BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA VẬT LÍ
‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Nguyễn Mạnh Hùng
Sinh viên thực hiện: Lê Bá Mạnh Hùng
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2008
LỜI CẢM ƠN
Để có thể được làm luận văn tốt nghiệp này, lời dầu tiên, tôi xin chân
thành cảm ơn toàn thể quí thầy cô giảng viên khoa Vật Lý, cảm ơn quý thầy cô
đã tận tình dạy dỗ tôi trong bốn năm học qua.
Để hoàn thành luận văn này, trước hết, tôi xin gửi cảm ơn chân thành,
sâu sắc nhất đến thầy Nguyễn Mạnh Hùng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo, động viên tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Kế đến, tôi xin cảm ơn thầy Nguyễn Văn Vinh đã cho phép tôi giảng dạy
tại lớp, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo các kinh nghiệm giảng dạy trong quá trình
tôi vận dụng thực giảng phương pháp mới.
Ngoài ra, tôi cũng xin cảm ơn ban giám hiệu trường THPT Bùi Thị
Xuân, Quận I đã tạo điều kiện cho phép tôi giảng dạy thử phương pháp mới tại
trường.
Lời cuối cùng, tôi xin kính chúc quí thầy cô trong ban giám hiệu nhà
trường cùng toàn thể quý thầy cô trong khoa Vật Lý sức khỏe, thành đạt, niềm
vui trong cuộc sống và công việc.
Sinh viên Lê Bá Mạnh Hùng
Niên khóa 2004-2008
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
- Theo tôi, một người giáo viên khi đứng trên bục giảng không phải chỉ có vai trò,
nhiệm vụ như một người thông báo cho học sinh các kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa, không phải chỉ cần nắm vững kiến thức là có thể đứng trên bục giảng và nghiễm
nhiên trở thành một người thầy. Người thầy giáo khi đứng trên bục gảng để đảm đương
đầy đủ và đúng nghĩa vai trò của mình cần phải trang bị cho bản thân không chỉ vốn kiến
thức, hiểu biết khoa học rộng mà điều quan trọng hơn cả là phải có phương pháp giảng
dạy tốt, phải có cách thức giảng làm sao để học sinh- người học dễ hiểu, hiểu đúng và
vận dụng được các kiến thức đó vào cuộc sống, đồng thời qua đó, giáo dục người học khả
năng tự lực, tích cực chiếm lĩnh tri thức, hướng đến khả năng tự học ở bản thân mỗi
người học.
- Tuy nhiên, thực tế nền giáo dục truyền thống, vấn đề phương pháp giảng dạy chưa
được quan tâm đúng mức, người dạy chỉ truyền thụ các kiến thức có sẵn, mang tính chất
thông báo, người học chỉ tiếp nhận thông tin một chiều, kết quả là quá trình dạy học đào
tạo ra những con người chỉ là những thợ học, thụ động, thiếu khả năng xử lí linh hoạt với
các tình huống trong cuộc sống.
- Hiện nay, việc đổi mới phương pháp, phát huy tính tích cực, tự lực trong dạy học
được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Bản thân tôi là một sinh viên sư phạm, chuẩn bị ra
trường trở thành người giáo viên nên việc nghiên cứu, rèn luyện cho bản thân một
phương pháp dạy học phù hợp là rất cần thiết và có ích.
- Do đó, tôi đã chọn bộ môn phương pháp giảng dạy để làm luận văn tốt nghiệp. Được
sự hướng dẫn, giới thiệu của thầy Nguyễn Mạnh Hùng, tôi đã chọn và thực hiện đề tài:
“Tổ chức dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lý 11- nâng cao) theo định
hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh” làm luận văn tốt nghiệp. Hy vọng rằng
với đề tài này, tôi có thể chuẩn bị cho mình hành trang để trở thành người giáo viên tốt
trong tương lai.
2. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài:
- Do thời gian làm luận văn có hạn, những tài liệu mà tôi tiếp cận cũng không nhiều
nên những nghiên cứu liên quan đến đề tài, tôi cũng không được trực tiếp đọc và nghiên
cứu. Đa số những tư liệu mà tôi sử dụng trong bài luận văn này đều được dịch lại và biên
soạn lại theo tư tưởng của các tác giả trong nước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu những tài
liệu có được, tôi cũng có một số thông tin về các nghiên cứu liên quan đến phương pháp
dạy học tích cực.
- Trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền giáo dục phát triển, phương pháp giáo dục
nhằm hướng đến phát huy tính tích cực, tự lực, năng lực tư duy sáng tạo đã được nghiên
cứu từ rất lâu. Cụ thể là nhà giáo dục Đức A. Đixtervec đã khởi xướng phương pháp giáo
dục tích cực từ năm 1956. Đến những năm 70 của thế kỉ XX, ông I.F. Kharlamop đã
nghiên cứu sâu sắc hơn và hệ thống lại trong các phương pháp giáo dục tích cực của nền
giáo dục Xô viết trong cuốn sách “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào ?”
(Sơ thảo về lý luận dạy học) (NxbGD.1978. Người dịch: Đỗ Thị Trang, Nguyễn Ngọc
Quang). Ngoài ra còn rất nhiều tác giả khác như Polya, K.Đ. Usinxki, M.Vaxiliep, L.V.
Đancôp, A.Anhstanh(Mỹ)….
- Ở nước ta, ngày nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học
tích cực của các tác giả Phạm Hữu Tòng, Nguyễn Ngọc Quang,… Từ những năm 90, giới
nghiên cứu LLDH Việt Nam tập trung nghiên cứu Phương pháp giáo dục tích cực LẤY
NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM với định nghĩa và các đặc trưng cơ bản sau:
“ PPGD tích cực lấy người học làm trung tâm là sự tích hợp thường xuyên các mối
quan hệ giáo dục trò – lớp – thầy trong quá trình hoạt động giáo dục theo quan điểm
người học là trung tâm với những đặc trưng cơ bản sau đây:
1) Trò là chủ thể của hoạt động giáo dục.
2) Lớp – Lớp học là cộng đồng các chủ thể, là thực tiễn xã hội ngày nay và cả ngày mai
của người học ở ngay trong nhà trường. Lớp học được tổ chức nhằm mục đích giáo dục,
làm môi trường xã hội trung gian giữa trò và thầy.
3) Thầy là người định hướng, đạo diễn cho học sinh tự mình khám phá ra kiến thức cùng
với cách tìm ra kiến thức. Là người tổ chức cho trò biết cách hành động và hợp tác với
các bạn và thầy để tự mình khám phá ra chân lí, cùng với cách tìm ra và ứng dụng chân lí
trong cuộc sống.
4) Tự đánh giá, sau khi trao đổi, hợp tác với bạn và dựa vào kết luận của thầy người học
tự đánh giá lại sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa chữa lỗi lầm mắc phải trong sản phẩm
đó, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách giải quyết vấn đề và tự điều chỉnh, tự hoàn
thiện một sản phẩm tiến bộ hơn sản phẩm ban đầu, một sản phẩm khoa học.”
- Ngoài ra, còn một số đề tài luận văn của các anh chị là sinh viên trường Đại Học Sư
Phạm cũng nghiên cứu về phương pháp định hướng, tổ chức hành động học tập tích cực
cho học sinh cũng là các tài liệu hay để tham khảo.
- Tuy nhiên, phần nhiều những nghiên cứu trên mang nặng tính lí thuyết, khả năng
ứng dụng vào thực tế giảng dạy, phù hợp với hoàn cảnh giáo dục cụ thể là không cao.
Chính vì vậy, để bản thân tôi có một phương pháp giáo dục tích cực thích hợp và có thể
sử dụng để giảng dạy trong tương lai, tôi đã tiến hành nghiên cứu, làm luận văn: “Tổ
chức dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lý 11- nâng cao) theo định hướng
phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh”
3. Mục đích của việc nghiên cứu:
- Nghiên cứu phương pháp tổ chức hoạt động học tập vật lí tích cực, tự lực cho học
sinh trung học phổ thông, cụ phể là:
Phương pháp định hướng hành động học tập vật lí tự lực.
Phương pháp kích thích sự say mê, hứng thú, tích cực học tập vật lí .
Phương pháp kiểm tra đánh giá hành động học tập vật lí tích cực, tự lực cho học sinh
4. Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:
- Đọc tài liệu có liên quan
- Xây dựng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh
- Soạn giáo án theo lí thuyết đã đề ra
- Vận dụng giảng một số tiết học
- Rút kinh nghiệm, hoàn thiện lí thuyết đã đề ra.
5. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu và tham khảo các tài liệu về tâm lí, giáo dục học đại cương, triết học,…
có liên quan đến phương pháp dạy học và các tài liệu về phương pháp dạy học tích cực.
- Phương pháp thực nghiệm: vận dụng lí thuyết đã nghiên cứu, rút kết được vào việc
soạn giáo án một số bài trong chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lí 11- nâng cao)
sau đó vận dụng thực tế giảng dạy và rút ra các kết luận.
6. Phạm vi giới hạn của đề tài:
- Do thời gian và khả năng của em có hạn, việc nghiên cứu và ứng dụng đề tài chỉ áp
dụng cho một số bài trong chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lí 11- nâng cao). Cụ
thể là bài:
Thấu kính mỏng
Mắt
Kính lúp
Thực hành: “Đo tiêu cự của thấu kính phân kì”
Đồng thời, để dễ dàng hơn cho việc soạn giáo án và tiến hành giảng dạy, luận văn này
chỉ tiến hành thực giảng trên đối tượng học sinh giỏi, khá, các em học sinh trong lớp học
khá đều nhau.
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÍ LUẬN
A. CƠ SỞ CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
I. Tại sao phải dạy học theo hướng phát triển tính tích cực, tự lực
cho học sinh?
Xã hội hiện nay phát triển không ngừng, sự phát triển này làm thay đổi rất
nhiều vấn đề kinh tế xã hội, nó tác động đến nhiều mặt của cuộc sống. Những kiến thức
mới không ngừng được tạo ra và phát triển, dạy học không thể cung cấp cho học sinh
toàn bộ những kiến thức tự nhiên, xã hội,…mà dạy học chỉ có thể rèn luyện cho người
học khả năng tích cực, tự chủ, năng động, có khả năng thích nghi cao với hoàn cảnh
sống không ngừng thay đổi.
Trong Nghị quyết TW lần 4 về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo” (tháng 1-1993) đã nhấn mạnh việc đào tạo những con người tự chủ, năng động và
sáng tạo, có đủ năng lực giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, tự do được việc
làm, lập nghiệp, thăng tiến trong cuộc sống và qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay đã được xác định rõ tại hội nghị ban
chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 2 (khóa VIII). Đó là đào tạo thế hệ trẻ có
những phẩm chất năng lực sau:
- Có lí tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, ý chí kiên cường,
xây dựng đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ Tổ quốc.
- Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam.
- Có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa
học hiện đại. Có tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có
tính tổ chức kỉ luật.
- Có sức khỏe.
Muốn đào tạo được con người khi vào đời là con người tự chủ, năng động,
sáng tạo thì phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và
phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động và sáng tạo ngay trong học
tập và lao động ở trường và ở nhà.
Các phương pháp dạy học đã có hiện nay chủ yếu chỉ dựa trên những yêu
cầu của xã hội cũ, chủ yếu là việc cung cấp và truyền thụ các kiến thức và kĩ năng tương
ứng theo một chiều: “Thầy truyền thụ, trò tiếp nhận”. Có hai hình thức chủ yếu:
+ Kiểu dạy thứ nhất là người giáo viên truyền đạt (thông báo) cho học sinh các tri
thức về thế giới tự nhiên và phương thức hoạt động của con người, còn học sinh thì tiếp
thu các thông tin ấy một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua các phương tiện khác
nhau như lời nói, đồ vật, với các hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Học sinh cố gắng
hiểu, ghi nhận và ghi nhớ các thông tin ấy. Dù giáo viên hoạt động giảng bài hay cho học
sinh nghiên cứu sách giáo khoa, hay dùng các phương tiện hiện đại như phim, ảnh, máy
chiếu hình, các thí nghiệm… thì bản chất của nó vẫn là thầy cung cấp thông tin còn học
sinh thì tiếp thu thông tin với tất cả các phương tiện mình có. Kiểu dạy học này còn được
gọi là giải thích- minh họa hoặc thông tin- tiếp thu.
+ Kiểu dạy thứ hai là giáo viên tạo ra những điều kiện để học sinh nhớ lại, củng cố,
vận dụng theo mẫu những tri thức và phương thức hoạt động mà học sinh đã tiếp thu
được từ giáo viên. Nó thể hiện ở việc giáo viên cho luyện tập, làm bài tập, làm các thí
nghiệm theo mẫu hoặc có cải biên… Kiểu dạy học này dùng củng cố kiến thức, rèn luyện
kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh và được gọi là dạy học tái hiện.
Với nhịp độ phát triển của khoa học, kĩ thuật, công nghệ, của mọi mặt đời sống xã hội
nhanh chóng đến mức trong một đời người đã diễn ra nhiều thay đổi, con người có thể
tiếp nhận thông tin tri thức từ nhiều nguồn khác nhau, người thầy không thể nắm vững và
truyền thụ hết tất cả các thông tin cho học trò, con người cần phải tự lực tiếp thu thêm các
tri thức, kĩ năng mới, biết phát hiện và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh một cách tự
lực, sáng tạo. Chính những đòi hỏi này đặt ra yêu cầu đối với dạy học nói chung và với
dạy học vật lý nói riêng là cần phải có một phương pháp mới nâng cao tính tích cực, tự
lực của người học.
Phương pháp nói trên trong khoa học giáo dục thuộc về hệ thống các “phương pháp
giáo dục tích cực”, lấy người học làm trung tâm, người học giữ vai trò chủ động, tích cực
trong quá trình học tập và không còn ở thụ động như khi dùng phương pháp cổ truyền.
II. Cần thiết và có thể dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
tự lực của học sinh (Cơ sở của phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh)
1. Cơ sở sinh học
Học thuyết Pavlôp về phản xạ có điều kiện với lí luận dạy học:
Cũng như các động vật khác, con người sinh ra đã có sẵn một số kiến thức làm cơ sở
cho hành động, do những phản xạ không điều kiện.
Tuy nhiên các “kinh nghiệm di truyền” là không nhiều và chỉ thích hợp với một số
hoàn cảnh xác định, bất biến trong khi môi trường sống là đa dạng và luôn biến động. Do
đó, động vật và người sống được là phản ứng có hiệu quả với các tác nhân mới lạ của môi
trường, nhờ cơ chế thành lập các phản xạ có điều kiện trong thực tiễn cuộc sống hằng
ngày.
Nhờ dạy học các phản xạ có điều kiện mà ta điều chỉnh được các hành động một cách
tích cực, chủ động và ăn khớp với môi trường sống. Pavlop tiến hành thí nghiệm cho chó
ăn cơm sau khi bật đèn sáng hoặc bấm chuông. Lặp đi lặp lại nhiều lần, tạo thành phản xạ
có điều kiện.
Theo Pavlôp, dạy là thành lập những phản xạ có diều kiện hình thành kinh nghiệm
hành động, học là hình thành những phản xạ trả lời mới chưa có trong vốn phản xạ không
điều kiện được di truyền.
Cơ chế hình thành một phản xạ có điều kiện là phối hợp một kích thích có điều kiện
với một kích thích không điều kiện để tạo ra một trả lời không điều kiện. Theo đó, quá
trình dạy học gồm các khâu chủ yếu sau:
+ Xác định yêu cầu dạy học
+ Tăng hiệu quả dạy học
Theo học thuyết này, bài học là do người thầy đưa ra, áp đặt cho đối tượng học, mục
đích và nội dung đều do người thầy định đoạt. Đó là dạy học thụ động, lấy việc dạy
(người thầy) làm trung tâm, người học thụ động tiếp thu những gì thầy truyền đạt.
Học thuyết B.F. Skinner
Theo Skinner, học là tự điều hòa hành vi dẫn đến một hành vi mong muốn bằng cách
thử sai.
Thí nghiệm nổi tiếng theo trường phái Skinner là dạy bồ câu cách chọn đúng thức ăn
trong đời sống thiên nhiên, dạy chuột đạp cần câu cơm…
Trong các thí nghiệm trên, mục tiêu, động cơ hành động của người học (chim bồ câu,
chuột) là không do chủ quan người dạy áp đặt mà xuất phát từ động cơ bình thường trong
đời sống, người dạy dạy cái mà người học cần chứ không chỉ áp đặt theo ý đồ riêng của
mình.
Từ thực nghiệm, Skinner rút ra được ba quan niệm lí thuyết:
- Chỉ học cái đang làm, làm là để học. Hiểu biết tức là hành động có hiệu quả.
- Học bằng kinh nghiệm: trẻ phải được tiếp xúc với môi trường nó đang sống. Giáo
viên phải cung cấp cho học sinh cơ hôi tích lũy kinh nghiệm bản thân.
- Học bằng cách thử sai.
Theo Skiner, ông có khuynh hướng lập lại hành vi nào đem lại hiệu quả và có lợi,
động cơ học là ích lợi, vì vậy trong dạy học cần phải luôn có thưởng tức thì. Học thuyết
Skinner còn gọi là học thuyết về phản xạ có điều kiện chủ động, bài học là vì lợi ích của
chính người học, mục đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học quyết
định. Đó là dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm. Trong quá trình này, người
học tích cực, tự lực, chủ động tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình.
(Tài liệu tham khảo 4)
2. Triết học
Theo quan điểm nhận thức luận duy vật biện chứng thì quá trình nhận thức diễn ra
theo con đường: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”. Cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn là
động lực, mục đích và tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức. Thực tiễn là
những hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội. Thực tiễn bao gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện
và kết quả... và nhiều dạng hoạt động. Chính từ trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
mà nhận thức con người được hình thành và phát triển. Quá trình học tập của học sinh về
bản chất là quá trình nhận thức những kinh nghiệm của nhân loại đã tích lũy được. Do đó
quá trình này cũng phải được tổ chức theo các qui luật nhận thức của chủ nghĩa duy vật,
tức là phải thông qua hoạt động thực tiễn của chính học sinh.
Theo qui luật phát triển của sự vật, ngoại lực dù quan trọng đến đâu cũng chỉ là nhân
tố hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện, nội lực mới là nhân tố quyết định sự phát triển của bản
thân sự vật. Sự phát triển đạt được cao hay thấp tùy thuộc vào sự kết hợp giữa ngoại lực
và nội lực. Khi ngoại lực và nội lực cộng hưởng với nhau thì sự phát triển đạt trình độ
cao nhất. Áp dụng quy luật trên vào quá trình dạy học: Thầy- dạy, tác động dạy của thầy
là ngoại lực, môi trường giáo dục (lớp học, nhà trường, xã hội…) cũng là ngoại lực. Trò-
học mà học là quá trình hoạt động nhận thức của chủ thể trò thì bản thân sức tự học, tự
phát triển của trò là nội lực. Tác động của thầy dù quan trong đến đâu cũng chỉ là ngoại
lực, là yếu tố thúc đẩy, xúc tác, tạo điều kiện cho trò phát triển và trưởng thành. Tác động
của môi trường xã hội cũng chỉ là ngoại lực tạo điều kiện thuận lợi cho người học. Sự tự
học hay năng lực tự học của trò dù là non nớt đến đâu vẫn là nội lực quyết định sự phát
triển của bản thân người học. Chất lượng giáo dục đạt đỉnh cao khi tác động của ngoại
lực (thầy, môi trường học tập) cộng hưởng được với nội lực- năng lực tự học của trò.
Chính vì vậy, hoạt động dạy học cần được tổ chức sao cho người học phát huy được
tối đa tinh thần tích cực, tự lực, hoàn thành các nhiệm vụ học tập nhằm phát triển, hoàn
thiện nhân cách bản thân.
3. Giáo dục học
Theo quan điểm của giáo dục học, học là hành động của người học thích ứng với tình
huống, qua đó, người học chiếm lĩnh được kinh nghiệm xã hội, lịch sử biến thành năng
lực thể chất tinh thần của cá nhân, hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân.
Mục đích của giáo dục là phát triển nhân cách của người học một cách toàn diện và
hài hòa. Trong cấu trúc của cá nhân thì phát triển trí tuệ giữ vai trò quyết định, chính vì
vậy, việc tổ chức hoạt động dạy học sao cho người học hình thành được nhân cách tự
chủ, tích cực, sáng tạo, có khả năng giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra là rất cần
thiết.
4. Tâm lý học
Tâm lí học hoạt động là một trong những cơ sở quan trọng khẳng định yêu cầu của
việc tổ chức hoạt động học tập tích cực, tự lực cho học sinh.
Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ của mình với thế giới bên
ngoài (tự nhiên và xã hội), giữa mình với người khác, giữa mình với bản thân. Trong quá
trình đó, con người bộc lộ tâm lí (năng lực, ý chí, mong muốn…) ra bên ngoài. Diễn ra
song song với quá trình này là quá trình con người chuyển đối tượng hoạt động của mình
vào thế giới nội tâm tạo nên tâm lí, nhân cách bản thân. Tóm lại, trong quan hệ giữa mình
với bên ngoài, con người vừa thay đổi thế giới bên ngoài, vừa thay đổi bản thân, vừa tạo
ra sản phẩm lao động đồng thời hình thành nên nhân cách bản thân.
Cấu trúc hoạt động (theo A.N Lêonchive) bao gồm: động cơ, mục đích, các hành
động, các thao tác.
Dạy học là một chức năng xã hội nhằm truyền thụ, giúp đỡ cho người học lĩnh hội
được kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được, nhằm biến kinh nghiệm xã hội
thành phẩm chất, năng lực cá nhân.
Hoạt động dạy học bao gồm hai hoạt động liên quan mật thiết với nhau, đó là hoạt
động dạy và hoạt động học. Theo D.B Enconin, có 3 thành phần cơ bản của cấu trúc dạy
học:
- Thứ nhất là các động cơ, hoạt động nhận thức: phải được kích thích từ những động
cơ phù hợp.
- Thứ hai là các nhiệm vụ học tập, là hình thức học sinh đề ra cho mình dưới hình
thức bài toán có vấn đề, chính điều này tạo ra tình huống có vấn đề hay tình huống học
tập mà nếu giải quyết được vấn đề này thì học sinh thực hiện được mục tiêu mà bản thân
đã đề ra.
- Thứ ba là các hành động học tập: Học sinh giải quyết được các nhiệm vụ học tập
của mình nhờ các hành động học tập, hành động tách các vấn đề từ nhiệm vụ học tập
được đề ra, hành động vạch ra phương thức chung để giải quyết các vấn đề trên cơ sở
phân tích các quan hệ chung trong tài liệu học tập, hành động mô hình hóa các quan hệ
chung của tài liệu học tập, các phương thức chung để giải quyết vấn đề học tập, hành
động cụ thể hóa, phong phú hóa các thể hiện cục bộ, riêng lẻ của các quan hệ chung và
các phương thức hành động chung, hành động kiểm tra tiến trình và kết quả hành động,
hành động đánh giá kết quả hành động học tập và tự điều chỉnh.
Dưới góc độ tâm lí hoạt động, giống như người lớn, trẻ là một thực thể hoạt động mà
hành động bị chi phối bởi qui luật hứng thú và nhu cầu, sẽ không đem lại hiệu suất đầy
đủ nếu người ta không động viên tới những động cơ tự do của hoạt động ấy.
Trong phương pháp giáo dục truyền thống, người thầy giáo ngấm ngầm hay công khai
coi đứa trẻ như người lớn thu nhỏ cần dạy dỗ và làm cho nó giống với mẫu người lớn
nhanh chừng nào hay từng ấy, hoặc phải uốn nắn đối với những hành vi sai khác truyền
thống hơn là tạo dựng. Quan điểm này chi phối phần lớn phương pháp sư phạm của
chúng ta, ngay cả hiện nay, tư tưởng này vẫn rất phổ biến, nhà giáo ngăn cấm hoặc hầu
như rất ít khi tạo điều kiện cho người học hoạt động một cách tích cực, tự lực. Tiếp nhận
quan điểm giáo dục này, người học chỉ có nhiệm vụ tiếp thu từ bên ngoài những sản
phẩm chế biến sẵn của tri thức và đạo đức của ngời lớn, mối quan hệ giáo dục được tiến
hành bằng áp lực của một phía và sự tiếp nhận của phía bên kia. Từ quan điểm đó, những
công việc của học sinh, ngay những việc làm cá nhân nhất (làm một bài văn, bài toán,
viết một bài luận…) rất ít khi là sự tìm tòi, nghiên cứu của cá nhân, chỉ là sự luyện tập bị
áp đặt hoặc sự sao chép theo mẫu bên ngoài.
Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp là cần thiết để xây dựng được con người có
nhân cách tích cực mà mục tiêu dạy học đã đề ra.
III. Đặc điểm bộ môn vật lý:
Vật lí học là môn khoa học tự nhiên, các kiến thức vật lí được hình thành chủ yếu dựa
vào các thao tác tư duy, suy diễn, tiên đoán, mang rất nhiều dấu ấn của sự sáng tạo. Vì
vậy, trong quá trình người học tiếp thu các kiến thức vật lí, có nhiều điều kiện thuận lợi
để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, tự lực.
B. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
I. Phương pháp dạy học tích cực:
Hệ phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm gọi tắt là phương
pháp dạy học tích cực được xem như một hệ thống phương pháp tích cực có thể đáp
ứng được các yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục thế kỉ XXI, có khả năng định
hướng cho việc tổ chức quá trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình cá nhân
hóa và xã hội hóa việc học. Hệ thống phương pháp đó cũng là sự kết hợp, tích hợp
nhiều phương pháp gần gũi nhau như phương pháp tích cực, phương pháp hợp tác,
phương pháp giải quyết vấn đề, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học…. Hệ
thống đó cũng là sự kết hợp tư tưởng và thành tựu giáo dục hiện đại của thế giới với
truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học và tư tưởng giáo dục tiến bộ của dân tộc.
Trong phương pháp này, người học không thụ động, chỉ nghe thầy giảng và thu
nhận tri thức mà thông qua sự tổ chức, hướng dẫn của thầy, người học tích cực, tự lực
thu nhận được các kiến thức, phương pháp học tập cho bản thân.
1. Các đặc trưng cơ bản của hệ phương pháp dạy học tích cực:
Người học, chủ thể của hoạt động học, tự học, tự nghiên cứu, tự mình
tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, tức là cá nhân hóa
việc học
Người học không phải được đặt trước những kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa mà tự đặt mình vào các tình huống, vấn đề thực tế, cụ thể và sinh động của
cuộc sống, từ đó thấy có nhu cầu, hứng thú giải quyết những vật cản, mâu thuẫn
trong nhận thức của mình để tự tìm ra cái mình chưa biết, cái cần khám phá. Tự
đặt mình vào các tình huống của cuộc sống, người học quan sát, tự nghiên cứu,
làm thí nghiệm, đặt giả thuyết, đặt vấn đề. Quá trình lĩnh hội chân lí của người học
cũng là quá trình hành động làm theo một phần nào đó (của học trò) con đường
của các bậc tiền bối đã phát minh ra những chân lí đó. Tri thức và phương pháp
người học đã tự lực khám phá ra không dập theo một khuôn mẫu có sẵn, đều là tri
thức và phương pháp mới do hoạt động tự lực đi tìm cái chưa biết mang tính chất
sáng tạo đối với người học. Khó khăn, vật cản, sai sót mắc phải trong quá trình tự
mình đi tìm cái chưa biết chỉ là những sự cố giúp người học hiểu đầy đủ chân lí
Khách thể
Tự tìm
Trò
Thầy
Tác nhân
Chủ thể
hơn và tìm ra chân lí.
Học một biết mười chính là học cách học, học cách làm, cách giải quyết vấn
đề, cách xử lí các tình huống, cách tìm ra chân lí, phát huy tìm năng tự học, sáng
tạo trong mỗi con người. Lấy bất biến ứng vạn biến chính là nắm cho được
nguyên lí côt lõi, cách tiếp cận, cách sống… để vận dụng thiên biến vạn hóa.
Học để hành, hành để học, tức là tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính
mình nhằm mục tiêu con người hành động, con người thực tiễn. Học và hành phải
đi đôi. Học mà không có hành thì học vô ích. Hành mà không có học thì hành
không trôi chảy ( Hồ Chí Minh). Cách tốt nhất để hiểu là làm (Emanuel Kant, triết
gia Đức). Suy nghĩ tức là hành động (Jean Piaget, nhà tâm lí Thụy Sĩ). Chính vì
vậy, quá trình học kiến thức cần phải kết hợp chặt chẽ, đi đôi với việc rèn luyện
các kĩ năng tương ứng.
“Tôi nghe tôi quên
Tôi nhìn tôi nhớ
Tôi làm tôi hiểu”
Quá trình người học tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức cũng là quá trình người
học tự tìm ra ý nghĩa của việc học, chiếm lĩnh kĩ xảo của nhận thức và tạo ra các
cầu nối của nhận thức. Đó là quá trình cá nhân hóa việc học.
Tât nhiên tri thức người học tự tìm ra dễ mang tính chủ quan, phiến diện, thiếu
khoa học. Bằng con đường nào có thể làm cho tính chất cá nhân đó trở thành
khách quan, khoa học thật sự? Đó là con đường người học tự thể hiện mình để hợp
tác với các bạn trong cộng đồng lớp học.
Người học tự thể hiện mình, hợp tác với các bạn trong cộng đồng lớp học,
làm cho kiến thức cá nhân tự tìm ra mang tính chất xã hội, khách quan
hơn, tức là xã hội hóa việc học.
Học cá nhân đi đôi với học bạn, nơi học bạn thường ngày là lớp học. Lớp học
là cộng đồng các chủ thể, là thực tiễn xã hội ngày nay và cả ngày mai của người
học ngay trong nhà trường.
Được tổ chức nhằm mục đích giáo dục, lớp học là môi trường xã hội trung gian
giữa thầy và trò.
Trong thời đại ngày nay, hoạt động lao động xản xuất, nghiên cứu khoa học
hay quản lí xã hội. Hành động giáo dục diễn ra trong môi trường xã hội – lớp học
Khách thể
Lớp
Trò
Thầy
Tác nhân
Chủ thể
không thể nào là hành động cá nhân thuần túy mà cũng phải là hoạt động hợp tác.
Tri thức vừa là sản phẩm của cá nhân người học vừa là sản phẩm của xã hội
lớp học trước khi trở thành sự thật khoa học.
Mặt khác, học giao tiếp xã hội, học cách sống không thể học riêng lẻ một mình
được mà phải học giao tiếp ngay trong cuộc sống xã hội. Lớp học là nơi giao tiếp
thường xuyên, nơi mặt đối mặt, giữa trò và trò, giữa trò và thầy, có thể bố trí lại
theo không gian hình tròn hay không gian hình chữ U thuận lợi cho việc đối thoại
trò- trò đối mặt với nhau.
Trong quá trình tự lực khám phá ra tri thức, người học có thể tạo ra sản phẩm
ban đầu có tính chất cá nhân gồm tri thức mới, phương pháp hành động mới, song
sản phẩm có thể chưa mang tính khách quan khoa học đầy đủ. Thông qua việc
trình bày, bảo vệ sản phẩm của mình ở tập thể lớp học, trao đổi, tranh luận với các
bạn cùng lớp, kiến thức chủ quan của người học mới giảm bớt phần chủ quan,
phiến diện, tăng thêm tính khách quan khoa học. Học bạn, hợp tác với bạn, người
học mới có thể tự nâng mình lên trình độ mới.
Trong quá trình lao động tập thể, tranh luận ở lớp học, thường diễn ra các tình
huống đấu tranh giữa chủ quan và khách quan, đúng và sai, khẳng định và phủ
định, cá nhân và tập thể…Các tình huống đó lập đi lập lại làm cho người học phát
hiện ra các mối quan hệ cần duy trì với các sự vật và người khác, dần dần tìm ra
được cách ứng xử với sự vật và con người, từ đó, quá trình khám phá tri thức mới
cũng là quá trình hình thành nhân cách thông qua vai trò của lớp học được tiến
hành.
Như vậy, tác động xã hội hóa của sự hợp tác trò- trò, của cộng đồng lớp học là
vô cùng quan trọng, không thể thiếu được, song vẫn là ngoại lực, có thể trở nên
hình thức nếu không dựa trên cơ sở phát huy khả năng tự lực, năng lực tự học, tính
tích cực, chủ động của người học, thông qua các hoạt động hợp tác, người học
phải chủ động thể hiện mình, tức là tự đặt mình vào tình huống nhiệm vụ học, đưa
ra cách xử lí tình huống, tự trình bày và bảo vệ đến cùng sản phẩm nghiên cứu của
bản thân mình, tỏ rõ thái độ của mình trước ý kiến của bạn, tranh luận đúng sai,
tập giao tiếp, hợp tác với các bạn trong quá trình tự tìm ra kiến thức, tự rút ra kết
luận, bài học cho bản thân qua các hành động tập thể…
Tuy nhiên, cả cá nhân và cộng đồng các chủ thể có thể gặp phải những vấn đề
nan giải, những tình huống không xử lí được, những vật cản khó vượt qua, những
cuộc tranh luận không kết thúc được, những tri thức mới cả lớp chưa ai biết
đến…Và cuối cùng phải nhờ đến thầy.
Nhà giáo‐ người tổ chức quá trình học tập tích cực cho người học
Thầy chủ động điều hành tam giác sư phạm, lấy cực trò (việc học) làm trung
tâm quá trình giảng dạy của mình.
Trước hết, thầy là người hướng dẫn, đạo diễn cho người học tự tìm ra kiến thức
cùng với cách tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình. Thầy trở thành
người hướng dẫn, giúp đỡ người học tìm ra chân lí, khác hẳn người thầy truyền
Khách thể
Lớp
Tự tìm
Trò
Thầy
Tác nhân
Chủ thể
thụ kiến thức một cách cơ học.
Quan hệ thầy trò cũ diễn ra chủ yếu theo chiều dọc, từ quyền lực và năng lực
của thầy đến sự phục tùng của trò. Với phương pháp dạy học tích cực, quan hệ của
thầy và trò vẫn tồn tại, song dựa trên cơ sở thông cảm, tin cậy và hợp tác lẫn nhau,
và quan hệ theo chiều dọc trở thành không thường xuyên bằng quan hệ ngang giữa
trò – trò. Quan hệ ngang trở thành yếu tố chi phối tính năng động của lớp. Giao
tiếp giữa trò- trò, nhóm, lớp và học sinh thường xuyên hơn là giao tiếp giữa thầy
và trò.
Từ chỗ định hướng cho từng cá nhân người học tự nghiện cứu, giờ đây thầy lại
là người khởi xướng và tổ chức các mối quan hệ ngang trò- trò: tổ chức cho người
học hợp tác, học hỏi lẫn nhau trên cơ sở phát huy tính tự lực, chủ động tham gia
hoạt động tập thể của người học, thầy là người đạo diễn và dẫn chương trình hoạt
động học tập, trò là diễn viên tích cực tập sự sắm vai các nhân vật trong tình
huống học. Thầy kích thích trò hoạt động và can thiệp đúng lúc cần thiết để cho
các cuộc tranh luận và hoạt động đi đúng hướng hoặc để đặt lại vấn đề, nêu thêm
các tình huống mới nảy sinh trong tiến trình hoạt động tập thể, tạo điều kiện thuận
lợi cho tất cả người học đều thể hiện được mình và rút ra những kinh nghiệm, bài
học cụ thể qua hoạt động nhóm, tổ, lớp… để tự điều chỉnh làm cho kiến thức cá
nhân tự tìm ra mang tính xã hội, khách quan, khoa học hơn.
Cuối cùng, khi cá nhân và xã hội đứng trước cuộc tranh luận chưa ngã ngũ,
một tình huống không xử lí được…lúc đó vai trò không thể thay thế được của nhà
giáo là vai trò người trọng tài khoa học kết luận có tính chất khẳng định về mặt
khoa học các cuộc tranh luận ở tập thể lớp và xử lí đúng đắn các tình huống phức
tạp nổi lên trong quá trình hoạt động học. Kết luận của thầy là bài học cho người
học song không phải là bài học có sẵn trong sách giáo khoa mà là bài học tổng kết
từ những gì mà người học đã tự lực tìm ra với sự hợp tác của các bạn. Kết luận của
thầy là sản phẩm khoa học của cả trò, lớp và thầy: mô hình dạy học tích cực lấy
người học làm trung tâm, theo logic từ việc học đến việc dạy, nhưng vẫn thiết kế
theo hướng phát huy sự tương tác giữa các cực trò- lớp- thầy- khách thể, trong đó,
sáng kiến điều hành chung cả tam giác sư phạm bao giờ cũng thuộc về thầy: bao
giờ thầy cũng là người khởi xướng, tổ chức, hướng dẫn chương trình tự học, tự
nghiên cứu của trò. (Trong sơ đồ tam giác sư phạm, tác động lẫn nhau giữa các
cực bao giờ cũng xuất phát từ cực thầy, theo chiều mũi tên)
Tất nhiên thầy còn có chức năng kiểm tra, đánh giá việc học của trò.
Người học tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh
Trong quá trình tự mình tìm ra kiến thức, người học tạo ra một sản phẩm giáo
dục ban đầu có thể là chưa chính xác, chưa khoa học, sau khi hợp tác, trao đổi với
các bạn, người học đã tự điều chỉnh sản phẩm ban đầu của mình cho khách quan
hơn. Với kết luận cuối cùng của thầy, sản phẩm đó mới được diễn đạt một cách
thực sự khách quan, khoa học. Căn cứ vào kết luận của thầy, người học tự kiểm
tra, đánh giá lại sản phẩm ban đầu của mình và tự điều chỉnh, tự hoàn thiện thành
một sản phẩm tiến bộ hơn sản phẩm ban đầu, sản phẩm khoa học.
Người học có sai sót, đó là điều tất nhiên nhưng biết nhận ra sai sót của mình
và tự biết cách sửa sai, đó là người biết cách học, cần được thầy đánh giá là tốt.
Thầy kiểm tra, đánh giá người học căn cứ vào kết quả tự đánh giá và sửa sai
của học trò. Căn cứ vào kết quả ban đầu, thầy có thể sơ bộ cho một điểm, căn cứ
vào sản phẩm đã được sửa lại của trò, thầy chấm lại và cho điểm chính thức, có
tính đến hiệu quả tự đánh giá và sửa sai của người học nếu sản phẩm được sửa
chữa, bổ sung tốt. Đó là cách cho điểm cơ động, có tác dụng rất lớn trong việc
kích thích người học tự đánh giá, tự sửa sai, cải tiến phương pháp học.
Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi việc đánh giá của thầy phải có tác dụng
giáo dục, đào tạo thực sự tức là đánh giá trên cơ sở tự đánh giá, tự kiểm tra, tự
điều chỉnh của người học, bởi vì người học tự đánh giá được thì bao giờ cũng có
tác dụng đào tạo tốt hơn là chấp nhận một chiều sự đánh giá của người khác. Thầy
cần tạo điều kiện cho người học tham gia đánh giá việc học của mình như là:
Xác định chính xác các tiêu chí đánh giá và phổ biến cho người học nắm được
thật cụ thể .
Tạo điều kiện cho người học đánh giá lẫn nhau.
Cho người học tự đánh giá một phần công việc mà mình đã thực hiện trên cơ
sở đối chiếu một cách khách quan với bạn.
Tóm lại, có thể tổng hợp những đặc trưng của phương pháp giáo dục tích cực,
lấy người học làm trung tâm qua sự so sánh tóm tắt với những đặc trưng của
phương pháp giáo dục cổ truyền sau đây:
Phương pháp cổ truyền Phương pháp tích cực
Lấy trò làm trung tâm Lấy thầy làm trung tâm
- Trò tự mình tìm ra kiến thức bằng hành - Thầy truyền đạt kiến thức.
động của chính mình.
- Đối thoại thầy- trò, trò- trò, hợp tác với - Thầy độc thoại, phát vấn.
bạn, học bạn.
- Hợp tác với bạn, với thầy, khẳng định - Thầy áp đặt kiến thức có sẵn. kiến thức do trò tìm ra.
- Học cách học, cách giải quyết vấn đề,
- Trò học thuộc lòng. cách sống và trưởng thành.
- Thầy độc quyền, đánh giá, cho - Tự đánh giá, tự sửa sai, điều chỉnh làm cơ
điểm cố định. sở cho thầy cho điểm cơ động.
2. Các pha của quá trình dạy học theo hướng tích cực:
Có thể mô tả mối quan hệ trò - lớp - thầy đặc trưng cho phương pháp giáo dục tích
cực lấy người học làm trung tâm qua hoạt động dạy học cụ thể gồm 3 giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn 1: người học làm việc cá nhân trước tình huống khó khăn do thầy tổ
chức, tạo ra, người học tự đặt mình vào tư thế quan sát, tự nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện
ra các tính chất của đối tượng, nêu nhận xét, đề ra giả thuyết, suy luận… nhằm tìm ra
cách xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề để tự mình tìm ra kiến thức, chân lí, tạo
ra sản phẩm nhận thức ban đầu (mang tính chất cá nhân).
+ Giai đoạn 2: Sau khi từng cá nhân đã hành động, đưa ra những nhận xét riêng của
bản thân, thầy tổ chức cho trò tự thể hiện mình và làm việc theo nhóm, hợp tác làm việc
tập thể, qua đó hoàn thiện dần kiến thức mà bản thân thu nhặt được.
Các nhóm thống nhất ý kiến, bổ sung, sửa đổi, làm phong phú thêm nhận thức cá
nhân, nhóm. Tranh luận được mở rộng cho đến khi hết ý kiến và tạm đạt được sự nhất trí
chung trong tập thể học sinh.
Khi đó, thầy có thể can thiệp để chuyển sự quan sát, tư duy của trò sang một hướng
nào đó nhằm làm cho sự phân tích, diễn đạt của trò được sâu hơn, kiến thức được hoàn
thiện dần.
+ Giai đoạn 3: Thầy hỗ trợ, sắp xếp các kiến thức mà trò đã thu được thành một hệ
thống tri thức sao cho trò dễ dàng tiếp nhận nhất. Tác động của thầy không phải là hành
động sao chép lại kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa mà là giúp người học tập hợp lại
những gì bản thân trò đã tiến hành tìm ra thành một kiến thức chung của cả lớp. Nhờ vậy,
người học thấy được trong bài những gì họ muốn làm và đã làm một cách tích cực, tự lực
ngay từ đầu.
Cuối cùng, thầy là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của học sinh trên cơ sở trò
tự đánh giá, tự điều chỉnh.
Chu trình trên có thể được biểu diễn qua sơ đồ:
Trò- chủ thể
Thầy- tác nhân
(1) Hướng dẫn
Tự nghiên cứu
(2) Tổ chức
Tự thể hiện
(3) Trong tài, cố vấn
Tự kiểm tra
Kết luận, kiểm tra
Tự điều chỉnh
II. Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực‐ tự lực của học
sinh:
Như ta đã phân tích, sự học là quá trình hình thành và phát triển của các dạng thức
hành động xác định, là sự thích ứng của chủ thể với tình huống.
Hoạt động của chủ thể tồn tại tương ứng với các động cơ thúc đẩy hoạt động đó.
Hoạt động có đối tượng cấu thành từ các hành động, hành động gồm các thao tác, hành
động có mục đích, điều kiện, phương tiện cụ thể.
Mỗi hành động diễn ra theo các pha: định hướng, chấp hành và kiểm tra. Cơ sở
định hướng của hành động là những kiến thức cần thiết cho việc thực hiện hành động của
chủ thể.
Cơ sở định hướng của hành động có vai trò quan trọng đặc biệt đối với chất lượng,
hiệu quả của hành động. Trong quá trình dạy học, giáo viên có vai trò quan trọng trong
việc hình thành cơ sở định hướng khái quát cho hành động của học sinh. Cơ sở định
hướng khái quát bao gồm những nội dung cơ bản nhất, cần thiết cho việc thực hiện thành
công hoạt động của chủ thể.
Như vậy, muốn dạy học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên cần tổ chức, kiểm tra,
định hướng hành động của học sinh theo chiến lược hợp lí sao cho học sinh tự lực chiếm
lĩnh, xây dựng tri thức cho mình và thông qua đó từng bước phát triển, hoàn thiện năng
lực trí tuệ và nhân cách bản thân.
Sự tương tác dạy học có thể được mô tả qua sơ đồ sau:
Để tổ chức quá trình dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực của
học sinh cần xác định rõ mục tiêu dạy học một cách cụ thể, có phương pháp kiểm tra,
đánh giá kiến thức của học sinh một cách phù hợp và quan trọng nhất là phải lựa chọn
kiểu định hướng thích hợp với đối tượng học sinh mà qua đó, học sinh có thể hành động
tự lực, tích cực được. Đồng thời, trong quá trình dạy học, cần chú ý tăng cường tính tích
cực, tập trung, hứng thú học tập cho học sinh.
Để tiến hành dạy học theo phương pháp phát huy tính tích cực, tự lực của học
sinh, cần nắm vững và chuẩn bị tốt các nội dung sau:
Xác định mục tiêu dạy học tri thức vật lí cụ thể.
Tổ chức kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng của học sinh.
Các kiểu định hướng hành động học tập tích cực, tự lực cho học sinh.
Các biện pháp tăng cường tính tích cực, sự hứng thú của học sinh.
1. Xác định mục tiêu dạy học tri thức vật lí cụ thể:
1.1. Tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu dạy học:
Việc xác định mục tiêu dạy học có tầm quan trong đặc biệt:
- Nhằm có được phương hướng, tiêu chí để quyết định về nội dung, phương pháp,
phương tiện dạy học.
- Là cơ sở cho việc đối chiếu, đánh giá khi kết thúc giờ học, môn học, phần học hay trong
quá trình dạy một kiến thức cụ thể.
- Mục tiêu môn học được thông báo cho người học sẽ góp phần định hướng cho người
học: “sẽ học cái gì, cần chú ý vào các điểm trọng tâm nào? Kiến thức sau quá trình học
tập là gì?” Điều này sẽ giúp người học tự tổ chức công việc học tập của mình một cách
hiệu quả hơn.
- Có được ý thức rõ ràng về các kiến thức, kĩ năng mà người giáo viên cần có.
Chuẩn bị tốt mục tiêu dạy học cũng giống như vẽ được một bản vẽ chi tiết của một
ngôi nhà cần xây dựng, đây bước đầu tiên, cần thiết, quyết định hình dáng, cấu trúc của
ngôi nhà khi hoàn thành. Trong dạy học, mục tiêu dạy học chính là cơ sở đầu tiên quyết
định kết quả mà quá trình hoạt động học tập của học sinh sẽ đạt được.
1.2. Khái niệm mục tiêu thao tác:
- Phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm chú trọng đến những khả
năng mà người học cần đạt được trong và sau khi học, là kết quả mà sự dạy mang lại ở
người học và được gọi là các mục tiêu thao tác. Những mục tiêu này mô tả hành vi cụ
thể quan sát được ở người học, là kết quả của thao tác mà người học phải có khả năng
thực hiện được.
- Có tác giả còn gọi mục tiêu thao tác là mục tiêu đặc thù hay mục tiêu cụ thể để phân
biệt với nghĩa khác của khái niệm mục tiêu thông thường vẫn quen dùng.
- Với ý nghĩa nêu trên, các điều kiện để diễn đạt một mục tiêu đúng ý nghĩa là mục tiêu
thao tác khi dạy học một nội dung cụ thể là:
Mục tiêu luôn được diễn đạt theo người học chứ không phải theo người dạy.
Nghĩa là mục tiêu sẽ bắt đầu bằng các cụm từ: “Người học có khả năng…”.
Mục tiêu được diễn đạt phải là mục tiêu đặc thù, nghĩa là khả năng nói đến phải
được diễn tả bằng một từ đơn nghĩa, không thể dẫn đến những cách hiểu khác
nhau, phải đủ rõ ràng để những ai tìm hiểu sẽ có hình dung giống nhau về sản
phẩm mong đợi.
Kết quả mong đợi phải được mô tả dưới dạng một hành vi quan sát được. Chẳng
hạn nếu kết quả mọng đợi là “hiểu” thì cần mô tả hành vi thể hiện rằng học sinh đó
đã hiểu.
Cần xác định rõ hoàn cảnh mà hành vi đó được thực hiện: các điều kiện về thời
gian và điều kiện về vật chất…
Cần xác định các tiêu chí chấp nhận thành tích nghĩa là mức độ của sự thành công
mà bắt đầu từ đó, người ta coi rằng đã đạt mục tiêu.
1.3. Các loại mục tiêu thao tác:
Theo tác giả Phạm Hữu Tòng, có ba nhóm mục tiêu thao tác:
a. Các mục tiêu “hành vi cần nắm vững” là mục tiêu liên quan đến một lĩnh vực
có thể dễ dàng vạch rõ ranh giới, có thể mô tả hành vi mong đợi một cách đầy đủ và triệt
để. Người học cần thực hiện được hành vi đã xác định, có thể quan sát được.
b. Các mục tiêu “chuyển tải (áp dụng) hành vi đã có”. Nói về việc sử dụng các
kiến thức, kĩ năng đã có để giải quyết một bài toán mới, không phải là tái tạo mà là áp
dụng kiến thức, người học cần chuyển tải áp dụng được hành vi đã có của mình vào tình
huống đặt ra.
c. Các mục tiêu “có hành vi ứng đáp” không nhấn mạnh sản phẩm là cái không
thể thấy trước và do đó không thể mô tả trước được, nhưng nhấn mạnh vào tình huống
làm nảy sinh hành vi và hành tương ứng trong tình huống đó. Nó có tính chất khơi gợi
nhiều hơn là qui định, người ta không nhằm tìm kiếm sự thống nhất mà đúng hơn là tìm
kiếm sự đa dạng của các hành vi. Người học cần có hành vi ứng đáp với tình huống đặt
ra.
