TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
CHIẾN LƯỢC DÀI HẠN CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THỦY SẢN RA NƯỚC
Họ và tên sinh viên
: Lª ThÞ Giang
: NhËt 2
Lớp
: 44 E
Khoá
: ThS. Vò HuyÒn Ph ¬ng
Giáo viên hướng dẫn
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ CÁC HÌNH
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU NÔNG
THỦY SẢN VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1.1. KHÁI NIỆM XUẤT KHẨU ................................................................... 3
1.1.2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM .......... 4
1.1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU ............................... 8
1.2. CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU NÔNG THUỶ SẢN VIỆT NAM ................ 12
1.2.1. KHÁI NIỆM CHIẾN LƢỢC VÀ CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU ......... 13
1.2.2. NỘI DUNG CỦA CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU NÔNG THỦY SẢN 14
1.3. CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM ................................ 22
1.3.1. KHÁI NIỆM VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA (DNN&V )............................................................................................ 23
1.3.2. ĐẶC ĐIỂM .......................................................................................... 27
1.3.3. VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA .................... 29
NHỎ VÀ VỪA .............................................................................................. 3 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU ........................................................ 3
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG NÔNG THỦY
SẢN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ........................................................................ 34
2.1.1. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ
YẾU ............................................................................................................... 34
2.1.2. CƠ CẤU HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU ...................................... 37
2.1.3. THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU.............................................................. 40
2.2. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ THUỶ SẢN CHỦ YẾU CỦA VIỆT
NAM ................................................................................................................. 46
2.2.1. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG THỦY SẢN CHỦ
YẾU ............................................................................................................... 46
XUẤT KHẨU NHỎ VÀ VỪA ................................................................... 34 2.1. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ NÔNG SẢN CHỦ YẾU CỦA CÁC
2.2.2. CƠ CẤU HÀNG THỦY SẢN XUẤT KHẨU ...................................... 47
2.2.3. CƠ CẤU THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU .............................................. 50
2.3. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA NGÀNH XUẤT KHẨU
NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM ....................................................................... 55
2.3.1. THÀNH TỰU ...................................................................................... 55
2.3.2. HẠN CHẾ ............................................................................................ 56
2.4. PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THUỶ SẢN RA
NƢỚC NGOÀI THÔNG QUA MA TRẬN SWTO ........................................... 58
2.4.1. ĐIỂM MẠNH ...................................................................................... 58
2.4.2. ĐIỂM YẾU .......................................................................................... 60
2.4.3. CƠ HỘI ................................................................................................ 62
2.4.4. THÁCH THỨC .................................................................................... 66
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CHIẾN LƢỢC DÀI
HẠN CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM
NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG THỦY
CÁC MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM ........................................ 71
3.1.1. XUẤT KHẨU NÔNG SẢN ................................................................. 71
3.1.2. XUẤT KHẨU THỦY SẢN .................................................................. 75
3.2. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH XUẤT KHẨU NÔNG THỦY SẢN
.......................................................................................................................... 78
3.2.1. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ XUẤT KHẨU NÔNG THỦY SẢN .......... 78
3.2.2. ĐỊNH HƢỚNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN ........................................ 79
3.2.3. ĐỊNH HƢỚNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN ........................................ 82
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ HÓA CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU NÔNG
THỦY SẢN CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA ............................. 86
3.3.1. CÁC GIẢI PHÁP VĨ MÔ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG
NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM ................................................................. 86
3.3.2. CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÁC DNN&V XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THỦY SẢN .................. 94
SẢN RA NƢỚC NGOÀI ............................................................................ 71 3.1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XUẤT KHẨU
KẾT LUẬN ............................................................................................... 104
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................ 106
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ACFTA ASEAN- China Free Trade Area Khu mËu dÞch tù do ASEAN-Trung Quèc
CEPT
Common Effective Preferential Tariff
HiÖp ®Þnh vÒ ch ¬ng tr×nh thuÕ quan cã hiÖu lùc chung
EU Europe Union Liªn minh ch©u ¢u
FAO
Food and Agriculture Organization Tæ chøc n«ng l ¬ng thÕ giíi
FDA Food and Drug Administrator
Côc qu¶n lý d îc phÈm vµ thùc phÈm (Hoa Kú)
GAP Good Agriculture Practice Quy t¾c thùc hµnh nu«i tèt
GDP Gross Domestic Product Tæng s¶n phÈm quèc néi
GMP Good Manufacturing Practice
Tiªu chuÈn thùc hµnh tèt s¶n xuÊt
HACCP
Hazard Analysis and Critical Control Point
HÖ thèng kiÓm so¸t mèi nguy vµ ®iÓm kiÓm so¸t tíi h¹n
IQF Individually Quick Frozen CÊp ®«ng nhanh
JBIC
Japan Bank for International Cooperation Ng©n hµng hîp t¸c quèc tÕ NhËt B¶n
NME Non-market Economy NÒn kinh tÕ phi thÞ tr êng
RCA Ratio Comparative Apparent HÖ sè so s¸nh biÓu hiÖn
SPS Sanitary and Plung to Sanitary HiÖp ®Þnh an toµn vÒ an
toµn vÖ sinh ®éng thùc vËt
SSOP
Sanitation Standard Operating Procedure Quy ph¹m thao t¸c vÖ sinh chuÈn
SNV
Nertherlands Development Organization Tæ chøc hç trî ph¸t triÓn Hµ Lan
UNDP
United Nations Development Programme Ch ¬ng tr×nh ph¸t triÓn cña Liªn hîp quèc
VASEP
HiÖp héi ChÕ biÕn vµ XuÊt khÈu thñy s¶n
Viªt Nam Association of Seafood Exporters and Producers
WTO World Trade Organization
Tæ chøc Th ¬ng m¹i thÕ giíi
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ CÁC HÌNH
Bảng 1. Tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp trong từng năm ................ 16
Bảng 2. Tổng số lao động làm việc trong ngành thủy sản từ 2002- 2007 ...... 19
Bảng 3. Phân loại DNN&V của khu vực EU ................................................ 24
Bảng 4. Số lƣợng DNN&V đăng kí kinh doanh mới từ năm 2000 ............... 28
Bảng 5. Kim ngạch xuất khẩu nông sản qua từng năm ................................. 34
Bảng 6. Tỷ lệ tăng trƣởng hàng năm trong kim ngạch xuất khẩu .................. 35
các nông sản chủ yếu từ năm 2001-2007. ..................................................... 36
Bảng 7. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu từ năm 2001-2007 ........................ 38
Bảng 8. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam từ năm 2001-2007 ......... 46
Bảng 9. Cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2007 ................. 48
Bảng 10. Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu thủy sản Việt Nam từ 2001 đến 2007
..................................................................................................................... 50
Hình 1. So sánh tốc độ tăng trƣởng trong kim ngạch xuất khẩu các loại nông
sản trƣớc khi Việt Nam gia nhập WTO và sau khi gia nhập WTO................ 37
(2001-2007) ................................................................................................. 37
Hình 2. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu năm 2001 và năm 2007 ............... 39
LỜI NÓI ĐẦU
Ngành nông nghiệp nƣớc ta chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò hết sức
quan trọng nền kinh tế. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi xu hƣớng
toàn cầu hóa và thƣơng mại quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, xuất khẩu
hàng nông thủy sản ra nƣớc ngoài ngày càng đƣợc Chính phủ chú trọng.
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cùng với những cơ hội và thách
thức mà nó mang đến cũng tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất khẩu nông
thủy sản của các doanh nghiệp Việt Nam, mà trong đó các doanh nghiệp nhỏ
và vừa chiếm tỷ lệ lớn. Đặc biệt với một nền kinh tế đang phát triển nhƣ nƣớc
ta, Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò rất quan trọng và hiện nay các
doanh nghiệp nhỏ và vừa đƣợc xác định là vị trí trung tâm của nền kinh tế .Vì
thế, năng lực hội nhập và cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ảnh
hƣởng trực tiếp tới ngành hàng xuất khẩu nông thủy sản nƣớc ta. Tuy nhiên,
hiện nay năng lực của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam vẫn còn rất hạn
chế về nhiều mặt không chỉ về nguồn nhân lực, năng lực tài chính mà còn yếu
kém về công nghệ, cũng nhƣ tên tuổi thƣơng hiệu… Và trên thị trƣờng quốc
tế tồn tại nhiều nguy cơ đe dọa sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu
nhỏ và vừa nƣớc ta.
Nhận thức đƣợc vấn đề phát triển xuất khẩu nông thủy sản theo chiến
lƣợc phát triển chung của quốc gia và tăng cƣờng năng lực cạnh tranh cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi họ tham gia vào thị trƣờng quốc tế trong
bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đang kéo dài hiện nay là rất cần thiết. Em đã chọn đề tài “ Chiến lƣợc dài
hạn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam xuất khẩu hàng nông thủy
1
sản ra nƣớc ngoài.”
Bài khóa luận có kết cấu nhƣ sau:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chƣơng:
Chương 1. Tổng quan về chiến lược xuất khẩu nông thủy sản và vai trò
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2. Hoạt động xuất khẩu nông thủy sản và đánh giá năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam .
Chương 3. Một số giải pháp nhằm xây dựng chiến lược dài hạn cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng
nông thủy sản ra nước ngoài.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo, Thạc sĩ Vũ Huyền Phƣơng, giảng
viên Khoa Kinh Tế và Kinh Doanh Quốc Tế đã hƣớng dẫn tận tình và đƣa ra
những lời khuyên cho em để em có thể định hƣớng và hoàn thành khóa luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, những ngƣời thân đã giúp
2
đỡ và động viên để em có thể hoàn thành tốt bài viết này.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU
NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa cho một quốc gia
khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Nói một cách khác,
xuât khẩu là những sản phẩm được sản xuất trong một nước này và được đem
bán cho một nước khác [14].
Mục đích của hoạt động xuất nhập khẩu là khai thác đƣợc lợi thế của
từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế để thu đƣợc nhiều lợi ích
kinh tế nhất. Khi việc trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia có lợi, các quốc gia
đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình
thức cơ bản của ngoại thƣơng, đã xuất hiện rất lâu đời và ngày càng phát
triển. Tuy hình thức đầu tiên chỉ là hàng đổi hàng, song ngày nay xuất khẩu
đang tồn tại ở nhiều ở nhiều hình thức khác nhau nhƣ:
Xuất khẩu trực tiếp: đây là hình thức xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ
do chính doanh nghiệp sản xuất ra, hoặc đặt mua từ các doanh nghiệp trong
nƣớc, sau đó xuất khẩu các sản phẩm này ra nƣớc ngoài với danh nghĩa là
hàng của mình [14].
Xuất khẩu ủy thác: trong hình thức này đơn vị ngoại thƣơng đóng vai
trò trung gian xuất khẩu làm cho đơn vị sản xuất những thủ tục cần thiết để
xuất hàng và hƣởng phần trăm theo giá trị hàng xuất đã đƣợc thỏa thuận.
Buôn bán đối lưu: đây là hoạt động giao dịch mà trong đó hoạt động
xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với hoạt động nhập khẩu. Ngƣời bán đồng thời là
3
ngƣời mua, lƣợng hàng trao đổi tƣơng đƣơng.
Xuất khẩu theo Nghị định thư: đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa
(thƣờng là để gán nợ) đƣợc ký theo nghị định thƣ giữa hai chính phủ. Xuất
khẩu theo hình thức này có nhiều ƣu đãi nhƣ khả năng nhƣ khả năng thanh toán
chắc chắn, do Nhà nƣớc trả cho đơn vị xuất khẩu, giá cả hàng tƣơng đối cao,
việc thực hiện sản xuất thu mua có nhiều ƣu tiên. Song, hình thức này chỉ áp
dụng ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây, còn bây giờ rất ít đƣợc sử dụng.
Xuất khẩu tại chỗ: hàng hóa xuất khẩu không bắt buộc phải vƣợt biên
giới quốc gia mới đến đƣợc tay khách hàng, do vậy mà giảm đƣợc chi phí và
rủi ro trong quá trình vận chuyển và bảo quản hàng hóa. Các thủ tục trong
hình thức xuất khẩu này rất đơn giản.
Gia công quốc tế: đây là hình thức xuất khẩu, trong đó một bên gọi là
bên nhận gia công nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên
khác ( gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt
gia công và nhận chi phí gia công.
Tạm nhập tái xuất: để tiến hành hoạt động này phải có ít nhất ba chủ thể
thuộc ba quốc gia khác nhau: nƣớc xuất khẩu, nƣớc tái xuất và nƣớc nhập khẩu.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều
kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến tƣ liệu sản xuất máy
móc thiết bị và công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm
mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu với nền kinh tế Việt Nam
1.1.2.1. .Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công
nghiệp hóa đất nước
Công nghiệp hóa đất nƣớc là con đƣờng tất yếu mà mọi quốc gia phải
trải qua để khắc phục tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển của đất nƣớc. Đặc
4
biệt là với nƣớc ta, chúng ta đã bỏ qua giai đoạn trung gian là tƣ bản chủ
nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, công nghiệp hóa càng đóng
vai trò quan trọng hơn trong việc phát triển kinh tế đất nƣớc.
Có nhiều con đƣờng để thực hiện công nghiệp hóa đất nƣớc, tuy nhiên
có thể nói rằng con đƣờng hƣớng về xuất khẩu là hiệu quả nhất. Bởi vì để
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, cần phải có một số vốn ngoại tệ lớn để
nhập khẩu máy móc, trang thiết bị hiện đại. Nguồn ngoại tệ để nhập khẩu
đƣợc hình thành từ các nguồn nhƣ: xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, đầu tƣ nƣớc
ngoài, vay nợ, viện trợ, hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ… Tuy nhiên, trong số
những nguồn thu này thì nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu là ổn định và hiệu
quả nhất. Nó quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Còn nguồn thu
từ các hình thức khác tuy rất cần thiết nhƣng xét về lâu dài cũng phải trả bằng
cách này hay cách khác [3].
Mặc dù khi quá trình công nghiệp hóa đang diễn ra, xuất khẩu và nhập
khẩu đều tăng nhanh, thị trƣờng trong nƣớc sẽ mở rộng, thúc đẩy nhanh hơn
quá trình tham gia vào tự do hóa thƣơng mại. Do vậy, cơ hội đầu tƣ; vay nợ;
nhận viện trợ… từ nƣớc ngoài sẽ tăng lên. Tuy nhiên cơ hội đó chỉ tăng lên
khi các chủ đầu tƣ, các tổ chức cho vay thấy đƣợc khả năng xuất khẩu -
nguồn vốn tự do duy nhất để trả nợ - trở thành hiện thực.
1.1.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng
mạnh mẽ. Đó là thành quả của sự phát triển không ngừng của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật trong những thập kỷ qua. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong quá trình công nghiệp hóa để thích nghi phù hợp với thực trạng và xu
hƣớng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất
5
chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Thứ nhất, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản
xuất vƣợt quá nhu cầu nội địa. Trong trƣờng hợp nền kinh tế còn chƣa linh
động và chậm phát triển nhƣ nƣớc ta, sản xuất về cơ bản còn chƣa đáp ứng đủ
nhu cầu tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì quy mô
của xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trƣởng chậm. Khi đó xuất khẩu sẽ không
có kế hoạch và phải phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc mà vốn
không phải là thị trƣờng của xuất khẩu. Vì thế, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu
kinh tế sẽ rất chậm chạp [3].
Thứ hai là, coi thị trƣờng và đặc biệt thị trƣờng thế giới là hƣớng quan
trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai xuất phát từ nhu cầu của thị
trƣờng thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, thể hiện ở:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi. Trong điều kiện phát triển kinh tế, xuất khẩu tạo ra thị trƣờng kích
thích phát triển sản xuất trong nƣớc đặc biệt là nông nghiệp và công nghiệp
chế xuất. Qua đó kích thích việc tăng năng suất lao động, nâng cao chất lƣợng
và cải tiến cơ cấu hàng hóa để có thể có đủ khả năng cạnh tranh trên thị thế
giới. Bên cạnh đó việc thúc đẩy xuất khẩu còn cho phép mở rộng quy mô sản
xuất, kéo theo nhiều nghành nghề mới phát triển. Chẳng hạn nhƣ khi phát
triển hàng dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội đầy đủ cho
việc phát triển các nghành sản xuất nguyên liệu nhƣ bông, vải sợi, …Hay sự
phát triển của nghành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu gạo, chè, cà
phê, thủy hải sản … sẽ thúc đẩy sự phát triển của các nghành sản xuất nông
nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến có liên quan.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trƣờng tiêu thụ, góp phần cho sản
xuất phát triển và ổn định. Thị trƣờng nội địa vốn rất nhỏ bé so với thị trƣờng
thế giới. Để có thể tiếp cận với quy mô thị trƣờng thế giới, cần phải tăng
6
cƣờng khả năng xuất khẩu. Xuất khẩu không chỉ những sản phẩm mà trong
nƣớc sản xuất dễ dàng mà cả những sản phẩm thị trƣờng có nhu cầu. Thông
qua đó, xuất khẩu làm tăng khả năng tiếp cận thị trƣờng bên ngoài đồng thời
với việc tăng hiệu quả quy mô sản xuất trong nƣớc.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng
cao năng lực sản xuất trong nƣớc. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là
phƣơng tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, tiến bộ khoa học công nghệ từ
thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nƣớc,
tạo ra một năng lực sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của nƣớc ta sẽ tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới về cả giá cả và chất lƣợng. Cuộc cạnh tranh
này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất
thích nghi với nhu cầu thị trƣờng.
- Xuất khẩu làm cho các doanh nghiệp trong nƣớc có nhiều cơ hội hơn
trong việc tiếp cận với thị trƣờng thế giới. Thông qua đó, không những các
doanh nghiệp có khả năng mở rộng quan hệ hợp tác thƣơng mại mà còn phải
đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải
đổi mới hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, sản xuất, nâng cao chất
lƣợng sản phẩm, giảm chi phí, giá thành. Tuy nhiên, thị trƣờng thế giới luôn
là môi trƣờng tốt để các doanh nghiệp học hỏi những kinh nghiệm kinh
doanh, trình độ quản lý và khả năng tiếp cận bạn hàng của các doanh nghiệp,
công ty nƣớc ngoài.
1.1.2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm
và cải thiện đời sống nhân dân
Giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời dân vốn là một trong những mối
quan tâm lớn của mỗi quốc gia trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế
xã hội. Khi chủ trƣơng thực hiện con đƣờng công nghiệp hóa, chính phủ
nhằm đạt tới việc thu hút một lực lƣợng lao động lớn, góp phần giải quyết
công ăn việc làm. Thông qua xuất khẩu, hàng triệu lao động phục vụ cho quá
7
trình sản xuất hàng xuất khẩu sẽ có việc làm, thu nhập ổn định. Đặc biệt là
những nghành nghề đòi hỏi sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn chất lƣợng cao nhƣ:
nghành nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống, ngành công nghiệp chế biến
thực phẩm,…Hơn thế nữa, việc xuất khẩu hàng hóa là hƣớng ra thị trƣờng
nƣớc ngoài nơi luôn đòi hỏi sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn chất lƣợng cao. Vì
vậy, xuất khẩu không những tạo thêm công ăn việc làm mà còn nâng cao trình
độ hay tay nghề của công nhân.
Bên cạnh đó, xuất khẩu tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân.
1.1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta, nâng cao vị trí và vai trò của Quốc gia trên thị trường
quốc tế
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ
thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, khi xuất khẩu
phát triển nó cũng là cơ sở để thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác
phát triển theo nhƣ các quan hệ về chính trị và ngoại giao. Mặt khác, các quan
hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao phát triển mạnh lại tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động xuất khẩu phát triển.
Tóm lại, xuất khẩu có vai trò rất lớn đối với quá trình phát triển kinh tế
và việc thúc đẩy xuất khẩu đƣợc coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lƣợc để phát
triển nền kinh tế của mỗi quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu sắc hiện nay [3].
1.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến xuất khẩu
1.1.3.1. Yếu tố bên trong
Là các yếu tố quan trọng nhất ảnh hƣởng tới xuất khẩu bao gồm yếu tố
về nguồn lực sản xuất; môi trƣờng kinh doanh; môi trƣờng chính trị, pháp
8
luật; môi trƣờng địa lý, tự nhiên; môi trƣờng văn hóa, xã hội [15].
Nguồn lực sản xuất: là các yếu tố cốt lõi của một quá trình sản xuất bao
gồm:
- Nguồn nhân lực: số lƣợng lao động, khả năng, kiến thức và kỹ thuật.
- Tài nguyên thiên nhiên: đất đai, khoáng sản, nhiên liệu, môi trƣờng.
- Vốn: máy móc, thiết bị, nhà xƣởng, cơ sở hạ tầng…
- Công nghệ: kiến thức khoa học, bí quyết quản lý, bí quyết kỹ thuật,
môi trƣờng công nghệ,…
Trong thƣơng mại quốc tế đây là bốn yếu tố mà sự khác biệt không chỉ
thuần túy về mặt số lƣợng mà yếu tố quan trọng hơn đó là chất lƣợng của các
nguồn lực này sẽ quyết định chi phí tƣơng đối trong sản xuất. Sự khác biệt
của bốn yếu tố này sẽ tạo ra những lợi thế so sánh cho các quốc gia. Các nƣớc
đang phát triển thƣờng chỉ có lợi thế so sánh cấp thấp (lao động, tài nguyên).
Đó là những lợi thế trong việc các quốc gia đó có lực lƣợng lao động lớn hay
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú… Việc tận dụng các lợi thế này
để sản xuất và xuất khẩu là con đƣờng ngắn nhất để tăng tích lũy tạo vốn cho
công nghiệp hóa. Cùng với việc đẩy mạnh xuất khẩu các nƣớc này có điều
kiện tạo ra những lợi thế mới với trình độ nguồn nhân lực, công nghệ và vốn
lớn hơn.
Ngày nay, xét từ góc độ nguồn lực sản xuất thì lợi thế so sánh về trình
độ cũng nhƣ trình độ phát triển của một nƣớc sẽ thay đổi. Khi trình độ nguồn
nhân lực và khả năng đổi mới công nghệ đƣợc nâng lên, các yếu tố vốn,
nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay từ nƣớc ngoài nhƣng chỉ
sử dụng hiệu quả và ổn định bởi những lao động có kỹ năng và đƣợc đào tạo
cùng một môi trƣờng kích thích sự đổi mới công nghệ liên tục.
Môi trƣờng kinh doanh: là các yếu tố xúc tác cho hoạt động xuất khẩu.
Lợi thế so sánh của một quốc gia sẽ không đƣợc khai thác có hiệu quả nếu
nhƣ các lực lƣợng kinh doanh trong nƣớc không có đƣợc một môi trƣờng
9
khuyến khích xuất khẩu. Môi trƣờng kinh doanh có tính chất phức tạp với
nhiều yếu tố tác động nhiều chiều. Một môi trƣờng kinh doanh lành mạnh sẽ
có vai trò quyết định đối với hoạt động xuất khẩu. Môi trƣờng kinh doanh bao
gồm các yếu tố:
- Tốc độ tăng trƣởng GDP, quy mô GDP và GDP/ ngƣời, xuất
khẩu/GDP, xuất khẩu/ ngƣời.
- Sức cạnh tranh của lực lƣợng kinh doanh trên thị trƣờng, họ có đƣợc
tự do kinh doanh xuất nhập khẩu hay không, đƣợc khuyến khích nhƣ thế nào.
- Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ:
+ Các chính sách: các chính sách khuyến khích xuất khẩu nhƣ thuế
quan, tỷ giá hối đoái, thị trƣờng, tín dụng...
+ Các thể chế: thể chế đầu tƣ, tài chính ngân hàng, doanh nghiệp, các
luật về kinh tế khác, các tổ chức hỗ trợ…
- Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội:
+ Hạ tầng có tính chất kỹ thuật, hỗ trợ xuất khẩu: đƣờng xá, cầu cảng,
sân bay, vận tải, thông tin – viễn thông…
+ Hạ tầng mềm: luật pháp, dịch vụ vận tải, dịch vụ ngân hàng, chính
sách về thuế xuất nhập khẩu, trình độ giáo dục, dịch vụ thông tin viễn thông.
+ Môi trƣờng kinh tế tác động tới khả năng cạnh tranh thông qua việc
ổn định kinh tế vĩ mô, giảm chi phí, tạo niềm tin trong kinh doanh, tạo môi
trƣờng kinh doanh năng động.
Môi trƣờng chính trị, pháp luật:
Chính trị ảnh hƣởng tới rủi ro trong kinh doanh, sự ổn định chính trị có
ý nghĩa quan trọng hơn cả thế chế. Nếu một quốc gia không ổn định về chính
trị, thƣờng xuyên có những biến động sẽ tạo ra sự bất an và lo sợ rủi ro với
các bạn hàng. Một nƣớc muốn phát triển kinh tế, đẩy mạnh hợp tác thƣơng
mại quốc tế trƣớc hết phải có ổn định về chính trị.
Chính sách pháp luật đòi hỏi phải hợp lý, chặt chẽ và hiệu lực. Hợp lý
10
tức là phải đòi hỏi xuất phát thực tế, không mâu thuẫn với thông lệ quốc tế,
thông thoáng vì mục tiêu phát triển. Hiệu lực tức là các điều khoản của các
nghành luật phải đƣợc thực thi bởi một bộ máy nhà nƣớc đủ mạnh.
Môi trƣờng địa lý tự nhiên: ảnh hƣởng tới đầu vào của sản xuất, chi phí
vận chuyển, quy mô thị trƣờng… và do vậy ảnh hƣởng tới khả năng cạnh
tranh. Một nƣớc nằm trong khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế cao, năng
động, vị trí địa lý thuận lợi cho vận tải, rõ ràng sẽ có nhiều ƣu thế để phát
triển ngoại thƣơng.
Môi trƣờng văn hóa - xã hội: tập quán kinh doanh, những giá trị xã hội,
sở thích, dân số, chất lƣợng lao động… tạo nên những đặc trƣng văn hóa của
từng nƣớc. Đây là một trong những yếu tố ảnh hƣởng lớn tới sự thành công
trong kinh doanh nói chung và trên thƣơng trƣờng quốc tế nói riêng, ảnh
hƣởng tới sự hƣng thịnh của một quốc gia, sự thành công hay thất bại của một
đƣờng lối phát triển.
1.1.3.2. Yếu tố bên ngoài
Đây là yếu tố có tính biến động lớn mà nhiều khi vƣợt ra ngoài tầm
kiểm soát của một nƣớc. Vì vậy khi tham gia thƣơng mại quốc tế phải có
những cơ chế chính sách để thích ứng linh hoạt. Một số nhân tố khách quan
bên ngoài có ảnh hƣởng lớn tới xuất khẩu của một nƣớc [15], đó là:
Xu hƣớng khu vực hóa, toàn cầu hóa ngày càng phát triển lớn mạnh là
một tất yếu phát triển nhƣ: sự phát triển của lực lƣợng sản xuất do sự tiến bộ
nhanh chóng của của cách mạng khoa học kỹ thuật. Hầu hết các nƣớc đều
thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trƣờng. Sức hấp dẫn của thƣơng mại
quốc tế đều đƣợc nhiều nƣớc nhận thức và thúc đẩy. Các chính phủ ngày càng
quan tâm nhiều tới cải cách cơ chế thị trƣờng và các chính sách đẩy mạnh
ngoại thƣơng. Không gian biên giới cho các quan hệ kinh thƣơng mại quốc tế
trƣớc hết là thƣơng mại đầu tƣ dịch vụ…đã và đang đƣợc xóa bỏ.
Tất cả các yếu tố này là tiền đề quan trọng thúc đẩy phân công lao động
11
quốc tế bằng việc tạo ra môi trƣờng hợp tác, hòa bình ổn định cùng phát triển
trong một nền thƣơng mại quốc tế toàn cầu. Một nƣớc có chính sách hợp lý để
tham gia thƣơng mại quốc tế càng sâu rộng thì cơ hội cho phát triển xuất khẩu
là rất lớn.
Tình hình kinh tế thế giới: muốn nói đến tốc độ tăng trƣởng là yếu tố có
ảnh hƣởng lớn tới xuất khẩu của một nƣớc. Khi kinh tế của các bạn hàng chủ
lực tăng trƣởng tốt khiến cho cầu tiêu dùng tăng lên và do đó cầu nhập khẩu
cũng tăng lên, điều này làm tăng xuất khẩu của nƣớc đó. Ngƣợc lại sẽ làm
giảm xuất khẩu.
Các đối thủ cạnh tranh: các quốc gia có lợi thế so sánh tƣơng tự nhau sẽ
là các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trên thị trƣờng quốc tế. Quốc gia nào có
chính sách khuyến khích thƣơng mại quốc tế phát triển nhƣ: hội nhập, hợp
tác, thuế quan, tỷ giá, … hợp lý nhất sẽ là những nƣớc có lợi thế cạnh tranh
nhất và do đó có khả năng tăng quy mô xuất khẩu. Mặt khác chính sách hỗ trợ
xuất khẩu của Chính phủ hay những quy định của nƣớc bạn hàng sẽ có tác
động trực tiếp tới cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Do đó để khuyến khích
xuất khẩu thì mỗi nƣớc phải có chính sách linh hoạt với điều kiện của từng
quốc gia bạn hàng cũng nhƣ điều kiện quốc tế.
1.2. CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU NÔNG THUỶ SẢN VIỆT NAM
Qua phần lý luận chung về xuất khẩu, có thể thấy tầm quan trọng rất
lớn của xuất khẩu với nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế nông nghiệp mà
trong đó hàng xuất khẩu chủ yếu là ngành hàng nông thủy sản. Hàng năm,
kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản chiếm tỷ trọng khá lớn trong kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa của cả nƣớc và xuất khẩu hàng nông thủy sản đóng vai trò
quan trọng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế quốc gia. Vì thế xây dựng chiến
lƣợc xuất khẩu hàng nông thủy sản Việt Nam ra nƣớc ngoài là hết sức cần
thiết. Tuy nhiên, để xây dựng đƣợc chiến lƣợc phù hợp với thực trạng của
12
toàn ngành nông thủy sản thì cần phải có hiểu biết đúng đắn về chiến lƣợc
trên phƣơng diện toàn nghành và quốc gia. Phần tiếp sau sẽ giải thích rõ về
chiến lƣợc và chiến lƣợc xuất khẩu nông thủy sản.
