の上
(Hattori Ransetsu) (Lam Anh dịch) (服部嵐雪)
Như vậy, các học trò của Basho tiếp tục con đường của thầy mình là cố gắng
phát triển haiku và không đi theo lối mòn khuôn phạm. Bên cạnh đó, nhiều nhà
thơ nữ xuất hiện, tạo thêm là gió mới cho thơ haiku. Chất nữ tính bắt đầu ẩn chứa
trong những bài thơ mà tiêu biểu đó là Tagami Kikusha 田上菊舎 (1753-1826) và
Kagano Chiyojo 加賀千代 (1703-1775). Thơ Kikusha thấm đẫm màu sắc Phật
giáo, hình ảnh con người và đồng quê. Xuất phát từ một góa phụ, Kikusha nhận
được sự giúp đỡ và tình thương của mọi người trên đường hành hương nên thơ
haiku của bà chứa nặng tình cảm nhân sinh.
sanmon wo Ra khỏi cổng chùa 山門を
dereba nihon zo ơ kìa Nhật Bản 出れば日本ぞ
chatsumi uta khúc ca hái trà. 茶摘みうた
(Tagami Kikusha) (Quỳnh Như dịch) (田上菊舎)
Còn Chiyojo vốn là mộ ni sư nên thơ của bà tinh khiết và giản dị. Sự duyên
dáng và màu sắc nữ tính là điểm nổi bật trong những bài haiku của bà. Nhưng đôi
89
lúc cũng có phần thoải mái, phóng khoáng đời thường, nên thơ bà tuy được đánh
giá cao nhưng không được xem là uyên thâm nhưng các bậc đại sư khác.
nani kite mo Gì cũng được 何来ても
utsukushiu naru hơn cả tuyệt trần 美しうなる
tsukimi kana là ngắm trăng. 月見かな
(Kagano Chiyojo) (Quỳnh Như dịch) (加賀千代)
Như vậy, nhiều xu hướng sáng tác có phần sáng tạo dựa trên nền tảng thơ
haiku của Basho. Đó là điểm đáng ghi nhận, tuy chỉ đóng góp một phần nhỏ và
bắt đầu bị phân hóa nhưng cũng là sự đổi mới về nghệ thuật thơ haiku, góp phần
giúp haiku đứng vững trong thời đại suy thoái.
2.3.2.2. Xu hướng phát triển haiku duy mĩ
Người tiên phong và hoạt động tích cực trong phong trào phục hưng thơ
haiku là Yosa Buson 与謝 蕪村(1716-1784). Theo lời dạy của sư phụ là Hayano
Hajin (1676-1742) “để viết thơ haikai, thì cố gắng đừng đi theo các phong cách
của người đi trước, hãy biến đổi phong cách tùy vào thời điểm, tùy trường hợp,
đem lại cho chúng điều riêng biệt với những gì đi trước hoặc có thể sẽ đến sau”
[45; 5]. Năm 1751, Buson tập trung sáng tác haiku, sự nghiệp thơ ca và hội họa
của ông phát triển mạnh. Những sáng tác của Buson lúc đầu có ảnh hưởng bởi
phong cách của Basho, các đặc điểm nghệ thuật của thơ haiku vẫn tuân thủ theo
Basho. Nhưng khi nhớ lại lời người thầy quá cố Hajin thì Buson đã phát triển thơ
haiku đi theo một xu hướng mới, có thể gọi là haiku theo lối duy mĩ. Bài thơ sau
như minh chứng cho sự sống động trong thơ Buson:
shira ume ni Hoa mơ trắng 白梅に
akaruku yobakari ni rực sáng 明るく世ばかりに
90
nari ni keri màn đêm. なりにけり
(Yosa Buson) (Quỳnh Như dịch) (与謝蕪村)
Nếu như Basho chú trọng về sự tĩnh lặng, cái tịch liêu trong không gian thì
ở Buson sự sôi động lấn át cả không gian làm cho bài thơ trở nên hào hứng với
những hình ảnh tươi vui. Như vậy “thơ Basho có tính chủ quan thì ở thơ haiku của
Buson tính khách quan là phần ưu thế” [49; 240]. Theo nhiều nhận định, nhưng
đối với chúng tôi, thơ Buson chưa hẳn là những trãi nghiệm thực tế từ các chuyến
đi mà có phần mô phỏng theo phong cách cổ điển và thêm vào đó sự mới mẻ.
Theo nhiều chiều hướng khác Basho, Buson chủ trương “thoát tục”. Những
bài thơ haiku của Buson đi theo xu hướng nghệ thuật mới haiga 俳画 (bài họa)
nghĩa là kết hợp thơ ca và hội họa tạo nên một nét nghệ thuật đặc sắc. Sự tinh tế
nhất của Buson là biện pháp mô tả kép giữa tính hiện thực và phi hiện thực, tạo
nên những vần thơ duy mỹ đầy nghệ thuật. Để làm rõ hơn luận điểm này chúng
tôi xin trích dẫn vài bài thơ của Buson:
ima ha haya Lá non 今ははや
udo mo kuwanrenu thổ đương quy 独活も食われぬ
wakaba kana nào đã được ăn! 若葉かな
(Yosa Buson) (Quỳnh Như dịch) (与謝蕪村)
Hiện thực đang bày ra trước mắt nhà thơ, cây Udo (thổ đương quy) đang
đâm chồi ra lá mới. Theo kinh nghiệm cây Udo được dùng làm rau, và khi Buson
nhìn thấy cây đâm chồi thì biết chưa thể ăn được phải chờ một thời gian nữa mới
là độ ngon nhất. Sự duy mĩ trong bài thơ nằm ở chổ nhìn cây nhưng biết là chưa
ăn được. Sự cảm tính đó (khi chưa thử lá Udo) của thi sĩ là hình thức của sự phi
thực, khi nhìn nhận sự vật ngay tức thời. Nhưng lối song hành duy mỹ hiện thực
91
và cảm tính phi thực càng làm cho nghệ thuật thơ haiku của Buson phát triển vượt
bậc. Bởi thơ haiku của Buson “sinh ra từ “vô minh”, và là nguồn gốc bất định có
trong thế gian” [12; 211].
Thơ của Basho giàu hình ảnh thì khi đến với Buson thơ haiku lại mang đậm
tính âm thanh. Với biện pháp dùng nhiều từ tượng thanh trong bài thơ, cho dù là
âm thanh trực tiếp hay âm thanh gián tiếp cũng bật lên sự sinh động.
haru no umi Biển ngày xuân 春の海
hinemosu notari cả ngày dài không ngừng 終日のたり
notari kana nhấp nhô, nhấp nhô ngọn sóng. のたりかな
(Yosa Buson) (Lam Anh dịch) (与謝蕪村)
Buson đã khéo léo dùng từ láy “notari notari” để mang lại âm thanh sóng
biển cho bài thơ. Sự nhấp nhô không ngừng nghĩ khi đọc có thể ta liên tưởng thành
hình ảnh sóng biển, nhưng khi cảm nhận ta có thể nghe được âm thanh của biển
cả đang dậy sóng. Với cách sử dụng từ tượng thanh nhấn mạnh như vậy, Buson
đã tạo ra âm thanh ngầm cho bài thơ, và âm thanh đó có thể bộc phát lên bất cứ
lúc nào.
Tuy nói thơ Buson chú trọng về âm thanh nhưng hình ảnh trong thơ ông còn
dạt dào và đẫm sắc hơn cả. Là thi sĩ của mùa xuân, Buson thường viết về sự vật
tươi đẹp lúc xuân đến. Với sự phối màu đặc biệt của một họa sĩ, trong thơ haiku
Buson cũng dùng nghệ thuật phối màu đồng nghiệm nhưng nổi bật và đặc sắc.
na no hana ya Hoa cải rực vàng 菜の花や
tsuki wa higashi ni phương Tây mặt trời ngả bóng 月和東に
hi wa nishi ni phương đông mặt trăng lên 日わ西に
92
(Yosa Buson) (Đoàn Lê Giang dịch) (与謝蕪村)
Sự phối màu tuyệt diệu giữa hoa cải vàng, ánh mặt trời và ánh trăng, tất cả
đều là màu vàng. Nhưng màu vàng là sự tiếp nối không hề giống nhau, hoa cải
vàng rực dưới ánh mặt trời buổi chiều tàn, rồi sau đó đó ánh trăng lên. Không gian
nghệ thuật trong bài thơ như sự giao hòa mà cây cải là chủ thể tiếp nối giữa ngày
và đêm. Cho dù có sáng hay tối thì hoa cải vẫn nhuốm một màu vàng, vàng của
mặt trời và của mặt trăng. Sự tiếp biến ấy là một bảng màu hoà trộn mà chỉ có một
thi họa thiên tài như Buson mới có thể làm được.
Đặc biệt các bài thơ về mùa xuân càng thấm đẫm màu sắc và cách sử dụng
kigo điêu luyện.
furuniwa ni Còn đâu trong vườn 古庭い
uguisu nakinu tiếng chim oanh thuở nọ 鶯なきぬ
hi mo sugara ngày dài vẫn trôi. 日もすがな
(Yosa Buson) (与謝蕪村)
Hay:
harusame ni Mưa mùa xuân 春雨に
ikikaeritaru làm bừng tỉnh 生きかえりたる
wakame kana một mầm non xanh. 若め哉
(Yosa Buson) (与謝蕪村)
Mùa xuân ấy mang cả sự sống, mang đậm màu sắc xinh tươi, sôi động, là
lúc vạn vật hồi sinh. Đó cũng là lúc haiku bắt đầu hồi sinh lại sau những suy thoái
bởi làn gió mùa xuân Buson thổi vào tâm hồn nghệ thuật mới mẻ.
93
Không dừng ở những sự thay đổi nghệ thuật thơ ca ấy, Buson tiếp tục sự
nghiệp cách tân cho thể loại thơ haiku. Nếu Basho đã tiến hành phá cấu trúc thơ
haiku nhưng chưa triệt để hoặc bắt buộc để có bài thơ theo ý muốn, thì ở Buson,
ông tiếp tục ý định biến thơ haiku thành thể tự do, báo hiệu xu hướng phát triển
gần với haiku cận đại. Những bài thơ phá cách của Buson là sự cố ý dùng từ ngữ
nhằm nhấn mạnh ý nghĩa và sự vật trong bài thơ.
hi wa hi kure yo Từ sáng đến hoàng hôn 日は日くれよ
yo wa yo ake yo to từ đêm đến bình minh 夜は夜明よと
naku kaeru vang vang tiếng ếch. 啼蛙
(Yosa Buson) (Đoàn Lê Giang dịch) (与謝蕪村)
Cấu trúc bài thơ có sự phá cách 6 – 7 – 5, tuy có phần mới nhưng không lạ,
vì chính Basho còn phá cách kiểu vỡ hoàn toàn cả dòng đầu và dòng cuối của bài
haiku. Nhưng cái mới mà Buson thể hiện ở đây là kết hợp sự phá vỡ khuôn mẫu
với biện pháp điệp âm. Hình thức nghệ thuật này haiku chưa hề thấy. Buson điệp
âm hai câu đầu “hi wa hi” (ngày qua ngày” và “yo wa yo” (đêm qua đêm)và hai
vế điệp này đối lại nhau một cách hết sức tinh tế bằng ngôn từ mà khó nhà thơ nào
làm được ngay cả Basho. “hi wa hi kure yo” đối với “yo wa yo ake yo” tức ngày
qua rồi đến đêm đối với đêm qua lại đến ngày và cuối cùng chốt lại ở tiếng ếch
kêu vang. Tất cả những hình ảnh truyền thống được Buson đưa vào thơ với những
biện pháp nghệ thuật mới khiến cho thơ haiku thêm đặc sắc và sáng tạo. Nói như
vậy để thấy Buson như cánh hoa mùa xuân đem đến cho thơ haiku một luồng sinh
khí mới, thay đổi cuộc đời haiku từ nỗi u buồn tịch liêu sang một trang mới đầy
tươi vui và sinh động. Cả cuộc đời, Buson để lại 20850 bài thơ với nhiều xu hướng
đổi mới khác nhau. Các tập thơ như Zoku Ake garasu (Cánh quạ buổi sơm, 1784),
94
Buson kushu (Tuyển tập haiku Buson, 1784), là dấu ấn cho một thi sĩ bất diệt của
haiku Nhật Bản.
2.3.2.3. Xu hướng “phi haiku”
Nếu như Buson là người khai sáng phong cách haiku duy mĩ, mang lại mùa
xuân cho haiku đang điêu tàn. Thì Kobayashi Issa lại đi theo một lối khác, tạo lập
một phong cách nghệ thuật cho riêng mình. Sau Basho và Buson, chưa có nhà thơ
nào kiệt xuất có thể tiếp tục vực dậy tinh thần và linh hồn nghệ thuật cho thơ haiku.
Cuối thời kì Edo, một phong cách haiku khác lạ xuất hiện trên thi đàn làm chao
đảo nền haiku cổ điển vì nó mang một xu hướng “phi haiku”. Thơ haiku Issa là
nỗi buồn triền miên, sự thống khổ và cam chịu đến tột cùng. Có thể nói, thơ haiku
của Isa đời thường đến mức không thể đời thường hơn nữa, sự cảm thông và lòng
trắc ẩn bao trùm toàn bộ các thi phẩm của ông. Văn phong thô mộc, dân dã với
nhiều khẩu ngữ và phương ngữ địa phương khác hẳn với phong cách tiêu phong
trữ tình của Basho và lối duy mỹ hoa lệ của Buson. Khi đọc haiku của Issa, chúng
ta có thể thấy đó không phải là haiku mà là những lời cảm thán, thương xót, vì thế
nó phi truyền thống và phi haiku. Vứt bỏ lối chơi chữ điêu luyện, lối dùng từ trau
chuốt và các triết lý nhân sinh sâu sắc, Issa đem vào thơ mình những hình ảnh hết
sức nhỏ bé và thân thuộc, số phận đớn đau như chính cuộc đời ông. Ở đâu cung
thấy được hình bóng thi sĩ trong từng bài thơ, đây như thiên tự truyện mang nặng
tính tự sự về cuộc đời.
kome maku mo Giành nhau mổ thóc 米幕も
tsumi zoyo tori wa thương thay chú gà 罪ぞよ鳥は
keai zoyo mắc phải tội. 蹴合ぞよ
(Kobayashi Issa) (小林一茶)
95
Đó phải chăng lối sống tranh giành mà Issa phải chịu đựng trong suốt quãng
đời. Tranh giành sự sống của người thân từ tay thần chết, tranh giành miếng ăn từ
sự lao động khổ cực, tranh giành giá trị nhân sinh cho những kiếp đời, bởi cuộc
đời Issa là những chuỗi ngày dài sống trong sự tranh giành đấy. Cách diễn đạt khác
thường, lạ lẫm với những lối haiku truyền thống mang tính hài hước, vui đùa, bản
chất tao nhã của haiku đã biến mất qua trái tim trần của Issa.
naki haha ya Ôi, biển khơi 亡母や
umi miru tabi ni khi tôi nhìn thấy biển 海見度に
miru tabi ni mẹ tôi ơi! 見る度に
(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)
Hay:
ware to kite Đến đây nào, với tôi 我と来て
asobe ya oya no cùng chơi đùa, chim sẻ 遊べや親の
nai suzume không còn mẹ trên đời. ない雀
(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)
Niềm xúc cảm lúc Issa mồ côi mẹ lúc lên ba, và tiếp đó là những nỗi đau
mất đi người thân mà ông chỉ biết ngước nhìn chứ không làm gì thay đổi được.
ware shinaba Châu chấu voi ơi 我死なば
haka mori to nare mai này tôi chết 墓守となれ
kirigirisu canh mộ dùm nhé. きりぎりす
(Kobayashi Issa) (Quỳnh Như dịch) (小林一茶)
Sự cô đơn làm nên màu sắc đau thương trong thơ Issa như tất cả những gì
ông có được. Nghệ thuật thượng thừa đỉnh cao của thơ haiku phút chốc tuột xuống
96
trần thế để khóc cùng trái tim trần đau khổ này. Đó là đỉnh cao nghệ thuật thực tại
mà người đời sau không thể nào quên Issa và quên những vần thơ đẫm lệ này.
Giọng thơ sâu thẳm cái tôi trữ tình và sự cảm thông với nhân thế. Ngoài ra, haiku
đối với Issa còn là phương tiện lột tả xã hội hai mặt cuối thời Edo. Thơ haiku của
Issa thể hiện sự song chiếu, chồng xếp giữa trữ tình và hiện thực.
Nếu Basho đưa Thiền vào như những công án chứa đựng triết lý, thì ở Issa
giá trị Phật tính được tôn lên hàng đầu. Bởi theo Issa, thế giới có tạo thành cũng
do những hạt bụi và thiên nhiên có vĩ đại cũng do vạn vật nhỏ bé làm nên. Xu
hướng đưa haiku hướng đến sự thầm thường “phi không” để từ đó đào sâu giá trị
nghệ thuật của thơ ca.
aonoke ni Ngửa mình 仰のけに
ochite naki keri con ve mùa thu ấy 落ちて鳴きけり
aki no semi thảm thiết, kêu gào. 秋の蝉
(Kobayashi Issa) (小林一茶)
Và:
katatsumuri Chậm rì, chậm rì かたつむり
soro soro nobore kìa con ốc nhỏ そろそろ登れ
fuji no yama trèo núi Fuji. 富士の山
(Kobayashi Issa) (Nhật Chiêu dịch) (小林一茶)
Hay:
hitori naku wa Chú chim mồ côi ひとり鳴くは
oya nashi tori yo tiếng kêu đơn độc 親無し鳥よ
aki no kure trong bóng chiều thu 秋の暮
97
(Kobayashi Issa) (Lam Anh dịch) (小林一茶)
Giá trị thi ca giờ đây đơn giản chỉ bó gọn trong những hình ảnh bình dị, nhỏ
bé nhưng đầy đau đớn. “Con ve”, “con ốc nhỏ” hay “ chú chim mồ côi” là những
hình ảnh hiện thực giữa đời thường. Và nỗi đau khổi thốt lên từ những kiếp lầm
than đó là sự phản ánh xã hội một cách tựu trung. Đến thời Shiki, hình thức chủ
nghĩa tả thực mới được tiếp thu từ phương Tây, nhưng ngay lúc này ở Issa là những
vần thơ chân thật hơn những gì chân thật.
Như đã trình bày phía trên, phong cách nghệ thuật của Issa còn được chú
trọng vào các yếu tố khẩu ngữ. Sau này, nhiều nhà thơ hiện đại chủ trương theo
xu hướng này, Issa là người khơi gợi đầu tiên cho phong cách nghệ thuật khẩu ngữ
trong thơ haiku. Thay vì sử dùng những từ ngữ bóng bẩy, Issa đã “tầm thường
hóa” ngôn ngữ thơ haiku để trở nên gần gũi với cuộc sống thực tại nhất.
chiru sakura Lả tả rơi 散る桜
kyo mo muchakucha những cánh anh đào 今日もむちゃくちゃ
kurashikeri rối ren như cuộc đời. 暮しけり
(Kobayashi Issa) (小林一茶)
Hoa anh đào lả tả rơi, khẩu ngữ “muchakucha” thể hiện sự hỗn tạp, không
hoàn mĩ được Issa sử dụng. Những vần thơ này đã vượt qua tính qui phạm, chuẩn
mực của thơ haiku.
Như vậy, sau Buson, Issa tiếp tục mang đến sự mới mẻ cho thơ haiku. Nghệ
thuật thơ haiku dần được nâng cao và đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Nhiều nhà thơ,
trong đó tiêu biểu là Buson và Issa đã có tính kế thừa và phát huy phong cách nghệ
thuật thơ haiku, như chính lời Basho nhắn nhủ trước khi từ giã cõi đời.
98
TIỂU KẾT 2
Ở chương 2, chúng tôi đã đi sâu phân tích quá trình cách tân nghệ thuật thơ
haiku thời Basho. Tuy lấy Basho là trọng tâm, cột mốc của quá trình đổi mới nghệ
thuật haiku nhưng trong chương này chúng tôi cũng phân tích cụ thể về giai đoạn
haiku trước cũng như sau thời Basho. Điều này cho thấy sự phát triển theo lịch đại
của haiku qua các thời kì lịch sử cũng như thời kì văn học. Ở đây chúng tôi chú
trọng đến những bước cách tân khởi đầu, tuy chưa có sự rõ rệt nhưng phần nào đã
cho thấy dấu hiệu sự đổi mới của thơ haiku cổ điển. Trước thời Basho, xoay quanh
hai trường phái thi ca là Teimon và Danrin với quá trình hình thành và chấn hưng
thơ haiku theo nhiều phương cách, tuy có gặp những khuyết điểm nhưng đóng góp
là đáng kể. Từ nền tảng này, Basho bắt đầu phát triển qua những chặng đường đi
tìm nghệ thuật cho thơ haiku. Các cách tân của Basho được kể đến như: phát triển
độc lập thơ haiku, xây dựng phong cách nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, đưa mĩ
học Thiền vào thi pháp thơ, giúp haiku đạt đến trình độ nghệ thuật đỉnh cao về tính
triết lý. Quá trình này là một chặng đường dài, được Basho đánh đổi bằng tất cả
sự cố gắng và cả cuộc đời lang bạt. Đó là một đóng góp vĩ đại, góp phần lí giải vì
sao Basho được tôn là bậc đại sư thơ haiku. Sau thời Basho là những tháng ngày
haiku lâm vào sự suy thoái, điều này được nhắc đi nhắc lại ở nhiều giai đoạn, ngay
cả vào thời Shiki. Vì bản chất của quá trình thành công là dựa trên sự thất bại, phải
có thoái trào mới dẫn đến sự vận động, đổi mới. Các nhà thơ nổi bật như Buson
và Issa tiếp bước quá trình cách tân đó với những phong cách nghệ thuật đầy mới
mẻ và đặc sắc.
Như vậy, qua chương 2, chúng tôi giới thiệu và phân tích những bước đầu
hoàn thiện thơ haiku những gợi mở để các nhà thơ sau này tiếp tục đưa haiku qua
một trang mới.
99
CHƯƠNG 3: CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU THỜI SHIKI
3.1. Công cuộc cải cách thơ haiku thời Meiji Sau nhiều năm trong tình trạng “bế quan tỏa cảng”, Nhật Bản bắt đầu mở
cửa, thông thương trở lại với các nước bên ngoài. Thời đại Meiji đánh dấu bước
ngoặt phát triển về mọi mặt của Nhật Bản, một kỷ nguyên mới được mở ra. Thiên
Hoàng Minh Trị cùng những quyết sách cải cách sáng suốt, Nhật Bản bắt đầu thay
da đổi thịt về mọi mặt. Kinh tế - xã hội, văn hóa, tiếp thu từ phương Tây tạo ra
bước tiến vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản. Cùng với đó, văn học không ngừng đổi
mới. Trước sự du nhập văn học, tư tưởng phương Tây, nhu cầu đổi mới của văn
học Nhật lúc bấy giờ (ở mọi thể loại) ngày càng trở nên cấp thiết. Trong đó, thơ
haiku nói riêng và nền văn học truyền thống Nhật Bản nói chung cũng đã ráo riết
chạy theo công cuộc cách tân này.
3.1.1. Sự khuôn mẫu trong việc làm thơ haiku - nguyên nhân dẫn đến
suy thoái
Đầu thời Meiji, và sau đó kéo dài hơn một thập kỉ, thơ haiku tiếp tục rơi vào
tình trạng dần suy thoái khi haiku dần đi vào sự lặp lại và bế tắc trong đề tài lẫn
nguyên lí sáng tạo. Không có một nhà thơ nào đủ khả năng tham gia vào công
cuộc cách tân nghệ thuật thơ haiku từ thời Issa. Chất lượng thơ kém, đôi khi haiku
vẫn là một loại hình mua vui tầm thường, nghệ thuật không có sự đặc sắc, mới mẻ.
Sáng tác thơ haiku mang tính thiếu chuyên nghiệp và ít chú trọng đến giá trị nghệ
thuật, thơ haiku dần dần đi vào sự thoái trào do nhiều yếu tố tác động tiêu cực.
3.1.1.1. Sự bảo trợ của chính phủ và những hệ lụy
Lúc này Nhật Bản mở cửa giao lưu với các nước phương Tây, tình trạng du
nhập văn hóa ồ ạt khiến chính phủ bắt đầu lo ngại việc phát triển văn hóa ngoại lai
sẽ lấn át văn hóa nội sinh. Vì thế, chính phủ muốn biến các loại hình nghệ thuật
truyền thống thành công cụ hỗ trợ tinh thần yêu nước, chống lại sự ngoại lai văn
100
hóa, trong đó có haiku. Đây không hẳn là việc làm tích cực, mong muốn phát triển
văn học nước nhà mà đơn giản là giữ vững nền quân chủ chuyên chế. Thơ haiku
được chính phủ giúp đỡ phát triển nhưng lại đi theo hướng thụt lùi vì chỉ phục vụ
cho chính trị, không quan tâm đến tính sáng tạo nghệ thuật và tính văn học. Đó là
một điều đáng lo ngại trong quá trình phát triển của thơ haiku. Nhiều nhà thơ vì
phục vụ cho quan điểm của chính phủ nên đã gần như đánh mất bản chất nghệ
thuật của thơ haiku. Cơ bản là sau chiến tranh Nhật - Thanh, văn học lúc này bắt
đầu đả phá xu hướng truyền thống mà chính phủ bảo trợ bấy lâu. Thơ haiku cũng
bắt đầu phá vỡ lối mòn: sáng tác để phục vụ chính quyền.