1.4. Các trình độ của mục tiêu nhận thức:
Việc phân biệt các trình độ của mục tiêu nhận thức cho phép có căn cứ xác đáng
để lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp và tiêu chí rõ ràng để tiến hành kiểm tra,
đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học.
a. Trình độ nhận biết, tái hiện, tái tạo: trình độ này thể hiện khả năng nhận ra
được, nhớ lại được, phát biểu lại được đúng với sự trình bày kiến thức đã có. Thực hiện
lặp lại đúng một cách thức hoạt động cụ thể đã có, giải đáp được câu hỏi thuộc dạng
“…là gì, thế nào?” “thực hiện… như thế nào?”
b. Trình độ hiểu, áp dụng (giải quyết được trong tình huống tương tự như tình
huống đã biết) trình độ này thể hiện khả năng giải thích, minh họa được nghĩa của kiến
thức, áp dụng được kiến thức đã nhớ lại, hoặc đã gợi ra để giải quyết được những tình
huống tương tự như tình huống đã biết, giải đáp được câu hỏi thuộc dạng: “A giúp giải
quyết X như thế nào? (kiến thức A giúp giải quyết vấn đề này như thế nào?)”
c. Trình độ vận dụng linh hoạt (Giải quyết được tình huống có biến đổi so với
tình huống đã biết) Trình độ này thể hiện khả năng lựa chọn, áp dụng tri thức trong tình
huống có biến đổi so với tình huống đã biết, nhận ra rằng, có thể giải quyết tình huống đã
cho bằng cách vận dụng phối hợp các cách giải quyết tình huống theo các mẫu đã biết,
giải quyết được câu hỏi thuộc dạng: “Có thể giải quyết vấn đề này dựa vào những kiến
thức đã biết nào? Các A nào giúp giải quyết X và giải quyết như thế nào?”
d. Trình độ sáng tạo (đề suất và giải quyết vấn đề không theo mẫu sẵn có) Trình
độ này thể hiện khả năng phát biểu và giải quyết vấn đề theo những cách riêng của mình
bằng cách lựa chọn, đề xuất và áp dụng kiến thức để giải quyết được các vấn đề không
theo mẫu đã có sẵn, đề ra và giải đáp được các câu hỏi theo dạng: “Có vấn đề gì?” “Đề
xuất ý kiến, cách giải quyết như thế nào?”
Dựa trên các trình độ của mục tiêu nhận thức, có thể chọn lựa phương pháp giảng dạy
hợp lí đồng thời xây dựng được các tiêu chí chung cho việc kiểm tra, đánh giá trước,
trong và sau khi học.
Trong giới hạn bài luận văn này, chỉ quan tâm đến việc phát triển ba trình độ nhận
thức đầu đó là nhận biết, hiểu và vận dụng.
2. Kiểm tra‐ đánh giá kiến thức, kĩ năng của học sinh:
2.1. Khái niệm kiểm tra‐ đánh giá:
Kiểm tra đánh giá được hiểu là sự theo dõi, tác động của người kiểm tra đối với
người học nhằm thu nhận được những thông tin cần thiết để đánh giá.
“Đánh giá có nghĩa là xem xét mức độ phù hợp của một tập hợp các thông tin thu
được với một tập hợp các tiêu chí thích hợp của mục tiêu đã xác định nhằm đưa ra quyết
định theo một mục đích nào đó” (J.M.Ketele)
2.2.Chức năng của kiểm tra‐ đánh giá:
Kiểm tra, đánh giá có chức năng khác nhau tùy theo mục đích kiểm tra, đánh giá.
Có nhiều quan điểm khác nhau trong việc phân loại các chức năng của kiểm tra-
đánh giá. J.M.Ketele phân biệt tám chức năng khác nhau của đánh giá sư phạm:
- Đánh giá nhằm xác nhận hay tổng kết mục tiêu tổng thể.
- Đánh giá nhằm xếp loại trong một tập thể hay tổng kết các mục tiêu hoàn thiện.
- Đánh giá nhằm tổng kết các mục tiêu trung gian.
- Đánh giá nhằm chẩn đoán.
- Đánh giá nhằm xếp các nhóm nhỏ.
- Đánh giá nhằm tuyển chọn.
- Đánh giá nhằm tiên đoán sự thành công.
- Đánh giá nhằm xếp thứ tự các mục tiêu.
Giáo sư Trần Bá Hoành đề cập đến ba chức năng của đánh giá
- Chức năng sư phạm
- Chức năng xã hội
- Chức năng khoa học.
Trong thực tiễn dạy học ở trường phổ thông, chúng ta chủ yếu quan tâm đến các
chức năng sư phạm của việc kiểm tra- đánh giá, bao gồm các chức năng chính sau:
- Chức năng chẩn đoán
- Chức năng chỉ đạo, định hướng hoạt động học
- Chức năng xác nhận thành tích học tập, hiệu quả việc dạy học
2.2.1 Chức năng chẩn đoán: Được tiến hành nhằm mục đích thu lượm
thông tin cần thiết cho việc xác định hoặc cải tiến mục tiêu, phương pháp dạy học.
Nhờ việc xem xét kết quả kiểm tra đánh giá được tiến hành vào khi bắt đầu dạy
một kiến thức mới, ta có thể xác định mục tiêu, phương pháp dạy học cho phù hợp, đồng
thời việc xem xét kết quả kiểm tra, đánh giá cũng cho phép có những thay đổi cải tiến
hoặc phát huy cho những phần kiến thức đã giảng dạy.
2.2.2. Chức năng chỉ đạo, định hướng hoạt động học:
Các bài kiểm tra, trắc nghiệm có thể được sử dụng như phương tiện dạy học:
thông qua việc kiểm tra đánh giá (được tiến hành trong quá trình dạy học) để dạy học.
Nghĩa là qua các bài kiểm tra, các câu trắc nghiệm, mục tiêu dạy học cụ thể đối với các
kiến thức, kĩ năng được diễn đạt để người học có thể tự xem xét, tự học theo các mục tiêu
đó. Những bài kiểm tra như vậy có tác dụng định hướng hoạt động học tập tích cực, tự
lực của người học.
Việc xem xét thảo luận về các câu hỏi trắc nghiệm được tổ chức một cách khoa
học, đúng lúc, có hiệu quả có thể xem như một phương pháp tích cực giúp cho người học
chiếm lĩnh kiến thức được tích cực, sâu sắc, vững chắc hơn đồng thời có thể giúp người
dạy kịp thời bổ sung, điều chỉnh hoạt động dạy cho hiệu quả.
2.2.3 Chức năng xác nhận thành tích học tập, hiệu quả dạy học
Các bài kiểm tra, trắc nghiệm được sử dụng để đánh giá thành tích học tập, xác
nhận trình độ kiến thức, kĩ năng của người học.
Việc kiểm tra, đánh giá trình độ kiến thức, kĩ năng đòi hỏi phải soạn thảo nội dung
các bài kiểm tra trắc nghiệm và tiêu chí đánh giá căn cứ theo các mục tiêu dạy học cụ thể
đã xác định cho từng kiến thức, kĩ năng. Các bài kiểm tra đáp ứng tốt yêu cầu này có thể
được dùng để nghiên cứu đánh giá mục tiêu dạy học và hiệu quả của phương pháp dạy
học.
2.3. Qui trình kiểm tra‐ đánh giá:
Để đảm bảo tính khoa học của việc kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng cần tiến
hành theo một qui trình hoạt động chặt chẽ, gồm các bước sau:
2.3.1. Xác định rõ mục đích kiểm tra, đánh giá
Việc kiểm tra- đánh giá có các mục đích khác nhau tùy trường hợp:
- Kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng để đánh giá trình độ xuất phát của người học.
- Kiểm tra đánh giá nhằm mục đích định hướng hoạt động học.
- Kiểm tra nhằm mục đích đánh giá thành tích, kết quả học tập hoặc nhằm nghiên cứu,
đánh giá mục tiêu, phương pháp dạy học.
2.3.2 Xác định rõ các nội dung cụ thể của các kiến thức kĩ năng cần kiểm
tra đánh giá, các tiêu chí cụ thể của mục tiêu dạy học với từng kiến thức, kĩ năng đó để
làm căn cứ đối chiếu các thông tin cần thu và sẽ thu được trong kiểm tra.
Việc xác định nội dung kiến thức cần chính xác, cụ thể và cô đọng.
Việc xác định các mục tiêu, tiêu chí đánh giá cần dựa trên quan niệm rõ ràng và
sâu sắc về các mục tiêu dạy học.
2.3.3. Xác định rõ biện pháp thu lượm thông tin (hình thức kiểm tra) phù
hợp với đặc điểm nội dung kiến thức kĩ năng cần kiểm tra, phù hợp với mục đích kiểm
tra, đánh giá và điều kiện cho phép. Tùy trường hợp mà các hình thức kiểm tra có thể là:
quan sát, vấn đáp, tự luận hay trắc nghiệm… Cần nhận rõ ưu, nhược điểm của mỗi hình
thức kiểm tra để có thể sử dụng phối hợp nhiều hình thức kiểm tra nhằm phát huy tối đa
ưu điểm và khắc phục được tối đa các nhược điểm của mỗi hình thức đó.
2.3.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi, các đề bài kiểm tra, các bài trắc nghiệm
cho phép thu lượm các thông tin tương ứng với các tiêu chí mục tiêu đã xác định và phù
hợp với hình thức kiểm tra đã lựa chọn.
2.3.5. Tiến hành kiểm tra, thu lượm thông tin, xem xét kết quả và kết
luận, đánh giá. Chấm các bài kiểm tra, căn cứ theo một thang điểm được xây dựng phù
hợp với các tiêu chí đánh giá đã xác định. Xem xét các kết quả chấm thu được, rút ra kết
luận đánh giá tương ứng mục đích đã xác định.
3. Các kiểu định hướng hành động học tập tự lực của học sinh:
3.1. Các kiểu định hướng hành động học tập của học sinh
Theo P.I.Ganlpêrin, có ba phương pháp định hướng cơ bản:
Kiểu định hướng “từng phần, không đủ, học sinh tự làm” kiểu định hướng này
không có lời chỉ dẫn đầy đủ nên học sinh phải mò mẫm, tự làm. Học sinh tự bắt
chước theo mẫu của giáo viên mà hành động theo. Hành động của học sinh là hành
động theo kiểu thử- sai. Trong cơ cấu hành động, kiểu này chỉ nêu rõ mục đích của
hành động còn thao tác, cách thức và điều kiện để thực hiện nhiệm vụ chưa có. Kiểu
định hướng này không thể hiện rõ được vai trò định hướng của giáo viên.
Kiểu định hướng “từng phần, đầy đủ, cho sẵn do giáo viên hướng dẫn” kiểu định
hướng này có mẫu hành động, có cả chỉ dẫn để làm đúng hành động đó. Nếu học
sinh tuân theo đúng hướng dẫn đó thì sẽ hành động đúng và đạt kết quả nhanh
chóng. Tuy nhiên, kiểu định hướng này có thể làm cho học sinh thụ động, lười suy
nghĩ, tư duy tích cực, chỉ cần học thuộc và giáo viên thường xuyên phải đổi mẫu.
Kiểu định hướng này không thể phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo ở học sinh.
Kiểu định hướng “khái quát, đầy đủ, học sinh thực hiện” kiểu định hướng này có
đặc điểm là giáo viên huấn luyện cách thức, phương pháp hành động chung nhất và
học sinh tự hành động trên cơ sở nắm vững các phương pháp chung đó cho một loạt
các đối tượng khác nhau. Kiểu định hướng này làm cho học sinh dễ dàng chuyển
sang các dạng hành động khác nhau trên cơ sở nắm vững phương pháp chung và do
đó hiệu quả của hành động sẽ cao hơn.
Kiểu định hướng này có tác dụng phát huy được tính tích cực, tự lực của người học,
tạo cho họ những kiến thức, phương pháp làm nền tảng để tiếp tục nghiên cứu về sau.
Theo tác giả Phạm Hữu Tòng, có ba kiểu định hướng cơ bản:
Định hướng tái tạo: là kiểu định hướng trong đó, người dạy hướng học sinh vào việc
huy động, áp dụng các cách thức hoạt động mà học sinh đã được học, để học sinh tự
thực hiện nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Định hướng tái tạo có thể phân biệt thành hai
trình độ:
+ Định hướng tái tạo từng thao tác: người học được hướng dẫn thực hiện từng hành
động sau đó học sinh bắt chước lại theo thao tác mẫu cụ thể.
+ Định hướng tái tạo angôrit: người dạy chỉ dẫn một cách khái quát tổng thể trình tự
hành động để học sinh tự giải quyết vấn đề.
Định hướng tìm tòi: là kiểu định hướng trong đó người dạy không chỉ ra cho học
sinh một cách tường minh kiến thức và cách thức hoạt động học sinh cần áp dụng,
mà người dạy chỉ đưa ra cho học sinh những gợi ý sao cho học sinh có thể tự tìm
tòi, huy động hoặc xây dựng những kiến thức, cách thức hoạt động thích hợp để giải
quyết nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Nghĩa là đòi hỏi học sinh tự xác định hành động
thích hợp trong tình huống không phải đã quen thuộc với họ.
Định hướng khái quát chương trình hóa: Đó là kiểu định hướng phối hợp các đặc
điểm của hai kiểu định hướng trên, trong đó, người dạy gợi ý cho học sinh tự tìm tòi
tương tự như kiểu định hường tìm tòi, nhưng chú ý cho học sinh ý thức được đường
lối khái quát của việc tìm tòi giải quyết vấn đề và sự định hướng chương trình hóa
theo các bước dự định hợp lí theo các yêu cầu từ cao đến thấp đối với học sinh, từ
tổng quát, tổng thể, toàn bộ đến chi tiết, bộ phận, từ tìm tòi đến tái tạo, sao cho thực
hiện được có hiệu quả các yêu cầu cao nhất, vừa sức với học sinh.
Người dạy thực hiện từng bước việc hướng dẫn học sinh giải quyết nhiệm vụ mà
họ đảm nhận:
+ Sự định hướng ban đầu đòi hỏi học sinh tự lực tìm tòi giải quyết vần đề đã đặt
ra.
+ Nếu học sinh không đáp ứng được thì sự giúp đỡ tiếp theo của giáo viên là sự
phát triển định hướng khái quát ban đầu (gợi ý thêm, cụ thể hóa, chi tiết hóa thêm một
bước) để thu hẹp hơn mức độ, phạm vi phải tìm tòi, giải quyết cho vừa sức học sinh.
+ Nếu học sinh vẫn không đáp ứng được thì sự hướng dẫn của giáo viên chuyển
dần sang kiểu định hướng tái tạo. Khi cần thiết chuyển sang định hướng tái tạo thì trước
hết là sử dụng kiểu định hướng angôrit để theo đó học sinh tự giải quyết vấn đề đã đặt ra.
+ Nếu học sinh vẫn không đáp ứng được thì mới thực hiện sự hướng dẫn tái tạo
đối với từng hành động, thao tác cụ thể riêng biệt của trình tự hành động, thao tác đó.
* Tổng hợp các quan niệm trên, trong giới hạn bài luận văn này quan tâm đến
các kiểu định hướng sau:
3.1.1. Định hướng theo mẫu: là kiểu định hướng mà giáo viên làm mẫu hành
động, học sinh theo dõi hành động và làm theo. Thực chất đây chỉ là hành động bắt chước
của học sinh, tùy thuộc vào năng lực nhận thức của mỗi học sinh mà kết quả hành động
có thể khác nhau. Thực tế, kiểu định hướng này thường được sử dụng trong quá trình giải
bài tập: giáo viên giải mẫu, sau đó cho học sinh giải các bài tập dạng tương tự.
Kiểu định hướng này, trong khi làm mẫu, thường kèm theo hướng dẫn bằng lời
của giáo viên. Tùy theo mức độ rõ ràng của hành động mẫu và lời hướng dẫn mà có các
dạng khác nhau của định hướng theo mẫu:
- Định hướng theo mẫu đầy đủ: giáo viên hướng dẫn bằng lời, bằng hành động cụ thể
từng bước, học sinh tiến hành làm theo.
- Định hướng theo mẫu từng phần, không đầy đủ: giáo viên chỉ hướng dẫn các bước
chính, phương pháp chung nhất, học sinh tự tiến hành làm.
3.1.2. Định hướng tái tạo: là kiểu định hướng mà giáo viên chỉ nhắc lại những
kiến thức, hành động đã quen thuộc, đã được rèn luyện để học sinh áp dụng vào tình
huống tương tự.
Tương tự như định hướng theo mẫu, tùy thuộc vào mức độ chi tiết của việc định
hướng mà định hướng tái tạo có hai mức độ:
- Định hướng tái tạo từng thao tác
- Định hướng tái tạo angôrit
3.1.3. Định hướng tìm tòi: là kiểu định hướng trong đó giáo viên chỉ đề ra mục
đích hành động chung cho học sinh và cung cấp những gợi ý hoặc phương pháp chung
nhất cho hành động trong những tình huống mới. Những phương thức mới này, học sinh
chưa hề biết hoặc không biết dựa vào đâu để hành động nên hoàn toàn phải tự lực tìm tòi
theo gợi ý đó để đạt đến mục đích cuối cùng. Kiểu định hướng này có yêu cầu cao hơn so
với các kiểu định hướng còn lại, nhưng cần phải có nhiều thời gian để tổ chức, đồng thời,
đối tượng học sinh phải là học sinh khá giỏi.
3.1.4. Định hướng suy luận- chương trình hóa: là kiểu định hướng trong đó giáo
viên chỉ ra mục đính hành động, hướng dẫn học sinh hành động theo từng bước được
chương trình hóa liên tục theo một trình tự chặt chẽ, phù hợp với trình độ của học sinh,
nó giúp học sinh hành động từng bước, cụ thể, rõ ràng. Thường có hai hình thức định
hướng chương trình hóa: xây dựng hệ thống câu hỏi đàm thoại với học sinh và đặt ra hệ
thống các yêu cầu để học sinh từng bước thực hiện, từ đó rút ra được kiến thức, kĩ năng
cần lĩnh hội.
Hệ thống câu hỏi và hệ thống các yêu cầu giáo viên soạn ra phải đảm bảo tính
logic chặt chẽ và phải dựa trên trình độ hiểu biết đã có của học sinh. Nó như sợi dây dẫn
đường cho học sinh lần theo để đi tới đích, vì vậy không được ngắt quãng. Chính vì thế,
việc xây dựng hệ thống câu hỏi (hệ thống các yêu cầu) là rất quan trọng và phải được
chuẩn bị trước thật kĩ lưỡng, theo một dàn ý chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình thực tế
định hướng, giáo viên cần phải linh hoạt xử lí phù hợp với các tình huống mới nảy sinh.
Đây là kiểu định hướng linh hoạt, phù hợp giảng dạy với nhiều đối tượng học sinh,
nhiều loại kiến thức kĩ năng cần giảng dạy, cho nên, kiểu định hướng này nếu được sử
dụng tốt sẽ thu được nhiều hiệu quả tích cực.
Mỗi kiểu định hướng nêu trên có tác dụng khác nhau trong quá trình dạy học,
thích hợp với từng loại đối tượng học sinh khác nhau, do đó trong quá trình giảng
dạy, tùy thuộc vào đối tượng học sinh mà người giáo viên cần chọn lựa kiểu định
hướng thích hợp để có thể phát huy tối đa khả năng tiếp thu tri thức một cách tích
cực, tự lực ở học sinh.
3.2. Tiêu chuẩn câu hỏi định hướng:
Phương tiện quan trọng để giáo viên định hướng hành động nhận thức của học
sinh là câu hỏi. Để cho câu hỏi thực hiện chức năng định hướng hành động nhận thức của
học sinh, nó phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau, cũng chính là những tiêu
chuẩn chung để đánh giá chất lượng câu hỏi:
- Câu hỏi phải được diễn tả chính xác về ngữ pháp và về nội dung khoa học. Chỉ khi đó,
câu hỏi mới có nội dung chính xác.
- Câu hỏi phải diễn tả chính xác điều định hỏi. Chỉ khi đó, câu hỏi mới có thể thực hiện
đúng chức năng định hướng hành động của học sinh theo ý định của giáo viên và khi đó
giáo viên mới có thể lấy đáp án của mình làm căn cứ đánh giá việc trả lời của học sinh là
đúng hay sai.
- Nội dung câu hỏi phải đáp ứng đúng đòi hỏi của sự định hướng hành động của học sinh
trong tình huống đang xét, cả về phương diện kiểu định hướng hành động học tập dự
định, cũng như về phương diện sát hợp với việc thực hiện nhiệm vụ nhận thức đang đặt
ra. Chỉ khi đó câu hỏi mới có ý nghĩa là câu hỏi định hướng cho hành động nhận thức của
học sinh theo mục tiêu dạy học cụ thể.
- Câu hỏi phải vừa sức học sinh, chỉ khi đó, câu hỏi mới có thể đưa đến sự đáp ứng của
học sinh.
(Tài liệu tham khảo 1,2)
4. Phương pháp tăng cường tính tích cực, sự hứng thú học tập vật lí ở học sinh
4.1. Xây dựng các tình huống có vấn đề:
Tình huống có vấn dề là những tác động của môi trường, do giáo viên tạo ra nhằm
làm cho học sinh nhận ra được vấn đề cần giải quyết và có nhu cầu giải quyết chúng.
Việc xây dựng tình huống có vấn đề phù hợp có tác dụng kích thích hứng thú nhận thức
và đưa học sinh vào trạng thái sẵn sàng, tự nguyện, hứng thú nhận thức.
Theo tác giả I.F.Kharlamop thì tình huống có vấn đề làm nảy sinh những mâu thuẫn
nội tại, sự ngạc nhiên, những băn khoăn, thắc mắc, kích thích hoạt động nhận thức. Cơ sở
để tạo ra một tình huống có vấn đề là những câu hỏi, những bài tập, những mâu thuẫn nào
đó… mà học sinh chưa có lời giải, cần có sự tìm tòi, sáng tạo. Trong đó phải chứa đựng
cả những điều đã biết làm xuất phát điểm của sự tìm tòi, chứa đựng cả những yếu tố tâm
lí làm kích thích hứng thú và lòng khao khát tìm kiếm kiến thức của học sinh.
K.D.Usinxki còn nói rõ hơn về tính thú vị nội tại của việc giảng dạy là điều mới đối
với chúng ta nhưng không mới đến mức hoàn toàn không biết và không hiểu được. Cái
mới phải bổ sung, phát triển hoặc mâu thuẫn với cái cũ, tóm lại, phải là hay, nhờ đó có
thể làm liên tưởng với cái đã biết (dẫn theo I.F.Kharlamop)
Tình huống có vấn đề khi được tổ chức một cách phù hợp, học sinh nhận thức được
sẽ có tác dụng kích thích rất lớp đến quá trình học sinh tham gia hoạt động học tập để đi
đến tìm ra kiến thức cần xây dựng.
4.2. Tiến hành các thí nghiệm vật lí đơn giản
Thí nghiệm vật lí có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhận thức đúng đắn,
khoa học ở học sinh. Xét về phương diện tâm lí, các thí nghiệm vật lí có khả năng kích
thích sự hứng thú học tập ở học sinh, giúp cho học sinh dễ dàng hoạt động tự lực, ghi nhớ
kiến thức nhanh chóng khi được trực tiếp quan sát hoặc tiến hành các thí nghiệm. Đồng
thời, các kiến thức học sinh tiếp thu được có cơ sở thực tế nên được bền vững hơn, sâu
sắc hơn, dễ dàng tái hiện và vận dụng. Qua đó tạo được niềm tin ở các em đối với tri
thức, các em sẽ say mê, hứng thú hơn trong học tập.
4.3. Sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin vào quá trình dạy học
vật lí
Với việc sử dụng công nghệ thông tin như máy vi tính, mạng internet, các phần
mềm mô phỏng…vào nhà trường, việc giảng dạy của giáo viên trở nên dễ dàng hơn, khả
năng thu hút sự chú ý đối với học sinh cao hơn, đồng thời lượng kiến thức mà giáo viên
chuyển tải đến học sinh trong mỗi tiết học cũng gia tăng.
Công nghệ thông tin, đặc biệt là mạng internet góp phần đáng kể vào việc cung cấp
nguồn thông tin dồi dào cho giáo viên trong mỗi tiết dạy.
Với vai trò là phương tiện giảng dạy, các chương trình flash, powerpoint, phần mềm
mô phỏng thí nghiệm vật lí,… góp phần không nhỏ vào việc tổ chức cho học sinh học tập
tích cực dễ dàng hơn, các em dễ dàng tiếp nhận các vấn đề học tập đồng thời hoạt động
một cách tích cực để chiếm lĩnh tri thức.
Công nghệ thông tin còn mở ra hướng mới trong dạy học tích cực, lấy người học
làm trung tâm, đó là dự án “Dạy học cho tương lai” (Intel Teach to the future) là một sự
giúp sức, một cú hích đến từ Intel đã tạo ra nhiều thay đổi và một không khí học tập mới
mẻ ở những nơi chương trình được ứng dụng.
Học trò tự tin với Power Point để "đứng lớp"
Những giờ học mà người đứng lớp là học trò có lẽ không còn xa lạ với giáo viên và
học trò của trường chuyên Trần Đại Nghĩa, TPHCM. Tự tin thuyết trình như những
người cán bộ truyền thông trước công chúng, như những chuyên gia nông nghiệp trước
bà con nông dân, như những nhà khoa học về môi trường... Đó chính là một yếu tố nổi
bật khi tham gia ứng dụng giảng dạy và học tập với “Dạy học cho tương lai”: Người học
là trung tâm, chủ động và sáng tạo.
Với mỗi giờ học theo đề án như vậy, các em học sinh sẽ được phân thành các nhóm
để hoàn thành một đề án liên quan đến môn học. Theo cô giáo Khánh Vân dạy môn Hoá
học, trường chuyên Trần Đại Nghĩa, với phương pháp học tập này, học sinh có thể tự
mày mò tìm hiểu, tập tính sáng tạo, làm việc theo nhóm tốt và đồng thời theo đó, các em
có thể tự tin hơn khi mà đứng trước đám đông. Còn giáo viên khi đó, thay vì truyền đạt
một chiều như trước kia thì đảm nhận vai trò là người dẫn dắt và đứng sau lưng giải đáp
thắc mắc cho các em.