1.2.1. Khái niệm chiến lƣợc và chiến lƣợc xuất khẩu
1.2.1.1. Khái niệm chiến lược:
Từ xa xƣa, theo quan niệm của ngƣời Hy Lạp cổ đại, thuật ngữ chiến
lƣợc bắt nguồn với hai từ “Stratos” ( quân đội, bầy đoàn) và “agos” (lãnh đạo,
điều khiển). Thông thƣờng ngƣời ta hiểu chiến lƣợc là khoa học và nghệ thuật
chỉ huy quân sự, đƣợc ứng dụng để lập kế hoạch tổng thể và tiến hành những
chiến dịch có quy mô lớn [1].
Từ thập kỷ 60 (thế kỷ 20), quan niệm về chiến lƣợc đã phát triển dần
theo nhận thức khác và đƣợc hiểu là việc xác định những mục tiêu cơ bản dài
hạn của nghành và thực hiện chƣơng trình phân hành động cùng với việc phân
bổ các nguồn lực cần thiết để đạt đƣợc các mục tiêu đã xác định. Theo một
cách nói khác thì chiến lƣợc là phƣơng thức mà các nghành sử dụng để định
hƣớng tƣơng lai nhằm đạt đƣợc và duy trì sự phát triển bên trong và bên ngoài
của mình.
Theo quan điểm hiện đại, chiến lƣợc là tập hợp những quyết định và
hành động nhằm mục tiêu phối hợp các năng lực và nguồn lực của ngành đáp
ứng đƣợc những cơ hội, thách thức từ bên ngoài. Chiến lƣợc còn đƣa ra những
hành động định hƣớng mục tiêu và những hoạt động để thực hiện chiến lƣợc
[1].
Tóm lại, chiến lược của một ngành bao gồm không chỉ những gì ngành
đó muốn thực hiện, mà còn là cách thức thực hiện những công việc đó. Một
hành động riêng lẻ, đơn giản không phải là chiến lược. Chiến lược của ngành
cần được xây dựng sao cho nó phải tính đến những điểm mạnh cơ bản của
một loạt các hành động có tính quyết định (các nguồn lực và năng lực) và
13
những cơ hội, thách thức của môi trường [10].
1.2.1.2. Khái niệm chiến lược xuất khẩu
Theo cách tiếp cận về chiến lƣợc đã đƣợc trình bày ở trên, chúng ta hiểu
chiến lƣợc không chỉ đƣợc sử dụng ở phạm vi một quốc gia mà còn có thể là
chiến lƣợc ở một ngành hoặc thậm chí một doanh nghiệp. Chiến lƣợc của một
ngành đƣợc xác định ở một tầm nhìn chiều sâu, có tính định hƣớng, bao quát và
làm cơ sở cho những hoạch định phát triển trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Mỗi một quốc gia, mỗi một ngành hay một doanh nghiệp muốn hòa
nhập với xu hƣớng phát triển chung của thế giới đều phải có tầm nhìn chiến
lƣợc xuất khẩu trọng điểm. Theo diễn đàn thƣơng mại quốc tế, chiến lƣợc
xuất khẩu của quốc gia nói chung và của ngành nói riêng là những hƣớng dẫn
cần thiết về việc phát triển nguồn lực nào cần thiết, vì mục tiêu gì, đƣợc sử
dụng bởi ai và nhƣ thế nào.
Nhƣ vậy, chiến lược xuất khẩu là định hướng tổng thể nhằm khai thác
tối đa và có hiệu quả các nguồn lực, phát huy lợi thế so sánh quốc gia nhằm
đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, nhằm thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế xã hội. Chiến lược xuất khẩu chính là sự cụ thể hóa của chiến
lược phát triển kinh tế trong lĩnh vực xuất khẩu và phải phù hợp với phương
hướng, mục tiêu, chương trình hành động trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội [16].
1.2.2. Nội dung của chiến lƣợc xuất khẩu nông thủy sản
1.2.2.1. Phân tích các nguồn lực nông thủy sản xuất khẩu
Khái niệm chiến lƣợc và chiến lƣợc xuất khẩu ở phần trên đều đề cập
tới việc làm thế nào để huy động, khai thác tối đa và phân bố hiệu quả các
nguồn lực. Tuy nhiên, các nguồn lực đơn giản chỉ là những điều kiện phù hợp
mà ngành có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các
nguồn lực cũng có thể hiểu là: nhân lực; vật chất; tài chính; các nguồn lực vô
hình khác. Các nguồn lực kể trên đều có thể trở thành yếu tố để tiến hành sản
14
xuất xuất khẩu [1].
Phân tích các nguồn lực nông sản xuất khẩu:
Nƣớc ta có nguồn tài nguyên rất dồi dào, phong phú tạo điều kiện cho
việc phát triển nông nghiệp. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam theo cách
nhìn nhận chung của thế giới đều là những mặt hàng chủ lực để Việt Nam
xuất khẩu. Thế nhƣng những nguồn lực nào cấu thành nên ngành nông sản
xuất khẩu? Đó là:
- Thứ nhất, điều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan không thể thiếu
đƣợc trong việc sản xuất và xuất khẩu nông sản. Đó là điều kiện đầu tiên
quyết định việc sản xuất nông nghiệp. Nó bao gồm các đặc điểm của đất đai;
địa chất; khí hậu. Đất nông nghiệp nƣớc ta đa dạng và phong phú, có thể
trồng chuyên canh theo từng vùng và theo từng thời kỳ nhiều loại cây nông
nghiệp ngắn ngày và dài ngày cho năng suất cao. Mặt khác, nƣớc ta có dải
phù sa rộng lớn do hai con sông lớn bồi đắp là sông Hồng và sông Cửu Long.
Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho nƣớc ta phát triển cây lúa nƣớc. Hàng
năm kim nghạch xuất khẩu gạo của nƣớc ta tăng liên tục. Hiện nay, nƣớc ta
xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Rõ ràng rằng cây
lúa nƣớc là loại cây nông nghiệp ƣu thế và chủ lực của nƣớc ta.
Địa hình nƣớc ta phân bố không đồng đều, 20% là đồng bằng, còn lại
80% là núi và cao nguyên. Do đặc điểm của địa hình nhƣ vậy nên thuận lợi
cho việc phát triển trồng nhiều loại cây nông nghiệp khác nhau có giá trị xuất
khẩu cao nhƣ: cao su, cà phê, chè, hạt điều,… Các loại cây này phù hợp với
địa hình và khí hậu của từng vùng và cho năng suất cao [22].
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên khí hậu phân bổ
thành hai mùa mƣa và khô rõ rệt. Vì thế, nƣớc ta có điều kiện phát triển một
nền nông nghiệp nhiệt đới đa dạng về cây trồng và vật nuôi. Hơn nữa, khí hậu
phân hóa đa dạng, phức tạp là điều kiện phát triển các vùng chuyên canh sản
xuất nông sản với quy mô lớn, với đa dạng các sản phẩm nông nghiệp độc
đáo nhƣ các cây ăn quả có nguồn gốc nhiệt đới, ôn đới. Điều này tạo điều
15
kiện để sản xuất và xuất khẩu các giống cây ăn trái đặc sản nổi tiếng ra thị
trƣờng nƣớc ngoài để các loại đặc sản này không chỉ có giá trị ở trong nƣớc
mà còn có uy tín cao trên thị trƣờng thế giới.
- Thứ hai, nguồn nhân lực là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định,
mang tính chiến lƣợc trong xuất khẩu nông sản. Do đặc điểm của nƣớc ta là
nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp, nên phần lớn lao động tập
trung trong ngành sản xuất này.
Bảng 1. Tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp trong từng năm
Đvt:%
Năm Tỷ lệ lao động (%)
2000 50,0
2002 38,2
2004 38,8
2006 32,6
Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2008. Số liệu được trình
bày dưới dạng tỷ lệ phần trăm của dân số trong độ tuổi từ 15 đến 64. Số liệu
về việc làm dựa trên nghề chính của đối tượng.
Số liệu thống kê cho thấy, hàng năm từ 2000 đến cuối năm 2006, tỷ lệ
lao động tập trung trong ngành nông nghiệp vẫn rất cao. Điều đó chứng tỏ
nguồn lao động này rất đông đảo và có tác động lớn tới ngành sản xuất nông
nghiệp.
Hơn nữa, phần lớn dân số chủ yếu tập trung ở các vùng đồng bằng, ven
biển và một số ít bộ phận dân số còn lại thì sống ở miền núi và trung du. Đây
là các nhân tố tích cực tham gia vào hoạt động sản xuất và chế biến các sản
phẩm nông sản và họ ý thức đƣợc rằng sản xuất phục vụ cho xuất khẩu nông
sản mới là chỗ dựa vững chắc đảm bảo đời sống kinh tế của chính họ và của
cộng đồng. Thế nhƣng, phần lớn lao động tập trung trong ngành nông nghiệp
là lao động thủ công, trình độ thấp, và do chƣa có quy hoạch tập trung đầy đủ
16
cho việc phân vùng chuyên canh và hƣớng dẫn sản xuất cụ thể cho từng địa
phƣơng nên hầu nhƣ ngƣời nông dân sản xuất hàng ra mà không biết đến đầu
ra của sản phẩm và nơi tiêu thụ sản phẩm cũng nhƣ sản xuất nhiều khi quá
thừa hoặc không đủ so với cầu thị trƣờng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là bên cạnh
chính sách khuyến nông giúp ngƣời dân mở rộng và nâng cao năng suất thì
cần phải có những chính sách hỗ trợ nông dân nhằm nâng cao hiểu biết về
nhu cầu của thị trƣờng. Đặc biệt là tầm quan trọng của thị trƣờng nguồn cung
cho xuất khẩu nông sản. Một hƣớng đi đầy hứa hẹn cho cuộc sống của họ.
- Thứ ba, trình độ phát triển kinh tế nông nghiệp. Những nƣớc nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhƣ nƣớc ta là những nƣớc công nghiệp đang phát
triển, nên việc chế biến các sản phẩm nông nghiệp hoàn toàn đạt chất lƣợng
cao theo tiêu chuẩn quốc tế là chƣa đảm bảo. Các nƣớc đang phát triển cần
nhiều ngoại tệ mạnh để nhập khẩu vật tƣ, máy móc, thiết bị. Vì vậy, phải chấp
nhận xuất khẩu nông sản thô. Bên cạnh đó, các nƣớc kinh tế phát triển muốn
nhập nông sản thô về chế biến nhằm nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm và
hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, để mở rộng quy mô sản xuất, nhất là thị trƣờng
nông sản đòi hỏi phải có một số vốn tích lũy, kinh nghiệm trong ngành nghề
nông sản về trồng lúa, chè, cao su, cà phê,…Muốn vậy, chúng ta phải nâng
cao trình độ phát triển kinh tế nông nghiệp bằng việc tìm hiểu, học hỏi kinh
nghiệm của một số nƣớc có hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.
- Thứ tƣ là môi trƣờng công nghệ. Thực tế cho thấy công nghệ có ảnh
hƣởng trực tiếp đến năng suất nuôi trồng và chất lƣợng của sản phẩm chế
biến. Vì thế, công nghệ ảnh hƣởng rất lớn đến hoạt động sản xuất và chế biến
xuất khẩu của ngành nông sản. Vì vậy, soạn thảo chiến lƣợc xuất khẩu phải
tính đến công nghệ. Sự tiến bộ của kỹ thuật có thể tác động sâu sắc đến chất
lƣợng của những sản phẩm nông sản. Vì vậy mà công nghệ là một yếu tố tác
động tới thị trƣờng của các nhà cung cấp; nhà phân phối; ngƣời cạnh tranh;
17
khách hàng; quá trình sản xuất và chế biến; và vị thế cạnh tranh của ngành.
Phân tích các nguồn lực thủy sản xuất khẩu:
Bên cạnh việc tập trung phát triển nghành nông nghiệp phục vụ xuất
khẩu, xuất khẩu thủy sản cũng đƣợc coi là một nghành thế mạnh và nhiều
thuận lợi mà nƣớc ta đang đầu tƣ và khai thác. Tƣơng tự nhƣ nghành sản xuất
xuất khẩu nông sản, có nhiều nguồn lực tác động đến nghành thủy sản. Trong
đó bao gồm nhiều nguồn lực ƣu đãi cho nghành. Tuy nhiên cũng có một số
nguồn lực gây khó khăn cho việc phát triển nghành xuất khẩu thủy sản. Đó là:
- Thứ nhất, nƣớc ta có điều kiện tự nhiên đặc biệt ƣu đãi cho việc phát
triển ngành thủy hải sản. Nằm ở vị trí tiếp xúc giữa nhiều hệ thống tự nhiên và
là nƣớc tiếp xúc với biển nhiều nhất lớn trong các nƣớc Đông Nam Á lục địa.
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km với 112 cửa sông, lạch, với độ nông sâu
khác nhau. Diện tích vùng biển Việt Nam gồm nội thủy, lãnh hải 226.000km2
và vùng đặc quyền kinh tế khoảng trên 1 triệu km2, có nhiều ngƣ trƣờng lớn
cho khai thác hải sản và các vũng, vịnh kín là nơi có thể phát triển nuôi trồng
thủy sản nƣớc mặn [6]. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi để Việt
Nam phát triển nền kinh tế biển, trong đó việc phát triển nghành thủy sản là
điểm khởi đầu quan trọng.
Tiềm năng nguồn lợi thủy sản ở các vùng nƣớc mặn kể cả gần bờ và
xa bờ là rất phong phú, trữ lƣợng lớn là điều kiện rất thuận lợi để phát triển
xuất khẩu thủy sản. Theo số liệu thống kê biển Việt nam có trên 2000 loài
cá, trong đó khoảng trên 100 loài có ý nghĩa kinh tế với trữ lƣợng khoảng
trên 4 triệu tấn, khả năng khai thác 1,6 -1,7 triệu tấn/năm [6].
Bên cạnh cá biển, còn nhiều nguồn lợi tự nhiên nhƣ trên 1.600 loài
giác, có giá trị cao là tôm biển, tôm hùm, tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng
2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý nghĩa kinh tế cao nhất là mực
và bạch tuộc (cho phép khai thác khoảng 60-70 nghìn tấn/năm). Bên cạnh
18
đó còn có rất nhiều loài đặc sản quý khác. Điều này cho phép nƣớc ta có
điều kiện duy trì hợp lý mức độ đánh bắt để tạo nguồn nguyên liệu cho
hoạt động xuất khẩu.
Mạng lƣới sông ngòi rộng khắp tạo cho nƣớc ta một tiềm năng dồi
dào để phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản nƣớc mặn, nƣớc lợ và
nƣớc ngọt. Đặc biệt, vùng Nam Trung bộ và vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long do có địa hình chủ yếu là đầm nƣớc và kênh rạch. Đó là điều kiện tự
nhiên rất thuận lợi để nuôi trồng và phát triển các loài thủy sản có giá trị
xuất khẩu cao nhƣ tôm càng xanh, cá tra, cá basa…Đây là những loại thủy
sản mà trên thế giới có nhu cầu rất cao.
Nhƣ vậy, nƣớc ta không chỉ có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc
sản xuất nông nghiệp, mà chúng ta còn sở hữu nguồn lực tự nhiên rất thuận
lợi cho việc sản xuất xuất khẩu thủy hải sản.
- Thứ hai, nguồn nhân lực. Cùng với sự phát triển liên tục trong thời
gian qua, ngành thủy sản đã thu hút đƣợc một số lƣợng lao động khá lớn,
giải quyết đƣợc công ăn việc làm cho ngƣời lao động nói chung và trong
các khâu sản xuất sản phẩm thủy sản xuất khẩu nói riêng.
Bảng 2. Tổng số lao động làm việc trong ngành thủy sản từ 2002- 2007
Đvt: ngìn người
Năm Tổng số lao động Lao động trong ngành thủy sản Tỷ trọng (%)
2002 39.507,7 1.282,1 3,25
2003 40.573,8 1.326,3 3,27
2004 41.586,3 1.404,6 3,38
2005 42.709,1 1.482,4 3,49
2006 43.338,9 1.555,5 3,59
2007 44.171,9 1.634,4 3,70
19
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tỷ trọng lao động trong ngành thủy sản liên tục tăng từ năm 2002 đến
nay, số lao động trong ngành thủy sản năm 2007 đã tăng lên đến 1.634,4
nghìn ngƣời từ 1.282,1 nghìn ngƣời vào năm 2002, chiếm 3,7% số lao động
của cả nƣớc. Tỷ lệ tăng bình quân số lao động thƣờng xuyên của ngành thủy
sản là 2,8%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của cả nƣớc (2%). Điều đó
cho thấy khả năng giải quyết công ăn việc làm của ngành thủy sản so với các
ngành kinh tế khác trong phạm vi cả nƣớc là rất lớn.
Tuy nhiên, lao động trong ngành thủy sản tập trung trong nhiều lĩnh
vực và chủ yếu là lao động phổ thông. Trình độ tay nghề của lao động chế
biến thủy sản còn thấp, chƣa đƣợc huấn luyện kỹ thuật chế biến một cách hệ
thống. Công việc có tính thời vụ và bấp bênh. Lao động không tập trung, nên
nơi nào trả lƣơng cao hơn, nhân lực sẽ di chuyển sang đó nhiều hơn. Hiện
nay, các nhà máy chế biến trong khu vực đồng bằng Sông Cửu Long gặp
nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất vì thiếu lao động do nhiều nhà máy
xây dựng ở các khu vực miền Bắc và miền Trung đã thu hút một lƣợng lớn
lao động làm việc tại các khu vực này. Nguyên nhân là do chƣa có quy hoạch
đồng bộ và phát triển bền vững trong ngành thủy sản, dẫn đến tình trạng mất
cân bằng lao động nhƣ vậy.
Bộ Thủy sản trƣớc kia và nay là Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn đã tổ chức nhiều chƣơng trình đào tạo cho cán bộ quản lý các doanh
nghiệp, giúp các nhà quản lý nắm rõ hơn các vấn đề liên quan đến quản trị
doanh nghiệp, quản lý chất lƣợng, marketing, luật pháp thƣơng mại quốc tế,
các rào cản, biện pháp chống bán phá giá... Để hỗ trợ các nhà sản xuất kinh
doanh thủy sản cập nhập kiến thức cơ bản về an toàn vệ sinh thực phẩm, về
yêu cầu của Nhà nƣớc và thị trƣờng, Cục quản lý chất lƣợng an toàn vệ sinh
và thú y thủy sản; VASEP đã tiến hành các khóa đào tạo về GMP, SSOP,
20
HACCP... cho các đối tƣợng trên. Tuy nhiên, nhìn chung công tác đào tạo vẫn
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao phục vụ cho nâng cao năng
lực hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu thủy sản.
- Thứ ba, môi trƣờng công nghệ. Với những thành tích đạt đƣợc trong
nhiều năm qua nhằm góp phần nâng cao giá trị chất lƣợng các mặt hàng thủy
sản, ngành thủy sản đã áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào quá
trình sản xuất chế biến và vận dụng trong thực tiễn nhƣ nghiên cứu tái tạo
nguồn lợi, phát triển công nghệ sản xuất giống những đối tƣợng có giá trị nhƣ
các loại giống tôm sú, tôm rảo, tôm càng xanh, cua, nghêu, cá rô phi, cá tra,
các basa, cá giò, cá song, ốc hƣơng, cua biển..., một số loài đã đƣợc sản xuất
đại trà trong các trại sản xuất giống; nhập khẩu công nghệ sản xuất giống và
nuôi một số đối tƣợng có giá trị xuất khẩu nhƣ bào ngƣ, điệp, tôm thẻ chân
trắng; chuyển giao công nghệ sản xuất thức ăn, chế phẩm sinh học, công nghệ
chế biến thủy sản xuất khẩu, công nghệ xử lý nƣớc thải.
Nhờ việc phát triển và mở rộng thị trƣờng mà các doanh nghiệp đã đổi
mới trang bị nhiều hệ thống máy móc, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt
động sản xuất chế biến từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến, bao gói, và bảo
quản sản phẩm, đảm bảo chất lƣợng và độ an toàn của sản phẩm. Điều này
giải quyết đáng kể những khó khăn của mặt hàng thủy hải sản của Việt Nam
vẫn thƣờng gặp phải khi xuất khẩu ra các thị trƣờng đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ
thuật cao.
1.2.2.2. Các yếu tố tạo thành tiềm lực của ngành xuất khẩu nông thủy sản
Các nguồn lực nông, thủy sản xuất khẩu chỉ là đầu vào cần thiết để thực
hiện công việc của ngành xuất khẩu nông, thủy sản. Song các nguồn lực đó
không tự chúng phát huy tác dụng, các nguồn lực đó phải đƣợc xử lý và sử dụng
theo một cách nào đó để tạo nên giá trị. Do vậy, chính tiềm lực của ngành là yếu
tố tác động lên đầu ra của sản phẩm.
Tiềm lực đƣợc xác định là các công việc thƣờng nhật và quy trình thực
21
hiện của ngành quyết định mức độ hiệu quả và hiệu suất làm việc của ngành
đó trong việc chuyển hóa đầu vào (các nguồn lực) thành đầu ra (sản phẩm bao
gồm các hàng hóa vật chất và hàng hóa dịch vụ). Tiềm lực của ngành đƣợc
tạo ra bởi các yếu tố nhƣ: mô hình phối hợp sản xuất của con ngƣời với con
ngƣời, giữa con ngƣời với các nguồn lực của ngành khác, phƣơng pháp kết
hợp giữa trình độ phát triển kinh tế với tiến bộ khoa học kỹ thuật và các quy
trình tiếp nhận các nguồn nguyên liệu cần thiết để sản xuất và chế biến [1].
Nhƣ vậy, nếu chúng ta biết kết hợp và phát huy lợi thế về các tiềm lực
và các nguồn lực nông thủy sản xuất khẩu thì sẽ tăng đƣợc tính cạnh tranh cho
hàng nông thủy sản Việt Nam. Để làm đƣợc điều đó, chúng ta cần tích lũy,
học hỏi những kinh nghiệm và kiến thức để tìm cách tối ƣu hóa các nguồn lực
sao cho chúng đem lại giá trị cao. Và biến những kiến thức đó thành các năng
lực cơ bản có thể có đƣợc và trở thành tiềm lực riêng của ngành.
Trên thực tế, một số ngành chƣa nắm đƣợc cách thức hoạt động này,
họ chƣa bao giờ có thể phát triển các nguồn lực một cách có hiệu quả, hiệu
suất mà phải vật lộn để tồn tại trong thị trƣờng mang tính cạnh tranh và năng
động ngày càng cao. Tuy nhiên, ngành xuất khẩu nông thủy sản có thể đƣợc
hƣởng những kết quả tốt đẹp trƣớc mắt mà không cần có lợi thế cạnh tranh
lớn nhƣng về lâu dài rất khó giữ đƣợc những kết quả đó. Bởi vì trong nhiều
năm nữa, các nguồn tài nguyên thủy hải sản trên biển sẽ cạn kiệt. Hơn nữa, sự
biến đổi khí hậu có thể ảnh hƣởng xấu tới khả năng sản xuất và nuôi trồng của
ngành nông thủy sản. Vì vậy, điều quan trọng là các nhà hoạch định chiến
lƣợc của ngành phải biết đâu là điểm mạnh, điểm yếu của các nguồn lực, tiềm
lực, năng lực của ngành. Để từ đó có thể giúp định ra hƣớng đi lâu dài cho
toàn nghành.
1.3. CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM
Số liệu thống kê cho thấy, có tới gần 97% các doanh nghiệp của Việt
Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V). Vì thế DNN&V đóng vai trò rất
quan trọng không chỉ trong ngành nông thủy sản nói riêng mà cả trong nền
22
kinh tế nói chung [23].
1.3.1. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V
)
1.3.1.1. Tiêu chí xác định DNN&V ở một số nước trên thế giới
Doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy có mặt ở nhiều nền kinh tế trên thế giới,
nhƣng lại không có một điểm chung thống nhất giữa các quốc gia về khái
niệm cũng nhƣ tiêu thức xác định DNN&V. Điều này thể hiện sự khác nhau
về hoàn cảnh lịch sử, điều kiện chính trị, kinh tế xã hội giữa các quốc gia,
đồng thời thể hiện sự khác nhau trong các chính sách ƣu đãi, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của các DNN&V.
Qua thực tế nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có điều kiện kinh tế
và trình độ phát triển gần tƣơng tự Việt Nam, có thể thấy rằng các nƣớc này
sử dụng hai nhóm tiêu chí phổ biến để xác định các DNN&V là: tiêu chí định
tính và tiêu chí định lượng [17].
Tiêu chí định tính dựa trên đặc trƣng cơ bản của các DNN&V nhƣ:
chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phân cấp hiệu quả trong
hệ thống quản lý thấp…Các tiêu chí này có ƣu thế là phản ánh đúng bản chất
của vấn đề nhƣng thƣờng chỉ đƣợc dùng làm cơ sở tham khảo, kiểm chứng
mà ít đƣợc sử dụng làm cơ sở để xác định quy mô doanh nghiệp do việc xác
định các tiêu chí định tính này với các doanh nghiệp khá khó khăn.
Tiêu chí định lƣợng có thể bao gồm các tiêu chí nhƣ: số lao động, tổng
giá trị tài sản (tổng nguồn vốn), doanh thu hoặc lợi nhuận. Trong đó vốn và số
lao động đƣợc áp dụng nhiều nhất làm tiêu chí xác định các DNN&V. Dƣới
đây là cách xác định DNN&V ở một số khu vực và quốc gia trên thế giới.
Khu vực EU
Liên minh châu âu EU là khu vực có các DNN&V phát triển rất mạnh
23
(80% số doanh nghiệp EU có số lƣợng dƣới 100 ngƣời).
Tiêu chí xác định DNN&V ở EU căn cứ vào 3 yếu tố chính là:
Số lao động đƣợc sử dụng thƣờng xuyên
Doanh số bán hàng năm
Vốn đầu tƣ cho sản xuất
Bảng 3. Phân loại DNN&V của khu vực EU
Tiêu thức phân loại Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động tối đa 50 ngƣời 250 ngƣời
Doanh thu/ năm tối đa 7 triệu EURO 40 triệu EURO
Tổng tài sản/ năm tối đa 5 triệu EURO 27 triệu EURO
Nguồn: DNN&V definition, www.modcontractsuk.com
Tuy nhiên, sự phân biệt này cũng chƣa thật xác đáng vì không phân
biệt đƣợc các doanh nghiệp giữa các nghành trong khi có một thực tế là đặc
điểm kinh tế giữa các nghành nhiều khi quyết định quy mô doanh nghiệp
[17].
Khu vực ASEAN
Tại các nƣớc ASEAN, khái niệm về DNN&V cũng có sự khác nhau.
Song nhìn chung các nƣớc Singapore, Malaysia, Indonesia, Thailand,
Philippins đều dựa vào hai tiêu chí cơ bản để phân định một doanh nghiệp
thuộc quy mô lớn, nhỏ hay vừa. Đó là: số lƣợng lao động đƣợc sử dụng và
tổng vốn đầu tƣ.
Singapore quan niệm DNN&V là những doanh nghiệp có số lƣợng lao
động dƣới 100 ngƣời và vốn đầu tƣ dƣới 1,2 triệu đô la Singapore [17].
Với Malaysia, DNN&V là những doanh nghiệp có số lao động dƣới
24
200 ngƣời và vốn đầu tƣ dƣới 2,5 triệu riggit [17].
Nhƣng ở Thailand, Indonesia và Philippins có sự phân loại chi tiết hơn
thành các doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ.
Trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ thƣờng là những hộ kinh doanh gia đình.
Qua tìm hiểu về tiêu chí xác định DNN&V ở một số nƣớc ASEAN cho
thấy có sự khác nhau trong quan niệm thế nào là DNN&V. Đồng thời sự phân
định này chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối và chủ yếu căn cứ vào quy mô vốn và số
lao động. Do đó các cách xác định DNN&V cũng tồn tại một số nhƣợc điểm
giống nhƣ cách phân loại doanh nghiệp của một số nƣớc trong khu vực EU,
tức là chƣa xét đến yếu tố đặc điểm kinh tế ngành.
Mỹ
Mỹ, một cƣờng quốc kinh tế với những tập đoàn khổng lồ hùng mạnh.
Mặc dù vậy, vai trò của các DNN&V ở đó cũng rất đƣợc đề cao. Việc phân
loại các DNN&V cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên cạnh
những tiêu chí định lƣợng nhƣ: mức tăng trƣởng lợi nhuận hàng năm dƣới
150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất; dịch vụ và thƣơng mại hay
các tiêu chuẩn về lao động. DNN&V còn đƣợc phân loại theo từng nghành
riêng biệt nhƣ sau:
- Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: tổ chức có từ 250 lao động trở
xuống đƣợc coi là doanh nghiệp nhỏ.
- Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thƣơng mại bán lẻ: doanh
nghiệp có từ dƣới 100 lao động thì đƣợc coi là nhỏ; từ 100 – 1.000 lao động
đƣợc coi là vừa và từ 1.000 lao động trở lên đƣợc coi là lớn và rất lớn [17].
Luật DNN&V của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn định tính nhƣ:
DNN&V là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong ngành
của mình liên quan. Theo khái niệm này, các DNN&V không phải là công ty
con hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn. Điều này khác hẳn với các
DNN&V ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh thuộc công ty lớn
vẫn đƣợc hƣởng đặc quyền nhƣ các DNN&V.