Tiên phong trong phong trào này là các nhà thơ ủng hộ thơ mới. Haiku lâm
vào tình trạng bị xâu xé, đánh giá, tấn công từ những lý thuyết hiện đại. Theo
Tsubouchi Shoyo 坪内 逍遥 - một nhà lí luận nổi tiếng, thì haiku lúc này không
có một giá trị hiện thực nào đối với cuộc sống của con người thời hiện đại. Còn
theo như quan điểm mới của Yatebe thì “nói chung, người trên thế giới, chứ không
cứ gì ở phương Tây, khi làm thơ đều dùng ngôn ngữ hằng ngày” và “có thể bày tỏ
dễ dàng và trực tiếp những gì họ cảm thấy trong lòng” [38; 448]. Lối viết phúng
vịnh hoa mỹ đã biến thơ haiku thành mục tiêu của sự khai trừ trong xã hội mới.
Suzuki Shoku ra sức bênh vực, kéo haiku về với giá trị truyền thống của nó. Cho
rằng nếu nói thơ mới có định hướng sát sao với đời sống hiện đại nhưng không có
khoảng trống để người đọc liên tưởng, cách miêu tả trực tiếp, bộc bạch làm giảm
giá trị nghệ thuật trong thơ ca (đối với thơ ca phương Đông, giá trị nghệ thuật
tưởng tượng được chú trọng). Chỉ có thơ ca truyền thống mới mang đầy đủ tính
sâu sắc của cả nghệ thuật dân tộc và có giá trị đặc sắc lâu đời. Tuy nhiên những
quan điểm đó vẫn không được đánh giá cao và công nhận. Vì giai đoạn này thơ
mới phát triển hết sức mạnh mẽ.
101
Chính phủ bắt đầu thấy sự lung lay của công cụ cai trị tinh thần của nhân dân nên
dần nới lỏng sự bảo trợ và sau này hủy bỏ lối bảo trợ mang tính chính trị đó. Từ
đó, thơ haiku bắt đầu bị đánh giá thấp trong việc tạo mối quan hệ xã hội thực tế.
Như vậy, dưới sự bảo trợ của chính phủ, thơ haiku phát triển theo khuôn
khổ chính trị và những giá trị chuyên chế. Các nhà thơ sáng tác nhằm mục đích
“trung quân ái quốc” chứ chưa thực sự phát triển một cách thực sự nghệ thuật thơ
haiku mà các tiền bối đã để lại. Thơ haiku bắt đầu giai đoạn suy thoái, một phần
chủ quan do người sáng tác và các loại hình sáng tác, phần khách quan do chính
trị - xã hội quyết định. Nói để thấy, giai đoạn này, thơ haiku thực sự phụ thuộc và
các yếu tố xã hội, khác với sự độc lập và phát triển mạnh trong giai đoạn tiền và
hậu chiến sau này. Điều này là minh chứng cho sự thoái trào của văn học Nhật
Bản nói chung và thơ haiku nói riêng trong trào lưu Duy Tân Minh Trị.
3.1.1.2. Lệ thơ tsukinami 月並 – lối sáo mòn của haiku hiện đại
Tsukinami là hình thức họp thơ mỗi tháng, cùng sáng tác và mỗi nhóm
tsukinami sẽ đưa ra một qui chế về hình thức và qui luật thơ riêng. Vì nhiều nguyên
nhân tiêu cực nên tsukinami là một tàn dư, và là nguyên nhân chính ở thời kì Meiji
khiến haiku suy thoái. Tuy không trực tiếp phê phán nhưng chính Masaoka Shiki
đã nhận định đây là một sự sáo rỗng vì ngôn ngữ thơ không có sự sáng tạo và đi
theo lối thống nhất. Thơ haiku bắt đầu chịu sự khép kín, bị hạn chế về đề tài và
nghệ thuật thể hiện, chất liệu sáng tác và các quan điểm đổi mới. Tuy không bị
cuộc đổi mới văn học thời Meiji tác động mạnh mẽ nhưng vì sự gò bó quá hạn hẹp
của các trường phái, haiku không thể phát triển một cách toàn diện. Gần như toàn
bộ xu hướng sáng tác trong các tsukinami đều chịu sự ảnh hưởng của ba nhà thơ
cuối thời Edo là Narita Sokyuu (1761-1842), Sakurai Baishitsu 桜井梅室 (1769-
1852) và Horo (?-?). Nghệ thuật thi ca của những tác giả này mang tính lề lối và
102
qui cũ, vì luôn chú trọng vào kigo và không hề phát triển được ý nghĩa nghệ thuật
của nó. Các bài haiku sáng tác với số lượng khá nhiều và được sắp xếp thành tuyển
tập, với các bài haiku có khuynh hướng sáng tác theo lệ tsukinami của từng nhóm,
trường phái thơ. Đó là một mối nguy hiểm đối với sự tồn vinh của thơ haiku mà
chính Basho đã cảnh báo trước đó. Haiku đã rất nhiều lần rơi vào tình trạng tương
tự như vậy, nhưng đây là lần nghiêm trọng nhất cho sự phá vỡ nền nghệ thuật đặc
sắc của thơ haiku. Nếu quay về thời kì trước, các phái Teimon hay Danrin đi theo
lối riêng nhưng vẫn chú trọng phát triển đặt nền móng nghệ thuật. Đến thời kì sau
Basho, haiku lại tiếp tục đà tuột dốc với những qui lối sáng tác, nhưng lại có phần
tiến bộ là hình thành những phong cách mới riêng biệt. Cho đến thời kì này, haiku
bị bắt buộc sáng tác theo khuôn mẫu của từng nhóm riêng biệt. Tuy có sự phong
phú nhưng vẫn chưa phát triển được nghệ thuật như những thời kì trước đó.
Lệ thơ tsukinami có ảnh hưởng toàn bộ và sâu sắc đến những sáng tác lúc
này. Như đã trình bày về sự chi phối và bảo hộ của hệ thống chính trị, các nhóm
thơ này ra sức thể hiện lòng trung thành với chế độ. Sức ảnh hưởng không tưởng
của lệ thơ tsukinami chứng minh qua việc Shiki – một nhà cách tân thơ haiku vĩ
đại, lúc đầu cũng bị ảnh hưởng bởi nó. Những bài thơ Shiki viết khi đến Tokyo đã
mang hơi hướng của sự rập khuôn ấy:
ki wo tsumite Tỉa mấy cành cây 木をつみて
yono akeyasuki hừng đông thật sớm 夜の明やすき
komado kana trên cửa nhỏ này. 小窓かな
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Những bài thơ này về sau chính Shiki đánh giá là vô vị và không có phong
cách haiku khi chỉ đơn giản viết theo lối chủ quan mang tính logic thông thường.
103
Cắt đi những nhành cây trước nhà thì ô cửa sẽ đón được ánh sáng. Nói như vậy để
thấy lệ thơ tsukinami đã góp phần làm giảm giá trị nghệ thuật thay vào đó là tăng
tính chủ quan theo trật tự logic của quá trình miêu tả.
Lệ thơ tsukinami không được khắc phục, bên cạnh đó nó còn phát triển rộng
khắp với những mô hình nhóm thơ ca lớn. Tư duy người sáng tác dần bị chi phối
đông đảo. Suốt hơn 20 năm dưới sự phát triển của lệ thơ tsukinami, thơ haiku càng
rơi vào suy thoái nặng nề. Nhiều nhà thơ có định hướng thoát khỏi khuynh hướng
tsukinami nhưng chưa thể tìm được hướng phát triển tốt nhất. Vì mô hình này đã
đi sâu vào quần chúng, quan niệm sáng tác dễ dàng phù hợp với tầng lớp ham mê
sáng tác đại trà nên việc thay đổi tức thời là không thể. Việc thay đổi để haiku có
thể thoát khỏi sự ràng buộc kép kín là một điều cấp thiết, cần có sự phối hợp giữa
những nhà thơ thật sự hiểu biết và chuyên môn về haiku.
Chỉ đến năm 1892, xu hướng về các lệ thơ tsukinami mới bắt đầu suy thoái
sau những đề xuất thay đổi của Shiki về việc cách tân mọi mặt thơ haiku. Như thế,
bất cứ thể loại văn học nào cũng có lúc phải suy thoái bởi những trào lưu mang
tính chủ quan, haiku là một trường hợp không ngoại lệ. Từ đó, các phong trào cải
cách dưới sự lãnh đạo của nhà thơ Shiki, haiku bắt đầu sự sống mới trong dòng
chảy văn học hiện đại Nhật Bản.
3.1.2. Những khuynh hướng thay đổi đưa haiku khỏi biến động Trước tình trạng đầy biến động của thời cuộc do sức ép của văn học phương
Tây và sự đả kích từ các nhà thơ mới, thơ haiku cần có những khuynh hướng thay
đổi. Xã hội hiện đại với các trào lưu mới xuất hiện ngày càng nhiều, thơ haiku
buộc phải đứng trước nhu cầu đổi mới, cần tìm ra những lối đi riêng, từ đó nhiều
phương án đề xuất cách tân được từng bước vận dụng. Dưới đây là một vài khuynh
104
hướng theo các tiêu chí khác nhau đã diễn ra trong quá trình đổi mới, cách tân
haiku:
3.1.2.1. Giữ vững “Nhật Bản tính” trong thơ haiku
Đây là hướng phát triển haiku được Suzuki Shoko đề xuất khi ông lên tiếng
bênh vực thể thơ truyền thống trước sức ép của các nhà thơ mới. Với quan điểm
thơ haiku phải mang đầy đủ “Nhật Bản tính”, là linh hồn của dân tộc nên cần phát
huy hơn nữa bản chất đó của haiku. Suzuki Shoko vạch ra nhiều dẫn chứng về
“Nhật Bản tính” trong haiku từ thời Basho – người được kính trọng nhất trong thi
đàn.
kyou nite mo Chim quyên hót 京にても
kyou natsukashi ya ở Kinh Đô 京なつかしや
hototogisu mà nhớ Kinh Đô. ほととぎす
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) (松尾芭蕉)
Đó là tinh thần của cảm xúc hướng nội, đặc trưng của người Nhật, tình cảm
sâu lắng được thể hiện qua tâm hồn. Tính lịch thiệp, đúng mực, kiềm chế được
cảm xúc nhất thời là một điểm nổi bật trong văn hóa ứng xử và giao tiếp của người
Nhật Bản. Điều đó được Shoko hướng đến nhằm bảo tồn và phát triển trong thời
đại hội nhập văn hóa ngoại lai.
Tiếp đó là giữ vững phong tục, tập quán của dân tộc qua các bài haiku truyền
thống nổi tiếng của Buson, Issa. Tôn vinh “Nhật Bản tính” như tôn vinh những “vị
thần ” (kami) - truyền thống của Thần đạo Shinto.
hi no hikari Hừng sáng 日の光
kesa ya iwashi no ánh mặt trời 今朝や鰯の
kashira yori rọi đầu cá khô.
105
(Yosa Buson) (Quỳnh Như dịch) 頭より
(与謝蕪村)
Hay:
hitonami ni Trên dãy chiếu 人並みに
tatami no ue no người người xếp hàng 畳の上の
tsukimi kana ngắm trăng. 月見かな
(Kobayashi Issa) (Quỳnh Như dịch) (小林一茶)
Đó là những phong tục không thể thiếu trong cuộc sống của người Nhật,
làm nên sự khác biệt văn hóa đời nay. Hay các lễ hội: ngắm hoa đào, ngắm trăng,
lễ hội đom đóm… theo từng mùa là nét văn hóa đặc sắc mà cả dân tộc đều yêu
chuộng và gìn giữ.
Tuy nhiên, xu hướng này không được nhiều người tán thành vì nó không
còn phù hợp với thời đại mới. Truyền thống là thứ giữ gìn và phát huy, nhưng đôi
khi cũng cần phải đổi mới, hòa trộn thêm vào đó màu sắc hiện đại, như vậy mới
tạo ra sự cân bằng và đà tiến về phía trước. Quan niệm của Shoko vẫn được xem
là một khuynh hướng để làm cho haiku không bị hủy diệt trước những biến động,
suy thoái, đặc biệt là trước trào lưu thơ mới lúc bấy giờ. Về sau, các nhà cách tân
cũng quay về với xu hướng truyền thống này nhưng có sự cải cách nổi bật hơn.
3.1.2.2. Đáp ứng tình hình và nhu cầu xã hội
Một vấn đề quan trọng cần giải quyết để haiku phát triển đó là đáp ứng được
nhu cầu xã hội đề ra. Với sự phát triển quá hiện đại, như việc tiếp thu quá nhiều lý
thuyết, khuynh hướng và chủ nghĩa mới của phương Tây, haiku cần có sự chạy
đua để bắt kịp thời đại, đáp ứng nhu cầu đọc mới… Vấn đề về nghệ thuật và đề tài
cần sửa đổi, nhiều đề tài mới như cuộc sống của dân thành thị, xoay quanh khai
106
thác nội tâm con người. Hệ thống hình ảnh mới được đưa vào thơ haiku như lối
sinh hoạt, các phương tiện, hoạt động vui chơi hiện đại… Tuy nhiên, truyền thống
vẫn được đề cao và có phần biến đổi theo thời gian. Tầng lớp xã hội dần bị phân
hóa do xã hội mang xu hướng tư bản hóa, nên các hình thức văn học và lực lượng
sáng tác cũng thay đổi theo. Văn học chịu ảnh hưởng nhiều bởi văn học “tự do”
phương Tây nên hình thức haiku tự do cũng phát triển mạnh, đạt đỉnh cao vào
trung kì Meiji. Các nhà thơ cách tân lần lượt xuất hiện, mang tư tưởng tiến bộ và
phong cách sáng tác mới mẻ. Haiku từ đó được cải cách và nâng cấp theo từng
giai đoạn, tiêu biểu nhất là cuộc cải cách của Shiki. Haiku dưới quan điểm phục
vụ thời đại và xã hội, con người mới đạt nhiều thành tựu về nghệ thuật.
3.1.2.3. Cách tân toàn diện về mọi mặt
Như đã trình bày, haiku cần phát triển theo kịp thời đại xã hội, nên công
cuộc cách tân rất quan trọng. Các khuynh hướng cách tân liên tục ra đời. Thơ
haiku được đổi mới về mọi mặt để bắt kịp không khí ấy.
Quá trình này được chia thành nhiều giai đoạn với xu hướng cách tân khác
nhau. Nhưng chung quy vẫn góp phần phát triển và đổi mới nghệ thuật thơ haiku.
Với sự tác động mạnh từ sự vận động của văn học hiện đại, một số hình thức nghệ
thuật trong thơ haiku cần đổi mới. Về mặt ngôn từ và cấu trúc phải có sự thích
nghi với các ảnh hưởng của thơ ca phương Tây như tính tự do, trực quan, hiện
thực. Về hình ảnh cần có sự hòa kết giữa truyền thống và hiện đại. Các thủ pháp
nghệ thuật cần da dạng và đặc sắc, là sự phối hợp tổng thể nghệ thuật trong một
chỉnh thể thống nhất để đạt được trình độ nghệ thuật cao. Đó là những thách thức
cần các nhà cách tân thực hiện để đưa haiku khỏi suy thoái và biến động trong thời
đại mới.
107
Với sự ra đời của nhiều trường phái, nhiều nhà cách tân vĩ đại như Shiki đã
đặt những tảng đá đầu tiên cho trào lưu cách tân thơ haiku mới. Nhiều phương tiện
phục vụ công cuộc truyền bá các trào lưu như ngành báo chí, xuất bản… đã trở
thành cánh tay đắc lực cho các nhà cách tân haiku. Nói chung, haiku cần thay đổi
về mọi mặt, và sự đóng góp trong công cuộc cải cách của các nhà thơ là điều kiện
cần và đủ để haiku tồn tại.
3.2. Shiki với cuộc cách tân thơ haiku hiện đại
Masaoka Shiki 正岡子規(1868-1912) đã bước một bước dài thành công
trong công cuộc cách tân thơ haiku hiện đại. Đúng như Jannie Beichman đã nhận
định về Masaoka Shiki: “Khi so sánh các bài haiku mà Shiki viết trong những năm
1892-1895, lúc đó phong cách của Shiki phát triển đỉnh cao, so với những bài thơ
đầu tiên sáng tác vào những năm 1880 lúc chỉ biết đến kiểu viết thơ theo kiểu lệ
thơ tsukinami, sẽ thấy rất rõ” [43; 48]. Theo quan niệm về cách viết haiku của
Shiki, thơ haiku mang sự quyến rũ đơn thuần là ở trực giác và nhận thức trực quan
sâu sắc, không nằm ở chỗ phân tích mổ xẻ bài thơ. Cho nên, Shiki chủ trương đi
theo một lối mới với công cuộc cách tân thơ haiku triệt để trên nhiều phương diện
trong đó chú trọng đến nghệ thuật thơ haiku. Đối với Shiki, công cuộc hướng đến
haiku và cách tân haiku là niềm say mê vô hạn, bởi “chỉ có niềm đam mê với thơ
ca, không có gì có thể cứu vãn được tôi ngoài nữ thần haiku” [43; 16]. Năm 1892
là năm đánh dấu việc hình thành phong cách haiku mới cho thơ haiku của Shiki.
Và sau đó là chặng đường phát triển mạnh mẽ trở lại của haiku. Shiki là người đầu
tiên thay thế tên gọi haiku cho thể thơ hokku truyền thống mà các thi nhân thời
trước vẫn thường dùng. Bởi, haiku đến thời Shiki, ý thức độc lập về mặt thể loại
mới chính thức được đề xướng vì đó không đơn thuần là việc đổi tên mà cần thay
đổi tất cả để được hoàn thiện.
108
3.2.1. Bước đầu cho những cải cách thơ haiku hiện đại Từng bước Shiki và các đồng môn, sau này là các đệ tử phát triển thơ haiku
theo xu hướng đáp ứng được mọi yêu cầu của xã hội hiện đại. Những bước phát
triển đầu tiên để vực dậy thơ haiku trong thời đại suy thoái trầm trọng, tuy gặp
nhiều khó khăn, nhưng bằng tất cả nỗ lực, và tình yêu dành cho haiku Shiki đã có
định hướng đúng đắn trong con đường cách tân. Có thể nói, cách tân nghệ thuật
thơ haiku thời Shiki là mạnh mẽ và toàn diện nhất.
3.2.1.1. Báo chí – phương tiện cách tân hoàn hảo
Để cải cách và thoát khỏi lối sáo mòn hiện tại, Shiki đã phát triển thơ haiku
trên phương tiện chủ yếu là báo chí. Bởi chỉ có báo chí thời kì hiện đại mới gây
được sự chú ý của độc giả và dễ dàng truyền tải thông tin đến nhiều người.
Shiki chủ trương phát triển haiku rộng rãi trên các tờ báo, không chỉ về số
lượng mà còn về chất lượng nghệ thuật. Ông phát động chống lại lề lối, khuôn sáo
của haiku hiện hành và đề ra nhiều phương hướng thay đổi. Phái Nhật Bản (do
Shiki đứng đầu) chủ trương nâng cao vị trí văn học và giá trị nghệ thuật của thơ
haiku. Nhiều tạp chí và báo ra đời nhằm phục vụ mục đích trên, trong đó có các
báo do chính Shiki là chủ bút. Nippon 日本(Nhật Bản, 1892) đánh dấu thời đại
báo chí phục vụ cho phát triển haiku, nhưng hai năm sau do một số vấn đề Nippon
buộc phải đóng cửa (1894). Thay vào đó là sự hình thành của Sho-Nippon 小日本
(Tiểu Nhật Bản), tiếp tục công cuộc cánh tân. Năm 1892, Shiki viết Dansai Shyo
– oku Haiwa (Bàn về cách viết haiku qua tìm tòi sách vở), sau đó 1895 lại viết
Haikai Taiyo (Bài hài đại yếu) với mục đích đưa ra những nguyên tắc cơ bản để
làm một bài haiku mới. Không dừng ở đó, Shiki tiếp tục phát triển các tạp chí như
Hototogisu 時鳥 (Chim quyên, 1897), xuất bản Tuyển haiku (1897) và nhiều bài
109
báo khác chủ yếu chú trọng vào nguyên tắc và cách viết thơ haiku. Chính Shiki
cũng đăng tải các bài haiku của mình để làm mẫu:
sekkyou ni Những lời thuyết giáo 説教に
kegareta mimi wo nghe chói cả tai 汚れた耳を
hototogisu chim quyên ơi. ホトトギス
(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)
Đó là hình thức đả kích lệ thơ tsukinami, với những lời thuyết giáo khuôn
mẫu không có sự sáng tạo và mang tính chủ quan, điều mà các nhà thơ haiku hiện
đại không nên học theo để sáng tác thơ haiku. Chỉ có tiếng chim quyên (nhằm chỉ
tạp chí Hototogisu) là tiếng kêu thanh âm trong trẻo để hướng haiku lên hàng nghệ
thuật mới.
Shiki cho đăng tải tất cả các bài haiku mà tác giả gửi về các báo do ông chủ
bút, số lượng lên đến hàng ngàn bài. Không chỉ hoạt động báo chí ở Tokyo, ông
còn phát triển rộng rãi ra nhiều nơi để phổ biến haiku đi khắp quần chúng, đây là
thành tựu mang giá trị chưa từng có của thơ haiku mà trước đó chưa thấy. Các bài
thơ được chính Shiki tuyển chọn, góp ý và định hướng nghệ thuật. Các báo, tạp
chí liên tục xuất bản với số lượng lớn, nhiều tạp chí vẫn hoạt động đến bây giờ
như Hototogisu, chứng tỏ sức ảnh hưởng lớn của báo chí trong xã hội hiện đại.
Với số lượng bài đăng hơn 10 ngàn bài haiku và 20 ngàn bài tanka, Shiki
trở thành bậc đại sư cải cách thơ haiku và định hướng phát triển tanka trong thời
Meiji.
sanzen no Nghiền ngẫm 三千の
haiku wo kemishi ba ngàn bài haiku 俳句を閲し
110
kaki futatsu ăn trọn hai quả hồng. 柿二つ
(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)
Bài thơ như sự tập trung của Shiki, thể hiện quyết tâm cách tân haiku đến
mức quên đi những việc mình làm, không quan tâm đến bên ngoài. Ngay cả khi
trên giường bệnh (năm 1892, khi sức khỏe Shiki kém đi), công việc này vẫn diễn
ra bình thường, như thường nhật vì đó là một sứ mệnh. Sự thôi thúc đó vẫn rạo
rực trong một con người mang ngọn lửa niềm tin và ngọn lửa đam mê thơ ca.
yomei Còn bao lâu 餘命
ikubaku ka aru cuộc đời tôi いくばくかある
yo mijikashi một đêm ngắn ngủi. 夜短し
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Để tiếp tục công việc cách tân nghệ thuật haiku qua báo chí, Kawahigashi
Hekigodo 河東碧梧桐 (1873-1937), Naito Meisetsu 内藤鳴雪 (1847-1926) và
Takahama Kyoshi 高濱虛子 (1874-1959) cũng ra sức thành lập nhiều tờ báo địa
phương, các hội thơ, trường phái để góp phần phổ biến thơ haiku hiện đại. Trong
đó phái Hototogisu sau này của Kyoshi là phát triển nhất với nhiều bài haiku thuộc
phong cách phúng vịnh.
Như vậy, bằng báo chí, thơ haiku được phát triển theo khuynh hướng hiện
đại. Không những góp phần vào việc cải cách haiku mà phái Nhật Bản của Shiki
còn góp phần vào việc hình thành và phát triển nền báo chí hiện đại Nhật Bản.
Những thành công gặt hái được từ phương tiện thông tin này mở ra một trang mới
cho lịch sử văn học Nhật Bản nói chung và thơ haiku nói riêng. Du nhập từ phương
Tây nhưng loại hình báo và tạp chí nhanh chóng tiếp cận với văn hóa, xã hội Nhật
Bản hiện đại, trở thành công cụ cho những nhà cải cách văn học như Shiki.
111
3.2.1.2. Phê bình lối viết haiku truyền thống
Ngoài việc lên tiếng đã kích lối thơ haiku “lỗi thời” bởi lệ thơ tsukinami,
Shiki còn phê bình lối viết haiku của các bậc đại sư đi trước, trong đó có cả Basho.