Trong quá trình học tập được tổ chức như trên, học trò hoạt động một cách tích cực,
tự lực với các công cụ công nghệ thông tin như máy tính, mạng, máy ảnh… Không đơn
thuần là sự ghi chép lại từ sách giáo khoa, các em có được những thông tin, tài liệu bổ
ích, cùng nghiên cứu, học tập, trao đổi trước lớp dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người
giáo viên. Qua đó các em rèn luyện được tính tự lực tích cực thích nghi, giải quyết các
tình huống phức tạp mà mình phải giải quyết. Đồng thời các em cũng tự tin hơn khi giao
tiếp, trao đổi trước đám đông, trình bày, bảo vệ ý kiến của bản thân trước tập thể.
Với sự tổ chức và hướng dẫn tốt của giáo viên, giờ học “Dạy học cho tương lai” thực
sự đưa người học vào vai trò trung tâm, tích cực sáng tạo tiếp thu kiến thức, hình thành
nhân cách tích cực.
Đó chính là ví dụ cụ thể sự thành công và khả năng thực hiện việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh.
4.4. Làm rõ vai trò của vật lí trong đời sống
Khoa học vật lí hình thành và phát triển gắn liền với các mặt khoa học, kĩ thuật và đời
sống. Mối quan hệ giữa chúng là biện chứng. Dạy học vật lí không chỉ cung cấp cho học
sinh những kiến thức lí thuyết mà cần phải hướng cho học sinh vận dụng những kiến thức
đó vào thực tiễn cuộc sống, giúp cho học sinh thấy được ích lợi của việc nghiên cứu các
kiến thức vật lí. Không những thế, việc đưa các kiến thức gắn liền với thực tế còn góp
phần tạo hứng thú, gia tăng tính tích cực học tập của học sinh, dễ dàng giúp học sinh
nhận thức và đón nhận vấn đề của bài học.
Để làm được điều này, cần chú ý những cách sau:
Tạo ra các tình huống có vấn đề luôn gắn chặt và xuất phát từ thực tiễn.
Luôn vận dụng các kiến thức vật lí để giải quyết các bài toán từ thực tiễn, giải
thích các hiện tượng thực tiễn… Không nên cho học sinh làm các dạng bài tập
chỉ rèn luyện kĩ năng tính toán, điều này sẽ làm giảm tính thực tiễn của kiến
thức. Nhiều khi học sinh thường không hiểu những kiến thức, những bài toán
vật lí được vận dụng để làm gì.
Giới thiệu và yêu cầu học sinh tìm thêm các ví dụ thực tiễn trong quá trình
giảng dạy để học sinh hiểu rõ hơn kiến thức.
4.5. Biện pháp tăng khả năng chú ý ở học sinh:
Sự tập trung, chú ý của học sinh trong quá trình học tập là một trong những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến quá trình học tập của học sinh. Một số biện pháp để gia tăng
khả năng tập trung chú ý vào hoạt động học tập, học tập tích cực của học sinh:
Theo Đancôp: “Hãy tạo khả năng cho học sinh tham gia thiết lập bài toán mà họ
cần phải giải. Nếu họ góp phần vào việc thiết lập bài toán thì họ sẽ làm việc tích cực hơn
trong việc giải.”
Theo Polia:
- “… Cho nên thầy giáo cần phải dành sự chú ý đặc biệt vào việc chọn bài toán,
cách diễn đạt nó và trao cho họ sao cho tốt nhất. Bài toán cần phải sinh động không
những theo quan điểm của thầy giáo mà còn theo quan điểm của học sinh. Đồng thời nó
gắn liền với kinh nghiệm hàng ngày của học sinh; cũng là tốt nếu như việc thiết lập bài
toán liên quan đến câu chuyện vui, chuyện chơi chữ hay một nghịch lí nho nhỏ.”
- Khi học sinh bắt tay vào công việc, hãy đề nghị họ đoán nhận kết quả, hoặc thậm
chí chỉ một phần nào đó của nó. Sau khi đưa ra những giả thuyết nhất định, học sinh ràng
buộc họ bằng những cái đó, uy tín và lòng tự trọng của họ trong một mức độ nào đó bây
giờ phụ thuộc vào sự kết thúc của công việc và họ nóng lòng muốn biết sự đoán nhận của
họ có đúng hay không? Họ sẽ thích thú hơn bài toán của mình và công việc ở lớp, họ sẽ
không buồn ngủ và không bị lôi cuốn bởi những cái khác.
Theo Bà M. Hunter: Mức độ tập trung của trò là một nhân tố chúng ta có thể kiểm
soát và can thiệp ngay trong giờ lên lớp.
“ Các kiến thức mang tính tâm lý trong phương án giảng dạy tập trung ở mức độ
vừa phải sẽ kích thích động lực học tập. Khi học sinh ít chú ý thì không thể nào tiếp thu
được, nhưng tập trung quá cao độ thì sẽ bị căng thẳng. Bốn nhân tố có thể tăng giảm
mức độ tập trung của học sinh là mức độ gần gũi, thời gian, hiểu rõ vấn đề, đặt câu hỏi.”
Mức độ gần gũi
Dùng thời gian để gia tăng mức độ tập trung của học sinh: Mức độ tập
trung sẽ được tăng cường khi có sự giới hạn thời gian. Sự giới hạn về thời gian cũng là
một công cụ thúc đẩy động lực học tập hiệu quả đối với học sinh. Có thể dùng các thủ
pháp thời gian để thu hút học sinh tập trung bằng cách giao ước thời gian học sinh khi
thực hiện một nhiệm vụ học tập. Rèn luyện cho học sinh học tập, làm bài theo một thời
gian xác định là một yêu cầu sư phạm. Tính nhạy cảm về thời gian, tác phong khẩn
trương, nhanh nhẹn, hoạt bát là những phẩm chất của tinh thần khoa học. Chính sự giao
ước định hạn trong một thời gian nhất định có tác dụng thu hút học sinh tập trung vào vấn
đề học tập.
Mặt khác, nếu khi nhận thấy học sinh tập trung cao độ, thì giáo viên nên giảm bớt
bằng cách cho thêm thời gian. Ứng xử của giáo viên, dùng thời gian giảm căng thẳng cho
học sinh là một điều mang tính tâm lý sư phạm tốt.
“ Im lặng trong thời gian lâu cũng tạo ra sự chú ý của học sinh”. Nếu người thầy
dấy lên không khí ồn ào sôi nổi, hoặc thầy “thao thao bất tuyệt” suốt cả tiết, học sinh sẽ
thấy căng thẳng và mất tập trung. Im lặng để cho học sinh ghi chép, vẽ hình, im lặng để
tạo khoảng thời gian nghỉ cho học sinh tư duy, im lặng để bao quát các em làm việc …
Đặt câu hỏi.
Chúng ta muốn dạy theo cách mà mỗi học sinh có thể trả lời từng câu hỏi hoặc giải quyết từng vấn đề. Kiến thức chưa rõ ràng (suy nghĩ về câu trả lời) cũng hiệu quả nhiều như học sinh đã hiểu được bài (đọc câu trả lời thật to). Kết hợp cả hai cách này sẽ làm cho học sinh tăng cường hoạt động suy nghĩ”.
Đặt câu hỏi cho cả nhóm: Không nên gọi một học sinh nào đó trả lời.
Trong giờ học nếu như bạn gọi học sinh đứng lên trước khi ra câu hỏi thì tất cả mọi người
đều nhìn về hướng đó để nghe câu trả lời. Thay vì vậy, bạn có thể thu hút sự chú ý của
mọi người bằng cách đặt câu hỏi chung cho cả lớp. Bằng cách này, thì tất cả học sinh đều
phải suy nghĩ vì không biết được ai sẽ trả lời.
Dành thời gian cho học sinh suy nghĩ trước khi trả lời. Sau khi đặt câu
hỏi, trong thời gian chờ đợi có hai điều sẽ xảy ra: Một là số học sinh cố gắng suy nghĩ về
câu trả lời sẽ gia tăng. Hai là câu trả lời trở nên có ý nghĩa hơn, từ đó giáo viên cũng sẽ
có nhiều đáp án khác nhau. Khi bạn yêu cầu học sinh trả lời thì hãy chờ chúng giơ tay
thật nhiều, rồi sau đó mới gọi một học sinh đứng lên trả lời. Bởi vì lúc đó bạn biết là tất
cả đều chuẩn bị sẵn sàng. Bạn cũng nên gọi nhiều học sinh trả lời một câu hỏi vì như thế
sẽ giúp bạn đánh giá được mức độ hiểu bài của học sinh.
Như vậy, cái mà các thầy cô chúng ta lâu nay thường nói với nhau là hãy bao quát
lớp học và hãy thu hút tất cả học sinh vào việc học tập, được Bà M. Hunter giải quyết thật
tâm lý, nó gồm hai cách: Hỏi chung cả lớp và hãy để dành thời gian cho chúng suy
nghĩ.
4.6. Tạo bầu không khí học tập thân thiện, thoải mái trong lớp học:
Từ thực tế, cũng như tâm lý học đã chứng minh nếu chúng ta tạo ra được môi
trường thoải mái trong giờ học sẽ tăng cao được khả năng lĩnh hội của người học. Làm
thế nào để có một giờ học thoải mái, tạo được cảm giác thích thú cho trò ? Bà Hunter
mách nước:
Tạo cho học sinh có cảm giác mình là người quan trọng trong lớp học: Nguyên
tắc này đã được Macarencô phát biểu từ lâu : “Tôn trọng và yêu cầu cao”. Khi người học
được tôn trọng đúng mức, họ sẽ thoải mái hơn trong học tập, họ tự tin hơn khi phát biểu
đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng bài. Từ đó, người học có hứng thú, tích cực
hơn trong học tập.
Sử dụng tính hài hước một cách khôn khéo và hiệu quả: Dùng tính hài hước trong
giờ học là một công cụ hữu hiệu để tạo ra cảm giác thú vị cho học sinh. Tạo sự hóm hỉnh
sao cho thích hợp và không rời xa bài giảng, sẽ làm cho học sinh thực sự quan tâm đến
bài học và mong muốn được tiếp thu nhiều hơn nữa
Phát huy mọi nỗ lực của học sinh. Một giờ học dành cho học sinh làm việc theo
nhóm và cá nhân, giao tiếp có hiệu quả thì không theo một kiểu mẫu nào cả. Giáo viên
nên phân tích và cố gắng ghi nhận tất cả các phát biểu của học sinh tham gia xây dựng
bài. Khi đó, học sinh sẽ tự tin vào bản thân hơn và hăng hái, tích cực tham gia hơn vào
quá trình xây dựng bài.
Cảm giác ép buộc. Ép buộc học cũng là một cách để kích thích nỗ lực học tập của
học sinh. “Nếu áp dụng không thích hợp sẽ dẫn đến hậu quả ngoài ý muốn”. Hầu hết
chúng ta đều miễn cưỡng khi áp dụng phương pháp này trong lớp học. Bởi vì, mặc dù nó
có hiệu quả trong việc kích thích học tập nhưng học sinh sẽ không cảm thấy thoải mái khi
học tập”
Việc học tập diễn ra tốt nhất trong môi trường không quá nhiều áp lực, lúc đó não bộ
sẽ sẵn sàng để tiếp thu những kiến thức mới. Khi ép buộc thì học sinh chỉ học để đối phó
mà thôi. Khi chúng ta đã nhận biết được vai trò và thỉnh thoảng áp dụng biện pháp ép
buộc học (đối với những học sinh hứng thú nhưng không chịu học) thì chúng ta nên cố
gắng loại trừ những hậu quả có thể xảy ra là học sinh sẽ né tránh việc học bằng cách tạo
ra sự thú vị trong học tập ngay sau đó”. Ví dụ như sử dụng các lời bình nhằm khuyến
khích học sinh:
“Thầy (cô) đã gây ra nhiều áp lực cho các em và các em đã hoàn thành một cách
xuất sắc”
“Mặc dù với những khái niệm như vậy, sự cố gắng của các em đã thể hiện mình đã
hiểu rõ vấn đề”
“Thầy (cô) biết các em bực bội bởi vì các yêu cầu phải làm nhưng các em nên tự
hào về những thành tích tiến bộ của mình”.
III. Những khó khăn khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực.
Dạy học theo phương pháp tích cực làm cho học sinh hiểu rõ, hiểu đúng bản chất
của hoạt động nhận thức khoa học vật lí, đồng thời giúp học sinh rèn luyện những kĩ năng
nhận thức cơ bản làm cơ sở cho hoạt động nhận thức sau này, tăng cường hứng thú nhận
thức, tính tích cực, tự giác, độc lập nhận thức, phát triển năng lực tư duy sáng tạo và giải
quyết các vấn đề thực tiễn.
Rõ ràng phương pháp tích cực không thể bao quát toàn bộ lĩnh vực giáo
dục. Có những kiến thức không thể do học sinh phát hiện được mặc dù đã cung cấp cho
học sinh bất cứ phương tiện nào.
Có nhiều trường hợp, khi trẻ em giải quyết vấn đề, phát hiện một qui tắc, thực
hiện một thí nghiệm…, các công việc đó chiếm quá nhiều thời gian đến nỗi không thể
nào triển khai công thức đó cho toàn bộ chương trình. Đó là “mặt không hiện thực” của
phương pháp tích cực.
Đặc biệt, hiện nay số học sinh trong một lớp là khá đông, trình độ học sinh
là không tương đương, dẫn đến vấn đề là rất khó khăn cho người giáo viên trong việc
chọn lựa các tình huống cũng như phương pháp định hướng phù hợp, chú ý đến tính vừa
sức chung và vừa sức riêng cho tất cả các học sinh trong lớp. Nếu khuyến khích mục tiêu
tự chủ việc dạy học chỉ đứng về phía những kĩ năng, thành tựu dễ dãi nhất, thấp nhất,
điều đó dẫn đến hi sinh những học sinh xuất sắc nhất. Nếu ưu tiên tuyệt đối cho mục tiêu
Tính tích cực cần phải được định hướng đúng đắn, cần được giáo dục ngay
phát triển, điều đó có hại cho những học sinh kém thông minh.
từ bé bằng cách tạo ra những tình huống để trẻ em tự tìm cách thỏa mãn đòi hỏi, đôi khi
người lớn có thể mách bảo, nhưng tránh lối làm thay khiến tạo dần cho trẻ tính ỷ lại, thụ
động, chờ đợi. Kết quả của mỗi lần tự làm như vậy sẽ động viên trẻ hăng hái tự lập giải
quyết các nhu cầu của mình và dần dần chủ động tham gia vào công việc chung của gia
đình, tập thể.
Ta thấy rằng tính tích cực cần được rèn luyện ngay từ nhỏ. Tuy nhiên ở các cấp
học, bậc học ở nước ta hiện nay vẫn mang nặng tư tưởng dạy học theo kiểu truyền thống,
kiểu dạy học này có thể truyền đạt một lượng kiến lớn trong thời gian ngắn, điều này làm
cho người học trở nên thụ động, rất ít tham gia một cách tích cực vào việc học tập ở các
cấp lớn hơn. Bà N.K. Crupxcaia (nhà Sư phạm; vợ VI. Lê nin) đã phê phán rằng, trong
nhà trường người ta chú ý quá ít tới sự kích thích hoạt động tư duy của trẻ em, các em
“đôi khi giống như chim non há to.. miệng, còn GV thì nhai tất cả và mớm cho các em
món ăn đã chuẩn bị sẵn… Các em không biết làm việc một cách thực sự, không thể đặt ra
những câu hỏi nếu không có người hướng dẫn, không biết nêu lên những câu hỏi đã làm
mình băn khoăn.”
Chính vì vậy, muốn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực thì phải
tiến hành đồng bộ, ở mọi cấp học, bậc học, ngay từ khi người học còn nhỏ.
Nói chung phương pháp “tích cực” phù hợp khá tốt với tâm lí trẻ em, song
đặc điểm tâm lí đó thường ảnh hưởng không hay đến những yếu tố giáo dục khác không
kém phần quan trọng: ví dụ, phủ nhận vai trò của môi trường hoặc là do phương pháp
tích cực, vai trò trẻ em được tăng cường có thể dẫn đến xóa bỏ quá đáng vai trò thầy giáo.
Dạy học là một quá trình phức tạp xuất phát từ bản thân trẻ em, song không dừng lại ở
đấy. Mục đích của nhà giáo dục vượt quá tầm nhìn của trẻ em, còn trẻ em thì cần đến
hình mẫu. Hơn nữa, dạy học nhằm tạo ra một hệ thống giá trị, song các giá trị từ phương
pháp “tích cực” có khuynh hướng dẫn học sinh đến sự tự cao, tự đại, xem mình là trung
tâm của vũ trụ. Học sinh tích cực đôi khi có thể là “kẻ thích phô trương” và “phô diễn
lung tung”.
Tuy nhiên, ngoại trừ những khó khăn trên có thể dần dần khắc phục được thì
phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, tự lực, của học sinh vẫn là phương pháp
hay, phù hợp áp dụng giảng dạy ít nhất là trong tình trạng nền giáo dục nước ta hiện nay.
CHƯƠNG II: Ứng dụng tổ chức hoạt động
học tập vật lí tích cực, tự lực cho học sinh
Chúng ta sẽ vận dụng phần cơ sở lí thuyết trên để xây dựng một số giáo án
tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh. Gồm các
bài trong chương “Mắt. Các dụng cụ quang”. Cụ thể là các bài sau:
Thấu kính mỏng
Mắt
Kính lúp
Thực hành: Đo tiêu cự của thấu kính phân kì
Bài 48:
THẤU KÍNH MỎNG
I. Mục tiêu:
1. Kiến thức:
- Học sinh nhớ các kiến thức:
+ Cấu tạo, phân loại thấu kính
+ Các yếu tố của thấu kính: đường kính khẩu độ, quang tâm, trục chính, trục phụ, tiêu
điểm, tiêu diện, độ tụ.
+ Điều kiện cho ảnh rõ của thấu kính
- Phân biệt được tiêu điểm, tiêu diện của hai loại thấu kính.
- Vận dụng
+ Công thức thấu kính để xác định vật, ảnh, độ phóng đại
+ Sự tương quan giữa vật và ảnh để giải một số bài tập đơn giản
+ Công thức độ tụ để xác định được độ tụ của các thấu kính
2. Thao tác: Tự lực thực hiện hành động học tập trong sự hướng dẫn của giáo viên
- Đưa ra được định nghĩa thấu kính, phân loại thấu kính dựa vào tác dụng của thấu kính
với chùm tia sáng tới
- Xác định tiêu điểm vật, ảnh của thấu kính.
- Vẽ đường đi của các tia đặc biệt qua thấu kính.
- Vẽ ảnh của vật qua thấu kính.
- Xác định được vị trí tính chất của ảnh tương ứng với vị trí của vật.
II. Phương pháp:
- Sử dụng các phương pháp định hướng tìm tòi, tái tạo, suy luận chương trình hóa nhằm
phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh
- Sử dụng xen kẽ phương pháp thuyết trình, thông báo cho các kiến thức mang tính chất
chấp nhận.
III. Dụng cụ dạy học:
- Các loại thấu kính.
- Đèn chiếu (tạo ra chùm tia song song)
- Bộ dụng cụ thí nghiệm quang hình biểu diễn lớp 11.
IV. Tổ chức lớp học:
- Lớp học có 42 học sinh, được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm từ 8 đến 9 học sinh
- Nhóm được chia ngẫu nhiên.
- Học sinh hợp tác theo nhóm trong quá trình học tập của tiết học, dưới sự hướng dẫn,
điều khiển của giáo viên.
IV. Thực hiện tổ chức hoạt động học tập:
1. Định nghĩa, phân loại thấu kính
* Hoạt động 1: Xây dựng định nghĩa thấu kính
Tổ chức định hướng
+ Mục đích công việc:
- Học sinh tự lực đưa ra được định nghĩa thấu kính.
+ Phương pháp định hướng: Định hướng chương trình hóa
- Cho các nhóm học sinh quan sát lần lượt các thấu kính phẳng- lồi, phẳng- lõm, lồi- lồi,
lõm- lõm, lõm- lồi
- Đặt câu hỏi định hướng
- Học sinh hoạt động theo nhóm tìm ra các đặc điểm chung của thấu kính.
+ Kết quả: học sinh đưa ra định nghĩa của nhóm về thấu kính, giáo viên nhận xét,
đưa ra một định nghĩa chung nhất.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Hoạt động của học sinh Định hướng của giáo viên
- Cho học sinh quan sát các loại thấu kính - Quan sát các thấu kính, cố gắng nhận ra
(phẳng- lồi, phẳng- lõm, lồi- lồi, lõm- lõm, các đặc điểm chung của thấu kính.
lõm- lồi)
- Đặt câu hỏi định hướng: - Học sinh dựa vào quan sát các thấu kính
? Thấu kính có hình dạng bên ngoài như để trả lời các câu hỏi từ đó xây dựng một
thế nào? định nghĩa về thấu kính.
? Màu sắc thấu kính (không màu hay có
màu trắng), có cho ánh sáng truyền qua
không?
? Các mặt giới hạn của thấu kính có dạng
gì?
- Yêu cầu học sinh dựa vào các câu hỏi
định hướng để đưa ra một định nghĩa cho - Thống nhất trong nhóm một định nghĩa,
thấu kính? sau đó viết ra giấy, nộp lại.
- Kết quả: giáo viên thu các định nghĩa thấu
kính, đọc và phân tích một số định nghĩa.
Nhận xét các nhóm tốt, tuyên dương các
nhóm đưa ra được định nghĩa sát với thấu
kính.
- Giáo viên đưa ra một định nghĩa bao gồm
tất cả các ý đúng của các nhóm đã xây
dựng được. - Ghi nhận định nghĩa mới, từ đó có những
“ Thấu kính là một khối chất rắn trong suốt, điều chỉnh với định nghĩa của bản thân cho
cho ánh sáng truyền qua, được giới hạn bởi phù hợp với định nghĩa chung của cả lớp
một mặt phẳng, một mặt cầu hoặc hai mặt
cầu”
* Hoạt động 2: Phân loại thấu kính
Tổ chức định hướng:
+ Mục đích, yêu cầu công việc:
- Học sinh tự lực phân biệt được thấu kính làm hai loại dựa vào tác dụng của thấu kính
đối với chùm tia sáng: làm chùm tia sáng tới loe ra: thấu kính phân kì, làm chùm tia sáng
tụ lại: thấu kính hội tụ.
+ Phương pháp định hướng: Định hướng tìm tòi
- Tiến hành thí nghiệm. Dụng cụ thí nghiệm bao gồm: đèn chiếu phát ra chùm tia sáng,
các thấu kính phẳng- lồi, phẳng- lõm, lồi- lồi, lõm- lõm, lõm- lồi.
- Yêu cầu học sinh quan sát thí nghiệm, nhận xét.
- Khuyến khích học sinh dựa trên những quan sát phân loại thấu kính.
+ Kết quả: học sinh phân loại được hai loại thấu kính:
Thấu kính hội tụ: làm hội tụ chùm tia tới
Thấu kính phân kì: làm phân kì chùm tia tới
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Giáo viên tiến hành thí nghiệm
. Gắn đèn tạo chùm tia sáng lên bảng từ
. Đặt lần lượt từng thấu kính phẳng- lồi, phẳng-
lõm, lồi- lồi, lõm- lõm, lõm- lồi trước chùm tia - Quan sát chùm tia ló và nhận xét về chùm
sáng tia ló ra khỏi thấu kính.
- Yêu cầu học sinh quan sát, tìm ra nhóm thấu Một số thấu kính làm chùm tia loe ra
kính có đặc điểm chung về tác dụng đối với (phân kì)
chùm tia sáng. Một số thấu kính làm chùm tia tụ lại
(hội tụ) Thấu kính hội tụ: làm hội tụ chùm tia tới
- Dựa vào quan sát để rút ra được các đặc Thấu kính phân kì: làm phân kì chùm tia
điểm chung về cấu tạo của các nhóm thấu tới
kính - Trên cơ sở phân loại đó, yêu cầu học sinh tìm
Thấu kính hội tụ: rìa mỏng ra các đặc điểm chung về cấu tạo của các thấu
Thấu kính phân kì: rìa dày kính cùng nhóm để có thêm cách phân biệt thấu
kính đơn giản hơn.
Thấu kính hội tụ: rìa mỏng
Thấu kính phân kì: rìa dày
- Dựa trên những kết luận mà học sinh đã rút ra - Ghi nhận kiến thức.
được, giáo viên tổng kết lại:
Thấu kính hội tụ: làm hội tụ chùm tia, có rìa
mỏng
Thấu kính phân kì: phân kì chùm tia, rìa dày
* Hoạt động 3: Các đặc trưng của thấu kính
Phương pháp: Thuyết trình, thông báo.
- Ta chỉ xét thấu kính mỏng, nghĩa là thấu kính có bề dày ở tâm rất nhỏ so với bán kính
các mặt cong.
R1
R2
C1
C2
O1
O2
- Xét thấu kính đặt trong không khí
- R1, R2 là bán kính các mặt cầu giới hạn thấu kính
- C1, C2 là tâm các mặt cầu
- Đường thẳng nối C1, C2 là trục chính của thấu kính
- Trục chính cắt thấu kính tại một điểm gọi là quang tâm O.
- Đường thẳng bất kì qua quang tâm là trục phụ.
* Tia sáng qua quang tâm thì truyền thẳng
* Điều kiện cho ảnh rõ nét:
Để thấu kính cho ảnh rõ nét, các tia sáng tới thấu kính phải lập một góc nhỏ với trục
chính. Trong điều kiện này, ứng với một điểm vật chỉ có một điểm ảnh. Đó là điều kiện
tương điểm.
