ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

--0—0--

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH: LUẬT KINH DOANH

Hệ đạo tạo chính quy

Khóa học: QH-2014 LKD

Hà Nội - 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

--0—0--

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH: LUẬT KINH DOANH

Hệ đạo tạo chính quy

Khóa học: QH-2014 LKD

Giảng viên hƣớng dẫn: Th.S Trần Anh Tú

Hà Nội - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự

hướng dẫn của Giảng viên Thạc sĩTrần Anh Tú . Các nội dung nghiên cứu,

kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức

nào trước đây. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá

được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài

liệu tham khảo. Ngoài ra, trong khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh

giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích

dẫn và chú thích nguồn gốc.

Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm về nội dung khóa luận của mình.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Khóa luận.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thu Huyền

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

Chương 1: Khái quát chung về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh. .............. 5

1.1 . Sự hình thành cơ quan quản lý cạnh tranh và một số mô hình cơ quan

quản lý cạnh tranh điển hình trên thế giới. .................................................... 5

1.1.1. Sự hình thành cơ quan cạnh tranh. .................................................. 5

1.1.2. Một số mô hình cơ quan cạnh tranh trên thế giới ........................... 9

1.2. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh. ...................... 18

1.3. Đặc trưng pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh. ............................ 20

1.3.1. Tính “lưỡng tính” hay nửa “tư pháp” nửa “hành chính”. ............. 20

1.3.2. Tính độc lập. ................................................................................. 21

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY. .................................................................................................... 23

2.1. Sự hình thành của cơ quan quản lý cạnh tranh tại Việt Nam. ............. 23

2.2.Hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh năm 2004. 25

2.2.1. Cục quản lý cạnh tranh. .................................................................. 25

2.2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh.25

2.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. ............................... 30

2.2.2. Hội đồng cạnh tranh. ....................................................................... 32

2.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Cạnh tranh. .. 33

2.2.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh. .................................... 34

2.3. Những hạn chế trong mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh theo pháp

luật hiện hành. .............................................................................................. 35

2.3.1. Bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa rõ ràng. .... 35

2.3.2. Tính độc lập của cơ quan quản lý cạnh tranh còn hạn chế. ............ 37

2.3.3. Tính chuyên môn của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa cao. ......... 39

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ

THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN

NAY. ............................................................................................................... 42

3.1. Làm rõ bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh. ................... 42

3.2. Cơ cấu lại hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh. .................................. 42

3.3. Xác định lại Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan quản lý

cạnh tranh. .................................................................................................... 45

3.4. Đổi mới nhân sự và cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh.47

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 51

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 52

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, Nhà nước đang tạo lập một nền kinh tế thị trường với mong

muốn hội nhập với nền kinh tế thế giới, cùng với các chính sách kinh tế Nhà

nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần tham gia

vào nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một hiện tượng tất

yếu thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ.

Tuy nhiên, sự cạnh tranh mạnh mẽ của các chủ thể trong nền kinh tếđã làm

xuất hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi cản trở, hạn chế

cạnh tranh,... gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều

đó, đặt ra vấn đề buộc phải có sự can thiệp quản lý và điều chỉnh của Nhà

nước. Chính vì vậy, pháp luật cạnh tranh ra đời nhằm điều tiết các hành vi

cạnh tranh, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo cơ hội cạnh

tranh cho các doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội và thúc đẩy

nền kinh tế phát triển.

Ngày 3/12/2004, Luật Cạnh tranh được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội

Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2005. Luật Cạnh tranh năm

2004 điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh,

lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế.

Để đảm bảo thực thi Luật cạnh tranh, Nhà nước đã xây dựng cơ quan quản

lý cạnh tranh gồm: Cục quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Ngày

09/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định về

chức năng, nhiệm vụ , quyền hạn cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh

và Nghị định số 05/2006/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.

Tuy nhiên, sau 13 năm thực thi Luật Cạnh tranh, cùng với sự phát triển của

các hành vi cạnh tranh đã làm cho pháp luật cạnh tranh và mô hình cơ quan

1

quản lý cạnh tranh đang bộc lộ những khuyết điểm khiến cho các thiết chế

của Nhà nước áp dụng với nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả. Do đó, hiện nay,

Luật Cạnh tranh đang trong quá trình nghiên cứu sửa đổi để phù hợp với yêu

cầu của thị trường và xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh thực sự phù hợp

và hiệu quả. Trong bối cảnh đó, đề tài “ Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt

Nam hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” được nghiên cứu nhằm

tìm hiểu về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của nước ta hiện nay; chỉ ra

những khuyết điểm, thiếu sót nhằm đưa ra giải pháp tạo dựng một cơ quan

quản lý cạnh tranh mới thật sự phù hợp và hoạt động có hiệu quả để đưa vào

dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu.

Pháp luật Cạnh tranh ở nước ta vẫn còn non trẻ và đang trong quá trình

hoàn thiện. Trong bối cảnh quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể trong nền

kinh tế ngày một phức tạp, để tạo ra khuôn khổ pháp lý điều chính chúng và

mô hình cơ quan thực thi phù hợp là một vấn đề phức tạp đặt ra cho lý luận và

trong thực tiễn.

Ở Việt Nam, pháp luật cạnh tranh nói chung và cơ quan quản lý cạnh

tranh nói riêng vẫn còn khá mới mẻ, do đó số lượng đề tài nghiên cứu còn rất

hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay Luật Cạnh tranh đag trong quá trình sửa đổi, cơ

quan thực thi cũng cùng với đó mà được quan tâm nghiên cứu hơn. Một số

nhà khoa học pháp lý, các đề tài có liên quan:

- Luận án tiến sĩ: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi Pháp luật Cạnh

tranh của Việt Nam, tác giả: Trịnh Anh Tuấn.

- Nghiên cứu khoa học: Xây dựng mô hình Cơ quan Quản lý Nhà nước

về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương

mại quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam, tác giả: TS

ĐinhThị Mỹ Loan.

- Bài viết: Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam những bất cập và

phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Văn phòng

2

Quốc hội), số 06/2011.

- Bài viết: Mô hình nào cho cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam,

Nguyễn Văn Cương.

- Bài viết: Mô hình nào cho cơ quan quản lý cạnh tranh?, Báo điện tử

Đại biểu Nhân dân, ngày 15/9/2017.

Có thể thấy, sách và các đề tài nghiên cứu, bài viết về cơ quan canh tranh

ở Việt Nam còn khá khiêm tốn. Song thời gian gần đây số lượng bài viết về

vấn đề này đang tăng lên, cho thấy đã có sự quan tâm, tiếp cận nghiên cứu về

đề tài này.

3. Mục đích nghiên cứu.

Khóa luận nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mô hình cơ

quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đánh giá quá trình hoạt

động, tìm ra những bất cập, hạn chế về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ

cấu tổ chức của cơ quan quản lý cạnh tranh tại Việt Nam, tiếp thu kinh

nghiệm của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, đề ra một số kiến nghị

hoàn thiện cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.

Để đạt được mục tiêu trên, khóa luận sẽ tìm hiểu những nét cơ bản sự hình

thành và phát triển của pháp luật cạnh tranh nói chung và cơ quan quản lý

cạnh tranh nói riêng, những bất cập hạn chế hiện nay. Đồng thời, phân tích,

đánh giá những bất cập cần hoàn thiện về những vấn đề cụ thể như: chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh. Qua

đó, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ quan quản lý cạnh tranh.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam hiện nay

và mô hình cạnh tranh trên thế giới. Thông qua đó, nêu đánh giá, nhận xét về

thực tiễn và bất cập tồn tại của mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt

Nam. Đưa ra một số góp ý nhằm hoàn thiện cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt

Nam. Trong phạm vi nhất định, khóa luận tập trung nghiên cứu mô hình cơ

quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành,

3

bất cập trong quá trình thực thi và hoạt động; đề xuất phương hướng xây dựng

cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế - xã

hội hiện nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để việc nghiên cứu logic, rõ ràng, mạch lạc, khóa luận tập trung sử dụng

các phương pháp sau:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp.

- Phương pháp luật học so sánh.

- Phương pháp lý luận - thực tiễn (khảo sát thực tế).

- Phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa của khóa luận:

Việc nghiên cứu lịch sử hình thành và sự phát triển mô hình cơ quan

quản lý cạnh tranh cũng như nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ

cấu tổ chức của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam đã góp phần chỉ ra

nhưng bất cập và tìm ra phương hướng hoàn thiện cơ quan quản lý cạnh tranh

ở nước ta; đóng góp ý kiến về mô hình quản lý cạnh tranh cho việc xây dựng

hoàn thiện cơ quan cạnh tranh trong Dự thảo sửa đổi Luật Cạnh tranh giai

đoạn này.

7. Bố cục

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

có bố cục 3 chương, cụ thể:

- Chương 1: Khái quát chung về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh.

- Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan

quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.

- Chương 3: Một số kiến nghị nhắm hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý

4

cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔ HÌNH CƠ QUAN

QUẢN LÝ CẠNH TRANH.

1.1 . Sự hình thành cơ quan quản lý cạnh tranh và một số mô hình cơ

quan quản lý cạnh tranh điển hình trên thế giới.

1.1.1. Sự hình thành cơ quan cạnh tranh.

Khi trong xã hội bắt đầu xuất hiện sự dư thừa của cải, xuất hiện tư hữu

và phân biệt giàu nghèo, chính là lúc sự cạnh tranh bắt đầu sơ khai xuất hiện.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người dần phát triển, đi cùng với nó là sản

xuất hàng hóa và nền kinh tế thị trường. Trong xã hội ngày nay, cạnh tranh là

hiện tượng tất yếu, là động lực phát triển của thị trường. Trong lịch sử phát

triển của thị trường, có thời kỳ, nguyên tắc tự do trong cạnh tranh được tôn

trọng tuyệt đối, mọi cá nhân đều có thể cạnh tranh bằng mọi cách trên thị

trường mà Nhà nước cho dù là chủ thể của quyền lực xã hội cũng không được

quyền can thiệp vào các quan hệ thị trường. Điều này lý giải tại sao cạnh

tranh đã có từ lâu nhưng pháp luật về cạnh tranh lại xuất hiện muộn hơn rất

nhiều. Tuy nhiên để Nhà nước có thể quản lý được nền kinh tế và quản lý xã

hội thì cần sử dụng pháp luật với tư cách là công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất

để Nhà nước thực hiện quyền lực của mình.

Khi bàn đến sự cần thiết phải có pháp luật cạnh tranh đối với đời sống

kinh tế, cũng cần phải làm rõ vai trò kinh tế của Nhà nước, tạo nên những lý

do chính yếu về sự xuất hiện cũng như xác định giới hạn điều tiết của Nhà

nước và pháp luật trong môi trường cạnh tranh.

“Bất kỳ Nhà nước nào trong lịch sử loài người đều có chức năng kinh

tế. Bởi lẽ, những biến chuyển cơ bản trong đời sống kinh tế và những thay đổi

trong xã hội là nguyên nhân, là môi trường sản sinh ra Nhà nước. Chính vì thế,

Nhà nước là một bộ máy đặc biệt để bảo đảm sự thống trị về kinh tế, để thực

hiện quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với quần

5

chúng”. [8,46] Chức năng quản lý kinh tế (việc thực hiện quyền thống trị

kinh tế) thể hiện ở việc bảo đảm quyền lực kinh tế của giai cấp thống trị và duy

trì trật tự kinh tế của xã hội. Tùy vào mô hình Nhà nước và tùy vào từng thời kỳ,

vai trò kinh tế của Nhà nước có nội dung và được thực hiện khác nhau.

Trong thời kỳ kinh tế thị trường sơ khai cổ điển của giai cấp tư bản,

Nhà nước ban đầu chỉ có chức năng bảo vệ an ninh, xây dựng luật pháp để

đảm bảo công bằng trong đời sống xã hội và xét xử tranh chấp; pháp luật chỉ

giới hạn ở việc quản lý chung đời sống dân sự và trật tự xã hội. Chức năng đó

đủ để pháp luật và Nhà nước tạo lập một môi trường cho cạnh tranh và quan

hệ thị trường vận động linh hoạt, năng động; tuy nhiên xã hội ngày càng nảy

sinh nhiều vấn đề phức tạp làm cho mọi khuyết tật của thị trường được bộc lộ

một cách mạnh mẽ mà pháp luật của Nhà nước không còn đủ để điều chỉnh.

Chính vì vậy mà sự thất bại của mô hình kinh tế chỉ huy ở các nước xã hội

chủ nghĩa và những cuộc khủng hoảng kéo dài trên thị trường tự do của Nhà

nước tư sản là những nguyên nhân, là động lực để thiết lập mô hình kinh tế thị

trường hiện đại. Trong mô hình này, ở tầm vĩ mô về cơ bản do bàn tay vô

hình của thị trường điều tiết. Vai trò kinh tế của Nhà nước là vừa hạn chế

những khuyết tật của thị trường, vừa tạo môi trường cho ưu thế của

thị trường tự do phát huy tác dụng tích cực lên nền kinh tế. Với vai trò đó,

Nhà nước không còn là người tạo ra và quản lý nền kinh tế đơn thuần nữa mà

còn có chức năng định hướng thị trường, thiết lập trật tự, khuôn khổ điều

chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong nền kinh tế.

Để có thể quản lý được nền kinh tế thị trường tự do, các mối quan hệ

cạnh tranh phức tạp giữa các chủ thể trong nền kinh tế, Nhà nước bằng công

cụ pháp luật cạnh tranh phải can thiệp để duy trì một trật tự chung đảm bảo sự

lành mạnh và phát triển của thị trường. Do vậy, pháp luật cạnh tranh ra đời

cùng với sự thừa nhận và đảm bảo quyền tự do kinh doanh nhưng trong

khuôn khổ pháp lý nhất định.