25
1.3.1.2. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Nghị định 90/2001/CP-NĐ ngày 23/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về trợ giúp và phát triển DNN&V quy định: DNN&V là “Những đơn vị sản
xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có
mức vốn đăng ký không quá 10 tỷ VNĐ và/ hoặc số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người”.
So với định nghĩa về DNN&V của các nƣớc trong khu vực và trên thế
giới, định nghĩa DNN&V của Việt Nam có tính tổng quát, không đi sâu vào
chi tiết loại hình, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp và chƣa phản ánh
đƣợc thực chất về quy mô doanh nghiệp với các ngành và lĩnh vực khác nhau.
Chính vì thế, các chính sách và chƣơng trình hỗ trợ của Chính phủ đối
với các DNN&V vẫn gặp khó khăn vì đây vẫn chƣa phải là một khái niệm
toàn diện về DNN&V. Mặc dù khái niệm đƣợc đề cập trong Nghị định 90 tuy
đã đƣa ra hai tiêu chí quan trọng nhất là bình quân lao động và vốn đăng kí để
xác định DNN&V. Nhƣng việc xác định một doanh nghiệp có phải là
DNN&V hay không gặp khó khăn, đôi khi bỏ sót đối tƣợng của các chƣơng
trình trợ giúp, đôi khi có doanh nghiệp không thuộc diện đối tƣợng trợ giúp
của chƣơng trình lại vẫn đƣợc tham gia. Hơn nữa, tiêu chí về số lƣợng lao
động bình quân trong năm là một tiêu chí có tính “động’’ rất lớn do hiện
tƣợng lao động theo mùa vụ ở Việt Nam rất phổ biến và số lao động này thay
đổi công việc thƣờng xuyên nên càng gây khó khăn hơn trong việc xác định
một doanh nghiệp có phải là DNN&V hay không [12].
Theo quy định của pháp luật hiện hành, vốn đăng ký của doanh nghiệp
là do ngƣời thành lập doanh nghiệp tự kê khai và chịu trách nhiệm về sự kê
khai của mình, trừ các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực đòi hỏi có
mức vốn pháp định nhƣ kinh doanh vàng, du lịch lữ hành, bảo hiểm, kinh
doanh địa ốc. Mức vốn này chỉ phản ánh trách nhiệm pháp lý của các thành
viên công ty, của doanh nghiệp với khoản nợ, lãi phát sinh trong quá trình
hoạt động. Trên thực tế, vốn đăng ký có sự chênh lệch so với vốn hoạt động
26
của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về số lao động bình quân trong năm của doanh
nghiệp cũng chỉ là con số dự kiến và pháp luật hiện hành cũng không bắt
buộc ngƣời thành lập doanh nghiệp phải kê khai nên cũng không có căn cứ
để phân loại doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh. Hơn nữa, các doanh
nghiệp trong các ngành nghề khác nhau sử dụng số lƣợng lao động rất khác
nhau.
Một trở ngại khác liên quan đến khái niệm hiện tại của nƣớc ta về
DNN&V đó là trong định nghĩa hiện nay không quy định các tiêu chí để
phân chia các DNN&V thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và siêu
nhỏ. Điều này gây khó khăn cho Chính phủ trong việc xác định trọng tâm hỗ
trợ dựa trên quy mô doanh nghiệp trong nội bộ khu vực DNN&V.
1.3.2. Đặc điểm
Qua việc phân tích khái niệm DNN&V ở trên chúng ta thấy DNN&V
là một loại hình doanh nghiệp không đƣợc phân biệt theo hình thức sở hữu
mà đƣợc phân biệt trên khía cạnh quy mô nhiều hơn. Các DNN&V là các
doanh nghiệp có quy mô về vốn hoạt động nhỏ. Do đó, doanh thu và lợi
nhuận không lớn và hầu hết là hoạt động trong các nghành sử dụng nhiều lao
động. Cũng nhƣ các loại hình doanh nghiệp khác, DNN&V có những đặc
điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát triển.
Phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thuộc khu vực kinh tế
tƣ nhân. Loại hình doanh nghiệp này đã đóng góp tới 42% vào GDP (trong
khi mức đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc là 39%) và tạo nhiều
27
việc làm, làm năng động nền kinh tế.
Bảng 4. Số lượng DNN&V đăng kí kinh doanh mới từ năm 2000
Cty TNHH Năm Tổng số DNNN DNDD 1 Thành viên
2000 14.457 14.441 0 16
2001 19.800 19.773 0 27
2002 21.535 21.464 59 12
2003 27.771 27.653 98 20
2004 37.230 37.099 125 6
2005 39.959 39.659 292 8
2006 46.663 45.754 902 7
2007 58.908 50.504 8404 1
2008 65.318 51.015 14.299 4
307.362 24.179 Tổng số 331.641 101
Nguồn: Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (Cục Phát triển DNNVV-
Bộ Kế hoạch và Đầu tư), 2009
Qua số liệu về các DNN&V đƣợc thành lập mới từ năm 2000 đến 2008,
số lƣợng các DNN&V đƣợc thành lập mới tăng lên rất nhanh trong 2 năm 2007
và 2008. Nhìn chung, hầu hết các doanh nghiệp này là các công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên( TNHH 1 thành viên) và doanh nghiệp dân doanh(
DNDD) và có những đặc điểm chung sau:
- Kinh tế tƣ nhân tuy rộng lớn nhƣng về cơ bản là kinh tế hộ quy mô
nhỏ và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức;
- Trình độ công nghệ, kỹ thuật lạc hậu so với mức trung bình của thế
giới, hơn nữa tốc độ đổi mới lại quá chậm. Hạn chế về năng lực cán bộ và
công tác nghiên cứu trong doanh nghiệp, nghiên cứu để ứng dụng trong sản
28
xuất - kinh doanh;
- Trình độ quản lý và tay nghề của ngƣời lao động còn hạn chế. Tuy
Việt Nam có lực lƣợng lao động dồi dào, trình độ học vấn tƣơng đối cao so
với các nƣớc có cùng trình độ phát triển, nhƣng chủ yếu là lao động làm việc
giản đơn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề thấp, sức khỏe hạn chế, năng
suất lao động không cao… Đặc biệt là chất lƣợng lao động trong các ngành
sản xuất nông thủy sản;
- Sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ thấp:
+ Sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ: Yếu tố tƣ bản cấu thành trong
sản phẩm thấp, hàm lƣợng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, tính
độc đáo không cao, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm nói chung thấp;
+ Khả năng hạn chế về vốn, khả năng tiếp nhận nguồn thông tin… của
các DNN&V, sự bảo hộ của Nhà nƣớc với khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc…
đã hạn chế năng lực cạnh tranh của các DNN&V.
Quản trị nội bộ của DNN&V còn yếu, nhất là quản lý tài chính; ý thức chấp
hành các chế độ chính sách chƣa cao; còn lúng túng trong việc liên kết; nhất
là liên kết trong cùng một ngành nghề.
1.3.3. Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vai trò của các DNN&V không chỉ đƣợc thừa nhận ở nhiều nƣớc phát
triển trên thế giới. Những ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn mà các DNN&V
mang lại còn đƣợc những nƣớc đang phát triển thừa nhận.
1.3.3.1. Đóng góp một phần đáng kể vào GDP và tăng trưởng kinh tế
Theo báo cáo về tình hình triển khai Nghị định 90/NĐ-CP ngày
23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNN&V của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ,
DNN&V ở nƣớc ta hiện nay chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp trên
toàn quốc, trong đó phần lớn là doanh nghiệp tƣ nhân. DNN&V đóng góp
khoảng: 26% tổng sản phẩm xã hội(GDP), 31% tổng giá trị tổng sản lƣợng
công nghiệp, 78% mức bán lẻ, 68% tổng lƣợng vận chuyển hàng hóa. Đóng
29
góp thông qua nộp thuế của DNN&V năm 2006 chiếm 7,1% tổng nhân sách
Quốc gia, tỷ lệ này tăng lên hơn 8% trong năm 2007. Nhƣ vậy, các DNN&V
đóng góp một phần rất lớn trong tăng trƣởng kinh tế và vì thế DNN&V đóng
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nƣớc ta.
1.3.3.2. Góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập
cho người lao động, tạo sự ổn định kinh tế và xã hội
Tại hầu hết các quốc gia, mặc dù quy mô nhỏ nhƣng theo quy luật số
lớn, DNN&V đƣợc biết đến nhƣ một khu vực thu hút nhiều lao động, góp
phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, chính khu vực kinh tế này đã
tạo ra khoảng 70% việc làm trong xã hội.
Trong năm năm từ 2002-2007, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu quản
lý kinh tế trung ƣơng cho thấy mỗi năm có khoảng 1,6 triệu đến 2 triệu chỗ
làm việc mới đã đƣợc tạo ra nhờ các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể mới
thành lập và mở rộng quy mô kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp; đƣa tổng số
lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng
số lao động trong các doanh nghiệp nhà nƣớc( DNNN) và tổng số lao động làm
việc trong doanh nghiệp của tƣ nhân và hộ kinh doanh cá thể lên đến khoảng
hơn 6 triệu ngƣời [12]. Có không ít doanh nghiệp đã tạo công ăn việc làm trực
tiếp và gián tiếp cho hàng nghìn lao động.
DNN&V đóng vai trò là trụ cột của kinh tế địa phƣơng: nếu nhƣ doanh
nghiệp lớn thƣờng đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nƣớc, thì
DNN&V lại có mặt ở khắp các địa phƣơng và tạo ra phần lớn công ăn việc
làm cho lao động ở địa phƣơng. Các số liệu thống kê cũng cho thấy rằng các
DNN&V đã thu hút một tỷ lệ lao động chủ yếu trên phạm vi toàn quốc; ở
duyên hải miền trung số lao động làm việc tại các DNN&V so với tổng số lao
động ở tất cả các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất là 69%; Đông Nam Bộ có
30
tỷ lệ thấp nhất là 45%; và tỷ lệ này trên toàn quốc là 52% [12]
Tóm lại, do DNN&V đóng vai trò rất lớn trong việc giải quyết công ăn
việc làm cho ngƣời lao động, mà đặc biệt là lao động tại các địa phƣơng nên
tạo ra sự ổn định xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia: xóa đói giảm
nghèo, nâng cao thu nhập và mức sống của ngƣời dân.
1.3.3.3. Tận dụng các nguồn vốn, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn xã hội
Theo đánh giá của các chuyên gia, một nguồn vốn nhàn rỗi lớn tiềm ẩn
trong nền kinh tế Việt Nam chƣa đƣợc huy động và khai thác một cách hiệu
quả. Việc khởi sự doanh nghiệp với lợi thế vốn nhỏ, khả năng thu hồi vốn
nhanh, tính chất phân tán rải rác đi sâu vào nhiều vùng, nhiều lĩnh vực trong
nền kinh tế nhƣ DNN&V là cơ hội để huy động đƣợc các nguồn vốn nhỏ lẻ,
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cƣ vào sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn nhƣ
hình thức doanh nghiệp tƣ nhân, các hộ gia đình, hợp tác xã vừa huy động
nguồn vốn tự có của cá nhân vừa tận dụng đƣợc các nguồn đầu tƣ đa dạng
trong nền kinh tế. Từ đó dần dần tạo ra tập quán dùng tiền vào đầu tƣ cho sản
xuất kinh doanh thay vì chỉ để tiền nhàn rỗi trong phần lớn bộ phận dân cƣ
hiện nay.
Hơn nữa, với quy mô nhỏ gọn, các DNN&V thƣờng sử dụng các
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phƣơng để tiến hành sản xuất kinh doanh, điều
này rất thiết thực đối với các ngành thủ công truyền thống, tiểu thủ công
nghiệp và đặc biệt là ngành thu mua và chế biến các nông thủy sản. DNN&V
vì thế có thể góp phần huy động nguồn lực toàn xã hội.
1.3.3.4. Tạo lập sự phát triển cân đối, từng bước chuyển dịch và hoàn thiện
cơ cấu, tăng tính năng động, linh hoạt của nền kinh tế
Ở Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc khác, các doanh nghiệp có quy mô lớn
thƣờng tập trung ở các thành phố; các khu công nghiệp. Xu hƣớng này đã gây
mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa
31
thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền trong cùng một quốc gia, từ đó
gây ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sự phát triển kinh tế. Phát triển các DNN&V
là phƣơng tiện quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối giữa các vùng, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngành
và các vùng lãnh thổ. Hơn nữa, việc phát triển các DNN&V cũng có ý nghĩa
to lớn đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nông
thôn theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy các ngành thƣơng
mại dịch vụ phát triển.
Các DNN&V có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển
hƣớng kinh doanh nhanh giúp cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của
các DNN&V trong nền kinh tế một mặt có tác dụng hỗ trợ cho các doanh
nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn thông qua các hợp đồng phụ làm đại
lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, cung
cấp nguyên liệu, thâm nhập vào các ngách nhỏ của thị trƣờng mà các doanh
nghiệp lớn không thể làm đƣợc. Mặt khác, với số lƣợng đông đảo DNN&V
tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế, giảm bớt khả năng độc quyền
của các doanh nghiệp lớn. DNN&V với mạng lƣới rộng khắp đảm bảo phân
bố doanh nghiệp hợp lý hơn, giảm bớt sức ép dân số tại các thành phố lớn.
1.3.3.5. Các DNN&V góp phần đào tạo và nuôi dưỡng cho các tài năng
kinh doanh-nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển kinh tế, xã hội
DNN&V chính là môi trƣờng rất thực tế để đào tạo, rèn luyện các nhà
doanh nghiệp và bản thân những ngƣời lao động. Kinh doanh với quy mô nhỏ
là môi trƣờng đào tạo tốt nhất cho các nhà doanh nghiệp để từng bƣớc tiếp
cận với kinh doanh có quy mô lớn hơn. Bắt đầu bằng việc kinh doanh với quy
mô nhỏ và thông qua quá trình điều hành quản lý kinh doanh với doanh
nghiệp có quy mô này, các nhà doanh nghiệp sẽ tích lũy đƣợc nhiều kinh
nghiệm kinh doanh trên thƣơng trƣờng mà nếu làm việc trong các doanh
nghiệp lớn các doanh nhân sẽ không có điều kiện phát huy. Qua quá trình
32
điều hành DNN&V, các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ trở thành những tài
năng kinh doanh, bởi vì họ phải có trách nhiệm cao hơn với chính doanh
nghiệp của mình và họ phải biết cách làm thế nào phát triển doanh nghiệp.
Đây là vấn đề có thực tiễn khá cao đối với Việt Nam, trong nhiều năm hoạt
động trong cơ chế quan liêu bao cấp với hàng loạt các nhà doanh nghiệp chƣa
có kinh nghiệm với cơ chế thị trƣờng. Sự phát triển của các DNN&V có tác
dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách qua thực tế những con ngƣời có năng lực
thực sự để trở thành những nhà lãnh đạo tài năng cho sự phát triển kinh tế cho
cả quốc gia nói chung cũng nhƣ cho mục tiêu riêng của từng doanh nghiệp
33
nói riêng.
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU NHỎ VÀ VỪA
Ngành xuất khẩu hàng nông thủy sản vốn đƣợc coi là một ngành
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của
ngành hàng xuất khẩu tăng trƣởng cao và đều. Tuy nhiên, hai sự kiện lớn
là: Năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO và cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu diễn ra từ năm 2008 đã tác động lớn đến hoạt động xuất khẩu nông
thủy sản và các DNN&V Việt Nam. Những thay đổi lớn này mang đến
nhiều những khó khăn thách thức và nhƣng cũng tạo nhiều cơ hội phát triển
cho các DNN&V hoạt động trong lĩnh vực này. Điều này sẽ đƣợc phân tích
trong phần tiếp theo.
2.1. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ NÔNG SẢN CHỦ YẾU CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu
Kể từ khi việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, xuất
khẩu nông sản của nƣớc ta cũng chịu những tác động từ các quy định của
WTO mà Việt Nam phải tuân theo. Trong suốt 6 năm từ 2001- 2007, kim
ngạch xuất khẩu nông sản của Việt nam liên tục tăng mạnh. Tuy nhiên,
trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO, một số mặt hàng bị giảm sút trong
tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu. Nhƣng nhìn chung tốc độ tăng
trƣởng kim ngạch xuất khẩu nông sản vẫn tăng trƣởng ở mức cao.
34
Bảng 5. Kim ngạch xuất khẩu nông sản qua từng năm
( Trong đó bao gồm cả các lâm sản).
Kim ngạch Tốc độ tăng trƣởng so với Năm (triệu USD) năm trƣớc (%)
2001 2.597,3 - 4,48%
2002 2.594,4 - 0,11%
2003 2.867,3 10,52%
2004 3.564,2 24,31%
2005 4.719,9 35,42%
2006 5.650 19,71%
2007 7.200 24,43%
Nguồn: tổng cục thống kê và do tác giả tự tính toán
Do các mặt hàng nông sản đƣợc xuất khẩu sang các thị trƣờng khác
nhau, và chịu sự điều chỉnh trong các hiệp định thƣơng mại với các thị trƣờng
khác nhau. Do vậy kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này có thay đổi trong
giai đoạn trƣớc và sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trong đó, tốc độ tăng
trƣởng kim ngạch xuất khẩu nông sản của năm 2005 là cao nhất đạt 35,42%
so với năm trƣớc, và riêng năm 2006 tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu
nông sản bị sụt giảm mạnh xuống còn 19,71%, tỷ lệ này là khá thấp so với các
năm trƣớc. Nhƣng xét trên tổng thể, kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam
vẫn tăng trƣởng khá đều và ít bị giảm sút. Tuy nhiên, đối với các mặt hàng cụ
thể khác nhau thì tăng trƣởng trong kim ngạch xuất khẩu khác nhau rất lớn.
35
Bảng 6. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trong kim ngạch xuất khẩu
các nông sản chủ yếu từ năm 2001-2007.
Đvt:%
Mặt hàng Gạo
Chè
Rau
Cà phê
Hạt tiêu
Hạt điều
Trái cây
Cao su
Gỗ và các SP từ gỗ
33,5
30,8
14,7
26,0
14,6
22,8
32,5
34,4
32,4
Tăng trƣởng TB hàng năm
38,7
19,8
16,2
30,3
13,4
20,4
43,2
27,8
26,9
Tăng trƣởng TB trƣớc khi gia nhập WTO
23,3
52,9
11,8
17,6
16,9
27,8
11,0
47,5
43,6
Tăng trƣởng TB sau khi gia nhập WTO
Giải thích: TB là trung bình
Nguồn: Báo cáo thương mại nông sản năm 2008
Nhƣ vậy, qua Bảng 6 có thể thấy: hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu
thay đổi nhiều nhất trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO là Cà phê và Rau.
Trong đó tỷ lệ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu sau khi gia nhập WTO của
mặt hàng Rau là 11% giảm rất mạnh (giảm 32,2%) so với mức tăng trƣởng
43,2% của mặt hàng này trƣớc khi gia nhập WTO (hình1) . Ngƣợc lại, tỷ lệ
tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu Cà phê lại tăng khá cao từ 19,8% trƣớc khi
gia nhập WTO lên 52,9% kể từ sau khi gia nhập WTO (tăng 33,1%). Nguyên
nhân tác động mạnh tới kim ngạch xuất khẩu của Cà phê và Rau là: nhu cầu
về Cà phê trên những thị trƣờng chính nhƣ Hoa Kỳ, Đức, Tây Ban Nha…
tăng mạnh. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu Rau sang những thị trƣờng chính
lại sụt giảm do hầu hết các thị trƣờng này đƣợc điều chỉnh bởi các cam kết
36
của Việt Nam trong khuôn khổ WTO. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu một
số mặt hàng có thay đổi nhƣng không quá mạnh nhƣ: Gỗ, Gạo, Hạt điều, Cao
su.
Hình 1. So sánh tốc độ tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu các loại
nông sản trước khi Việt Nam gia nhập WTO và sau khi gia nhập WTO
(2001-2007)
Nguồn: Báo cáo thương mại nông sản Việt Nam năm 2008
Tuy nhiên, trong năm 2008. Do sự biến động mạnh về nhu cầu lƣơng
thực trên thế giới, xuất khẩu Gạo của Việt Nam tăng mạnh hơn những năm
trƣớc và kim ngạch xuất khẩu các nông sản khác ở mức tăng trƣởng chậm lại
do chịu ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới khiến cho nhu cầu
nhập khẩu giảm.
37
2.1.2. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu
Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam rất đa dạng với nhiều loại
hàng hóa nông sản chủ lực khác nhau gồm có: Gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều,
chè, trái cây, rau, cao su, gỗ và các sản phẩm (SP) từ gỗ. Quan sát bảng 7 có
thể thấy, cơ cấu hàng nông sản qua các năm nhìn chung có thay đổi nhƣng
không quá mạnh mà tỷ trọng của các mặt hàng này thay đổi dần qua từng năm.
Bảng 7. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu từ năm 2001-2007
Năm
Nhóm hàng
2001
2002 2003
2004
2005
2006
2007
21,4
24,0
20,1
21,0
23,7
19,9
19,2
Gạo
26,6
21,1
26,9
26,3
30,4
31,1
31,2
Cà phê
6,6
6,4
5,5
5,3
3,7
3,4
2,8
Hạt tiêu
10,8
17,0
16,7
18,4
13,5
9,5
9,9
Điều
5,4
4,3
4,7
4,2
2,4
2,1
2,1
Chè
8,7
7,3
6,7
5,2
4,1
4,0
3,9
Trái cây
2,3
2,4
2,1
1,8
1,7
1,5
1,4
Rau
10,7
10,8
10,6
10,4
10,2
17,3
16,1
Cao su
7,5
6,8
6,7
7,4
10,3
11,2
13,4
Gỗ và các SP từ gỗ
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
Nguån: B¸o c¸o th ¬ng m¹i n«ng s¶n n¨m 2008
Nh×n chung, qua b¶ng 7 cã thÓ thÊy mÆt hµng g¹o vµ cµ phª lµ hai mÆt
hµng chiÕm tû träng lín nhÊt trong c¬ cÊu hµng n«ng s¶n xuÊt khÈu víi kim
ng¹ch xuÊt khÈu g¹o hµng n¨m tõ 19% ®Õn 24%, vµ kim ng¹ch xuÊt khÈu cµ
phª tõ 21% ®Õn h¬n 31% trong tæng kim ng¹ch hµng n«ng s¶n xuÊt khÈu. Tuy
nhiªn, trong giai ®o¹n tõ n¨m 2001-2007, tû träng mét sè mÆt hµng trong c¬
38
cÊu c¸c mÆt hµng gi¶m ®¸ng kÓ nh : chÌ, tr¸i c©y, ®iÒu (h×nh 2). Bªn c¹nh ®ã,
mét sè mÆt hµng l¹i t¨ng tû träng trong c¬ cÊu hµng xuÊt khÈu n¨m 2007 nh :
cao su vµ gç (h×nh 2).
H×nh 2. C¬ cÊu hµng n«ng s¶n xuÊt khÈu n¨m 2001 vµ n¨m 2007
39
Nguồn: Báo cáo thương mại nông sản năm 2008
2.1.3. Thị trƣờng xuất khẩu
Thị trƣờng là một yếu tố rất quan trọng quyết định thành công trong
việc xuất khẩu nói chung. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu luôn tìm kiếm
những thị trƣờng triển vọng cho xuất khẩu. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã
tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tìm kiếm và xuất khẩu hàng hóa sang những
thị trƣờng mới, ngoài những thị trƣờng truyền thống. Tuy nhiên, thị trƣờng
của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu lại bị thu hẹp do Việt Nam thực hiện
các cam kết thƣơng mại trong khuôn khổ WTO và các hiệp định thƣơng mại
khác. Điều này sẽ đƣợc phân tích cụ thể trong từng mặt hàng.
2.1.3.1. Gạo:
Về tổng thể, phạm vi thị trƣờng xuất khẩu gạo của Việt Nam sau 2 năm
gia nhập WTO không có gì thay đổi nhiều về số lƣợng so với trƣớc khi gia
nhập: năm 2004 Việt Nam xuất khẩu gạo tới 43 thị trƣờng khác nhau; năm
2005: 40 thị trƣờng; 2006: 41 thị trƣờng; 2007: 41 thị trƣờng [18].
Cơ cấu các nhóm thị trƣờng chính nhập khẩu gạo của Việt Nam cũng
không có nhiều thay đổi kể từ khi gia nhập WTO. Các thị trƣờng chính nhƣ
Philippines, Malaysia, Indonesia, Honduras, Singapore… vẫn là những thị
trƣờng nhập khẩu chính. Trong đó, Philippines là thị trƣờng nhập khẩu nhiều
nhất qua các năm từ 2004 đến 2007. Tỷ lệ phần trăm xuất khẩu gạo sang
Philippines lần lƣợt qua các năm nhƣ sau: năm 2004 là 48%; năm 2005 là
69%; năm 2006 là 53%; năm 2007 là 45% [18]. Trong năm 2008, do nhu cầu
về lƣơng thực trên thế giới tăng rất mạnh, xuất khẩu gạo đều tăng trên tất các
thị trƣờng, đặc biệt là thị trƣờng Châu Phi.
2.1.3.2. Cà phê
Phạm vi của thị trƣờng cà phê Việt Nam xuất khẩu sau khi gia nhập
WTO không thay đổi nhiều về số lƣợng so với trƣớc khi gia nhập WTO. Năm
2004 Việt Nam xuất khẩu cà phê sang 51 thị trƣờng; năm 2005: 53 thị trƣờng
40
và con số này trong năm 2007 là 54 thị trƣờng.
Cơ cấu các nhóm thị trƣờng chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam
cũng không có gì thay đổi nhiều sau khi nƣớc ta gia nhập WTO. Các thị
trƣờng xuất khẩu chính của mặt hàng cà phê vẫn là: Hoa Kỳ, Tây Ban Nha,
Ý, Pháp, Anh, Hàn Quốc…Và tỷ trọng của các thị trƣờng nhập khẩu này với
nhau cũng không thay đổi nhiều [18].
Các thị trƣờng chính này của cà phê Việt Nam xuất khẩu đều đƣợc điều
chỉnh bởi các cam kết trong khuôn khổ WTO. Trên thực tế, xuất khẩu cà phê của
Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO tới những thị trƣờng này đều tăng mạnh.
2.1.3.3. Hạt tiêu
Cũng nhƣ hai mặt hàng gạo và cà phê, phạm vi thị trƣờng hạt tiêu
xuất khẩu của Việt Nam trƣớc khi gia nhập WTO và sau khi gia nhập WTO
không có thay đổi nhiều về số lƣợng. Năm 2004 hạt tiêu Việt Nam đƣợc
xuất khẩu sang 52 thị trƣờng khác nhau; năm 2005: 51 thị trƣờng; 2007: 54
thị trƣờng [18].
Về cơ cấu thị trƣờng nhóm thị trƣờng chính nhập khẩu hạt tiêu của Việt
Nam không có sự thay đổi nhiều sau khi gia nhập WTO. Các quốc gia nhƣ: Mỹ,
Đức, Ấn Độ, Hà Lan, Ucraina, Singapore, Pháp… vẫn là những thị trƣờng chính
nhập khẩu hạt tiêu Việt Nam. Quan hệ thƣơng mại của Việt Nam nới hầu hết
những thị trƣờng này cũng đƣợc điều chỉnh trong khuôn khổ WTO.
Tuy nhiên, tỷ trọng giữa các thị trƣờng có sự thay đổi tƣơng đối sau khi
Việt Nam gia nhập WTO: xuất khẩu hạt tiêu vào thị trƣờng Đức có sự tăng
trƣởng mạnh sau khi gia nhập WTO, trong khi đó tại các thị trƣờng Mỹ, Ấn
Độ lại có sự sụt giảm.
Mặc dù giá trị xuất khẩu chung tiếp tục tăng nhƣng giá trị xuất khẩu hạt
tiêu tại các thị trƣờng trọng điểm sau khi Việt Nam gia nhập WTO nhìn chung
41
đều có xu hƣớng giảm so với trƣớc khi gia nhập WTO.
2.1.3.4. Hạt điều
Các thị trƣờng xuất khẩu hạt điều giai đoạn 2001-2007 có sự thay đổi ít
nhiều về số lƣợng và theo hƣớng tích cực. Năm 2004 Việt Nam xuất khẩu hạt
tiêu tới 49 thị trƣờng khác nhau; năm 2005: 51 thị trƣờng; năm 2007: 58 thị
trƣờng [18].
Cơ cấu nhóm thị trƣờng chính nhập khẩu hạt điều của Việt Nam không
có sự thay đổi nhiều trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO. Các thị trƣờng
xuất khẩu hạt tiêu chính là: Mỹ, Úc, Hà Lan, Canada, Anh, Trung Quốc,
Đức,…
Tuy nhiên, tỷ trọng giữa các thị trƣờng này có sự thay đổi tƣơng đối
sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Xuất khẩu hạt điều vào một số thị trƣờng có
xu hƣớng giảm nhẹ, đó là thị trƣờng Mỹ, Úc, Canada. Trong khi đó, các thị
trƣờng nhƣ: Anh, Trung Quốc tƣơng đối ổn định và thị trƣờng Hà Lan là có
xu hƣớng tăng nhẹ.
Kim ngạch xuất khẩu hạt điều vào các thị trƣờng chính nhìn chung đều
đạt mức tăng trƣởng khá cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO, duy nhất chỉ
có thị trƣờng úc là bị giảm. Trong số các thị trƣờng chính của hạt điều Việt
Nam , chỉ có Trung Quốc là thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định thƣơng
mại khác ngoài WTO là (ACFTA), các thị trƣờng còn lại đều thuộc phạm vi
điều chỉnh bởi các cam kết WTO của Việt Nam.