2. Tiêu điểm- Tiêu diện- Tiêu cự:
* Hoạt động 4: Tìm hiểu tiêu điểm ảnh chính của thấu kính
Tổ chức định hướng:
+ Mục đích- Yêu cầu công việc:
- Học sinh tự lực đưa ra được khái niện về tiêu điểm ảnh của thấu kính hội tụ, thấu kính
phân kì, từ đó đưa ra khái niệm chung cho tiêu điểm ảnh của thấu kính.
+ Phương pháp: Định hướng chương trình hóa
- Cho học sinh quan sát thí nghiệm chiếu chùm tia sáng song song trục chính đến thấu
kính hội tụ, thấu kính phân kì.
- Yêu cầu học sinh lên bảng vẽ lại đường đi của chùm tia ló ra khỏi thấu kính.
- Yêu cầu học sinh xác định giao điểm của chùm tia ló hoặc giao điểm của phương chùm
tia ló (vị trí so với trục chính, nằm phía chùm tia tới hay chùm tia ló).
- Yêu cầu học sinh đưa ra khái niệm chung cho tiêu điểm ảnh của thấu kính.
+ Kết quả:
- Học sinh có khái niệm về tiêu điểm ảnh của thấu kính.
- Phân biệt được vị trí tiêu điểm ảnh của thấu kính hội tụ và thấu kính phân kì.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Lắp đặt thí nghiệm lên bảng
. Đèn phát ra chùm tia sáng
. Màn chắn sáng (3 khe)
. Các thấu kính (một thấu kính hội tụ và
một thấu kính phân kì)
. Vẽ sẵn một đường thẳng (quang trục của
thấu kính), điều chỉnh đèn sao cho ba tia
sáng song song với trục chính của thấu
kính.
. Lần lượt để các thấu kính chắn ba tia sáng
song song, trục của thấu kính trùng với
đường thẳng đã kẻ. - Quan sát thí nghiệm
- Giáo viên tiến hành thí nghiệm, nhờ học - Lên bảng vẽ đường đi của tia sáng, nhận
sinh lên bảng vẽ đường truyền của 3 tia ló xét.
khỏi thấu kính, đường đi của 3 tia sáng tới
thấu kính
- Đặt câu hỏi:
? Khi chiếu các tia sáng (3 tia) song song - Ba tia sáng này đồng qui tại một điểm
với trục chính của thấu kính thì các tia ló
khỏi thấu kính có tính chất gì đặc biệt?
? Nhận xét vị trí của giao điểm chùm tia ló - Giao điểm nằm trên trục chính của thấu
(hoặc phương của chùm tia ló) so với kính
quang trục chính, giao điểm này nằm ở - Đối với thấu kính hội tụ, giao điểm nàm ở
phía chùm tia tới hay chùm tia ló? phía chùm tia ló, với thấu kính phân kì,
giao điểm này nằm ở phía chùm tia tới ? Điểm sáng được tạo ra trong thí nghiệm
- Điểm giống nhau của hai thí nghiệm: trên được gọi là tiêu điểm ảnh của thấu
kính. Dựa vào điểm chung của hai thí . Chiếu ba tia sáng song song trục chính
nghiệm, các em hãy đưa ra một định nghĩa của thấu kính đến thấu kính
chung cho tiêu điểm ảng của thấu kính? . Tia ló (hoặc phương của tia ló) đều cắt
- Giáo viên tổng hợp lại kiến thức, yêu cầu nhau tại một điểm trên trục chính của thấu
học sinh vẽ hình. kính
Khi chiếu một chùm tia sáng song song
trục chính đến thấu kính thì chùm tia ló
hoặc phương của chùm tia ló sẽ cắt nhau tại
một điểm trên trục chính của thấu kính. Ta kí hiệu điểm này là F’: gọi là tiêu điểm ảnh
của thấu kính.
* Hoạt động 5:Tiêu điểm vật chính:
Phương pháp: Thuyết trình thông báo
+ Với thấu kính hội tụ: Điểm F trên trục chính đối xứng với F’ sao cho khi đặt một điểm
sáng S tại đó, S phát ra chùm tia sáng phân kì tới thấu kính, thì chùm tia ló là chùm tia
song song trục chính.
+ Với thấu kính phân kì: chiếu tới thấu kính phân kì một chùm tia hội tụ tại điểm F sau
kính, đối xứng với F’ qua kính, chùm tia ló là chùm tia song song.
Điểm F trong hai trường hợp trên là tiêu điểm vật chính của thấu kính.
* Hoạt động 6: Tiêu điểm phụ- tiêu diện
Phương pháp: Thuyết trình thông báo
+ Tiêu diện vật: Mặt phẳng vuông góc với trục chính tại tiêu điểm vật chính.
+ Tiêu diện ảnh: Mặt phẳng vuông góc với trục chính tại tiêu điểm ảnh chính.
+ Tiêu điểm vật phụ: Điểm cắt bất kì của một trục phụ với tiêu diện vật.
+ Tiêu điểm ảnh phụ: Điểm cắt bất kì của một trục phụ với tiêu diện ảnh.
* Hoạt động 7: Tiêu cự
Phương pháp: thuyết trình- thông báo
= OF = OF/
Qui ước: > 0 với thấu kính hội tụ.
< 0 với thấu kính phân kì.
3. Đường đi của tia sáng qua thấu kính:
* Hoạt động 6: Đường đi của các tia đặc biệt
Tổ chức định hướng;
+ Mục đích công việc:
- Học sinh tự lực vẽ được đường đi của tia sáng đặc biệt qua thấu kính
+ Phương pháp định hướng: Định hướng chương trình hóa
- Nhắc lại tính chất của tiêu điểm vật, tiêu đểm ảnh chính, quang tâm.
- Học sinh nêu phương pháp vẽ tia ló ứng với từng trường hợp tia đặc biệt.
+ Kết quả:
- Học sinh vẽ đường đi của tia sáng đặc biệt qua thấu kính hội tụ và thấu kính phân kì.
- Học sinh biết phân biệt hướng chùm tia sáng tới dựa vào vị trí tiêu điểm vật đã cho, từ
đó vẽ chính xác đường đi của tia sáng.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
a. Tia tới song song trục chính:
? Khi chiếu chùm tia sáng tới song song - Chùm tia ló có phương qua tiêu điểm ảnh
trục chính của thấu kính thì chùm tia ló có chính
phương như thế nào?
? Nếu xét một tia sáng bất kì trong chùm tia - Tia ló cũng sẽ có phương qua tiêu điểm
song song tới thì tia ló khỏi thấu kính sẽ có ảnh chính
phương đi qua điểm nào?
? Vậy để vẽ đường đi của tia sáng tới song - Ta xác định điểm tới tại thấu kính và từ
song trục chính, ta vẽ như thế nào? đó kẻ tia sáng ló có phương đi qua tiêu
- Giáo viên vẽ lên bảng một quang trục, điểm ảnh của thấu kính.
một thấu kính hội tụ và tiêu điểm ảnh. - Một học sinh lên bảng vẽ, các em còn lại
vẽ hình vào tập. - Yêu cầu một học sinh lên bảng vẽ tia sáng
tới song song với trục chính của thấu kính
hội tụ.
- Sau đó vẽ tia sáng ló đi qua tiêu điểm ảnh
của thấu kính
- Yêu cầu học sinh về nhà vẽ đường đi của
tia sáng cho trường hợp thấu kính phân kì
b. Tia sáng đi qua tiêu điểm vật chính: - Chùm tia ló có phương song song với trục
? Chùm tia sáng phát từ điểm sáng S đặt tại chính
tiêu điểm vật chính của thấu kính hội tụ thì
chùm tia ló khỏi thấu kính có đặc điểm gì?
? Khi đó, nếu chúng ta chỉ xét một tia trong - Tia sáng ló cũng có phương song song với
chùm tia trên thì đường đi của tia sáng đó trục chính.
như thế nào?
- Với nhận xét tương tự, các em cũng có
được cách vẽ đường đi của tia sáng có
phương qua tiêu điểm vật của thấu kính
phân kì.
- Giáo viên vẽ lên bảng hai quang trục của
hai thấu kính hội tụ và phân kì.
- Cho vị trí của tiêu điểm vật.
- Gọi học sinh lên vẽ tia sáng đi qua tiêu
- Tiêu điểm vật của thấu kính hội tụ nằm ở điểm vật của thấu kính cho cả hai trường
phía chùm tia tới. hợp.
- Tiêu điểm vật của thấu kính phân kì nằm ? Đối với thấu kính hội tụ, tiêu điểm vật
ở phía chùm tia ló. nằm ở phía chùm tia tới hay chùm tia ló?
- Dựa vào nhận xét, vẽ tia tới, tia ló khỏi Với quang trục như hình, tia sáng tới vẽ
thấu kính trong hai trường hợp. như thế nào?
- Một học sinh lên bảng vẽ hình, các em ? Đối với thấu kính phân kì thì tia sáng tới
còn lại vẽ hình vào tập. vẽ như thế nào?
? Xác định điểm tới tại thấu kính, từ đó vẽ
tia ló song song với quang trục chính.
c. Tia sáng tới qua quang tâm
- Yêu cầu học sinh nhắc lại tính chất quang
tâm, từ đó tự vẽ đường đi của tia sáng trong
trường hợp này.
- Tia sáng tới qua quang tâm thì truyền
thẳng
* Hoạt động 7: Vẽ đường đi của tia sáng tới bất kì?
Phương pháp: thuyết trình, thông báo
* Để vẽ đường đi của tia sáng tới bất kì, cần tiến hành theo các bước sau:
- Vẽ trục phụ song song với tia tới SI
- Vẽ tiêu diện ảnh, cắt trục phụ nói trên tại một tiêu điểm phụ Fp’
- Từ I, vẽ tia ló qua tiêu điểm ảnh phụ Fp’
* Giáo viên vừa nêu, vừa tiến hành vẽ mẫu trên bảng, học sinh vẽ theo sự hướng dẫn của
giáo viên.
4. Xác định ảnh bằng phương pháp vẽ đường đi của tia sáng:
* Hoạt động 8: Vẽ ảnh
Tổ chức định hướng:
+ Mục đích- Yêu cầu công việc:
- Học sinh vẽ được ảnh của vật sáng đặt vuông góc với trục chính qua thấu kính.
+ Phương pháp: Định hướng theo mẫu, từng phần không đầy đủ, học sinh vận
dụng vào các tình huống tương tự
- Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ ảnh của vật sáng đặt vuông góc trục chính của thấu
kính hội tụ.
- Học sinh nêu lại các bước vẽ ảnh.
- Học sinh tiến hành vẽ ảnh đối với thấu kính phân kì.
+ Kết quả:
- Học sinh vẽ được ảnh của vật thật qua các loại thấu kính.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ ảnh của - Lắng nghe, nắm các bước vẽ ảnh, vẽ
vật sáng đặt vuông góc trục chính của thấu ảnh vào tập theo hướng dẫn của giáo
kính hội tụ. viên.
+ Để vẽ ảnh của vật sáng AB đặt vuông góc
trục chính của thấu kính hội tụ ta tiến hành
theo các bước sau:
. Vẽ hai tia sáng tới đặc biệt xuất phát từ điểm
B tới thấu kính (tia tới qua quang tâm và tia
tới song song trục chính).
. Vẽ hai tia ló tương ứng, xác định giao điểm
của hai tia ló, đó chính là ảnh B’của điểm B
qua thấu kính.
. Từ B’, hạ đường thẳng góc xuống trục chính
của thấu kính ta được ảnh A’B’ của vật AB
qua thấu kính.
? Yêu cầu học sinh nhắc lại các bước vẽ ảnh?
- Gọi học sinh lên bảng vẽ ảnh trường hợp vật - Nhắc lại các bước vẽ ảnh. đặt trước thấu kính phân kì. - Tiến hành vẽ ảnh cho trường hợp vật
đặt vuông góc với trục chính của thấu + Lưu ý: kính phân kì. - Vật thật: nằm ở phía chùm tia tới
- Vật ảo: nằm ở phía chùm tia ló
- Ảnh thật: nằm ở phía chùm tia ló
- Ảnh ảo: nằm ở phía chùm tia tới
- Vẽ vật thật, ảnh thật bằng nét liền. Vẽ vật
ảo, ảnh ảo bằng nét đứt.
* Hoạt động 9: Xét sự tương quan giữa vật và ảnh
Tổ chức định hướng:
+ Mục đích- Yêu cầu công việc:
- Học sinh nhận xét được mối tương quan giữa vật và ảnh: sự dịch chuyển, độ lớn vật,
ảnh, tính chất ảnh so với vật.
+ Phương pháp định hướng: Định hướng tìm tòi
- Giáo viên yêu cầu học sinh vẽ ảnh tương ứng với một số vị trí đặt khác nhau của vật
trên quang trục:
* Thấu kính hội tụ:
* Thấu kính phân kì
- Mỗi hình vẽ, nhận xét tính chất của ảnh so với vật (thật hay ảo, cùng chiều hay ngược
chiều vật, độ lớn so với vật).
TÓM TẮT VỊ TRÍ- TÍNH CHẤT ẢNH ỨNG VỚI CÁC VỊ TRÍ KHÁC NHAU
CỦA VẬT
* Thấu kính hội tụ
+ ∞ đến gần C Tại C Từ C đến F Từ F đến O Từ O đến -∞ Vật
Ảnh
Chiều so với vật
Độ lớn so với
vật
* Thấu kính phân kì
Từ C đến - + ∞ đến O Từ O đến F Từ F đến C Tại C Vật ∞
Ảnh
Chiều so với vật
Độ lớn so với
vật
+ Kết quả:
- Học sinh vẽ được hình trong các trường hợp giáo viên đã giao.
* Thấu kính hội tụ:
* Thấu kính phân kì:
- Học sinh nhận xét được mối tương quan giữa vật và ảnh trong từng trường hợp riêng, từ
đó rút ra các nhận xét sau:
+ Khi vật tiến lại gần hay ra xa thấu kính, ảnh luôn di chuyển cùng chiều với vật.
+ Ảnh và vật cùng chiều nếu tính chất khác nhau (vật thật, ảnh ảo hay ngược lại). Ảnh và
vật ngược chiều nếu tính chất giống nhau (vật và ảnh cùng thật hay cùng ảo)
- Điền vào bảng đầy đủ các thông tin vào khi kết hợp quan sát sự tạo ảnh của vật qua thấu
kính hội tụ và thấu kính phân kì bằng chương trình flash.
Vật + ∞ đến gần C Tại C Từ C đến F Từ F đến O Từ O đến -∞
Thật Thật Ảo Thật Thật Ảnh Từ F’ đến C’ Tại C’ Từ F’ đến - ∞ Từ +∞ đến F Từ O đến F’
Chiều so với vật Ngược chiều Ngược chiềuNg ược chiều Cùng chiều Cùng chiều
Đô lớn so với Nhỏ hơn Bằng Lớn hơn Lớn hơn Nhỏ hơn vật
* Thấu kính phân kì
Vật + ∞ đến O Từ O đến F Từ F đến C Tại C Từ C đến -∞
Ảo Thật Ảo Ảo Ảo Ảnh Từ F’ đến O Từ O đến -∞ Từ +∞ đến C’ Tại C’ Từ C’ đến F’
Chiều so với vật Cùng chiều Cùng chiều Ngược chiều Ngược chiềuNg ược chiều
Đô lớn so với Nhỏ hơn Lớn hơn Lớn hơn Bằng Nhỏ hơn vật
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Giao việc cho học sinh về nhà: vẽ ảnh của - Học sinh về nhà vẽ ảnh, nhận xét theo yêu
vật trong các trường hợp đã nêu. cầu của giáo viên, mỗi học sinh làm việc cá
- Mỗi hình vẽ, nhận xét tính chất của ảnh so nhân.
với vật (thật hay ảo, cùng chiều hay ngược
chiều vật, độ lớn so với vật)
- Tiết tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học - Vẽ ảnh cho trường hợp vật ảo đối với thấu
sinh vẽ ảnh đối với trường hợp vật ảo. kính hội tụ, phân kì.
- Phát phiếu học tập: “tóm tắt vị trí- tính
chất ảnh ứng với các vị trí khác nhau của
vật”
- Sử dụng chương trình flash mô phỏng sự
tạo ảnh qua thấu kính hội tụ, thấu kính
phân kì.
- Nhận phiếu học tập, làm việc cá nhân.
- Dựa vào quan sát, hình vẽ điền vào phiếu
học tập.
- Ứng với từng khoảng dịch chuyển của vật
trên quang trục, yêu cầu học sinh dựa vào
đó, kết hợp với hình đã vẽ điền các nhận
xét vào bảng.
5. Độ tụ của thấu kính:
* Hoạt động 10: Tìm hiểu độ tụ của thấu kính
Phương pháp: Thuyết trình, thông báo
- Để đặc trưng cho khả năng hội tụ chùm tia của một thấu kính nhiều hay ít, người ta
D
(
n
1)(
);
n
1 R
1 f
1 R 1
2
n 2 n 1
dùng một đại lượng gọi là độ tụ. Độ tụ được định nghĩa:
Với f: mét (m); D: diốp (dp).
n: chiết suất tỉ đối của chất làm thấu kính với môi trường xung quanh thấu kính
n1: chiết suất tuyệt đối của môi trường xung quanh thấu kính
n2: chiết suất tuyệt đối của chất làm thấu kính
Mặt lồi: R > 0; Mặt lõm: R < 0; Mặt phẳng: R =
6. Công thức thấu kính:
* Hoạt động 11: Tìm hiểu công thức thấu kính
Phương pháp: thuyết trình, thông báo
khoảng cách đại số từ vật đến thấu kính Gọi:
khoảng cách đại số từ ảnh đến thấu kính
1 d
1 d
'
1 f
Ta có:
Quy ước: - Vật thật d > 0, vật ảo d < 0;
- Ảnh thật d’ > 0,vật ảo d’ < 0
'
'
k
Độ phóng đại ảnh:
d d
' A B AB
;
+ k > 0: vật ảnh cùng chiều (vật thật, ảnh ảo hoặc vật ảo, ảnh thật)
+ k < 0: vật ảnh ngược chiều (vật và ảnh cùng thật hoặc cùng ảo)
Bài 50:
MẮT
I. Mục tiêu:
1. Về kiến thức:
- Học sinh nhớ các kiến thức:
+ Cấu tạo của mắt về phương diện quang hình học
+ Điểm cực viễn và điểm cực cận, khoảng cực cận của mắt, khoảng nhìn rõ của mắt
+ Mắt không có tật
+ Năng suất phân ly
+ Điều kiện nhìn rõ của mắt
- Học sinh hiểu
+ Sự điều tiết của mắt
+ Sự thay đổi độ tụ của thấu kính mắt khi điều tiết
- Học sinh vận dụng:
+ Giải thích được sự khác nhau giữa sự điều tiết của mắt và sự điều chỉnh máy ảnh
+ Điều kiện nhìn rõ để thực hành xác định năng suất phân ly của mắt mình
2. Thao tác:
- Học sinh có thể tự lực nghiên cứu cấu tạo về mặt sinh học của mắt, có thể trình bày trước lớp những hiểu biết của bản thân.
- Tích cực tham gia các hành động học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
II. Phương pháp:
- Thuyết trình, thông báo
- Đàm thoại
+ Tăng dộng cơ hứng thú học tập của học sinh bằng các tình huống vấn đề
+ Định hướng hành động học tập theo phương pháp định hướng chương trình hóa
II. Dụng cụ:
- Tranh vẽ cấu tạo mắt.
- Flash mô tả sự điều tiết của mắt
III. Tổ chức hoạt động dạy học:
I. Cấu tạo mắt:
* Hoạt động 1: Nghiên cứu cấu tạo của mắt
Phương pháp thuyết trình, thông báo
- Mắt được cấu tạo từ nhiều bộ phận:
+ Giác mạc: là một lớp mỏng, cứng trong suốt (độ dày nhỏ), chiết suất 1,37
+ Thủy dịch: là khối chất trong suốt, chiết suất 1,33
+ Màng mống mắt (lòng đen )
+ Con ngươi (ở giữa lòng đen )
+ Thể thủy tinh: là bộ phận quan trọng nhất của mắt, độ cong các mặt của thể thủy tinh có
thể thay đổi được, là khối chất trong suốt có chiết suất 1,41.
+ Cơ vòng
+ Dịch thủy tinh: Là một khối chất trong suốt có chiết suất 1,33
+ Màng lưới (võng mạc): có tác dụng như một màn ảnh hứng ảnh của vật qua mắt
Ta có thể coi hệ thống bao gồm các bộ phận cho ánh sáng truyền qua của mắt
tương đương với một thấu kính hội tụ. Thấu kính tương đương này được gọi là thấu kính
mắt.
Giác mạc
Thủy dịch thấu kính hội tụ thấu kính mắt Thể thủy tinh
Dịch thủy tinh
- Tiêu cự của thấu kính mắt có thể thay đổi được.
- Quang trục chính cắt màng lưới tại điểm V. Một vùng nhỏ gần V rất nhạy với ánh sáng
(có nhiều đầu dây thần kinh thị giác) có màu vàng. Vùng này gọi là điểm vàng V.
- Dưới điểm V một chút là điểm mù M hoàn toàn không cảm nhận được ánh sáng.
- Mắt nhìn rõ vật khi ảnh của vật cho bởi thấu kính mắt hiện rõ trên màng lưới, ảnh này là ảnh thật, nằm tại điểm vàng.
? Ảnh của vật thật qua thấu kính hội tụ, có tính chất như thế nào?
? Vậy tại sao ta vẫn có thể trông thấy các vật theo chiều của nó?
II. Sự điều tiết, điểm cực cận, điểm cực viễn
* Hoạt động 2: Tìm hiểu thế nào là sự điều tiết của mắt
Tổ chức định hướng:
+ Mục đích, yêu cầu công việc:
- Học sinh nắm được sự điều tiết của thấu kính mắt, thấy được sự khác nhau giữa sự điều
tiết của thấu kính mắt với sự điều chỉnh máy ảnh.
- Học sinh nắm được khái niệm điểm cực cận, cực viễn, mắt không có tật.
+ Phương pháp định hướng: Định hướng chương trình hóa
- Tạo hứng thú bằng tình huống có vấn đề
Xét một thấu kính hội tụ và một màn ảnh đặt cách nhau một khoảng cố định, dịch
chuyển vật trước thấu kính, người ta sẽ tìm được bao nhiêu vị trí cho ảnh rõ trên màn?
Vậy tại sao với thấu kính mắt, vị trí của thấu kính, vị trí màn cố định mà vật đặt ở nhiều
vị trí trước mắt mà mắt vẫn luôn nhìn thấy vật?
- Nhắc lại công thức thấu kính?
- Nhắc lại công thức độ tụ của thấu kính?
? Với thấu kính mắt, ta có thể thay đổi yếu tố nào để thay đổi độ tụ?
- Ở mắt người, bán kính các mặt cong của thủy tinh thể có thể thay đổi nhờ đâu?
- Cho học sinh quan sát flash mô phỏng sự điều tiết của mắt, sau đó yêu cầu học sinh nhận xét sự thay đổi độ tụ của thấu kính mắt khi điều tiết.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
* Tình huống có vấn đề:
Xét một thấu kính hội tụ và một màn ảnh đặt , không đổi, nên ta chỉ tìm được - Do
cách nhau một khoảng cố định, dịch chuyển vật một vị trí cho ảnh rõ trên màn.
trước thấu kính, người ta sẽ tìm được bao nhiêu
vị trí cho ảnh rõ trên màn?
Vậy tại sao với thấu kính mắt, vật đặt ở nhiều - Suy nghĩ, trả lời câu hỏi. Có thể chưa
vị trí trước mắt, vị trí của thấu kính mắt và màn tìm ra câu trả lời.
không thay đổi mà mắt vẫn luôn nhìn thấy vật? - Công thức thấu kính:
1 d
1 d
'
1 f
* Tổ chức định hướng:
- Nhắc lại công thức thấu kính?
D
(
n
1)(
);
n
1 R
1 f
1 R 1
2
n 2 n 1
- Nhắc lại công thức độ tụ của thấu kính?
? Với thấu kính mắt, ta có thể thay đổi yếu tố - Thay đổi R1, R2 là bán kính các mặt
nào để thay đổi độ tụ? cong giới hạn thấu kính
- Ở mắt người, bán kính các mặt cong của thủy - Bán kính mặt cong của thủy tinh thể
tinh thể có thể thay đổi nhờ đâu? thay đổi nhờ sự co giãn của cơ vòng
- Giáo viên thông báo: sự thay đổi độ cong của
các mặt thủy tinh thể (dẫn đến sự thay đổi tiêu
cự của thấu kính mắt) để giữ cho ảnh của vật vẫn
hiện rõ trên màng lưới được gọi là sự điều tiết
của mắt.
- Cho học sinh quan sát flash mô phỏng sự điều
tiết của mắt, yêu cầu học sinh nhận xét về bán
kính các mặt cong của thể thủy tinh, từ đó liên
hệ đến tiêu cự của thấu kính mắt.
- Khi quan sát các vật ở gần, thủy tinh
thể phồng lên (bán kính cong nhỏ), tiêu
cự của thấu kính mắt nhỏ.
- Quan sát các vật ở xa, thủy tinh thể dẹt
xuống (bán kính cong lớn), tiêu cự của
thấu kính mắt lớn.