“Theo nghĩa kinh điển, pháp luật cạnh tranh chỉ bao hàm các quy định

6

ngăn cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo cách hiểu của ngày

nay. Sở dĩ như vậy là vì, trong lịch sử đã có lúc người ta chưa biết đến hiện

tượng độc quyền và sự tác hại của nó. Đó là thời kỳ của chủ nghĩa tư bản tự

do”. [15] Trong Bộ luật Dân sự của Pháp (Code civil – 1804), Điều 1382 và

1383 quy định về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.[3] Từ đó, những trách

nhiệm phát sinh cho các thương nhân trong cạnh tranh được án lệ của nước

Pháp coi là một loại hình mới của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng trong dân sự. Trên cơ sở đó, những hành vi cạnh tranh mà ở đó người

thực hiện chúng phải chịu trách nhiệm về hậu quả gây ra cho người khác được

gọi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khái niệm đầu tiên về cạnh tranh

không lành mạnh được gọi là concurrence déloyale (cạnh tranh không công

bằng). Hiện nay, những quy định mang tính nguyên tắc của Bộ luật Dân sự

Pháp - 1804 cùng với một số văn bản pháp luật đơn hành tạo thành một chế

định pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hoà Pháp. Ở

Italia cũng tương tự, các Điều 1151 và Điều 1152 của Bộ Luật Dân sự năm

1865 quy định các nguyên tắc cơ bản liên quan đến trách nhiệm của người

thực hiện hành vi không lành mạnh. Tuy nhiên, cho đến năm 1872 với sự ra

đời của Bộ luật Dân sự mới thì những quy định về cạnh tranh không lành

mạnh mới được quy định cụ thể, chi tiết và rõ ràng.

Như vậy, nhìn về lịch sử, lúc sơ khai pháp luật cạnh tranh được xây

dựng trên cơ sở của các nguyên tắc trong dân luật và được đảm bảo thực hiện

bằng trách nhiệm dân sự. Đồng thời, do sự nhận thức chưa đầy đủ và sự hạn

chế trong khả năng dự liệu của luật pháp đối với hành vi cạnh tranh đang phát

triển trên thị trường mà pháp luật về cạnh tranh trong thời kỳ đó chủ yếu tồn

tại dưới dạng các án lệ của toà án. Những nguyên tắc của dân luật là nền tảng

cơ sở của các án lệ và là cơ sở pháp luật quan trọng để duy trì trật tự cạnh

tranh, vào thời điểm đó cơ quan thực thi pháp luật dân sự cũng là cơ quan

đảm bảo về cạnh tranh.

Cùng với sự phát triển của thị trường, sự biến đổi đa dạng và phức tạp

7

trong các biểu hiện của cạnh tranh đã giảm thiểu tính hiệu quả của các nguyên

tắc trên. Các Nhà nước ngày càng tích cực nhận dạng và ngăn cấm những

biểu hiện không lành mạnh bằng các quy định trong các văn bản pháp luật

riêng biệt về cạnh tranh. Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường đều đã

ban hành văn bản pháp luật cạnh tranh. Cùng với đó là cơ quan đảm bảo tính

thực thi thực tếcủa pháp luật cạnh tranh ra đời.

Đến cuối thế kỷ XIX, pháp luật cạnh tranh đã được mở rộng và có

những thay đổi rất cơ bản về nội dung cũng như phương pháp điều chỉnh. Cho

đến nay, ngoài các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật

cạnh tranh của các nước, chế định về chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát

độc quyền luôn là nội dung quan trọng không thể thiếu để Nhà nước bảo vệ

và điều tiết cạnh tranh. Theo đó, pháp luật được mở rộng cho thấy Nhà nước

đã thực sự nhận thức và giành quyền quản lý thị trường, điều tiết cạnh tranh

không chỉ bằng cách loại bỏ các biểu hiện tranh đua không lành mạnh, mà còn

tạo ra các thiết chế pháp lý ngăn chặn và loại bỏ các rào cản nhân tạo cũng

như tự nhiên để bảo vệ cho thị trường cạnh tranh. Từ đó cơ quan quản lý cạnh

tranh cũng được lập ra với chức năng, nhiệm vụ chuyên biệt và độc lập nhằm

bảo đảm thực thi pháp luật cạnh tranh.

Mặt khác, từ tư duy Luật Cạnh tranh là lĩnh vực pháp luật dân sự mà ở

đó chỉ khi có yêu cầu thì Nhà nước mới giải quyết, tuy nhiên sau này là pháp

luật về kiểm soát độc quyền các nước trên thế giới càng phát triển đã cho

phép Nhà nước chủ động ngăn chặn và kiểm soát mọi nguy cơ có thể làm hạn

chế cạnh tranh bằng các thiết chế quyền lực của mình, kể cả bằng các biện

pháp trừng phạt nặng như chế tài hình sự cho các hành vi vi phạm.Cũng nhờ

đó sự độc lập và tính cưỡng chế của cơ quan quản lý cạnh tranh ngày càng

được củng cố.

Luật Cạnh tranh được đưa ra như một công cụ hữu hiệu để quản lý thị

trường và xã hội. Tuy nhiên để đảm bảo thực thi Luật Cạnh tranh thì cơ quan

quản lý cạnh tranh chính là cơ quan nhân danh Nhà nước đảm bảo tính thực

8

thi thực tế của Luật Cạnh tranh. Vì vậy mà sự hình thành và phát triển của

luật cạnh tranh gắn liền với sự hình thành và phát triển của cơ quan quản lý

cạnh tranh (cơ quan đảm bảo thực thi Luật Cạnh tranh) với chức nâng đảm

bảo sự cạnh tranh công bằng, minh bạch trên thị trường, đảm bảo quyền lợi

của các chủ thể tham gia thị trường. Theo thống kê của Hội nghị Liên hợp

quốc về Thương mại và Phát triển , trên thế giới (UNCTAD) tính tới năm

2007, đã có tới 113 nước và vùng lãnh thổ có luật điều tiết hoạt động cạnh

tranh và kiểm soát độc quyền.Đi cùng với đó là cơ quan thực thi pháp luật

cạnh tranh. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, mỗi quốc gia sẽ xây

dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh khác nhau, song đều có chung mục

đích là góp phần thực thi Luật Cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất.

1.1.2. Một số mô hình cơ quan cạnh tranh trên thế giới

Việc cơ quan quản lý cạnh tranh được tổ chức và hoạt động như thế nào

là một vấn đề quan trọng góp phần làm cho Luật Cạnh tranh được thi hành

một cách hiệu quả. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, chính trị của

mình, mỗi quốc gia sẽ xây dựng mô hình cơ quan cạnh tranh với những

nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ phù hợp. Một số quốc

gia thiết lập vị trí cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Quốc hội, có những quốc

gia lại xác định cơ quan quản lý cạnh tranh là một cơ quan ngang Bộ hoặc

trực thuộc Chính phủ hay thuộc Tổng thống, một số quốc gia khác lại xác

định cơ quan quản lý cạnh tranh là một đơn vị thuộc Bộ.

Theo thống kê của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát

triển (UNCTAD) tính đến năm 2008, đã có tới hơn 100 nước và vùng lãnh thổ

có luật điều tiết hoạt động cạnh tranh và kiểm soát độc quyền và cơ quan quản

lý cạnh tranh với bốn mô hình khác nhau. Thống kê số liệu và thông tin của

150 cơ quan quản lý cạnh tranh trên toàn thế giới đến tháng 04/2017 cho thấy

có 07 cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Quốc hội (5%), 47 cơ quan quản lý

cạnh tranh thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ/ngành

(42%) và 33 cơ quan cạnh tranh thuộc các thiết chế khác như Tòa án... (22%).

9

Mô hình thứ nhất, cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Quốc

hội, điển hình như cơ quan cạnh tranh Italia. [20] Cơ quan quản lý cạnh tranh

Italia là Cơ quan chống độc quyền Italia được thành lập độc lập bởi Luật số

287 Luật Cạnh tranh và Thương mại công bằng ngày 10/10/1990. Chủ tịch và

các thành viên của cơ quan này được bổ nhiệm bằng các thủ tục và những tiêu

chí lựa chọn chặt chẽ: họ được bổ nhiệm bởi người đứng đầu Hạ viện và

Thượng viện và không được tái bổ nhiệm nhiệm kỳ thứ hai. Cơ cấu của cơ

quan chống độc quyền Italia gồm: một chủ tịch và 4 thành viên được bổ

nhiệm bởi Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện. Chủ tịch được chọn là

người giữ vị trí cao trong bộ máy chính quyền và có tính độc lập, bốn thành

viên là những người ở vị trí độc lập cao như thẩm phán của Tòa hành chính

tối cao, Tòa kiểm toán, Tòa phúc thẩm tối cao, Giáo sư đại học hay Đại diện

cộng đồng doanh nghiệp, những người đó phải được công nhận về tiêu chuẩn

nghiệp vụ. Mỗi thành viên được bổ nhiệm sẽ đảm nhiệm chức vụ trong 7 năm

và không được tái bổ nhiệm.

Cơ quan này thực hiện các hoạt động và ra quyết định độc lập với

Chính phủ, có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh và Luật Thương mại công

bằng số 287 năm 1990. Cơ quan chống độc quyền Italia có nhiệm vụ: kiểm

soát các thỏa thuận ngăn cản cạnh tranh; các hành vi lạm dụng vị trí thống

lĩnh; mua lại hoặc sáp nhập nhằm tăng cường vị trí thống lĩnh nhằm loại bỏ

hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Cơ quan này có nhiệm vụ báo cáo

trực tiếp lên Chính phủ và Quốc hội đồng thời có nhiệm vụ tư vấn cho hai cơ

quan này. Cơ quan này còn được trao quyền yêu cầu Chính phủ và Quốc hội

cân nhắc đầy đủ tới yêu cầu của thị trường và người tiêu dùng khi ban hành

văn bản quy phạm pháp luật.

Hoa Kỳ cũng là một trong những quốc gia tổ chức cơ quan cạnh tranh

theo mô hình cơ quan thuộc Quốc hội. Các cơ quan tham gia xử lý vụ việc

cạnh tranh ở Hoa Kỳ bao gồm Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (viết

tắt là US-FTC) và Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (viết tắt là

10

US-DOJ).

US-FTC được thành lập vào năm 1914, nhiệm vụ của cơ quan này là

ngăn chặn các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại như

một phần của cuộc chiến nhằm “thúc đẩy lòng tin”. Trong nhiều năm, Quốc

hội đã thông qua các bộ luật bổ sung trao quyền lớn hơn cho Uỷ ban nhằm

kiểm soát các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.Do sự phát triển mạnh

mẽ của nền kinh tế và các doanh nghiệp, đòi hỏi Bộ Tư pháp phải có một lực

lượng chuyên biệt trong lĩnh vực Luật Chống độc quyền nhằm đối phó với

tình hình ngày càng phức tạp của thị trường. Do vậy, năm 1933, Vụ Chống

độc quyền thuộc Bộ Tư pháp (DOJ) đã được thành lập. US-FTC là một cơ

quan độc lập báo cáo trực tiếp cho Quốc hội. Ủy ban hoạt động dưới sự chỉ

đạo của năm ủy viên có nhiệm kỳ 7 năm, được bổ nhiệm bởi Tổng thống và

được phê chuẩn bởi Thượng nghị viện. Tổng thống chỉ định một ủy viên đảm

trách Chủ tọa, không quá ba ủy viên là thành viên của một Đảng.

Hoạt động của US-FTC được thực hiện bởi các Cục gồm: Cục Bảo vệ

người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh, Cục Kinh tế và các Văn phòng: Văn phòng

các vấn đề cộng đồng, Văn phòng quan hệ Quốc hội, Văn phòng Giám đốc

điều hành, Văn phòng Tổng thanh tra, Văn phòng Tổng tham vấn thực hiện

các hoạt động này, cụ thể như sau: [16]

“ - Cục Bảo vệ người tiêu dùng có nhiệm vụ là bảo vệ người tiêu dùng

trước các hành vi không công bằng, hành vi gian lận hoặc dối trá. Cục Bảo vệ

Người tiêu dùng thực thi các văn bản pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng do

Quốc hội ban hành cũng như các quy định về thương mại do Uỷ ban ban hành.

Hoạt động chính của Cục bao gồm tiến hành các cuộc điều tra đối với các

công ty tư nhân và các ngành công nghiệp lớn, giải quyết các tranh chấp của

toà hành chính và toà án liên bang, nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và

người tiêu dùng. Thêm vào đó, Cục Bảo vệ Người tiêu dùng còn hỗ trợ Uỷ

ban báo cáo Quốc hội và các cơ quan Chính phủ về các hoạt động có nguy cơ

ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

11

- Cục Cạnh tranh có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động kinh doanh gây

hạn chế cạnh tranh, từ đó góp phần đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng thể

hiện ở mức giá thấp và tính sẵn có của các sản phẩm và dịch vụ. Cục sẽ tiến

hành các cuộc điều tra để phát hiện hành vi vi phạm, trình Uỷ ban xem xét xử

lý. Khi Uỷ ban có quyết định xử lý, Cục sẽ thực thi các quyết định này thông

qua cơ chế giải quyết tranh chấp của toà án liên bang hoặc theo các quy định

hành chính.Cục cũng có nhiệm vụ như một bộ phận nghiên cứu, hoạch định

chính sách về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh.Cục chuẩn bị các báo cáo

và chứng cớ trước Quốc hội, hoặc có thể đưa ra những bình luận về các vấn

đề liên quan đến cạnh tranh trước khi có quyết định từ những cơ quan quản lý

khác. Cục Cạnh tranh cũng phát triển những kiến thức chuyên sâu về một số

ngành công nghiệp quan trọng đối với người tiêu dùng như: chăm sóc sức

khoẻ, lương thực, năng lượng và các dịch vụ chuyên môn khác. Luật Chống

độc quyền do cả Cục Cạnh tranh của Uỷ ban và Vụ Chống độc quyền thuộc

Bộ Tư pháp thi hành. Do đó, để tránh chồng chéo, hai cơ quan này sẽ tham

khảo ý kiến của nhau trước khi tiến hành xử lý bất kỳ trường hợp nào.