Năm 1893, trong Zatsudan Basho (Chuyện phiếm Basho), Shiki ngoài việc đề xuất
tên haiku thay hokku, ông còn trực tiếp phê bình cách viết haiku của Basho. Trong
Haikai Taiyo, ông có chỗ đánh giá thấp Basho: “Tôi phải nói rằng đa số haiku của
Basho chẳng hay ho gì cả nếu không nói là không chỉnh về âm vận. Số bài xếp vào
hạng đầu không có lấy một phần mười” [38; 492]. Để làm rõ điều đó ông tiến hành
phân tích lại các bài thơ hay nhất của Basho, trong đó số lượng bài làm Shiki khâm
phục khá ít. Nói như vậy để thấy, lối thơ của Shiki mới mẻ hoàn toàn so với kiểu
haiku cổ điển. Để chứng minh, chúng tôi xin trích dẫn so sánh thử đôi chỗ để thấy
sự khác biệt của Shiki so với Basho trong cùng một đề tài.
asagao ni Bữa điểm tâm 朝顔に
ware wa meshiku tôi ăn và ngắm 我は飯食ふ
otoko kana những đóa triêu nhan. 男かな
(Matsuo Basho) (Nhật Chiêu dịch) (松尾芭蕉)
Và:
asagao no Ôi hoa triêu nhan 朝顔の
chi wo haiwataru lê mình trên đất 地を這ひわる
akiya kana trong sân nhà hoang. 空家哉
(Masaoka Shiki) (Nhật Chiêu dịch) (正岡子規)
Ta hãy đối sánh bài thơ của Basho với bài haiku cùng đề tài của Shiki về
hoa triêu nhan. Basho đắm mình với thiên nhiên, quên đi thực tại chìm sâu vào vẻ
đẹp của những đóa triêu nhan, ông đang dùng “bữa điểm tâm” bằng đôi mắt u
112
huyền để thấy triêu nhan như một món ăn ngon. Dường như thiên nhiên ban tặng
cho con người những điều trân quý, bức tranh của Basho mang hơi thở sự tịch liêu
của không gian và chứa đựng cảnh đẹp thực tại, chỉ có người và hoa. Nhưng đến
với Shiki, hoa triêu nhan nở không còn là vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng, giờ là
nỗi buồn, sự cười nhại số phận. Đó là nỗi buồn theo khuynh hướng xã hội hiện
đại. Trong sự điêu tàn nhất của xã hội, thân phận con người vẫn như những đóa
triêu nhan, vẫn nở, vẫn khoe sắc dù cô đơn, dù hoang phế, không ai ngắm nhìn.
Sân nhà hoang là bến đỗ, thân phận không nơi bấu víu phải lê mình dưới đất của
những đóa triêu nhan. Đó là tư tưởng “hiện thực” trong thơ haiku thời hiện đại mà
Shiki đang muốn hướng đến. Nhưng cho dù có đánh giá và phê bình lối viết “quá
truyền thống”, thì chính Shiki cũng khâm phục trước những đóng góp to lớn của
Basho. Basho đã vực dậy những phương thức nghệ thuật đặc sắc cho riêng haiku
mà các phái thơ trước đó, và cả sau này không hề làm được.
Người mà Shiki chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong sự nghiệp sáng tác của
mình là Buson. Tuy nhiên, không ngoại lệ Shiki vẫn lên tiếng phê bình lối viết quá
duy mĩ và hoa lệ của Buson. Ông đả phá quan niệm “thơ haiku không thích hợp
miêu tả nhân tình mà chỉ thích hợp miêu tả cảnh thiên nhiên” [43; 32]. Thơ haiku
về thiên nhiên của Buson tuy có vẻ đẹp nhưng chưa mang đậm tình cảm, một sự
duy mĩ “thiếu sót” cho haiku. Ông mạnh mẽ nói “dù có giống Buson nhưng lại
biến hóa hơn so với Buson” [43; 30]. Không phải Shiki đang tự cao và đạp đổ nền
tảng ban đầu mà ông đang muốn hướng đến những sửa đổi cơ bản để giúp haiku
hiện đại hoàn thiện hết mức có thể. Minh chứng điều đó, chúng ta hãy đọc hai bài
thơ sau:
shiratsuyu ya Bụi cỏ ngây 白露や
ibara to toge ni mỗi giọt sương trắng
113
hitotsu zutsu đọng một cành gai. 茨の刺に
(Yosa Buson) (Nhật Chiêu dịch) 一つずつ
(与謝蕪村)
Và:
asatsuyu ya Sương ban mai 朝露や
meshi taku kemuri một làn khói trắng 飯焚く煙草
kusa wo hau trên cỏ lướt dài. を這ふ
(Masaoka Shiki) (Nhật Chiêu dịch) (正岡子規)
Cũng là giọt sương, cũng vào buổi sớm ban mai, nhưng giọi sương của
Buson có phần tĩnh lặng và thụ động khi treo mình trên cành gai. Còn đối với
Shiki, giọt sương có tính chủ động, linh hoạt hơn khi lướt dài trên cỏ, tạo ra một
làn khói trắng ấn tượng trong thơ. Có thể thấy, nếu như Buson còn ảnh hưởng bởi
sự chất sabi của Basho với hình thức nghệ thuật không gian tĩnh, thì Shiki khác
hẳn với lối viết sinh động và gắn với nhịp sống hối hả của thời đại mới – thời đại
giao lưu văn hóa với phương Tây.
Như vậy, với các bước khởi đầu định hình cho công cuộc cách tân lớn nhất
của thơ haiku, Shiki có những quan điểm mới so với các quan điểm trước đó. Đầu
tiên chính Shiki tự phê bình bản thân bị ảnh hưởng quá nhiều bởi phong cách
tsukinami sau đó là phê bình cách viết thiếu tính chủ động của haiku truyền thống.
Đây là những cơ sở để làm mẫu cho sự hình thành luồng tư tưởng và lối nghệ thuật
mới. Nếu không có những nhân tố đó, có lẽ Shiki khó có thể thành công trong
công cuộc cách tân của mình.
114
3.2.2. Bước tiến vượt bậc trong cách tân nghệ thuật thơ haiku Năm 1900, tác phẩm Haiku Bunrui 俳句分類 (Phân loại tuyển tập Haiku)
được xuất bản. Có thể nói đây là bước ngoặt đưa Shiki đạt bước tiến vượt bậc
trong việc cách tân haiku của mình. Dành hơn 10 năm để nghiên cứu, sáng tác và
thử nghiệm nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau. Tuy thời gian hoạt động thơ
ca không quá dài nhưng Shiki đạt được nhiều thành công đáng kể, với Shiki –
zenshu (Shiki toàn tập) gồm 22 quyển. Bài thơ thành công đầu tiên năm 1895 Shiki
được ông xem như là tiêu chuẩn nghệ thuật thơ haiku đổi mới.
kaki kueba Ăn quả hồng 柿食えば
kane ga naru nari chuông Pháp Long tự 鐘が鳴るなり
houryuji ngân vang. 法隆寺
(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)
Để hiểu thêm quá trình cách tân thơ haiku hiện đại của Shiki, trong phần
dưới đây, chúng tôi sẽ đi làm rõ ba phương diện thay đổi nghệ thuật (có nhiều
phương diện nhưng chúng tôi chỉ chú trọng vào các phương diện tiêu biểu nhất)
mà Shiki đã có đóng góp lớn nhất vào công cuộc cải cách này.
3.2.2.1. Khuynh hướng tả sinh và những bước tiến mới
Mô hình thuật ngữ shasei 写生 (tả sinh) lần đầu tiên du nhập vào Nhật Bản
do họa sĩ Fusetsu Nakamura 中村 不折 (1866-1943). Thực chất trước đó Buson
đã thể hiện được điều này nhưng chưa hình thành thuật ngữ và có tính khái quát
sơ khai qua loại hình haiga 俳画 (bài họa). Bởi shasei đang trở thành xu hướng
trong buổi giao thời văn hóa phương Tây nên Shiki quyết định dựa trên khuynh
hướng này để phát triển cách tân thơ haiku. Ngoài ra, Shiki còn kết hợp cả mô
hình lí tưởng shajitsu 写実 (tả thực) được họa sĩ người Pháp Raphael Collin (1850-
115
1916) khởi xướng tại Nhật Bản vào đầu thời Meiji. Sự hòa quyện giữa shasei và
shajitsu làm cho haiku như được “tái sinh” sau những ngày chìm đắm trong suy
thoái. Mô hình sáng tác haiku mới với nghệ thuật tả sinh hình thành và bắt đầu
phát triển mạnh mẽ.
Từ lý thuyết tả sinh, Shiki định hướng lại cách sáng tác haiku thực tế hơn
với đời sống xã hội. Lối chơi chữ và tưởng tượng trong haiku dần bị xóa bỏ, thay
vào đó là sự quan sát thực tế, sinh động sự vật một cách tự nhiên.
kuruki made ni Tím chuyển 黒 き ま で に
murasaki fukaki sang đen 紫 深 き
budo kana những chùm nho. 葡萄 か
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Hay:
kaburitsuku Tôi cắn chặt răng かぶりつく
jukushi ya hige o vào trái hồng chín 熟柿や髯お
yogoshikeri rơi từng giọt xuống râu. 汚しけり
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Những bài thơ hết sức chân thực miêu tả lại những quá trình tự nhiên diễn
ra trong đời sống. Càng ngày, thơ haiku của Shiki càng thấm đẫm tính hiện thực,
bởi chất liệu làm thơ của ông là những gì có sẵn trước mắt, là cái hiện thời. Shiki
từng khẳng định điều đó như sau “hãy lấy tư liệu từ chính những thứ đang hiện
diện xung quanh – nếu thấy cây bồ công anh thì hãy viết về cây bồ công anh. Nếu
thấy sương mù hãy viết về sương mù. Nguồn thi liệu cho văn chương là vô tận.
Ngay cả đôi giày cũ cũng có thể trở thành thi liệu cho thơ văn còn hay hơn là viết
về đôi giày của phương Tây” [43; 46].
116
Không dừng ở lối tả thực đầy sinh động như vậy, Shiki còn đề xuất hướng
lối thơ “Phi Không Phi Thực”. Shiki cho rằng haiku không chỉ mang tính thực tế
sát sao mà cần thêm sự không tưởng, nếu giao hòa tốt hai yếu tố này haiku sẽ đạt
được trình độ nghệ thuật tuyệt vời nhất. Chúng ta thấy, trong một khuynh hướng
Shiki vẫn không hài lòng với cái có sẵn mà còn phải kết hợp để chúng thêm tính
đa dạng.
byosho no Tôi cảm thấy 病牀 の
ware ni tsuyu chiru sương rơi trên tôi 我 に 露 ち る
omoi ari khi nằm trên giường. 思 ひ あ
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Hay:
kobai no Hoa mận đỏ thẫm 紅梅 の
chirinu sabishiki rải trên sự cô đơn 散りぬ淋 し き
makura moto chiếc giường. 枕 元まくら
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Hai bài thơ này tiêu biểu cho lối viết sáng tạo kết hợp chất hiện thực và tâm
tưởng của Shiki. “Sương” và “hoa mận” là hai sự vật mang tính chất hiện thực,
hoạt động ở đây diễn ra thường nhật như chính qui luật của tạo hóa “sương rơi”,
“hoa rụng”. Nhưng ở đây, “sương” lại rơi trong tâm tưởng của thi sĩ, một sự việc
diễn ra có vẻ như nghịch lý so với tự nhiên, làm sao sương có thể rơi trong nhà,
rơi trên tác giả. Hoa mận rụng trong sự cô đơn, không phải là sự cô đơn của con
người mà là sự cô đơn của chiếc giường. Lại thêm một trường liên tưởng đầy tính
ngoạn mục, hai bài thơ như có mối liên kết thực tại tuyệt vời. Tác giả nghĩ đến
ngày mình rời khỏi chốn trần thế này, sương phủ đầy người trong sự lạnh lẽo và
117
chiếc giường cô đơn không ai nằm trải đầy hoa mận đỏ. Không gian ảo đang dần
là không gian thực khi chính nhà thơ tiên định được căn bệnh của đời mình. Sự
phối trộn hiện thực và liên tưởng khiến cho haiku thêm phần đặc sắc. Nếu đứng
trên một phương diện duy nhất (hoặc hiện thực, hoặc lãng mạn), haiku có khi sẽ
không đạt đến sự hòa quyện ấy.
Những bài haiku của Shiki luôn mang tính miêu tả khách quan, Buson cũng
từng làm thơ mang tính khách quan nhưng ở Shiki lại có điểm mới hơn. Điểm mới
là cái khách quan của Shiki không đi sâu vào cái ta chung mà có sự hòa phối nhịp
nhàng. Kết hợp giữa khách quan và chủ quan, giữa giản đơn và tinh tế, giữa hiện
thực và huyền ảo. Bởi thế, haiku của Shiki như một hiện tượng kết tinh của tất cả
nghệ thuật trước đó và thêm phần đổi mới sáng tạo. Hàng loạt bài thơ hình thành
trên phong cách đó:
harukaze ya Đứng trên đồi 春風や
toushi idakite tôi thách thức 闘志いだきて
oka ni tatsu gió xuân. 丘にたつ
(Masaoka Shiki) (Đoàn Lê Giang dịch) (正岡子規)
Hay:
kurimishi ya Hạt dẻ trắng 栗 飯 ヤ
byonin nagara mặc dù tôi bệnh 病人 ナ ガ ラ 大
okurai vẫn cứ háu ăn. 食 ヒ
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Để tìm ra được những đặc trưng nghệ thuật đó, không hề đơn giản, mà cần
phải có một quá trình lâu dài nghiền ngẫm và sáng tạo không ngừng. Cuộc đời
ngắn ngủi chỉ 35 năm, trong khi chính thức hoạt động thơ ca khoảng hơn 10 năm,
118
vậy động lực nào đã giúp Shiki rút ngắn quá trình tìm tòi, khám phá ra một phong
cách nghệ thuật mới? Có lẽ một phần do sự nhạy bén trước cuộc sống, xã hội hiện
đại, một mặc do lí tưởng sục sôi bắt buộc phải cách tân thơ haiku. Và cũng phải
kể đến tinh thần dân tộc, thôi thúc Shiki cứu lấy văn hóa truyền thống. Shiki bắt
đầu viết rất nhiều, tiếp cận vô vàng sự vật, hiện tượng xung quanh đời sống, phát
triển khuynh hướng tả sinh lên một tầm cao mới. Chỉ trong năm 1893, Shiki sáng
tác hơn 4000 bài haiku. Khuynh hướng tả sinh được Shiki vận dụng thành công
trong hầu như tất cả các bài haiku của mình, những bài tuyệt tác cũng mang bóng
dáng của tả sinh.
Không hề mệt mỏi với công cuộc cách tân thơ haiku, Shiki bỏ qua bệnh tật
và tiếp tục cuộc hành trình về với cái mới.
futasuji ni Hai cầu vồng 二 筋 に
niji no tattaru đã hiện lên 虹 の 立 っ た る
aota kana trên cánh đồng xanh ngát. 青田哉
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Đó là bức tranh thiên nhiên sử dụng phương pháp tả thực khách quan dường
như là cuối cùng của Shiki. Lối viết vừa khách quan vừa lột tả được cả tâm trạng
của tác giả. Có mấy khi xuất hiện hai cầu vồng, rồi sự phối màu hòa điệu với thiên
nhiên được sử dụng tinh tế, trên nền cỏ xanh. Đó là cảnh vật, đó cũng là mong ước
có thêm nhiều người mang niềm đam mê cách tân cho thơ haiku. Sự mong mỏi
haiku ngày càng phát triển, đạt trình độ nghệ thuật cao và đạt được chiều sâu tâm
thức chân thực. Đó là Shiki, người phát triển khuynh hướng tả sinh trong thơ haiku
đầu tiên thời Meiji.
119
Cũng bằng lối tả thực khách quan này, các quan niệm về cảm thức thẩm mĩ
cũng được thay đổi đáng kể trong thơ haiku. Không như thơ haiku truyền thống,
thơ haiku hiện đại xem cảm thức thẩm mĩ đơn giản là những run cảm bình dị nhất
mà sự hài hước hóm hỉnh của thơ haiku mang lại. Không câu nệ, ẩn ý Thiền như
Basho, Shiki khuyến khích sáng tác những vần thơ chân thực, thoát khỏi sự bộn
bề, căng thẳng, đưa tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng vào trong thơ. Sự đổi mới đó
cũng là bước ngoặc giúp chúng ta có cái nhìn mới mẻ hơn về quan niệm thẩm mĩ.
3.2.2.2. Đỉnh cao của “haiku dư từ”
Nếu nói, đến thời hiện đại, haiku mới bắt đầu phá vỡ cấu trúc truyền thống
(5-7-5) để đổi mới thì không phải. Từ thời Basho đã có sự biến đổi này, nhưng đến
thời kì hiện đại, sự phá vỡ cấu trúc ấy mới mang một chủ đích cụ thể và đạt đỉnh
cao thực sự.
Có lẽ, sự phát triển của haiku dư từ bị tác động bởi phong trào thơ mới khi
văn học phương Tây du nhập vào Nhật Bản ngày một mạnh mẽ. Các nhà cách tân
thơ haiku phát động phong trào jiyuu – ritsu (luật tự do) để phát triển một lối thơ
phóng khoáng, không bị ràng buộc. Tạp chí Hototogisu là phương tiện giúp phát
triển rộng rãi trào lưu ji –amari 字余り(haiku dư từ) ra đại chúng. Shiki không
ngừng nghỉ sáng tác nhiều bài thơ với trào lưu mới như bài thơ sau (6-8-5):
yu-ki-no-i-e-ni Trong nhà tuyết 雪の家に
ne-te-i-ru-to-o-mo-fu lim dim ngủ 寝て居ると思ふ
ba-ka-ri-ni-te mãi vẫn vơ. ばかりにて
(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)
Phong cách viết một cách phóng khoáng, thay thế từ ngữ bằng những từ
khác có âm dài hoặc ngắn hơn để diễn tả, thay vì bó hẹp theo khuôn khổ. Thử so
120
sánh điểm mới mẻ trong haiku dư từ của các nhà thơ như Basho, Buson và các nhà
thơ hiện đại:
ro-no-ko-e Dạ rét căm căm 櫓の声
na-mi-da-wo-ut-te-ha-ra-wa-ta-ko-o-ru tiếng chèo khua sóng 波 を う っ て 腸
yo-ya-na-mi-da nước mắt và bóng đêm. 氷る
(Matsuo Basho) (Đoàn Lê Giang dịch) 夜や涙
(松尾芭蕉)
Và:
gek-ko-u-ni-shi-ni-wa-ta-re-ba Dưới tán hoa đằng đông 月光西に渡れば
ha-na-ka-ge-hi-ga-shi-ni dạo bước thong dong 花陰東に
a-yu-mu-ka-na phía trời tây trăng dõi. 歩むかな
(Yosa Buson) (Lam Anh dịch) (与謝蕪村)
Với bài thơ hiện đại của Mitsuhashi Takajo:
kono ki noberaba Leo lên cây này この樹登らば
kijo to narubeshi tôi sẽ thành thần nữ 鬼女となるべし
yuu momiji giữa bạt ngàn lá đỏ chiều nay. 夕紅葉
(Mitsuhashi Takajo) (Đoàn Lê Giang dịch) (三橋鷹女)
Có thể thấy, lối haiku dư từ đơn giản giống nhau về cách sử dụng từ ngữ
theo lối mở rộng, bất qui tắc. Nhưng đối với haiku dư từ hiện đại vẫn có điểm mới
hơn so với kiểu haiku dư từ cổ điển. Nếu các nhà thơ cổ điển như Basho, Buson
dùng cách thêm vào các từ ngắt (kire-ji) để tạo khoảng cách, ngắt câu trong bài
thơ, nên lượng âm tiết sẽ nhiều hơn bình thường. Các từ ngắt thường được sử dụng
như kana かな(哉)(có lẽ), mo も(cũng), keri けり(dường như), yo よ(ấy, thế)
121
được sử dụng nhiều trong haiku dư từ cổ điển. Còn đến thời hiện đại, haiku dư từ
dường như là sự cố ý thêm vào các từ ngữ mới mẻ, diễn tả một cách bộc bạch và
thường ít sử dụng từ ngắt, chủ trương dùng dấu phẩy để ngăn cách các vế câu. Đó
là sự khác biệt cơ bản, ngoài ra ở haiku dư từ hiện đại còn là phương thức cơ bản
thể hiện sự tự do theo lối phương Tây. Còn haiku dư từ cổ điển do các yếu tố phụ
như không tìm được từ diễn tả, không thể nói hết ý trong một khuôn mẫu nhất định
nên phải phá vỡ qui tắc.
Ảnh hưởng bởi đề xuất mới mẻ này nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện
đại, sau này nhiều nhà thơ theo phong trào haiku dư từ với lối viết đặc sắc thể hiện
cái tôi cá nhân trong haiku.
Shiki cho rằng sự hạn định số âm tiết trong haiku là một trong những nguyên
nhân khiến haiku suy thoái. Vì vậy, việc đề ra giải pháp haiku dư từ sẽ phần nào
giúp haiku thoát khỏi sự hạn định với hơi hướng “lạc hậu” khó bày tỏ cảm xúc.
Trong thời Shiki và sau đó, trào lưu này phát triển mạnh mẽ. Nhưng vào thời
Showa, một số khuynh hướng quay về với haiku truyền thống đã dần từ bỏ trào
lưu này. Bởi họ cho rằng phát triển nghệ thuật không nên chỉ đơn thuần dựa vào
cấu trúc hình thức mà đầu tiên phải phát triển về tư tưởng.
Suy cho cùng, đây cũng là một hướng phát triển tốt trong sự nghiệp cách
tân mà Shiki đã đề ra, nghệ thuật thơ haiku phát triển theo nhiều hướng và haiku
dư từ là một trong những hướng đó.
3.2.2.3. Thay đổi quan niệm về kigo
Kigo 季語 (quý ngữ) có thể xem là linh hồn của thơ haiku. Thiên nhiên Nhật
Bản đa dạng và phong phú, vì vậy kigo từ thời haiku cổ điển đã đang dạng không
kém. Hầu như tất cả các nhà thơ đều sử dụng kigo trong các bài thơ như một qui
122
định bắt buộc, cho dù thể hiện trực tiếp hay gián tiếp. Basho là người tiên phong
trong việc đưa kigo vào haiku. Nhưng đến Shiki, ông lại quan niệm kigo theo một
hàm nghĩa rộng hơn, sự vật chỉ mùa thay vì từ chỉ mùa. Có nghĩa, kigo có vai trò
là kidai –me 季題目 (đề tài mùa) và thay thế kigo bằng kidai 季題. Đó là quan
niệm khá mới mẻ, phù hợp với thời đại mới, thoát khỏi những qui tắc truyền thống
không thể vận dụng vào cuộc sống hiện đại. Nói như vậy không phải Shiki phủ
nhận hoàn toàn kigo như từ chỉ mùa, ở đây quan niệm của ông bao quát cả đề tài
mùa. Shiki vẫn làm những bài haiku sử dụng kigo như từ chỉ mùa:
yuuzuki ya Chạng vạng trăng cao 夕 月 や
hitokatamari ni những cánh hoa rụng 一 か た た り り に
chiru sakura từ cây anh đào. 散桜
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Hay:
unohana o Chim đỗ quyên 卯の花を
megakete kitaka ngước nhìn めかけてきたか
hototogisu hoa cẩm tú cầu. ほととぎす
(Masaoka Shiki) (正岡子規)
Cây anh đào, và chim đỗ quyên là kigo chỉ mùa xuân và mùa hạ những bài
thơ trên hết sức bình thường về kigo nhưng lại mang màu sắc hình ảnh mới về
tương tác tâm trạng của sự vật. Nhưng một số bài Shiki lại mang hàm nghĩa kigo
hoàn toàn mới.
kodomo gachi ni Đám trẻ nhỏ 子供がちに
kurisumasu no hito vây quanh クリスマスの人
123
atsuhikeri Ông già Noel. 集ひけり
(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)
Kigo “kurisumasu” loại hình từ ngữ vay mượn sau đó phiên âm mang nghĩa
là Giáng sinh. Ở đây, kigo đóng vai trò là đề tài mùa chứ không phải từ chỉ mùa.
Hình ảnh ông già Noel chỉ mùa đông, ở các nước phương Tây theo quan niệm
Thiên chúa giáo, mùa đông là mùa chúa sinh ra đời. Ảnh hưởng bởi sự tiếp thu
văn hóa phương Tây, Shiki đưa những từ ngữ mới mẻ làm kigo cho các bài haiku.
Như vậy, haiku đã thay đổi về cấu trúc kigo và cách ấn định kigo tự do.
Tương tự vậy, nhiều bài thơ của Shiki có những kigo đặc biệt dùng để chỉ
mùa như mùa xuân thì có “tiền mừng tuổi”, rồi những từ ngữ hiện đại được vay
mượn từ tiếng Anh như “mùa giảm giá”, “mùa tốt nghiệp”,... Đối với Shiki, haiku
có hoặc không có kigo thì đó vẫn là sự giao hòa giữa thiên nhiên và cuộc sống con
người, cần phát triển cả hai mặt chứ không đơn thuần phát triển một mặt nào cả.
otoshidama wo Tiền mừng tuổi 年玉を
narabete oku ya đã sắp sẵn 並べて置くや
makura moto dưới gối đầu. 枕元
(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)
Hay:
seru wo kite Mùa giảm giá セルを着て
fuufu hanarete phu thê xa cách 夫婦離れて
Kyoshi ni ari Kyoshi đã từng . 虚子に在り
(Masaoka Shiki) (Quỳnh Như dịch) (正岡子規)
124
Quan niệm kigo này về sau được nhiều nhà thơ haiku hiện đại phát triển trên
nền tảng của Shiki. Khái niệm muki – haiku 無季俳句 (haiku không mùa) được
phổ biến trong các bài thơ thời kì sau rất nhiều. Nói như vậy không phải phủ nhận
hoàn toàn việc xuất hiện của kigo, mà ở đây đổi mới haiku khi biết vận dụng những
ngôn ngữ sinh hoạt có tính chu kì vào để tạo ra tư liệu mới cho kigo. Nhiều kigo
mang tính chất chu kì tuần hoàn như “tốt nghiệp” (mùa tốt nghiệp khoảng cuối
tháng 3), “nhập học” (mùa tựu trường khoảng đầu tháng 4), “nhân viên mới” (mùa
tuyển dụng từ đầu đến giữa tháng 4), “thơ haiku” (mùa thơ haiku vào ngày 19
tháng 8),...
sotsugyo no Trên bàn 卒業の
tsukue ni hotto luận văn tốt nghiệp 机にホット
keiki kana chiếc bánh nướng. ケーキかな
(Suda Yasuko) (Quỳnh Như dịch) (須田康子)
Không những mang màu sắc mới về mùa mà đó còn là một cách chơi chữ
sử dụng ngôn ngữ độc đáo. Nếu phân tích kĩ ngôn ngữ của từ haiku dưới mức độ
phối âm trùng thì sẽ nhận thấy cái tuyệt diệu đó. Âm “ha” trùng âm với âm đầu
trong từ hachi (số 8), âm “i” trùng âm với âm đầu trong ichi (số 1) còn âm “ku”
gần trùng với kyu (số 9). Sắp xếp các âm lại với nhau ta sẽ ra ngày 19 tháng 8
(Nhật Bản sử dụng cách sắp xếp: năm, tháng, ngày; nên từ haiku (ha- i – ku ) sẽ
sắp xếp thành 8 -1 -9). Tương tự vậy ta có ngày của hoa “hana no hi” vào ngày 7
tháng 8, ngày côn trùng “mushi” vào ngày 4 tháng 6. Cách phân tích các ngày này
tương tự bằng biện pháp trùng âm như trên. Đây là một sự sáng tạo khá đặc sắc
trong ngôn ngữ Nhật Bản làm cho haiku thêm phần giá trị nghệ thuật độc đáo.