- Khi quan sát vật ở xa thì mắt điều tiết sao cho
tiêu cự của thấu kính mắt lớn nghĩa là thủy tinh
thể dẹt đi. Khi đó, cơ vòng giãn, mắt đỡ mỏi hơn
so với khi nhìn gần.
- Khi quan sát vật ở gần thì mắt điều tiết sao cho
tiêu cự của thấu kính mắt nhỏ nghĩa là thủy tinh
thể phồng lên. Nên cơ vòng co lại, mắt dễ bị
mỏi.
? So sánh sự điều tiết của mắt và sự điều chỉnh
để ảnh hiện rõ trên phim?
+ Giống nhau: Có sự điều chỉnh để vật ở
những vị trí khác nhau trước thấu kính
vẫn cho ảnh hiện rõ trên màn.
+ Khác nhau:
Máy ảnh: điều chỉnh khoảng cách
giữa các thấu kính, tiêu cự của thấu kính
không thay đổi
Mắt: Tiêu cự của thấu kính mắt
thay đổi được để điều chỉnh cho ảnh hiện
rõ trên màn lưới, còn vị trí của thấu kính
mắt không thay đổi.
* Hoạt động 3: Tìm hiểu điểm cực cận, điểm cực viễn
Phương pháp: thông báo
* Điểm cực viễn Cv:
- Điểm xa nhất trên trục chính của mắt mà vật đặt tại đó thì ảnh của vật hiện rõ trên màng
lưới khi mắt không điều tiết gọi là điểm cực viễn Cv.
- Đối với mắt không có tật thì điểm cực viễn ở xa vô cùng.
* Điểm cực cận Cc:
- Điểm gần nhất trên trục chính của mắt mà nếu vật đặt tại đó thì ảnh của vật hiện trên
màng lưới khi mắt điều tiết cực đại gọi là điểm cực cận Cc.
- Khoảng cách từ mắt đến điểm cực cận là OCc được gọi là khoảng cực cận. KH: Đ
* Nếu vật tiến lại gần mắt hơn điểm cực cận hoặc xa hơn điểm cực viễn thì qua
thấu kính mắt, ảnh sẽ không còn hiện rõ nét trên màng lưới được nữa.
Đ
Khoảng cách CcCv là khoảng nhìn rõ của mắt. Kí hiệu: Đ
3. Góc trông vật và năng suất phân ly của mắt:
- Để thấy rõ một vật AB, ngoài điều kiện vật nằm trong khoảng nhìn rõ của mắt còn phụ
thuộc vào góc trông đoạn AB
- Góc trông vật AB là góc tạo bởi hai tia sáng xuất phát từ hai điểm A,B tới mắt.
- Góc trông vật là góc nhỏ nên α ≈ tanα
AB: độ cao vật.
l: khoảng cách từ vật đến mắt.
* Năng suất phân ly của mắt là góc trông nhỏ nhất khi nhìn đoạn AB mà mắt vẫn còn
phân biệt được hai điểm AB
4. Sự lưu ảnh của mắt:
Sau khi ánh sáng kích thích trên màng lưới mắt, ảnh hưởng của nó vẫn kéo dài
khoảng 0,1s; trong khoảng thời gian đó ta vẫn còn cảm giác nhìn thấy vật. Đó là sự lưu
ảnh của mắt.
Hiện tượng này ứng dụng trong điện ảnh. Khi chiếu phim, cứ sau 0,033s hay 0,04s
người ta lại chiếu một cảnh. Do hiện tượng lưu ảnh trên màng lưới nên người xem có
cảm giác quá trình diễn ra là liên tục.
Bài 52: KÍNH LÚP
I. Mục đích- Yêu cầu:
1. Kiến thức:
- Học sinh trình bày được công dụng của kính lúp và các cách ngắm chừng.
- Học sinh trình bày được khái niệm số bội giác của kính lúp, phân biệt được số bội giác
của kính lúp với độ phóng đại ảnh.
2. Thao tác:
- Học sinh tích cực tham gia xây dựng bài học thông qua việc đề xuất dụng cụ quang học
tạo ảnh của vật có góc trông ảnh lớn hơn góc trông trực tiếp vật.
- Học sinh tự lực xây dựng được công thức tính số bội giác của kính lúp trong trường hợp
ngắm chừng cực cận và ngắm chừng ở vô cực sau khi đã biết về công thức số bội giác
của kính lúp.
II. Phương pháp:
Sử dụng các phương pháp định hướng nhằm phát huy tính tích cực của học sinh:
- Phương pháp định hướng tìm tòi: xác định dụng cụ quang học bổ trợ cho mắt nhằm tăng
góc trông ảnh.
- Phương pháp định hướng chương trình hóa: xây dựng công thức số bội giác của kính
lúp trong các trường hợp ngắm chừng cực cận và ngắm chừng ở vô cùng.
III. Dụng cụ dạy học:
- Các loại thấu kính: hội tụ tiêu cự 50mm,100mm, phân kì có tiêu cự -70mm.
- Vật quan sát (dòng chữ nhỏ trên một con tem: nhỏ, mắt thường không quan sát thấy rõ)
IV. Tổ chức lớp:
- Học sinh tiến hành hoạt động theo nhóm từ 5 đến 6 thành viên, hoạt động trong nhóm
suốt quá trình học tập.
V. Tổ chức hoạt động dạy học:
* Hoạt động 1: Nghiên cứu công dụng của kính lúp
Tổ chức định hướng:
+ Mục đích- yêu cầu:
- Học sinh tự lực tìm ra được dụng cụ quang học bổ trợ cho mắt. Đưa ra được định nghĩa
về kính lúp.
+ Phương pháp định hướng: Định hướng tìm tòi
- Cho học sinh quan sát vật
- Yêu cầu học sinh lựa chọn trong các quang cụ đã học, dụng cụ nào có thể tạo ra ảnh của
vật để mắt nhìn thấy ảnh đó dưới góc trông lớn hơn năng suất phân li.
- Giải thích hiện tượng trên (Trong trường hợp nào thì quan sát được ảnh thỏa mãn yêu
cầu, tại sao?)
+ Kết quả:
- Học sinh đưa ra được dụng cụ quang học giúp làm tăng góc trông vật là thấu kính hội tụ
có tiêu cự nhỏ.
- Dựa vào các thí nghiệm đã tiến hành, giải thích được công dụng và cách dùng của kính
lúp.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
? Nhắc lại điều kiện nhìn rõ một vật? - Để thấy rõ vật thì vật phải nằng trong
khoảng nhìn rõ của mắt và góc trông vật
? Nếu vật nằm trong khoảng nhìn rõ của lớn hơn năng suất phân li của mắt.
mắt mà góc trông vật nhỏ hơn năng suất - Suy nghĩ, dự đoán câu trả lời. Có thể một
phân li của mắt thì chúng ta có thể sử dung số học sinh đã có câu trả lời là kính lúp.
một dụng cụ quang học nào đó để bổ trợ
mắt, làm tăng góc trông vật không? (ảnh
vẫn cùng phía, cùng chiều với vật)
- Phân nhóm học sinh, phát mỗi nhóm một - Hoạt động nhóm, quan sát và đưa ra các
nhận xét khi quan sát với từng loại thấu con tem và ba thấu kính có tiêu cự lần lượt
kính. là 5,-7,10 cm.
- Khi vật nằm trong khoảng OF thì quan sát ? Vật cách thấu kính một khoảng bao nhiêu
thì so với tiêu cự của thấu kính thì quan sát thấy ảnh rõ nét. Vì khi đó vật qua thấu kính
được ảnh rõ nét? Tại sao lại xảy ra hiện hội tụ cho ảnh ảo, cùng chiều, lớn hơn vật.
tượng trên?
- Với thấu kính hội tụ có tiêu cự càng nhỏ
thì ảnh tạo ta càng lớn, góc trông ảnh càng ? Với các thấu kính hội tụ thỏa điều kiện gì lớn. thì sẽ trông thấy ảnh với góc trông càng - Là dụng cụ quang học dùng để quan sát lớn? các vật nhỏ, (giúp tạo ra ảnh cùng phía,
cùng chiều vật với góc trông lớn hơn) Kính - Thông báo: Thấu kính trong trường hợp lúp là các thấu kính hội tụ có tiêu cự nhỏ, này là kính lúp. Vậy, người ta chế tạo kính
lúp dùng để làm gì, đặc điểm về cấu tạo của cỡ vài cm.
các kính lúp như thế nào?
* Hoạt động 2: Ngắm chừng ở điểm cực cận và ngắm chừng ở vô cùng:
Phương pháp thuyết trình, thông báo.
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
Để mắt thấy được vật thì vật cần phải - Lắng nghe, tiếp thu
nằm trong khoảng nhìn rõ của mắt và góc
trông vật lớn hơn αmin. Để điều chỉnh góc
trông, chúng ta đã sử dụng một thấu kính,
để thỏa mãn điều kiện còn lại, chúng ta
phải điều chỉnh vật hoặc thấu kính sao cho
ảnh của vật hiện trong khoảng nhìn rõ của
mắt.
Việc điều chỉnh sao cho ảnh của vật qua
kính lúp hiện trong khoảng nhìn rõ của mắt
được gọi là cách ngắm chừng.
- Nếu điều chỉnh sao cho ảnh hiện ngay tại
điểm Cc thì gọi là ngắm chừng ở cực cận.
- Nếu điều chỉnh sao cho ảnh hiện ngay tại
điểm Cv thì gọi là ngắm chừng ở cực viễn.
Thông thường, điểm cực viễn của mắt
không có tật ở rất xa nên ngắm chừng ở cực
viễn còn gọi là ngắm chừng ở vô cùng.
* Hoạt động 3: Số bội giác của kính lúp
Tổ chức định hướng:
+ Mục đích- Yêu cầu:
- Học sinh có thể tự lực xây dựng được công thức số bội giác của kính lúp trong trường
hợp ngắm chừng ở cực cận và ngắm chừng ở vô cùng sau khi được thông báo về số bội
giác của kính lúp.
+ Phương pháp định hướng: định hướng chương trình hóa
- Thông báo: Số bội giác của kính lúp được tính bằng tỉ số giữa góc trông ảnh qua dụng
cụ quang (α) và góc trông vật khi vật đặt tại điểm cực cận của mắt (αo).
- Dựa vào định nghĩa trên, học sinh xây dựng công thức tính độ bội giác của kính lúp khi
ngắm chừng cực cận và ngắm chừng vô cực.
Chú ý: Khi ngắm chừng cực cận, ảnh qua quang cụ hiện ở điêm cực cận
Khi ngắm chừng ở vô cùng, ảnh hiện ở rất xa, chùm tia ló khỏi thấu kính là
chùm tia song song.
Các góc trông là những góc nhỏ, có thể áp dụng công thức gần đúng trong
lượng giác.
+ Kết quả:
- Học sinh xây dựng được công thức tính độ bội giác của kính lúp cho trường hợp tổng
quát, từ đó rút ra được công thức tính độ bội giác cho trường hợp ngắm chừng ở cực cận
và ngắm chừng ở vô cùng.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Thông báo: Số bội giác của kính lúp được
tính bằng tỉ số giữa góc trông ảnh qua dụng
cụ quang (α) và góc trông vật khi vật đặt tại
điểm cực cận của mắt (αo).
- Hoạt động cá nhân, tính toán độ bội giác
cho trường hợp ngắm chừng ở một điểm
- Cả lớp tiến hành vẽ hình, tính toán cho bất kì.
trường hợp tổng quát
- Các góc trông là những góc nhỏ, có thể áp
Cc
dụng công thức gần đúng trong lượng giác.
α0 ≈ tanα0
α ≈ tanα
- Định hướng của giáo viên:
Vẽ hình, tính tanα, tanα0 từ đó tính
số bội giác trong trường hợp ngắm chừng ở
một điểm bất kì.
- Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tính
toán, hướng dẫn học sinh thực hiện.
Tính tanα0 với α0 là góc trông vật
trực tiếp khi vật đặt ở điểm cực cận.
Vẽ ảnh của vật qua thấu kính hội tụ
với vật đặt trong khoảng OF. Mắt đặt cách
thấu kính một khoảng l.
Xác định góc trông ảnh α. Tính tanα.
Thay vào công thức tính độ bội giác
của kính lúp để tính độ bội giác của kính
lúp cho trường hợp ngắm chừng ở điểm bất
kì.
? Nhận xét trường hợp tạo ảnh này của thấu
kính hội tụ độ phóng đại k có giá trị dương
hay âm? - Độ bội giác của kính lúp khi ngắm chừng
? Khi đó, có thể tính k bằng tỉ số độ cao vật ở điểm bất kì phụ thuộc vào mắt người
và ảnh không? quan sát và phụ thuộc vào việc điều chỉnh
kính lúp.
- Hoạt động theo nhóm, vẽ hình và tính
toán cho trường hợp mình được giao.
+ Xây dựng công thức độ bội giác trong
trường hợp ngắm chừng ở cực cận, ngắm
chừng ở vô cực - Khi ngắm chừng ở cực cận thì độ bội giác
- Chia lớp thành hai nhóm lớn, mỗi nhóm
tính toán cho một trường hợp ngắm chừng.
- Yêu cầu học sinh vẽ ảnh rồi tính toán cho -Khi ngắm chừng ở vô cực
từng trường hợp ngắm chừng.
+ Ngắm chừng ở cực cận: vật đặt trong
khoảng từ O đến F của thấu kính, cho ảnh
hiện ngay tại điểm cực cận.
+ Ngắm chừng ở vô cực: vật đặt tại F,
chùm tia ló là chùm tia song song (ảnh ở
rất xa).
Tính tanα, tanαo từ đó tính số bội giác
trong trường hợp ngắm chừng ở vô cực.
- Chú ý chùm tia ló là chùm tia song song
- Ngắm chừng ở vô cùng, độ bội giác với tia sáng từ B qua quang tâm nên góc
không phụ thuộc vào vị trí đặt mắt. trông vật qua kính lúp trong trường hợp
này được tính như thế nào?
- Gọi lên bảng hai học sinh tính toán cho
hai trường hợp ngắm chừng.
- Giáo viên thông báo về độ bội giác
thương mại.
Bài 56: Thực hành
ĐO TIÊU CỰ CỦA THẤU KÍNH PHÂN KÌ
I. Mục đích- yêu cầu:
1. Kiến thức:
- Học sinh nắm được phương pháp đo tiêu cự của thấu kính phân kì dựa vào công thức thấu kính.
- Tiến hành đo, thao tác chính xác, xác định được tiêu cự của thấu kính phân kì.
2. Thao tác:
- Học sinh tự lực tiến hành thí nghiệm, viết báo cáo dưới sự hướng dẫn của giáo viên
II. Phương pháp:
- Định hướng chương trình hóa
III. Dụng cụ: Bộ thí nghiệm quang thực hành: Xác định tiêu cự của thấu kính
phân kì
- Giá quang học dài 750mm 1 - Bộ 4 thấu kính:
- Đèn chiếu sáng 12V, 21W 1 +Phân kì: f = -70mm 1
- Bảng chắn sáng dùng làm vật sáng 1 + Hội tụ: f = +300mm 1
- Màn ảnh 1 + Hội tụ f = +100mm 1
- Biến thế nguồn 1 + Hội tụ: f = +50mm 1
IV. Tổ chức lớp học:
- Lớp học có 42 học sinh, được chia thành các nhóm, mỗi nhóm 3 học sinh, tiến hành thí
nghiệm và báo cáo theo nhóm.
- Học sinh hợp tác theo nhóm trong quá trình thí nghiệm, dưới sự hướng dẫn, điều khiển
của giáo viên.
V. Định hướng hành động học tập:
1. Cơ sở lí thuyết:
Tổ chức hành động học tập:
+ Mục đích- yêu cầu công viêc:
- Học sinh hiểu được cơ sở lí thuyết của phương pháp đo tiêu cự của thấu kính phân kì.
+ Phương pháp định hướng: Định hướng chương trình hóa
Hệ thống câu hỏi định hướng
- Để xác định được tiêu cự của thấu kính phân kì dựa vào công thức thấu kính thì ta cần biết những gì?
- Để đo được d’ thì chúng ta phải có ảnh thật hay ảnh ảo?
- Khi đó, vật phải thỏa điều kiện gì?
- Để có được vật thỏa điều kiện trên, chúng ta cần bố trí dụng cụ thí nghiệm như thế nào?
- Khi đó, tiêu cự của thấu kính phân kì được tính theo công thức nào?
- Giáo viên tổng kết lại cơ sở lí thuyết, vẽ ảnh.
+ Kết quả:
- Học sinh nắm được cơ sở lí thuyết của bài thực hành.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Để xác định được tiêu cự của thấu kính - Cần xác định được d và d’ là khoảng cách
phân kì dựa vào công thức thấu kính thì ta từ vật và ảnh đến thấu kính.
cần biết những gì?
- Để đo được d’ thì chúng ta phải có ảnh - Ảnh thật, hiện trên màn.
thật hay ảnh ảo?
- Khi đó, vật phải thỏa điều kiện gì? - Vật là vật ảo nằm trong khoảng OF của
thấu kính phân kì.
- Nếu chúng ta có vật AB và các thấu kính, - Dùng một thấu kính hội tụ để tạo ra một
để có được vật thỏa điều kiện trên, chúng ta ảnh thật A1B1 của vật AB, khi đó, chắn
cần bố trí dụng cụ thí nghiệm như thế nào? thấu kính phân kì trước A1B1 thì A1B1 trở
thành vật ảo đối với thấu kính phân kì.
- Giáo viên tổng kết lại:
Để xác định tiêu cự của thấu kính
phân kì, ta ghép nó đồng trục với thấu kính
hội tụ sao cho vị trí của ảnh thật A1B1 của
vật AB cho bởi thấu kính hội tụ ở phía sau
thấu kính phân kì và nằm phía sau tiêu cự
vật của thấu kính phân kì.
. Khi đó ta thu được ảnh thật A2B2 trên màn. . Tiêu cự f của thấu kính phân kì được tính bởi công thức
2. Tiến hành thí nghiệm:
Tổ chức hành động học tập:
+ Mục đích- yêu cầu công viêc:
- Học sinh đo được tiêu cự của thấu kính phân kì.
+ Phương pháp định hướng: Định hướng theo mẫu, không đầy đủ.
Các bước định hướng:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh lắp ráp bộ dụng cụ như hình
- Giáo viên vừa làm mẫu một lần, vừa hướng dẫn, học sinh làm theo.
Lắp vật vào giá quang học, ở ngay sát đèn.
Gắn thấu kính hội tụ lên giá quang học, điều chỉnh vị trí thấu kính sao cho có được
ảnh thật, ngược chiều, nhỏ hơn vật
Ghi nhận vị trí (1) này trên giá quang học. Giữ nguyên vị trí vật AB và thấu kính
hội tụ trong suốt quá trình thực hành.
Đặt thấu kính phân kì vào giữa vị trí thấu kính hội tụ và ảnh A1B1 (vị trí (1) đã
đánh dấu), cách vị trí A1B1 một khoảng d = 50mm
Dịch chuyển màn hứng ảnh, xác định ảnh A2B2 của vật A1B1 qua thấu kính phân
kì.
Đo khoảng cách d’ từ màn đến thấu kính phân kì.
- Yêu cầu học sinh tiến hành đo với các vị trí khác của thấu kính phân kì.
- Ghi lại số liệu vào bảng số liệu trong báo cáo thí nghiệm.
+ Kết quả:
- Học sinh tự lực đo được tiêu cự thấu kính phân kì, điền các số liệu đo đạc được vào báo
cáo và báo cáo kết quả thí nghiệm được.
Tổ chức thực hiện định hướng:
Định hướng của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Giáo viên hướng dẫn học sinh lắp ráp bộ - Tiến hành lắp ráp theo sự hướng dẫn của
dụng cụ như hình giáo viên.
- Chú ý đèn sử dụng nguồn điện 12V, phải
sử dụng biến thế nguồn, không nên để đèn
hoạt động quá lâu.
- Giáo viên vừa làm mẫu một lần, vừa - Tiến hành thí nghiệm theo sự hướng dẫn
của giáo viên hướng dẫn, học sinh làm theo.
Lắp vật vào giá quang học, ở ngay
sát đèn.
- Ghi nhận vị trí (1) trên giá quang học, ghi Điều chỉnh vị trí của thấu kính hội tụ
vào báo cáo. sao cho thu được ảnh rõ nét, nhỏ hơn vật
trên màn ảnh. Ghi nhận vị trí (1) này của
ảnh trên giá quang học. Giữ cố định vị trí
của vật và thấu kính hội tụ trong suốt quá
trình làm thí nghiệm.
Đặt thấu kính phân kì vào trước màn
và cách màn một khoảng d = 50mm. Di
chuyển màn ảnh ra xa thấu kính phân kì
cho tới khi thu được ảnh rõ nét nhất trên
màn ảnh. Ghi nhận vị trí (2) trên giá quang
học. - Tiến hành thí nghiệm, xác định d, d’, ghi
nhận lại vào báo cáo. Tính khoảng cách d’ từ vị trí (2) và
khoảng cách d từ vị trí (1) đến thấu kính
phân kì, ta xác định được tiêu cự của thấu
kính phân kì dựa vào công thức (với chú ý
qui ước về dấu đại số của các đại lượng d,
d’ và f)
- Vật ảo d < 0, ảnh thật d’ > 0
- Với cách tạo ảnh như trên, d, d’ có giá trị
đại số như thế nào? - Học sinh tiến hành thí nghiệm và lấy số
- Lặp lại thí nghiệm 4 lần bằng cách thay liệu ghi vào báo cáo.
đổi vị trí của thấu kính phân kì gần vị trí cũ
rồi tính f trong từng thí nghiệm.
- Ghi lại số liệu vào bảng số liệu trong báo
cáo thí nghiệm.
V. Báo cáo thí nghiệm:
Mẫu báo cáo thí nghiệm:
Thực hành:
ĐO TIÊU CỰ CỦA THẤU KÍNH PHÂN KÌ
I. Mục đích thí nghiệm:
……………………………………………………………………………………………..
II. Cơ sở lí thuyết:
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
III. Tiến trình thí nghiệm:
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
IV. Kết quả thí nghiệm:
Lần thí nghiệm Vị trí A1B1 (vị trí (1)) ……………mm
d(mm) d’(mm)
1 50
2
3
4
5
Kết quả: …..…………………………………………..........
……………………………………………………………………………………………...
CHƯƠNG III:
Nội dung thực nghiệm sư phạm
I. Mục đích: - Đánh giá mức độ hiệu quả của tiến trình dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự
lực của học sinh thông qua việc giảng dạy các giáo án đã soạn trong chương: “Mắt và
các dụng cụ quang học”
Cụ thể gồm các bài học sau:
+ Thấu kính mỏng
+ Mắt
+ Kính lúp
+ Thực hành: Đo tiêu cự của thấu kính phân kì
- Sau mỗi tiết học, đánh giá mức độ nắm vững kiến thức của học sinh, khả năng tích cực,
tự lực tham gia vào quá trình xây dựng kiến thức của học sinh.
- Từ đó, rút ra những kết luận về tiến trình dạy học đã đề ra, lấy đó làm cơ sở để hoàn
thiện hơn phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh.
II. Đối tượng học sinh thực nghiệm sư phạm:
1. Đối tượng:
Là học sinh khá giỏi của trường THPT Bùi Thị Xuân thuộc các lớp 11A1,11A3,
11A5
2. Đặc điểm tình hình học sinh các lớp:
- 11A1: Là lớp có số học sinh giỏi, khá đông nhất trong các lớp nghiên cứu, các em học
giỏi đều, có khả năng tư duy độc lập, đồng thời trong giờ học chú tâm nhiều vào sách
giáo khoa, còn ít phát biểu, đôi lúc các em đặt những câu hỏi thắc mắc đi sâu hơn vào bài
học.
- 11A3: lớp trầm hơn, kết quả học tập môn Lí học kì I thấp hơn 11A1, nhưng cũng là lớp
có số học sinh khá giỏi đông, trong giờ học các em chú ý hơn vào bài giảng nhưng ít phát
biểu, vẫn còn chú tâm nhiều vào sách giáo khoa.
- 11A5: Lớp học yếu hơn, khả năng tự học, chuẩn bị bài không bằng hai lớp còn lại, tuy
nhiên, trong giờ học, các em hoạt động nhiều, tích cực, chú tâm vào bài giảng, ít bị chi
phối bởi sách giáo khoa.
III. Định hướng công việc: - Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm, tổ chức định hướng theo các phương pháp định
hướng đã đề ra nhằm tạo điều kiện cho học sinh tích cực, tự lực tiến hành hành động học
tập.
IV. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình vận dụng:
* Những khó khăn:
- Thầy Mạnh Hùng đã giao cho em tiến hành soạn giáo án theo hướng phát huy tính tích
cực, tự lực học tập của học sinh hai tuần trước khi em đi thực tập nhưng soạn vào các bài
của chương: “Cảm ứng điện từ”. Thời gian đó rơi vào giai đoạn nghỉ tết, em soạn cũng
chưa được nhiều, đồng thời, khi đi thực tập, học sinh ở trường thực tập đã học qua đến
gần hết chương cảm ứng điện từ, cho nên, không thể tiến hành thực giảng trên các bài đã
dự định. Sau đó, thầy lại giao cho em soạn các bài “Thấu kính, mắt, kính lúp” của chương
“Mắt và các dụng cụ quang học”
- Trong quá trình thực tập, do bận rộn công việc hoàn tất giáo án, giảng dạy trong đợt
thực tập, công việc của đoàn thực tập, việc chuẩn bị cho các giáo án vận dụng cho luận
văn này vẫn chưa thực sự tốt, đồng thời, em vẫn chưa hoàn toàn nắm được hết lí thuyết
của phương pháp, do đó, giáo án soạn ra vẫn còn nhiều thiếu sót.