- Cục Kinh tế giúp US – FTC đánh giá ảnh hưởng kinh tế của các hoạt

động của US – FTC.Để thực hiện điều này, Cục tiến hành các phân tích kinh

tế và hỗ trợ các cuộc điều tra về chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng.

Cục cũng phân tích những ảnh hưởng từ các quy định do Chính phủ ban hành

về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng và cung cấp cho Quốc hội cũng như

cho công chúng các phân tích kinh tế về các quy trình thị trường liên quan

đến chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng và các quy định khác.

- Văn phòng các vấn đề cộng đồng: cung cấp các thông tin liên quan đến

hoạt động của US – FTC, các tin tức, vụ việc… cho công chúng.

- Văn phòng quan hệ Quốc hội hỗ trợ các thành viên Quốc hội và các

nhân viên riêng và nhân viên ủy ban của họ.Nhiệm vụ của văn phòng là cung

cấp các thông tin liên quan đến các vấn đề chống độc quyền và bảo vệ người

tiêu dùng một cách chính xác, kịp thời và toàn diện cho Quốc hội.

12

- Văn phòng Giám đốc điều hành phục vụ mục tiêu quản lý và thực thi

của FTC chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của cơ quan. Văn phòng có 4

tiểu ban chức năng gồm: Ban Dịch vụ Hành chính, Ban Quản trị Tài chính,

Ban Quản trị Nhân lực, Ban Quản trị Công nghệ và Thông tin.

- Văn phòng Tổng tham vấn có nhiệm vụ là đại diện cho Ủy ban trước

tòa và tham vấn luật cho Ủy ban.

- Văn phòng Thư ký có nhiệm vụ giám sát, xử lý nhanh chóng và kịp

thời tất cả các vấn đề trình lên Ủy ban và hỗ trợ Ủy ban trong quá trình ra

quyết định, đảm bảo Ủy ban hoạt động hiệu quả.

- Văn phòng Tổng thanh tra (OIG) là cơ quan trực thuộc US – FTC được

thành lập năm 1989 theo Đạo luật Tổng thanh tra sửa đổi năm 1988. OIG có

nhiệm vụ thực hiện và giám sát việc kiểm toán và điều tra độc lập, khách

quan liên quan đến các chương trình và hoạt động của cơ quan; ngăn chặn và

phát hiện các hành vi gian lận, lãng phí và lạm dụng trong các chương trình

và hoạt động của cơ quan; rà soát và khuyến nghị về hệ thống những quy định

pháp luật liên quan tới các chương trình và hoạt động của cơ quan hiện hành

hoặc được đưa ra; và báo cáo cập nhật chi tiết các thông tin về các vấn đề

trong các chương trình và hoạt động của cơ quan cho thủ trưởng cơ quan và

cho Quốc hội.

- Các Văn phòng khu vực bao gồm bảy khu vực địa lý. Các văn phòng

khu vực làm việc với Cục Cạnh tranh và Cục Bảo vệ người tiêu dùng để tiến

hành hoạt động điều tra và khởi kiện; cung cấp các ý kiến tư vấn cho các quan

chức cấp bang và địa phương về những tác động cạnh tranh của các hoạt động

được đề xuất, các trường hợp khuyến nghị; cung cấp các dịch vụ tiếp cận địa

phương cho người tiêu dùng và các doanh nhân, và phối hợp hoạt động với

các cơ quan địa phương, bang và khu vực”.[16]

Mô hình thứ hai, cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Chính phủ

như cơ quan quản lý cạnh tranh Hà Lan. Cơ quan quản lý Cạnh tranh Hà Lan

( viết tắt là NMA) được thành lập năm 1998 và là một cơ quan trực thuộc Bộ

Kinh Tế Hà Lan. Tuy nhiên, ngày 7/12/2004, Quốc Hội Hà Lan đã thông qua

13

đạo luật cho phép NMA chuyển đổi thành cơ qua Hành chính độc lập.

Ngày 1/7/2005, NMA hoàn toàn tách khỏi Bộ Kinh Tế và chính thức trở

thành Ủy ban với tư cách là một cơ quan Hành chính độc lập. Sau sự thay đổi

này, Bộ trưởng Bộ Kinh Tế không còn tham gia ban hành chỉ thị trong những

vụ việc riêng lẻ do NMA giải quyết. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Kinh Tế sẽ vẫn

chịu trách nhiệm về mặt chính trị, chính sách và pháp chế trong quan hệ với

lĩnh vực năng lượng và việc thi hành cạnh tranh, có quyền cùng ban hành chỉ

thị với NMa.

Sau khi tách ra đứng độc lập, nhằm tăng cường tính hiệu quả, tính quyết

đoán và tính có căn cứ vốn được coi là những giá trị cốt lõi của NMA. Ủy ban

đã ngay lập tức thực thi, ban hành các biện pháp và những hướng dẫn về

cạnh tranh. Việc đưa ra những thay đổi mới trong thực thi Luật Cạnh tranh đã

giúp cho Ủy ban dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thông tin các vụ việc. Đồng

thời mở ra được lộ trình cụ thể trong tiến hành tố tụng cũng như xử phạt. Điều

dễ nhận thấy ở những thay đổi này là Ủy ban đã tập chung nhiều hơn vào việc

xây dựng ý thức tự giác cho các doanh nghiệp, tổ chức và người tiêu dùng.

Kết quả cho thấy có những thành công rõ rệt.

Cùng thời điểm đó, chính phủ Hà Lan cũng phê duyệt một đạo luật mới

về Cạnh tranh. Theo đó, Luật Cạnh tranh đã được điều chỉnh và có hiệu lực kể

từ ngày 1/9/2007 với mục tiêu Trao nhiều quyền lực hơn cho NMA nhằm chú

trọng tăng cường thực thi Luật Cartel. Mặc dù là một cơ quan mới được thành

lập, nhưng NMA đã thực sự là một cơ quan có tầm quan trọng trong việc phát

triển kinh tế của Hà Lan. [10]

Mô hình thứ ba, “cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan ngang Bộ như:

Pháp, Đức, Đan Mạch, Nhật Bản... Tuy nhiên việc phân chia cũng chỉ mang

tính chất tương đối.Tại Nhật Bản, cơ quan thực thi là Ủy ban thương mại lành

mạnh Nhật Bản (JFTC). Theo quan điểm của nhà nước Nhật Bản, Luật cạnh

tranh là nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế nên cần được thực thi với

tính liên tục và nhất quán bởi một cơ quan trung lập và công bằng, không chịu

14

ảnh hưởng hay tác động của bất kỳ một đảng phái chính trị nào. Vì vậy, JFTC

hoạt động một cách hoàn toàn chủ động và độc lập, không chịu sự quản lý

hoặc chỉ đạo của bất kỳ một cơ quan nào như các cơ quan hành chính thông

thường khác. [13]

Ủy ban được thành lập như là một cơ quan quản lý của Chính phủ để

đạt được mục tiêu của Luật Chống độc quyền. Bên cạnh Luật Chống độc

quyền, Uỷ ban còn thi hành Luật Chống tặng phẩm phi lý và trưng bày gây

nhầm lẫn, Luật Chống thanh toán chậm trong hợp đồng gia công phụ đối với

người sản xuất phụ, đây là những luật đặc biệt bổ sung cho Luật Chống độc

quyền.

Một mặt, Uỷ ban có vị trí như là một cơ quan cấp Bộ thuộc sự chỉ đạo

của Bộ trưởng các bộ: Bộ Quản lý công cộng, Bộ Nội vụ, Bộ Bưu chính viễn

thông. Tuy nhiên, Uỷ ban có đặc điểm của một tổ chức quản lý theo hệ thống

hội đồng, bao gồm một chủ tịch và bốn uỷ viên. Trong việc thực thi Luật

Chống độc quyền, Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ của nó một cách độc lập,

không chịu sự chỉ đạo hay giám sát của bất cứ một ai. Uỷ ban được trao

quyền để thực thi Luật Chống độc quyền và các luật hỗ trợ với quyết tâm loại

bỏ những trở ngại về mặt chính trị liên quan tới việc thực thi những luật nói

trên. Những trở ngại về mặt chính trị phát sinh vì Luật Chống độc quyền và

các luật hỗ trợ, quy định những luật lệ cơ bản của hoạt động kinh doanh trong

một hệ thống tự do và do đó tạo ra nền tảng của hệ thống kinh tế Nhật Bản,

giải quyết rất nhiều vấn đề bao gồm những xung đột về lợi ích.

Mặt khác, Uỷ ban giống như toà án, việc giải quyết các vi phạm Luật

Chống độc quyền yêu cầu sự trung lập và công bằng. Hơn nữa, kể từ khi các

luật trên được áp dụng với những tình huống liên tục thay đổi, việc thi hành

chúng yêu cầu những chuyên gia có kinh nghiệm, những người giàu kiến thức

về luật và kinh tế.

JFTC gồm có Chủ tịch và 4 Ủy viên hội đồng cạnh tranh. Chủ tịch và

các Ủy viên hội đồng được Thủ tướng bổ nhiệm từ những người trên 35 tuổi

15

có kinh nghiệm, kiến thức về luật pháp hoặc kinh tế, sau khi được Hạ viện và

Thượng nghị viện chấp nhận. Nhiệm kỳ của Chủ tịch và các Ủy viên hội đồng

là 5 năm. Trừ trường hợp có lý do được quy định trong luật (như vi phạm

pháp luật, bị phạt tù), Chủ tịch và các Ủy viên hội đồng không thể bị bãi

nhiệm trái mong muốn và có thể được tái bổ nhiệm nếu không quá 70 tuổi

(tuổi nghỉ hưu). Để tổ chức họp, Ủy ban cạnh tranh cần sự có mặt của Chủ

tịch và ít nhất 2 Ủy viên hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, sự cố (như

bệnh tật…) thì Ủy viên hội đồng có thể thay mặt Chủ tịch. Do đặc thù của

hoạt động thực thi là cần một nguồn nhân lực lớn, có chất lượng để thực hiện

cùng lúc nhiều hoạt động phức tạp, và cũng do lịch sử tồn tại hơn 60 năm nên

số lượng cán bộ nhân viên đang làm việc tại JFTC trong 10 năm trở lại đây

luôn trên 500 người và không ngừng gia tăng. Đến năm 2009, JFTC đã có 779

cán bộ nhân viên, trong đó có 442 điều tra viên. Đây cũng là điều thường thấy

tại hầu hết các cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới.

Với tư cách là một cơ quan quản lý độc lập, một chức năng đặc biệt của

Uỷ ban là nó có quyền tương đương quyền lập pháp trong việc ban hành các

quy định nội bộ, có quyền tương đương quyền tư pháp trong việc tiến hành

các phiên toà và quyền hạn của một cơ quan hành chính. Cụ thể ba loại quyền

của Ủy ban như sau:

(1) Quyền hành chín h

Quyền hành chính có thể phân loại vào nhóm quyền hạn chung, được

thi hành thông qua việc thực thi Luật Chống độc quyền và các luật hỗ trợ, và

vào nhóm quyền hạn xoá bỏ các vi phạm. Các bước sau đây được thực hiện

theo nhóm quyền hạn chung:

- Hoá đơn và giấy phép của các loại thông báo và báo cáo từ các hãng

theo quy định của Luật Chống độc quyền.

- Điều tra chung về hoạt động kinh doanh, các điều kiện kinh tế và các

trường hợp độc quyền.

- Chấp thuận sự tham gia ý kiến từ các hãng và các hiệp hội thương mại.

16

- Chuẩn bị những hướng dẫn thảo luận về thực thi luật.

- Phối hợp với các cơ quan hành chính khác trong việc ban hành và cải

tiến pháp luật kinh tế, mệnh lệnh và các biện pháp quản lý đối với những vấn

đề phát sinh liên quan đến Luật Chống độc quyền và chính sách cạnh tranh.

- Thảo luận và trao đổi ý kiến với các tổ chức quốc tế và các cơ quan

quản lý cạnh tranh nước ngoài.

(2) Quyền tương đương quyền lập pháp

Ủy ban có quyền chỉ định những hành vi thương mại cạnh tranh không

lành mạnh, những tặng phẩm và trưng bày được đề cập tới. Hơn nữa Ủy ban

có quyền ban hành quy định nội bộ, các quy định liên quan thủ tục giải quyết

cùng với báo cáo và giấy phép.

(3) Quyền tương đương quyền tư pháp.

Trong một vài trường hợp Ủy ban tiến hành một thủ tục giải trình trước

khi ra quyết định. Một phiên giải trình giống như phiên tòa mở được thực

hiện bởi Ủy ban để đảm bảo công bằng của các thủ tục.