125
Như vậy, dựa vào sự đề xuất thay đổi quan niệm về kigo của Shiki, thơ
haiku gần như thay đổi linh hồn từ thiên nhiên quay về với cuộc sống sôi động của
thời hiện đại. Không khước từ các kigo thiên nhiên, mà bổ sung vào đó các kigo
hiện đại để nâng cao giá trị nghệ thuật của thơ ca, phù hợp với xu hướng phát triển
của văn học giai đoạn hiện đại hóa. Sự thay đổi đó cũng là cầu nối từ người sáng
tác đến độc giả, tạo sự gần gũi, đơn giản hóa, không cầu kì, rắc rối.
3.3. Thơ haiku sau Shiki và những biến đổi về nghệ thuật Sau khi Shiki mất, các nhà thơ tiếp tục con đường cách tân mà Shiki đã vạch
ra. Tuy có sự trái ngược nhau về khuynh hướng nhưng nói chung giai đoạn này và
sau nữa sự cách tân thơ haiku đã có những bước tiến đáng kể.
3.3.1. Thơ haiku thời Taisho Haiku thời Taisho 大正 tiêu biểu cho khuynh hướng của các nhà thơ sau
Shiki trong đó có Kawahigashi Kekigodo 河東碧梧桐 (1873-1937), Takahama
Kyoshi 高濱虛子 (1874-1959) đồng môn của Shiki và các nhà thơ như Osuga
Otsuji 大須賀 乙字 (1881-1920), Ogiwara Seisensui 荻原井泉水(1884-1976),
Ozaki Hosai 尾崎 放哉 (1885-1926), Taneda Santoka 種田 山頭火 (1862-1940),
cùng các nhà thơ thuộc phái Hototogisu (Chim quyên) do Kyoshi sáng lập. Các
nhà thơ haiku “mới” đã cùng nhau bồi đắp tiếp tục con đường nghệ thuật mà Shiki
đã hướng đến cho nó ngày một rộng và xa hơn. Như dịch giả Hoàng Long đã gọi
giai đoạn này là “hai lối mộng trong thơ haiku hiện đại” [52], hai lối mộng cách
tân của Kekigodo và Kyoshi.
3.3.1.1. Khuynh hướng haiku tượng trưng
Kekigodo từng tranh cãi và bàn luận với Shiki về xu hướng thơ haiku tượng
trưng (miêu tả phong cảnh như thật) nhưng không được Shiki chủ trương đồng ý.
126
Sau khi Shiki mất Kekigodo đã đi theo hướng phát triển haiku riêng biệt. Ông chủ
trương theo lối haiku miêu tả sự vật vô trung tâm luận (không cần có trọng tâm).
akai tsuboki Sơn trà trắng 赤い椿
shiroi tsuboki to sơn trà hồng 白い椿と
ochi ni keri cùng rụng xuống mênh mông. 落ちにけり
(Kawahigashi Kekigodo) (Hoàng Long dịch) (河東碧梧桐)
Khi đọc bài thơ của Kekigodo ta có thể nhận thấy không có một điểm nhấn
trung tâm nào. Sự vật được miêu tả như một tần số ổn định, bình thường và chân
thật nhất. Ảnh hưởng bởi xu hướng tả sinh của Shiki, nhưng Kekigodo đã biết vận
dụng sáng tạo chuyển thành xu hướng tượng trưng độc đáo. Hoa trà đỏ và trắng là
hai sự vật tuy liên quan nhưng không cùng tồn tại trong một chủ thể là cây trà, bởi
mỗi loại cây có một đặc trưng riêng. Sự liên tưởng này tuy có hơi hướng giống
khuynh hướng “Phi Không Phi Thực” nhưng lại mang tính khách quan về chủ
thể sự vật nhiều hơn, nội dung liên tưởng mang tính hiện thực và sát với chủ thể
thực tế. Còn ở bài haiku sau Hekigodo lại mang sự tượng trưng đặc biệt và có thể
nói là vô cùng đặc sắc, khuynh hướng tả thực dường như bị chèn ép và chỉ làm
nền cho xu hướng tượng trưng:
harusamu shi Xuân giá rét 春寒し
suiden no ue no trên ruộng lúa nước 水田の上の
kon nashi kumo đám mây không chân trời. 根なし雲
(Kawahigashi Kekigodo) (Quỳnh Như dịch) (河東碧梧桐)
Hình ảnh “đám mây không chân trời” tượng trưng cho mặt nước dưới ruộng
lúa đang in bóng những đám mây. Màu của nước hòa lẫn vào màu của mây như
đám mây không thể bay đến một chân trời, nằm im và níu lấy những thân lúa. Sự
127
gán ghép ấy không phải là một hóan dụ hay ẩn dụ mà là sự thay thế sự vật độc lập
không có mối quan hệ tương cận hoặc tương đồng. Nghệ thuật tượng trưng này
khi đưa vào haiku làm cho haiku thêm phần đặc sắc và giàu hình ảnh mang tính
chỉnh thể hơn. Tiếp nối Kekigodo trong khuynh hướng haiku tượng trưng có
Ogiwara Seisensui và Osuga Otsuji.
sora wa sabishi yo Trời âm u 空わさびしよ
ie araba nhà mọc lên nhiều 家あらば
kemuri wo age yo khói lại càng cao. 煙をあげよ
(Ogiwara Seisensui) (荻原井泉水)
Bài haiku này còn mang tính tượng trương hiện đại hơn cả các bài haiku
của Kekigodo. Hình ảnh nhà mọc cao, khói bay cao chỉ sự hiện đại hóa mà xã hội
đang tiếp diễn. Muốn phát triển, cần vươn lên và haiku muốn mới cần nhiều sự cải
cách. Như vậy, lối viết tượng trưng gần như đồng bộ hóa thiên nhiên và cuộc sống
của con người, thiên nhiên vẫn như vậy còn cuộc sống con người ngày càng hiện
đại hơn, kéo theo thiên nhiên phải đổi thay. Hình ảnh trong thơ haiku của khuynh
hướng tượng trưng không mâu thuẫn về hình ảnh và nhận thức của người đọc mà
có sự giao hòa tuyệt diệu.
Như vậy, “lối mộng” của Hekigodo đã đưa haiku theo một quỹ đạo mới,
khác lạ, sáng tạo đặc sắc. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như vẫn đi theo lối cũ
và dựa trên nền tả khuynh hướng tả thực khó tách rời. Đôi lúc các bài thơ mang
tính tượng trưng còn nặng về câu chữ và nghệ thuật bị bó hẹp trong các xu hướng
trước và đương thời. Nhưng nói chung, đó cũng được xem là một hướng đóng góp
mới cho nghệ thuật thơ haiku phát triển trong thời buổi hiện đại hóa, hội nhập.
128
3.3.1.2. Khuynh hướng haiku phúng vịnh
Người dẫn đầu đề ra khuynh hướng haiku phúng vịnh là Takahama Kyoshi
– người tiếp tục lãnh đạo tạp chí Hototogisu phát triển. Ông phát động trào lưu
haiku “Hoa điểu phúng vịnh” (ka-chou-fu-ei). Hoa – điểu là thiên nhiên vạn vật,
phúng – vịnh ý nói tình cảm con người, như vậy haiku là sự giao hòa giữa con
người với thiên nhiên. Lối viết này về sau được Kyoshi phát triển nhiều trên tạp
chí Hototogisu và trở thành một trào lưu sau Shiki. Thơ haiku của Kyoshi mang
tình cảm con người, nhưng không phải là thứ tình cảm chủ quan, cá nhân mà là
tình cảm khách quan, mang tính đại chúng. Ông chủ trương gìn giữ tính truyền
thống của haiku và phát triển chiều sâu nghệ thuật thay vì thay đổi hình thức nghệ
thuật bên ngoài. Rút kinh nghiệm từ người bạn đồng môn là Hekigodo với lối viết
chủ quan, Kyoshi không đi theo hướng đó vì lo sợ ngôn ngữ thơ haiku sẽ hướng
đến sự tầm thường, lạc hậu, không bắt kịp nhu cầu của thời đại.
hatsu cho wo Dường như giấc mơ 初蝶を
yume no gotoku ni bay đi mất 夢の如くに
mi ushinafu theo đàn bướm xuân. 見失ふ
(Takahama Kyoshi) (高浜虚子)
Đàn bướm là một chủ thể của thiên nhiên, giấc mơ là ảo mộng của con
người, một lối kết hợp đặc sắc, trau chuốt về mặt lý tính và cảm xúc. Khi con
người hòa vào thiên nhiên là khi những vần thơ mang âm điệu của thiên đàng.
Khác với các nhà thơ trước hướng về thiên nhiên với sự hòa hợp cá thể chủ quan
thì Kyoshi hướng về thiên nhiên với cái ta chung của mọi người.
ame harete Mưa tạnh rồi 雨晴れて
shibaraku bara no cánh tường vi ấy しばらく薔薇の
129
nioi kana một thoáng hương trôi. 匂いかな
(Takahama Kyoshi) (Nhật Chiêu dịch) (高浜虚子)
Sự đớn đau nhưng mang niềm hạnh phúc. Sự hi sinh nhưng lại là nụ cười
mới. Quan niệm về cuộc sống con người và thiên nhiên của Kyoshi là một quan
niệm cực kì mới, ảnh hưởng bởi môi trường văn hóa hiện đại và cuộc sống bon
chen của xã hội. Những bài haiku của Kyoshi và các nhà thơ sau đi theo khuynh
hướng phúng vịnh này mang đậm chất suy ngẫm. Bởi theo ông:
kono yama ni Ở trong núi 此の山に
sumikeru karasu, chim, rắn và thú dữ 住みける烏、
kemono, hebi sống cùng nhau. 獣、蛇
(Takahama Kyoshi) (高浜虚子)
Và tiếp đó là Iida Dakotsu 飯田蛇笏 (1888-1962) người kế thừa, phát huy
cao độ khuynh hướng phúng vịnh của Kyoshi trên tạp chí Hototogisu và trở thành
trụ cột chính cho trường phái này. Thơ ông là tiếng than ai oán trước cuộc đời và
giữ được sự bất dịch của thơ haiku truyền thống.
fuyu kawa ni Bước ra sông đông 冬川に
dete nani wo miru ơ kìa thiếu phụ 出て何を見る
hito no tsuma đang ngắm chi chi. 人の妻
(Iida Dakotsu) (Quỳnh Như dịch) (飯田蛇笏)
Hay:
tamashihi no Tĩnh lặng hồn ta たましひの
shizukani utsuru ngắm nhìn しずかにうつる
kikumi kana hoa cúc.
130
(Iida Dakotsu) 菊見かな
(飯田蛇笏)
Lẫn trong các màu sắc haiku đó là lối thơ độc đáo của nữ sĩ Sugita Hisajo
杉田 久女 (1890-1946), tuy về sau bà không còn tham gia vào phái Hototogisu
nhưng những vần thơ của bà để lại đầy ấn tượng và tiêu biểu cho lối viết phúng
vịnh sâu xa tình cảm con người.
hana gomoro Từng mãnh xiêm y 花衣
nyguya matsuwara rời thân thể ngọc đi ngắm hoa về ぬぐやまつはる
himo iroiro sợi hồng lưu luyến. 紐いろいろ
(Sugita Hisajo) (Quỳnh Như dịch) (杉田 久女)
Tiếng nói mạnh mẽ từ người phụ nữ chân yếu tay mềm trở nên đanh thép
và tự nhiên mang sức mạnh chống lại các quan niệm cổ hủ. Người phụ nữ dần
được nâng cao giá trị hơn trong xã hội. Quyền tự do mà người phụ nữ phải có như
những bông hoa được thêm phân bón và tưới nước hằng ngày.
Khuynh hướng Hoa Điểu Phúng Vịnh mà nhóm Hototogisu của Kyoshi đề
ra tuy có khuynh hướng quay về với haiku truyền thống nhưng vẫn mang xu hướng
mới. Tình cảm con người và lối thể hiện sự phúng vịnh tinh tế đã tôn lên vẻ đẹp
nghệ thuật trong thơ haiku hiện đại. Đây cũng là bước đà để các nhà thơ giai đoạn
sau cùng chủ trương giữ gìn tính truyền thống của thơ haiku thay vì biến đổi nó
thành một thể thơ tự do hoàn toàn xa lạ.
3.3.2. Thơ haiku tiền – hậu chiến Trải qua nhiều giai đoạn cải cách từ thời Meiji đến thời Taisho, haiku với
những chuyển biến không ngừng nhưng vẫn đi theo những xu hướng nhất định.
131
Nhưng đến thời khói lửa chiến tranh Showa 昭和, haiku lại thêm một lần nữa “vật
lộn” với việc tìm đường giữa các xu hướng khác nhau. Nhưng lần này không phát
triển theo xu hướng nhất định mà có sự pha trộn, phối vị của nhiều xu hướng khác
nhau. Do tác động của chiến tranh, sự kiềm nén của chế độ, haiku bắt đầu suy
thoái. Nhưng với nền tảng vững chắc từ thời Edo đến Meiji, Taisho, haiku đã đứng
vững để phát triển về mặt nghệ thuật. Một xu hướng nghệ thuật haiku hiện đại mới
ra đời, hoàn thiện bởi sự tổng hợp nhiều ưu điểm của các thời đại trước.
3.3.2.1. Sự biến động về quan điểm nghệ thuật
Vào thời kì này, sự biến động về quan điểm nghệ thuật của nhiều nhà thơ
dẫn đến sự không thống nhất một trường phái để chống lại Hototogisu. Cho đến
khi Mizuhara Shuoushi 水原 秋櫻子 (1892-1981) với những bài haiku đổi mới về
nghệ thuật thì thi đàn haiku mới bắt đầu sự ổn định dần. Nhưng về sau, quan điểm
của Shuoushi vẫn bị nhiều nhà thơ trong đó có đệ tử của mình không tán thành và
hình thành nên nhiều xu hướng xung quanh các vấn đề nghệ thuật. Thời kì biến
loạn của nghệ thuật thơ haiku bắt đầu.
Shuoushi thành lập tạp chí Ashibi năm 1928, sau đó viết bài phê bình tính
khách quan trong thơ haiku của phái Hototogisu, chủ trương quay về tính chủ
quan. Nhiều phong trào được Shuoushi cổ động để thay đổi một nền haiku mới.
Nhưng Shuoushi mắc phải một khuyết điểm lớn là vẫn đề cập lại những cái đã bàn
đến như từ chỉ mùa, văn khẩu ngữ, cái mới chỉ là việc tập trung vào việc phát huy
tính trữ tình trong thơ haiku. Từ ngữ trong sáng, phong phú trong haiku là cách
mà Shuoushi tiến hành thay đổi nghệ thuật trong thơ haiku.
no no niji ni Cầu vồng trên đồng 野の虹と
haruta no niji to cầu vồng vụ xuân 春田の虹と
132
sora ni afu gặp nhau trên trời. 空に会ふ
(Mizuhara Shuoushi) (Quỳnh Như dịch) (水原 秋櫻子)
Hay:
tsuri bashi ya Trên cầu dây văng 吊橋や
hyappo no chuu no trăm bước không trung 百歩の宙の
aki no kaze gió thu. 秋の風
(Mizuhara Shuoushi) (Quỳnh Như dịch) (水原 秋櫻子)
Quan niệm của Shuoushi là xây dựng một nghệ thuật haiku không những
đẹp mà còn đủ độ bền, cứng để không dễ phá vỡ. Muốn được như vậy thì phải có
sự kết hợp giữa thiên nhiên theo kiểu truyền thống và hiện đại theo điều kiện cải
cách. Như những chiếc cầu vồng gặp nhau, cùng nhau tô điểm cho cuộc đời tươi
đẹp. Nhưng sau này khuynh hướng của ông bị lên án phê phán.
Tiếp đó, sự xuất hiện của nhiều nhà thơ khác như Yamaguchi Seishi 山口
誓子 (1901-1994) với lối đã kích “Hoa Điểu Phúng Vịnh” đề xuất “sự trống
rỗng” trong thơ haiku thời chiến tranh, nhưng không được chấp nhận. Kawabata
Bosha 川端茅舎 (1897-1941) với việc sử dụng nhiều ngôn ngữ Phật giáo, hình
ảnh mang tính chất đặc trưng hội họa. Nhưng các xu hướng này không tồn tại lâu
và không có ảnh hưởng đủ lớn để cải cách nghệ thuật thơ haiku theo hướng tiến
bộ.
Yamaguchi Seishi với lối diễn đạt cái tôi trong thơ haiku, được sự ủng hộ
nồng nhiệt từ mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Haiku như sống lại với lối viết của
ông.
natsu no kawa Sợi xích đỏ neo tàu 夏の河
133
akaki tessa no thấm cái nóng mùa hạ 赤き鉄鎖の
hashi hitaru xuống sông sâu. 端浸る
(Yamaguchi Seishi) (Đoàn Lê Giang dịch) (山口 誓子)
Những nhà thơ nhân bản bắt đầu xuất hiện, trong đó tiêu biểu là Nakamura
Kusaota 中村暮田男 (1901-1983) thành lập phái Ningen sankyuuha (Nghiên cứu
về con người). Những vần thơ của Kusaota hướng đến khai thác tâm hồn con
người, đi đến sâu thẳm trong tâm trí để tìm cái bình dị nhất.
furu ame ya Mưa rơi 降る雪や
meiji wa tooku làng Meiji 明治わ遠く
nari ni keri xa vời vợi. なりにけり
(Nakamura Kusaota) (Quỳnh Như dịch) (中村暮田男)
Hay những vần thơ về nói lên cảm nghĩ, niềm hi vọng về cuộc sống hạnh
phúc:
sora wa taisho no Da trời xanh 空わ太初の
aosa tsuma yori màu của thuở ban đầu ta đón quả táo từ ngày 青さ妻より
ringo uku người vợ. 林檎うく
(Nakamura Kusaota) (Nguyễn Nam Trân dịch) (中村暮田男)
3.3.2.2. Thơ haiku sau 1945 – nghệ thuật của thời đại mới Thơ haiku sau năm 1945 là cuộc cách tân đột phá về của mặt nghệ thuật lẫn
nội dung. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữ truyền thống và hiện đại là xu hướng
chung để haiku phát triển. Cách tân haiku với tư tưởng không phải đổi mới tất cả
mà luôn hướng đến sự hòa trộn hoàn hảo ấy.
134
Diện mạo mới của thơ haiku sau chiến tranh đã khẳng đinh vị thế quan
trọng, lôi cuốn, hấp dẫn của nó trong văn đàn Nhật Bản hiện đại. Haiku không hề
vắng bóng, mà cái bóng đó càng bao phủ rộng khắp và mới mẻ. Bài thơ sau của
Hirahata Seito 平畑静搭 (1905-1997) đã cho thấy tính hiện đại hòa quyện trong
những vần thơ truyền thống:
kuni no densha Xe điện quê tôi くにの電車
ima mo nishibi ni chiều về hướng tây 今はも西日に
kashira furu đầu xe rung lắc. 頭振る
(Hirahata Seito) (Quỳnh Như dịch) (平畑静搭)
Sự gồ ghề của đường xe điện chưa hoàn thành như thúc giục xã hội và nghệ
thuật phát triển để hoàn thiện hơn. Một xã hội Nhật Bản hiện đại với sự phát triển
“thần kì”, cũng như haiku, sự “thần kì” đó đã mang đến những màu sắc mới.
Nghệ thuật haiku thời đại mới không có sự hạn định và độ mở rộng vô hạn.
Không chỉ hướng về cuộc sống, haiku còn hướng về cả hậu quả chiến tranh. Chứng
tỏ sự phát triển về nghệ thuật đã góp phần vào việc thay đổi nội dung đề tài. Thơ
haiku, kinh tế, văn hóa Nhật Bản phát triển tỉ lệ thuận với sự mất mát đau thương
mà chiến tranh gây ra, người Nhật Bản phải gánh chịu. Đó không đơn thuần là sự
đối sánh mà đó là sự ca ngợi thành quả tột bậc mà người Nhật đã làm được. Như
bài haiku sau:
wan kyoku shi Ngoằn ngoèo 湾曲し
kashou shi vết thương cháy xém 火傷し爆心地の
bakushinchi no đường marathon. マラソン
marason (Quỳnh Như dịch) (金子兜太) (Kaneko Tota)
135
Bài thơ là sự mở rộng vô hạn về nghệ thuật thơ haiku. Không theo qui tắc
truyền thống, cấu trúc bị phá vỡ (5-8-4), không mang kigo, không có kire –ji (từ
ngắt), bao trùm bài thơ là một sức mạnh không khuất phục. Nhưng đâu đó, trong
cái mạnh mẽ ấy, sự đau đớn, trầm buồn, luôn hiện diện. Tâm hồn của người Nhật
nhẹ nhàng, mỏng manh như cây anh đào cổ thụ hiên ngang với gió sương nhưng
lại nở những cánh hoa mỏng manh bị gió thổi tung khắp đất trời. Thảm họa bom
nguyên tử ở Nagasaki và Hiroshima đã làm nước Nhật kinh hoàng, nhưng đáp trả
lại sự kinh hoàng đó là sự phát triển vượt bậc, phục hồi thần tốc, trở thành cường
quốc trên thế giới. Bài thơ như lời than vãn nhưng cũng là lời động viên tha thiết.
Đó là tập hợp toàn bộ tinh hoa của sự cách tân và phát triển gần 400 năm của thơ
haiku, chỉ gói gọn trong bài thơ này.
Thật sự việc cách tân thơ haiku không phải đến thời hiện đại mới có, mà nó
đã manh nha từ khi haiku bắt đầu hình thành. Trong cuộc sống, sự vận động của
vạn vật là yếu tố không ngừng để phát triển. Con người đạt được thành tựu văn
minh như hôm nay cũng phải trải qua hàng triệu năm tiến hóa. Haiku cũng vậy,
qua một quá trình dài, có cả thăng trầm, hào nhoáng, đúng lẫn sai,... mới mang
được màu sắc và nghệ thuật đặc sắc như bây giờ. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó,
haiku tiếp tục phát triển theo làn gió mới của văn học, bay xa khắp thế giới. Như
một thông điệp gửi đến mọi nơi, haiku là món quà của sự vận động và chuyển hóa
không ngừng của nghệ thuật và đời sống.
136
TIỂU KẾT 3
Ở chương 3, chúng tôi trình bày quá trình đổi mới theo xu hướng hiện đại,
một thế giới haiku mới đã hiện hình. Cuộc Duy Tân Minh Trị là nhân tố ảnh hưởng
rất lớn đến các trào lưu đổi mới trong đó có văn học, đặc biệt là thơ haiku. Nhưng
cũng chính sự du nhập của văn hóa phương Tây đã dẫn đến sự suy thoái của thơ
haiku so với các thể loại văn học khác. Haiku cần được đổi mới để thích ứng.
Người khởi đầu cho trào lưu cách tân đó là Shiki. Ở đây, chúng tôi trình bày công
cuộc cách tân xoay quanh Shiki nhưng cũng có điểm qua các xu hướng trước và
sau Shiki, để góp phần toàn diện và khách quan hơn. Sự ảnh hưởng bởi xã hội hiện
đại đã kéo haiku chạy đua với quá trình phát triển của các thể loại văn học khác.
Shiki là người có công lớn nhất trong quá trình định hình xu hướng và thành lập
các báo, tạp chí để tuyên truyền phát triển haiku. Các xu hướng như phá vỡ cấu
trúc truyền thống (đã có từ thời kì cổ điển), thay đổi quan niệm về kigo, haiku
tượng trưng, haiku phúng vịnh và haiku tự do hiện đại. Sau năm 1945, thơ haiku
có khuynh hướng đa dạng hóa về hình thức nghệ thuật, tiếp tục thay đổi không
ngừng. Sự kết hợp các xu hướng nghệ thuật thơ haiku sau này là đỉnh cao cho
haiku hiện đại mang màu sắc nghệ thuật đa dạng. Đó là bước ngoặc vĩ đại cho sự
lột xác của thơ haiku Nhật Bản. Chính nhu cầu của xã hội với những thị hiếu thẩm
mĩ mới, là lời kêu gọi cho sự vận động phát triển đó. Bằng sức sống tự thân và sự
kết hợp, trao dồi, bổ sung và phát triển của các nhà thơ cách tân, thơ haiku ngày
một hoàn thiện và phong phú về phương diện nghệ thuật. Thơ haiku vẫn tiếp tục
phát triển cho đến bây giờ và không bao giờ dừng lại sự đổi mới đó.