- Do kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế, trong quá trình giảng dạy, vẫn còn chú ý nhiều
đến việc áp dụng phương pháp mới, còn còn mắc phải nhiều thiếu sót trong quá trình
giảng dạy.
- Đồng thời, tình trạng cơ sở vật chất của trường thực tập còn thiếu dẫn đến một số khó
khăn trong quá trình vận dụng.
- Đối với bản thân, việc tổ chức định hướng, tổ chức cho học sinh học tập theo hướng
phát triển tính tích cực, tự lực cho học sinh còn mới nên chưa phát huy hết cái hay của
phương pháp mới này. Theo em nếu giáo viên có kính nghiệm tốt, có điều kiện thực hiện
thì việc giảng dạy theo định hướng mới này có thể phát huy tính tích cực, tự lực học tập
của học sinh.
* Thuận lợi:
- Thuận lợi đầu tiên là em được thầy Mạnh Hùng hướng dẫn rất tận tình, trong quá trình
làm luận văn, thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo em rất nhiều, từ việc hướng dẫn tìm, nghiên
cứu tài liệu để hiểu cơ sở lí thuyết đến việc soạn giáo án, giúp em mượn dụng cụ thí
nghiệm để giảng dạy. Đồng thời, thầy luôn động viên, khuyến khích em cố gắng hoàn
thành luận văn này.
- Thứ hai, em được sự giúp đỡ, tạo điều kiện từ phía ban giám hiệu trường THPT Bùi Thị
Xuân cùng thầy hướng dẫn thực tập sư phạm là thầy Nguyễn Văn Vinh, nhờ đó, em được
tiến hành vận dụng phương pháp này tại trường.
- Học sinh các lớp 11A1, 11A3, 11A5 đều rất ngoan và học tốt, đây cũng là các lớp em
thực tập giảng dạy trong kì thực tập sư phạm nên em có điều kiện hiểu rõ tình hình học
tập của học sinh.
V. Quá trình tiến hành‐ kết quả:
Bài thấu kính
Lớp thực tập giảng dạy: 11A1, 11A3, 11A5
* Hoạt động tự lực 1:
- Học sinh tích cực hoạt động theo nhóm
- Các thành viên trong nhóm hoạt động chung và đưa ra được một số ý kiến đúng:
. Khối chất trong suốt, cho ánh sáng truyền qua,
. Được giới hạn bởi hai mặt: phẳng- cong và cong- cong
- Một nhóm đưa ra ý chưa chính xác: khối chất màu trắng.
- Tuy nhiên, các nhóm chỉ đưa ra các ý kiến trả lời ngắn dựa theo các câu hỏi định hướng
của giáo viên, vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa hoàn chỉnh cho thấu kính.
+ Khó khăn:
- Dụng cụ trực quan còn thiếu, không có đủ loại, đủ số lượng thấu kính cho học sinh quan
sát.
- Số lượng học sinh trong lớp đông, giáo viên khó bao quát hết hành động học tập của các
nhóm.
- Trong quá trình làm việc nhóm, một số em tách nhóm làm việc riêng
- Giờ học là tiết 5, học sinh rất dễ bị phân tán, đi lệch chủ đề trong lúc thảo luận
+ Thuận lợi:
- Các em đều là học sinh khá, giỏi, khả năng quan sát tốt.
- Sử dụng được mô hình các thấu kính, học sinh dễ quan sát, hình dung.
* Hoạt động tự lực 2:
- Khi giáo viên tiến hành thí nghiệm, học sinh quan sát và nhanh chóng đưa ra được nhận
xét: có hai nhóm thấu kính, một nhóm thấu kính cho chùm tia ló khỏi thấu kính tụ lại gần
quang trục chính, một nhóm thấu kính cho chùm tia ló khỏi thấu kính là chùm tia loe ra
xa khỏi quang trục chính.
- Giáo viên hỏi đặc điểm cấu tạo chung của mỗi nhóm thấu kính, học sinh chưa đưa ra
ngay được câu tả lời.
- Sau khi giáo viên định hướng: So sánh bề dày ở giữa với hai bên của thấu kính? Học
sinh có thể đưa ra được nhận xét, từ đó đưa ra được phân loại cho thấu kính:
Thấu kính hội tụ: rìa mỏng
Thấu kính phân kì: rìa dày
Kết luận:
- Học sinh dễ dàng nhận xét khi trực tiếp quan sát thí nghiệm, tuy nhiên, do thí nghiệm nhỏ, các em ở cuối lớp khó quan sát.
* Hoạt động tự lực 3: Tìm hiểu khái niệm tiêu điểm ảnh
- Giáo viên tiến hành thí nghiệm tiêu điểm ảnh của thấu kính hội tụ.
- Thí nghiệm nhỏ, lớp học khá lớn, học sinh khá đông, nên một số học sinh ở cuối lớp
khó thấy được hiện tượng. Một số học sinh ở bàn đầu quan sát được và đưa ra được nhận
xét về chùm tia tới, chùm tia ló, nhận xét được điểm cắt nằm trên trục chính của thấu
kính.
- Với thí nghiệm về tiêu điểm ảnh của thấu kính phân kì, giáo viên tiến hành thí nghiệm
trên bảng, gọi học sinh lên bảng đánh dấu lại đường đi của các tia sáng. Các em đánh dấu
được nhưng khi nối lại, giao điểm không hoàn toàn nằm trên trục chính mà hơi lệch khỏi
trục chính. Khi đó, giáo viên phải giải thích là do quá trình vẽ đã vẽ không chính xác
đường đi của tia sáng
- Qua hai thí nghiệm, học sinh nêu được khái niệm tiêu điểm ảnh của thấu kính.
* Hạn chế:
- Bộ dụng cụ thí nghiệm quang hình mô tả nhỏ, khó quan sát.
- Không dủ số bộ dụng cụ cho học sinh tự tiến hành thí nghiệm và quan sát, khi đó, có
điều kiện cho học sinh hành động tự lực hơn.
* Hoạt động tự lực 4: Vẽ đường đi của các tia đặc biệt
- Khi giáo viên hướng dẫn, hầu hết học sinh tự lực vẽ được đường đi của các tia đặc biệt.
+ Tia tới song song trục chính: giáo viên định hướng, học sinh tự lực vẽ được.
+ Tia sáng đi qua tiêu điểm:
Giáo viên cho quang trục của thấu kính với vị trí của tiêu điểm vật nằm ở bên phải
thấu kính đối với thấu kính hội tụ, nằm ở bên trái thấu kính đối với thấu kính phân kì.
Giáo viên yêu cầu học sinh vẽ một tia sáng tới thấu kính có phương đi qua tiêu
điểm vật của thấu kính.
Các em hơi lúng túng, chưa biết vẽ tia sáng như thế nào, một vài em cho rằng giáo
viên vẽ chưa đúng vị trí của tiêu điểm vật, một số em nhận ra sự khác biệt so với các hình
trước và đã vẽ được đường đi của tia sáng.
Giáo viên gọi một học sinh lên bảng vẽ thì em chỉ vẽ được đúng cho trường hợp
thấu kính hội tụ, còn trường hợp thấu kính phân kì vẽ chưa đúng.
Sau khi giáo viên phân tích, các em đã vẽ được tia sáng tới thấu kính có phương
qua tiêu điểm vật của thấu kính phân kì và vẽ được tia sáng ló cho cả hai trường hợp.
+ Tia sáng qua quang tâm: học sinh dễ dành tự lực vẽ được đường đi của tia sáng qua
quang tâm của thấu kính.
* Hoạt động tự lực 5: xác định ảnh bằng phương pháp vẽ đường đi của tia sáng
- Hầu hết học sinh có thể tự lực vẽ được của vật thật qua thấu kính khi giáo viên định
hướng cho hành động học tập.
- Trường hợp vật ảo:
+ Học sinh thắc mắc tại sao lại có vật ảo, làm sao để tạo được vật ảo, khái niệm vật ảo
làm học sinh rất khó chấp nhận.
- Sau khi giáo viên định hướng, các em đã vẽ được hình cho trường hợp vật ảo đối với
thấu kính hội tụ, phân kì.
- Một số em còn mắc phải một số sai sót nhỏ trong khi vẽ hình như vẽ chưa đúng quang
trục của thấu kính, tia sáng đến ảnh thì ngừng lại, không vẽ tiếp….
* Hoạt động tự lực 6: Nhận xét sự tương quan giữa vật và ảnh
- Đa số học sinh tích cực vẽ hình và đưa ra các nhận xét.
- Vẫn còn một só sai sót nhỏ các em mắc phải trong khi vẽ ảnh.
- Học sinh nhanh chóng nhận xét được sự tương quan giữa vật và ảnh khi xem flash mô
phỏng sự tạo ảnh.
+ Khó khăn: cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu thốn, không đủ máy chiếu để giảng dạy
bằng giáo án điện tử. Do đó chỉ có thể cho học sinh xem flash bằng máy tính cá nhân,
một số em ở cuối lớp không quan sát được rõ.
+ Thuận lợi: sử dụng flash mô phỏng trực quan, học sinh dễ dàng tự lực thực hiện hành
động học tập.
Kết luận chung
- Tiến hành giảng dạy đối với ba lớp, với cách định hướng như trên, đa số các em
thực hiện đực hành động tự lực.
- Hai lớp 11A1 và 11A3 do áp lực về thời gian, em đã chưa tạo được không khí
thoải mái lắm trong lớp học, các em vẫn thực hiện được hành động học tập tự lực nhưng
đôi khi còn chú tâm vào sách giáo khoa để tìm kiếm các câu trả lời cho các câu hỏi của
giáo viên.
- Đối với lớp A5, sau khi thực giảng trên hai lớp trước, rút kinh nghiệm giảm bớt
các hành động tự lực 1,3,4 đồng thời cố gắng tạo bầu không khí thật sự thoải mái cho lớp
học, qua đó, học sinh cởi mở hơn và học tập có hiệu quả hơn.
- Ngoài ra, do điều kiện khách quan, lớp A5 có thời gian về nhà thực hành vẽ hình
nên các em có nhiều thời gian hơn tiến hành các hoạt động học tập khác trên lớp.
- Kiểm tra bài các lớp, các em đều nắm được bài học và vận dụng kiến thức trong
các bài tập tiếp theo rất tốt.
- Tuy nhiên việc tiến hành giảng dạy,định hướng nhằm giúp học sinh tích cực, tự
lực học tập rất mất thời gian, dẫn đến không kịp thời gian theo phân phối chương trình.
Bài mắt
Tiến hành thực giảng tại lớp 11A3
* Hoạt động tự lực 1: Nghiên cứu sự điều tiết của mắt
Tình huống có vấn đề:
- Giáo viên: “xét một thấu kính hội tụ và một màn ảnh đặt cố định, dịch chuyển vật trước
thấu kính, người ta sẽ tìm được bao nhiêu vị trí cho ảnh rõ trên màn?”
- Học sinh: Một số học sinh có câu trả lời “Chỉ tìm được một vị trí cho ảnh rõ trên màn”.
Một số học sinh chưa có câu trả lời.
- Giáo viên: “Vậy tại sao với thấu kính mắt, vật đặt ở nhiều vị trí trước mắt, vị trí của
thấu kính mắt và màng lưới không thay đổi mà mắt vẫn luôn nhìn thấy vật?”
- Học sinh suy nghĩ, đa số chưa có câu trả lời.
* Tổ chức định hướng:
1 d
1 d
'
1 f
- Nhắc lại công thức thấu kính?
- Dựa vào vông thức thấu kính, chúng ta thấy rằng, khi d’ không đổi, d thay đổi, để công
tương ứng. thức thấu kính vẫn đúng thì phải có sự thay đổi của
D
(
n
1)(
);
n
1 R
1 f
1 R 1
2
n 2 n 1
- Nhắc lại công thức độ tụ của thấu kính?
- Giáo viên: “Với thấu kính mắt, ta có thể thay đổi yếu tố nào để thay đổi độ tụ?”
- Học sinh: “Thay đổi R1, R2 là bán kính các mặt cong giới hạn thấu kính”
- Giáo viên: “Ở mắt người, bán kính các mặt cong của thủy tinh thể có thể thay đổi nhờ
đâu?”
- Học sinh: Bán kính mặt cong của thủy tinh thể thay đổi nhờ sự co giãn của cơ vòng
- Giáo viên thông báo: sự thay đổi độ cong của các mặt thủy tinh thể (dẫn đến sự thay đổi
tiêu cự của thấu kính mắt) để giữ cho ảnh của vật vẫn hiện rõ trên màng lưới được gọi là
sự điều tiết của mắt.
- Cho học sinh quan sát flash mô phỏng sự điều tiết của mắt, yêu cầu học sinh nhận xét
về bán kính các mặt cong của thể thủy tinh, từ đó liên hệ đến tiêu cự của thấu kính mắt.
- Học sinh dễ dàng nhận xét và liên hệ được tiêu cự của thấu kính mắt trong các trường
hợp nhìn vật ở gần và nhìn vật ở xa.
- Khi quan sát vật ở xa thì mắt điều tiết sao cho tiêu cự của thấu kính mắt lớn nghĩa là
thủy tinh thể dẹt đi. Khi đó, cơ vòng giãn, mắt đỡ mỏi hơn so với khi nhìn gần.
- Khi quan sát vật ở gần thì mắt điều tiết sao cho tiêu cự của thấu kính mắt nhỏ nghĩa là
thủy tinh thể phồng lên. Nên cơ vòng co lại, mắt dễ bị mỏi.
? So sánh sự điều tiết của mắt và sự điều chỉnh để ảnh hiện rõ trên phim?
- Học sinh so sánh được:
+ Giống nhau: Có sự điều chỉnh để vật ở những vị trí khác nhau trước thấu kính vẫn cho
ảnh hiện rõ trên màn.
+ Khác nhau:
Máy ảnh: điều chỉnh khoảng cách giữa các thấu kính, tiêu cự của thấu kính không
thay đổi.
Mắt: Tiêu cự của thấu kính mắt thay đổi được để điều chỉnh cho ảnh hiện rõ trên
màn lưới, còn vị trí của thấu kính mắt không thay đổi.
Kết luận:
- Học sinh có thể tự lực trả lời các câu hỏi của giáo viên từ đó đi đến kiến thức. Tuy
nhiên, do kinh nghiệm còn hạn chế, lúc giảng dạy, em chưa liên hệ đến sự thay đổi của
độ tụ của thấu kính mắt khi mắt điều tiết để có thể tạo điêu kiện dễ dàng hơn cho bài học
tiếp theo là cách sửa các tật của mắt.
- Do chuẩn bị bài giảng chưa kĩ, tiết vận dụng chưa đạt được yêu cầu đã đặt ra.
- Bài dạy các kiến thức mang tính chất lí thuyết, thông báo nên việc giảng dạy tạo điều
kiện cho học sinh học tập tự lực là không nhiều.
- Ở dạng bài này, chúng ta nên tạo hứng thú cho học sinh tích cực học tập thông qua các
thí nghiệm xác định khoảng cực cận của mắt, năng suất phân li của mắt, thí nghiệm về sự
lưu ảnh,… qua đó đi đến các khái niệm về sự điều tiết, điểm cực cận, cực viễn, năng suất
phân li của mắt để học sinh dễ hình dung và chấp nhận kiến thức hơn.
Bài kính lúp
Tiến hành giảng dạy ở lớp 11A1
* Hoạt động 1: Cấu tạo- công dụng của kính lúp
- Giáo viên hỏi “Nếu vật nằm trong khoảng nhìn rõ của mắt mà góc trông vật nhỏ hơn
năng suất phân li của mắt thì chúng ta có thể sử dụng một dụng cụ quang học nào đó để
bổ trợ mắt, làm tăng góc trông vật không?”
- Một số học sinh đưa ra câu trả lời dụng cụ quang học đó là kính lúp, một học sinh có
câu trả lời là kính hiển vi.
- Xét về phương diện quang hình học thì kính lúp là dụng cụ quang học nào mà các em
đã biết? Tại sao kính lúp có thể bổ trợ cho mắt, làm tăng góc trông ảnh?
- Học sinh suy nghĩ, một vài em đã có câu trả lời, một số em khác chưa có câu trả lời.
- Giáo viên yêu cầu học sinh kiểm tra lại những điều đã dự đoán.
- Giáo viên phân nhóm, phát con tem có dòng chữ nhỏ và các thấu kính có tiêu cự lần
lượt là 5, -7, 10cm cho học sinh quan sát.
- Học sinh tiến hành quan sát trong nhóm, đưa ra các nhận xét. Các nhóm rất tích cực
quan sát, các em rất hứng thú quan sát và tìm câu trả lời.
- Giáo viên: sau khi quan sát dòng chữ trên con tem bằng các thấu kính khác nhau, các
em hãy nhận xét ảnh quan sát được trong từng trường hợp so với dòng chữ quan sát trực
tiếp bằng mắt thường?
- Thấu kính hội tụ tiêu cự 10cm:
+ Ban đầu, khi con tem đặt gần thấu kính, quan sát thấy dòng chữ to hơn so với khi quan
sát trực tiếp.
+ Khi dịch chuyển con tem ra xa thấu kính dần cho đến khi khoảng cách lớn hơn 10cm
thì không còn quan sát thấy ảnh rõ nét nữa.
- Thấu kính hội tụ tiêu cự 5cm:
+ Ban đầu, khi đặt con tem gần kính, quan sát thấy ảnh của dòng chữ rõ nét, lớn hơn so
với khi quan sát trực tiếp, lớn hơn so với khi quan sát bằng thấu kính hội tụ có tiêu cự
10cm.
+ Khi dịch con tem ra xa thấu kính dần đấn lúc khoảng cách giữa vật và thấu kính lớn
hơn 5cm thì không quan sát thấy ảnh rõ nét nữa.
- Thấu kính phân kì tiêu cự -7cm:
+ Quan sát thấy con tem nhỏ hơn khi quan sát trực tiếp bằng mắt thường, dòng chữ trên
con tem quá nhỏ, không quan sát được.
- Giáo viên đặt câu hỏi vì sao lại quan sát thấy như vậy?
- Học sinh trả lời được dựa vào tính chất tạo ảnh của thấu kính hội tụ và thấu kính phân
kì.
- Giáo viên thông báo thấu kính dùng trong trường hợp này để bổ trợ cho mắt, làm tăng
góc trông vật được gọi là kính lúp. Kính lúp là thấu kính hội tụ, có tiêu cự nhỏ, cỡ vài
xentimét.
+ Kết luận
- Tiến hành giảng dạy cho học sinh trực tiếp quan sát để rút ra được kiến thức làm cho
kiến thức học sinh lĩnh hội một cách dễ dàng, không mang tính chất áp đặt, các em hoạt
động tích cực hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
- Số thấu kính còn ít về số lượng, loại.
* Hoạt động tự lực 2: Xây dựng công thức tính độ bội giác trong các trường hợp ngắm
chừng.
+ Giáo viên thông báo công thức tính độ bội giác của kính lúp.
+ Xây dựng công thức độ bội giác trong trường hợp ngắm chừng ở một điểm bất kì.
- Giáo viên hướng dẫn
. Các góc trông là những góc nhỏ, có thể áp dụng công thức gần đúng trong lượng giác.
α0 ≈ tanα0
α ≈ tanα
. Vẽ hình, tính tanα, tanα0 từ đó tính số bội giác trong trường hợp ngắm chừng ở một
điểm bất kì
- Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tính toán, hướng dẫn học sinh thực hiện
. Tính tanα0 với α0 là góc trông vật trực tiếp khi vật đặt ở điểm cực cận.
. Vẽ ảnh của vật qua thấu kính hội tụ với vật đặt trong khoảng OF. Mắt đặt cách thấu kính
một khoảng l.
. Xác định góc trông ảnh α. Tính tanα.
. Thay vào công thức tính độ bội giác của kính lúp để tính độ bội giác của kính lúp cho
trường hợp ngắm chừng ở điểm bất kì.
- Học sinh tự lực tiến hành tính được độ bội giác của kính lúp cho trường hợp ngắm
chừng ở điểm bất kì.
+ Xây dựng công thức độ bội giác trong trường hợp ngắm chừng ở cực cận, ngắm chừng
ở vô cực
- Chia lớp thành hai nhóm lớn, mỗi nhóm tính toán cho một trường hợp ngắm chừng.
- Yêu cầu học sinh vẽ ảnh rồi tính toán cho từng trường hợp ngắm chừng.
+ Ngắm chừng ở cực cận: vật đặt trong khoảng từ O đến F của thấu kính, cho ảnh hiện
ngay tại điểm cực cận.
+ Ngắm chừng ở vô cùng: vật đặt tại F, chùm tia ló là chùm tia song song (ảnh ở rất xa).
Tính tanα, tanαo từ đó tính số bội giác trong trường hợp ngắm chừng ở vô cực.
- Gọi lên bảng hai học sinh tính toán cho từng trường hợp ngắm chừng
. Học sinh tự lực vẽ hình, tính được công thức độ bội giác trường hợp ngắm chừng ở cực
cận.
. Trường hợp ngắm chừng ở vô cực, học sinh vẽ được hình nhưng tính chưa được công
thức độ bội giác.
- Giáo viên định hướng: “Chú ý chùm tia ló là chùm tia song song với tia sáng từ B qua
quang tâm nên góc trông vật qua kính lúp trong trường hợp này bằng với góc nào và
được tính như thế nào?”
- Khi đó, học sinh trả lời được và tính toán được độ bội giác cho trường hợp ngắm chừng
ở vô cực.
* Khó khăn
- Một số học sinh không tự lực xây dựng công thức mà đọc ngay trong sách giáo khoa.
Nhận xét chung:
- Đa số các em tiến hành được hành động tự lực. Tuy nhiên, các em dễ bị chi phối bởi các
dụng cụ thí nghiệm, khi chuyển sang hoạt động học tập khác, một số học sinh vẫn chú ý
vào các thấu kính.
- Giáo viên phân bố nhiều thời gian vào hành động tự lực 1, dẫn đến không kịp thời gian
cho hành động tự lực 2, củng cố (trễ 7 phút).
- Thời gian 45 phút không đủ để tiến hành tất cả các hành động tự lực, cần phải tiến hành
các hành động học tập một cách nhanh chóng. Nếu các em không tự lực được thì phải
định hướng thêm hoặc chuyển phương pháp thuyết tình, thông báo.
Bài thực hành: ĐO TIÊU CỰ CỦA THẤU KÍNH PHÂN KÌ
- Tiến hành giảng dạy ở lớp 11A1, 11A5.
* Hoạt động tự lực 1:
- Giáo viên: “Để xác định được tiêu cự của thấu kính phân kì dưa vào công thức thấu
kính thì ta cần biết những gì?”
- Học sinh trả lời được: cần xác định d, d’.
- Giáo viên: “Để đo được d’ thì chúng ta phải có ảnh thật hay ảnh ảo?”
- Học sinh: ảnh thật.
- Giáo viên: “Khi đó, vật phải thỏa điều kiện gì?”
- Học sinh: Vật ảo nằm trong khoảng OF của thấu kính.
- Giáo viên: “Nếu chúng ta có vật AB và các thấu kính, để có được vật thỏa điều kiện
trên, chúng ta cần bố trí dụng cụ thí nghiệm như thế nào?”
- Học sinh: Dùng một thấu kính hội tụ để tạo ảnh thật A1B1 của vật AB. Khi đó chắn thấu
kính phân kì trước ảnh A1B1 , A1B1trở thành vật ảo của thấu kính phân kì.
+ Hầu hết học sinh đều trả lời được các câu hỏi định hướng của giáo viên để rút ra được
cơ sở lí thuyết của phương pháp đo.
- Tuy nhiên, do thời gian thực hành ngắn (45 phút), không thể tiến hành phân tích kĩ, tạo
điều kiện cho học sinh tự lực hết, có lúc giáo viên phải thông báo để có thời gian cho học
sinh thực hành.
* Hoạt động tự lực 2:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành thí nghiệm, đa số học sinh tiến hành được theo
các bước giáo viên đã hướng dẫn.
- Một số học sinh chưa xác định được khoảng cách d, d’ của vật và ảnh đến thấu kính
phân kì, sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh có thể tự xác định d, d’.
- Một vài học sinh tiến hành thí nghiệm còn chậm do ban đầu điều chỉnh A1B1 quá xa,
không còn chỗ trên giá quang học để dịch chuyển, xác định ảnh A2B2.
- Việc xác định vị trí ảnh A2B2 của A1B1 qua thấu kính phân kì làm học sinh lúc túng, các
em dịch chuyển màn và không quan sát thấy rõ ràng vị trí nào ảnh rõ nét nhất.
+ Kết quả thực hành:
- Các nhóm1,2,5,7,9,11,12 tiến hành thí nghiệm tốt, kết quả thí nghiệm sai số trong
khoảng cho phép.
- Các nhóm 3,6,10 sai số lớn, phải kiểm tra lại trong quá trình thí nghiệm chưa chính xác
chỗ nào và lấy số liệu lại.
- Nhóm 4,8 tính sai giá trị f do lấy chưa đúng giá trị đại số của d, d’.
* Kết luận chung:
- Các em thích tiến hành thực nghiệm, hứng thú trong học tập hơn khi được trực tiếp làm
thực hành.