Một vài nhận xét về cơ quan cạnh tranh của các nƣớc:

Thứ nhất, pháp luật cạnh tranh của các nước không dùng các thuật ngữ

như: cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp hay cơ quan tư pháp để nói về bản

chất pháp lý của cơ quan cạnh tranh. Quyền lực nhà nước được chia làm ba

phần quyền năng: quyền lập pháp (ban hành văn bản pháp luật), quyền hành

pháp (thi hành pháp luật), quyền tư pháp (xét xử các cấp). Trong bộ máy nhà

nước, cơ quan thực hiện quyền lập pháp thì gọi là cơ quan lập pháp, cơ quan

thực hiện quyền hành pháp thì gọi là cơ quan hành pháp và cơ quan thực hiện

quyền tư pháp thì được gọi là cơ quan tư pháp. Vậy việc xem xét bản chất

pháp lý của một cơ quan là nghiên cứu vị trí, chức năng, quyền hạn của cơ

quan đó. Từ việc xem xét các khía cạnh đó ta có thể rút ra được quyền năng

của cơ quan quản lý cạnh tranh và bản chất pháp lý của nó.

Qua việc nghiên cứu và xem xét mô hình cạnh tranh của các quốc gia,

nhìn chung cơ quan quản lý cạnh tranh các nước đều mang tính “lưỡng tính”,

17

tức là vừa là cơ quan hành chính, vừa là cơ quan tư pháp. Cơ quan quản lý

cạnh tranh là cơ quan để chính phủ thực thi chính sách pháp luật về cạnh

tranh do đó nó là cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, hoạt động của nó cũng mang

tính tư pháp vì nó có quyền xét xử phân định đúng sai, ra quyết định áp dụng

các biện pháp chế tài đối với các bên vi phạm pháp luật. Sự kết hợp giữa chức

năng hành pháp và chức năng tư pháp đảm bảo cho cơ quan quản lý cạnh

tranh thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nó.

Thứ hai, dù được tổ chức theo mô hình nào thì cơ quan quản lý cạnh

tranh cũng có tính “độc lập”. Tính độc lập thể hiện song song với tính “lưỡng

tính”, trong quy định pháp luật cạnh tranh của các quốc gia, cơ cấu tổ chức

của cơ quan cạnh tranh luôn được thiết lập theo cơ chế độc lập, không chịu sự

tác động, chi phối và can thiệt của bất kì cơ quan thức ba nào khác.

1.2. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh.

Cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng nhiệm vụ chính là đảm bảo

thực thi Luật Cạnh tranh của mỗi quốc gia. Luật Cạnh tranh được thực thi

nghiêm chỉnh và hữu hiệu đến đâu trên thực tế phụ thuộc vào hoạt động hiệu

quả hay không của cơ quan này. Tuy mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh

giữa các nước có điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội khác nhau là khác nhau

nhưng qua việc nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của các nước

trên thế giới ta có thể nhận thấy cơ quan quản lý cạnh tranh các nước đều có

những chức năng và nhiệm vụ cơ bản của cơ quan này như sau:

- Điều tra, ngăn chặn, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trên thị trường.

- Chống độc quyền và lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường.

- Điều tra, xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

- Kiểm soát quá trình sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp trên thị trường.

- Thực hiện các hoạt động nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành

mạnh trên thị trường.

Thứ nhất, về chức năng, nhiệm vụ điều tra, xử lý các hành vi cạnh

18

tranh không lành mạnh trên thị trường. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

bao gồm tất cả các hành xâm hại đến hoạt động cạnh tranh trên thị trường,

xâm hại đến quyền tự do cạnh tranh công bằng của doanh nghiệp. Cơ quan

quản lý cạnh tranh bằng nghiệp vụ của mình có nhiệm vụ điều tra nhanh

chóng, chính xác, kịp thời ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh; Đưa ra các quyết định xử lý đối với các hành vi đó để đảm bảo sự công

bằng, trong sạch của thị trường cạnh tranh.

Thứ hai, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất hành động

của hai hay nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh

tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập của đối thủ. Trong

thực tế thị trường, nội dung các hành vi thỏa thuận hạn chế cạch tranh rất đa

dạng và phức tạp; để có thể xác định một nhóm doanh nghiệp đang thực hiện

một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh phải điều tra

và thu thập đủ bằng chứng chứng minh tồn tại, thống nhất hành động thảo

thuận đó. Một khi, chưa chứng minh được những điều trên thì chưa thể kết

luận sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh

có thể dễ dàng tìm thấy các thỏa thuận công khai, tuy nhiên những thỏa thuận

này hầu hết lại là thỏa thuận ngầm giữa các doanh nghiệp chính vì vậy khả

năng tiếp cận của cơ quan điều tra là rất khó.

Thứ ba, chống độc quyền và lạm dụng vị trí độc quyền trên thì trường

là việc mà các doanh nghiệp lớn nắm giữ vị trí độc quyền có hành vi sử dụng

quyền lực của mình nhằm tạo ra áp lực đối với các đối thủ khác, xâm hại

quyền lợi người tiêu dùng,... Trong mỗi nền kinh tế đều sẽ xuất hiện những

doanh nghiệp mạnh, họ nắm giữ thị phần lớn, sức mạnh, và có thể gâp áp lực

nên nền kinh tế, môi trường cạnh tranh. Chính vì vậy, cơ quan quản lý cạnh

tranh nhân danh nhà nước đảm bảo sự công bằng, điều tiết thi trường tạo nên

nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh.

Thứ tư, thực hiện các hoạt động nhằm đảm đảm bảo môi trường cạnh

tranh lành mạnh. Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, môi trường

19

cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhằm mục tiêu lợi nhuận ngày càng diễn ra

mạnh mẽ và phức tạp. Trong quá trình cạnh tranh sẽ nảy sinh những hành vi

cạnh tranh không lành mạnh, làm mất đi sự minh bạch, công bằng của thị

trường, ảnh hưởng đến sự phát triển cân bằng của nền kinh tế. Nhà nước có

chức năng quản lý nền kinh tế, kiểm soát, điều tiết đảm bảo nền kinh tế phát

triển lành mạnh. Vì vậy, cơ quan quản lý cạnh tranh ra đời với chức năng

nhiêm vụ đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Bên cạnh đó, một số quốc gia có cơ quan quản lý cạnh tranh vừa có

thẩm quyền thực hiện chính sách cạnh tranh, vừa có thẩm quyền thực hiện

chính sách bảo vệ người tiêu dùng.

Ngoài những chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên thì cơ quan

quản lý cạnh tranh còn có thẩm quyền:

- Phát hiện, kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách làm

cản trở đến môi trường cạnh tranh lành mạnh.

- Yêu cầu tổ chức, các nhân có liên quan hợp tác, cung cấp thông tin,

chứng cứ trong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh.

1.3. Đặc trƣng pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh.

1.3.1. Tính “lưỡng tính” hay nửa “tư pháp” nửa “hành chính”.

Qua nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của các nước, hầu

hết cơ quan quản lý cạnh tranh đều mang tính “lưỡng tính”, vừa là cơ quan

hành pháp, vừa là cơ quan tư pháp. Cơ quan quản lý cạnh tranh là công cụ thi

hành chính sách, pháp luật cạnh tranh do đó có thể nhìn nhận nó dưới khía

cạnh là một cơ quan hành pháp. Song hoạt động của nó cũng mang tính chất

tư pháp vì nó có quyền phán xử đúng sai, áp dụng chế tài xử lý hành vi vi

phạm pháp luật cạnh tranh. Sự kết hợp nửa “tư pháp” nửa “hành chính” đảm

bảo cho cơ quan này thưc hiện nhiệm vụ của nó một cách độc lập, riêng biệt

và không chịu tác động của cơ quan khác.

Một ví dụ tiêu biểu cho tính lưỡng tính của cơ quan quản lý cạnh tranh

chính là Ủy ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản được thể hiện rõ ràng thông

20

qua chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này. Theo pháp luật cạnh tranh Nhật

Bản, Ủy ban này có cả thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp:

Thẩm quyền hành chính:

- Tiếp nhận thông báo của các doanh nghiệp theo luật chống độc

quyền.

- Điều tra, giám sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trên thị

trường; tình trạng độc quyền trong nền kinh tế.

- Cho ý kiến về ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các đạo luật kinh tế

liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh, chống độc quyền do các cơ quan

khác soạn thảo,...

Thẩm quyền tư pháp:

Một số trường hợp nhất định, khi xử lý vi phạm Luật chống độc quyền,

Ủy ban tổ chức phiên họp tương tự như tòa án xét xử và ra phán quyết, quyết

định chế tài xử lý vi phạm; và phán quyết của Ủy ban có thể bị kháng cáo.

1.3.2. Tính độc lập.

Như đã tìm hiểu về mô hình cơ quan cạnh tranh của một số quốc gia, ta

có thể thấy pháp luật các nước quy định về thiết chế, tổ chức và hoạt động của

cơ quan này luôn đảm bảo tính độc lập, bảo đảm không bị can thiệp, chi phối

bởi bất cứ cơ quan khác (hành pháp, lập pháp, tư pháp). Độc lập là yếu tố tiên

quyết cũng chính là sự công bằng trong xử lý vụ việc mà các bên đương sự

luôn mong đợi. Đây là nội dung quan trọng để cơ quan này thực hiện chức

năng xử lý thông minh vì mục tiêu bảo vệ trật tự công bằng, bảo đảm môi

trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh.

Nguyên tắc tối cao trong Luật cạnh tranh là các cơ quan quản lý cạnh

tranh hoạt động hoàn toàn độc lập trong hoạt động của mình mà không bị chi

phối, can thiệp, ảnh hưởng bởi bất kỳ cơ quan nào. Cơ quan quản lý cạnh

tranh được lập theo Luật và thực hiện chức năng mà Luật quy định giao cho.

Để tạo lập sự độc lập thì một số quốc gia đặt cơ quan cạnh tranh thuộc

Quốc hội, độc lập với tư pháp và chính phủ hoặc đặt cơ quan cạnh tranh như

21

một Bộ hoặc cơ quan ngang bộ, độc lập với các ngành khác.

Tính độc lập còn được thể hiện ở chế độ bổ nhiệm nhân sự trong cơ

quan quản lý cạnh tranh một cách nghiêm khắc và chặt chẽ, cùng với đó là

22

chế độ đãi ngộ và ngân sách hoạt động rất rõ ràng, minh bạch.

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY.

2.1. Sự hình thành của cơ quan quản lý cạnh tranh tại Việt Nam.

Trong thời đại nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh phát triển, quan

hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế không chỉ là sự cạnh tranh đơn thuần mà

còn xuất hiện các mối quan hệ phức tạp, làm nảy sinh những tác động tiêu cực

đến thị trường, nền kinh tế. Nhà nước với quyền lực quản lý kinh tế, xã đã tạo

ra cơ quan quản lý cạnh tranh là một thiết chế kinh tế đặc biệt, được xây dựng

để thực thi pháp luật cạnh tranh của mỗi quốc gia nhằm bảo đảm trật tự của

nền kinh tế.

“Vào giữa thập niên thứ hai của quá trình đổi mới, các nhà làm luật

Việt Nam đã đặt ra nhiệm vụ trọng yếu là phải xây dựng một đạo luật cạnh

tranh mang tầm vóc của một đạo luật căn bản trong cấu trúc của pháp luật

thương mại. Do đó, trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm xây dựng Luật

Cạnh tranh ở các nước, Luật Cạnh tranh Việt Nam đã được ban hành năm

2004. Gắn liền với quá trình hình thành pháp luật cạnh tranh, cơ quan quản lý

cạnh tranh của Việt Nam cũng được ra đời trên tinh thần xây dựng và bảo vệ

các thiết chế kinh tế, thúc đẩy, giám sát các hoạt động kinh tế để tạo môi

trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.”[17] Cơ quan quản lý

cạnh tranh của Việt Nam ra đời trong quá trình xây dựng Luật cạnh tranh với

tư cách là một đơn vị trực thuộc Bộ Thương mại vào năm 2003 dưới tên gọi

là Ban Quản lý cạnh tranh; với nhiệm vụ chính là tham gia soạn thảo Luật

Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đối

phó với các vụ kiện chống bán phá giá của nước ngoài kiện các doanh nghiệp

xuất khẩu Việt Nam. Ngày 26/02/2004, để triển khai Nghị định số

29/2004/NĐ-CP ngày 16/01/2004 của Chính phủ quy định chức năng nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thương mại, Bộ trưởng Bộ Thương

23

mại đã ban hành Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM thành lập Cục quản lý

cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý cạnh tranh được ra đời trước đó 1 năm.

Theo Quyết định số 1808/2004/QĐ-BTM ngày 06/12/2004 của Bộ trưởng Bộ

Thương mại thì Cục quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Bộ Thương mại có

chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống

bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ngày

03/12/2004 tại kỳ họp thứ XI Quốc hội thông qua Luật Cạnh tranh. Trên cơ sở

Luật cạnh tranh chính thức có hiệu lực vào ngày 01/07/2005, tại Điều 49 và

Điều 53 của Luật này Cơ quản lý cạnh tranh sẽ do Chính phủ thành lập và quy

định tổ chức, bộ máy. Và ngày 09/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số

06/2006/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Cục quản lý cạnh tranh. Ngày 05/02/2013, Bộ trưởng Bộ Công thương

ban hành Quyết định số 848/QĐ-BCT quy định về cơ cấu tổ chức của Cực

quản lý cạnh tranh. Riêng đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh , Cục quản

lý cạnh tranh chỉ đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ

có liên quan đến vụ việc. Việc xử lý, giải quyết vụ việc cạnh tranh, giải quyết

khiếu nại liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh do Hội đồng cạnh tranh

đảm nhận.