137
KẾT LUẬN
Qua quá trình phát triển hơn 400 năm ở Nhật và sự lan tỏa khắp thế giới,
thơ haiku Nhật Bản đã trải qua nhiều lần thay đổi và cải cách. Loại hình thơ ca đặc
biệt này đã mang lại hứng thú, khơi gợi quá trình tìm tòi và nghiên cứu chuyên
sâu để tìm ra nhiều điểm đặc sắc. Trong đó, sự biến đổi về mặt nghệ thuật là điều
quan trọng làm nên giá trị bất hủ của thơ haiku.
Nghệ thuật thơ haiku được biến đổi và phát triển theo từng thời kì văn học.
Không thể so sánh thời kì nào phát triển hơn thời kì nào mà cần có sự nhìn nhận
khách quan, chân xác về giá trị và sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật haiku
qua các thời kì.
Thơ haiku về phương diện nghệ thuật đã có sự phát triển đa dạng và phóng
phú. Nhiều bài thơ haiku đạt giá trị nghệ thuật cao về mặt ngôn ngữ, thủ pháp, cảm
thức thẩm mĩ,.. Ngôn ngữ thơ haiku như một rừng cây bao la, nơi đó ẩn chứa nhiều
điều thú vị và ngày càng sinh sôi nảy nở những chiếc lá non mới mẻ, độc đáo. Các
nhà cách tân thơ haiku đã có những khám phá, tìm hiểu và khai thác “khu rừng
ngôn ngữ” đó một cách sáng tạo để tạo ra những vần thơ mới mẻ. Thủ pháp nghệ
thuật là tấm màn che đậy sự bí ẩn. Bên trong tấm màn thủ pháp là một thế giới đầy
quyến rũ, lôi cuốn đi tâm hồn của người đọc một cách tinh tế, mang họ đến với
haiku và yêu haiku. Cảm thức thẩm mĩ như linh hồn của thơ haiku, tâm hồn đó
luôn đẹp, thanh thoát, nhẹ nhàng và triết lý. Thơ haiku có phát huy tối đa những
hình thức nghệ thuật đó hay không một phần lớn nhờ công cuộc cách tân của các
nhà thơ haiku. Từ khởi nguồn qua một chặng đường dài, các nhà thơ, phái thơ đã
đóng góp không ít công sức vào sự đổi mới của thơ haiku. Tứ trụ Basho, Buson,
Issa, Shiki, cùng các nhà thơ khác đã thổi vào haiku vô vàn luồng gió mới mẻ, mát
lành. Mỗi người có mỗi cách thức đổi mới nhưng chung quy đều như các nhánh
138
sông cũng hòa vào một biển lớn haiku. Biển haiku nổi sóng, mỗi con sóng là mỗi
bước đổi mới, con sóng này tiếp nối con sóng kia mãi mãi không ngừng nghỉ.
Thơ haiku là thể thơ ngắn, nhưng không đơn giản để hiểu, để sáng tác và
đặc biệt là để đổi mới về hình thức nghệ thuật theo thời gian. Nhưng hiểu được cái
hồn của haiku là điều tuyệt vời mà mỗi người cần trải nghiệm trong đời.
Như vậy, lịch sử thơ haiku phát triển kéo theo sự phát triển về nghệ thuật
một cách đặc sắc. Quá trình đó là một sự phấn đấu không mệt mỏi của các nhà
thơ. Nếu không có sự vận động cách tân đó thì thơ haiku không thể tồn tại và phát
tán đi khắp nơi như hiện nay. Bối cảnh giao lưu văn hóa hiện nay chắc hẳn là điều
kiện thuận lợi để haiku có thể phát triển hơn nữa. Sự phát triển rầm rộ của haiku
trên những miền đất mới là dấu hiệu tốt cho thể thơ truyền thống của Nhật Bản.
Haiku được bạn bè thế giới tiếp nhận một cách nồng nhiệt và trân quý, như chính
tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới dành cho Nhật Bản. Thơ haiku ảnh
hưởng ra thế giới rất nhanh, trong đó có Việt Nam. Nhiều câu lạc bộ, phong trào
dịch thuật và tiếp nhận thơ haiku từng bước phát triển mạnh ở Việt Nam và các
nước trên khắp thế giới. Trong sự giao thoa văn học Á Đông, và trong bối cảnh
toàn cầu hóa mạnh mẽ, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để haiku phát triển. Với
phương hướng đó, qua luận văn chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất và phương
hướng phát triển thơ haiku từ đề tài này:
Xét thấy nhu cầu tiếp nhận thơ haiku ngày càng cao ở Việt Nam, vì vậy cần
tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo nghiên cứu sâu về thơ haiku. Hiện tại các
công trình nghiên cứu về thơ haiku vẫn còn khá ít hoặc khá sơ sài.
Cần xuất bản nhiều tài liệu, sách báo liên quan đến thơ haiku, để người đọc
dễ dàng từng bước tiếp nhận thơ haiku dễ dàng hơn. Cần biên soạn nhiều bài khảo
139
cứu, tuyển thơ của các nhà thơ tiêu biểu, vì tài liệu tiếng Việt về các tuyển thơ
haiku hầu như chưa có.
Phổ biến giảng dạy thơ haiku ở các cấp học, đặc biệt nên đưa vào cấp tiểu
học để góp phần phục vụ định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Vì thơ
haiku giúp phát huy tối đa năng lực tưởng tượng và tư duy của con người đặc biệt
là trẻ em. Ở Nhật Bản từ lâu haiku đã được giảng dạy ở các cấp lớp tiểu học.
Từ đề tài này, có thể phát triển các hướng nghiên cứu sâu hơn về thơ haiku.
Tìm hiểu sự ảnh hưởng và xu hướng tiếp nhận thơ haiku trên thế giới cũng như ở
Việt Nam, cho thấy sự ảnh hưởng bởi các nhân tố tác động khác nhau trong từng
trường hợp. Có thể nghiên cứu sâu hơn về các cảm thức thẩm mĩ trong thơ haiku
theo từng thời kì, để thấy tầm quan trọng của các cảm thức trong việc tìm hiểu thơ
haiku. Nghiên cứu về giáo dục phát triển năng lực tưởng tượng thông qua giảng
dạy thơ haiku. Nói chung, việc nghiên cứu và tìm hiểu thơ haiku cũng như công
cuộc cách tân, cần có thời gian và công sức đầu tư một cách nghiêm túc và tỉ mỉ.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do năng lực của người thực hiện có hạn
nên chắc chắn luận văn cũng không đáp ứng được hết việc nghiên cứu về các xu
hướng cách tân thơ haiku. Nhiều vấn đề do sự hạn hẹp về nguồn tài liệu cũng như
quá trình tiếp cận nguyên tác gặp hạn chế nên chúng tôi không thể trình bày rõ, đó
là thiếu sót lớn nhất của luận văn. Chúng tôi mong rằng sẽ có nhiều chuyên đề, bài
báo khoa học, khảo cứu để làm rõ hơn quá trình cách tân nghệ thuật thơ haiku một
cách sâu sắc hơn.
140
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt:
1. Nguyễn Thị Lam Anh (2010), Ý thức thẩm mỹ Nhật Bản trong thơ haiku, Luận
văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
2. Eiichi Aoki (2008), Nhật Bản – Đất nước và con người (Nguyễn Kiên Trường
dịch), NXB Văn học.
3. Câu lạc bộ haiku Việt – Thơ haiku Việt, Sáng tác – Bình giảng – Nghiên cứu –
Trao đổi, số 3, 4, 7 (2011-2012).
4. Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ haiku, NXB Văn học.
5. Nhật Chiêu (1997), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục.
6. Nhật Chiêu (1997), Câu chuyện văn chương phương Đông, NXB Giáo dục.
7. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản – Từ khởi thủy đến 1868, NXB Giáo dục.
8. Nhật Chiêu (2003), Cảm thức thiên nhiên của người Việt và người Nhật, Thơ –
Nghiên cứu Lý luận phê bình, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa
Ngữ văn Báo chí Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.298 – 308.
9. Nhật Chiêu (2016), Ba nghìn thế giới thơm, NXB Văn học.
10. Daisetz Teirato Suzuki (2003), Thiền và thơ haiku (Lê Thị Thanh Tâm dịch),
Thơ – Nghiên cứu Lý luận phê bình, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Khoa Ngữ văn Báo chí Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.251 – 297.
11. Daisetz Teirato Suzuki (2005), Thiền luận (hạ) (Trúc Thiên dịch), NXB Tổng
hợp TP Hồ Chí Minh.
141
12. Daisetz Teirato Suzuki (2013), Thiền và văn hóa Nhật Bản (Đào Cương, Thích
Nhuận Tánh dịch), Công ty sách Thời đại & NXB Hồng Đức.
13. Diane Morgan (2006), Triết học và tôn giáo phương Đông (Lưu Văn Hy biên
dịch), NXB Tôn giáo, Hà Nội.
14. Dương Ngọc Dũng (2008), Chuyên luận Nhật Bản học, NXB Tổng hợp TP Hồ
Chí Minh.
15. Đoàn Lê Giang (2003), Basho – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du, những hồn thơ
đồng điệu, Hội nghị Nhật Bản trong thế giới Đông Á, NXB TP HCM, (tr.318 -
334), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh.
16. Đoàn Lê Giang (2003), Thi đại tự và Cổ kim Hòa ca tập tự, Thơ – Nghiên cứu
Lý luận phê bình, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Ngữ văn
Báo chí Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.191 – 202.
17. G.B. Sansom (1989), Lược sử văn hóa Nhật Bản (tập II), NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
18. Harold G. Henderson (2000), Hài cú nhập môn (Lê Thiện Dũng dịch), NXB
Trẻ.
19. Lê Từ Hiển – Nguyễn Hữu Tình (2008), Đôi nét về gương mặt thơ haiku hôm
nay, Tạp chí Thơ, 9 (2008), tr.63 – 70.
20. Joseph M. Kitagawa (2002), Nghiên cứu văn hóa Nhật Bản (Hoàng Thị Thơ
dịch), NXB Khoa học Xã hội.
21. Nguyễn Lương Hải Khôi (2016), Mỹ học Phật giáo của Saigyo Hoshi, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học, Viện Văn học – Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam, 9-2016, tr.95-105.
142
22. Mai Liên (2010), Hợp tuyển văn học Nhật Bản, NXB Lao Động Trung tâm
Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
23. Hà Văn Lưỡng (2002), Một số đặc điểm nghệ thuật của thơ haiku Nhật Bản,
Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, 3(39), tr.38 – 42.
24. Hà Văn Lưỡng (2004), Thơ haiku Nhật Bản viết về mùa xuân, Nghiên cứu
Nhật Bản và Đông Bắc Á, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu
Đông Bắc Á, 1(49), tr.41 – 49.
25. Phương Lựu – Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1986), Lý luận văn học tập I,
NXB Giáo dục.
26. Phương Lựu (2004), Lí luận phê bình văn học, NXB Đà Nẵng.
27. Ueda Makoto (2016), Matsuo Basho – Bậc đại sư thơ haiku (Nguyễn Nam
Trân biên dịch và chú thích), NXB Hồng Đức.
28. Nguyễn Tường Minh (1971), Hòa ca – Đoản ca & Hài cú, Trung tâm Nghiên
cứu và Dịch thuật Xuất bản Sông Thao.
29. Nguyễn Vũ Quỳnh Như (2010), Masaoka Shiki và haiku cận đại, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 07-2010, tr. 131-141.
30. Nguyễn Vũ Quỳnh Như (2010), Ngôn ngữ thơ haiku, Tạp chí Đại học Sài Gòn,
số chuyên đề Bình Luận văn học – Niên giám, tr.163-168.
31. Nguyễn Vũ Quỳnh Như (2013), Thơ haiku Nhật Bản: Lịch sử phát triển và
đặc điểm thể loại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn TP.HCM.
143
32. Vĩnh Sính (2001), Dịch thuật và Khảo cứu – Matsuo Basho và Lối lên miền
Oku, Việt Nam và Nhật Bản – Giao lưu văn hóa, NXB Văn nghệ.
33. Vĩnh Sính (2015), Nhật Bản cận đại, NXB Lao động.
34. Junjiro Takakusu (2007), Tinh hoa triết học Phật giáo (Tuệ Sỹ dịch), NXB
Phương Đông, TP.HCM.
35. Lê Thị Thanh Tâm (2012), Mĩ học Mono no aware và văn chương Nhật Bản,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 2 (480), tr.53 – 64, Viện Văn học.
36. Nguyễn Trường Tân (2011), Tìm hiểu Văn hóa Nhật Bản, NXB Thông tin.
37. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục.
38. Nguyễn Nam Trân (2011), Tổng quan lịch sử Văn học Nhật Bản, NXB Giáo
dục.
39. Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên) (2008), Văn học Nhật Bản ở Việt Nam,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn.
40. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2012), Haiku – Lục bát, một vài ghi nhận, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, 2 (480), tr.83 – 90, Viện Văn học.
41. V. Pronikov & I. Ladanov (2004), Người Nhật (Đức Dương biên soạn), NXB
Tổng hợp TP.HCM.
B. Tiếng Anh
42. Harold G. Henderson (1958), An Introduction to Haiku: An Anthology of
Poems from Basho to Shiki, A Doubleday Anchor Books, United States of
America.
144
43. Janie Beichman (2002), Masaoka Shiki: His Life and Works, Boston.
44. Paul Varley (2000), Japanese Culture (Fourth Edition), Updatead &
Expanded, United States of America.
45. Ueda Makoto (1998), The path of Flowering thorn – The life and poetry of
Yosa Buson, Staford University Press.
46. Ueda Makoto (2008), The Master Haiku Poet – Matsuo Basho, Kodansha
Internatinal, Japan.
47. William J. Higginson (2008), The Haiku handbook – How to write, share, and
Teach Haiku, Kodansha Intl.com, Japan.
48. Wm. Theodore de Barry, Donald Keene, George Tanabe and Paul Varley
(2001), Sources of Japanese Tradition, Columbia University Press, New York.
49. Yuki Sawa (2007), Haiku Master Buson, White Pine Press/Buffalo, New York.
C. Trang web
50. Basho's Haiku: Selected Poems of Matsuo Basho,
https://books.google.com.vn/books?id=V0LQ0DSJ2tcC&pg=PA318&lpg=PA31
8&dq=Ki+no+moto+ni&source=bl&ots=wxuu0lxJ48&sig=FNJeIfGlFsh7iGK5
Dmw3qFanJ1Y&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwiw1oL07-
bZAhVCO48KHfR7ApUQ6AEIPTAK#v=onepage&q=Ki%20no%20moto%20
ni&f=false, truy cập 16/1/2018.
51. Kobayashi Issa 小林一茶, https://terebess.hu/haiku/baso/terebess2abc.pdf,
truy cập 14/1/2018.
145
52. Hoàng Long (2011), Hai lối mộng trong thơ haiku hiện đại,
http://tapchivan.com/hai-loi-mong-trong-tho-haiku-nhat-ban-hien-dai, truy cập
27/2/2018.
53. Masaoka Shiki 正岡子規, https://terebess.hu/english/haiku/shiki.html, truy
cập 14/1/2018.
146
PHỤ LỤC 1: HỆ THỐNG MỘT SỐ THUẬT NGỮ
Tiếng Nhật
Phiên âm
Tiếng Việt
Số trang trong
luận văn
Phái thơ haiku Đàm Lâm
Danrin
56
談林派
kami
Thần linh
31
神
Shinto
Thần Đạo
31
神道
Teimon
Trinh môn
54
貞門
Zen
Thiền
33
禅
choka
Trường ca
12
長歌
haiga
Hài họa – Tranh và thơ
89
俳画
haigon
Bài ngôn
18
俳言
haikai
Thơ haikai
19
俳諧
18
haikaika
Bài hài ca
俳諧歌
18
haikai no renga
Bài hài liên ca
俳諧の連歌
haiku
Thơ haiku
20
俳句
hiragana
Chữ hiragana trong tiếng
14
平仮名
Nhật
hokku
Thơ phát cú
18
発句
ji-amari
Thơ haiku dư từ
118
字余り
ka-chou-fu-ei
Hoa Điểu Phúng Vịnh
126
花鳥諷詠
kami no ku
Thượng cú
13
上の句
kanji
Hán tự
14
漢字
karumi
Nhẹ nhàng, thanh thoát
44
軽み
katakana
Chữ katakana của tiếng
14
片仮名
Nhật
Thể loại thơ phiến ca
12
katauta
片歌
Quý đề
22
kidai
季題
kidai-me
Đề tài nói về mùa
121
季題目
Quý ngữ
22
kigo
季語
Từ ngắt
23
kire-ji
切れ字
kisetsukan
Cảm thức về mùa
22
季節感
kusari renga
Chuỗi liên ca
16
鎖連歌
mono no aware
Bi cảm
36
物哀れ
muki – haiku
Haiku không mùa
112
無季俳句
okashimi
Cảm
thức
thẩm mĩ
48
おかしみ
okashimi
Đại ca
12
o-uta
大歌
Hình thức tiệc họp mặt
16
utagaki
うたがき
vào mùa xuân hoặc mùa
thu
Liên ca
16
renga
連歌
Liên cú
16
renku
連句
12
riyu-ritsu
Luật thơ tự do
理由律
Tịch tĩnh
40
sabi
さび
Tuyển đầu ca
12
sendoka
選頭歌
Tả thực
113
shajitsu
写実
Tả sinh
113
shasei
写生
147
shibusa
Cảm
thức
thẩm mĩ
50
渋さ
shibusa
shimmo no ku
Hạ cú
13
下の句
shofu
Tiêu phong (phong cách
72
蕉風
Basho)
Du hành
78
tabi
旅
Đoản ca
13
tanka
短歌
tsukinami
Họp thơ mỗi tháng
100
月並
Giản đạm
38
wabi
わび
Hòa ca
12
waka
和歌
Cảm thức thẫm mĩ yojo
46
yojo
余情
U huyền
42
yugen
幽玄
148
149
PHỤ LỤC 2: TUYỂN THƠ HAIKU
Tuyển thơ haiku gồm 362 bài thơ được chọn lọc từ nhiều nguồn, có sự đối sánh
giữa các dị bản (tiếng Nhật), tuyển chọn những bản dịch hay và sát với nguyên bản gốc.
Trong tuyển thơ này, chúng tôi có đưa vào một số bài haiku tự dịch trong quá trình học
tập và nghiên cứu (không đề tên người dịch), các bản dịch khác được đề tên dịch giả bên
dưới. Các bài thơ haiku được sắp xếp theo thứ tự tên tác giả, thứ tự chữ cái phiên âm đầu
bài, ngoài ra còn có ghi chú các bài thơ được sử dụng trong luận văn, để người đọc có
thể thuận tiện tra cứu.
Do nguồn tư liệu về thơ haiku còn khá ít ở Việt Nam và cũng rất ít dịch giả dịch
thơ haiku nên có thể chúng tôi còn thiếu sót trong khâu biên soạn tuyển thơ. Mong rằng
với tuyển thơ haiku, phần nào có thể làm tài liệu tra cứu phục vụ cho học tập và nghiên
cứu thơ haiku sau này.
STT
Tiếng Nhật
Phiên âm
Tiếng Việt
Ghi
chú3
(1) Enomoto Saikaku4 榎本西鶴 (1661-1707)
hi no haru wo
Mặt trời mùa xuân
日の春を
1
susuga ni tsuru no
chim hạc
すすがに鶴の
ayumu kana
lững thững bước đi.
歩み哉
(Quỳnh Như dịch)
meigetsu ya
Trăng tròn
名月や
2
tatami no ue ni
trải dài trên manh chiếu
畳の上に
matsu no kage
dưới bóng cây thông.
松の影
yabuiri ya
Ngày cố hương
やぶいりや
3 Số trang trong luận văn sử dụng bài thơ. 4 Học trò của Basho, thường dùng khẩu ngữ trong thơ haiku.
minikui kane wo
mắt kính mờ
3 見にくいを
chichi no tame
chỉ vì cha.
父の為
(Quỳnh Như dịch)
(2) Hattori Ransetsu5 服部嵐雪(1654-1707)
kusa no ha wo
Giọt sương
草の葉を
4
asobiarike yo
rong chơi
遊びありけよ
tsuyu no tama
trên cành lá.
露の玉
meigetsu ya
Sương khói tỏa lan
名月や
5
kemuri wa hiiku
dưới ánh trăng vằng vặc
88
煙はひゆく
mizu no ue
mặt hồ mênh mang.
水の上
(Lam Anh dịch)
warau ni mo
Không như nụ cười
笑うにも
6
naku ni mo nizaru
không như giọt lệ
泣きに喪になる
mukuge hana
cành hoa bụt ơi!
むくげ花
(Nhật Chiêu dịch)
(3) Hirahata Seito 平畑静搭6 (1905-1997)
ippon no
Một con đường
一本の
7
michi wo hohoemi no
Đang rao bán
道を微笑の
kingyo uri
Cá vàng cười tươi.
金魚売り
(Quỳnh Như dịch)
kuni no densha
Xe điện quê tôi
くにの電車
8
ima mo nishibi ni
chiều về hướng tây
134
今はも西日に
kashira furu
đầu xe rung lắc.
頭振る
(Quỳnh Như dịch)
5 Học trò của Basho. 6 Nhà thơ có nhiều công trình lý luận văn học, đạt giải Hội văn học thi ca năm 1986.
150
(4) Iida Dakotsu 飯田蛇笏7(1885-1962)
furu yuki ya
Chùi cây đèn dầu
降る雪や
9
tama no gotoku ni
ngoài trời tuyết phủ
玉のごとくに
ranpu fuku
từng hạt rơi rơi.
ランプ拭く
fuyu kawa ni
Bước ra sông đông
128
冬川に
10
dete nani wo miru
ơ kìa thiếu phụ
出て何を見る
hito no tsuma
đang ngắm chi chi.
人の妻
(Quỳnh Như dịch)
kurogane no
Chuông gió mùa thu
くろがねの
11
aki no furin
cũ nhèm
秋の風鈴
nari ni keri
kêu lắc cắc.
鳴りにけり
tamashihi no
Tĩnh lặng hồn ta
たましひの
12
shizukani utsuru
ngắm nhìn
129
しずかにうつる
kikumi kana
hoa cúc.
菊見かな
(5) Ikenishi Gonsui 池西言水8(1650-1722)
kogarashi no
Gió heo may
凩の
13
ate wa arikeri
thiên điểu kéo bầy
72
果はありけり
umi no oto
biển rì rào.
海の音
(Quỳnh Như dịch)
neko nigete
Mèo bỏ chạy
猫逃げて
14
ume ugokikeri
hoa mơ lay nhẹ
梅動きけり
oborozuki
trăng mờ sương.
朧月
(Quỳnh Như dịch)
7 Học trò của Takahama Kyoshi, đã phá phong cách thơ Basho. 8 Nhà thơ cổ súy phong cách thơ của phái Danrin, theo đuổi phong cách thơ Basho.
151
wakamochi ya
Bánh dày đầu năm
若餅や
15
chouzui tobashiru
với nước rửa tay
手水 とばしる
mino no taki
ngọn thác Mino.
美濃の滝
(Quỳnh Như dịch)
(6) Ihara Saikaku 井原西鶴9(1642-1693)
atagobi no
Pháo bông Atago
あたご火の
16
kawarakenage ya
như đĩa gốm xoay tròn
58
かわらけなげや
Itamizaka
trượt dốc Itami.
伊丹坂
(Quỳnh Như dịch)
haikai no
Nín thở
俳諧の
17
iki no ne tomen
trào dâng
58
息の根とめ
ooyakazu
ngàn bài haikai.
大矢数
(Quỳnh Như dịch)
kami makoto o
Ơn Thần
神誠お
18
motte
iki no ne
hít sâu, nín thở
もって息の根とめよ
tomeyo
tuôn ngàn bài thơ!
大矢数
ooyakazu
(Quỳnh Như dịch)
(7) Ishida Hakyo 石田波郷10(1913-1969)
basu wo machi
Chờ xe buýt
バスを待ち
19
ooji no haru wo
chẳng chờ chi
大路の春を
utagahazu
đại lộ mùa xuân.
うたがはず
(Quỳnh Như dịch)
inazuma no
Ước gì
稲妻の
20
hoshii mama nari
tia chớp xẹt qua
ほしいままなり
asu arunari
mong có ngày mai.
9 Nhà thơ tiêu biểu của phái Danrin. 10 Nhà thơ thời hậu chiến, có nhiều đóng góp trong việc phát triển thơ haiku thời kì này.
152
明日あるなり
yuki wa shizukani
Không một tiếng động
雪わしずかに
21
yutaka ni hayashi
tuyết rơi nhanh, lấp đầy
ゆたかにはやし
kabane shitsu
ngôi nhà xác.
屍室
(Nguyễn Nam Trân dịch)
(8) Kagano Chiyojo 加賀千代11(1703-1775)
nani kite mo
Gì cũng được
何来ても
22
utsukushiu naru
hơn cả tuyệt trần
89
美しうなる
tsukimi kana
là ngắm trăng.
月見かな
(Quỳnh Như dịch)
tonbo tsuri
Chuồn chuồn nay nhanh
トンボつり
23
kyo wa doko made
để hôm nay đuổi bắt
今日わどこまで
itta yara
đi tận nơi đâu?
行ったやら
(9) Kaneko Tota12 金子兜太(1919-2018)
kiri ni hakucho
Thiên nga mờ sương
霧に白鳥
24
hakucho ni kiri
sương mờ thiên nga
白鳥に霧
toiu bekika
sao thế nhỉ ?