- Với cách định hướng như thế, đa số học sinh có thể tự lực tiến hành hành động học tập.
- Lớp học đông, giáo viên không có thời gian đi quan sát tất cả các nhóm tiến hành thực
nghiệm đo đạt, chỉ có thể đánh giá tổng quát trên dựa vào việc quan sát một số nhóm làm
thực hành và báo cáo của các nhóm học sinh.
- Phòng thí nghiệm chật, nóng, ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh.
VI. Nhận xét chung và các kinh nghiệm:
* Nhận xét chung:
- Trong thởi gian ngắn làm luận văn, bản thân em vẫn chưa hoàn toàn phát huy hết được
phương pháp này. Kinh nghiệm bản thân còn có hạn nên trong quá trình giảng dạy, có
những lúc chưa thu hút được học sinh vào các hoạt động tự lực, đồng thời, phân bố thời
gian chưa hợp lí dẫn đến cháy giáo án bài thấu kính mỏng (Dạy 3 tiết trong khi phân phối
chương trình chỉ giới hạn trong 2 tiết).
- Số học sinh của một lớp học khá đông, làm cho việc tổ chức các hành động học tập khá
khó khăn, giáo viên khó bao quát hết lớp học, các em dễ bị phân tán, đi lệch chủ đề học
tập trong quá trình thảo luận nhóm. Để có thể tiến hành phương pháp giảng dạy này
thành công thì cần duy trì sỉ số lớp khoảng 25 học sinh, khi đó giáo viên sẽ dễ dàng theo
sát hoạt động tự lực của học sinh hơn.
- Vấn đề cơ sở vật chất trường học còn thiếu thốn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc
thực hiện phương pháp dạy học này. (khi dạy bài mắt, nhà trường có tranh về mắt nhưng
vẽ chưa chính xác; khi dạy bài thấu kính, không mượn được phòng bộ môn để giảng dạy
bằng giáo án điện tử, ở lớp 11A5 không mượn được bộ thí nghiệm quang hình học biểu
diễn; bài kính lúp, không mượn được phòng thí nghiệm ở trường phổ thông các dụng cụ
thí nghiệm như thấu kính hội tụ, thấu kính phân kì … để dạy, em phải về trường Đại học
Sư Phạm nhờ thầy hướng dẫn mượn ở khoa để giảng dạy;… )
- Các em hoc sinh là những học sinh giỏi, một số em có thói quen đến lớp mới nghiên
cứu sách giáo khoa dẫn đến việc không chú tâm tham gia vào hoạt động học tập, hoặc thụ
động, lười suy nghĩ, chỉ tìm câu trả lời có sẵn trong sách giáo khoa.
* Kinh nghiệm
- Cần tạo bầu không khí thoải mái nhưng vẫn phải giữ được kỉ luật, học sinh tuân thủ sự
điều khiển của giáo viên, tránh trường hợp học sinh bị chi phối bởi các dụng cụ trực
quan, không chú tâm vào hoạt động học tập.
- Cần chọn lựa các kiến thức để định hướng học sinh hoạt động tự lực hợp lí, tránh tình
trạng quá sức hoặc dưới sức chung của học sinh. Đồng thời phải phân phối thời gian hợp
lí, đảm bảo hướng dẫn học sinh tiếp thu đủ kiến thức của bài học trong thời gian 45 phút
của tiết học.
- Khi tiến hành giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chuẩn
bị thật kĩ càng về kiến thức chuyên môn và các kiến thức khoa học có liên quan, cần hiểu
rõ đối tượng học sinh và nghiên cứu phương pháp định hướng sao cho phù hợp với trình
độ của học sinh.
- Cần kết hợp sử dụng có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin và thực nghiệm
trong quá trình giảng dạy. Tránh tình trạng lạm dụng các phần mềm thí nghiệm mô phỏng
mà không dùng thực nghiệm đối với các thí nghiệm có thể tiến hảnh thực được, điều đó
dễ làm cho học sinh nghi ngờ tính chân thật của các thí nghiệm ảo.
- Như đã đề cập trong phần cơ sở lí luận, việc áp dụng này chỉ là một phần, chưa đổi mới
thống nhất giữa quá trình học tập và quá trình kiểm tra, đánh giá. Cần có sự dổi mới
thoáng hơn về chương trình và thời gian giảng dạy khi đó mới có điều kiện cho giáo viên
hướng dẫn học sinh học tập một cách tích cực, tự lực, đồng thời hướng đến việc đánh giá
và tự đánh giá.
KẾT LUẬN CHUNG:
Sử dụng phương pháp định hướng nhằm phát huy tính tích cực, tự lực cho học
sinh là phương pháp hay, có thể áp dụng trong dạy học ngày nay nhằm làm tăng tính tích
cực, tự lực học tập của học sinh, cải thiện tình trạng thụ động của học sinh trong phương
pháp dạy học truyền thống, phương pháp này nhằm hướng đến phát triển khả tự học, tự
nghiên cứu trong học sinh, đào tạo được những con người tự lực, tự chủ và năng động
cho xã hội.
Nếu phương pháp được ứng dụng rộng rãi, được các giáo viên có kinh nghiệm,
kiến thức vững vàng áp dụng giảng dạy thì kết quả của việc giảng dạy sẽ khả quan hơn.
Để việc tiến hành thực hiện theo phương phap phát huy tính tích cực cho
học sinh đạt được hiệu quả thì cần các điều kiện:
- Giáo viên: Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về
chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình tiến hành phương pháp.
Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề,
biết ứng sử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ tin vào dạy học, biết định hướng phát triển
của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh
trong hoạt động nhận thức.
- Học sinh: Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm
chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục đích học
tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả
chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách,…
- Chương trình và sách giáo khoa: Phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi nhét, tạo điều
kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động học tập tích cực; giảm bớt những thông tin
buộc học sinh phải thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường các bài toán nhận thức để
học sinh tập giải; giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí
thông minh; giảm bớt những kết luận áp đặt, tăng cường những gợi ý để học sinh tự
nghiên cứu phát triển bài học.
- Thiết bị dạy học: Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai
chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương
pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này
phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các hoạt
động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học
được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
- Tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám phá
kiến thức thông qua hoạt động thực hành, thâm nhập thực tế trong quá trình học tập.
- Chú trọng thiết bị thực hành giúp học sinh tự tiến hành các bài thực hành thí
nghiệm. Những thiết bị đơn giản có thể được giáo viên, học sinh tự làm góp phần làm
phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất cần được quan tâm và
chỉ đạo của lãnh đạo trường, Sở.
- Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong qúa trình giáo dục.
Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành
khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn
trong cả một quá trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả
năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình hình
đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản
thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn.
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới của mục
tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát triển trí thông minh
sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng đã học vào
những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn
đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá
- Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh phải
được sự ủng hộ, tạo điều kiện từ phía ban giám hiệu nhà trường phổ thông và sự hướng
dẫn góp ý của tổ bộ môn những giáo viên giàu kinh nghiệm.
- Cần thiết và nên khai thác các yếu tố tích cực trong các phương pháp dạy học truyền
thống.
PHỤ LỤC
I. Khai thác yếu tố tích cực trong các phương pháp dạy học truyền thống
- Đối mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền
thống, hay phải "nhập nội" một số phương pháp xa lạ vào qúa trình dạy học. Vấn đề là ở
chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của phương pháp dạy học hiện có, đồng
thời phải học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới một cách linh hoạt nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với hoàn
cảnh điều kiện dạy và học cụ thể.
- Phương pháp thuyết trình là một trong những phương pháp dạy học truyền thống được
thực hiện trong các hệ thống nhà trường đã từ lâu. Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương
pháp thuyết trình là thông báo - tái hiện. Vì vậy, phương pháp thuyết trình còn có tên gọi
là phương pháp thuyết trình thông báo - tái hiện. Phương pháp này chỉ rõ tính chất thông
báo bằng lời của thầy và tính chất tái hiện khi lĩnh hội của trò. Thầy giáo nghiên cứu tài
liệu, sách giáo khoa, chuẩn bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thông báo luồng thông tin
tri thức đến học sinh. Học sinh tiếp nhận những thông tin đó bằng việc nghe, nhìn, cùng
tư duy theo lời giảng của thầy, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.
- Như vậy, những kiến thức đến với học sinh theo phương pháp này gần như đã được
thầy "chuẩn bị sẵn" để trò thu nhận, sự hoạt động của trò tương đối thụ động. Phương
pháp thuyết trình chỉ cho phép người học đạt đến trình độ tái hiện của sự lĩnh hội tri
thức mà thôi. Do đó, theo hướng hoạt động hóa người học, cần phải hạn chế bớt
phương pháp thuyết trình thông báo - tái hiện, tăng cường phương pháp thuyết trình
giải quyết vấn đề. Đây là kiểu dạy học bằng cách đặt học sinh trước những bài toán
nhận thức, kích thích học sinh hứng thú giải bài toán nhận thức, tạo ra sự chuyển hóa
từ quá trình nhận thức có tính nghiên cứu khoa học vào tổ chức quá trình nhận thức
trong học tập. Giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề rồi học sinh tự mình
giải quyết vấn đề đặt ra. Theo hình mẫu đặt và giải quyết vấn đề mà giáo viên trình
bày, học sinh được học thói quen suy nghĩ lôgic, biết cách phát hiện vấn đề, đề xuất
giả thuyết, thảo luận, làm thí nghiệm để kiểm tra các giả thuyết nêu ra.
- Thuyết trình kiểu đặt và giải quyết vấn đề thuần túy do giáo viên trình bày cũng đã có
hiệu quả phát triển tư duy của học sinh. Nếu được xen kẽ vấn đáp, thảo luận một cách
hợp lý thì hiệu quả sẽ tăng thêm. Muốn vậy, lớp không nên quá đông, có điều kiện thuận
lợi cho đối thoại, đồng thời học sinh phải có thói quen mạnh dạn bộc lộ ý kiến riêng trước
vấn đề nêu ra. Như vậy, để kích thích tư duy tích cực của học sinh cần tăng cường mối
liên hệ ngược giữa học sinh và giáo viên, giữa người nghe và người thuyết trình. Giáo
viên có thể đặt một số câu hỏi "có vấn đề" để học sinh trả lời ngay tại lớp, hoặc có thể
trao đổi ngắn trong nhóm từ 2 đến 4 người ngồi cạnh nhau trước khi giáo viên đưa ra câu
trả lời.
- Để thu hút sự chú ý của người học và tích cực hóa phương pháp thuyết trình ngay khi
mở đầu bài học giáo viên có thể thông báo vấn đề dưới hình thức những câu hỏi có tính
chất định hướng, hoặc có tính chất "xuyên tâm". Trong quá trình thuyết trình bài giảng,
giáo viên có thể thực hiện một số hình thức thuyết trình thu hút sự chú ý của học sinh như
sau:
- Trình bày kiểu nêu vấn đề: Trong quá trình trình bày bài giảng giáo viên có thể diễn đạt
vấn đề dưới dạng nghi vấn, gợi mở để gây tình huống lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
- Thuyết trình kiểu thuật chuyện: Giáo viên có thể thông qua những sự kiện kinh tế - xã
hội, những câu chuyện hoặc tác phẩm văn học, phim ảnh… làm tư liệu để phân tích,
minh họa, khái quát và rút ra nhận xét, kết luận nhằm xây dựng biểu tượng, khắc sâu nội
dung kiến thức của bài học.
- Thuyết trình kiểu mô tả, phân tích: Giáo viên có thể dùng công thức, sơ đồ, biểu mẫu…
để mô tả phân tích nhằm chỉ ra những đặc điểm, khía cạnh của từng nội dung. Trên cơ sở
đó đưa ra những chứng cứ lôgíc, lập luận chặt chẽ để làm rõ bản chất của vấn đề.
- Thuyết trình kiểu nêu vấn đề có tính giả thuyết: Giáo viên đưa vào bài học một số giả
thuyết hoặc quan điểm có tính chất mâu thuẫn với vấn đề đang nghiên cứu nhằm xây
dựng tình huống có vấn đề thuộc loại giả thuyết (hay luận chiến). Kiểu nêu vấn đề này
đòi hỏi học sinh phải lựa chọn quan điểm đúng, sai và có lập luận vững chắc về sự
lựa chọn của mình. Đồng thời học sinh phải biết cách phê phán, bác bỏ một cách
chính xác, khách quan những quan điểm không đúng đắn, chỉ ra tính không khoa
học và nguyên nhân của nó.
- Thuyết trình kiểu so sánh, tổng hợp: Nếu nội dung của vấn đề trình bày chứa đựng
những mặt tương phản thì giáo viên cần xác định những tiêu chí để so sánh từng mặt,
thuộc tính hoặc quan hệ giữa hai đối tượng đối lập nhau nhằm rút ra kết luận cho từng
tiêu chí so sánh. Mặt khác, giáo viên có thể sử dụng số liệu thống kê để phân tích, so sánh
rút ra kết luận nhằm góp phần làm tăng tính chính xác và tính thuyết phục của vấn đề.
- Hiện nay, bài giảng hiện đại đang có khuynh hướng sử dụng ngày càng nhiều các
phương tiện công nghệ thông tin, làm tăng sức hấp dẫn và hiệu quả. Trước đây, để minh
họa nội dung bài giảng, giáo viên chỉ có thể sử dụng lời nói giàu hình tượng và gợi cảm
kèm theo những cử chỉ, điệu bộ diễn tả nội tâm hoặc có thêm bộ tranh giáo khoa hỗ trợ.
Ngày nay có cả một loạt phương tiện để giáo viên lựa chọn sử dụng như: máy chiếu, băng
ghi âm, băng ghi hình, đĩa CD, phần mềm máy vi tính... Tiến tới mọi giáo viên phải có
khả năng soạn bài giảng trên máy vi tính được nối mạng, biết sử dụng đầu máy đa năng
để thực hiện bài giảng của mình một cách sinh động, hiệu quả, phát huy cao nhất tính tích
cực học tập của học sinh.
II. Tình huống học tập vật lí có vấn đề:
Có nhiều cách hiểu về tình huống học tập có vấn đề, theo tác giả Phạm Hữu Tòng:
Khái niệm “Tình huống”: một tình huống cụ thể nào đó đối với chủ thể là
một hoàn cảnh cụ thể (tổng thể những điều kiện cụ thể) mà chủ thể được đặt vào đó, nó
tác động vào chủ thể, kích thích chủ thể hoạt động, đặt cho chủ thề nhiệm vụ nào đó.
Khái niệm tình huống học tập trong dạy học:
Tình huống học tập trong dạy học là tình huống được tổ chức bởi giáo viên nhằm
đưa học sinh vào hoạt động học tập xác định theo mục tiêu dạy học.
Khái niệm vấn đề, tình huống có vấn đề:
Khái niệm vấn đề dùng để chỉ một khó khăn, một nhiệm vụ nhận thức mà người
học không thể giải quyết được chỉ bằng kinh nghiệm có sẵn, theo khuôn mẫu có sẵn,
nghĩa là không thể tư duy tái hiện đơn thuần để giải quyết mà phải tìm tòi sáng tạo để giải
quyết và khi đã giải quyết được thì người học đã thu được kiến thức, kĩ năng mới.
Vấn đề chứa đựng câu hỏi, nhưng đó là câu hỏi về một cái chưa biết, câu hỏi mà
câu trả lời là một cái mới phải tìm tòi, sáng tạo mới xây dựng được, chứ không phải chỉ là
câu hỏi chỉ đơn thuần yêu cầu nhớ lại kiến thức đã có (thường xuất hiện trong phương
pháp đàm thoại thông thường). Vấn đề phù hợp là vấn đề được giải quyết trong nội dung
bài học, bằng những kiến thức sẽ xây dựng sau đó, vấn đề phù hợp được xác định trên cơ
sở một tình huống phù hợp. Một giờ học khi xuất phát từ vần đề phù hợp sẽ kích thích
được hoạt động nhận thức của mỗi cá nhân. Một giờ học xuất phát từ yêu cầu thấp hoặc
cao sẽ không kích thích được hoạt động học tập diễn ra. Vấn đề được lựa chon dựa trên
cơ sở người giáo viên hiểu rõ mức độ, trình độ nhận thức của học sinh. Vì thế, với mỗi
kiến thức không nên đưa ra duy nhất một tình huống hay một vấn đề nhận thức cho mọi
đối tượng học sinh.
Tình huống vấn đề là tình huống mà khi học sinh tham gia học sinh gặp một khó
khăn, khi học sinh ý thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó, và cảm thấy với
khả năng của mình thì hi vọng có thể giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống này kích
thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh: Đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã
đề xuất.
Theo M.I.Macmutop: tình huống có vấn đề là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất
hiện khi anh ta chưa biết cách giải thích các sự vật, hiện tượng, quá trình của thực tế khi
chưa đạt tới mục đích bằng cách thức quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tính huống có vấn đề là qui luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo có hiệu quả. Nó qui định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư
duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu và giải quyết các vấn đề.
Tình huống có vấn đề được đặc trưng bởi những yếu tố cơ bản sau: thế năng tâm lý
của nhu cầu nhận thức (trạng thái dồn nén cảm xúc, tích tụ tâm lý, bứt rứt, bồn chồn), tích
cực tìm tòi mang tính hưng phấn, niềm hạnh phúc của sự phát hiện, tìm thấy chân lí…
Theo tác giả I.F.Kharlamop thì tình huống có vấn đề làm nảy sinh những mâu thuẫn
nội tại, sự ngạc nhiên, những băn khoăn, thắc mắc, kích thích hoạt động nhận thức. Cơ sở
để tạo ra một tình huống có vấn đề là những câu hỏi, những bài tập, những mâu thuẫn nào
đó… mà học sinh chưa có lời giải, cần có sự tìm tòi, sáng tạo. Trong đó phải chứa đựng
cả những điều đã biết làm xuất phát điểm của sự tìm tòi, chứa đựng cả những yếu tố tâm
lí làm kích thích hứng thú và lòng khao khát tìm kiếm kiến thức của học sinh.
K.D.Usinxki còn nói rõ hơn về tính thú vị nội tại của việc giảng dạy là điều mới đối
với chúng ta nhưng không mới đến mức hoàn toàn không biết và không hiểu được. Cái
mới phải bổ sung, phát triển hoặc mâu thuẫn với cái cũ, tóm lại, phải là hay, nhờ đó có
thể làm liên tưởng với cái đã biết (dẫn theo I.F.Kharlamop)
Có một số loại tình huống có vấn đề như sau:
+Tình huống không phù hợp + Tình huống lựa chọn
+ Tình huống phán xét + Tình huống bất ngờ
+ Tình huống bác bỏ + Tình huống bế tắc
Tình huống học tập vật lí có vấn đề:
Tình huống học tập vật lí là tình huống vật lí mà giáo viên tổ chức lên, dựng lại
cho học sinh nhận thức chúng, xây dựng các mô hình diễn tả chúng trong dạy học vật lí.
Các hiện tượng được chọn lọc, được định hướng cho học sinh tương quan với mô hình
xây dựng. Chúng được xây dựng lại bởi giáo viên với mục đích phục vụ cho việc dạy
học.
Tình huống học tập vật lí có thể là một bộ phận của thế giới thực (một thực tại
nhỏ, một đối tượng, một hiện tượng, một quá trình vật lí …) hoặc một thực tại được xây
dựng lại (thuần khiết hóa nhờ thí nghiệm để làm nổi bật lên hiện tượng, quá trình cần
nghiên cứu), mà khi nghiên cứu nó, học sinh có được những hiểu biết cơ bản về đối
tượng, hiện tượng thật. Khi một tình huống học tập có vấn đề thỏa mãn yêu cầu là đại
diện cho một phần thực tại mà kiến thức sẽ được xây dựng cần phải giải thích, tiên đoán
thì nó trở thành một tình huống học tập vật lí có vấn đề. Nghĩa là nó góp phần thiết lập
đúng mối quan hệ giữa thực tại và lí thuyết trong một giờ học vật lí. Nếu không thỏa mãn
điều kiện này thì về nguyên tắc không thể đi từ việc nghiên cứu một hiện tượng không
phù hợp đến một kiến thức đã định sẵn. Vì thế đây là điều kiện cần của một tình huống
học tập vật lí có vấn đề.
Xét cho cùng, mọi cố gắng của con người và khoa học là đi đến hình thành một hệ
thống tri thức biểu diễn mối quan hệ ngày càng chính xác giữa thực tại và lí thuyết. Học
tập cũng nhằm mục tiêu chiếm lĩnh các kiến thức cơ bản để hiểu biết thực tại ở mức độ
nào đó. Trong một giờ học vật lí, mối quan hệ này nhất thiết phải được tôn trọng, có như
vậy, mỗi học sinh mới có thề thiết lập cho mình mối liên hệ biện chứng, đúng đắn giữa
thực tại và lí thuyết. Khi nghiên cứu một tình huống học tập vật lí, học sinh phân tích
chúng để tìm ra tính chất, mối quan hệ chưa biết, qua đó, kiến thức được xây dựng, sau
đó sẽ giúp họ hiểu về tính chất các mối quan hệ đó. Nếu đưa học sinh vào phân tích một
tình huống sai hoặc không phù hợp (không tương ứng với kiến thức sẽ xây dựng sau đó)
thì tất yếu sẽ dẫn đến những giả thuyết sai hoặc không phù hợp.
VD: Tình huống sai: Khi giảng dạy bài “Định luật Sac-lơ”, giáo viên đưa ra tình
hướng về hiện tượng các bình gas mini sau một lúc sử dụng bị lạnh đi. Khi giải thích hiện
tượng này không thỏa mãn điều kiện một lương khí không đổi, đồng thời, một phần gas
trong bình ở trạng thái lỏng.
Tình huống không phù hợp: Khi dạy bài “Khúc xạ ánh sáng”, giáo viên đưa ra tình
huống vấn đề về hiện tượng xuất hiện cầu vồng sau cơn mưa. Đây là hiện tượng có liên
quan đến sự khúc xạ ánh sáng nhưng không thể dùng đặt vấn đề cho bài này được vì khi
đi giải quyết vấn đề này, chúng ta sẽ dẫn đến cả kiến thức về giao thoa ánh sáng ngoài
kiến thức khúc xạ ánh sáng. Tình huống này có thể dùng để phát triển kiến thức, cho học
sinh nghiên cứu thêm ở nhà với đối tượng là học sinh khá giỏi, tính tích cực cao.
Tuy nhiên nếu chỉ là tình huống vật lí đúng, tương ứng với nội dung kiến thức thôi thì
chưa đủ đưa học sinh đến quá trình nhận thức học tập. Thông qua tình huống, người học
phải tự mình phát hiện được mâu thuẫn nhận thức và biến nó thành nhu cầu nhận thức
của chính mình. Để đạt được điều này ở người học, tình huống học tập vật lí có vấn đề
phải đảm bảo là tình huống có vấn đề với đa số học sinh trong lớp, tức là phù hợp với
trình độ của đa số học sinh trong lớp. Vấn đề xuất hiện khi phân tích tình huống phải nằm
trong khả năng giải quyết của học sinh với sự giúp đỡ của thầy và bạn. Nếu tình huống là
không quen thuộc hoặc không khó đối với học sinh thì tình huống đó không có vai trò
kích thích tư duy. Ngược lại, nếu là tình huống quá khó thì người học cũng không thể
tham gia vào quá trình nhận thức một cách tích cực. Để là tình huống học tập vật lí tích
cực thì tình huống này phải đảm bảo tính vừa sức chung và kích thích vào vùng phát triển
gần của người học. Đây chính là điều kiện đủ của một tình huống học tập vật lí có vấn đề.
Tóm lại, việc đưa ra một tình huống học tập trước học sinh không thể tùy
tiện mà phải đảm bảo nhiều yêu cầu:
Là một tình huống vật lí: một phần thực tại (đối với hiện tượng, quá trình vật
lí), hay một thực tại được xây dựng lại (thuần khiết hóa nhờ thí nghiệm vật lí)
Phải tương ứng, phù hợp với kiến thức cần xây dựng: nghĩa là có phạm vi, độ
khó xác định để khi phân tích nó không đưa đến những yêu cầu nhận thức cao
hơn hoặc thấp hơn mức độ kiến thức cần xây dựng.
Là tình huống có vấn đề nhằm kích thích hứng thú nhận thức và đưa học sinh
vào trạng thái sẵn sàng, tự nguyện, hứng thú nhận thức.
Tài liệu tham khảo
1. “ Dạy học vật lí ở trường phổ thông theo định hướng phát triển hoạt động học
tích cực, tự chủ, sáng tạo vả tư duy khoa học”- Tác giả Phạm Hữu Tòng. Nhà
xuất bản đại học Sư phạm - 2004
2. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên cốt cán trường trung học phổ thông: “Tổ chức hoạt
động học tập vật lí tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh trung học phổ
thông”. Biên soạn: Nguyễn Mạnh Hùng- 2006
3. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên “Thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 10
THPT”. Vật lí nâng cao
4. “ Phương pháp giáo dục tích cực- Lấy người học làm trung tâm”- Tác giả
Nguyễn Kì. Nhà xuất bản giáo dục- 1995
5. “ Một số vấn đề lí luận giáo dục chuyên nghiệp và đổi mới phương pháp dạy
học”. Tác giả: Nguyễn Quang Huỳnh. Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội- 2006
6. “Giáo dục học (tập 2)” Tác giả hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt. Nhà xuất bản Giáo
Dục – 1988
Và một số tài liệu được trích dẫn từ các trang web
7. http://diendan.edu.net.vn
………..