Hội đồng cạnh tranh là cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh độc lập do

Chính phủ thành lập gồm từ 11 đến 15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương.1[9] Ngày

09/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về việc thành

lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội

đồng cạnh tranh. Ngày 12/06/2006, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương

mại (nay là Bộ Công thương), Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số

843/QĐ-TTg bổ nhiệm 11 thành viên Hội đồng cạnh tranh. Đến thời điểm

hiện nay (năm 2018), Hội đồng cạnh tranh có tổng cộng 14 thành viên.[23]

1Điều 1, Điều 4, Nghị định số 07/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/01/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.

24

Hiện nay, theo Nghị định số 07/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/01/2015

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng

cạnh tranh thì Hội đồng cạnh tranh có cơ quan thường trực tham mưu, giúp

việc là Văn phòng Hội đồng cạnh tranh.[5] Ngày 30/06/2015, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định số 24/2015/QĐ-TTg ban hành Quy chế tổ

chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh.

2.2.Hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh năm 2004.

Hiện nay, hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh của nước ta được thành

lập và hoạt động gồm hai cơ quan riêng biệt là Cục quản lý cạnh tranh và Hội

đồng cạnh tranh.

2.2.1. Cục quản lý cạnh tranh.

Năm 2003, Ban quản lý cạnh tranh được thành lập trực thuộc Bộ

Thương mại (nay là Bộ Công thương) là tiền thân của Cục quản lý cạnh tranh.

Sau đó, năm 2004 Cục quản lý cạnh tranh được thành lập trực thuộc Bộ Công

thương trên nền tảng của Ban quản lý cạnh tranh, là cơ quan do Chính phủ

thành lập trong hệ thống tổ chức của Bộ Công thương, có tư cách pháp nhân,

có con dấu riêng và tài khoản riêng, có trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội. Ngày

03/12/2004 Luật Cạnh tranh được thông qua và có hiệu lực bắt đầu từ ngày

01/7/2005. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP về các

chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục cạnh tranh. Năm

2013 Bộ Công thương ban hành Quyết định số 848/QĐ-BCT quy định về

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục cạnh tranh. Hiện

nay, Cục quản lý cạnh tranh có trụ sở tại Hà Nội thành lập năm 2004, tại

thành phố Hồ Chí Minh thành lập năm 2007, tại Đà Nẵng thành lập năm

2009.

2.2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh.[20]

Cục Quản lý cạnh tranh có tên giao dịch viết bằng tiếng Anh:

Vietnam Competition Authority, viết tắt là VCA, trụ sở chính tại Hà Nội.

Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức thuộc Bộ Công Thương có chức

25

năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thực

thi pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp

dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng; đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế

liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ theo quy định của pháp luật.2

Cụ thể, Cục quản lý cạnh tranh có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ

Công thương thực hiện các nhiệm vụ:

- Quản lý nhà nước về cạnh tranh (thực thi Luật Cạnh tranh);

- Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng

các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

(thực thi pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự

vệ);

- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (thực thi Luật về bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng);

- Phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc

đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến

bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ;

Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh được quy định tại

Điều 49 Luật Cạnh tranh năm 2004 bao gồm:

1. Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo Luật định.

2. Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ

trưởng Bộ Thương mại quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính

phủ quyết định.

3. Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh.

4. Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

5. Một số nhiệm vụ khác theo Luật định.

2Khoản 1-điều 1 Quyết định 848QĐ/BCT ngày 05/02/2013.

26

Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/NĐ-CP/2006

trong đó quy định rõ ràng hơn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục

quản lý cạnh tranh trên nền tảng Luật Cạnh tranh năm 2004. Đến năm 2013,

Bộ công thương ra Quyết định 848/QĐ-BCT trong đó quy định chi tiết hơn về

chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh. Theo đó, Cục

Quản lý cạnh tranh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của

pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện

pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:3

“1. Xây dựng và trình Bộ trưởng ban hành hoặc để Bộ trưởng trình cơ quan

có thẩm quyền phê duyệt, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về cạnh

tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng

hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

2. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật sau khi được

cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành. Phát hiện và kiến nghị cơ quan

có liên quan giải quyết theo thẩm quyền về những văn bản đã ban hành có nội

dung không phù hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh, chống bán phá

giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu

vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

3. Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn chuyên môn,

nghiệp vụ về hoạt động về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp

dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.

4. Về cạnh tranh

a) Thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi

hạn chế cạnh tranh để Hội đồng cạnh tranh xử lý theo quy định của pháp luật;

b) Tổ chức điều tra, xử lý hoặc đề xuất biện pháp xử lý đối với các hành vi

vi phạm pháp luật cạnh tranh theo quy định của pháp luật;

c) Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo các quy định của pháp

27

luật để trình Bộ trưởng quyết định; 3Điều 2 Quyết định 848QĐ/BTC ngày 05/02/2013

d) Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế;

đ) Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về các doanh nghiệp có vị trí

thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp độc quyền, về quy tắc cạnh tranh

trong hiệp hội, về các trường hợp miễn trừ;

5. Về xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các

biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

a) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các quy

định của pháp luật về chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện

pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam;

b) Thụ lý, tổ chức điều tra việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt

nam để đề xuất áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự

vệ theo quy định của pháp luật;

c) Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng thuế

chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp tạm thời và quyết định áp dụng các

biện pháp tự vệ tạm thời theo quy định của pháp luật;

d) Báo cáo kết quả điều tra lên Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá,

chống trợ cấp và tự vệ xem xét, trình Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết

định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ

cấp và tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam;

e) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện, rà soát

việc chấp hành các quyết định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá,

chống trợ cấp và tự vệ.

6. Cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá; chủ trì hoặc phối hợp với

các doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ kiện

chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của nước ngoài đối với hàng hóa

xuất khẩu của Việt Nam.

7. Đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành đối thoại về quy chế kinh tế thị

trường với các quốc gia, vùng lãnh thổ; chủ trì hoặc tham gia đàm phán vấn

đề cạnh tranh và phòng vệ thương mại trong các điều ước quốc tế về thương

28

mại theo phân công của Bộ trưởng.

8. Về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

a) Tiếp nhận đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong

trường hợp hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung áp dụng trên phạm

vi cả nước hoặc áp dụng trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương;

b) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; xử lý hoặc đề xuất biện

pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

c) Công khai danh sách tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm quyền lợi

người tiêu dùng trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở

và đăng tải trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý cạnh tranh.

9. Hợp tác quốc tế trong việc xây dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh,

chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng.

10. Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần

thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao; được sử dụng tư vấn trong

và ngoài nước trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công việc theo quy

định của pháp luật.

11. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính, các hình thức xử phạt vi

phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật.

12. Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên

quan đến các lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng

các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng.

13. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

cho cán bộ làm công tác quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp,

áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng.

14. Hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của các hội nghề nghiệp trong lĩnh

vực quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện

29

pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.

15. Tổ chức, xây dựng cơ sở dữ liệu, quản lý và cung cấp thông tin cho các

cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật

về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối

với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

16. Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt

động quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện

pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy

định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ.

17. Xây dựng và thực hiện chương trình cải cách hành chính của Cục theo

mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính của Bộ.

18. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, thực hiện chế độ

tiền lương và các chính sách, chế độ đãi ngộ về thi đua, khen thưởng, kỷ luật,

bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức thuộc Cục

theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ.

19. Quản lý tài chính, tài sản được giao, tổ chức thực hiện ngân sách được

phân bổ theo quy định của pháp luật.

20. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao.”

Có thể thấy, Cục quản lý cạnh tranh cùng lúc thực hiện chức năng quản lý

nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật trong cả 03 lĩnh vực, gồm (i) cạnh

tranh; (ii) bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; và (iii) phòng vệ thương mại. 2.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh.4[8]

Cục quản lý cạnh tranh do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức, bộ máy của cơ quan này.5[11]Đứng đầu cục quản lý cạnh tranh

là Cục trưởng cục quản lý cạnh tranh và 3 Cục phó, bên dưới là cùng bộ máy

giúp việc bao gồm: Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Ban Giám sát và

4Điều 3, Nghị định số 06/2006/NĐ-CP, Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh.

5Khoản 1, Điều 49, Luật Cạnh tranh năm 2004.

30

quản lý cạnh tranh, Ban Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh, Ban Bảo vệ người tiêu dùng, Ban Xử lý chống bán phá giá, chống trợ

cấp và tự vệ, Ban hợp tác quốc tế, Văn phòng. Các ban phụ trách các lĩnh vực

chuyên biệt khác nhau nhưng vẫn có sự phối hợp giữa các ban. Bên cạnh đó

còn có các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục: Trung tâm đào tạo điều tra viên và

31

Trung tâm thông tin cạnh tranh.

Sơ đồ tổ chức Cục quản lý cạnh tranh[20]

Cục quản lý cạnh tranh

(Cục trƣởng)

Các tổ chức sự nghiệp Bộ máy giúp việc cục trƣởng

Trung tâm Đào tạo điều tra Văn phòng cục viên

Phòng Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao Trung tâm Thông tin cạnh

tranh dịch chung

Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh

Phòng xử lý các vụ kiện phòng vệ của nước ngoài

Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh

Phòng Bảo vệ người tiêu dùng

Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của

doanh nghiệp trong nước.

Phòng Hợp tác quốc tế

Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh

Văn phòng đại diện tại tp Hồ Chí Minh

Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh do Thủ tướng Chính phủ bổ

nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Các điều tra

viên, các nhân viên của Cục cạnh tranh cũng được bổ nhiệm, tuyển trọn bằng

các tiêu chí theo Luật định.

2.2.2. Hội đồng cạnh tranh.

Theo Luật Cạnh tranh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục quản lý

cạnh tranh chỉ đảm nhận vai trò điều tra, tìm kiếm, thu thập thông tin chứng

cứ có liên quan đến vụ việc; còn việc xét xử, xử lý, đưa ra quyết định, giải

quyết khiếu lại vụ việc có liên quan thì do Hội đồng cạnh tranh đảm nhận.

32

Như vậy, Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh độc lập

do Chính phủ thành lập, có chức năng tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối

với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.Hội đồng

Cạnh tranh có tên giao dịch viết bằng tiếng Anh: Viet Nam Competition

Council, viết tắt là VCC.Hội đồng Cạnh tranh có tư cách pháp nhân, có trụ sở

làm việc tại Hà Nội, có con dấu hình Quốc huy và được mở tài khoản tại Kho

bạc Nhà nước. Và kinh phí hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh do ngân sách

nhà nước đảm bảo và được bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ

Công Thương.[9]

2.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Cạnh tranh.

Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh độc lập do

Chính phủ thành lập, có chức năng tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với

các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế canh tranh. Nghị định số

05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

của Hội đồng Cạnh tranh.

Thứ nhất, về tổ chức xử lý, giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến

hành vi hạn chế cạnh tranh, Hội đồng Cạnh tranh có nhiệm vụ và quyền hạn:

1. Tổ chức tiếp nhận Báo cáo điều tra và Hồ sơ vụ việc canh

tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định

tại Điều 93 Luật Cạnh tranh năm 2004;

2. Xử phạt, xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh theo quy định

tại Điều 119 Luật Cạnh tranh năm 2004

3. Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin,

tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, về giải quyết khiếu nại, tố cáo Hội đồng Cạnh tranh có nhiệm

vụ giải quyết khiếu nại đối với các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh liên

quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh

theo quy định của pháp luật cạnh tranh; giải quyết khiếu nại đối với các quyết

định khác của Hội đồng Cạnh tranh, Chủ tịch Hội đồng Cạnh tranh, Hội đồng

33

Xử lý vụ việc cạnh tranh, Chủ tọa Phiên điều trần theo trình tự, thủ tục của

pháp luật khiếu nại.Hội đồng Cạnh tranh tham gia tố tụng hành chính theo

quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật tố tụng hành chính.

Thứ ba, Hội đồng Cạnh tranh còn thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn

khác, như: Theo dõi việc thi hành các Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;

tham gia ý kiến đối với các vãn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy

hoạch ngành, lĩnh vực, văn bản hành chính có liên quan; tuyên truyền, phổ

biến pháp luật cạnh tranh trong phạm vi thẩm quyền; tổ chức nghiên cứu khoa

học, xây dựng cơ sở dữ liệu, tài liệu liên quan đến chức năng, nhiệm vụ,

quyên hạn của Hội đông Cạnh tranh; hợp tác quốc tế về cạnh tranh trong

phạm vi thẩm quyền…Hội đồng Cạnh tranh tổ chức và hoạt động theo Quy

chế do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

2.2.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.

Hội đồng Cạnh tranh tổ chức và hoạt động theo quy chế của Thủ tướng

Chính phủ ban hành. Hội đồng Cạnh tranh có từ 11 đến 15 thành viên, bao

gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên do Thủ tướng Chính phủ quyết

định bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công

Thương. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng Cạnh tranh là 05 năm và có thể

được bổ nhiệm lại. Hội đồng Cạnh tranh có cơ quan thường trực tham mưu,

giúp việc là Văn phòngHội đồng Cạnh tranh.

Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh có Chánh Văn phòng và không quá 03

(ba) Phó Chánh Văn phòng. Chánh Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh là thành

viên của Hội đồng Cạnh tranh.Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh có con dấu

riêng để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Bộ trưởng Bộ Công Thương giao,

được tổ chức các phòng trực thuộc.Chánh Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh

thực hiện nhiệm vụ Chủ tài khoản của Hội đồng Cạnh tranh theo quyết định

của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh có chức

năng tham mưu, giúp việc Hội đồng Cạnh tranh trong việc thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của Hội đồng Cạnh tranh.