というべきか
(Quỳnh Như dịch)
niju no terebi ni
Bật 20 tivi
二十のテレビに
25
sutato dasshu no
trên màn hình
スタートダッシュの
kokujin bakari
toàn người da màu.
黒人ばかり
(Quỳnh Như dịch)
11 Nhà thơ nữ thời kì Edo. 12 Hội trưởng Hiệp hội thơ haiku hiện đại năm 1983.
153
sake tomeyo
Cai rượu
酒止めよう
26
kado no honno to
như ta đang đùa
かどの本能と
asobouka
với bản năng.
遊ぼうか
(Quỳnh Như dịch)
wan kyoku shi
Ngoằn ngoèo
134
湾曲し
27
kashou shi
vết thương cháy xém
火傷し爆心地の
bakushinchi no
đường marathon.
マラソン
marason
(Quỳnh Như dịch)
(10) Kato Chiyoko 加藤知世子13(1909-1986)
asagao ni
Ôi hoa triêu nhan
朝顔 に
28
tsurube torarete
dây gàu vươn hoa bên
釣瓶とられて
morai mizu
giếng
もらい水
đành xin nước nhà bên.
(Nhật Chiêu dịch)
(11) Kawabata Bousha 川端茅舎14(1897-1941)
harugetsu ya
Vầng trăng mùa xuân
春月や
29
mizuumi no gotoku
soi hồ in bóng
湖のごとく
taiko utsu
như tiếng trống mừng.
太鼓打つ
ichimai no
Đám tuyết ngoài kia
一枚の
30
mochi no gotoku ni
vắt ngang trắng ngần
餅のごとくに
yuki nokoru
tưởng nhầm cái bánh.
雪残る
kongou no
Một giọt sương rơi
金剛の
31
tsuyu hitotsubu ya
kim cương lấp lánh
露一つぶや
ishi no ue
lăn trên đá này.
石の上
13 Nhà thơ nữ thời hậu chiến, có đóng góp tích cực trong phong trào haiku nữ giới. 14 Nhà thơ haiku thời Edo, lối sáng tác dung dị, trang nhã.
154
shungyo ya
Xuân bình minh
春暁 や
32
oto motatezu ni
tĩnh lặng
音もたてずに
boutan yuki
hoa mẫu đơn tuyết.
牡丹雪
(Quỳnh Như dịch)
yuki no naka
Trong tuyết
雪の中
abura no gotoki
lạnh như đá
33
膏の如き
kyo kana
nhớ Kinh Đô.
泉かな
(Quỳnh Như dịch)
(12) Kawahigashi Hekigodo 河東碧梧桐15(1873-1937)
akai tsuboki
Sơn trà trắng
赤い椿
34
shiroi tsuboki to
sơn trà hồng
126
白い椿と
ochi ni keri
cùng rụng xuống mênh
落ちにけり
mông.
(Hoàng Long dịch)
harusamu shi
Xuân giá rét
春寒し
35
suiden no ue no
trên ruộng lúa nước
126
水田の上の
kon nashi kumo
đám mây không chân trời.
根なし雲
(Quỳnh Như dịch)
nadeshiko ya
Biển hừng đông
撫子や
36
umi no yoake no
bông hoa cẩm chướng
海の夜明けの
kusa no hara
lẫn cỏ xanh rì.
草の原
taiboku no
Vươn mây
大木の
37
kumo ni sobiyuru
trên cây cổ thụ
雲にそびゆる
kare no kana
cánh đồng khô kia.
枯野哉
(13) Kobayashi Issa 小林一茶(1762- 1826)
15 Nhà thơ tiếp nối Shiki trong phong trào cách tân thơ haiku, phát triển phong cách tả thực.
155
akatsuki no
Đỗ quyên kêu chi
暁の
38
mugi no saki yori
bên kia đồng lúa
麦の先より
hototogisu
bình minh đang lên.
ほととぎす
aki no yo ya
Đêm thu
秋のよや
39
tabi no otoko no
gã lữ khách
旅の男の
hari sigoto
cặm cụi vá may.
はり仕事
(Quỳnh Như dịch)
akisamu ya
Gió thu
秋寒や
40
yuku sakizaki wa
mỗi nơi dừng chân
行く先々は
hito no ie
là nhà ai đó
人の家
(Quỳnh Như dịch)
aonoke ni
Ngửa mình
仰のけに
41
ochite naki keri
con ve mùa thu ấy
96
落ちて鳴きけり
aki no semi
thảm thiết, kêu gào.
秋の蝉
ari no michi
Đường kiến đi
蟻の道
42
kumo no mine yori
vươn ra mãi
雲の峰より
tsuzukiken
từ đỉnh núi mây
つづきけん
(Đoàn Lê Giang dịch)
ariyou wa
Đối với tôi
有様は
43
ware mo hana yori
bánh dango
我も花より
dango kana
đẹp hơn hoa ngàn.
団子哉
beta beta to
Trong khí xuân tràn
べたべたと
44
mono ni tsukitaru
vạn vật
物につきたる
haru no yuki
ướt át.
春の雪
bijinra ni
Các mỹ nhân
美人等に
45
mizu shiboraruru
đang vắt nước
156
hechima kana
ơ kìa hoa mướp !
水しぼらるゝ
(Quỳnh Như dịch)
糸瓜哉
cha no hana ni
Trên nương trà
39
茶の花に
46
kakurembo suru
một bầy se sẻ
隠んぼする
suzume kana
trốn tìm trong hoa.
雀哉
(Nhật Chiêu dịch)
chiru hara wo
Ếch há miệng
ちる花を
47
kuchi akete matsu
trông chờ
口開けて待
kaeru kana
hoa rơi.
蛙かな
(Quỳnh Như dịch)
chiru sakura
Lả tả rơi
散る桜
48
kyo mo muchakucha
những cánh anh đào
97
今日もむちゃくちゃ
kurashikeri
rối ren như cuộc đời.
暮しけり
daibutsu no
Từ mũi tượng Phật
大仏の
49
hana kara detari
sương mù ban mai
鼻からでたり
kesa no kiri
ló dạng
けさの霧
dainoji ni
Buồn thì ngủ thôi
大の字に
50
nete suzushisa yo
trời thì đang mát
寝て涼しさよ
sabishisa yo
thẳng cẳng ta nằm.
寂しさよ
dondo taku
Lửa cháy hừng hực
どんど焼
51
dondo to yuki no
vang tiếng rơi
どんどと雪の
furi ni keri
tuyết phủ đầy.
降りにけり
furu ame ni
Bất chợt mưa rào
降る雨に
52
hitori nokiri
chỉ một người còn lại
一人のきり
hana no kage
dưới bóng hoa anh đào.
花の陰
157
(Nhật Chiêu dịch)
furu inu ya
Vẫn là bầy chó
古犬が
53
saki ni tatsu
dẫn lối đường xưa
先に立也
haka mairi
trong ngày tảo mộ.
はか参り
furusato ya
Về làng cũ
故郷や
54
yoru mo sawaru mo
những bụi hoa xưa
よるも障るも
bara no hana
chìa gai ra đón.
茨の花
(Nhật Chiêu dịch)
haru ame ya
Bên dòng Sumida
春雨や
55
nezumi no nameru
chú chuột kia uống nước
鼠のなめる
sumidagawa
mưa mùa xuân pha.
隅田川
(Nhật Chiêu dịch)
haru kaze ni
Cha con chú khỉ
春風に
56
saru mo oyako no
trong gió xuân
猿も親子の
touji kana
tắm suối nóng với nhau.
湯治かな
(Quỳnh Như dịch)
haru same ya
Mưa mùa xuân
春雨や
57
yabu ni fukaruru
thổi bay lên lều
藪に吹かるる
sute tegami
lá thư không còn nữa.
捨手紙
(Lam Anh dịch)
harusame ya
Mưa mùa xuân
春雨や
58
kuware nokori no
những chú vị trời chết hụt
食われ残りの
kamoga naku
khóc than
鴨がなく
(Đoàn Lê Giang dịch)
hi no kure ya
Gió thu lạnh lùng
日の暮や
59
hito no kao yori
những gương mặt xa lạ
48
人の顔より
aki no kure
hoàng hôn buông.
158
(Lam Anh dịch)
秋の風
hitonami ni
Trên dãy chiếu
人並みに
60
tatami no ue no
người người xếp hàng
畳の上の
tsukimi kana
ngắm trăng.
月見かな
(Quỳnh Như dịch)
hitori naku wa
Chú chim mồ côi
ひとり鳴くは
61
oya nashi tori yo
tiếng kêu đơn độc
96
親無し鳥よ
aki no kure
trong bóng chiều thu
秋の暮
(Lam Anh dịch)
ie nashi mo
Kẻ không nhà
家なしも
62
edo no ganjitsu
Edo ngày năm mới
江戸の元日
shitari keri
rộn ràng.
したりけり
inu domo ga
Trên đường tuyết
犬どもが
63
yokete iru nari
các chú chó
よけて居る也
yuki no michi
cụp cả tai.
雪の道
(Quỳnh Như dịch)
katatsumuri
Chậm rì, chậm rì
かたつむり
64
soro soro nobore
kìa con ốc nhỏ
38
そろそろ登れ
fuji no yama
trèo núi Fuji.
96
富士の山
(Nhật Chiêu dịch)
ka no ato
Dấu muỗi đốt
蚤の跡
65
sore mo kawaki wa
trên làn da thanh xuân
49
それも若きは
utsukushiki
đẹp xinh ửng hồng.
美しき
(Nhật Chiêu dịch)
kasa no hae
Ruồi trên nón ta ơi
傘の蝿
66
mo kyo kara wa
hôm nay vào thành phố
も今日からは
Edo mono zo
thành dân Edo rồi.
159
(Nhật Chiêu dịch)
江戸ものぞ
ki no kage ya
Dưới bóng cây
木の陰や
67
chou to yadoru mo
trú mưa cùng bướm
蝶と宿るも
tasho no en
duyên trần ai hay.
他生の絵
(Nhật Chiêu dịch)
kiri no ki ya
Cây ngô đồng
桐の木や
68
tekibaki chitte
rụng dần lá
てきばき散って
tsun to tatsu
ào ạt rơi, chất đống.
つんと立つ
kojiki mo
Ăn mày
乞食も
69
fuku daigoku no
cũng mong
福大黒の
tsumori kana
Phúc Đại Hắc.
つもり哉
(Quỳnh Như dịch)
kome maku mo
Giành nhau mổ thóc
米幕も
70
tsumi zoyo tori wa
thương thay chú gà
94
罪ぞよ鳥は
keai zoyo
mắc phải tội.
蹴合ぞよ
ku no shaba ya
Ta bà một cõi đau
苦の娑婆や
71
sakura ga sakeba
cho dù mùa xuân đó
桜が咲けば
saita tote
đang nở những anh đào.
咲いたとて
(Nhật Chiêu dịch)
machi wo dete
Rời quê xưa
町を出て
72
hotto ikisuru
thở phào nhẹ nhõm
ほっと息する
hotaru kana
đom đóm ơi.
蛍かな
meigetsu wo
Lấy xuống đây nào
名月を
73
totte kureru to
đứa bé nức nở
取ってくれると
naku ko kana
đòi vầng trăng cao.
泣く子かな
(Nhật Chiêu dịch)
160
mi hotoke ya
Trong mơ
御仏や
74
nete gozattemo
Đức Phật giáng trần
寝てござっても
saki ni keri
ban tiền và hoa.
咲きにけり
(Quỳnh Như dịch)
mikagirishi
Làng xưa
見かぎりし
75
kokyo no sakura
cây hoa anh đào ấy
故郷の桜
saki ni keri
ra hoa rồi.
咲きにけり
naki haha ya
Ôi, biển khơi
亡母や
76
umi miru tabi ni
khi tôi nhìn thấy biển
95
海見度に
miru tabi ni
mẹ tôi ơi!
見る度に
(Nhật Chiêu dịch)
nakuna kari
Kêu chi, nhạn ơi
鳴くな雁
77
dokko mo onaji
đi đâu thì cũng
どっこも同じ
ukiyo zo ya
cõi phù thế thôi.
浮世ぞや
(Nhật Chiêu dịch)
naku neko ni
Tiếng mèo kêu
鳴くねこに
78
akan me wo shite
bé trợn mắt
赤ん目をして
temari kana
bóng tròn temari.
手まりかな
(Quỳnh Như dịch)
namu namu to
Dưới ánh hoa đào
なむなむと
79
sakura akari ni
Nam mô lạy Phật!
桜明りに
netari keri
say giấc nồng.
ねたりけり
(Quỳnh Như dịch)
nete okite
Vừa tan giấc ngủ
寝て起きて
80
oo akubi shite
con mèo ngáp dài
大欠して
neko no koi
đi tìm tình ái.
猫の恋
(Nhật Chiêu dịch)
161
niwatori ni
Chú gà
鶏に
81
horidasaretaru
đào bới mãi mới ra
掘り出されたる
fukuju sou
hoa Phúc thọ thảo.
福寿草
(Quỳnh Như dịch)
nukunuku to
Trời nóng dần
ぬくうくと
82
yukini kurumaru
tuyết cũng bắt đầu tan
雪にくるまる
ko ie kae
ngôi nhà nhỏ.
小家哉
osanago ya
Không còn mẹ
をさな子や
83
warau ni tsukete
một mình em bé tập cười
笑ふにつけて
aki no kure
đêm mùa thu rơi.
秋の暮
(Nhật Chiêu dịch)
soko fumu na
Đừng dẫm lên đó
そこふむな
84
yuube hotaru no
nơi đó đêm qua
夕べ蛍の
ita atari
đom đóm ở trọ.
居たあたり
(Quỳnh Như dịch)
ta no hito ya
Người nông dân
田の人や
85
tatami no ue mo
nằm trên chiếu
畳の上も
samui no ni
lạnh
寒いのに
(Nguyễn Thị Thanh Xuân
dịch)
temakura ya
Vắt tay làm gối
手枕や
86
kogoto iutemo
càu nhàu vài tiếng
小言いうても
kuru hotaru
đom đóm xuống cùng.
来る蛍
tsuyu no yo wa
Thế giới giọt sương này
露の世は
87
tsuyu no yo nagara
giọt sương, cho dù thế
露の世ながら
sarinagara
ai hay, ai hay...
さりながら
162
(Nhật Chiêu dịch)
uma sou na
Tuyết rơi ngoài kia
むまそうな
88
yuki ga fuuwari
bềnh bồng
雪がふうわり
fuuwari to
rồi lại bềnh bồng.
ふうわりと
ume ga kaori ya
Khách đến nhà
梅が香や
89
donata ga kite mo
không thể thiếu
どなたが来ても
kake chawan
hương trà hoa mơ.
欠け茶碗
(Quỳnh Như dịch)
urakabe ya
Sau tường nhà
浦壁や
90
shigamitsukitaru
bám đầy mớ tuyết
しがみつきたる
binbouyuki
nghèo nàn.
貧乏雪
utsukushi ya
Đẹp vô cùng
美しや
91
shoji no ana no
nhìn qua, ô cửa rách
50
障子の穴の
ama no kawa
ô kìa sông Ngân.
天の川
(Nhật Chiêu dịch)
waga haru wa
Mùa xuân tôi ư
我春は
take ippon ni
cây trúc đơn độc
92
竹一本に
yanagi kana
và cành liễu tơ.
柳かな
(Nhật Chiêu dịch)
ware shinaba
Châu chấu voi ơi
我死なば
93
haka mori to nare
mai này tôi chết
95
墓守となれ
kirigirisu
canh mộ dùm nhé.
きりぎりす
(Quỳnh Như dịch)
ware to kite
Đến đây nào, với tôi
我と来て
94
asobe ya oya no
cùng chơi đùa, chim sẻ
95
遊べや親の
nai suzume
không còn mẹ trên đời.
ない雀
163
(Nhật Chiêu dịch)
yama yake no
Chiếc tàu đêm
山焼の
95
akari ni kudaru
rọi sáng cả
明かりに下る
yobune kana
ngọn núi độ hoàng hôn.
夜船哉
yamadera ya
Chùa Yamadera
山寺や
96
yuki no sokonaru
từ đáy sâu núi tuyết
雪の底なる
kane no koe
tiếng chuông ngân.
鐘の声
(Đoàn Lê Giang dịch)
yare utsu na
Thôi đừng đập nữa
やれうつな
97
hae ga te wo suri
tay chân chú ruồi
蝿が手をすり
ashi wo suru
đang run bắn.
足をする
(Quỳnh Như dịch)
yase gaeru
Con ếch gầy ơi
瘦蛙
98
makeru na Issa
đừng cam lòng khuất phục
まけるな一茶
kore ni ari
Issa đến rồi.
是に有り
(Nhật Chiêu dịch)
yo no naka wa
Trong thế giới này
世の中は
99
chigoku no ue no
bước đi trên mái địa ngục
地獄の上の
hanami kana
ta nhìn hoa bay.
花見かな
(Nhật Chiêu dịch)
yuki chiru ya
Bỡn cợt
雪散るや
100
odokemo ienu
vẫn không nguôi
おどけもいへぬ
shinano zora
Shinanao tuyết rơi.
信濃空
(Quỳnh Như dịch)
yuki tokete
Tuyết đã tan
雪解けて
101
mura ippai no
Phía trong làng
村いっぱいの
kodomo kana
toàn lũ trẻ con.
164
こどもかな
yuki tokete
Tuyết tan rồi
雪とけて
102
kurikuri shitaru
tròn xoe láng bóng
クリクリしたる
tsukiyo kana
ông trăng trên trời.
月夜かな
(Đoàn Lê Giang dịch)
yuu dachi ya
Mưa rào
夕立や
103
hadaka de norishi
thân trần
裸で乗し
hadaka uma
cưỡi ngựa trần.
はだか馬
(Quỳnh Như dịch)
yuu tsubame
Chim yến ban đêm
夕燕
104
ware ni wa asu no
tim tôi thổn thức
我には翌の
ate mo nashi
không có ngày mai.
あてはなき
(Quỳnh Như dịch)
yuukage ya
Hoàng hôn buông
夕陰や
105
tsure ni hagurete
trở nên lạc lõng
連れにはぐれて
naku kaeru
tiếng ếch.
なく蛙
(14) Masaoka Shiki 正岡子規(1868-1912)
asagao no
Ôi hoa triêu nhan
朝顔の
106
chi wo haiwataru
lê mình trên đất
111
地を這ひわる
akiya kana
trong sân nhà hoang.
空家哉
(Nhật Chiêu dịch)
atsukurushi
Nóng bức
暑くるし
107
midare gokoro ya
tâm thần bấn loạn
乱れ心や
rai o kiku
tiếng sấm rền vang.
雷おきく
(Quỳnh Như dịch)
asatsuyu ya
Sương ban mai
朝露や
165
meshi taku kemuri
một làn khói trắng
108 飯焚く煙草
kusa wo hau
trên cỏ lướt dài.
を這ふ
(Nhật Chiêu dịch)
byosho no
Tôi cảm thấy
病牀 の
109
ware ni tsuyu chiru
sương rơi trên tôi
我 に 露 ち る
omoi ari
khi nằm trên giường.
思 ひ あ
fujo saite
Phù dung nở rộ
芙蓉咲いて
110
furu-ike no sagi
cái vạc cô đơn
古い池の鷺
yamome nari
bên đầm nước cũ
やもめなり
(Nhật Chiêu dịch)
furusato wa
Ở quê nhà
故郷わ
111
itoko no ooshi
còn nhiều anh em họ
いとこの多し
momo no hana
và hoa hồng đào.
桃の花
(Quỳnh Như dịch)
futasuji ni
Hai cầu vồng
二 筋 に
112
niji no tattaru
đã hiện lên
虹 の 立 っ た る
aota kana
trên cánh đồng xanh ngát.
青田哉
fuyukawa ni
Chó kia chết rồi
冬川に
113
sutetaru inu no
xác trôi sông lạnh
捨てたる犬の
kabane kana
lững lờ, mùa đông.
かばねかな
ganjitsu no
Tết Nguyên đán
元日の
114
hito doori towa
dòng người tấp nập
人通りとわ
nari ni keri
qua lại.
なりにけり
gyozui no
Ơ kìa quạ
行水の
115
onna ni horeru
sao mãi ngắm nhìn
女にほれる
166
karasu kana
cô gái bên gàu nước.
烏かな
(Quỳnh Như dịch)
harukaze ni
Trong gió xuân
春風に
116
o wo hirogetaru
kìa con công
尾をひろげたる
kujaku kana
xòe chiếc đuôi xinh
孔雀かな
harukaze ya
Đứng trên đồi
春風や
117
toushi idakite
tôi thách thức
117
闘志いだきて
oka ni tatsu
gió xuân.
丘にたつ
(Đoàn Lê Giang dịch)
harusamse ya
Mưa xuân
春雨や
118
kasa sashite miru
nghiêng ô hé nhìn
傘さして見る
kashi ya
mơ về miếng bánh.
菓子や
(Quỳnh Như dịch)
harusamu shi
Xuân lạnh tê
春寒し
119
mizuta no ue no
mây che hết
水田の上の
kon nashi gumo
trên cánh đồng.
根なし雲
hototogisu
Chim đỗ quyên
時鳥
120
kumo ni nuretaru
bên ô cửa sớm
雲にぬれたる
asa no mado
thấm đẫm mây.
朝の窓
iku aki no
Thu đi
行く秋の
121
ware ni kami nashi
ta chẳng còn gì
我に神無し
hotoke nashi
Thần và Phật.
仏無し
(Quỳnh Như dịch)
ikutabi mo
Biết bao lần
いくたびも
122
yuki no fukasa wo
hỏi đi hỏi lại
雪の深さを
tazune keri
tuyết ơi sao cao mãi?
尋ねけり
167
(Quỳnh Như dịch)
ine no hana
Núi Doukan
稲の花
doukan yama no
lúa trổ từng vùng
123
道灌山の
hiyori kana
đẹp làm sao.
日和かな
juuichi nin
Mười người
十一人
124
hitori ni nari te
hay chỉ một
一人になりて
aki no kure
mãi là tàn thu.
秋の暮れ
(Quỳnh Như dịch)
kaburitsuku
Tôi cắn chặt răng
かぶりつく
125
jukushi ya hige o
vào trái hồng chín
115
熟柿や髯お
yogoshikeri
rơi từng giọt xuống râu.
汚しけり
kaki kueba
Ăn quả hồng
柿食えば
126
kane ga naru nari
chuông Pháp Long tự
114
鐘が鳴るなり
houryuji
ngân vang.
法隆寺
(Quỳnh Như dịch)
kawa wo miru
Rơi từ tay người
川を見る
127
banana no kawa wa
vỏ chuối
バナナの皮わ
te yori ochi
ngước nhìn sông.
手より落ち
(Quỳnh Như dịch)
keitou no
Cơn mưa cuối thu
鶏頭の
128
kuroki ni sosogu
trút màu đen sẫm
黒きにそそぐ
shigure kana
xuống hoa màu gà.
時雨かな
(Quỳnh Như dịch)
ki wo tsumite
Tỉa mấy cành cây
木をつみて
129
yono akeyasuki
hừng đông thật sớm
102
夜の明やすき
komado kana
trên cửa nhỏ này.
小窓かな
168
kobai no
Hoa mận đỏ thẫm
紅梅 の
130
chirinu sabishiki
rải trên sự cô đơn
116
散りぬ淋 し き
makura moto
chiếc giường.
枕 元まくら
kodomo gachi ni
Đám trẻ nhỏ
子供がちに
131
kurisumasu no hito
vây quanh
122
クリスマスの人
atsuhikeri
Ông già Noel.
集ひけり
(Quỳnh Như dịch)
kuruki made ni
Tím chuyển
黒 き ま で に
132
murasaki fukaki
sang đen
115
紫 深 き
budo kana
những chùm nho.
葡萄 か
kurimishi ya
Hạt dẻ trắng
栗 飯 ヤ
133
byonin nagara
mặc dù tôi bệnh
117
病人 ナ ガ ラ 大
okurai
vẫn cứ háu ăn.
食 ヒ
maki wo waru
Chỉ mỗi mình em
薪をわる
134
imouto hitori
miệt mài chẻ củi
いもうと一人
fuyu gomori
đầy giỏ mùa đông.
冬篭り
(Quỳnh Như dịch)
makuro ni
Cây đen thui
真黒に
135
nasu hikaru ya
hoa cà tím rực sáng
茄子ひかるや
natsu no tsuki
ánh trăng hè.
夏の月
(Quỳnh Như dịch)
matsu no ne ni
Gốc thông bên đường
松 の 根 に
usumurasaki no
ánh lên màu tím
44
136
薄 紫 の
sumire kana
một ngọn oải hương.
菫 か な
natsu no getsu
Tháng hè
夏の月
jingo sonohen wo
tiếng ai đó
137
169
ittari kitari
qua lại nhiều lần.
人語其辺を
行ったり来たり
no ni ide
Bước ra đồng
野に出で
138
shasei suru haru to
tả thực cảnh xuân
写生するはると
nari ni keri
không gian vô cùng.
なりにけり
(Quỳnh Như dịch)
osoroshi ya
Buồn cười nhỉ
おそろしや
139
ishigaki kuzusu
đá cũng vỡ tan
石垣崩す
neko no koi
tình yêu chú mèo.
猫の恋
(Quỳnh Như dịch)
otoshidama wo
Tiền mừng tuổi
年玉を
140
narabete oku ya
đã sắp sẵn
123
並べて置くや
makura moto
dưới gối đầu.