2.1.3.5. Chè
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, số lƣợng thị trƣờng xuất khẩu chè có
sự thay đổi về số lƣợng nhƣng xu hƣớng tăng giảm không rõ ràng. Năm 2004
Việt Nam xuất khẩu chè sang 53 thị trƣờng khác nhau; năm 2005: 50 thị
trƣờng; năm 2006: 56 thị trƣờng; năm 2007: 52 thị trƣờng [18].
Tuy nhiên, cơ cấu các nhóm thị trƣờng chính nhập khẩu chè của Việt
Nam không co sự thay đổi nhiều. Việt Nam vẫn xuất khẩu chè sang các thị
42
trƣờng chính là: Đài Loan, Nga, Đức, Bồ Đào Nha, Ba Lan…và hầu hết quan
hệ với các thị trƣờng này đều đƣợc điều chỉnh trong khuôn khổ WTO. Đáng
chú ý là thị trƣờng Ấn Độ có kim ngạch xuất khẩu cao nhƣng không ổn định.
Tỷ trọng giữa các thị trƣờng có sự thay đổi tƣơng đối sau khi Việt Nam
gia nhập WTO. Xuất khẩu chè vào thị trƣờng Đài Loan, Nga có xu hƣớng
tăng; xuất khẩu chè vào các thị trƣờng khác cũng giữ đƣợc sự ổn định tƣơng
đối nhƣ Bồ Đào Nha, Đức, Ba Lan…Xuất khẩu chè giai đoạn sau khi gia
nhập WTO đã có xu hƣớng tập trung hơn vào những thị trƣờng nhất định, thể
hiện ở tỷ trọng của những thị trƣờng khác có xu hƣớng giảm.
Xuất khẩu chè sau khi gia nhập WTO tới các thị trƣờng chính nhìn
chung vẫn giữ đƣợc mức tăng trƣởng khá, ngoại trừ thị trƣờng Bồ Đào Nha.
2.1.3.6. Trái cây
Thị trƣờng xuất khẩu trái cây cũng có xu hƣớng thay đổi tăng giảm
không rõ ràng kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2004: Việt Nam xuất
khẩu trái cây tới 49 thị trƣờng khác nhau; năm 2005: 54 thị trƣờng; năm 2006:
49 thị trƣờng; năm 2007: 56 thị trƣờng [18].
Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu trái cây của Việt Nam không thay đổi
nhiều sau khi gia nhập WTO. Các thị trƣờng Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan,
Hồng Kông, Nhật Bản, Canada… vẫn là những thị trƣờng chính nhập khẩu
trái cây của Việt Nam.
Tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trƣờng cũng không có sự thay đổi
nhiều ở nhóm các thị trƣờng lớn. Dẫn đầu vẫn là thị trƣờng Trung Quốc và
Mỹ. Tuy nhiên, thị trƣờng Đài Loan đã có những sự sụt giảm đáng kể sau khi
Việt Nam gia nhập WTO. Xuất khẩu tại các thị trƣờng khác nhƣ: Canada,
Singapore, Hà Lan… giữ đƣợc sự ổn định tƣơng đối. Rất đáng chú ý là sau
khi gia nhập WTO, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu sang Thái Lan, một thị
trƣờng lớn và đầy tiềm năng ở Đông Nam Á.
Ngoại trừ thị trƣờng Trung Quốc có sự sụt giảm xuất khẩu đáng kể
trong năm 2007, xuất khẩu trái cây của Việt Nam tới các thị trƣờng chính
43
khác nhìn chung vẫn đạt đƣợc mức tăng trƣởng khá sau khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của WTO. Mặt khác, quan hệ thƣơng mại của
Việt Nam và Trung Quốc đối với mặt hàng trái cây đƣợc điều chỉnh bởi các
quy định trong khuôn khổ ACFTA.
2.1.3.7. Rau
Kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, phạm vi của thị trƣờng xuất
khẩu rau có sự thay đổi theo hƣớng tích cực. Năm 2004 Việt Nam xuất khẩu
rau sang 40 thị trƣờng khác nhau; năm 2005: 44 thị trƣờng; năm 2006: 46 thị
trƣờng; năm 2007: 51 thị trƣờng [18].
Cơ cấu nhóm thị trƣờng xuất khẩu chính rau của Việt Nam không thay
đổi nhiều sau khi gia nhập WTO. Những thị trƣờng xuất khẩu rau chính vẫn
là: Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Ý, Nga, Indonesia, Singapore…
Tỷ trọng giữa các thị trƣờng đã có sự thay đổi sau khi Việt Nam gia
nhập WTO. Các thị trƣờng Nhật Bản, Đài Loan tuy dẫn đầu về nhập khẩu rau
của Việt Nam nhƣng đã giảm tỷ trọng, trong khi đó một số thị trƣờng nhƣ:
Mỹ, Nga, Singapore… đã có sự tăng trƣởng khá rõ nét. Các thị trƣờng khác
nhìn chung tƣơng đối ổn định.
Mặc dù giá trị xuất khẩu chung vẫn tiếp tục tăng trƣởng khá, nhƣng
nhìn chung sau khi gia nhập WTO, xuất khẩu rau của Việt Nam tới các thị
trƣờng chính lại bị giảm. Và quan hệ thƣơng mại của Việt Nam tới hầu hết
các thị trƣờng này đƣợc điều chỉnh bởi các cam kết của Việt Nam trong
khuôn khổ WTO.
2.1.3.8. Cao su
Nhìn chung xuất khẩu cao su của Việt Nam sau khi gia nhập WTO tăng
trƣởng khá do thị trƣờng xuất khẩu cao su thay đổi theo hƣớng tích cực. Năm
2004 Việt Nam xuất khẩu cao su tới 60 thị trƣờng khác nhau; năm 2005: 55
thị trƣờng; năm 2006: 62 thị trƣờng; năm 2007: 63 thị trƣờng [18].
Cơ cấu các nhóm thị trƣờng chính nhập khẩu cau su của Việt Nam
44
không có sự thay đổi nhiều sau khi gia nhập WTO. Các thị trƣờng Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đức, Đài Loan, Mỹ, Nhật Bản, Ý… cũng vẫn là những thị
trƣờng chính.
Tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trƣờng này có sự thay đổi tƣơng đối.
Trung Quốc và Malaysia trở thành hai nhà nhập khẩu chính của cao su Việt
Nam, đặc biệt là sự vƣơn lên của thị trƣờng Malaysia. Trong khi đó, các thị
trƣờng nhập khẩu khác vẫn giữ nguyên tỷ trọng ổn định.
Nhìn chung, xuất khẩu cau su sau khi gia nhập WTO tới các thị trƣờng
chính nhing chung vẫn giữ đƣợc mức tăng trƣởng cao. Quan hệ thƣơng mại
của Việt Nam với hầu hết các thị trƣờng này cũng thuộc phạm vi điều chỉnh
của các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
2.1.3.9. Gỗ và các sản phẩm từ Gỗ
Thị trƣờng xuất khẩu Gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam sau khi
gia nhập WTO có thay đổi nhƣng không theo xu hƣớng rõ ràng. Năm 2004
Việt Nam xuất khẩu mặt hàng này tới 62 thị trƣờng khác nhau; năm 2005: 59
thị trƣờng; năm 2007: 62 thị trƣờng [18].
Cơ cấu nhóm thị trƣờng xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ không
thay đổi nhiều sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các thị trƣờng Trung Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Hàn Quốc, Malaysia, Bỉ vẫn là những thị trƣờng
nhập khẩu chính của các sản phẩm gỗ Việt Nam.
Tỷ trọng xuất khẩu giữa các thị trƣờng có sự thay đổi chủ yếu giữa
Trung Quốc và Nhật Bản. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã thay thế
Nhật Bản và trở thành thị trƣờng nhập khẩu chính Gỗ và các sản phẩm gỗ của
Việt Nam. Các thị trƣờng Mỹ, Đài Loan có xu hƣớng giảm tỷ trọng, các thị
trƣờng còn lại nhìn chung giữ đƣợc sự ổn định trong tỷ trọng.
Sau khi gia nhập WTO, xuất khẩu gỗ và các SP từ gỗ của Việt Nam tới
các thị trƣờng chính nhìn chung vẫn giữ đƣợc mức tăng trƣởng cao. Quan hệ
thƣơng mại của Việt Nam tới các thị trƣờng này đều thuộc phạm vi điều chỉnh
45
của các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
Nhìn chung, xuất khẩu nông sản trên các thị trƣờng đều tăng trƣởng
khá mạnh giúp kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam gia tăng không
ngừng, trong đó có những thị trƣờng tiềm năng rất hứa hẹn, tuy nhiên trong
hai năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trƣờng
các nƣớc ASEAN giảm sút. Đó là một câu hỏi đặt ra cho các doanh nghiệp
xuất khẩu của Việt Nam.
2.2. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ THUỶ SẢN CHỦ YẾU CỦA VIỆT
NAM
Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 7 thế giới về xuất khẩu thuỷ sản và
đƣợc coi là nƣớc có tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu thuỷ sản nhanh nhất. Xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam thời kỳ 1992 – 2003 có tốc độ tăng trƣởng trung
bình đạt 9,97%/năm, đến năm 2001 – 2006 là 10,5%/năm [26]. Chất lƣợng
các mặt hàng không ngừng đƣợc nâng lên và ngày càng có uy tín trên thị
trƣờng thế giới.
2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủy sản chủ yếu
Thời gian qua, thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam. Nếu xét về kim ngạch xuất khẩu, thủy sản chỉ đứng sau dầu
thô, dệt may, nông sản, da giày. Trên thị trƣờng thế giới, Việt nam đang dần
trở thành một trong những nƣớc xuất khẩu thủy sản quan trọng với kim ngạch
xuất khẩu liên tục tăng qua các năm, từ năm 2001 đến năm 2007.
Bảng 8. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam từ năm 2001-2007
Năm Tốc độ tăng trƣởng so với năm trƣớc (%) Kim ngạch (triệu USD)
2001 1.816,4 22,9
2002 2.021,7 11,3
2003 2.199,6 12,6
46
2004 2.408,1 9,5
2005 2.732,5 13,5
2006 3.358,0 22,9
2007 3.763,4 12,1
Nguồn: Tổng cục thống kê
Theo bảng 8, kim ngạch xuất khẩu thủy sản trong 6 năm từ 2001 - 2007
liên tục tăng, năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đạt 1.816,4 triệu USD thì đến
năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đã vƣợt ngƣỡng 3 tỷ USD, đến năm 2007 là
gần 3,8 tỷ USD, và ƣớc đạt trong năm 2008 là 4,5 tỷ USD, tăng khoảng
14,4% so với năm 2007. Trong những năm qua, tốc độ tăng trƣởng kim ngạch
xuất khẩu của thủy sản Việt Nam đạt kết quả rất tích cực so với các ngành
kinh tế khác và so với các nƣớc trong khu vực. Ngay cả khi cuộc khủng hoảng
tài chính – tiền tệ toàn cầu trong năm 2008 có ảnh hƣởng nặng nề đến nền
kinh tế các nƣớc trên thế giới và kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác có
sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu thủy sản vẫn tăng.
Tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn sau khi gia
nhập so với trƣớc khi Việt Nam gia nhập WTO nhìn chung tăng lên theo xu
hƣớng tốt, chỉ có năm 2007 tốc độ tăng trƣởng trong kim ngạch xuất khẩu
thủy sản giảm xuống. Trong giai đoạn trƣớc khi gia nhập WTO: Tốc độ tăng
trƣởng xuất khẩu giảm xuống còn có 9,5%, là do hậu quả của các vụ kiện bán
phá giá, điều kiện sản xuất trong nƣớc gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trƣởng
chậm năm 2004 có chậm lại so với những năm khác. Nhƣng sau đó tốc độ
tăng trƣởng xuất khẩu thủy sản đã nhanh chóng đạt lại tỷ lệ tăng trƣởng
13,5% vào năm 2005 và giữ vững đà tăng trƣởng trong các năm gần đây.
2.2.2. Cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu
Với nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam có thể xuất khẩu nhiều
47
loại thủy sản có tính kinh tế cao. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có nhiều thay
đổi trong thời gian hơn hai thập kỷ qua. Tôm và cá là hai mặt hàng xuất khẩu
chính. Tỷ trọng trong tổng khối lƣợng và giá trị xuất khẩu mặt hàng tôm vẫn
duy trì đƣợc vị trí hàng đầu song đã giảm dần do các mặt hàng khác tăng
nhanh hơn, đặc biệt là cá.
Bảng 9. Cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2007
Đvt: %
Năm Nhóm hàng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
43,9 47,8 46,5 52,5 50,1 43,6 40,1 Tôm
15,8 22,9 20,5 23,0 25,1 34,2 38,8 Cá
11,1 6,8 3,3 4,2 4,8 4,3 3,9 Hải sản khô
6,5 7,1 5,1 6,8 6,7 6,6 7,7 Mực, bạch tuộc
22,7 15,4 24,6 13,5 13,3 11,3 9,5 Thủy sản khác
Tổng cộng 100 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Tổng cục thống kê, VASEP
Theo bảng 9, tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có kim ngạch xuất
khẩu chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản, sau đó là mặt hàng
cá với tỷ trọng có khuynh hƣớng ngày càng tăng, đặc biệt đối với mặt hàng cá
tra, cá basa. Tuy nhiên, nhìn chung, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt
nam trong thời gian qua chủ yếu là các mặt hàng sơ chế hoặc nguyên liệu.
Các mặt hàng chế biến có giá trị gia tăng cao vẫn còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn.
Điều này ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng thủy sản của nƣớc
48
ta. Các nhóm sản phẩm chính bao gồm:
Nhóm sản phẩm tôm: tôm là mặt hàng có vai trò đặc biệt quan trọng
trong các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, trong đó mặt hàng tôm
đông lạnh đang chiếm vị trí cao trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Thị
trƣờng tiêu thụ chính là Mỹ và Nhật Bản, hai thị trƣờng lớn này tiêu thụ
tới 70 – 80% khối lƣợng tôm xuất khẩu của Việt Nam [21]
Nhóm sản phẩm cá: xuất khẩu các sản phẩm cá của Việt Nam tăng lên
nhanh chóng trong những năm gần đây.
- Mặt hàng cá tra – basa: là một trong những đối tƣợng nuôi trồng thủy
sản đang đƣợc phát triển với tốc độ nhanh tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long (tập trung chủ yếu ở hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp) và là một trong
những loài cá có giá trị xuất khẩu cao. Cá Basa Việt Nam đƣợc nhiều thị
trƣờng ƣa chuộng vì mầu sắc cơ thịt trắng, thịt cá thơm ngon hơn so với các
loài cá catfish khác. Cá tra – basa xuất khẩu sang hơn 40 thị trƣờng, trong đó
các thị trƣờng châu Âu có sự tăng trƣởng vƣợt bậc. Ƣớc tính cả cá Basa và cá
Tra xuất khẩu khoảng 30-35.000 tấn/năm, giá trị trên 80-100 triệu USD/năm.
Sản phẩm xuất khẩu dƣới dạng nguyên con, philê đông lạnh, các mặt hàng
chế biến và hàng giá trị gia tăng [21].
- Cá ngừ: có giá trị kinh tế cao nhất ở biển Việt Nam, bắt đầu đƣợc tập
trung khai thác từ những năm 1990. Nghề khai thác cá ngừ phục vụ xuất khẩu
ở Việt Nam ngày càng đƣợc quan tâm nhiều hơn, thị trƣờng tiêu thụ cũng dần
đƣợc mở rộng, thị trƣờng xuất khẩu chính là Mỹ, Nhật Bản, châu Âu và một số
nƣớc châu á. Sản phẩm dƣới dạng ăn tƣơi, phơi khô, đóng hộp, hun khói.
- Cá rô phi: hiện nay cá rô phi đƣợc định hƣớng là một trong những
mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu triển vọng của Việt Nam. Dự kiến, đến năm
2010, Việt Nam có thể sản xuất đƣợc 200.000 tấn cá rô phi thƣơng phẩm,
trong đó khoảng 50% sản lƣợng dành cho xuất khẩu [21].
49
Nhuyễn thể chân đầu:
- Mực, bạch tuộc: xuất khẩu mực, bạch tuộc của Việt Nam tăng trƣởng
ổn định gần nhƣ tƣơng ứng với nhịp độ tăng trƣởng của tổng xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam, Nhật Bản vẫn là thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm nhuyễn thể
chân đầu lớn nhất. Sản phẩm chế biến phần lớn dƣới dạng đông lạnh Block ,
IQF, semi-IQF, đông lạnh khay hoặc đóng gói hút chân không. Các sản phẩm
chế biến nhƣ phi lê, cắt miếng, tỉa hoa, chế biến sẵn để nấu hoặc dƣới dạng
sản phẩm sushi, sashimi để ăn gỏi, các sản phẩm phối chế khác.
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ: ở Việt Nam, nhuyễn thể hai mảnh vỏ là sản
phẩm xuất khẩu phát triển mạnh từ năm 1999. Tuy nhiên, kim ngạch xuất
khẩu chƣa cao do sản lƣợng còn nhỏ bé, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên,
thị trƣờng xuất khẩu còn hạn chế, việc chế biến sản phẩm giá trị gia tăng chƣa
đƣợc quan tâm đúng mức.
2.2.3. Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu
Tính đến nay, hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt ở khoảng 140 thị
trƣờng trên thế giới, đồng thời đã hình thành thế chủ động cân đối về thị
trƣờng tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm duy trì tăng trƣởng bền vững. Cơ cấu thị
trƣờng xuất khẩu thuỷ sản thay đổi rõ nét kể từ năm 2000 đến nay. Mỹ, Nhật
Bản và EU là những thị trƣờng tiêu thụ thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam. Các
thị trƣờng châu Á nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc có vị trí khá ổn định.
Bảng 10. Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam từ 2001 đến
2007
Đvt: %
Năm
Thị trƣờng
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nhật Bản 26,6 25,6 31,4 29,7 25,2 21,1
50
Mỹ 32,4 34,4 24,7 23,1 19,8 20,4
EU 4,2 5,6 10,2 15,9 21,6 25,7
15,0 6,5 5,5 4,9 4,4 4,3
Trung Quốc Hồng Kông
ASEAN 3,9 3,2 6,9 4,5 4,5 4,2
Các nƣớc khác 17,9 24,7 21,3 21,9 24,5 24,3
Tổng cộng 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Tổng cục thống kê, VASEP
Các thị trƣờng chính:
- Thị trƣờng Nhật Bản: là thị trƣờng đem lại hiệu quả cao cho xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam trong nhiều năm qua, nhƣng hiện nay, xu hƣớng
này đang giảm dần, do lƣợng nhập khẩu các mặt hàng tôm của ta sang thị
trƣờng này ngày cang giảm đi, do nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm của Nhật
Bản thay đổi về thị hiếu tiêu dùng, tăng cƣờng nhập các loại tôm cỡ lớn, tôm
chế biến giá trị gia tăng và tôm chân trắng. Tôm, mực, bạch tuộc, cá ngừ đông
lạnh là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam sang thị trƣờng
Nhật Bản. Năm 2007, Nhật Bản nhập khoảng trên 119 nghìn tấn thủy sản, trị
giá gần 746 triệu USD. Tính đến tháng 10.2008, xuất khẩu sang thị trƣờng
Nhật Bản đạt mức 693 triệu USD, chiếm 18,1% tổng xuất khẩu thủy sản,
đứng vị trí thứ hai trong các thị trƣờng nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
[20]. (Ngƣời Nhật rất ƣa thích các loại nhuyễn thể, đặc biệt là các nhuyễn thể
chân đầu (chủ yếu là mực ống, mực nang). Các sản phẩm này đƣợc chế biến
theo nhiều dạng, từ dạng tƣơi nhƣ sushi, đến các dạng rán, xông khói, nƣớng,
tẩm gia vị, thậm chí cả dƣới dạng sơ chế nguyên con, phi lê, cắt mỏng, thái
miếng, cắt khoanh và các món ăn với các sản phẩm khô, ƣớp lạnh, ƣớp đông.
Tuy nhiên, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc, cá, hàng khô
51
vào thị trƣờng Nhật Bản ngày càng giảm. Một trong những nguyên nhân là do
các doanh nghiệp ngày càng nỗ lực đa dạng hóa sản phẩm, đầu tƣ và các sản
phẩm giá trị gia tăng. Vấn đề về dƣ lƣợng kháng sinh cũng gây ảnh hƣởng
khá lớn đối với mặt hàng này khi nhập vào thị trƣờng Nhật Bản.
- Thị trƣờng Mỹ: là một trong những thị trƣờng nhập khẩu thuỷ sản hàng
đầu của Việt Nam. Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ ngày
một đa dạng, nhất là tôm đông lạnh, các sản phẩm tƣơi sống nhƣ cá ngừ, cá thu và
cua. Cá tra, basa phi lê đông lạnh là mặt hàng độc đáo của Việt Nam tại thị trƣờng
Mỹ. Năm 2007, Mỹ đã tiêu thụ gần 100.000 tấn thuỷ sản của ta, trị giá trên 720,5
triệu USD, chiếm 20,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ. Trong 10 tháng đầu năm
2008, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ đạt 624 triệu USD [20].
Mặt hàng xuất sang Mỹ tính theo giá trị nhiều nhất vẫn là tôm đông
lạnh, năm 2007 đạt 466 triệu USD, chiếm 71,2% kim ngạch xuất khẩu. Việt
nam hiện đứng thứ 9 trong số các nƣớc xuất khẩu tôm vào Mỹ. Ngoài mặt
hàng tôm, cá đông lạnh cũng đang đƣợc xuất khẩu sang thị trƣờng Mỹ với số
lƣợng ngày càng tăng, đạt 15,3% kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm xuất
khẩu có giá trị cao là cá tra, cá ba sa, cá ngừ, mực đông lạnh, mực khô và các
mặt hàng giá trị gia tăng.
Nhìn chung, thị trƣờng Mỹ có sức tiêu thụ lớn và các kênh phân phối
mang tính chuyên nghiệp và hiệu quả cao, có thể giúp các doanh nghiệp xuất
khẩu thủy sản Việt Nam xuất khẩu với khối lƣợng hàng hóa có giá trị lớn.
- Thị trƣờng EU: là thị trƣờng có nhu cầu lớn và ổn định về hàng thuỷ
sản, nhƣng lại là thị trƣờng đƣợc coi là có yêu cầu cao nhất đối với sản phẩm
nhập khẩu, với các quy định khắt khe về chất lƣợng và an toàn vệ sinh. Xuất
khẩu thuỷ sản sang thị trƣờng EU đã có sự tăng trƣởng liên tục và có những
biến đổi về chất lƣợng kể từ năm 2004 đến nay.
Kim ngạch xuất khẩu trên thị trƣờng này có khuynh hƣớng tăng qua
các năm. Từ kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 74,7 triệu vào năm 1997 đã tăng lên
52
đến 908 triệu USD vào năm 2007, vƣơn lên vị trí dẫn đầu, là thị trƣờng tiêu
thụ thủy sản xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trong 10 tháng đầu năm 2008,
kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng này đạt mức 970 triệu USD, chiếm 25,3
tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nƣớc. Trong các nƣớc EU, Bỉ, Ý, Đức,
Hà Lan, Pháp, Ba Lan là những thị trƣờng chủ yếu tiêu thụ thủy sản Việt
Nam.
Nếu nhƣ tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trƣờng Nhật và
Mỹ thì ở EU, ngoài tôm là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất, cá,
bạch tuộc và mực cũng đƣợc tiêu thụ khá mạnh. Trong những năm qua, Việt
Nam chủ yếu xuất khẩu sang thị trƣờng EU các sản phẩm nhuyễn thể chân
đầu (bạch tuộc các cỡ, mực ống, mực nang đông lạnh...), cá đông lạnh (đặc
biệt là cá ngừ), tôm đông lạnh và một số hải sản khác.
Nhu cầu trên thị trƣờng EU đa dạng, sức mua lớn, giá cả lại hấp dẫn...
nên triển vọng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trƣờng này rất lớn.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải đảm bảo chất lƣợng sản phẩm và các biện
pháp kiểm soát chất lƣợng để đáp ứng những quy định rất nghiêm ngặt và các
chế tài nghiêm khắc khi thâm nhập vào thị trƣờng này.
- Thị trƣờng Trung Quốc và Hồng Kông: là những thị trƣờng nhập
khẩu thuỷ sản trung bình trên thế giới. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào
thị trƣờng này chủ yếu vẫn là mua bán qua biên giới, quy mô của các đơn vị
nhập khẩu rất nhỏ nên chỉ phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là
thị trƣờng lớn, có tiềm năng song cạnh tranh ngày càng phức tạp, giá sản
phẩm có xu hƣớng giảm và khả năng tăng hiệu quả là khó khăn. Trong tƣơng
lai, Trung Quốc sẽ là thị trƣờng tiêu thụ thuỷ sản hàng đầu của khu vực châu
á, với đặc điểm tiêu thụ của thị trƣờng này là vừa tiêu thụ cho dân cƣ bản địa,
vừa là thị trƣờng tái chế và tái xuất.
Giai đoạn 2001-2004 là thời kỳ sa sút nghiêm trọng về nhập khẩu thuỷ
sản của Việt Nam, chủ yếu do Chính phủ Trung Quốc thay đổi phƣơng thức
53
thanh toán và quản lý ngoại hối và áp dụng một số quy định về kiểm dịch và
quản lý chất lƣợng. Từ năm 2005 đến nay, nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam của
khối này đã có bƣớc phục hồi nhƣng chậm, tăng dần nhập khẩu chủ yếu từ thị
trƣờng Hồng Kông. Năm 2007, Trung Quốc- Hồng Kông đã nhập 45,8 nghìn
tấn thuỷ sản, trị giá 152,7 triệu USD, chiếm 4,3% tổng giá trị xuất khẩu [20].
(Hồng Kông nhập khẩu chủ yếu là các mặt hàng tôm, cá, mực đông lạnh có
giá trị cao, còn thị trƣờng Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu mực khô, cá khô, cá
muối và gần đây là các loại cua biển tƣơi sống.
Hiện nay, hoạt động xuất khẩu thủy sản sang thị trƣờng Trung quốc
cũng đã phát sinh những khó khăn vƣớng mắc, ví dụ nhƣ phƣơng thức giao
hàng và thanh toán còn nhiều rủi ro, vận chuyển khó khăn, chi phí vận chuyển
bằng đƣờng bộ cao, cơ sở hạ tầng chƣa đáp ứng tốt yêu cầu bảo quản hàng
hóa, các yêu cầu về ghi nhãn, bao gói và chứng nhận kiểm dịch cũng gây ra
nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
- Thị trƣờng ASEAN
Các nƣớc ASEAN chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam và tỷ trọng này có khuynh hƣớng
giảm dần, từ 8,2% vào năm 1998 xuống còn 3,2% năm 2003 và 4,2% vào
năm 2007 (theo bảng 10). Thị trƣờng ASEAN không có những biến động lớn
do các nƣớc trong khu vực cũng có khả năng khai thác nuôi trồng thủy sản để
đáp ứng nhu cầu trong nƣớc. Thủy sản nhập khẩu chủ yếu đƣợc sử dụng làm
nguyên liệu cho ngành chế biến trong nƣớc. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu
sang thị trƣờng này đạt 163 triệu USD, với khối lƣợng 61.000 tấn. Sản lƣợng
tăng lên chủ yếu nhờ vào việc xuất khẩu cá đông lạnh và hàng khô.
Trong khối ASEAN, Thái lan và Singapore là hai nƣớc nhập khẩu
nhiều thủy sản Việt Nam nhất, tập trung là tôm, cá, mực đông lạnh với kim
ngạch khoảng từ 25-30 triệu USD/năm [20].
- Các thị trƣờng khác: các thị trƣờng khác thuộc châu á đƣợc quan
54
tâm ngày một nhiều hơn, nhất là Hàn Quốc. Thị trƣờng này có sự tăng trƣởng
ổn định, giữ ở mức cao trên 20%/tháng , có ý nghĩa quan trọng về đầu ra đối
với thuỷ sản Việt Nam bởi khả năng đáp ứng các mặt hàng có phẩm cấp, khối
lƣợng vừa phải và đa dạng của doanh nghiệp Việt Nam. Chủ yếu nhập khẩu
cá biển, mực, bạch tuộc. Thị trƣờng chƣa có rào cản nào đáng kể.
+ Úc, Đài Loan: xuất khẩu sang các thị trƣờng này vẫn có sự tăng
trƣởng tuy nhịp độ không đều.
+ Thị trƣờng Đông Âu: mặc dù kim ngạch xuất khẩu còn chƣa cao
nhƣng đây cũng là một thị trƣờng xuất khẩu thuỷ sản tiềm năng. Nga cũng đã
có những bƣớc tiến rất dài trong nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Tóm lại, trong thời gian qua, xuất khẩu thủy sản Việt nam đã đạt bƣớc
phát triển đáng kể, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, các mặt hàng
xuất khẩu thủy sản chuyển từ quy mô sản xuất nhỏ sang quy mô sản xuất lớn.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng hơn, hàm lƣợng chế biến cao
hơn. Các doanh nghiệp thủy sản đã cố gắng sử dụng hiệu quả các yếu tố sản
xuất với điều kiện đặc thù của ngành, tối đa hóa hiệu quả đầu tƣ thông qua
việc khai thác công nghệ mới trong chuỗi các hoạt động liên quan đến xuất
khẩu thủy sản.
Tuy nhiên, sự phát triển của các hoạt động xuất khẩu thủy sản chƣa
tƣơng xứng với tiềm năng, bộc lộ những dấu hiệu phát triển chƣa bền vững và
chƣa hiệu quả, do đó, cần phải có nhiều giải pháp để nâng cao tính cạnh tranh
của các mặt hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam trên thị trƣờng thế giới.
2.3. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA NGÀNH XUẤT KHẨU
NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM
2.3.1. Thành tựu
Nhìn chung, xuất khẩu nông thủy sản Việt Nam ra thị trƣờng thế giới
đã đạt đƣợc nhiều thành tích đáng kể, giá trị kim ngạch xuất khẩu nông thuỷ
sản ngày càng cao, đƣa ngành nông thủy sản trở thành một trong những ngành
55
kinh tế trọng điểm trong chiến lƣợc phát triển quốc gia.