34

Để giúp việc cho Hội đồng cạnh tranh, ngày 28/8/2016 Bộ Trưởng Bộ

Thương Mại ( nay là Bộ Công thương) đã ban hành quyết định số 1378/QĐ-

BTM thành lập Ban thư ký Hội đồng cạnh tranh gồm từ 7-9 người hoạt động

chuyên trách.

2.3. Những hạn chế trong mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh theo pháp

luật hiện hành.

Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy pháp luật cạnh

tranh có được thực thi một cách hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào

vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh (cơ quan thực thi Luật cạnh tranh). Bản

chất pháp lý của Luật cạnh tranh là luật công vì vậy mà cơ quan công quyền

đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính thực thi của pháp luật.

Để hoạt động hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh cần đảm bảo các

yếu tố sau:

- Phải đảm bảo hoạt động độc lập và được trao đầy đủ quyền hạn theo quy

định của pháp luật;

- Đảm bảo tính minh bạch khi thực hiện nhiệm vụ được giao;

- Phải nhận được sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và

người tiêu dùng.

2.3.1. Bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa rõ ràng.

Hiện nay cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam về cơ bản mang tính chất

“hành chính”, tính “tài phán” tuy cũng đã xuất hiện trong các quy định của

pháp luật nhưng vẫn còn mờ nhạt, chưa rõ ràng. Theo quy định của Luật Cạnh

tranh năm 2004, Việt Nam hiện nay duy trì mô hình hai cơ quan cạnh tranh,

bao gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh (trực thuộc Bộ Công Thương) và Hội

đồng cạnh tranh (giúp việc cho Hội đồng cạnh tranh có Văn phòng Hội đồng

cạnh tranh). Bản chất pháp lý của mọi cơ quan cạnh tranh trên thế giới luôn là

một cơ quan “lưỡng tính”, tức là vừa là cơ quan hành chính, đồng thời, cũng

hoạt động như một cơ quan tư pháp (thông qua hoạt động điều trần, xử lý vụ

việc hạn chế cạnh tranh). Thực tế, bản chất pháp lý của cơ quan cạnh tranh

35

của Việt Nam hiện nay cũng là một cơ quan “lưỡng tính” tuy nhiên bản chất

pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa thực sự được quy định rõ ràng

trong quy định của pháp luật.

Thứ nhất,Cục quản lý cạnh tranh mang đặc trưng của một cơ quan hành

chính Nhà nước, nhân danh Nhà nước đảm bảo thực thi pháp luật và sử dụng

pháp luật để thiết chế các quan hệ trong lĩnh vực cạnh tranh. Bằng quy định

về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh ta có thể nhìn

nhận rõ ràng tính “hành chính của cơ quan này: kiểm soát quá trình tập trung

kinh tế; thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đề xuất lên trình Bộ trưởng Bộ

Công thương hoặc Chính Phủ; Điều tra các vụ việc cạnh tranh, xử lý hành vi

vi phạm Luật Cạnh tranh.

Thứ hai,Hội đồng Cạnh tranh thì thực thi hoạt động xét xử theo kiểu hành

chính. Hội đồng cạnh tranh là cơ quan có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết

các khiếu lại đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh. Hội đồng cạnh tranh tổ

chức xử lý và quyết định xử phạt hành vi vi phạm pháp Luật Cạnh tranh. Cơ

quan này tổ chức xử lý và ra quyết định theo trình tự thủ tục nhát định, có

chức năng xét xử gần giống như Tòa án. Tuy nhiên quyết định của Hội đồng

cạnh tranh có thể bị khiếu lại tổ cáo và đưa ra Tòa án Nhân dân huyện, thành

phố và khi đó Hội đồng cạnh tranh đóng vai trò là cơ quan tham gia Tố tụng

hành chính theo Luật Tố tụng hành chính ở nước ta. Nếu dựa vào quy trình tố

tụng cạnh tranh mà Hội đồng Cạnh tranh thực hiện trong việc xử lý vụ việc

cạnh tranh, có thể thấy tính chất tài phán của nó thông qua các biểu hiện sau:

- Thủ tục tố tụng mang tính tranh tụng thông qua phiên điều trần để các

bên liên quan có cơ hội được trình bày quan điểm và trao đổi trực tiếp

với các bên tham gia tố tụng khác và cơ quan tiến hành tố tụng.

- Việc tiến hành xử lý vụ việc được thực hiện theo một trình tự tố tụng

chặt chẽ, rõ ràng và mang tính tài phán chứ không chỉ là xử lý hành

chính thông thường theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính.

- Khi quyết định xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh trong các vụ việc về

36

cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh làm việc theo chế độ tập thể.

- Quyết định của Hội đồng cạnh tranh không thể bị khiếu nại trong hệ

thống cơ quan hành chính mà phải khởi kiện ra tòa án…

Tuy nhiên việc quy định quyết định của Hội đồng Cạnh tranh có thể bị

khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại và đem ra xét xử của Tòa án đã làm

cho cơ quan này vẫn chứa có đủ thẩm quyền để thực hiện quyền tài phán, tính

“tư pháp” một cách toàn vẹn. Như vậy có thể thấy, mô hình quản lý cạnh

tranh của Việt Nam cũng mang tính “lưỡng tính” như các mô hình quản lý

cạnh tranh trên thế giới, tuy nhiên theo Luật Cạnh tranh cũng như các Nghị

định có liên quan đến nhiệm vụ, chức năng quyền hạn của cơ quan quản lý

cạnh tranh thì mô hình hai cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam vẫn chưa quy định

rõ ràng vào chi tiết tính “lưỡng tính” của cơ quan này. Tuy có thể nhận thấy

tính lướng tính xuất hiện như bản chất vốn có của cơ quan cạnh tranh.

2.3.2. Tính độc lập của cơ quan quản lý cạnh tranh còn hạn chế.

Điều 2 Nghị định số 05/2006/NĐ-CP đã quy định Hội đồng Cạnh

tranh là cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước độc lập có chức năng xử lý vụ

việc cạnh tranh. Theo nghiên cứu hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước ở

Việt Nam, có thể nhận thấy không có cơ quan Nhà nước nào được quy định

là cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước độc lập mà chỉ có một số cơ quan có

chức năng thực thi pháp luật độc lập (có Tòa án nhân dân, Kiểm toán Nhà

nước) hoặc thực thi nhiệm vụ độc lập (Ủy ban giám sát tài chính quốc gia).

Tương tự như vậy, quy định của Nghị định số 05/2006/NĐ-CP nên được hiểu

theo nghĩa là Hội đồng Cạnh tranh tiến hành xử lý các vụ việc cạnh tranh một

cách độc lập – chỉ tuân theo pháp luật, không chịu ảnh hưởng của bất cứ tổ

chức, cá nhân nào (như Tòa án nhân dân) nhưng không phải là độc lập hoàn

toàn – theo nghĩa không có mối quan hệ nào với các cơ quan Nhà nước khác.

Tuy nhiên theo Luật hiện hành quy định về nhiệm vụ, chức năng

quyền hạn của Cục quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh còn có nhiều

bất cập và hạn chế về tính độc lập.

37

Thứ nhất, khi xử lý một vụ việc cạnh tranh thì Cục quản lý Cạnh tranh

là cơ quan có nhiệm vụ thụ lý và điều tra vụ việc cạnh tranh đó, sau khi hoàn

thành quá trình điều tra sẽ chuyển sang cho Hội đồng cạnh tranh xét xử và

đưa ra quyết định xử phạt theo phương thức đa số phiều bầu được quy định tại

Mục IV, mục V Luật cạnh tranh năm 2004. Nếu trong quá trình thành lập hội

đồng xét xử và xét xử nhận thấy có vướng mắc trong việc điều tra và thu thập

chứng cứ Hội đồng cạnh tranh sẽ chuyển lại vụ việc cho Cục quản lý cạnh

tranh tiếp tục điều tra. Với quy trình như trên làm cho việc xét xử của Hội

đồng Cạnh tranh phải phụ thuộc rất lớp vào thời gian điều tra và kết quả điều

tra. Như vậy, quyết định mà Hội đồng cạnh tranh đưa ra cũng phần nào bị ảnh

hưởng, tính độc lập cũng bị hạn chế.

Thứ hai, dựa vào nội dung của Nghị định số 05/2006/NĐ-CP khó có

thể khẳng định được sự độc lập của Hội đồng cạnh tranh. Việc Bộ trưởng Bộ

Công thương có khả năng: đề nghị Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm thành

viên và chủ tịch Hội đồng cạnh tranh; quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ

cấu tổ chức của Ban thư ký Hội đồng cạnh tranh – bộ phận giúp việc cho Hội

đồng; phê duyệt quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh sẽ dẫn

đến khả năng chi phối đối với việc tổ chức và hoạt động của cơ quan này.

Ngoài ra, kinh phí hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh được bố trí theo dự

toán ngân sách hàng năm của Bộ Công thương . Với những ràng buộc này,

việc Hội đồng cạnh tranh hoạt động độc lập là rất khó. Trong điều kiện hiện

nay, Bộ này vẫn còn đóng vai trò chủ quản của một số công ty Nhà nước quan

trọng vì vậy không thể đảm bảo tính khách quan trong hoạt động của các cơ

quan quản lý cạnh tranh khi điều tra các daonh nghiệp Nhà nước.

Thứ ba, việc quy định khi có khiếu nại về quyết định xử phạt của Hội

đồng cạnh tranh sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại thì người nhận

quyết định có thể khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại thì Tòa án sẽ là cơ

6Điều 115, Luật Cạnh tranh năm 2004, Khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại.

38

quan thụ lý và Hội đồng cạnh tranh lại đóng vai trò là một chủ thể tham ra vào quá trình Tố tụng hành chính;6[11] Như vậy quyết định xử lý vi phạm của Hội

đồng cạnh tranh không phải là quyết định tối cao, quyết định đó có thể bị ảnh

hưởng từ các tác nhân, cơ quan khác và thay đổi; tính độc lập cũng bị hạn chế.

Theo kinh nghiệm có được từ việc nghiên cứu mô hình cạnh tranh các

nước trên thế giới, các luận thuyết nền tảng của pháp luật cạnh tranh đã khẳng

định rằng tính độc lập và tự quyết tạo nền tảng vững chắc cho các cơ quan

quản lý cạnh tranh hoạt động độc lập và có hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn vào

pháp luật cạnh tranh hiện hành của nước ta, tính độc lập của cơ quan cạnh

tranh còn nhiều hạn chế và bất cập cần phải xem xét và sửa đổi; để tăng

cường hiệu quả hoạt động của cơ quan cạnh tranh nói riêng và tăng cường

hiệu quả thực thi của Luật cạnh tranh.

2.3.3. Tính chuyên môn của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa cao.

So với nhiều quốc gia trên thế giới, cơ quan quản lý cạnh tranh của nước

ta thành lập chưa lâu và còn non trẻ; hầu hết các cán bộ của Cục cạnh tranh và

Hội đồng cạnh tranh còn non trẻ về tuổi đời và tuổi nghề nên còn thiếu kinh

nghiệm thực tiễn. Trong khi đó, yêu cầu đối với cán bộ quản lý cạnh tranh phải

có sự am hiểu tổng quát nhiều lĩnh vực hoặc có kiến thức toàn diện về kinh tế xã

hội. Nguồn nhân lực còn hạn chế, tính chuyên môn chưa cao là một thách thức

khiến việc thực thi pháp luật cạnh tranh chưa được hiệu quả.

Mặt khác, có thể nhận thấy, mô hình hai cơ quan thực thi với sự phân

tán nguồn lực khiến cho việc giải quyết vụ việc cạnh tranh chưa được tập

trung, kết quả giải quyết vụ việc luôn đi sau và không đáp ứng được yêu cầu

của thị trường.

Hơn nữa, về phía Cục Quản lý cạnh tranh, việc cùng lúc thực hiện

chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật trong cả 03 lĩnh

vực, gồm (i) cạnh tranh; (ii) bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; và (iii) phòng

vệ thương mại đã khiến cho nguồn lực bị phân tán. Cục Quản lý cạnh tranh

hiện nay đang cùng một lúc đảm nhiệm quá nhiều chức năng, từ điều tra xử lý

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều tra các hành vi hạn chế cạnh

39

tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà nước về chống bán phá giá,

chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Có

một thực tế là không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào trên thế giới được

quy định nhiều chức năng, đặc biệt là bao gồm cả các chức năng thực thi pháp

luật về các biện pháp đảm bảo công bằng trong thương mại quốc tế như Việt

Nam. Điều này đã dẫn đến tình trạng quá tải cho hoạt động của Cục quản lý

cạnh tranh trong thời gian qua. Hơn nữa, trong hoạt động điều tra vụ việc

cạnh tranh luôn có tính chất phức tạp, do đó, việc điều tra vụ việc cạnh tranh

mang tính kỹ thuật, đòi hỏi cán bộ thực thi phải tập trung và có chuyên môn

cao. Sự hạn chế và phân tán về nguồn lực như hiện nay cũng là một trong

những nguyên nhân quan trọng khiến cho quá trình điều tra vụ việc hạn chế

cạnh tranh chưa hiệu quả.