枕元
(Quỳnh Như dịch)
samidare ya
Mưa tháng 5 rơi
五月雨や
141
tana e toritsuku
bâng khuâng
棚えとりつく
mono no tsuru
dọc ngang trên giàn.
ものの蔓
(Quỳnh Như dịch)
sanzen no
Nghiền ngẫm
三千の
142
haiku wo kemishi
ba ngàn bài haiku
109
俳句を閲し
kaki futatsu
ăn trọn hai quả hồng.
柿二つ
(Quỳnh Như dịch)
sekkyou ni
Những lời thuyết giáo
説教に
143
kegareta mimi wo
nghe chói cả tai
109
汚れた耳を
hototogisu
chim quyên ơi.
ホトトギス
(Quỳnh Như dịch)
seru wo kite
Mùa giảm giá
セルを着て
170
fuufu hanarete
phu thê xa cách
123
144 夫婦離れて
Kyoshi ni ari
Kyoshi đã từng.
虚子に在り
(Quỳnh Như dịch)
suna hama ni
Vết chân dài
砂浜に
145
ashi ato nagaki
in trên bờ cát
足跡長き
haru hi kana
ngày xuân.
春日かな
(Quỳnh Như dịch)
susuharai
Lễ tẩy uế
煤払や
146
kami mo hotoke mo
Thần và Phật
神も仏も
kusa no ue
trên bãi cỏ.
草の上
(Quỳnh như dịch)
tsuki ichirin
Trăng tròn vành
月一輪
147
hoshi musuu sora
trời đầy sao
星無数空
midori nari
xanh thẳm.
緑なり
tsurigane ni
Trên chuông chùa
釣蟹に
148
tomarite hikaru
đom đóm
止まりて光る
hotaru kana
đậu yên, tỏa sáng.
蛍かな
(Quỳnh Như dịch)
unohana o
Chim đỗ quyên
卯の花を
149
megakete kitaka
ngước nhìn
122
めかけてきたか
hototogisu
hoa cẩm tú cầu.
ほととぎす
yomei
Còn bao lâu
餘命
150
ikubaku ka aru
cuộc đời tôi
110
いくばくかある
yo mijikashi
một đêm ngắn ngủi.
夜短し
yukino ie ni
Trong nhà tuyết
雪の家に
151
neteiruto omofu
lim dim ngủ
119
寝て居ると思ふ
171
bakari nite
mãi vẫn vơ.
ばかりにて
(Quỳnh Như dịch)
yuuzuki ya
Chạng vạng trăng cao
夕 月 や
152
hitokatamari ni
những cánh hoa rụng
122
一 か た た り り に
chiru sakura
từ cây anh đào.
散桜
yuuzuki ya
Đêm trăng
夕月や
153
ume chirikakaru
hoa mơ rơi lả tả
梅散り掛かる
koto no koe
hòa tiếng đàn koto.
琴の声
(15) Matsunaga Teitoku16松永 貞徳(1571-1653)
heburasete
Bé say sưa bú
ねふらせて
154
yashinaitate yo
như đang ngậm mút
養ひ立よ
hana no ame
viên kẹo mưa hoa.
花の雨
(Quỳnh Như dịch)
minnahito no
Nhà nhà say giấc ban trưa
皆人の
155
hirune no tane ya
bởi đêm qua
55
昼寝の種や
aki no tsuki
trăng thu đẹp quá.
秋の月
(Lam Anh dịch)
shioruru wa
Nhợt nhạt
しをるゝは
156
nani ka anzu no
cành hoa hạnh
55
何かあんずの
hana no iro
héo tàn.
花の色
(16) Matsuo Basho 枕尾芭蕉(1644-1694)
aki fukaki
Thu vàng
秋深き
157
tonari wa nani wo
ở bên kia ấy
隣わ何を
suru hito zo
Người làm gì nhỉ?
する人ぞ
16 Nhà thơ haiku thời Edo, có công khai sáng niêm luật cho thơ haiku.
172
(Đoàn Lê Giang dịch)
aki no yoru
Đêm thu
秋の夜
158
uchikuzushitaru
vỡ tan
打ち崩したる
hanashi kana
chuyện đời.
話かな
(Quỳnh Như dịch)
aogi naku
Hươu đẫm lệ
仰ぎ鳴く
159
shika no namida ya
ngước nhìn
しかの涙や
tsuki no tsuyu
giọt sương trăng.
月の露
(Quỳnh Như dịch)
ara umi ya
Ôi biển hoang vu
荒海や
160
Sado ni yokotafu
Ngân hà vươn trải
佐渡に横たふ
Ama no gawa
trên đảo Sado.
天の川
(Nhật Chiêu dịch)
asagao ni
Bữa điểm tâm
朝顔に
161
ware wa meshiku
tôi ăn và ngắm
111
我は飯食ふ
otoko kana
những đóa triêu nhan.
男かな
(Nhật Chiêu dịch)
asagao ya
Hoa triêu nhan ơi
朝顔や
162
hiru wa jo orosu
giữa ngày cổng khóa
80
昼は鎖おろす
mon no kaki
chỉ còn em thôi.
門の垣
(Nhật Chiêu dịch)
asagao ya
Hoa triêu nhan ơi
朝顔や
163
kore mo mata waga
cả em rồi cũng
81
是も又我が
tomo narazu
chẳng là bạn tôi.
友ならず
(Nhật Chiêu dịch)
ayame kusa
Hoa diên vĩ
あやめ草
164
ashi ni musuban
buộc quanh bàn chân
足に結ばん
173
waraji no o
mang dép rơm.
草鞋の緒
(Nhật Chiêu dịch)
basho no waki shite
Cây chuối bão giông
芭蕉野分して
165
tarai ni ame wo
nghe mùa thu nhỏ giọt
69
盥に雨を
kiku yo kana
nửa đêm vào bồn.
聞夜かな
(Nhật Chiêu dịch)
fuji no kaze ya
Gió Phú Sĩ
富士の風や
166
ogi ni nosete
trèo lên quạt
45
扇にのせて
edo miyage
món quà Edo.
江戸土産
(Quỳnh Như dịch)
furu ike ya
Ao cũ
古池や
167
kawazu topikomu
con ếch nhảy vào
75
蛙飛びこむ
mizu no oto
vang tiếng nước xao.
水の音
(Nhật Chiêu dịch)
furuhaya ya
Cánh đồng xưa
古畑や
168
nazuna tsumiyuku
hoa khúc tần nở rộ
42
薺摘行
otoko domo
lầm lỗi hắn bước đi.
男ども
(Quỳnh Như dịch)
fuuryu no
Phong lưu khởi đầu
風流の
169
hajime ya oku no
bài ca trồng lúa
はじめや奥の
taue uta
nơi miền quê thâm sâu.
田植うた
(Nhật Chiêu dịch)
fuyu no hi ya
Ngày đông
冬の日や
170
bajou ni kouru
trên lưng ngựa
馬上に
kageboushi
bóng tôi đông cứng.
影法師
(Quỳnh Như dịch)
ganjitsu ya
Nỗi buồn
元日や
174
omocba sabishi
Sao ngày đầu năm nhớ lại
171 思えばさびし
aki no kure
chiều thu.
秋の暮
hamaguri no
Như con sò
蛤の
172
futami ni wakare
rút ruột ra khỏi vỏ
ふたみにわかれ
iku aki zo
chia tay mùa thu.
行く秋ぞ
(Đoàn Lê Giang dịch)
hana no kumo
Từ đám mây hoa
花の雲
173
kane wa ueno ka
tiếng chuông vọng lại
69
鐘わ上野か
asakusa ka?
chùa Uneno hay Asakusa?
浅草か
(Đoàn Lê Giang dịch)
hara naka ya
Trên cánh đồng
原仲や
174
mono nimo tsukazu
chim vân tước hát
物にもつかず
naku hibari
chơi cùng hư không.
啼く雲雀
(Nhật Chiêu dịch)
haru kaze ni
Gió mùa xuân
春風に
175
fukidashi warau
thổi tung tăng
吹き出し笑う
hana mo gana
hoa cười khắp nơi.
花もがな
haru ya koshi
Đêm trừ tịch
春や来し
176
toshi ya iki ken
năm cũ bước qua
62
年や行きけん
kotsugo mori
mùa xuân chớm dậy.
小晦日
(Đoàn Lê Giang dịch)
hatsu shigure
Mùa đông giăng đầy trời
初時雨
177
saru mo komino wo
một chú khỉ đơn độc
猿も小蓑を
hoshige nari
cũng mong chiếc áo tơi.
ほしげなり
(Đoàn Lê Giang dịch)
hebi tabefu to
Rắn đớp mồi
蛇食べふと
175
kikeba osoroshi
nghe mùi chim trĩ
178 聞けば恐ろし
kiji no koe
rợn người.
雉の声
(Đoàn Lê Giang dịch)
hi wa hana ni
Nắng chói chang
日わ花に
179
kurete sabishi ya
hoa rũ buồn
暮れてさびしや
asu narafu
mơ một ngày mai.
あすならふ
(Quỳnh Như dịch)
hitotsu ya ni
Chung quán bên đường
一つ屋に
180
yojo mo netari
các du nữ ngủ
遊女も寝たり
hagi to tsuki
trăng và đinh hương.
萩と月
(Nhật Chiêu dịch)
horo horo to
Âm thầm không tiếng vang
ほろほろと
181
yamabiki chiru ka
rơi bao cánh chùm vàng
76
山吹散るか
takino oto
bên bờ thác nước réo.
滝の音
(Nguyễn Nam Trân dịch)
hototogisu
Chim đỗ quyên ơi
時鳥
182
shougatsu wa ume no
hoa mơ đầu năm mới
正月わ梅の
hanasakeri
bung cánh.
花咲けり
hototogisu
Tiếng chim quyên
ホトトギス
183
kieyuku kata ya
tan dần về phía
75
消え行くかたや
shima hitotsu
đảo cô liêu.
島一つ
(Đoàn Lê Giang dịch)
ika – uri no
Anh hàng cá mực rao
烏賊売の
184
koe magirawashi
nghe sao không phân biệt
82
声まぎらはし
hototogisu
với tiếng đỗ quyên kêu.
時鳥
(Nguyễn Nam Trân dịch)
inazuma ya
Trên mặt biển
稲妻や
176
umi no men wo
ánh chớp
185 海の面を
hiramekasu
lóe sáng.
ひらめかす
(Quỳnh Như dịch)
inazuma ya
Chớp sáng
稲妻や
186
yami no katayuku
tiếng diệc kêu vang
闇の方行く
go i no koe
xuyên màn đêm.
五位の声
kare eda ni
Trên cành khô
枯れ枝に
187
karasu no tomari keri
cánh quạ đậu
41
烏のとまりけり
aki no kure
chiều thu.
秋の暮れ
(Nhật Chiêu dịch)
kiku no ka ya
Cố đô Nại Lương
菊の香や
188
Nara ni wa ikuyo no
ngào ngạt hoa cúc
奈良は幾代の
otoko buri
toàn là đàn ông.
男ぶり
(Quỳnh Như dịch)
kiku no ka ya
Ở cố đô Nại Lương
菊の香や
189
Nara ni wa furuki
hoa cúc và tượng Phật cổ
65
奈良にわ古き
hotoketachi
ngào ngạt hương.
仏たち
(Đoàn Lê Giang dịch)
kimi hi wo take
Cời lửa lên đi
君火をたけ
190
yoki monomisen
món quà của tôi rất tuyệt
70
よきもの見せむ
yuki maroge
quả cầu tuyết đây!
ゆきまろげ
(Nhật Chiêu dịch)
ki no moto ni
Dưới cây, lao xao
木のもとに
191
shiru mo namasu mo
chén canh, đĩa cá
81
汁も膾も
sakura kana
đều vương hoa đào.
桜かな
(Nhật Chiêu dịch)
177
kirishigure
Sương mùa bao phủ
霧時雨
192
Fuji wo minu hi zo
Fuji chìm khuất rồi
富士を見ぬ日ぞ
omoshiroki
Núi hiện hình trong tôi.
おもしろき
(Đoàn Lê Giang dịch)
Kisakata ya
Ở Kisakata
象潟や
193
ryori nani kuu
ngày tế lễ thần
料理何くう
kami matsuri
họ ăn gì nhỉ?
神祭
(Quỳnh Như dịch)
kitemo mi yo
Cứ mặc thử
きてもみよ
194
jinbega haori
chiếc áo
63
甚べが羽織
hanagoro mo
mùa hoa anh đào.
花ごろも
ki wo kirite
Đốn xong thân cây
木を切りて
195
motokuchi miru ya
vầng trăng đêm giống hệt
本口見るや
kyo no tsuki
nhát chém vừa vun tay.
今日の月
kochira muke
Nỗi buồn của ta
こちら向け
196
waremo sabishiki
nhìn lại
我も寂しき
aki no kure
chiều thu đã tàn.
秋の暮れ
kogarashi ni
Trụ được cơn giông bão
木枯に
197
iwa fukitogaru
thổi mạnh, và ghềnh đá
77
岩吹きとがる
sugima kana
len giữa đám tuyết tùng.
杉間かな
(Nguyễn Nam Trân dịch)
kono aki wa
Thu này
この秋わ
nande toshiyoru
sao già nhanh hơn thế
80
198
何で年寄る
kumo ni tori
cánh chim khuất trên mây.
雲に鳥
(Quỳnh Như dịch)
178
kono michi ya
Con đường tôi đi
この道や
199
yuku hito nashi ni
không còn ai đi nữa
48
行く人なしに
aki no kure
chiều tàn mùa thu.
秋の暮れ
(Đoàn Lê Giang dịch)
kono ume ni
Hoa mơ hé nở
此梅に
200
ushi mo hatsune to
khiến chú bò
牛も初音と
naki tsubeshi
rống tiếng đầu tiên.
鳴きつべし
(Quỳnh Như dịch)
kumo to hedatsu
Mây nghìn trùng
雲とへだつ
201
tomo ka yakari no
bằng hữu và chim én
72
友かや雁の
ikiwakare
cuộc sống đầy chia ly.
生き別れ
(Quỳnh Như dịch)
kusa no to mo
Mái lều tả tơi
草のとも
202
sumi kawaru yo zo
sẽ thành ngôi nhà khác
46
すみ変わるよぞ
hina no ie
Tết về, con trẻ chơi.
雛の家
(Nhật Chiêu dịch)
kyo made wa
Mênh mông đường về
京までわ
203
mada nakazora ya
kinh đô
まだ中空や
yuki no kumo
mây và tuyết trắng.
雪の雲
kyou nite mo
Chim quyên hót
京にても
204
kyou natsukashi ya
ở Kinh Đô
104
京なつかしや
hototogisu
mà nhớ Kinh Đô.
ほととぎす
(Đoàn Lê Giang dịch)
matsushima no
Ánh trăng
枕島の
205
tsuki mazu kokoro ni
Tùng Đào
月まず心に
kakarite
rơi vào tim tôi.
かかりて
(Quỳnh Như dịch)
179
matsushima ya
Matsushima
松島や
206
aa matsushima ya
Tùng Đào
ああ松島や
matsushima ya
Ôi! đảo-thông.
松島や
(Đoàn Lê Giang dịch)
meigetsu ya
Trăng rằm mùa thu
名月や
207
hokkoku biyori
tiết trời Đông bắc
51
北国日和
sadame naki
bất định.
定めなき
(Quỳnh Như dịch)
nagakihi mo
Dẫu ngày dài ra
奈き日も
208
saezuri taranu
mà vân tước hát
囀り足らぬ
hibari kana
vẫn còn hát ca.
雲雀かな
(Nhật Chiêu dịch)
naho mitashi
Ánh hừng đông lên
なほ見たし
209
hana ni akeyuku
hoa nở
花に明けゆく
kami no kao
gương mặt của Thần.
神の顔
natsu kite mo
Hè sang
夏来ても
210
tada hitotsu ba no
âu một chiếc lá
ただひとつ葉の
hitoha kana
chỉ một mà thôi.
一葉かな
(Quỳnh Như dịch)
natsugusa ya
Cỏ mùa hạ đầy
夏草や
tsuwamono domo ga
giấc mơ người tráng sĩ
211
兵どもが
yume no ato
còn vươn đâu đây.
夢の跡
(Nhật Chiêu dịch)
neko no koi
Tình yêu của mèo
猫の恋い
212
yamu toki neya no
lặng yên bên giường bệnh
やむとき閨の
oborozuki
trăng mờ sương.
朧日
(Quỳnh Như dịch)
180
neko no tsuma
Chị mèo cái kia đang
猫の妻
213
hetsui no kuzure yori
trèo qua gian bếp sập
64
竃の崩れより
kayoi keri
để đến thăm anh chồng.
通ひけり
(Nguyễn Nam Trân dịch)
neta hito ni
Người ngủ
寝た人に
214
nemuru hito ari
cạnh người cũng ngủ
眠る人あり
haru no ame
mưa mùa xuân pha.
春の雨
niwa hakite
Quét tuyết sương
庭掃きて
215
yuki o wasururu
mà quên sương tuyết
83
雪を忘るる
hahaki kana
cây chổi trong vườn.
帚かな
(Nhật Chiêu dịch)
nomi shirami
Nào chấy, rận, ngựa đói
蚤虱
216
uma no shito suru
bên gối
馬の屍する
makura moto
chỗ ta nằm
枕もと
(Nguyễn Nam Trân dịch)
nozarashi wo
Lang thang đồng nội
野ざらしを
217
kokoro ni kaze no
để cho mưa gió
志に風の
shimumi kana
thấm vào hồn tôi.
しむ身哉
(Đoàn Lê Giang dịch)
omoshiroshi
Lạ lùng
面白し
218
yuki ni yanaran
tuyết rơi đầy
雪にやならん
fuyu no ame
cơn mưa dông.
冬の雨
omoshirou te
Ngộ nghĩnh
おもしろうて
219
yagate kanashiki
man mác buồn
やがて悲しき
ubene kana
thuyền tam bản.
鵜舟哉
(Quỳnh Như dịch)
181
ougi nite
Trong khúc quạt xòe
扇にて
220
sakekumu kageya
nâng chén rượu
酒組む影や
chiru sakura
bóng hoa đào rơi.
散る桜
(Quỳnh Như dịch)
ro no koe
Dạ rét căm căm
櫓の声
221
namida wo
utte
tiếng chèo khua sóng
67
波をうって腸氷る
120
harawata kooru
nước mắt và bóng đêm.
夜や涙
yo ya namida
(Đoàn Lê Giang dịch)
ryou no te ni
Trên đôi tay tôi
両の手に
222
momo to sakura ya
hồng đào và anh đào
桃と桜や
kusa no mochi
và cả bánh rau xanh.
草の餅
(Quỳnh Như dịch)
sabishisa ya
Cô liêu
桜しさや
223
kabe ni taketaru
lồng treo trên vách
74
壁にたけたる
kirigirisu
một con dế kêu.
きりぎりす
(Nhật Chiêu dịch)
sakura yori
Đã ba mùa trăng
桜より
224
matsu wa nihon wo
hoa đào không nở
松わ二ホを
mitsuki goshi
đồi thông, vui hơn.
三月越し
samazama no
Hồi tưởng
様々の
225
koto omoidasu
về rất nhiều điều
こと思い出す
sakura kana
hoa anh đào.
桜かな
samidare no
Mưa tháng năm rơi
五月雨の
226
furi nokoshite ya
sừng sững trơ mình
降り残してや
hikari do
tháp Quang Đường.
光堂 松尾
(Quỳnh Như dịch)
182
samidare wo
Mưa tháng năm rơi
五月雨を
227
atsumete hayashi
bụi trần rơi vãi
あつめて早し
mogami gawa
trên sông Mogami.
最上川
(Quỳnh Như dịch)
shiragiku no
Một cành hoa cúc trắng
白菊の
228
me ni tatete miru
dù nhướng mắt nhìn kĩ
83
目に立てゝ見る
chiri mo nashi
cũng không thấy bụi trần.
塵もなし
(Nguyễn Nam Trân dịch)
shizukasa ya
Vắng lặng u trầm
静かさや
229
seki ni shimi iru
thấm sâu vào đá
41
岩にしみ入る
semi no koe
tiếng ve ngâm.
74
蝉の声
(Đoàn Lê Giang dịch)
shoyuki ya
Tuyết đầu mùa
初雪や
230
saiwahi anni
vào trong am
幸ひ庵に
makari aru
niềm hạnh phúc.
まかりある
sokai no
Kìa trên mặt biển xanh
蒼海の
231
nami sake kusashi
sóng cùng nồng men rượu
65
浪酒臭し
kyo no tsuki
giống vầng trăng đêm nay.
今日の月
(Nguyễn Nam Trân dịch)
tabi ni yande
Đau yếu giữa hành trình
旅に病んで
232
yume wa kareno wo
chỉ còn mộng tôi phiêu
35
夢わ枯野を
kakemeguru
lãng
46
駆け巡る
trên những cánh đồng
78
hoang.
(Nhật Chiêu dịch)
183
tabibito
Mưa đầu đông
旅人と
233
towaga na yobaren
hãy gọi ta là
80
我名よばれん
hatsu shigure
lữ nhân.
初時雨
(Quỳnh Như dịch)
tako tsubo ya
Trăng mùa hè
蛸壺や
234
hakanaki yume wo
soi chú mực trong bẫy
はかなき夢を
natsu no tsuki
giấc mộng phù du.
夏の月
(Đoàn Lê Giang dịch)
te wo tateba
Tôi vỗ bàn tay
手を打てば
235
kodama ni akaruku
dưới trăng mùa hạ
68
こだまに明くる
natsu no tsuki
tiếng dội về, ban mai!
夏の月
(Nhật Chiêu dịch)
toginaosu
Chùi lại chiếc gương
磨直す
236
kagami mo kiyoshi
sáng lóa
鏡も清し
yuki no hana
bông hoa tuyết.
雪の花
torinaku ya
Dưới chân núi nhỏ Fuji
鶏なくや
237
kofuji no fumoto
tiếng gà gáy
小窓士の麓
momo no hana
và cánh hoa mơ.
桃の花
(Quỳnh Như dịch)
tsuki mite mo
Dẫu ngắm nhìn trăng
月見ても
238
mono tarahazu ya
sao thấy thiếu sáng
物たらはずや
suma no natsu
mùa hè Suma.
須磨の夏
(Quỳnh Như dịch)
tsuki yuki to
Theo suốt đời tôi
月雪と
239
nosabari kerashi
những năm tháng cuối
83
のさばりけらし
toshi no kure
chỉ trăng và tuyết thôi.
年の暮れ
184
(Đoàn Lê Giang dịch)
tsutsuji ikete
Hoa đỗ uyên trên bàn
躑躅生けて
240
sono kage ni hidara
dưới bóng hoa
70
その陰に干鱈
saku onna
một chị ngồi xẻ cá.
割く女
ubaguruma
Sóng hè phẫn nộ
乳母車
241
natsu no doto wo
chiếc xe nôi
夏の怒涛を
yokomuki ni
lật ngang.
よこむきに
(Quỳnh Như dịch)
ubazakura
Hoa đào cằn cỗi
姥桜
242
saku ya rogo no
nở rồi lại tàn
62
咲くや老後の
omoide
nhớ thương.
思い出
(Quỳnh Như dịch)
uma ni nete
Trên lưng ngựa mơ màng
馬に寝て
243
zanmu tsuki tooshi
mộng tỉnh
残夢月遠し
cha no kemuri
trăng lặng rồi, khói nấu trà
茶の煙
tỏa lan.
(Đoàn Lê Giang dịch)
umi kurete
Biển chạng vạng
海暮れて
244
kamo no koe
mờ nhạt
鴨の声
honokani shiroshi
tiếng ngan.
ほのかに白し
(Quỳnh Như dịch)
ushi beya ni
Chuồng bò
牛部屋に
245
ka no koe yowashi
vang lên tiếng muỗi
蚊の声よわし
aki no kaze
gió thu.
秋の風
185
ware ni ni wa
Đừng theo tôi
我にには
246
fatatsu ni wareshi
quả dưa dù xẻ nửa
84
ふたつに割わし
maku wauri
cần chi hai cuộc đời.
まくわうり
(Nhật Chiêu dịch)
yagate shinu
Cái chết đến gần
やがて死ぬ
247
keshiki wa miezu
mà không hay biết
景色わ見えず
semi no koe
vẫn hoài tiếng ve.
蝉の声
(Lê Thị Thanh Tâm dịch)
yamaro kite
Màu hoa tầm xuân
山路来て
248
naniyara yukashi
trên con đường núi
72
何やらゆかし
sumiregusa
níu hoài bước chân.
すみれ草
(Đoàn Lê Giang dịch)
yuku haru ya
Mùa xuân ra đi
行く春や
249
tori naki uo no
tiếng chim thổn thức
38
鳥蹄き魚の
me wa namida
mắt cá lệ đầy.
目は涙
(Nhật Chiêu dịch)
yoku mireba
Nhìn kĩ mới nhận ra
よく見れば
250
nazuna hana saku
dưới chân hàng dậu
40
薺花咲く
kakine kana
khóm khúc tần nở hoa.
垣根かな
(Đoàn Lê Giang dịch)
yoru hisokani
Con sâu lặng yên
夜ル竊ニ
251
mushi wa gekka no
ăn mòn hạt dẻ
66
虫は月下の
kuri wo ugatsu
trong đêm trăng huyền.
栗を穿ツ
(Nhật Chiêu dịch)
yuugao ya
Mùa thu
夕顔や
252
aki wa iroiro no
hoa bìm bìm nở
秋わ色々の
hisago kana
xen lẫn bầu và bí.