Áp lực cạnh tranh giúp cho các sản phẩm nông thủy sản của ta có cơ
hội cọ sát với những thách thức để rút ra nhiều bài học kinh nghiệm trong
hoạt động thƣơng mại quốc tế, vƣợt qua các rào cản về thƣơng mại quốc tế để
sản phẩm nông thủy sản ngày càng có thể đứng vững trên thị trƣờng thế giới.
Bên cạnh đó, hàng nông sản, thủy sản Việt Nam với cơ cấu hàng hóa đa
dạng, phong phú, nguồn hàng dồi dào và đƣợc ƣa thích trên thị trƣờng thế
giới, Việt nam đã đạt đƣợc một số ƣu thế trong phát triển các mặt hàng nông
thuỷ sản xuất khẩu chủ lực, có khả năng cạnh tranh với các cƣờng quốc xuất
khẩu nông thủy sản lớn của thế giới nhƣ Trung Quốc, Thái Lan...
Xuất khẩu nông thủy sản đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất, áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật để đạt hiệu quả sản xuất tăng liên tục, góp phần nâng cao trình
độ nền sản xuất hàng hóa trên cơ sở khai thác tốt lợi thế so sánh của các mặt
hàng xuất khẩu nông thủy sản của Việt nam.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc và những thành tích cao, xuất
khẩu nông thủy sản Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những hạn chế.
Nông thuỷ sản Việt Nam vẫn trong tình trạng phát triển thiếu bền vững,
với các biểu hiện nhƣ liên tục biến động về giá, sản lƣợng, chất lƣợng sản
phẩm không đồng nhất, môi trƣờng nƣớc xuống cấp vì ô nhiễm.
Chất lƣợng nông thủy sản xuất khẩu chƣa đáp ứng yêu cầu của các thị
trƣờng mục tiêu và chƣa ổn định, chủ yếu là do sản phẩm xuất khẩu đơn điệu,
giá trị gia tăng thấp, hàm lƣợng chế biến chƣa cao, chƣa đáp ứng tốt các tiêu
chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chƣa xây dựng hệ thống liên kết dọc và liên kết ngang giữa các mắt
xích trong chuỗi cung ứng nông thủy sản xuất khẩu, thiếu một mô hình quản
56
lý vùng nuôi phù hợp, chƣa xây dựng chuỗi thu mua nguyên liệu nông thủy
sản. Hoạt động phát triển nông thủy sản hƣớng về xuất khẩu tại các vùng chƣa
đƣợc điều hành một cách linh họat và hiệu quả.
Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chƣa chú trọng nhiều đến công tác xúc
tiến thƣơng mại, xây dựng kênh phân phối riêng và trực tiếp đƣa đến tận tay
ngƣời tiêu dùng, chƣa chủ động đăng ký, xây dựng thƣơng hiệu, nhãn hiệu
riêng. Hoạt động marketing còn rất ít. Chính vì vậy, trên thị trƣờng nƣớc
ngoài, nhiều mặt hàng xuất khẩu nông thủy sản của Việt Nam còn bị gắn mác
của các nƣớc khác nhƣ Thái Lan, ngƣời tiêu dùng địa phƣơng ít biết đến sản
phẩm của Việt Nam do các mặt hàng này chủ yếu đƣợc ký hợp đồng và bán
lại cho các nhà phân phối để chia sẻ lợi nhuận.
Nhiều doanh nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ, chủng loại hàng hóa
nhiều nhƣng mỗi loại lại không đáng bao nhiêu. Do nguồn nguyên liệu không
ổn định nên khả năng giao hàng không thật chắc chắn. Điều này khiến cho
việc tiếp thị bán hàng gặp khó khăn, ít doanh nghiệp tiếp cận đƣợc với các
nhà mua hàng cỡ lớn, hàng hóa chƣa đƣợc đƣa trực tiếp vào chuỗi phân phối
ở các nƣớc nhập khẩu.
Công tác dự báo vẫn còn nhiều hạn chế, chƣa xác định khả năng các
diễn biến có thể xảy ra và dự đoán đƣợc trƣớc xu hƣớng thị trƣờng.
Nhƣ vậy, năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu
của Việt Nam nếu chỉ chủ yếu dựa vào nguồn lợi về điều kiện tự nhiên, chi
phí lao động thấp mà không có chiến lƣợc phát triển đúng đắn và những biện
pháp mang tính chuyên nghiệp, bền vững nhƣ kiểm tra chất lƣợng ngay từ
khâu chọn giống, nuôi trồng, chế biến, xây dựng chiến lƣợc marketing hiệu
quả, đẩy mạnh xúc tiến thƣơng mại, xây dựng thƣơng hiệu... thì sẽ không đủ
sức mạnh so với những sản phẩm nông thủy sản xuất khẩu của các nƣớc khác
57
trên thế giới.
2.4. PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
THUỶ SẢN RA NƢỚC NGOÀI THÔNG QUA MA TRẬN SWTO
Nhƣ đã nêu trong chƣơng 1, vai trò của các DNN&V là rất lớn khi có
tới gần 97% các doanh nghiệp ở nƣớc ta là DNN&V. Vì thế, thực trạng năng
lực cạnh tranh của các DNN&V Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu
nông thủy sản có ảnh hƣởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của toàn ngành.
Nhƣng hiện nay các DNN&V Việt Nam nói chung và các DNN&V xuất khẩu
nông thủy sản nói riêng đang phải cạnh tranh trên thị trƣờng hội nhập toàn
cầu với rất nhiều những khó khăn thách thức. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế
toàn cầu ngày càng mạnh mẽ cũng mang lại nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam. Điều đó sẽ đƣợc phân tích cụ thể trong mô hình sau về
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho những DNN&V Việt Nam.
2.4.1. Điểm mạnh
So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác đang tồn tại và hoạt động
trong nền kinh tế nhƣ các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các tổng
công ty, các công ty đa quốc gia thì DNN&V có các điểm mạnh nhƣ sau:
- Dễ khởi nghiệp, hầu hết các DNN&V đều dễ dàng có thể bắt đầu
ngay sau khi có ý tƣởng kinh doanh và một số ít vốn cũng nhƣ lao động nhất
định. Việc thành lập loại hình doanh nghiệp này gần nhƣ không đòi hỏi một
lƣợng vốn đầu tƣ lớn ngay trong giai đoạn đầu. Vì thế, tạo điều kiện thuận lợi
cho tất cả những doanh nhân, những ngƣời có ý tƣởng và khả năng kinh
doanh làm chủ chính doanh nghiệp của họ. Điều này tạo ra sự chọn lọc những
DNN&V kinh doanh và cạnh tranh tốt. Rất nhiều doanh nghiệp lớn, các công
ty đa quốc gia trên thế giới đi lên từ những DNN&V.
- Linh hoạt, vì hoạt động với quy mô nhỏ nên hầu hết các DNN&V đều
58
rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trƣờng.
Trong khi đó những sự biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý
kinh tế xã hội, hay các dao động đột biến trên thị trƣờng thƣờng tác động
mạnh mẽ lên các doanh nghiệp lớn nhiều hơn đối với các DNN&V. Trên giác
độ thƣơng mại thì nhờ tính năng động này mà các DNN&V dễ dàng tìm kiếm
thị trƣờng nghách và gia nhập thị trƣờng này khi thấy việc kinh doanh trên thị
trƣờng chính trở nên khó khăn và kém hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt quan
trọng với các nền kinh tế đang phát triển hoặc chuyển đổi nhƣ nƣớc ta.
- Lợi thế so sánh trong cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn,
DNN&V có lợi thế trong cạnh tranh đó là khả năng kết hợp và phát huy các
nguồn lực đầu vào nhƣ lao động hay tài nguyên hoặc vốn tại chỗ khi khai thác
và phát huy các nghành nghề truyền thống của từng địa phƣơng. Rất nhiều
DNN&V của Việt Nam và thế giới đã từng bƣớc trƣởng thành và lớn mạnh
khi khai thác những nguồn lực sẵn có của địa phƣơng. Việc các DNN&V xuất
khẩu nông thủy sản tận dụng nguồn nguyên liệu riêng và nguồn nhân lực sẵn
có ở địa phƣơng sẽ giảm chi phí sản xuất cho chính các DNN&V này do
không phải trả chi phí vận chuyển và chi phí lao động thấp. Điều này tạo ra sự
cạnh tranh trong giá hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp nhỏ còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong việc
theo sát nhu cầu và thị hiếu của ngƣời tiêu dùng do họ thƣờng tập trung chính
vào một mặt hàng nhất định để cung cấp cho thị trƣờng, qua đó sang tạo ra
nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của ngƣời
tiêu dùng.
- Tạo ra các tác động ngoại lai. Trên giác độ kinh tế thì DNN&V tạo ra
các tác động ngoại lai rất mạnh cả về mặt tích cực và tiêu cực. Với lợi thế
trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phƣơng đặc biệt các ngành
sử dụng nhiều lao động, DNN&V góp phần tạo ra công ăn việc làm cũng nhƣ
nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho dân cƣ địa phƣơng hoặc duy trì và
59
bảo vệ các nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, việc phát triển
các DNN&V còn có các lợi ích nhƣ giảm khoảng cách giữa ngƣời giàu và
ngƣời nghèo, giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn qua đó góp phần
làm giảm các tệ nạn xã hội và giúp Chính phủ giải quyết tốt hơn các vấn đề xã
hội khác [17].
Nhƣ vậy, qua phần phân tích trên có thể thấy tầm quan trọng của
DNN&V với nền kinh tế của nƣớc ta là rất lớn. Nếu nhƣ phát huy tốt những
điểm mạnh nổi bật của DNN&V thì sẽ tạo ra những tác động tích cực cho sự
phát triển chung của toàn nền kinh tế và sự ổn định xã hội.
2.4.2. Điểm yếu
Bên cạnh những ƣu điểm rất đặc trƣng cho loại hình DNN&V đƣợc kể
ra ở trên, các DNN&V còn có nhiều điểm yếu nhƣ:.
- Thiếu các nguồn lực để tiến hành các công trình hoặc các dự án đầu tƣ
lớn. Nguồn lực quan trọng nhất mà các DNN&V thƣờng thiếu là vốn. Do quy
mô nhỏ nên hầu hết các DNN&V không có đủ vốn để nhận các hợp đồng có
giá trị cao.
- Trình độ lao động và năng lực quản lý kinh doanh cũng là một yếu tố
gây cản trở lớn tới sự phát triển lâu dài của các DNN&V. Họ thiếu thông tin
về thị trƣờng, trình độ quản lý doanh nghiệp yếu. Đa số các doanh nghiệp vừa
và nhỏ chƣa có chiến lƣợc kinh doanh, chƣa xây dựng chƣơng trình hội nhập
khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Theo số liệu khảo sát các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên 50% số giám đốc các công ty chƣa
tham gia các lớp đào tạo quản trị kinh doanh, nhiều ngƣời trong số họ chƣa tốt
nghiệp phổ thông, trình độ tiếng Anh, sử dụng công nghệ thông tin kém, khiến tỷ
lệ doanh nghiệp bị đóng cửa khá cao, bình quân trên 10%/năm [12].
Bên cạnh đó, do không đƣợc đầu tƣ về vốn để cải tiến kỹ thuật, trình độ
lao động hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp này thƣờng lạc hậu về khoa học
60
công nghệ. Các DNN&V xuất khẩu hàng nông thủy sản còn gặp khó khăn
nhiều hơn khi việc thiếu vốn khiến cho họ không thể ký kết các hợp đồng xuất
khẩu có giá trị lớn từ nƣớc ngoài trong khi hầu hết các đơn đặt hàng nông
thủy sản có giá trị rất cao. Hơn nữa, do trình độ công nghệ sản xuất chế biến
còn lạc hậu mà nhiều lô hàng nông thủy sản xuất khẩu của các DNN&V bị từ
chối nhập khẩu hay bị ép giá do chất lƣợng không đảm bảo.
- Các DNN&V không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và ở nhiều
quốc gia nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thƣờng yếu thế hơn trong
các quan hệ với ngân hàng, với Chính phủ và giới báo chí cũng nhƣ thiếu sự
ủng hộ của công chúng. Nhiều DNN&V bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh
nghiệp lớn trong quá trình phát triển. ở Việt Nam, trong hai năm trở lại đây,
vai trò của các DNN&V đã đƣợc Chính phủ và các tổ chức kinh tế đánh giá
rất cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn khi không đƣợc
hỗ trợ vay vốn từ ngân hàng, hay các hỗ trợ chính thức từ phía chính phủ để
tạo điều kiện cho các DNN&V phát triển.
- Các DNN&V do dễ khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều rủi ro trong
kinh doanh. Kinh nghiệm ở nhiều nƣớc cho thấy càng nhiều DNN&V ra đời
thì cũng có nhiều DNN&V bị phá sản. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm
của nhiều nhà kinh tế thì DNN&V có tỷ lệ phá sản khá cao. Và các doanh
nghiệp do nam giới quản lý thƣờng có tỷ lệ thất bại cao hơn các doanh nghiệp
đƣợc điều hành và quản lý bởi các doanh nhân nữ. Bên cạnh các tác động ngoại
lai tích cực thì DNN&V cũng gây ra không ít các ảnh hƣởng ngoại lai tiêu cực
trong nền kinh tế nhƣ do ít vốn, hầu hết các doanh nghiệp này không quan tâm
đầy đủ đến việc bảo vệ môi trƣờng hoặc khi nhiều DNN&V bị phá sản do hoạt
động không hiệu quả thì gây ra sự thiếu tin tƣởng của dân chúng đối với loại
hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho ngƣời tiêu dùng khi lựa chọn các sản
phẩm tiêu dùng cũng nhƣ các nhà cung cấp dịch vụ. Điều này đã làm giảm uy
61
tín của loại hình DNN&V đối với công chúng và ngƣời lao động [12].
Nhìn chung, các DNN&V Việt Nam nói chung và các DNN&V xuất
khẩu hàng nông thủy sản nói riêng còn yếu kém về nhiều mặt: Vốn, trình độ
lao động, trình độ quản lý kinh doanh, tiến bộ công nghệ …Vì thế, Chính phủ
cần có những chƣơng trình hỗ trợ các doanh nghiệp này cải thiện những điểm
yếu cản trở sự phát triển của khu vực DNN&V.
2.4.3. Cơ hội
Theo một nghiên cứu mới đây do ngân hàng Thƣợng Hải Hồng Kông
(HSBC) tiến hành [12], các DNN&V Việt Nam lạc quan nhất về tƣơng lai.
Khảo sát đƣợc tiến hành trên 2.700 DNN&V tại Hồng Kông, Trung Quốc,
Đài Loan, Singapore, Ấn Độ, Việt Nam, Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia.
Mặc dù lo ngại về sự suy thoái kinh tế Mỹ, các DNN&V Việt Nam vẫn đứng
đầu về sự lạc quan với kỳ vọng về tăng trƣởng kinh tế và kế hoạch của họ để
tăng chi tiêu vốn trong vòng 6 tháng đầu năm 2008. Hầu hết các doanh nghiệp
cho rằng họ có kế hoạch để thuê thêm nhân công và tăng xuất khẩu, chủ yếu
tới các nƣớc Châu Á khác. Đó là do các DNN&V Việt Nam lạc quan về
những cơ hội mà họ có thể tận dụng đƣợc.
Các cơ hội cho DNN&V Việt Nam phát triển chủ yếu là những cơ hội
đến từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các tác động tiêu cực gây ra mối đe
dọa cho các phƣơng thức kinh doanh lâu năm và truyền thống nhƣng lại đƣợc
bù đắp nhiều hơn bằng các cơ hội và tác động tích cực mà việc gia nhập WTO
đem lại cho các doanh nghiệp. Gia nhập WTO đƣợc mong muốn sẽ cùng có
lợi cho tất cả các bên, những lợi ích và cơ hội này cũng đƣợc mong đợi cho
các DNN&V, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu nông thủy sản nhƣ sau:
- Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có hành lang pháp lý đầy đủ và thuận
lợi hơn để phát triển. Thật vậy, Việt Nam phải hoàn thiện khung khổ pháp lý
phù hợp với cam kết hội nhập và các chuẩn mực kinh tế thị trƣờng khi gia
nhập WTO. Việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi tính chuyên nghiệp, minh bạch
62
và khả năng giải trình của bộ máy nhà nƣớc cùng với các nỗ lực cải cách hành
chính, cải cách doanh nghiệp trong nƣớc, minh bạch hóa toàn bộ các chính
sách liên quan đến thƣơng mại, hoàn thiện các thị trƣờng yếu tố sản xuất (thị
trƣờng tài chính, thị trƣờng đất đai, và thị trƣờng lao động…). Những yêu cầu
này chính là động lực cải cách nội tại nền kinh tế, hƣớng tới môi trƣờng đầu
tƣ kinh doanh thuận lợi với hệ thống pháp lý minh bạch, phù hợp với thông lệ
quốc tế, chính trị xã hội ổn định, những yếu tố quan trọng nhất cho sự phát
triển bền vững của doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế và đặc biệt có ý
nghĩa với các DNN&V còn non yếu ở nhiều khía cạnh.
Việc đơn giản hóa 3 thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
cấp mã số thuế và các giấy phép khắc giấu có tác động tích cực đối với các
doanh nghiệp mới. Nhiều doanh nghiệp tán thành việc xóa bỏ hoàn toàn việc
cấp giấy phép khắc giấu.Việc tiến tới cơ chế một cửa cho đăng ký kinh doanh
và giảm thời gian để xử lý 3 thủ tục này từ 30 ngày xuống 15 ngày đối với
việc thành lập doanh nghiệp mới và xuống 12 ngày đối với việc thành lập một
chi nhánh thực sự rất có ý nghĩa. Số lần phải đến cơ quan hành chính để tiến
hành các thủ tục này và thời gian cấp mã số thuế đã giảm đi một nửa. Thủ tục
kê khai và nộp thuế cũng đã đƣợc hoàn thiện và đơn giản hơn cho ngƣời nộp
thuế. Việc đơn giản hóa các thủ tục chính thức thành lập một doanh nghiệp
giúp đƣa ra một cơ sở kinh doanh nhỏ phi chính thức vào khu vực chính thức,
khuyến khích việc hoạt động kinh doanh theo pháp luật. Cơ chế "một cửa" ở
các ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất; hoàn thiện cơ chế đăng ký
kinh doanh; hoàn thiện thủ tục hải quan, thủ tục nộp thuế... đã giúp cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm chi phí thời gian và tiền bạc, nhờ đó mà tăng
năng lực cạnh tranh.
- Thay đổi tích cực khác sẽ trợ giúp cho việc thành lập và quản trị các
DNN&V theo khuôn khổ pháp luật (Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tƣ năm
2005). Các thủ tục xuất nhập khẩu đƣợc đơn giản hóa. Có thêm nhiều cơ hội
63
cho việc tiếp cận thị trƣờng, học hỏi, hợp tác quốc tế, tiếp cận công nghệ, bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ tốt hơn, chất lƣợng và uy tín của các sản phẩm sản
xuất tại Việt Nam đƣợc cải thiện.
- Việc mở cửa dịch vụ bƣu chính viễn thông sẽ có tác động rất tích cực
đến các DNN&V Việt Nam, cho phép các doanh nghiệp từ nhỏ cạnh tranh
trên toàn cầu nhờ internet và thƣơng mại trực tuyến. Việc tiếp cận internet
băng thông rộng đang đƣợc thử nghiệm ở nông thôn và vùng xa ở Việt Nam,
những nơi bắt đầu có điện thoại cố định từ năm 2004 và mới đƣợc kết nối với
mạng lƣới điện khu vực từ năm 2005 [12].
- Mạng liên kết và các hiệp hội rất quan trọng đối với sự phát triển và
tăng trƣởng của các DNN&V, đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, tiếp cận
thông tin và thông tin và thị trƣờng, đồng thời là tiếng nói của các DNN&V
tới các cơ quan chức năng. Sự trợ giúp của các hội nghề nghiệp và mối liên hệ
với các phòng thƣơng mại nƣớc ngoài ngày càng tăng đang giúp tạo ra một hệ
thống trợ giúp cho các DNN&V.
Các hiệp hội kinh doanh cũng đƣa ra các khóa đào tạo, các thông tin
cũng nhƣ mối liên hệ với thị trƣờng xuất khẩu. Khi yêu cầu về chất lƣợng, sự
ổn định và phân phối có tính phụ thuộc tăng, tiêu chuẩn tổng thể cho sản
phẩm và dịch vụ đƣợc cải thiện và cuối cùng, các DNN&V còn tồn tại sẽ có
xu hƣớng mạnh hơn, thành công và chuyên nghiệp hơn. Có những DNN&V
tăng trƣởng nhanh, tạo ra thêm nhiều cơ hội nghề nghiệp và cơ hội cho các
DNN&V khác.
- Việc Việt Nam giảm thuế và các nghĩa vụ nhập khẩu đối với các sản
phẩm nhƣ máy móc, thiết bị, ô tô sẽ tạo điều kiện giúp DNN&V hƣớng tới
nâng cao hiệu quả nhờ đƣợc cung cấp nguồn lực tốt hơn. Nhƣợng quyền
thƣơng hiệu cũng giúp các doanh nghiệp nhỏ tăng cƣờng nhờ việc giới thiệu
và đào tạo kỹ năng quản lý, marketing, kỹ năng kế toán, tạo việc làm và tiêu
64
chuẩn dịch vụ.
- Cùng với tiến trình hội nhập, thuế nhập khẩu và các rào cản phi thuế
quan giảm. Việt Nam đƣợc hƣởng MFN tại 164 nƣớc trên thế giới nên nhiều
ngành hàng, mặt hàng đƣợc miễn giảm thuế, xóa bỏ hạn ngạch. Đây chính là
nguyên nhân cơ bản tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ; sự cạnh tranh trên thị trƣờng tăng, tạo động lực thúc đẩy
các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đầu tƣ đổi mới công nghệ, nâng cao
chất lƣợng sản phẩm, hạ chi phí để nâng cao sức cạnh tranh.
- Trở thành thành viên chính thức của WTO, các DNN&V của Việt
Nam có lợi hơn trong các tranh chấp thƣơng mại do tiếp cận đƣợc hệ thống
giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các
nƣớc lớn gây sức ép trong các tranh chấp thƣơng mại quốc tế. Gia nhập WTO
cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam không bị đối xử nhƣ các
doanh nghiệp đến từ một nền kinh tế phi thị trƣờng (NME) trong các vụ tranh
chấp thƣơng mại nhƣ trƣớc đây.
- Việc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trƣờng dịch vụ góp phần
kéo theo một làn sóng đầu tƣ nƣớc ngoài vào nhiều ngành kinh tế dịch vụ,
theo đó đem lại những lợi ích lan tỏa cho nền kinh tế mà các doanh nghiệp
hoạt động trong đó cũng đƣợc hƣởng lợi nhƣ: tạo động lực tăng trƣởng sản
xuất công nghiệp, tác động mạnh mẽ tới tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu,
góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động,
sáng tạo, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đầu tƣ nghiên cứu và phát triển.
Năm 2007, năm đầu tiên sau khi gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài tăng nhanh.
- Mở cửa thƣơng mại gắn liền với tiến trình toàn cầu hóa bởi nó tạo ra
sự gắn kết giữa nền kinh tế trong nƣớc với thị trƣờng toàn cầu cả ở phía đầu
vào lẫn đầu ra. Cùng với sự phát triển của cách mạng thông tin và công nghệ
cao, giảm bớt các rào cản thƣơng mại và sự ra tăng lƣu chuyển vốn trên toàn
65
cầu, các DNN&V sẽ có những cơ hội mà trƣớc đây họ không thể có, đặc biệt
là tiếp xúc với các xu hƣớng tiêu thụ mới và phân công lao động trên diện
rộng với chi phí sản xuất thấp và kỹ thuật tiên tiến.
Phần phân tích trên cho thấy các DNN&V, đặc biệt là với những doanh
nghiệp xuất khẩu có đƣợc rất nhiều cơ hội từ tác động tích cực của việc Việt
Nam gia nhập WTO . Bên cạnh đó, các DNN&V nƣớc ta đang ngày càng
đƣợc Chính phủ quan tâm và tạo điều kiện phát triển. Đặc biệt trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 2008 đến nay, các DNN&V là
đối tƣợng chính trong giải pháp hỗ trợ vay vốn ƣu đãi cho các doanh nghiệp,
nằm trong gói các biện pháp kích cầu của chính phủ.
2.4.4. Thách thức
Bên cạnh những lợi ích nêu trên, DNN&V thƣờng gặp phải khó khăn
nhất định trong quá trình tham gia hội nhập. Đặc biệt trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, Những thách thức với các DNN&V còn lớn
hơn rất nhiều.
- Chính sách vĩ mô nhƣ chính sách tiền tệ, tài khóa bảo đảm một môi
trƣờng kinh tế vĩ mô ổn định (bao gồm giá cả hàng hóa dịch vụ, lãi suất và tỷ
giá hối đoái linh hoạt, phản ánh đúng cung cầu thị trƣờng…) là những điều
kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp phát triển ổn định. Hiện nay các
DNN&V đang gặp khó khăn trong tiếp cận vốn từ khu vực tài chính chính
thức-theo bộ kế hoạch và đầu tƣ, chỉ có 32,4% DNN&V đủ điều kiện để vay
từ các ngân hàng chính thức [12]. Do vậy họ phải có đƣợc tài chính từ các
nguồn khác để cạnh tranh. Trong thời điểm khủng hoảng kinh tế trầm trọng
nhƣ hiện nay, biện pháp hỗ trợ cho vay vốn với lãi suất ƣu đãi của Chính phủ
đƣợc coi là một biện pháp hữu hiệu để cứu trợ các doanh nghiệp trong thời
điểm khó khăn hiện nay, mà DNN&V là đối tƣợng trợ giúp chính. Tuy nhiên,
nhiều DNN&V không thể tiếp cận với nguồn vốn này do thời hạn cho vay
66
vốn chỉ kéo dài 8 tháng và nhiều DNN&V không đủ khả năng trả nợ quá hạn
khi thời hạn cho vay đã kết thúc. Vì thế, đây lại là một thách thức lớn với các
DNN&V trong việc chống chọi với cơn khủng hoảng hiện nay.
- Khi Việt Nam tham gia nhiều hơn vào quá trình toàn cầu hóa sau khi
trở thành thành viên WTO, nền kinh tế sẽ chịu ảnh hƣởng nhiều hơn từ các
biến cố của nền kinh tế thế giới. Theo truyền thống đồng Việt Nam đƣợc gắn
chặt với đô la Mỹ, nhƣng sự tăng giảm của đồng đô la Mỹ khiến chính phủ
phải mở rộng sự kiềm tỏa để tạo điều kiện sho sự giao dịch giữa đồng và đô
la. Các nhà xuất khẩu Việt Nam đang nhận thấy những áp lực khiến thu nhập
thấp hơn do đô la tăng giảm. Nỗi lo sợ về lạm phát cũng đe dọa sự phát triển
bền vững của khu vực DNN&V [2].
- Do quy mô nhỏ và chƣa có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh, các
DNN&V thậm chí còn bị nhiều tác động hơn từ những vấn đề nhƣ dòng vốn
và chính sách tiền tệ. Nhƣ đã đƣợc đề cập trong báo cáo của Đặng đức anh,
thƣơng mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực năng động nhất của nền kinh tế
Việt Nam
- Môi trƣờng kinh doanh của Việt Nam đã cải thiện nhiều, nhƣng chƣa
nhanh, chƣa thực sự mang tính cách mạng và chƣa thực sự phù hợp với thông
lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo xếp hạng của "Doing Business - 2007" - một tổ
chức có uy tín, Việt Nam xếp hạng 104/175 nƣớc tham gia khảo sát, tụt 6 bậc
so với năm 2006; ở hàng năng lực cạnh tranh tụt 3 bậc, đứng thứ 132 trên thế
giới. Ngày 15-12-2007, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ở hội thảo về "Đánh giá
sự tác động của WTO đến nền kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập", đa số
các chuyên gia cho rằng, sự thay đổi cơ chế quản lý chƣa đáp ứng yêu cầu hội
nhập WTO, cơ cấu và phƣơng thức phân bổ các nguồn lực chƣa hiệu quả. Do
đó chƣa tác động mạnh nhằm mang lại những thay đổi lớn cho sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng
[24].
- Sự phát triển năng động của doanh nghiệp thƣờng phải dựa trên cơ sở
67
gắn kết lợi thế so sánh về chi phí cùng việc nâng cao khả năng cạnh tranh về
chất đƣợc nhìn nhận trong tổng thể những biến động về môi trƣờng kinh tế vĩ
mô, thị trƣờng bạn hàng, đối thủ cạnh tranh và công nghệ. Trên những lĩnh
vực này, các DNN&V Việt Nam thƣờng có nhiều yếu kém đặc biệt là do thiếu
thông tin. Các DNN&V này chƣa nhận diện rõ cơ hội và thách thức do hội
nhập kinh tế quốc tế và WTO mang lại, do vậy chƣa xây dựng cho mình chiến
lƣợc kinh doanh phù hợp. Tăng cƣờng khả năng cập nhập thông tin sẽ tạo
điều kiện cho các DNN&V trở nên năng động hơn cho các hoạt động tác
nghiệp của mình.
- Thiếu hiểu biết về kiến thức kinh tế, pháp luật quốc gia và quốc tế,
đặc biệt là các luật giao dịch của thƣơng mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập
cùng những cơ hội và thách thức đặt ra cũng sẽ làm giảm rất nhiều khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để làm đƣợc việc này cần có sự phối hợp
chủ động, đồng bộ của các Bộ ngành và sự tham gia tích cực của các doanh
nghiệp vào tiến trình tuyên truyền, tìm hiểu các kiến thức liên quan.