Còn về phía Hội đồng cạnh tranh, cơ chế kiêm nhiệm trong hoạt động

của các thành viên Hội đồng cạnh tranh đã dẫn đến sự thiếu tập trung trong

quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh. Hầu hết thành viên Hội đồng cạnh

tranh đều là các lãnh đạo, cán bộ đương nhiệm của các Bộ, ngành khác nhau,

được bổ nhiệm kiêm giữ các chức danh pháp lý tại Hội đồng cạnh tranh. Do

vậy, trong quá trình công tác, các thành viên Hội đồng cạnh tranh buộc phải

cân đối, đảm bảo hiệu quả công tác ở cả cơ quan đương nhiệm và ở cả Hội

đồng cạnh tranh. Với tính chất phức tạp của vụ việc cạnh tranh, cơ chế hoạt

động kiêm nhiệm của Hội đồng cạnh tranh là chưa hợp lý, dẫn đến thiếu tập

trung, thiếu kịp thời trong giải quyết vụ việc cạnh tranh.

Trên thực tế, hoạt động của Hội đồng cạnh tranh trong thời gian qua

khá mờ nhạt, dường như luôn phụ thuộc vào Cục Quản lý cạnh tranh. Số

lượng vụ việc hạn chế cạnh tranh đã xử lý dừng ở mức khiêm tốn, phụ thuộc

vào số lượng hồ sơ vụ việc mà Cục Quản lý cạnh tranh chuyển sang và Hội

đồng chỉ có chức năng xử lý chứ không có chức năng điều tra.

Sau 14 năm thành lập thì hiện nay số lượng nhân viên trong cơ quan

quản lý cạnh tranh cũng đã tương đối ổn định, đủ để thực hiện nhiệm vụ hiện

40

tại. Tuy nhiên các quan hệ cạnh tranh trong môi trường thị trường kinh doanh

tự do ngày càng phức tạp. Để có thể nhìn nhận và giải quyết vấn đề của các

mối quan hệ đó cần những con người có kiến thức chuyên môn cao nhưng số

lượng chuyên gia trong lĩnh vực cạnh tranh còn khá ít. Vì vậy vấn đề cải chất

41

lượng nhân lực cũng là vấn đề cần lưu tâm.

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG

CƠ QUAN QUẢ.N LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

“Thường trực Ủy ban Kinh tế nhận thấy, để bảo đảm hiệu quả thực thi

pháp luật về cạnh tranh phải xây dựng cơ quan cạnh tranh chuyên nghiệp, độc

lập về chuyên môn, nghiệp vụ, có đủ năng lực và thẩm quyền trong việc xử lý

vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Cơ quan cạnh tranh vừa là cơ

quan thực hiện chức năng tham mưu trong quản lý nhà nước về cạnh tranh,

vừa là cơ quan thực hiện nhiệm vụ điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh và kiểm

soát tập trung kinh tế”. [19]

3.1. Làm rõ bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh.

“Việc xác định bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh có ý

nghĩa quan trọng trong vấn đề quyết định các yếu tố khác của cơ quan này,

như: tên gọi, mô hình tổ chức, vị trí, chức năng, nhiệm vụ,… Hiện nay, cơ

quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam về cơ bản mang tính “hành chính”,

tính “tài phán” còn mờ nhạt (CQLCT có một phần chức năng điều tra còn

HĐCT thực thi hoạt động xét xử theo kiểu hành chính). Rõ ràng, cơ quan

quản lý cạnh tranh cần mang bản chất pháp lý là sự kết hợp của đặc điểm

“hành chính” và “tài phán”. Việc xác định bản chất pháp lý của cơ quan quản

lý cạnh tranh như trên có ưu thế là, một mặt vừa đảm bảo vai trò điều tiết của

Chính phủ đối với nền kinh tế, mặt khác sẽ tạo các điều kiện tối ưu để bảo

đảm các quyền và tự do của các doanh nghiệp với tư cách là đối tượng áp

dụng chủ yếu của LCT. Bản chất “lưỡng tính” (vừa là một cơ quan hành

chính vừa là một cơ quan tư pháp) tỏ ra là một phương án có thể giải quyết

được các bất cập của việc quy định cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ là cơ quan

hành chính hay chỉ là cơ quan tài phán.” [19]

3.2. Cơ cấu lại hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh.

Qua nghiên cứu và rút kinh nghiệm từ tổ chức mô hình cơ quan cạnh

42

tranh của các nước trên thế giới. Cùng với sự nhận thấy những bất cập trong

Cơ quan cạnh tranh của nước ta. Vậy muốn hoạt động hiệu quả pháp luật cạnh

tranh cần được sửa đổi. Sau đây là một số ý kiến cơ bản về việc cơ cấu lại hệ

thống cơ quan quản lý cạnh tranh. Dựa vào đặt điểm của nền kinh tế - chính

trị - xã hội của Việt Nam hiện nay, mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh phù

hợp là mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan ngang Bộ.

Một là, “với địa vị pháp lý như hiện nay, cơ quan cạnh tranh rất khó để

điều tra, xử lý đối với vi phạm của các cơ quan quản lý nhà nước cấp tương

đương. Thậm chí, trường hợp Thông tư do các Bộ ban hành có quy định trái với

Luật Cạnh tranh, một cơ quan thuộc Bộ như Cơ quan quản lý cạnh tranh lại

càng khó khăn hơn trong việc ứng xử đối với các cơ quan quản lý nhà nước có

địa vị pháp lý cao hơn”. [1] Hơn nữa, cơ quan quản lý cạnh tranh muốn hoạt

động hiệu quả cần đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của cơ quan này. Độc

lập không có nghĩa là phải đứng độc lập, riêng rẽ về mặt tổ chức, không trực

thuộc cơ quan chủ quản nào mà là độc lập về hoạt động cũng như chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và độc lập trong đưa ra quyết định;quan niệm độc lập trên

thế giới là phải đứng độc lập với doanh nghiệp chứ không phải là về mặt tổ

chức trong hệ thống cơ quan chính quyền. Ở nước ta, khi Bộ vẫn là cơ quan chủ

quản của một số doanh nghiệp Nhà nước thì việc xây dựng cơ quan quản lý

cạnh tranh ngang Bộ ở Việt Nam là điều cần thiết để thể hiện được vị trí, vai trò

quan trọng đặc biệt vốn có của cơ quan này, độc lập không chịu tác động từ các

cơ quan trực thuộc Nhà nước . Hiện nay, hoạt động của cơ quan quản lý cạnh

tranh chủ yếu được thể hiện trong hoạt động điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh.

Trong điều kiện các doanh nghiệp nhà nước đang giữ các lĩnh vực then chốt của

nền kinh tế; do đó, đối tượng điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh có thể sẽ

là các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ

quan quản lý nhà nước. Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan quản lý

cạnh tranh sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Mặt khác, cơ cấu

tổ chức thuộc Chính phủ sẽ giúp đảm bảo tính độc lập, khách quan và vị thế của

43

cơ quan cạnh tranh trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, đặc biệt là những vụ

việc liên quan đến doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Nhà nước, hành vi bị cấm

của cơ quan quản lý nhà nước, hay thậm chí là những vụ việc cạnh tranh diễn ra

bên ngoài lãnh thổ nhưng có ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường Việt Nam.

Hai là, “việc thành lập một cơ quan quản lý cạnh tranh độc lập của

Chính phủ cũng sẽ tạo điều kiện cho việc huy động nguồn thu ngân sách

thông qua hoạt động một cách độc lập, tăng thêm tính tự chủ của cơ quan

quản lý cạnh tranh”.[12] Kinh nghiệm tách bộ, ngành, tái cơ cấu được thực thi

trong những năm gần đây cho thấy việc thiết lập một cơ quan ngang bộ về

mặt thể chế, có cơ cấu gọn nhỏ trong giai đoạn đầu, có cơ chế huy động ngân

sách hoạt động cụ thể là khả thi.

Ba là, vị trí độc lập của một cơ quan ngang bộ giúp đảm bảo và thúc

đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công khai, minh bạch và khả năng chịu

trách nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình tuyển chọn, bổ

nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, tự chủ về ngân sách hoạt động bảo đảm cho

cơ quan quản lý cạnh tranh có thực quyền cao hơn đáp ứng đòi hỏi ngày càng

cao của hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà số vụ kiện về các hành vi vi phạm

pháp luật cạnh tranh tăng lên một cách đáng kể. Đây cũng là kinh nghiệm của

nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Canada,

Úc… nơi cơ quan quản lý cạnh tranh đều có vị trí độc lập và quyền tự chủ,

hoạt động rất hiệu quả.

Theo thống kê của Bộ Công thương, trong số 90 cơ quan quản lý cạnh

tranh hiện nay trên thế giới, không còn nước nào tồn tại mô hình hai cơ quan,

một chịu trách nhiệm về điều tra, một chịu trách nhiệm về xử lý như Việt

Nam. Thực tế cũng cho thấy điểm yếu lớn nhất của mô hình hai cơ quan như

Việt Nam (hiện nay) là do các thành viên của các cơ quan xử lý không theo

sát được quá trình điều tra vụ việc làm cho quá trình điều tra, xét xử và ra

quyết định không có sự liên kết chặt chẽ và tính chính xác cao. Do đó, có thể

nhận thấy rằng, việc hợp nhất hai cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam

44

hiện nay thành một cơ quan duy nhất sẽ mang lại nhiều lợi ích, khắc phục

được những nhược điểm còn tồn tại, phù hợp với xu hướng chung của các

nước trên thế giới. Như vậy, cơ quan quản lý cạnh tranh mới này sẽ là sự hợp

nhất của Cục quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh, mang tính chất cơ

quan ngang Bộ. Trong cơ quan này phải tách riêng bộ phận điều tra và bộ

phận xử lý vụ việc độc lập với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhưng

phải kết hợp trong việc xử lý vụ việc, nhân sự hoạt động theo chế độ chuyên

trách nay.

3.3. Xác định lại Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan quản lý

cạnh tranh.

– Về chức năng và nhiệm vụ:

Thứ nhất, cơ quan quản lý cạnh tranh mới sẽ thực hiện các hoạt động

liên quan đến việc điều tra, xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh,

hạn chế cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. Chức năng khác hiện nay của

Cục quản lý cạnh tranh liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp, và tự

vệ nên trao cho Bộ Công thương chịu trách nhiệm, vì: mặc dù pháp luật cạnh

tranh và pháp luật chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ có những nguyên

tắc chung nhưng đối tượng điều chỉnh của chúng là hoàn toàn khác nhau.

Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh

không lành mạnh, trình tự thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử

lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh (đối tượng áp dụng của nó là các doanh

nghiệp, hiệp hội đang hoạt động tại thị trường nội địa) còn pháp luật chống

bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ lại nhắm đến các hàng hoá của các doanh

nghiệp nước ngoài được nhập khẩu vào thị trường nội địa. Trên thực tế không

có bất kỳ quốc gia nào xây dựng mô hình giao cho một cơ quan thực hiện

cùng lúc hai chính sách này. Cơ quan quản lý cạnh tranh của các nước thường

thuộc bộ, Chính phủ hay Quốc hội còn cơ quan quản lý chống bán phá giá,

chống trợ cấp và tự vệ lại thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại hoặc Công thương.

Thứ hai, có ý kiến cho rằng nên trao chức năng xử lý các hành vi cạnh

45

tranh không lành mạnh cho Tòa án. Có thể thấy, với tình hình chuyên gia,

chuyên viên về cạnh tranh hiện nay còn thiếu và yếu, tính chuyên môn chưa

cao, thì chỉ riêng hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh đã thiếu và chưa

có chất lượng cao, trình độ am hiểu pháp luật cạnh tranh của các thẩm phán

Việt Nam còn thấp. Luật Cạnh tranh đi vào thực tế nước ta chưa lâu và số vụ

việc cạnh tranh còn chưa nhiều nên trong thời gian đầu, việc giữ thẩm quyền

điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh nên do cơ quan quản lý

cạnh tranh xử lý. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, số lượng các vụ

việc liên quan đến cạnh tranh tăng cao và trình độ chuyên môn về pháp luật

cạnh tranh của các thẩm phán đã được nâng cao thì nên trao chức năng này

cho Tòa án. Điều này cũng để phù hợp với bản chất của các hành vi vi phạm

pháp luật về cạnh tranh; nâng cao chất lượng thực thi các quyết định của cơ

quan giải quyết vụ việc; cơ quan quản lý cạnh tranh không bị quá tải và thực

hiện tốt nhiệm vụ điều tiết quy luật cạnh tranh của thị trường và có thể tập

trung cho lĩnh vực hạn chế cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .

Bên cạnh đó, mục đích của Luật Cạnh tranh là bảo đảm quyền cạnh tranh bình

đẳng của doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nên có chung

mục đích với pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Hơn nữa, người tiêu dùng có

mối quan hệ với các doanh nghiệp, đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các doanh

nghiệp có thể ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Do đó, cơ quan cạnh tranh mới

vẫn nên giữ nguyên chức năng là cơ quan thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng.

– Về thẩm quyền: có thể trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh mới

những thẩm quyền sau đây:

Thứ nhất, hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh; tư vấn cho Quốc hội,

Chính phủ trong việc ban hành các văn bản quy phạm điều tiết cạnh tranh; tư

vấn cho các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội người tiêu dùng, các doanh nghiệp

về các vấn đề pháp lý cạnh tranh liên quan đến lợi ích của họ;

Thứ hai, điều tra, khảo sát lập báo cáo hàng năm về tình trạng cạnh

46

tranh và độc quyền trong nền kinh tế;

Thứ ba, kiến nghị thay đổi, sửa đổi, huỷ bỏ những quy định pháp luật

không phù hợp, trái với nguyên tắc cạnh tranh hay gây ảnh hưởng đến môi

trường cạnh tranh và quyền lợi người tiêu dùng;

Thứ tư, phát hiện và kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính

sách làm cản trở đến môi trường cạnh tranh;

Thứ năm, yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin,

chứng cứ trong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh.