瓢かな
186
(17) Mitsuhashi Takajo 三橋鷹女17(1899-1972)
kono ki noberaba
Leo lên cây này
この樹登らば
253
kijo to narubeshi
tôi sẽ thành thần nữ
120
鬼女となるべし
yuu momiji
giữa bạt ngàn lá đỏ chiều
夕紅葉
nay.
(Đoàn Lê Giang dịch)
usu momiji
Lá ửng hồng
薄紅葉
254
koibito naraba
người tôi yêu
恋人ならば
eboshi deko
đội nón Edoshi.
烏帽子で来
(Quỳnh Như dịch)
(18) Mitsuhashi Toshio 三橋敏雄18(1920-2001)
Hiroshima ni
Tại Hiroshima
広島に
255
roujin shouzu
người già héo hắt
老人正ず
aki no kure
tàn thu.
秋の暮
(Quỳnh Như dịch)
ie goto ni
Trong mỗi nhà
家毎に
256
chikyu no hito ni
nhân gian
地球の人に
ama no gawa
và sông Ama.
天の川
(Quỳnh Như dịch)
mata no yo wo
Lại một đêm
またの夜を
257
tokyo akaku
Tokyo đỏ đèn
東京赤く
akaku naru
rực sáng.
赤くなる
(Quỳnh Như dịch)
sennso ni
Chiến tranh
戦争に
258
takaru musuu no
vô vàn
たかる無数の
17 Nhà thơ haiku chủ trương theo phong cách khẩu ngữ. 18 Nhà thơ haiku với lối viết cách tân thơ haiku không có từ chỉ mùa.
187
hae shizuka
ruồi đậu.
蝿しずか
(Quỳnh như dịch)
shonen ari
Thời niên thiếu
初年あり
259
pikaso no ao no
màu xanh Picasso
ピカソの青の
naka ni yamu
ôi nỗi đau.
なかに病む
(Quỳnh Như dịch)
taiyo no
Mặt trời vừa lên
太陽の
260
agareru haru wo
luyến tiếc thay
あがれる春を
oshimi keri
một mùa xuân phai.
惜しみけり
(19) Mizuhara Shuoushi19水原 秋櫻子(1892-1981)
ameni eshi
Trong cơn mưa
雨に獲し
261
shira uwo no kasa
bắt đám cá trắng
白魚の嵩
awarenari
buồn mênh mang.
哀れなり
(Quỳnh Như dịch)
beta beta ni
Nhớp nháp, ướt át
べたべたに
262
ta mo na no hana mo
hoa cải và cánh đồng
田も菜の花も
teri mi daru
tỏa sáng.
照りみだる
(Quỳnh Như dịch)
no no niji ni
Cầu vồng trên đồng
野の虹と
263
haruta no niji to
cầu vồng vụ xuân
131
春田の虹と
sora ni afu
gặp nhau trên trời.
空に会ふ
(Quỳnh Như dịch)
tsuki iku yo
Trăng dài đằng đẳng
月幾世
264
terashi tobino ni
soi chiếu đuôi công
照らせし鴟尾に
kyo no tsuki
trăng hôm nay.
今日の月
19 Chủ tịch Hiệp hội nhà thơ năm 1962, có nhiều đóng góp phát triển thơ haiku hiện đại.
188
(Quỳnh Như dịch)
tsuri bashi ya
Trên cầu dây văng
吊橋や
265
hyappo no chuu no
trăm bước không trung
132
百歩の宙の
aki no kaze
gió thu.
秋の風
(Quỳnh Như dịch)
(20) Naito Joso20内藤 丈草(1662-1704)
mizu no soko no
Đáy nước sâu
水の底の
266
iwa ni ochitsuku
im lìm trên đá
岩に落ち着く
kono ha kana
chiếc lá nào.
此の葉かな
(Đoàn Lê Giang dịch)
no mo yama mo
Tuyết rơi dày
野も山も
267
no ni toraeta
bao phủ đồng núi
雪にとられて
nani mo nashi
trống trãi.
何もなし
ukauka to
Bồn chồn
うかうかと
268
kite wa hanami no
lễ hội ngắm hoa
来わ花見の
rusui kana
đến lượt trông nhà.
留守居哉
(Quỳnh Như dịch)
(21) Nakamura Kusatao 中村暮田男21(1901-1983)
furu ame ya
Mưa rơi
降る雪や
269
meiji wa tooku
làng Meiji
133
明治わ遠く
nari ni keri
xa vời vợi.
なりにけり
(Quỳnh Như dịch)
20 Học trò của Basho. 21 Chủ tịch hiệp hội thơ haiku hiện đại năm 1960.
189
fuyu umi ya
Biển mùa đông
冬海や
270
rakka no gotoku
ngỡ hoa rụng
落花のごとく
kamome uku
và mòng biển trôi.
鷗浮く
sora wa taisho no
Da trời xanh
空わ太初の
271
aosa tsuma yori
màu của thuở ban đầu ta
133
青さ妻より
ringo uku
đón quả táo từ ngày
林檎うく
người vợ.
(Nguyễn Nam Trân dịch)
(22) Nishiyama Soin22 西山宗因(1605-1682)
na no hana ya
Dưới góc tùng thâm niên
菜の花や
272
ippon sakishi
Âm thầm khoe sắc
57
一本咲きし
matsu no moto
Một bông cải mỏng manh
松のもと
(Lam Anh dịch)
sabera koko ni
Dưới bóng hoa mơ
さればここに
273
danrin no ki ari
trong nhà Danrin
57
談林の木あり
ume no hana
hứng thú, ta làm thơ.
梅の花
(Quỳnh Như dịch)
(23) Ogiwara Seisensui23 荻原井泉水(1884-1947)
sora wa sabishi yo
Trời âm u
空わさびしよ
274
ie araba
nhà mọc lên nhiều
127
家あらば
kemuri wo age yo
khói lại càng cao.
煙をあげよ
(24) Shinohara Hosaku24 篠原鳳作(1905-1936)
gakko no
Ánh trăng
月光の
22 Nhà thơ phái Danrin. 23 Nhà thơ theo phong trào thơ tự do thời Meiji. 24 Nhà thơ theo phong trào thơ haiku mới, chủ trương thơ haiku không có từ chỉ mùa.
190
omodakarazu ya
soi vào, nhẹ nhàng
275 おもだからずや
nagaki kami
mái tóc dài.
長き髪
inshoku no
Chùa Ango
飲食の
276
mono oto mo naku
giờ ăn uống
もの音もなき
angoji
im lim.
安居寺
(Quỳnh Như dịch)
(25) Suda Yasuko 須田康子25(1944-)
sotsugyo no
Trên bàn
卒業の
277
tsukue ni hotto
luận văn tốt nghiệp
124
机にホット
keiki kana
chiếc bánh nướng.
ケーキかな
(Quỳnh Như dịch)
(26) Sugita Hisajo 杉田久女26(1890-1946)
hana gomoro
Từng mãnh xiêm y
花衣
278
nyguya matsuwara
rời thân thể ngọc đi ngắm
130
ぬぐやまつはる
himo iroiro
hoa về
紐いろいろ
sợi hồng lưu luyến.
(Quỳnh Như dịch)
taka taka to
Đàn bướm bay
高々と
279
chou koyuru tani no
cao mãi, cao mãi
蝶こゆる谷の
fukasa kana
tận trong thác sâu.
深さかな
yuku haru no
Bàn chân
ゆく春の
280
nagare ni sou te
rảo bước
流れに沿うて
ayumi keri
theo mùa xuân đi.
歩みけり
25 Nhà thơ haiku hiện đại. 26 Nhà thơ nữ thời kì Meiji.
191
(27) Tachibana Hokushi 立花北枝27(-1718)
ike no hoshi
Ngôi sao trên hồ
池の星
281
mata ha harahara to
ào ào
またははらはらと
shigure kana
mưa đầu đông.
時雨かな
(Quỳnh Như dịch)
sabishisa ya
Nỗi u buồn
さびしさや
282
isshaku kiete
khiến con đom đóm
一尺消えて
yuku hotaru
cũng bay đi.
ゆくほたる
(28) Tagami Kikusha28田上菊舎(1753-1826)
kumo ka kumo
Mây và mây
雲か雲かと
283
ka to kite mireba
nhìn kỹ mới nhận ra
来て見れば
sakura kana
hoa anh đào.
さくら哉
(Quỳnh Như dịch)
midori ni wa
Trong đám cây
みどりにわ
284
michi mo mayohitsu
bước chân lạc lối
道も迷ひつ
yamazakura
hoa anh đào núi.
山桜
sanmon wo
Ra khỏi cổng chùa
山門を
285
dereba nihon zo
ơ kìa Nhật Bản
88
出れば日本ぞ
chatsumi uta
khúc ca hái trà.
茶摘みうた
(Quỳnh Như dịch)
(29) Takada Choi 高田蝶衣29(1726-1798)
aru toki wa
Bất chợt
ある時わ
286
kabe no naka yori
từ vách tường
壁の中より
27 Học trò của Basho. 28 Nhà thơ nữ thời kì Edo. 29 Học trò của Takahama Kyoshi.
192
aki no koe
văng vẳng tiếng mùa thu.
秋の声
kamitsudo
Các vị thần quy tụ
神集ふ
287
norisutemashishi
giáng trần
乗り捨てましと
kumo tomaru
mây ngừng trôi.
雲泊まる
(Quỳnh Như dịch)
koe dashite
Cô độc
声出して
288
mitari dokkyo no
trong căn phòng gọi
みたり独居の
aki no kure
nhìn vào tàn thu.
秋のくれ
mado akete
Tung cửa sổ
窓あけて
289
miyuru kagiri no
trong không trung
見ゆる限りの
haru oshimu
xao xuyến mùa xuân.
春惜む
(Quỳnh Như dịch)
(30) Takahama Kyoshi 高浜虚子30(1874-1959)
aki kaze ya
Trong gió thu
秋風や
290
ganchu no mono
vạn vật trước mắt
眼中のもの
mina haiku
đều là haiku.
皆俳句
(Quỳnh Như dịch)
ame harete
Mưa tạnh rồi
雨晴れて
291
shibaraku bara no
cánh tường vi ấy
128
しばらく薔薇の
nioi kana
một thoáng hương trôi.
匂いかな
(Nhật Chiêu dịch)
hatsu cho wo
Dường như giấc mơ
初蝶を
292
yume no gotoku ni
bay đi mất
128
夢の如くに
mi ushinafu
theo đàn bướm xuân
見失ふ
30 Nhà thơ tiếp nối Shiki trong phong trào cách tân thơ haiku.
193
kare ichi go
Hắn buông một tiếng
彼一語
293
ware ichi go aki
ta một từ thu
我一語秋
fukami kamo
sâu thẳm làm sao.
深みかも
(Quỳnh Như dịch)
kono yama ni
Ở trong núi
此の山に
294
sumikeru karasu,
chim, rắn và thú dữ
129
住みける烏、
kemono, hebi
sống cùng nhau.
獣、蛇
(31) Takarai Kikaku 宝井其角31(1661-1707)
amagaeru
Con ếch xanh
雨蛙
295
basho ni norite
trên tàu lá chuối
43
芭蕉にのりて
soyogi keri
đánh đu một mình.
87
そよぎけり
(Nhật Chiêu dịch)
meigetsu ya
Bóng trăng âm u
名月や
296
tatami no ue ni
trên manh chiếu
88
畳の上に
matsu no kage
vời vợi trăng thu.
松の陰
(Lam Anh dịch)
yume ni kuru
Mẹ trở về
夢に来る
297
haha wo kaesu ka
trong giấc mơ con thấy
母をかえすか
hototogisu
chim quyên ơi.
ほととぎす
(32) Tomizawa Kakio 32富澤赤黄男(1902-1962)
chou ochi te
Cánh bướm đang rơi
蝶落ちて
298
dai onkyo no
phát ra tiếng lớn
大音響の
ketsu hyouki
thời tan băng.
結氷期
garasu mado
Vỡ ô cửa
ガラス窓
31 Học trò của Basho. 32 Nhà thơ trong phong trào tân hưng thơ haiku hiện đại.
194
kowareshimafu
để nhìn
299 壊れてしまふ
yoi tenki
tiết trời đẹp.
よい天気
gunkan ga
Rồi cũng đến ngày
軍艦が
300
shizunda umi no
tàu chiến cũ kĩ
沈んだ海の
oitaru
chìm trên biển.
老いたる
samui tsuki
Trăng lạnh
寒い月
301
aa bou ganai
không tròn nổi vành
ああ貌がない
bou ganai
chẳng định hình.
貌がない
(33) Yamaguchi Seishi33山口 誓子(1901-1994)
natsu no kawa
Sợi xích đỏ neo tàu
夏の河
302
akaki tessa no
thấm cái nóng mùa hạ
133
赤き鉄鎖の
hashi hitaru
xuống sông sâu.
端浸る
(Đoàn Lê Giang dịch)
umi ni dete
Bước ra biển
海に出て
303
kogarashi kaeru
câu héo tàn
木枯らし帰る
tokoro nashi
không chổ quay về.
ところなし
(Quỳnh Như dịch)
(35) Yosa Buson 与謝蕪村(1716-1784)
akebono no
Rạng đông
曙の
304
murasaki no maku ya
màu tím
むらさきの幕や
haru no kaze
gió xuân.
春の風
(Quỳnh Như dịch)
Basho sarite
Basho đi xa
芭蕉去て
305
sononochi imada
vạn vật vẫn thế
そののちいまだ
33 Nhà thơ theo phong trào cách tân thơ haiku hiện đại.
195
toshi kurezu
năm ngừng trôi.
年くれず
(Quỳnh Như dịch)
fuji wo mite
Nhìn núi Phú Sĩ
富士を見て
306
toru hitoari
người người qua lại
通る人有
toshino ichi
hội chợ cuối năm.
年の市
(Quỳnh Như dịch)
furu ie no
Ngôi nhà ngày xưa
古家の
307
yugami wo naosu
sắp hỏng
ゆがみを直す
koharu kana
tháng mười cuối năm.
小春かな
furuniwa ni
Còn đâu trong vườn
古庭い
308
uguisu nakinu
tiếng chim oanh thuở nọ
92
鶯なきぬ
hi mo sugara
ngày dài vẫn trôi.
日もすがな
fuyu kawa ya
Sông lạnh
冬川や
309
fune ni na wo
bên thành xuồng
舟に菜を
arau onna ari
em gái rửa rau.
洗う女あり
gekkou nishi ni
Dưới tán hoa đằng đông
月光西に渡れば
310
watareba
dạo bước thong dong
120
花陰東に
hanakage
higashini
phía trời tây trăng dõi.
歩むかな
ayumu kana
(Lam Anh dịch)
hana chirite
Hoa đào rụng
花ちりて
311
konoma no tera
Giữa những khoảng không
木の間の寺
tonari ni keri
hiện lên ngôi chùa cổ.
となりにけり
(Đoàn Lê Giang dịch)
haramori no
Giữ hoa làm chi
花守りの
312
mi wa yumiya naki
không mang cung tên
みわ弓矢なき
kagashi kana
gã bù nhìn!
196
かがしかな
haru no umi
Biển ngày xuân
春の海
313
hinemosu notari
cả ngày dài không ngừng
91
終日のたり
notari kana
nhấp nhô, nhấp nhô ngọn
のたりかな
sóng.
(Lam Anh dịch)
haru same ya
Mưa xuân
春雨や
314
kawazu no hara wa
bụng chú ếch
蛙の腹わ
mada nurezu
chưa ướt.
まだぬれず
(Quỳnh Như dịch)
Mưa mùa xuân
harusame ni
春雨に
làm bừng tỉnh
315
ikikaeritaru
92
生きかえりたる
wakame kana
một mầm non xanh.
若め哉
harusame no
Mưa mùa xuân
春雨の
316
naka wo nagaruru
hạt rơi, lất phất
中を流るる
taiga kana
sông Taiga.
大河哉
harusame ya
Mưa xuân
春雨や
dousha no kimi ga
gã đồng hành trên xe
317
同車の君が
sazamegoto
cằn nhằn mãi.
さざめ事
(Quỳnh Như dịch)
harusame ya
Mưa xuân
春雨や
koiso no kogai
sò nhỏ, ngôi nhà nhỏ
318
小礒の小貝
nururu hodo
ướt đẫm.
ぬるるほど
(Quỳnh Như dịch)
197
hi kururu ni
Bên kia núi
日くるるに
319
kiji utsu haru no
chim trĩ hót
雉子うつ春の
yama be kana
xuân trôi lặng thầm.
山辺かな
hi no hikari
Hừng sáng
日の光
320
kesa ya iwashi no
ánh mặt trời
104
今朝や鰯の
kashira yori
rọi đầu cá khô.
頭より
(Quỳnh Như dịch)
hi wa hi kure yo
Từ sáng đến hoàng hôn
日は日くれよ
321
yo wa yo ake yo to
từ đêm đến bình minh
93
夜は夜明よと
naku kaeru
vang vang tiếng ếch.
啼蛙
(Đoàn Lê Giang dịch)
hitori kite
Một người đến
一人来て
322
hitori wo tobu ya
rồi một người đi
一人をとぶや
aki no kure
trong buổi tàn thu.
秋の暮
hosoki hi ni
Trong đêm
細き灯に
323
yorugara hinano
ngọn nến nhỏ
夜がら雛の
hikari kana
hina lung linh.
光かな
(Quỳnh Như dịch)
ibarano ya
Đêm mờ ảo
茨野や
324
yoru ha utukushiki
trên bụi gai
夜はうつくしき
mushi no oto
tiếng côn trùng.
虫の音
ika nobori
Cánh diều bay
イカ登り
325
sakujitsu no sora
bầu trời hôm trước
昨日の空
ri dokoro
nay đà nơi đâu?
ありどころ
(Quỳnh Như dịch)
198
ima ha haya
Lá non
今ははや
326
udo mo kuwanrenu
thổ đương quy
90
独活も食われぬ
wakaba kana
nào đã được ăn!
若葉かな
(Quỳnh Như dịch)
kabedonari
Tiếng động nhẹ
壁隣
327
mono gototsukasu
cạnh bên
ものごとつかす
yosamu kana
đêm lạnh giá.
夜さむかな
kagiri aru
Đời là phù du
かぎりある
328
inochi no hima ya
mang sinh mệnh
命のひまや
aki no koe
tiếng thu.
秋の声
kanashisa ya
Nỗi buồn
悲しさや
329
tsuri no ito fuku
sợi chỉ câu cá
釣りの糸ふく
aki no kaze
lửng lơ gió thu.
秋の風
(Quỳnh Như dịch)
kimi iku ya
Đường dài
君行くや
330
yanagi midori ni
em đi mãi
柳緑に
michi nagashi
rừng liễu.
道長し
kinofu hana
Hôm qua hoa nở
きのふ花
331
asu wo momiji ya
ngày mai lá đỏ
明日を紅葉や
kyo mo tsuki
trăng là hôm nay.
今日も月
kusa kasumi
Cỏ mờ sương
草霞み
332
mizu ni koe naki
nước không động đậy
水に声なき
higure kana
chiều tà.
日暮れかな
kyonen yori
Năm này
去年より
333
mata sabishiizo
buồn hơn năm qua
又さびしいぞ
199
aki no kure
tàn thu.
秋の暮れ
(Quỳnh Như dịch)
mijika yo ya
Đêm mùa hạ trôi nhanh
みじか夜や
334
kemushi no ue ni
trên lưng sâu bướm
毛虫の上に
tsuyu no tama
giọt sương còn long lanh.
露の玉
(Lam Anh dịch)
mugi no aki
Cánh đồng thu
麦の秋
3375
sabishiki kao no
mặt em buồn
さびしきかおの
kyojo kana
như điên dại.
狂女かな
(Quỳnh Như dịch)
mon wo dereba
Chiều mùa thu
門を出れば
336
watashi mo yuku hito
khi rời tổ ấm
42
私も行く人
aki no kure
tôi thành khách lãng du.
秋の暮
(Lam Anh dịch)
na no hana ya
Hoa cải rực vàng
菜の花や
337
tsuki wa higashi ni
phương tây mặt trời ngả
91
月わ東に
hi wa nishi ni
bóng
日わ西に
phương đông mặt trăng
lên.
(Đoàn Lê Giang dịch)
natsugawa wo
Sướng sao
夏河を
338
kosu ureshisa yo
lội sông hè
越すうれしさよ
te ni zouri
đôi dép xách trên tay
手に増量
(Nguyễn Nam Trân dịch)
ochi kochi ni
Ở đâu
遠近に
339
taki no oto kiku
tiếng thác đổ nhẹ
滝のお音聞く
wakaba kana
lá non trên cành.
200
若林かな
oikaze ni
Gió sau lưng
追風に
340
susuki karitoru
cắt cỏ trên đồng
薄刈り取る
okina kana
ơ kìa lão nông.
翁かな
(Quỳnh Như dịch)
ono ga yo ni
Ánh trăng
おのが葉に
341
tsuki oboro nari
trên lá
月おぼろなり
take no haru
tre non.
竹の春
sabishi sa ni
Nỗi buồn
寂しさに
342
hana saki numeri
làm hoa đào dại
花さきぬめり
yamazakura
bung nở.
山ざくら
sabishisa no
Trong buồn
寂しさの
343
ureshikumo ari
cũng có vui
嬉しくもあり
aki no kure
tàn thu.
秋の暮れ
(Quỳnh Như dịch)
saitan wo
Viết xong
さいたを
344
shitari gao naru
bài thơ năm mới
したり顔なる
haikaishi
vui thay.
俳諧詩
saru wo kiku hito
Vượn hú não nề
猿を聞く人
345
sutego ni aki no
hay trẻ bị bỏ rơi than khóc?
すて子に秋の
kaze ikani
gió mùa thu tái tê.
風いかに
(Đoàn Lê Giang dịch)
shigo nin ni
Trăng ngả bóng
四五人に
346
tsuki ochikakaru
soi chiếu bốn năm người
月落ちかかる
odori kana
nhảy múa.
201
(Quỳnh Như dịch)
踊りかな
shiratsuyu ya
Bụi cỏ ngây
白露や
347
ibara to toge ni
mỗi giọt sương trắng
112
茨の刺に
hitotsu zutsu
đọng một cành gai.
一つずつ
(Nhật Chiêu dịch)
shira ume ni
Hoa mơ trắng
白梅に
348
akaruku yobakari ni
rựng sáng
89
明るく夜ばかりに
nari ni keri
màn đêm.
なりにけり
(Quỳnh Như dịch)
sumizumi ni
Vấn vương
隅々に
349
nokoru samosa ya
trong từng ngóc ngách
残る寒さや
ume no hana
giá rét và hoa mơ.
梅の花
(Quỳnh Như dịch)
suzushisa ya
Trời mát dịu
涼しさや
350
kane wo hanaruru
chuông rung lắc
鐘を離るる
kane no koe
ngân nga tiếng chuông.
鐘の声
(Quỳnh Như dịch)
tsuki tenshin
Trăng lên cao
月天心
351
mazushiki machi wo
soi chiếu vào
貧しき町を
toori keri
xóm nghèo nơi đây.
通りけり
tsurigane ni
Trên chuông chùa
釣鐘に
352
tomarite nemuru
một con bướm đậu
止まりて眠る
kochou kana
nghiêng mình ngủ mơ.
胡蝶かな
(Nhật Chiêu dịch)
202
uguisuno
Chim oanh
鶯の
353
eda fumihazusu
vướng chân trên cành
枝ふみはづす
hatsune kana
cất tiếng đầu xuân.
初音
(Quỳnh Như dịch)
ume no hana
Những cánh hoa mơ
梅の花
354
kasa ni kabutte
kết thành chiếc nón
笠にかぶって
naku kawazu
đội đầu ếch kêu.
鳴く蛙
(Quỳnh Như dịch)
utsutsu naki
Mơ hồ
うつつなき
355
tsumami gokoro no
trong lòng tay tôi
つまみごころの
kochou kana
bươm bướm.
胡蝶かな
(Đoàn Lê Giang dịch)
waga de ni
Ta rồi cũng
我がでに
356
ware wo maneku ya
tự mời ta thôi
我を招くや
aki no kure
tàn thu.
秋の暮れ
ware mo shi shite
Rồi tôi cũng chết
我も死て
357
hi ni hotori semu
xung quanh bia đá
碑に辺せむ
kare wo bana
hoa tàn héo khô.
枯を花
(Quỳnh Như dịch)
yama ha kinofu
Hôm qua là núi
山はきのふ
358
no ha kefuasu asu wo
cánh đồng là ngày mai
野はけふあすを
yado no yuki
tuyết là nơi ta ở.
宿るの雪
(Quỳnh Như dịch)
yama-dori no
Chim trĩ
山鳥の
359
o wo fumu haru no
Trải đuôi dài
尾を踏む春の
irihi kana
chiều xuân.
入日哉
203
yanagi chiri
Liễu xác xơ
柳散り
360
shimizu kare ishi
suối cạn
清水涸れ石
tokoro dokoro
đá bày hàng lô nhô.
ところどころ
(Nguyễn Nam Trân dịch)
yuku haru ya
Ôm đàn tì bà
行く春や
361
omotaki biwa no
lòng tôi nặng trĩu
おもたき琵琶の
daki gokoro
mùa xuân trôi.
抱きごころ
(Quỳnh Như dịch)
yuku toshi ya
Năm trôi
行く年や
362
akuta nagaruru
bụi trần rơi vãi
芥流るる
sakura gawa
trên sông Sakura.
さくら川
(Quỳnh Như dịch)
204