- Việc Việt Nam chƣa đƣợc thừa nhận có nền kinh tế thị trƣờng. Theo
cam kết khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế phi thị
trƣờng cho đến năm 2018. Điều này đã tác động đến khả năng tự vệ, chống bị
kiện phá giá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong hoạt động
thƣơng mại quốc tế. Các DNN&V Việt Nam sẽ thƣờng xuyên gặp phải tranh
chấp trong thƣơng mại quốc tế và luôn ở thế yếu hơn.
- Hệ thống ngân hàng ở các nƣớc Mỹ, EU, Nhật Bản hay Hàn Quốc
đều đang có vấn đề về khả năng thanh khoản, do đó việc cho vay và bảo lãnh
tín dụng cho các nhà nhập khẩu bị thu hẹp. Thậm chí, nhiều ngân hàng chƣa
đến mức khó khăn, nhƣng do niềm tin bị suy giảm hoặc vì mục tiêu thu hồi
bớt các khoản vay nên cũng hạn chế cho vay, bảo lãnh nhập khẩu.
- Thực hiện các cam kết WTO cũng có nghĩa là doanh nghiệp không
đƣợc nhà nƣớc bao cấp vì phải bỏ những loại trợ cấp, hỗ trợ trái quy định của
WTO. Theo cam kết WTO, Việt Nam bỏ tài trợ trực tiếp đối với hoạt động
68
xuất khẩu (tài trợ đèn đỏ). Điều này sẽ ảnh hƣởng nhất định đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ khi tham gia xuất khẩu hàng hóa ra thị trƣờng khu vực và
thế giới.
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, theo cam kết WTO, Việt Nam phải bãi
bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa ngay khi gia nhập [7].
Các DNN&V trong lĩnh vực nông nghiệp để gia nhập đƣợc thị trƣờng nƣớc
ngoài phải đáp ứng các quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm
chứng chỉ “nông sản an toàn” hay “nông nghiệp tốt” GAP, các quy định về
chất lƣợng: chững chỉ về giống (không thuộc loại giống có biến đổi gen), về
chất lƣợng sản phẩm( hàm lƣợng protein, vitamin, chống lão hóa…), đồng bộ
về kích cỡ, màu sắc…; đảm bảo các yêu cầu số lƣợng, khả năng giao hàng và
các yêu cầu tổ chức lại sản xuất, đồng ruộng theo hƣớng chuyên môn hóa,
liên hiệp, hợp tác để giảm giá thành sản phẩm, đảm bảo có thể cạnh tranh về
giá cả.
Trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, hàng hóa cũng phải đáp ứng những
tiêu chuẩn nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm nhƣ: dƣ lƣợng chất
kháng sinh và những tiêu chuẩn khắt khe khác về chất lƣợng sản phẩm nhƣ:
hàm lƣợng protein, chất đạm, chất bảo quản thực phẩm… Đây rõ ràng là một
thách thức lớn đối với các DNN&V hoạt động trong lĩnh vực nông thủy sản,
đặc biệt trong bối cảnh nền sản xuất nông nghiệp và thủy sản Việt Nam còn
phân tán, năng suất và chất lƣợng chế biến thấp.
DNN&V nƣớc ta đang đứng trƣớc những bƣớc phát triển mới về hội
nhập đòi hỏi các doanh nghiệp, chủ thể của quá trình này, phải chủ động nắm
bắt, nhận biết về yêu cầu của quá trình này và phải chủ động nâng cao năng
lực cạnh tranh và hội nhập. Các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh quốc tế,
nền kinh tế có khả năng cạnh tranh, quốc gia sẽ đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng
cao, tạo thêm việc làm và thu nhập, trình độ khoa học công nghệ đƣợc nâng
69
cao, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện. Ngƣợc lại, chậm hoặc mơ hồ với áp
lực của hội nhập khiến cho các doanh nghiệp phải chuyển hƣớng sản xuất,
70
thậm chí giải thể hay phá sản dẫn đến sự rối ren chung cho toàn xã hội.
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CHIẾN
LƢỢC DÀI HẠN CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA CỦA VIỆT NAM NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
CÁC MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN RA NƢỚC NGOÀI
3.1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XUẤT KHẨU
CÁC MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM
3.1.1. Xuất khẩu nông sản
3.1.1.1. Thuận lợi
- Khả năng mở rộng thị trƣờng xuất khẩu hàng nông sản cao. Mở rộng
thị trƣờng là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu của quá trình
chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hóa. Bên
cạnh việc coi trọng thị trƣờng trong nƣớc, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản đƣợc
coi là một trong những định hƣớng chiến lƣợc của phát triển nông nghiệp Việt
Nam thâm nhập thị trƣờng quốc tế. Quá trình đó cũng tạo nên sức ép hữu hình
thúc đẩy đổi mới quá trình sản xuất, ứng dụng những thành tựu mới của khoa
học và công nghệ để phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tài nguyên
sinh học đa dạng và nguồn nhân lực dồi dào của nông thôn Việt Nam [4].
- Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nƣớc ta rất thuận lợi cho
việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả. Trong thời
gian này nhiều nƣớc khác không thể trồng trọt đƣợc gì, nhƣng nhu cầu tiêu thị
ở đó lại lớn. Các đối thủ cạnh tranh nhƣ: Thái Lan, Philippin lại kém thế hơn
so với Việt Nam [18].
- Một số nông sản đƣợc các nƣớc trên thế giới ƣa chuộng nhƣ: nhãn,
điều, dứa, lạc…lại có thể trồng đƣợc ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi
71
trọc hay trên đất phèn, mặn, trên đất cát hoặc xen canh gối vụ mà không bị
các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn những khả năng mở
rộng sản xuất.
- Một số thị trƣờng nhƣ Châu Phi, các nƣớc Trung Đông, Cuba, Nga và
các nƣớc Đông Âu có nhu cầu lớn về sản phẩm gạo, cao su, hạt tiêu, hạt điều,
cà phê, rau quả…đồng thời đây cũng là những thị trƣờng đƣợc coi là truyền
thống và tƣơng đối dễ tính phù hợp với hàng nông sản thực phẩm của Việt
Nam [15].
- Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thƣơng mại sẽ làm cho giá
nhập khẩu các tƣ liệu sản xuất rẻ hơn, tức là hạ giá thành sản xuất và chế biến
các loại hàng nông sản trong nƣớc- tạo thêm ƣu thế cạnh tranh.
- Thể chế kinh tế chính trị luôn ổn định, môi trƣờng đầu tƣ và hệ thống
pháp luật của Việt Nam ngày càng đƣợc cải thiện.
- Sản xuất nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động. Trong khi đó,
giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nƣớc trong khu vực.
3.1.1.2. Khó khăn
- Nƣớc ta vẫn là một nƣớc nghèo và kém phát triển, tốc độ tăng trƣởng
kinh tế chậm, hiệu quả kinh tế thấp đang là một khó khăn rất lớn tác động đến
quy mô và tốc độ phát triển đến năm 2010. Dự kiến cơ cấu sản xuất sẽ đƣợc
chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ hơn: gia tăng phát triển khu vực công nghiệp,
xây dựng và phát triển khu vực dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp
trong cơ cấu GDP, nền kinh tế về cơ bản vẫn còn lạc hậu hơn so với nhiều
nƣớc khác, điều đó ảnh hƣởng tới quy mô, cơ cấu, hiệu quả của hoạt động
xuất nhập khẩu, nhất là xuất khẩu nông sản.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhìn chung còn chậm, tuy đã hoàn thành
đƣợc một số vùng sản xuất tập trung, chuyên canh hàng hóa lớn nhƣng do
thiếu và không đồng bộ các yếu tố sản xuất (điện, nƣớc, thị trƣờng, vốn, kỹ
thuật, công nghệ…) đã làm hạn chế khả năng khai thác, phát huy các tiềm
năng và lợi thế so sánh. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chƣa bám sát và
72
theo kịp tín hiệu của thị trƣờng, chƣa phải là những chuyển đổi theo chiều
sâu. Nên nhiều sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, bên cạnh đó năng suất, chất
lƣợng, giá thành nhiều loại hàng nông sản không có tính cạnh tranh. Mặt
khác, quy mô đầu tƣ vào các khâu để nâng cao khả năng cạnh tranh nhƣ: các
khâu tiêu thụ của sản phẩm, hoạt động xúc tiến thƣơng mại, lập các trung tâm
thƣơng mại, kho ngoại quan ở nƣớc ngoài và các dịch vụ thu ngoại tệ…chƣa
thỏa đáng và chƣa đúng vị trí của nó.
- Công nghệ sau thu hoạch và chế biến đã đƣợc quan tâm, nhƣng nhìn
chung còn lạc hậu, chƣa đảm bảo chất lƣợng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng
của các thị trƣờng khó tính. Nhìn tổng thể thì hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam phần lớn vẫn ở dạng thô và sơ chế là chính, hệ số sử dụng công suất
các nhà máy chế biến ở nƣớc ta thấp gây lãng phí và hao tổn nguyên vật liệu,
nhƣng chất lƣợng chế biến không cao. Đặc biệt sự hao hụt và thất thoát sau
thu hoạch còn lớn. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc sản xuất và xuất khẩu
yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh.
- Thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua vẫn là thị
trƣờng có sức mua thấp thiếu tính bền vững, tính rủi ro cao. Thị trƣờng xuất
khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu là các nƣớc trong
khu vực và thị trƣờng Châu Á. Thị trƣờng xuất khẩu tuy nhiều nhƣng không
vững chắc, nhiều loại nông sản và trong nhiều thời điểm còn phải xuất qua
trung gian, nên bị ép cấp và thua thiệt về giá, dẫn đến hiệu quả không cao.
Hơn nữa, với thị trƣờng sức mua thấp hoặc tái chế, tái xuất không cho phù
hợp với định hƣớng chiến lƣợc xuất khẩu các sản phẩm có giá trị tăng cao của
Việt Nam trong giai đoạn tới. Triển vọng về mở rộng thị trƣờng các nƣớc và
khu vực (Châu ÂU, Châu Mỹ, EU, Nhật Bản, Mỹ…) vẫn gặp nhiều khó khăn
trƣớc yêu cầu đổi mới và cải tiến liên tục về tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm,
chất lƣợng, mẫu mã và kể cả các quy định và thông lệ thƣơng mại quốc tế.
- Năng lực quản lý chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu trong điều kiện tự do
73
hóa thƣơng mại, đặc biệt là marketing, nghiên cứu và dự báo thị trƣờng. Mối
liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất và kinh doanh chƣa đƣợc thiết lập một
cách vững chắc
- Tổ chức hệ thống kinh doanh xuất khẩu nông sản tuy có nhiều thay
đổi nhƣng năng lực kinh doanh và tổ chức phối hợp còn bộc lộ nhiều mặt
yếu kém, tình trạng lƣu thông chồng chéo, tranh mua, tranh bán gây tổn hại
tới lợi ích chung và của ngƣời sản xuất. Có ba lý do chủ yếu sau:
+ Thứ nhất là: thiếu quy hoạch tổ chức hợp tác, hợp lực một cách chặt
chẽ, nên hiện nay có quá nhiều doanh nghiệp của Trung ƣơng địa phƣơng và
của nhiều ngành, nhiều cấp quản lý trên một vùng lãnh thổ cùng tham gia
sản xuất kinh doanh một ngành hàng, mặt hàng; nhƣng không hình thành rõ
ràng quan hệ ngành (giữa sản xuất - chế biến - lƣu thông tiêu thụ), vẫn nằm
trong tình trạng nhiều nhƣng vẫn thiếu, đông nhƣng không mạnh, thiếu sự
hƣớng dẫn, điều hành, phân công và phối kết hợp trong hoạt động kinh
doanh đã dẫn đến tình trạnh lộn xộn trên thị trƣờng mỗi khi có nhu cầu hàng
cho xuất khẩu, mạnh ai nấy làm phân tán cục bộ, tranh mua tranh bán, làm
suy yếu lẫn nhau.
+ Thứ hai là: tổ chức chƣa tốt thị trƣờng nội địa, đặc biệt thị trƣờng
nông thôn…dẫ đến tình trạnh hàng hóa nông sản chƣa nhiều, nhƣng có hiện
tƣợng ứ đọng thi trƣờng, khó tiêu thụ, giá cả không ổn định. Nông dân bị
thua thiệt, mà Nhà nƣớc cũng không đƣợc lợi. Việc mở rộng thị trƣờng ra
nƣớc ngoài một mặt thiếu đầu tƣ đúng mức về xây dựng chiến lƣợc thị
trƣờng, mặt khác cơ chế chính sách thị trƣờng và chính sách điều tiết quản lý
vĩ mô luôn thay đổi, nhiều khi thiếu tính khách quan. Không ít các doanh
nghiệp lúng túng, không định hƣớng đƣợc phƣơng hƣớng hoạt động kinh
doanh.
+ Thứ ba là: tình hình kinh tế, chính trị khu vực và thế giới diễn biến
74
phức tạp dẫn đến việc mỗi Chính phủ phải đƣa ra các chính sách tiền tệ, tỷ
giá, giá sản phẩm ( nhất là giá tiêu thụ nông sản)… còn chứa đựng nhiều
nhân tố bất ổn định, khó dự báo ảnh hƣởng không nhỏ tới mở rộng buôn bán
trong nƣớc cũng nhƣ mở rộng thị trƣờng quốc tế.
3.1.2. Xuất khẩu thủy sản
3.1.2.1. Thuận lợi
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam kể từ năm 2000 đến nay tăng trƣởng
mạnh và hàng thủy sản Việt Nam đã dần xác lập đƣợc vị thế của mình trên thị
trƣờng thủy sản thế giới. Năm 2000, Việt Nam đứng thứ 11 trong số các nƣớc
xuất khẩu thủy sản trên thế giới, thứ 5 Châu Á và thứ 3 Đông Nam á. Đến
năm 2007, với kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 3,5 tỷ USD, và kim ngạch xuất
khẩu thủy sản năm 2008 đạt 4,53 tỷ USD. Điều đó chứng tỏ sự phát triển vƣợt
bậc của ngành thủy sản Việt Nam. Sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt
Nam trên thị trƣờng quốc tế đã đƣợc nâng cao hơn trƣớc. Chính những thuận
lợi sau đã tạo điều kiện cho ngành thủy sản nƣớc ta phát triển [5].
- Sản phẩm thủy sản có cơ hội thâm nhập thị trƣờng thế giới nhiều
hơn, đƣợc nhiều nƣớc biết đến Việt Nam nhiều hơn, doanh nhân các nƣớc sẽ
quan tâm hơn đến xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, trong đó có sản
phẩm thủy sản.
- Trong quá trình mở cửa hội nhập, nhờ có sự ƣu đãi hơn về thuế quan,
xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan và những lợi ích về đối xử công
bằng, bình đẳng mà hàng thủy sản Việt Nam có nhiều cơ hội khẳng định vị trí
và khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới.
- Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, các cơ chế chính sách cũng nhƣ các
quy định về đảm bảo chất lƣợng, an toàn vệ sinh, thú y, thủy sản, về bao bì,
nhãn, mác… thƣờng xuyên đƣợc rà soát, điều chỉnh và quy định cụ thể, ngày
càng thông thoáng. Đồng thời các doanh nghiệp thủy sản sẽ phải tích cực đầu
tƣ mới, đầu tƣ nâng cấp, đổi mới trang thiết bị với công nghệ tiên tiến, nâng
75
cao trình độ quản lý và tay nghề cho ngƣời lao động. Vì vậy, năng suất lao
động sẽ tăng lên, hạ giá thành sản phẩm và ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu
cầu về chất lƣợng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Đó là tiền đề để hàng thủy sản
xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có mặt sâu, rộng trên thị trƣờng quốc tế và
ngày càng đƣợc ngƣời tiêu dùng các nƣớc ƣa chuộng.
- Việt Nam là nƣớc có tiềm năng lớn để phát triển thủy sản, cùng với
yêu cầu mở cửa của tiến trình hội nhập sẽ là cơ hội để các nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài quan tâm hơn đến đầu tƣ vào phát triển các mặt hàng thủy sản ở Việt
Nam, là điều kiện tốt để nâng cao chất lƣợng, sản lƣợng với giá thành hợp lý,
góp phần nâng cao sức năng lực cạnh tranh của mặt hàng này trên trƣờng quốc
tế.
- Nhu cầu tiêu thụ thủy sản trên thế giới có xu hƣớng tăng lên, cung
tăng chậm hơn cầu, tạo điều kiện để thúc đẩy hàng thủy sản của ta vƣơn ra thị
trƣờng thế giới nhiều hơn, thúc đẩy mở rộng thị trƣờng thuỷ sản
- Quan hệ thƣơng mại, đầu tƣ giữa Việt Nam với các nƣớc tiếp tục phát
triển với khuôn khổ pháp lý và tầm quan hệ kinh tế quốc tế mới, tạo điều kiện
để xúc tiến các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, quảng bá sản phẩm,
thƣơng hiệu thủy sản.
3.1.2.2. Khó khăn
- Cạnh tranh về thủy sản trên thị trƣờng quốc tế ngày càng gay gắt,
trong khi khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản của nƣớc ta hiện nay còn
thấp do giá nguyên liệu và các yếu tố đầu vào nhƣ điện nƣớc, thông tin, vận
tải…. của ta cao so với các nƣớc; tỷ trọng cơ giới hóa, tự động hóa trong sản
xuất còn thấp, năng suất lao động từ khâu sản xuất nguyên liệu đến chế biến
thấp, nhiều loại vật tƣ phục vụ cho nuôi thủy sản còn phụ thuộc vào nhập
khẩu nhƣ thức ăn, thuốc, hóa chất… trong khi các loại vật tƣ này chiếm tỷ
trọng lớn (60-70%) trong giá thành tôm, cá. Vì vậy, giá thành một số loại sản
76
phẩm cao so với mặt hàng cùng loại của các nƣớc [23].
- Quy mô các trại nuôi thủy sản quá nhỏ, việc tổ chức liên kết lại và
quản lý xuyên suốt quá trình sản xuất, tiêu thụ và việc áp dụng công nghệ mới
trong nuôi thủy sản còn nhiều bất cập, là những thách thức không nhỏ trƣớc
yêu cầu đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về chất lƣợng, an toàn vệ sinh của thị
trƣờng thế giới, và trƣớc yêu cầu về môi trƣờng cho phát triển bền vững.
- Quản lý chất lƣợng an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn lúng túng
ở các khâu sản xuất nguyên liệu, bảo quản và dịch vụ, chƣa thật sự đáp ứng
đƣợc yêu cầu ngày càng cao của các thị trƣờng lớn và chƣa an toàn trƣớc
những rào cản ngày càng cao của các thị trƣờng, chƣa hình thành hệ thống
quản lý liên hoàn theo chuỗi của từng sản phẩm, từ khâu đầu tiên sản xuất
nguyên liệu, đến khâu tiêu dùng trên thị trƣờng và xuất khẩu, trong khi nhiều
thị trƣờng đang đòi hỏi phải thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm [21].
- Với diễn biến về giá và xu hƣớng tiêu dùng hiện nay thì xuất khẩu
dƣới dạng sơ chế, đông block sẽ khó có hiệu quả. Đây là thách thức và ảnh
hƣởng đáng kể đến khả năng duy trì và tăng cƣờng xuất khẩu của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, chƣa đầu tƣ công nghệ và thiết bị mới.
- Sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế
biến xuất khẩu, cụ thể hơn là khu vực sản xuất nguyên liệu chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu của khu vực chế biến xuất khẩu cả về số lƣợng cũng nhƣ chất
lƣợng sản phẩm. Tình hình thiếu nguyên liệu vẫn thƣờng xuyên xảy ra, đặc
biệt là ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn
nguyên liệu từ khai thác ngày càng suy giảm, nguồn nguyên liệu từ nuôi trồng
có thời vụ và bị ảnh hƣởng nhiều bởi dịch bệnh. Số đối tƣợng xuất khẩu có
sản lƣợng hàng hóa lớn còn nghèo nàn.
- Với yêu cầu hạ thấp mức thuế nhập khẩu thủy sản của WTO, cũng
nhƣ của các nƣớc trong tiến trình hội nhập kinh tế, thủy sản Việt Nam sẽ phải
cạnh tranh gay gắt với sản phẩm thủy sản đến từ các nƣớc, nhất là thủy sản
77
của các nƣớc trong khu vực nhƣ Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia.
- Là nƣớc đang phát triển ở trình độ thấp nên nhiều doanh nghiệp vừa
và nhỏ còn đang khó khăn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm, vì vậy, khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này còn thấp. Công tác đào tạo, quản lý
vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều doanh nghiệp còn hạn chế về khả năng nắm
vững luật pháp quốc tế, nhất là hiểu rõ về pháp luật trong tranh chấp thƣơng
mại quốc tế.
- Vấn đề thƣơng hiệu của thủy sản Việt Nam cũng đƣợc coi là một
thách thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam đƣợc xuất khẩu
thông qua các nhà nhập khẩu và đƣợc phân phối dƣới nhiều thƣơng hiệu khác
nhau, vừa không quảng bá đƣợc sản phẩm.
- Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu sẽ chịu tác động rất lớn từ những
khó khăn về sản xuất trong nƣớc, cũng nhƣ tác động của suy thoái kinh tế
toàn cầu hiện nay, sẽ làm cho các nƣớc nhập khẩu có xu hƣớng giảm nhập
hàng hoá để cân bằng cán cân thƣơng mại và bảo hộ cho nền sản xuất trong
nƣớc. Điều đó sẽ dẫn đến sụt giảm trong lĩnh vực xuất khẩu.
3.2. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH XUẤT KHẨU NÔNG THỦY
SẢN
3.2.1. Quan điểm chung về xuất khẩu nông thủy sản
Xuất phát từ mục tiêu cơ bản của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam đến năm 2010 là thu nhập bình quân đầu ngƣời phải đạt 1000 USD,
vì thế ngành nông nghiệp và thủy sản có vai trò rất quan trọng và phải giữ
vững vị trí ngành kinh tế chủ chốt của nhà nƣớc. Ngành nông nghiệp và thủy
sản phải đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc, đẩy mạnh xuất khẩu để thu
về nhiều ngoại tệ cho Quốc gia, góp phần vào xây dựng và phát triển kinh tế
Việt Nam. Để thực hiện đƣợc chức năng của mình, xuất khẩu nông thủy sản
78
phải phát triển dựa trên những quan điểm sau:
Xuất khẩu nông thủy sản tiếp tục là ngành mũi nhọn trong phát
triển kinh tế nông nghiệp, giữ vai trò và vị trí quan trọng trong
chiến lƣợc phát triển kinh tế và xã hội của Quốc gia.
Xuất khẩu nông thủy sản phải chuyển sang khai thác lao động kỹ
thuật và công nghệ là chủ yếu, phải thƣờng xuyên đổi mới công
nghệ, kỹ thuật để ngày càng nâng cao chất lƣợng sản phẩm, từ đó
nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông thủy sản trên thị trƣờng
quốc tế.
Cơ cấu hợp lý việc sản xuất nông sản và khai thác, nuôi trồng
thủy sản, tạo cơ sở vững chắc cho xuất khẩu. Hơn nữa, tạo công
ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho ngƣời dân.
Đổi mới công tác quản lý trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu
nông thủy sản, đào tạo để nâng cao trình độ nguồn nhân lực [16].
3.2.2. Định hƣớng xuất khẩu nông sản
3.2.2.1. Dự báo thị trường nông sản thế giới
Theo dự báo của FAO, nhu cầu về nông sản trên thế giới sẽ tăng mạnh
trong nhiều năm tới, và nguy cơ thiếu lƣơng thực trầm trọng có thể xảy ra ở
nhiều nơi trên thế giới, không chỉ ở những nƣớc đói nghèo. Nguyên nhân là
do sự biến đổi khí hậu trên toàn cầu ảnh hƣởng mạnh mẽ tới việc sản xuất
nông sản [25]. Bên cạnh đó, diện tích trồng cây lƣơng thực cũng nhƣ các loại
cây nông nghiệp, mà chủ yếu là lúa gạo đang có xu hƣớng giảm dần do các
nƣớc trên thế giới đang tập trung vào trồng các loại cây nguyên liệu cung cấp
cho việc sản xuất các nguyên liệu sinh học thay thế. Vì thế, theo dự báo xuất
khẩu nông sản của Việt Nam vẫn sẽ tăng mạnh do nhu cầu về gạo, một mặt
hàng chủ lực tăng nhƣng xuất khẩu các mặt hàng nông sản khác sẽ có xu
hƣớng tăng chậm lại do khủng hoảng kinh tế kéo dài và các nƣớc thắt chặt chi
79
tiêu [21].
Trung Quốc: kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng từ 400-500 triệu USD/năm
hiện nay lên 700 - 800 triệu USD/năm, gồm các mặt hàng chủ yếu là rau quả,
cao su, hạt điều, tinhbột
Nhật Bản: hiện nay, kim ngạch xuất khẩu của nƣớc ta mới đạt khoảng
0,3- 0,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản. Mỗi năm, Nhật Bản nhập
khẩu khoảng 30 tỷ USD, gồm thịt các loại, rau quả, chè, cà-phê.
Khối ASEAN: kim ngạch xuất khẩu của nƣớc ta sang các quốc gia
thuộc khối này không ổn định, dao động 400-900 triệu USD/năm, chủ yếu là
sản phẩm gạo. Theo dự báo, Hiệp định AFTA sẽ tạo cơ hội để nƣớc ta xuất
khẩu cà phê, gỗ, vật tƣ, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến.
Các nƣớc EU: kim ngạch xuất khẩu của nƣớc ta hiện đạt 600 triệu
USD/năm với các sản phẩm cà phê, hạt điều, chè, hồ tiêu, rau quả chế biến,
đồ gỗ. Thị hiếu tiêu dùng ở thị trƣờng này thƣờng hƣớng tới sản phẩm có bao
bì đẹp, chất lƣợng cao [23].
Nga và khối Đông Âu: kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân hơn 100 triệu
USD với các mặt hàng rau quả, thịt, chè, hồ tiêu. Tuy nhiên, các doanh nghệp
nƣớc ta thƣờng gặp khó khăn trong khâu thanh toán và thuế nhập khẩu cao.
Mỹ: là thị trƣờng nhập khẩu lớn nhất thế giới với kim ngạch khoảng
1.400 tỷ USD, chiếm 17% tổng kim ngạch nhập khẩu của thế giới. Hiện nay,
kim ngạch xuất khẩu nông, lâm sản của nƣớc ta mới đạt 0,4- 0,5% kim ngạch
nhập khẩu nông, lâm sản của Mỹ với các mặt hàng rau quả, đồ gỗ, đồ thủ
công mỹ nghệ.
Theo dự báo, trong những năm tới, các thị trƣờng nhập khẩu nông sản
của Việt Nam đều có khả năng tăng kim ngạch nhập khẩu. Theo đó, đối với
thị trƣờng Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ tăng
từ 400 - 500 triệu USD/năm hiện nay lên 700 - 800 triệu USD/năm, gồm các
mặt hàng chủ yếu là cao su, hạt điều, tinh bột sắn. Đối với thị trƣờng Mỹ, hiện
nay, kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm sản của chúng ta mới chiếm khoảng
80
0,4 - 0,5% tổng kim ngạch nhập khẩu nông, lâm sản của nƣớc này. Đây thực
sự là một con số khiêm tốn so với tiềm năng hiện có của ngành nông sản Việt
Nam cũng nhƣ nhu cầu nhập khẩu của thị trƣờng Mỹ. (Trong khi đó, kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang các nƣớc thuộc khối
ASEAN vẫn luôn phập phù, dao động từ 400 - 900 triệu USD/năm với mặt
hàng chủ yếu là gạo. Theo dự báo, Hiệp định AFTA sẽ tạo cơ hội để nƣớc ta
xuất khẩu cà phê, vật tƣ, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến sang khu vực
này [23].
3.2.2.2. Dự báo khả năng xuất khẩu một số mặt hàng
Gạo
Theo dự báo của FAO, nhu cầu gạo có chất lƣợng cao sẽ tăng mạnh và
nhu cầu gạo có chất lƣợng thấp sẽ giảm nếu không có những đột biến về thiên
tai, khủng hoảng kinh tế hoặc tăng nhu cầu gạo phẩm cấp thấp dành cho chăn
nuôi. Kết quả dự báo của Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn về xuất
khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 là 3,25%/ năm, giới hạn
tối đa của xuất khẩu gạo theo phƣơng án ở mức cao là 4 triệu tấn/năm [15]
Cà phê
Lƣợng xuất khẩu cà phê trong giai đoạn 2006-2010 đƣợc dự báo là
giảm 2,05%/năm về lƣợng và tăng 12,86%/năm về giá trị.
Chè
Khả năng cung về chè đƣợc dự báo là sẽ cao hơn cầu, và xu hƣớng dự
trữ chè đã chuyển dịch từ các nƣớc xuất khẩu chính sang các nƣớc nhập khẩu
chính, đặc biệt là với chè chất lƣợng cao. Do vậy, nhập khẩu chè trong giai
đoạn tới sẽ có mức tăng trƣởng thấp hơn. Do vậy, từ nay đến hết năm 2010,
xuất khẩu chè Việt Nam sẽ có khả năng chậm lại và chỉ đạt mức tăng bình
quân là 5%/năm về lƣợng và 8,34%/năm về giá trị [15].
81
Cao su
Giai đoạn cuối năm 2007 đến đầu năm 2008, giá cao su trên thị trƣờng
thế giới giảm mạnh do nhu cầu giảm. Dự báo đến hết năm 2010, xuất khẩu
cao su tăng không nhiều 2,0%/năm về lƣợng và 5,1% về giá trị [15].
Hạt điều
Dự báo xuất khẩu điều của Việt Nam sẽ tăng mạnh trong giai đoạn từ
2006 đến hết năm 2010 với tốc độ cao đạt 8,95% về lƣợng và 18,7% về giá trị
xuất khẩu [15].