3.4. Đổi mới nhân sự và cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh.

Thứ nhất về đổi mới nhân sự, để bảo đảm tính chuyên nghiệp và có

hiệu quả của cơ quan quản lý cạnh tranh, nên thay đổi cách thức, quy trình bổ

nhiệm nhân sự cơ quan quản lý cạnh tranh mới như sau:

– Các thành viên quản lý của cơ quan quản lý cạnh tranh mới (Chủ tịch

và các Phó Chủ tịch) sẽ do Thủ tướng bổ nhiệm nhưng nguồn bổ nhiệm ngoài

các bộ có thể mở rộng thêm ở các chuyên gia pháp luật cạnh tranh, thương

mại, kinh tế. Điều kiện được bổ nhiệm đối với những thành viên này có sự

tiếp thu những điều kiện của thành viên Hội đồng cạnh tranh theo pháp luật

hiện nay, như: có kiến thức, am hiểu về pháp luật cạnh tranh, pháp luật

thương mại và kinh tế; am hiểu về kỹ năng điều tra xử lý trong vụ việc cạnh

tranh là một lợi thế; có tầm ảnh hưởng và uy tín nhất định trong lĩnh vực khoa

học pháp lý hay kinh tế, tài chính; có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực,

khách quan, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có trình độ cử

nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính trở lên; có thời gian công tác thực tế

ít nhất là 9 năm thuộc một trong các lĩnh vực nói trên; có khả năng hoàn thành

nhiệm vụ được giao. Các thành viên này là công chức hoặc viên chức, làm

việc chuyên trách. Nhiệm kỳ của họ là 5 năm hoặc 7 năm và có thể được tái

bổ nhiệm.

– Đối với nhân viên các bộ phận của cơ quan quản lý cạnh tranh thì tổ

chức thi tuyển như Cục quản lý cạnh tranh hiện nay là hợp lý. Người đứng

47

đầu các bộ phận của cơ quan quản lý cạnh tranh có thể được bổ nhiệm bởi

Thủ tướng trên cơ sở đề nghị của người đứng đầu cơ quan quản lý cạnh tranh

hoặc được tuyển dụng công khai.

Thứ hai, đổi mới về cơ chế hoạt động:

Một là, “dễ dàng nhận thấy một trong những nhiệm vụ và chức năng

của Cục quản lý cạnh tranh là thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc liên quan

đến hành vi hạn chế cạnh tranh để Hội đồng cạnh tranh xử lý theo quy định

của pháp luật. Như vậy, sau khi thụ lý và điều tra, Cục quản lý cạnh tranh sẽ

phải chuyển vụ việc sang Hội đồng cạnh tranh để tiến hành xử lý vi phạm.

Trong khi đó, Hội đồng cạnh tranh lại được thành lập và hoạt động theo cơ

chế kiêm nhiệm, liên ngành đã dẫn đến sự thiếu tập trung trong quá trình giải

quyết vụ việc cạnh tranh. Hầu hết thành viên Hội đồng cạnh tranh đều là các

lãnh đạo, cán bộ đương nhiệm của các Bộ, ngành khác nhau, được bổ nhiệm

kiêm giữ các chức danh pháp lý tại Hội đồng cạnh tranh. Do vậy, trong quá

trình công tác, các thành viên Hội đồng cạnh tranh buộc phải cân đối, đảm

bảo hiệu quả công tác ở cả cơ quan đương nhiệm và ở cả Hội đồng cạnh tranh.

Với tính chất phức tạp của vụ việc cạnh tranh, cơ chế hoạt động kiêm nhiệm

của Hội đồng cạnh tranh là chưa hợp lý, dẫn đến thiếu tập trung, thiếu kịp thời

trong giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đồng thời, với cơ cấu Hội đồng cạnh

tranh như hiện nay, khi vụ việc cạnh tranh xảy ra trong ngành, lĩnh vực có đại

diện Bộ, ngành đó là thành viên Hội đồng cạnh tranh, thì việc xử lý vụ việc

cạnh tranh khó đảm bảo tính độc lập, khách quan do có sự mâu thuẫn, xung

đột về lợi ích”. [2]

Hai là, Xây dựng cơ chế rà soát, giải quyết các khiếu kiện liên quan đến

các quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh.Theo quy định của pháp luật

hiện nay, Hội đồng Cạnh tranh sẽ xem xét lại những quyết định của Hội đồng

xử lý vụ việc khi có yêu cầu và nếu không đồng ý với kết quả xử lý của Hội

đồng cạnh tranh thì các bên có thể khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương. Như đã phân tích, với điều kiện còn thiếu

48

chuyên gia về pháp luật cạnh tranh hiện nay ở nước ta, trình độ am hiểu pháp

luật cạnh tranh của cán bộ, công chức còn thấp thì việc giao cho Tòa án xem

xét lại quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh là không hợp lý. Kinh

nghiệm các nước trên thế giới đã cho thấy yêu cầu chuyên môn cao trong hoạt

động đã buộc họ phải xây dựng một bộ phận thuộc Toà án tối cao chuyên giải

quyết các khiếu kiện liên quan đến quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh

và đào tạo các chuyên gia cũng như thẩm phán có trình độ cao để thực hiện

những công việc này. Ở nước ta, trong cơ quan quản lý cạnh tranh nên xây

dựng một bộ phận riêng hay một bộ phận nằm trong bộ phận xử lý các vụ việc

cạnh tranh để rà soát, giải quyết các khiếu kiện liên quan đến quyết định của

cơ quan quản lý cạnh tranh. Nếu các bên không đồng ý với kết quả xử lý

khiếu kiện của cơ quan quản lý cạnh tranh, thẩm quyền giải quyết các khiếu

kiện (vụ án hành chính) liên quan đến các quyết định của cơ quan quản lý

cạnh tranh giao cho Tòa án tối cao hoặc thành lập một Tòa riêng biệt để xử lý

những vụ việc này.

Ba là, xây dựng cơ chế tham khảo ý kiến trước.Hiện nay, Cục quản lý

cạnh tranh mới chỉ được quy định chức năng tham vấn đối với những văn bản

đã ban hành tại khoản 3 Điều 2 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ,

nên xây dựng thêm cơ chế tham khảo ý kiến trước (đối với những văn bản

pháp luật sắp ban hành) trước khi các cơ quan Chính phủ có kế hoạch ban

hành hay sửa đổi các luật và quy định có ảnh hưởng đến cạnh tranh, kể cả khi

các cơ quan này muốn áp dụng các biện pháp hành chính có bản chất tương tự.

Trong quá trình tham khảo ý kiến, cơ quan cạnh tranh chủ yếu xem xét các

khía cạnh liên quan đến các hạn chế gia nhập thị trường, duy trì giá bán…

cũng như đề xuất ý kiến, giải quyết các hạn chế trong dự thảo và chính sách

này. Có thể thấy, cơ chế này sẽ giúp hạn chế tình trạng các văn bản, chính

sách trái, không phù hợp với pháp luật cạnh tranh cũng như tiết kiệm thời

gian, tài chính để không phải khắc phục, giải quyết các hậu quả do các văn

bản này gây ra sau khi được ban hành.

49

Bốn là, Xây dựng cơ chế hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

và tiết kiệm chi phí, nhân lực cho bộ phận điều tra. Có thể thấy, đội ngũ điều

tra viên là yếu tố rất quan trọng cho hiệu quả của công tác điều tra của cơ

quan quản lý cạnh tranh. Hoạt động của họ mang nhiều yếu tố đặc thù (thời

gian điều tra một vụ việc có thể kéo dài từ 6 tháng đến 2 năm, các vụ việc

mang tính đa ngành cao,…). Vì vậy, pháp luật nên quy định trước khi ra

quyết định điều tra chính thức một hành vi cạnh tranh, điều tra viên phải đưa

ra lập luận của mình trước các thành viên của bộ phận điều tra của cơ quan

quản lý cạnh tranh và người phụ trách quản lý hành chính về lĩnh vực vụ việc

cạnh tranh. Điều đó sẽ giảm thiểu được các trường hợp xin điều tra bổ sung

hay kịp thời đình chỉ điều tra các trường hợp cần thiết. Quy định này sẽ tiết

kiệm kinh phí, thời gian, mang lại sự hiệu quả cao cho bộ phận điều tra cũng

như nâng cao vai trò của điều tra viên . Hơn nữa, nó cũng nhằm tạo ra sự gắn

bó, theo sát vụ việc của bộ phận điều tra và bộ phận xử lý nhằm làm cho hiệu

quả của việc xử lý được nâng cao. Để đạt được điều này, phải thay đổi pháp

luật cạnh tranh một cách toàn diện, chú trọng đào tạo điều tra viên và hoàn

thiện quy chế tài chính đối với hoạt động điều tra. Những phương hướng hoàn

thiện mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh mới cho Việt Nam là phù hợp với

những quan điểm định hướng phát triển chung hiện nay. Tuy nhiên, cơ quan

quản lý cạnh tranh là một thiết chế phức tạp, mang nhiều tính đặc thù và có vị

trí quan trọng nên việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ

50

quan này cần có những đầu tư, tìm tòi và phát triển hơn nữa.

PHẦN KẾT LUẬN

Cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thực thi pháp Luật Cạnh tranh

của nước ta hiện nay. Trong bối cảnh, các hành vi cạnh tranh xuất hiện trong

xã hội ngày càng mạnh mẽ và phức tạp Pháp luật cạnh tranh nói chung và Cơ

quan quản lý cạnh tranh nói riêng đang ngày càng bộc lộ nhiều bất cập.

Nghiên cứu cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, khóa luận tìm

hiểu sơ lược lịch sử hình thành và phát triển cơ quan quản lý cạnh tranh, mô

hình cơ quan cạnh tranh trên thế giới, làm rõ những quy định của pháp luật về

cơ quan quản lý cạnh tranh: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức;

những vẫn đề lý luận và thức tiễn thi hành.

Từ đó, bài nghiên cứu tìm ra những thiếu sót, bất cập của mô hình cơ

quan quản lý cạnh tranh hiện nay. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị điều

chỉnh, sửa đổi mô hình cơ quan cạnh tranh hiện nay, góp phần đóng góp ý

kiến trong Dự thảo Luật cạnh tranh sửa đổi đang trong giai đoạn trưng cầu ý

51

kiến và soạn thảo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách, bài viết:

1. Bộ Công thương, (2017), “Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật

cạnh tranh sửa đổi”,tr20.

2. Bộ Công Thương,(2017), “Tờ trình chính phủ của Bộ Công thương, Tờ

trình chính phủ về Dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi)”, tr3.

3. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Pháp (1998), Nhà xuất bản chính trị

quốc gia, tr365.

4. Bộ Công thương, (2013), Quyết định số 848/QĐ-BCT quy định về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục cạnh tranh.

5. Bộ Công Thương,(2015), Quyết định số 7389/QĐ-BCT quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Hội đồng

cạnh tranh.

6. Bộ Thương Mại, (2004),Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM thành lập

Cục quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý cạnh tranh

7. Đại học Luật ( 2003), giáo trình “ Lý luận Nhà nước và pháp luật”, NXB

Công an nhân dân.

8. Chính phủ, (2006), Nghị định số 06/2006/NĐ-CP về các chức năng,

nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục cạnh tranh.

9. Chính phủ, (2015), Nghị định số 07/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày

16/01/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Hội đồng cạnh tranh.

10. Cục quản lý cạnh tranh, (2008), Nghiên cứu trao đổi “Ủy ban cạnh tranh

Hà Lan (NMA) và những bước phát triển”.

11. Quốc hội, (2004), Luật Cạnh tranh năm 2004.

12. Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn, (2006), Phân tích và luận giải các

quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí

52

độc quyền để HCCT, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr 285.

13. Phùng Văn Thành, (2014), “Giới thiệu pháp luật kiểm soát thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh của Nhật Bản”, Cục quản lý cạnh tranh.

14. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2011), “Cạnh tranh và xây

dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay”, NXB Công an nhân

dân, tr 244.

15. Thủ tướng Chính phủ, (2015),“Quyết định số 24/2015/QĐ-TTg” ban

hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh.

16. TS. Đinh Thị Mỹ Loan, ( 2005), “Xây dựng mô hình cơ quan nhà nước

về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp thương mại và tự vệ

trong thương mại quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho việt Nam”,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, tr61,62.

17. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 6 (2011), “Cơ quan quản lý cạnh tranh ở

Việt Nam”.

18. Trương Hồng Quang, (2011), “Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam:

Những bất cập và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí lập pháp, số

6/2011, tr47-54.

19. Ủy ban Kinh tế, (2017), “Báo cáo số 650/2017/BC-UBKT14,báo cáo

thẩm tra sơ bộ dự án Luật Cạnh tranh sửa đổi.”,tr47-54.

Link tham khảo:

20. Cục quản lý cạnh tranh,

ink:http://www.vca.gov.vn/NewsDetail.aspx?ID=2800&CateID=1

21. Cơ quan trống cạnh tranh Italia, link: http://www.agcm.it/eng/index.htm

22. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật,

link:http://vbpl.vn/pages/portal.aspx

23. Hội đồng cạnh tranh, Link:

http://www.hoidongcanhtranh.gov.vn/?page=news&do=detail&category_

53

id=2&id=41