3.2.3. Định hƣớng xuất khẩu thủy sản
3.2.3.1. Dự báo về thị trường thuỷ sản thế giới
Theo FAO, nhu cầu thực phẩm thủy sản đến năm 2020 sẽ tăng lên
khoảng 130-145 triệu tấn do dân số tăng và cung trên đầu ngƣời sẽ tăng lên
khoảng 17-19kg/ngƣời/năm[5].
Trung tâm thủy sản thế giới dự báo đến năm 2020, các nƣớc đang phát
triển sẽ chiếm tới 77% tổng lƣợng tiêu thụ thủy sản toàn cầu và 79% tổng sản
lƣợng thuỷ sản thế giới. Nhƣ vậy từ năm 1997 đến năm 2020, tiêu thụ thủy sản
ở các nƣớc đang phát triển sẽ tăng từ 62,7 triệu tấn lến 98,6 triệu tấn (57%),
trong khi các nƣớc phát triển sẽ tăng 4%, từ 28,1 triệu tấn lên 29,2 triệu tấn [6].
Do nghề khai thác thủy sản tự nhiên hiện nay đã hoạt động hết hoặc
vƣợt công suất, Trung tâm thủy sản thế giới cũng dự báo đến năm 2020, trên
40% khối lƣợng thủy sản đƣợc tiêu thụ sẽ do các cơ sở nuôi cung cấp và sản
lƣợng nuôi trồng thủy sản trong hai thập kỷ tới sẽ tăng gấp đôi, từ 28,6 triệu
tấn năm 1997 lên 53,6 triệu tấn năm 2020 [7].
Về thị hiếu, dân chúng sẽ chuyển hƣớng sang tiêu thụ hàng thủy sản
tƣơi sống, đặc biệt là có giá trị cao và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tuy nhiên, do cạnh tranh giữa các nƣớc sản xuất ngày càng quyết liệt và các
thị trƣờng tiêu thụ cũng gây nhiều sức ép nhằm bảo hộ thƣơng mại, nên giá có
xu hƣớng giảm nhẹ. Một số mặt hàng đặc sản bảo đảm các yêu cầu và có chất
82
lƣợng cao vẫn không có nhiều trên thị trƣờng nên duy trì đƣợc giá trị cao.
Trong số các mặt hàng thủy sản, cá hồi, cá ngừ, cá biển vẫn đóng vai
trò chính dự báo sẽ tăng ở mức 3,8%. Tôm cũng sẽ tăng, nhƣng chỉ ở mức
2,5%. Cá rô phi có nhiều cơ hội mở rộng thị trƣờng nhờ các lợi thế nhƣ giá
thành nuôi thấp, sản lƣợng tăng nhờ nuôi bền vững về mặt sinh thái trong khi
các loài cá hồi và tôm đòi hỏi thức ăn có chất lƣợng cao, môi trƣờng nuôi tốt.
Cá có hƣơng vị nhẹ, có thể chế biến theo nhiều khẩu vị khác nhau và đƣợc đại
đa số ngƣời tiêu dùng chấp nhận [21].
Trong bối cảnh chung thế giới đang có nhiều biến động khó có thể
lƣờng trƣớc đƣợc sẽ ảnh hƣởng tới mọi mặt của nền kinh tế, không loại trừ
đối với ngành hàng thủy sản xuất khẩu. Tuy nhiên, thực phẩm là nhu yếu
phẩm quan trọng, thủy sản vẫn sẽ là loại thực phẩm đƣợc sử dụng ngày càng
nhiều hơn vì là loại thực phẩm mang lại nhiều chất bổ dƣỡng, có lợi cho sức
khỏe và ít gây bệnh tật ở ngƣời nhƣ các bệnh tim mạch, ung thƣ...., nhất là
trong tình hình các loại dịch bệnh nhƣ bệnh bò điên, cúm gia cầm, lở mồm
long móng ở các loài gia súc, gia cầm vẫn đang tiếp diễn. Nhu cầu về thủy sản
trên thế giới có xu hƣớng tăng do dân số thế giới ngày càng tăng. Do đó, các
mặt hàng thủy sản xuất khẩu vẫn có nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên,
cần đa dạng hóa đƣợc mặt hàng, tập trung vào các sản phẩm có lợi thế giá trị
cao, giá thành hạ, các loại đặc sản nhƣ tôm hùm, nhuyễn thể, rong biển, cua
ghẹ.... và để có lợi thế cạnh tranh cần phải có kế hoạch nuôi trồng bền vững,
bảo vệ môi trƣờng, nuôi thâm canh đạt năng suất cao và bảo đảm an
Nhƣ vậy, dự báo tiêu thụ thủy sản của thị trƣờng thế giới là rất lạc quan
và tích cực đối với khả năng tăng trƣởng và nhu cầu ngày càng cao đối với
mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt nam.
3.2.3.2. Khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu, thứ nhất là do nền
kinh tế thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, các thị trƣờng trọng
83
điểm đang bị ảnh hƣởng nặng nề bởi nền kinh tế suy thoái nhƣ Mỹ, Nhật Bản,
Anh, Đức, Ý..., và rất khó khăn để có cơ hội phục hồi nhanh chóng; thứ hai là
sự cạnh tranh rất khốc liệt giữa các nƣớc sản xuất để có thể nâng cao đƣợc giá
trị xuất khẩu các mặt hàng thủy sản xuất khẩu, và thứ ba là yêu cầu ngày càng
cao của các thị trƣờng đối với mặt hàng này, nhất là trong vấn đề vệ sinh an
toàn thực phẩm, môi trƣờng.
Tiềm năng về diện tích và sản lƣợng nguyên liệu từ nuôi trồng thủy hải
sản đƣợc dự báo sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới với quy mô phát triển
theo hƣớng bền vững, gắn liền bảo vệ môi trƣờng sinh thái, hiện đại hóa
nhằm phục vụ cho cơ cấu sản phẩm chất lƣợng cao phục vụ yêu cầu phát triển
xuất khẩu thủy sản.
Các đối tƣợng nuôi trồng và khai thác cung ứng cho sản xuất và chế
biến xuất khẩu có khả năng tăng theo đích đến năm 2010 cả về năng suất lẫn
chất lƣợng, theo nhóm các sản phẩm chủ lực , cụ thể nhƣ sau:
- Nhóm sản phẩm tôm: dự kiến đến 2010, sản lƣợng tôm nuôi đạt
khoảng 483.000 tấn để cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu khoảng
385.000-390.000 tấn (khoảng 75-80% tùy từng đối tƣợng). Trong đó:
+ Tôm sú: là đối tƣợng nuôi chính, mặc dù một số diện tích nuôi tôm sú
sẽ chuyển sang nuôi đối tƣợng khác, nhƣng không nhiều và bù lại bằng việc
nâng cao năng suất, giảm tỷ lệ tôm chết. Sản lƣợng tôm sú nuôi đến năm 2010
là 360.000 tấn tôm nguyên liệu, tỷ lệ đƣa vào chế biến xuất khẩu khoảng
80%, sản phẩm tôm sú xuất khẩu vào năm 2010 là 160.000 tấn. Vùng nuôi tập
trung ở các vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long [5].
+ Tôm thẻ chân trắng: đây là sản phẩm có hàm lƣợng giá trị cao mà hiện
nay các nƣớc nhƣ Thái Lan, Trung Quốc đã chuyển sang nuôi rất có hiệu quả.
Do đó, tiềm năng để chuyển sang phát triển nuôi trồng đối tƣợng này là rất lớn.
Diện tích để chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng đến năm 2010 là 22600 ha,
sản lƣợng tôm nuôi đạt 60.000 tấn, đạt sản phẩm xuất khẩu từ tôm thẻ chân trắng
84
là 25.000 tấn. Vùng nuôi tập trung ở khu vực miền Bắc và miền Trung [5].
+ Tôm hùm: tập trung nuôi tại các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ
(Khánh Hòa, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Định) và một số tỉnh khác, đến năm
2010 khả năng đạt 3.000 tấn, năm 2020 đạt 5000 tấn [5].
+ Tôm càng xanh: diện tích nuôi đến năm 2010 đạt 32.000 ha, sản
lƣợng đạt 60.000 tấn, tập trung tại các tỉnh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
+ Tôm từ khai thác: mức sản lƣợng tôm khai thác từ biển khả năng
đạt khoảng 100.000 tấn/năm, tỷ trọng tôm từ khai thác vào chế biến xuất
khẩu đạt 50%.
- Cá tra, ba sa: cá tra, cá ba sa đƣợc nuôi trồng nhiều tại các tỉnh vùng
đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 2020 phát triển rộng ra các hồ chứa phía
Bắc. Khả năng phát triển đến năm 2010 đạt 800.000-850.000 tấn.
- Cá ngừ đại dƣơng: đây là đối tƣợng có giá trị kinh tế và giá trị xuất
khẩu cao, đến năm 2020 khả năng khai thác đạt 50.000 tấn.
- Mực và bạch tuộc: sản lƣợng các loại mực và bạch tuộc đạt khoảng
180.000 tấn, nhƣ vậy là có 135.000 tấn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu,
tƣơng ứng là có 75.000 tấn sản phẩm xuất khẩu [5].
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ: diện tích nuôi nhuyễn thể đến 2010 có thể
đạt đƣợc 20.000 ha bãi, 2000 ha bao, 4000 ha xen canh với tôm và 5000 lồng
bè trên biển, khả năng đạt sản lƣợng chung là 380.000 tấn. Sản lƣợng khai
thác nhuyễn thể hai vỏ ổn định hàng năm là khoảng 150.000 tấn, đƣa tổng sản
lƣợng nhuyễn thể hai vỏ đến 2010 đạt khoảng 530.000 tấn [5].
- Nuôi cá biển: đối tƣợng cá biển có thể nuôi khắp trên các vùng biển,
diện tích nuôi cá biển có thể đạt 6000 ha đăng quầng, 3.500 ha ao và 70.000
lồng, đối tƣợng nuôi chủ yếu là cá song, hồng, cam, vƣợc, giò..... Sản lƣợng
có khả năng đạt đƣợc là 200.000 tấn, trong đó tỷ lệ cho xuất khẩu đạt 80%
[5].
- Cá rô phi: với quy mô sản xuất nhƣ hiện nay, đảm bảo đủ giống năng
85
suất, chất lƣợng cao đến năm 2010 có thể đạt đƣợc sản lƣợng cá rô phi
khoảng 250.000 tấn, trong đó sản phẩm đủ tiêu chuẩn cho xuất khẩu từ
130.000 đến 150.000 tấn [5].
Nhƣ vậy, với những tiềm năng dự báo nhƣ vậy cho thấy xuất khẩu thủy
sản trong thời gian tới sẽ tiếp tục tăng trƣởng.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ HÓA CHIẾN LƢỢC XUẤT KHẨU NÔNG
THỦY SẢN CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Để hoạt động xuất khẩu nông thủy sản phát triển theo định hƣớng quốc
gia đã đề ra ở trên thì rất cần thiết phải xây dựng chiến lƣợc có tầm nhìn dài
hạn để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành hàng nông thủy sản
nƣớc ta, đặc biệt là đối với các DNN&V. Tuy nhiên, để từng bƣớc xây dựng
và thực hiện có hiệu quả chiến lƣợc này đòi hỏi Chính phủ phải để ra những
giải pháp nhằm định hƣớng cho các doanh nghiệp xuất khẩu và phải có sự
phối hợp đồng bộ giữa Nhà nƣớc và các doanh nghiệp. Trong phần này, tác
giả xin đề xuất một số các giải pháp nhằm cụ thể hóa chiến lƣợc xuất khẩu
nông thủy sản cho các DNN&V từ phía Chính phủ.
3.3.1. Các giải pháp vĩ mô thúc đẩy xuất khẩu hàng nông thủy sản
Việt Nam
3.3.1.1. Hoàn thiện tổ chức ngành xuất khẩu nông thủy sản
Quy hoạch vùng sản xuất và phát triển hệ thống tiêu thụ phục vụ
cho chế biến
Xác định và quy hoạch đầu tƣ một cách đồng bộ cho các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung tạo vùng nguyên liệu cao cho chế biến và xuất khẩu. Trên
cơ sở các vùng sản xuất, tiến hành xây dựng các công trình dự án cụ thể phát
triển từng mặt hàng, ngành hàng để thu hút vốn đầu tƣ trên từng vùng cụ thể
cần có những chính sách ƣu tiên xác thực để khuyến khích và hấp dẫn mọi
thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế vùng. Tổ chức sản xuất kinh
86
doanh theo vùng đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lớn và hiện đại.
Áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lƣợng bắt buộc đối với hàng
xuất khẩu
Chất lƣợng hàng hóa xuất khẩu có thể đƣợc nâng cao, phải gắn liền với
các biện pháp giám sát và kiểm tra chặt chẽ với những chỉ tiêu quy định đối
với các mặt hàng và thị trƣờng. Trên cơ sở xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn
hàng hóa - dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp với thị trƣờng, từ đó mới tạo ra sức
cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam [4].
Chính sách xuất khẩu
Tuy chính sách xuất khẩu đã có nhiều tiến bộ tạo điều kiện thông thoáng
và môi trƣờng thƣơng mại thuận lợi với xu hƣớng chung khuyến khích xuất
khẩu nông thủy sản, nhƣng cũng có không ít những khó khăn cần tháo gỡ.
- Một là, bãi bỏ giấy kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng
nông thủy sản không nằm trong danh mục các mặt hàng Nhà nƣớc quản lý
xuất khẩu
- Hai là, các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế sau khi ĐKKD
đƣợc tự do giao dịch và quan hệ trực tiếp với thị trƣờng quốc tế và xuất khẩu.
- Ba là, tăng cƣờng các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu nhƣ: cung cấp
miễn phí các thông tin về thị trƣờng và các văn bản liên quan đến xuất nhập
khẩu cho các doanh nghiệp. Còn các loại thông tin chuyên sâu, thông tin
chiến lƣợc, thông tin theo yêu cầu cụ thể thì doanh nghiệp tự mua.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu
Đây phải là công cụ định hƣớng và hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế
đƣợc xác định là có lợi thế cạnh tranh trong thƣơng mại khu vực và quốc tế,
cần đƣợc sửa đổi, bổ sung thêm những quy định về giá tính thuế, kê khai, nộp
thuế và thời hạn nộp thuế một cách rõ ràng, chặt chẽ, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp xác định đƣợc nghĩa vụ phải nộp thuế đầy đủ, nghiêm túc.
- Thứ nhất, điều chỉnh tỷ lệ thuế để lại cho địa phƣơng theo hƣớng
87
tăng dần để đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
- Thứ ba, miễn giảm thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết
đối với những sản phẩm cần phát triển mở rộng quy mô.
- Thứ tƣ, thực hiện chính sách ƣu đãi thuế cho các doanh nghiệp phục
vụ xuất khẩu tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
- Thứ năm, để hỗ trợ cho đổi mới công nghệ nên giảm thuế nhập khẩu
với những trang thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất - chế biến các nông sản
- Thứ sáu, nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng,
các khu nuôi trồng thủy hải sản, hình thành quỹ bảo hiểm từng ngành sản
phẩm. Quỹ này dùng để can thiệp thị trƣờng khi giá thị trƣờng đột biến xuống
dƣới giá sàn định hƣớng và giúp đỡ sản xuất trong những trƣờng hợp đặc biệt
khó khăn do thiên tai. Quỹ đƣợc trích từ phần thuế xuất khẩu và các khoản
thu và đóng góp khác đối với từng loại hàng hóa.
- Thứ bảy, tiếp tục triển khai áp dụng các quy định giá tối thiểu cho
các loại nông thủy sản xuất khẩu chủ yếu.
- Thứ tám, chính sách thuế xuất nhập khẩu phải phù hợp với những yêu
cầu của thông lệ quốc tế, chống lại những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh.
3.3.1.2. Đổi mới chính sách đầu tư
Nhà nƣớc cần đặc biệt quan tâm về đầu tƣ đồng bộ tới quá trình sản
xuất - chế biến - tiêu thụ và xuất khẩu, cụ thể đầu tƣ cho các yêu cầu sau:
- Thứ nhất, đầu tƣ cho vùng sản xuất tập trung, hình thành các vùng
nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông,
điện, đặc biệt là thủy lợi)
- Thứ hai, đầu tƣ cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, trong đó
chú ý đầu tƣ nghiên cứu cải tạo giống cây và các giống thủy sản cho năng suất
và chất lƣợng cao đƣợc thị trƣờng ƣa thích, ứng dụng các kỹ thuật sản xuất
tiến bộ gắn liền với chính sách khuyến nông từ trung ƣơng đến cơ sở.
- Thứ ba, đầu tƣ cho nâng cấp và đổi mới công nghệ chế biến, nâng
cao khả năng cạnh tranh. Áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lƣợng bắt
88
buộc đối với các sản phẩm nông sản xuất khẩu để đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm, thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công
nghệ, đặc biệt là công nghệ sạch.
- Thứ tƣ, đầu tƣ trực tiếp cho sản xuất, phải dành sự đầu tƣ thỏa đáng
cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trƣờng ở cả tầm vĩ mô và vi mô, tiêu
thụ sản phẩm nhƣ xây dựng các trung tâm thƣơng mại, các kho ngoại quan ở
nƣớc ngoài, các hoạt động xúc tiến thƣơng mại (tham gia triển lãm, hội chợ,
cử các đoàn đi khảo sát mở rộng thị trƣờng ở nƣớc ngoài, tìm kiếm đối tác,
thu thập và cung cấp thông tin, hƣớng dẫn cho các doanh nghiệp về luật lệ,
tiêu chuẩn, mẫu mã thị trƣờng đòi hỏi…) nhằm xây dựng chiến lƣợc thị
trƣờng một cách vững chắc.
Nguồn vốn đầu tƣ nên đƣợc xác định là: Nhà nƣớc tập trung đầu tƣ cho
những khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng đến nhiều doanh nghiệp nhƣ nghiên
cứu khoa học, xây dựng các cơ sở hạ tầng, thành lập các trung tâm thƣơng
mại và kho ngoại quan ở nƣớc ngoài, trong các lĩnh vực còn lại Nhà nƣớc chỉ
ban hành các chính sách ƣu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ
động đầu tƣ sản xuất, kinh doanh, hạn chế tới mức thấp nhất, nhanh chóng
tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế “xin - cho” trong cung ứng vốn đầu tƣ, bao
cấp trực tiếp hoặc gián tiếp.
Các dự án FDI nuôi trồng, chế biến nông thủy sản phần lớn thiết bị máy
móc đã qua sử dụng, đây là một sự chuyển dịch của các nƣớc NICs nhằm đổi
mới công nghệ và thiết bị hiện đại tại chính quốc, tận dụng giá trị sử dụng còn
lại của thiết bị và khai thác nhân công rẻ tại Việt Nam. Cần áp dụng chính
sách đồng bộ để giảm dần, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách giữa các
nhà đầu tƣ trong nƣớc và nƣớc ngoài. Duy trì môi trƣờng đầu tƣ ổn định để
tạo tâm lý tin tƣởng cho các nhà đầu tƣ. Phát triển hợp lý các khu chế xuất,
khuyến khích các doanh nghiệp nƣớc ngoài gia tăng xuất khẩu. Mở rộng thị
trƣờng nhất là thị trƣờng Mỹ để lôi kéo các doanh nghiệp nƣớc ngoài đầu tƣ
89
vào nƣớc ta, xuất khẩu sang các thị trƣờng có dung lƣợng tiêu thụ lớn.
Tăng cƣờng các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tƣ ra thị
trƣờng nƣớc ngoài, nhất là đầu tƣ trong khâu hoàn thiện sản phẩm nông sản,
thực phẩm (ví dụ nhƣ chế biến và đóng gói chè, cà phê,…) để tránh các hàng
rào thuế và phi thuế do nƣớc nhập khẩu đặt ra. Xóa bỏ thủ tục cấp phép thành
lập văn phòng đại diện ở nƣớc ngoài và đơn giản hóa thủ tục mở tài khoản để
phục vụ giao dịch trên thị trƣờng nƣớc ngoài.
3.3.1.3. Nghiên cứu thị trường
Mở rộng thị trƣờng tiêu thụ nông sản và hành lang pháp lý cho cơ chế
vận hành thị trƣờng
Ở nƣớc ta, do trình độ sản xuất hàng hóa của các vùng có sự chênh lệch
nhau khá lớn, cơ sở hạ tầng lại yếu kém nên câu trúc thị trƣờng còn nhiều bất
cập và chƣa đồng bộ cả về mặt pháp lý. Sự điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong
bối cảnh đó còn bộc lộ nhiều mặt tiêu cực làm cho thị trƣờng và giá cả còn biến
động khá lớn, sự khan hiếm và dƣ thừa nông sản cục bộ và giả tạo (thóc gạo, cà
phê, chè, hạt điều, cao su…) Mặt khác chƣa khai thác và phát huy tốt thị trƣờng
trong nƣớc, nhất là thị trƣờng nông thôn sức mua thấp, nhiều vùng còn hoang sơ,
đơn giản, cạnh tranh hỗn loạn và còn nhiều yếu tố đầu cơ trục lợi…[14].
Để thực hiện chủ trƣơng của Đảng trong việc xây dựng đồng bộ các
loại thị trƣờng, tạo môi trƣờng cho sự vận động của hàng hóa theo cơ chế thị
trƣờng có trật tự, chúng ta cần phải:
- Một là: không ngừng mở rộng thị trƣờng tiêu thụ nông sản trong và
ngoài nƣớc, tăng cƣờng giao lƣu nông sản trên tất cả các vùng đáp ứng nhu
cầu sản xuất - tiêu dùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao
động xã hội và tăng cƣờng áp dụng đổi mới công nghệ. Từng bƣớc tham gia
vào phân công lao động hợp tác quốc tế, thực hiện chính sách thƣơng mại mở.
Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng ở nƣớc ngoài mạng lƣới phân
phối, đại lý, kho ngoại quan, trung tâm trƣng bày sản phẩm hàng hóa, áp dụng
90
các hình thức mua bán thanh toán linh hoạt.
- Hai là: đa dạng hóa các kênh và cấp độ lƣu thông để hàng hóa lƣu
thông một cách xuyên suốt và nhanh nhất, chi phí thấp nhất từ sản xuất đến
các địa chỉ tiêu dùng (trong nƣớc và xuất khẩu). Chú trọng các kênh vừa và
nhỏ tƣơng ứng với “quy mô cung - cầu” ở thị trƣờng khu vực. Đồng thời,
từng bƣớc xây dựng các kênh và cấp độ lƣu thông hàng hóa lớn, thúc đẩy và
thống nhất thị trƣờng toàn quốc, đáp ứng cho nhu cầu của các thị trƣờng trên
thế giới. Hoàn thiện thƣơng mại trung gian, tạo ra các kênh tiêu thụ hàng hóa
lớn, góp phần giải quyết và điều chỉnh quan hệ “cung - cầu” và hƣớng dẫn sản
xuất ( bao gồm: hỗ trợ vốn, khoa học công nghệ cho sản xuất và bao tiêu sản
phẩm…)
- Ba là: trong cấu trúc thị trƣờng đa dạng nói trên, coi trọng vai trò
của mô hình đặc thù: “chợ, tụ điểm thƣơng mại” ở nông thôn. Sự gắn kết các
chợ nông thôn, để từng bƣớc hiện đại thị trƣờng thông qua hình thức phát
triển các cụm kinh tế - văn hóa kỹ thuật - thƣơng mại - dịch vụ cho các vùng
sản xuất hàng hóa và các cơ sở chế biến bảo quản. Quy hoạch hệ thống
thƣơng mại góp phần thúc đẩy nhân tố thƣơng mại trong các vùng và nông
thôn.
+ Đối với các vùng sản xuất tập trung nông thủy sản xuất khẩu thì
khuyến khích hình thành các hệ thống tiêu thụ dài, sâu và rộng với cấp độ lƣu
thông tiêu thụ hàng hóa lớn đủ sức cạnh tranh. Tức là, thực hiện tổ chức xây
dựng mô hình gắn kết kinh doanh với sản xuât, cơ sở chế biến với vùng
nguyên liệu…Tạo nên sự gắn kết giữaTrung ƣơng và ngƣời sản xuất bằng các
yếu tố: kỹ thuật, vốn, công nghệ và thị trƣờng. Hình thành nguồn hàng và bạn
hàng đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng thế giới mà đƣợc thể hiện trên những
vùng nông thôn mới phát triển toàn diện cả về kinh tế - văn hóa - kỹ thuật -
dịch vụ - thƣơng mại. Hạn chế độc quyền bằng việc mở rộng các đầu mối
xuất khẩu, có các thành phần kinh tế và công ty đa quốc gia tham gia trực tiếp
91
xuất khẩu, độc lập và bình đẳng. Nên tổ chức và quy hoạch lại hệ thống
thƣơng mại (bao gồm cả hệ thống thƣơng mại trung gian), tránh các biểu hiện
về “nhiễu kênh” gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu dùng. Giảm đầu mối
thƣơng mại trung gian kinh doanh theo kiểu “ chụp giập, đầu cơ trục lợi” làm
rối loạn thị trƣờng. Xác định và quyết định các tổ chức thƣơng mại trung gian,
từ đó phải có sự hỗ trợ dƣới hình thức nhƣ hỗ trợ vốn và kỹ thuật công nghệ
cho các hộ sản xuất và nuôi trồng nông thủy sản, định hƣớng và hƣớng dẫn
nông dân sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trƣờng. Khuyến khích mở văn phòng
đại diện và đại lý ở nƣớc ngoài, gắn kết trách nhiệm lâu dài giữa sản xuất -
chế biến và tiêu thụ, nâng cao vị thế của các ngành hàng xuất khẩu.
+ Đối với những vùng nguyên liệu tập trung cho công nghệ chế biến
nông thủy sản, khuyến khích các công ty chế biến, thƣơng mại mở rộng đại lý
thu gom nông thủy sản nguyên liệu dƣới hình thức hợp đồng với nông dân,
tạo gắn kết thƣơng mại chế biến và sản xuất cho hộ nông dân, mở rộng đại lý
tiêu thụ sản phẩm từng bƣớc mở rộng và chiếm lĩnh thị trƣờng góp phần ổn
định điều hòa thị trƣờng toàn quốc.
- Bốn là: mở rộng thị trƣờng tiêu thụ nông sản nƣớc ngoài: xúc tiến
thành lập tổ chức khuyến khích thƣơng mại thộc Chính phủ, có nhiệm vụ
khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam, trao
đổi thông tin, khoa học và công nghệ. Tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin về
hệ thống thƣơng mại thị trƣờng của Việt Nam và các nƣớc khác, cung cấp
dịch vụ điều tra thông tin kinh doanh của các công ty nƣớc ngoài của Việt
Nam cho các bên đối tác, dịch vụ thƣơng mại thanh toán quốc tế và các nƣớc
có mối quan hệ thƣơng mại với Việt Nam, dịch vụ thông tin quốc tế tăng
cƣờng sự hiểu biết lẫn nhau.
Định hƣớng mở rộng xuất khẩu
Qua nghiên cứu lợi thế, đặc điểm và triển vọng thị trƣờng nƣớc ngoài,
thời gian tới với ngành hàng nông thủy sản cần mở rộng thị trƣờng xuất khẩu.
92
Trong chiến lƣợng xâm nhập và mở rộng thị trƣờng, cần chọn thị trƣờng trọng
điểm, sản phẩm mũi nhọn (có tính chiến lƣợc) cho từng khối, từng khu vực
(gây uy tín, tạo hình ảnh sản phẩm Việt Nam…) và lấy đó làm điểm tựa để
mở rộng và lan tỏa váo các nƣớc khác trong khu vực và trong cả khối.
- Một là: phát triển mạnh công tác thị trƣờng cả ở tầm vĩ mô và vi mô,
khắc phục đồng thời hai biểu hiện “chông chờ vào Nhà nƣớc” và “để mặc cho
doanh nghiệp”. Đẩy mạnh đàm phán thƣơng mại song phƣơng và đa phƣơng
để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, cụ thể là đàm phán mở cửa thị
trƣờng mới, đàm phán để tiến tới thƣơng mại cân bằng với những thị trƣờng
mà ta thƣờng nhập siêu, đàm phán để thống nhất hóa các tiêu chuẩn vệ sinh,
tiêu chuẩn kỹ thuật chế biến thực phẩm và đàm phán để nới lỏng các hàng rào
phi thuế quan. Tăng cƣờng mạnh mẽ các thông tin về các thị trƣờng từ tình
hình chung cho tới cơ chế chính sách nhập khẩu nông sản của các nƣớc bạn
hàng, dự báo các chiều hƣớng cung cầu trên thị trƣờng thế giới và khu vực về
các loại hàng hóa xuất nhập khẩu chủ lực của nƣớc ta.
- Hai là: đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thƣơng mại, xúc tiến xuất
khẩu, tăng cƣờng công tác dự báo để định hƣớng cho hoạt động sản xuất và
xuất khẩu nông thủy sản. Tăng cƣờng nghiên cứu các công trình xuất khẩu
trọng điểm để đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa nông sản, thủy sản cho nông dân,
nhất là các tỉnh miền Bắc xa xôi thông qua các hoạt động từ điều tra quy
hoạch đến tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Trong lúc tăng cƣờng tìm kiếm
thị trƣờng xuất khẩu không đƣợc xem nhẹ tiêu thụ hàng hóa nông thủy sản
trên thị trƣờng nội địa. Có chế độ khuyến khích thỏa đáng đối với tổ chức và
cá nhân (các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thƣơng của nƣớc ta và nƣớc
ngoài) tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp, tiếp cận và thâm nhập thị
trƣờng quốc tế.
Ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý
93
và các chính sách khuyến khích của Nhà nƣớc để tổ chức tiếp cận và phân
tích, khai thác thông tin; trực tiếp và thƣờng xuyên tiếp xúc với thị trƣờng thế
giới thông qua các hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị.
- Ba là: để đảm bảo xuất khẩu tốt các sản phẩm, chúng ta cần có sự
hiểu biết đầy đủ sâu sắc về các thị trƣờng riêng biệt, cần xây dựng chính sách
thích hợp với từng thị trƣờng riêng biệt, chú trọng các thị trƣờng truyền
thống, mở rộng ra những thị trƣờng mới.
+ Thị trƣờng ASEAN.
+ Thị trƣờng Trung Quốc.
+ Thị trƣờng Nhật Bản.
+ Thị trƣờng Nga và Đông Âu.
+ Thị trƣờng EU.
+ Thị trƣờng Mỹ.
+ Thị trƣờng Châu Phi.
3.3.2. Các giải pháp hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của các
DNN&V xuất khẩu hàng nông thủy sản
3.3.2.1. Giải pháp về vốn và công nghệ
Tăng cƣờng năng lực tài chính cho DNN&V
Đây đƣợc coi là nhóm chính sách trọng tâm cần giải quyết trong thời gian
tới. Để nâng cao năng lực vốn, từ đó làm đòn bẩy để thúc đẩy DNN&V phát
triển. Chính phủ nên xem xét thực hiện các giải pháp sau:
- Thứ nhất, đẩy nhanh việc thành lập và vận hành quỹ bảo lãnh tín
dụng, giúp DNN&V có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Quỹ
bảo lãnh tín dụng có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả. Kinh nghiệm quốc
tế cho thấy, quỹ bảo lãnh tín dụng hiện đang đƣợc xem là một trong những
94
biện pháp hiệu quả để cải thiện năng lực nguồn vốn cho DNN&V [10].
Ngày 20/12/2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 193/2001/
QĐ - TTG về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNN&V. Tuy nhiên,
việc tiếp cận nguồn vốn cho các DNN&V vẫn là điều mong mỏi với các
DNN&V khi chƣa tìm ra phƣơng án huy động vốn hiệu quả cho Quỹ. Kinh
nghiệm của các nƣớc cho thấy, phần lớn các quỹ bảo lãnh tín dụng đều có
một tỷ lệ nhất định từ ngân sách Nhà nƣớc, số còn lại huy động từ khu vực
ngân hàng và các nguồn khác. Trong trƣờng hợp của Việt Nam, chính phủ có
thể cân nhắc một phần vốn hoạt động cho quỹ có thể bố trí tƣ ngân sách Nhà
nƣớc và phần còn lại có thể huy động từ nguồn vốn của các tổ chức nƣớc
ngoài nhƣ JBIC, SNV, UNDP…
- Thứ hai, điều chỉnh chính sách về tài sản thế chấp đối với các khoản
vay. Hiện nay phần lớn các DNN&V không thể vay vốn ngân hàng vì không
có tài sản thể chấp. Do đó nhiều ngân hàng đã cho phép doanh nghiệp dùng
tài sản đƣợc hình thành từ các khoản vay để thế chấp hoặc dùng hàng hóa làm
tài sản thể chấp. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn không thể đáp ứng đƣợc
yêu cầu này của ngân hàng về tài sản thể chấp. Trong những trƣờng hợp nhất
định, ngân hàng có thể đánh giá tiềm năng và giá trị của các dự án kinh doanh
khả thi để cho vay và cùng với doanh nghiệp giám sát việc thực hiện kế hoạch
kinh doanh đó để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Lúc đó, ngân hàng có
thể coi bản kế hoạch kinh doanh tốt đó nhƣ một tài sản thể chấp có giá trị thay
cho các tài sản khác.
- Thứ ba, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua. Mở rộng hình thức
tín dụng thuê mua là giải pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp khắc phục khó
khăn về vốn để đầu tƣ đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh. Với hình thức này, các ngân hàng thƣơng mại tháo gỡ đƣợc tình trạng
“đóng băng” về vốn và đảm bảo an toàn hơn hình thức thế chấp tài sản. Tín
dụng thuê mua là loại hình tín dụng trung gian dài hạn, ngƣời có nhu cầu vay
95
vốn không nhận tiền mua sắm thiết bị, tài sản cho mình mà nhận trực tiếp tài
sản phù hợp với nhu cầu sử dụng. Ngƣời đi thuê sẽ thanh toán bằng tiền thiết
bị đó theo phƣơng thức trả dần và sau một thời hạn sử dụng nhất định có thể
mua lại chính tài sản đó.
Trong điều kiện khủng hoảng kinh tế đƣợc dự báo là sẽ mạnh mẽ hơn
và kéo dài đến hết năm 2009 nhƣ hiện nay, các ngân hàng thƣơng mại gặp rất
nhiều khó khăn trong kinh doanh, việc cho vay vốn trung hạn và dài hạn gặp
khó khăn.
- Thứ tƣ là giải pháp thị trƣờng hóa các khoản nợ. Hiện nay các
DNN&V chiếm dụng vốn lẫn nhau rất nhiều khiến cho nhiều doanh nghiệp
rơi vào tình trạng thiếu vốn giả tạo. Nhiều khi ngân hàng thƣơng mại cũng
phải đeo đẳng các khoản nợ cho vay mà không có cách gì thu hồi vốn trƣớc
ngày đáo hạn hoặc đã quá hạn. Vì thế, nhiều nhà kinh tế cho rằng trong nền
kinh tế Việt Nam, tín dụng danh nghĩa là ngắn hạn nhƣng thực tế nợ phát sinh
kéo dài gần nhƣ trung hạn và dài hạn. Việc thị trƣờng hóa các khoản nợ thực
chất sẽ giúp các DNN&V thoát khỏi tình trạng thiếu vốn do bị chiếm dụng.
Thƣơng phiếu sẽ đƣợc dùng để ghi giá trị các khoản nợ và đƣợc coi là công
cụ tín DNN&Vụng thƣơng mại có tác dụng làm lƣu thông hóa các khoản nợ ở
nhiều nƣớc trên thế giới. Với tờ thƣơng phiếu, khi chủ nợ cần thu hồi vốn
trƣớc ngày đáo hạn họ có thể bán món nợ này cho ngân hàng thƣơng mại dƣới
hình thức chiết khấu. Khi ngân hàng thƣơng mại thiếu hụt vốn có thể bán lại
món nợ này cho ngân hàng Trung ƣơng với hình thức tái chiết khấu. Nhờ đó,
thƣơng phiếu sẽ giúp các doanh nghiệp và các ngân hàng thoát khỏi tình trạng
thiếu hụt vốn triền miên trong kinh doanh và giúp cho nhiều DNN&V vƣợt
qua những khó khăn về tài chính.
- Thứ năm, cần phải tạo ra một “sân chơi bình đẳng” để tất cả các loại
hình doanh nghiệp tuân thủ các thể lệ tín dụng nhƣ nhau và đƣợc hƣởng
những ƣu đãi và điều kiện tín dụng của Nhà nƣớc nhƣ nhau. Về vấn đề này,
96
cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm qua đã chứng minh một điều quan
trọng là phải đảm bảo để tất cả các khoản tín dụng đƣợc thực hiện trên cơ sở
phân tích tài chính, chứ không phải bởi các quyết định chính trị, bao gồm cả
vốn vay cho các DNN&V. Để đảm bảo đƣợc điều đó đòi hỏi các ngân hàng
phải nắm bắt đƣợc các thông tin của khác hàng từ nhiều kênh khác nhau, chấn
chỉnh hệ thống kế toán, đảm bảo khả năng cập nhập số liệu hằng ngày. Ngoài
ra, ngân hàng có thể tƣ vấn cho các DNN&V cách thức xây dựng và thực hiện
kế hoạch kinh doanh khả thi, quản lý tốt đồng vốn. Xóa bỏ đƣợc tình trạng
ngân hàng không giải ngân đƣợc trong khi các DNN&V lại thiếu vốn.
Giải pháp về công nghệ
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu sắc nhƣ hiện nay, các DNN&V
Việt Nam sẽ phải giảm bớt sự phụ thuộc của mình vào các nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong nƣớc và những sản phẩm dựa trên chi phí lao động thấp, để
chuyển dịch lên trên trong chuỗi giá trị và tránh cái bẫy chi phí lao động thấp
phải có chính sách mới để đảm bảo sự năng động cho nền kinh tế dựa trên cơ
sở tri thức, nâng cao năng lực khoa học công nghệ và đảm bảo liên tục năng
suất chất lƣợng của các sản phẩm và dịch vụ.
- Thứ nhất, tạo áp lực đổi mới công nghệ. Nhà nƣớc phải thực thi các
chính sách nhằm tạo ra áp lực đổi mới công nghệ, tạo thế chủ động trong quan
hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với hàng hóa của các nƣớc khác. Chính
phủ có thể ban hành các chính sách quy định về thời gian, thời hạn đình chỉ
hoạt động đối với DNN&V sử dụng công nghệ cần thay thế, loại bỏ gồm có:
công nghệ các ngành thuộc nhóm sản phẩm cạnh tranh và công nghệ tạo mức
ảnh hƣởng lớn về môi trƣờng.
- Thứ hai, cần có các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động thuê mua tài chính, bán trả góp để các DNN&V thiếu vốn có thể nâng
cấp máy móc thiết bị tốt hơn. Cho thuê tài chính cho phép các DNN&V tiếp cận
đƣợc công nghệ hiện đại chỉ với một hợp đồng cho thuê tài chính thay vì phải bỏ
97
ra một khoản tài chính khổng lồ. Sau khi ký hợp đồng, DNN&V sẽ lựa chọn cho
mình nững công nghệ hợp lý nhất và tiến hành thuê theo từng kỳ. Trong giai
đoạn này, các DNN&V sẽ nhận đƣợc những lời khuyên về việc áp dụng công
nghệ nào là phù hợp từ các công ty cho thuê có nhiều kinh nghiệm chọn thiết bị ,
đánh giá tình hình. Nhƣ vậy DNN&V vẫn có cơ hội áp dụng những công nghệ
hiện đại vào sản xuất kinh doanh trong điều kiện eo hẹp về vốn.
Cho thuê tài chính cũng giúp cho các DNN&V tránh đƣợc tình trạng “
mắc kẹt” trong công nghệ. Nếu nhƣ các DNN&V bỏ ra một khoản tài chính
không nhỏ đầu tƣ vào công nghệ thì khi có những biến động nào đó họ sẽ không
có cơ hội thay đổi, điều này đặc biệt hay xảy ra trong thời đại khoa học kỹ thuật
phát triển hết sức mạnh mẽ nhƣ hiện nay, công nghệ rất nhanh chóng bị lạc hậu,
vòng đời công nghệ ngày càng bị rút ngắn. Nừu các doanh nghiệp dùng một
khoản tài chính lớn đầu tƣ vào công nghệ và với tình trạng thiếu vốn và quản lý
của các DNN&V Việt Nam hiện nay thì họ sẽ có nguy cơ lạc hậu, kết quả là sản
phẩm làm ra không đủ sức cạnh tranh. Trong khi đó, máy móc thiết bị chƣa khấu
hao hết và họ lại rơi vào tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ.
Kinh nghiệm của một số nƣớc trong vấn đề này là họ mở cửa thị trƣờng
cho máy móc thiết bị cũ nhằm thu hút kỹ thuật từ nƣớc ngoài, nhƣng họ chỉ
chấp nhận miễn thuế cho những thiết bị phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế
đƣợc xác định cho từng thời kỳ. Vì vậy, chúng ta nên áp dụng giống nhƣ họ
để giúp các DNN&V nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm
hơn mà không biến đất nƣớc thành một “bãi rác công nghệ”.
Ngoài ra, nhà nƣớc cần đẩy mạnh việc hỗ trợ về công nghệ cho các
DNN&V nhƣ thông tin về thị trƣờng công nghệ, các thông tin trợ giúo về mặt
kỹ thuật, đào tạo … để các DNN&V chọn lựa đƣợc công nghệ thích hợp
- Thứ ba, nâng cao chất lƣợng các dự án đầu tƣ đổi mới công nghệ.
Hiện nay phần lớn các DNN&V ở nƣớc ta đang gặp phải một thực tế là mặc
dù đã tiến hành đầu tƣ nhƣng giá thành, chất lƣợng chƣa đƣợc cải thiện, hoặc
98
đầu tƣ quá lớn, không sử dụng hết công suất, vƣợt quá khả năng trả nợ của
doanh nghiệp. Nhƣ vậy để nâng cao chất lƣợng các dự án đầu tƣ đổi mới công
nghệ, cần phải tiến hành một số vấn đề sau:
+ Phải làm tốt khâu nghiên cứu thị trƣờng, từ đó xác định nhu cầu
đổi mới công nghệ. Phân tích đối thủ hiện tại và tiềm năng để dự đoán đƣợc
công nghệ mới đi đôi với các sản phẩm thay thế tiềm ẩn.
+ Phân tích thực trạng công nghệ của doanh nghiệp.
+ Xác định rõ mục tiêu cụ thể của dự án đầu tƣ đổi mới công nghệ
để có giải pháp phù hợp
- Thứ tƣ, thay đổi phƣơng thức hỗ trợ vốn phát triển công nghệ. Trƣớc
đây, các DNN&V thƣờng chỉ sử dụng phƣơng thức vay tín dụng với các điều
kiện thế chấp, tín chấp. Phƣơng thức này vừa hạn chế khả năng huy động vốn
tín dụng ngân hàng của các DNN&V, lại vừa tạo ra khe hở. Do đó, phải đa
dạng hóa các phƣơng thức hỗ trợ để giải quyết thông suốt trong khâu chuyển
giao vốn đầu tƣ tín dụng nhà nƣớc tới DNN&V. Các phƣơng thức này bao
gồm:
+ Hình thành quỹ nghiên cứu triển khai, chuyển giao thiết bị công nghệ
trên cơ sở sử dụng một bộ phận chi ngân sách cho nghiên cứu khoa học - công
nghệ doanh nghiệp. Nguồn vốn từ Quỹ này sẽ hỗ trợ cho hoạt động nghiên
cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, tổ chức nghiên cứu khoa học - công
nghệ cho DNN&V.
+ Ứng dụng, phát triển mô hình Nhà nƣớc tổ chức hoạt động thu, đổi
thiết bị công nghệ cũ, bán trả góp thiết bị công nghệ mới cho DNN&V. Theo
phƣơng thức này, hệ thống ngân hàng thƣơng mại sẽ tài trợ vốn trả góp cho
các đơn vị thƣơng mại thiết bị công nghệ và các đơn vị thƣơng mại giao dịch
trực tiếp với các DNN&V với hai nội dung: thu mua thiết bị cũ và bán trả góp
thiết bị mới.
99
3.3.2.2. Giải pháp về quản lý và nguồn nhân lực
Thiết lập hệ thống giáo dục đào tạo và nâng cao kỹ năng cho các giám
đốc và nhà quản lý DNN&V
Hiện nay, số lƣợng các DNN&V ở nƣớc ta đang tăng lên rất nhanh
chóng. Họ tham gia ở tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh đó, môi trƣờng kinh doanh
luôn luôn thay đổi. Do vậy, đào tạo và quản lý là một quá trình tiếp diễn liên
tục và nhu cầu đào tạo quản lý cũng khác nhau ở những thời điểm khác nhau.
Vì vậy, cần có một hệ thống các trung tâm đào tạo chuyên nghiệp để có thể
đáp ứng tất cả các nhu cầu và mục tiêu của từng đối tƣợng nhà quản lý. Hệ
thống giáo dục chuyên nghiệp có thể là hệ thống các trƣờng đào tạo quản lý
cấp Trung ƣơng, rồi sau đó đào tạo lại ở các địa phƣơng:
+ Tiến hành cung cấp các chƣơng trình đào tạo và nâng cao kỹ năng
cho giám đốc DNN&V trong những lĩnh vực mà các trung tâm ở cấp trung
ƣơng chƣa cung cấp.
+ Tổ chức các khóa đào tạo cho các cán bộ mới bƣớc vào kinh doanh ở
các tỉnh, thành phố.
+ Cung cấp hỗ trợ về đào tạo quản lý và đào tạo nghề cho DNN&V ở
địa phƣơng đó.
Để thực hiện hệ thống này, trong ngắn hạn cần tạo cơ sở vật chất và
trung tâm hỗ trợ DNN&V và các trung tâm quản trị kinh doanh đảm nhiệm
việc cung cấp các khóa đào tạo ở cấp trung ƣơng, phối hợp với trung tâm hỗ
trợ DNN&V của phòng thƣơng mại côn nghiệp, Cục DNN&V thuộc Bộ Kế
hoạch và Đầu Tƣ. ở cấp địa phƣơng, việc thực hiện các khóa đào tạo sẽ đƣợc
giao cho các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp sẵn có thuộc các hiệp hội, đoàn
thể cấp tỉnh, cấp huyện.
Nội dung của các chƣơng trình đào tạo, bao gồm: nhóm kiến thức nhằm
trang bị cho chủ doanh nghiệp những hiểu biết khái quát và hệt thống, hỗ trợ
họ phá triển chiến lƣợc và kế hoạch kinh doanh; nhóm các chƣơng trình giúp
100
giám đốc doah nghiệp tăng cƣờng khả năng tổ chức kinh doanh của họ; nhóm
tiếp theo hỗ trợ các giám đốc doanh nghiệp tiếp cận phƣơng pháp quản lý
hiện đại nhằm cải thiện khả năng quản lý và năng suất lao động
Phƣơng pháp đào tạo quản lý cho doanh nghiệp. Hầu hết các phƣơng
pháp đào tạo quản lý cho doanh nghiệp đều mang tính tƣ duy cũ, thụ động và
cần phải thay thế bằng một hệ thống phƣơng pháp mới tập trung vào phát huy
tính sáng tạo của học viên. Các phƣơng pháp này bao gồm đạo tạo thông qua
tình huống thực tế (case study); làm việc nhóm để giải quyết một vấn đề phức
tạp … để các học viên có thể học hỏi lẫn nhau. Những phƣơng pháp này sẽ
giúp học viên nâng cao khả năng quản lý phù hợp với thực tế
Hỗ trợ tài chính cho đào tạo và đào tạo lại giám đốc, các nhà quản lý
DNN&V
Để hỗ trợ càng sớm càng tốt hệ thống đào tạo cho các nhà quản lý
DNN&V nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong hiện tại và tƣơng lai, hỗ trợ
tài chính từ phía Nhà nƣớc là rất cần thiết. Các hỗ trợ tài chính này sẽ đƣợc sử
dụng vào các yếu tố quan trọng khác nhau của khóa đào tạo, và tùy vào điều
kiện từng địa phƣơng.
3.3.2.3. Giải pháp về tên tuổi thương hiệu và tiếp cận thị trường
Tổ chức các kênh thông tin thƣơng mại hiệu quả đến doanh nghiệp và
tổ chức tuyên truyền thƣơng hiệu.
Tìm kiếm và xử lý thị trƣờng để nắm bắt các cơ hội kinh doanh là khâu
yếu kém nhất của các DNN&V Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, việc cung cấp
thông tin từ phía các cơ quan chức năng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tế
của doanh nghiệp khi chƣa có những thông tin chuyên sâu cho doanh nghiệp để
giúp họ đƣa ra các quyết định kinh doanh của mình. Chúng ta có thể học tập
các nƣớc nhƣ Mỹ, Hàn Quốc, Nhật… tổ chức dịch vụ nghiên cứu thông tin
theo yêu cầu của doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng cần xem xét, tăng
cƣờng hoạt động của các kênh thông tin thƣơng mại để chúng hoạt động thật sự
101
hiệu quả, đem đến cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết, kiph thời.
Chúng ta nên thành lập nhiều hơn nữa những sàn giao dịch điện tử có
uy tín cao để các doanh nghiệp có cơ hội trƣng bày, giới thiệu sản phẩm trên
internet. Đây sẽ là đầu mối cung cấp thông tin thị trƣờng, đối tác, sản phẩm và
là nơi hỗ trợ giao dịch trực tuyến cho phép các doanh nghiệp tham gia đam
phán, ký kết hợp đồng, thực hiện nhiệm vụ xúc tiến thƣơng mại và phát triển
thƣơng mại. Phƣơng pháp giao dịch này mang lại cho doanh nghiệp sẽ giúp
cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tiếp cận thị trƣờng rộng lớn và
ngƣời tiêu dùng rộng lớn, sử dụng công nghệ giao dịch hiệu quả với những
thông tin chi tiết, sinh động, mà không bị giới hạn về không gian, đồng thời
giảm đƣợc chi phí quảng cáo, giao dịch. Tuy nhiên, để tạo ra các sàn giao
dịch kiểu này, các doanh nghiệp phải đủ năng lực xuất khẩu và các DNN&V
cũng phải cam kết về khả năng cung cấp hàng theo nhƣ hợp đồng để từng
bƣớc nâng cao chất lƣợng của các sàn giao dịch điện tử này.
Hàng năm, Cục sở hữu trí tuệ nên có thông báo tƣơng tự nhƣ niên giám
để công bố tất cả những nhãn hiệu, kiểu dáng, mẫu mã đã đăng ký trong năm
đó. Hiện nay, có một thực tế là nhiều doanh nghiệp muốn biết về các nhãn
hiệu đã đăng ký trƣớc nhãn hiệu của mình để tránh trung lặp thì không thể tìm
đƣợc nguồn thông tin. Vì thế, các cơ quan chức năng nên công bố rộng rãi các
thông tin này để tạo điều kiện tìm hiểu thông tin về đăng ký nhãn hiệu cho các
DNN&V.
Một vấn đề hết sức cấp thiết là Nhà nƣớc nên bỏ tiền và mời các
chuyên gia tổ chức ngay những đợt tập huấn rộng rãi cho các DNN&V xuất
khẩu về luật sở hữu công nghệ, xây dựng và bảo vệ thƣơng hiệu trên thị
trƣờng trong nƣớc và nƣớc ngoài. Bởi vì thực tế hiện nay, các doanh nghiệp
chỉ quan tâm tới làm thế nào để có nhiều khách hàng, và xuất khẩu với số
lƣợng lớn mà không chú trọng đến việc xây dựng thƣơng hiệu, cũng nhƣ bảo
vệ sản phẩm của mình theo luật sở hữu công nghiệp.
102
Hỗ trợ DNN&V trong việc xây dựng, quảng bá thƣơng hiệu ở nƣớc ngoài
Để hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và quản bá thƣơng hiệu thì xúc tiến
thƣơng mại là một hoạt động rất quan trọng. Để thực hiện các biện pháp này,
các cơ quan chức năng cần:
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thƣơng mại của
các tổ chức xúc tiến thƣơng mại cho DNN&V nhƣ:
+ Tổ chức các đoàn doanh nghiệp ra nƣớc ngoài hoặc từ nƣớc ngoài
vào Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thị trƣờng.
+ Tìm kiếm bạn hàng và cơ hội kinh doanh
+ Tổ chức hoặc tham gia hội chợ triển lãm thƣơng mại ở trong nƣớc và
nƣớc ngoài
+ Quảng cáo hàng hóa
+ Phát triển thông tin thƣơng mại
- Tăng cƣờng các hoạt động xúc tiến thƣơng mại ở nƣớc ngoài.
Tăng cƣờng cử cán bộ để tổ chức các hoạt động xúc tiến thƣơng mại,
khuyến khích các doanh nghiệp đặt cơ sở ở nƣớc ngoài dƣới các hình thức
thích hợp nhƣ đại diện thƣờng trú, văn phòng liên lạc, đại diện ủy thác để tiến
hanh xuất khẩu
- Thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến thƣơng mại
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu và
hoạt động xúc tiến thƣơng mại
- Tổ chức cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở kết quả điều
103
tra, dự báo.
KẾT LUẬN
Ở một quốc gia đang phát triển và chuyển đổi kinh tế mạnh mẽ nhƣ
Việt Nam, thì khu vực DNN&V, điển hình là các DNN&V xuất khẩu ngành
hàng nông thủy sản còn đƣợc khẳng định với vai trò hết sức quan trọng trong
chiến lƣợc phát triển quốc gia. Đó là: xóa bỏ đói nghèo, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn, tạo sự cân bằng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất
nƣớc, tạo ra sự phát cân bằng cho nền kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, trong bối
cảnh kinh tế đang chịu những tác động mạnh mẽ, có những mối đe dọa
nghiêm trọng tới toàn ngành xuất khẩu nông thủy sản và đặc biệt là khu vực
DNN&V còn non yếu về nhiều mặt này.
Nhƣ vậy, tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam phải nâng cao nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các DNN&V để khu vực doanh nghiệp này để
hạn chế thấp nhất những bất lợi cho các DNN&V khi hội nhập với thị trƣờng
quốc tế. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải xây dựng một chiến lƣợc có tầm
nhìn dài hạn để phát triển cho khu vực các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông
thủy sản ra nƣớc ngoài, để từ đó đẩy mạnh tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu
ngành hàng nông thủy sản và thực hiện những mục tiêu phát triển quốc gia.
Mặc dù chiến lƣợc đƣợc thiết lập trong dài hạn, nhƣng trong bối cảnh kinh tế
hiện nay, những biến động kinh tế thƣờng xuyên diễn ra, đặc biệt là cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu đang đƣợc dự báo là sẽ kéo dài đến hết năm
2009 sẽ khiến cho cả nền kinh tế thế giới lao đao và làm giảm mạnh kim ngạch
xuất khẩu hàng nông thủy sản Việt Nam, nên em cũng phân tích những thực
trạng cũng nhƣ những giải pháp hiện thời nằm trong chiến lƣợc để thích nghi
một cách linh hoạt với những sự biến động kinh tế đang và sẽ diễn ra.
Để thực hiện thành công chiến lƣợc, phải có sự phối hợp chặt chẽ cả từ
phía các DNN&V và về phía Nhà nƣớc, nhƣng những tác động từ phía Nhà
nƣớc để hỗ trợ và tạo môi trƣờng thuận lợi cho các DNN&V hoạt động là
quan trọng hơn và yêu cầu phải đƣợc thực hiện một cách kịp thời, nhanh
104
chóng. Vì thế, trong bài viết này, em chỉ cố gắng đƣa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện chiến lƣợc vĩ mô từ phía Chính Phủ để tạo ra điều kiện thuận
105
lợi giúp khu vực DNN&V từng bƣớc phát triển
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Lan Anh (2000), “ Quản lý chiến lược”, NXB KHKT, TP Hồ Chí
Minh.
2. Arikko (2004), “Sự quốc tế hóa các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt
Nam”, chƣơng trình giảng dạy tại trƣờng ĐH Kinh tế Stockholm.
3. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thƣờng Lạng (2004), “Giáo trình Kinh tế quốc
tế”, NXB KHKT, Hà Nội
4. Bộ NN & PTNT - Viện Kinh tế nông nghiệp (2002). “Kỷ yếu khoa học
nghiên cứu kinh tế NN & PTNT (1986-2005)”, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội.
5. Bộ Thủy sản (2006), “Chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến
năm 2010 và tầm nhìn 2020”, Hà Nội.
6. Bộ Thủy sản, Viện kinh tế và Quy hoạch thuỷ sản (2003), “Quy hoạch
tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 báo cáo tóm tắt”, Hà Nội.
7. Bộ Kế hoạch & Đầu tƣ, Cục phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa
(2008), “Báo cáo thường niên doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
8. Trần Xuân Châu (2003), “Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đỗ Văn Hải (1998), “Nghiên cứu định hướng chiến lược phát triển
DNN&V ở Việt Nam đến hết năm 2010”, Đề tài nghiên cứu khoa
học, Bộ Kế hoạch & Đầu tƣ.
10. Đào Xuân Huy (2004). “Chiến lược kinh doanh trong toàn cầu hóa
kinh tế”, NXB Thống kê, Hà Nội.
11. Cao Bá Khoát (2003), “Tên doanh nghiệp - Thực trạng và giải
pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ Kế hoạch & Đầu tƣ, Hà Nội.
12. Phạm Chi Lan, Claudio Dordi và các tác giả khác (2008), “Đánh
106
giá tác động tổng thể khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO
đến xuất nhập khẩu và các thể chế”, Bộ Công thƣơng phối hợp với
ủy ban Châu Âu.
13. Vũ Chí Lộc (2004), “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang thị trường Châu Âu”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
14. Bùi Xuân Lƣu (1987). “Giáo trình kinh tế ngoại thương”, NXB
Giáo Dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Thanh Nga (2005), “Chiến lược xuất khẩu nông sản
đến năm 2010’’, Luận văn thạc sĩ kinh tế, trƣờng ĐH Ngoại Thƣơng,
Hà Nội.
16. Lê Võ Thanh (2002), “Xuất khẩu hàng nông sản trong chiến lược
đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, trƣờng
ĐH Ngoại Thƣơng, Hà Nội.
17. Tô Đình Thái (2004), “Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn làm cơ sở để để xây dựng chiến lược hỗ trợ phát triển DNN&V
Việt Nam từ năm 2004 đến hết 2010”, Cục phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa, Bộ Kế hoạch & Đầu tƣ.
18. Trung tâm Thông tin phát triển Nông nghiệp nông thôn (2008), Báo
cáo thƣơng mại nông sản Việt nam sau 2 năm gia nhập WTO.
19. Tạp chí kinh tế và dự báo số 4/2004.
20. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam VASEP,
http://www.vasep.com.vn
21. Trung tâm tin học thủy sản, Bộ Nông nghiệp và PTNT
http://www.fistenet.gov.vn
22. Trung tâm Thông tin phát triển Nông nghiệp nông thôn, Viện Chính
sách và Chiến lƣợc PTNNT, Bộ Nông nghiệp và PTNT,
http://www.agro.gov.vn
23. Thời báo kinh tế Việt Nam, http://www.vneconomy.vn
24. Tin nhanh Việt Nam, http://www.vnexpress.net
25. Tổ chức Nông Lƣơng Thế giới FAO, http://www.fao.org
107
26. Tổng cục thống kê, http://www.gso.gov.vn