TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN *************
NGUYỄN THỊ THU
HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI NAM BỘ
TRONG TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI – 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN *************
NGUYỄN THỊ THU
HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LA NGUYỆT ANH
HÀ NỘI – 2018
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. La Nguyệt Anh. Cô đã
trực tiếp hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu cũng nhƣ động
viên và khuyến khích tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, khoa
Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt nhất giúp tôi hoàn
thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thu
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới
sự hƣớng dẫn của TS. La Nguyệt Anh. Các số liệu và kết quả nghiên cứu đƣợc
trình bày trong luận văn này là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố dƣới bất kì
hình thức nào. Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................... 5
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 5
8. Bố cục khóa luận ....................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chƣơng 1. TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI TRONG VĂN HỌC
KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM ........................................................................... 7
1.1. Những vấn đề lí luận về truyện và kí ..................................................... 7
1.1.1. Khái niệm truyện và kí ................................................................... 7
1.1.2. Thể loại truyện và kí trong văn học kháng chiến Việt Nam ............ 9
1.2. Nguyễn Thi và Truyện và kí của Nguyễn Thi ...................................... 12
1.2.1. Tác giả Nguyễn Thi ....................................................................... 12
1.2.2. Qúa trình sáng tác ......................................................................... 13
1.2.3. Truyện và kí của Nguyễn Thi ........................................................ 15
Chƣơng 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI NAM BỘ TRONG
TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI ............................................................ 19
2.1. Bức tranh hiện thực đời sống Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi
..................................................................................................................... 19
2.1.1. Hiện thực đời sống trên chiến trường ........................................... 19
2.1.2. Hiện thực cuộc sống đời thường ................................................... 22
2.2. Con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi ..................... 26
2.2.1. Con người Nam Bộ trong chiến trường ........................................ 26
2.2.2. Con người Nam Bộ trong cuộc sống đời thường .......................... 31
Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN HIỆN
THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN VÀ KÍ NGUYỄN THI ............ 36
3.1. Không gian, thời gian nghệ thuật ......................................................... 36
3.1.1. Không gian nghệ thuật .................................................................. 36
3.1.2. Thời gian nghệ thuật ..................................................................... 38
3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 40
3.2.1. Giọng điệu đa thanh ...................................................................... 40
3.2.2. Sắc điệu chủ đạo trong Truyện và kí Nguyễn Thi ......................... 41
3.3. Ngôn ngữ .............................................................................................. 43
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật khách quan .................................................. 43
3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại gần gũi, thân tình .......................................... 45
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học luôn là tấm gƣơng phản chiếu đời sống hiện thực xã hội và nhà văn
chính là ngƣời thƣ kí trung thành của thời đại. Nếu là một nhà văn vĩ đại thì tác phẩm
của anh ta phải phản ánh ít nhất vài ba khía cạnh nào đó của cuộc cách mạng. Nhà
thơ vĩ đại ngƣời Đức H.Haino đã từng so sánh hình tƣợng nhà thơ với cuộc sống cũng
nhƣ thần Ăng-tê với đất Mẹ: “Thần Ăng-tê trở nên vô địch khi đặt chân lên đất Mẹ và
mất hoàn toàn sức lực khi bị Hec-quyn nhấc bổng lên. Nhà thơ cũng thế, nhà thơ chỉ
thực sự cƣờng tráng và dũng mãnh khi gắn liền với mảnh đất của đời sống hiện thực
và trở nên bất lực khi tách rời cuộc sống và lơ lửng trên không”. Nhƣ vậy, hiện thực
đời sống luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận, dồi dào của thơ văn. Và con ngƣời
chính là nhân tố quan trọng nhất trong bức tranh hiện thực đó. Nên con ngƣời và hiện
thực trong đời sống luôn là đề tài hấp dẫn, thu hút các nhà văn, nhà thơ và cũng chính
là một khía cạnh đặc sắc để các nhà nghiên cứu khai thác.
Hơn nữa, dân tộc ta đã trải qua nghìn năm văn hiến, chiến đấu hết mình để
bảo vệ Tổ quốc, dù hiện nay đất nƣớc đã hòa bình nhƣng chúng ta vẫn không thể
nào quên đƣợc những năm tháng chiến tranh đau thƣơng của dân tộc. Chiến tranh,
Cách mạng ngay lúc bấy giờ là đề tài rất rộng lớn phản ánh sâu sắc hiện thực và con
ngƣời, đặc biệt là trong kháng chiến chống Mĩ đƣợc các nghệ sĩ phản ánh từ nhiều
khía cạnh khác nhau. Trên văn đàn văn học Việt Nam nói chung văn học Cách
mạng nói riêng thì không thể không nói đến Nguyễn Thi – một nhà văn có phong
cách sáng tác rất đặc sắc. Ông sinh ra ở Nam Định nhƣng cuộc đời và sáng tác của
Nguyễn Thi luôn gắn bó với miền Nam. Hầu hết những tác phẩm của ông viết về
miền Nam đƣợc tập hợp trong tập Truyện và kí do Nhà xuất bản Giải phóng in lần
đầu vào năm 1969. Những tác phẩm này của Nguyễn Thi thể hiện rất rõ hiện thực
chiến tranh chống Mĩ và sự căm thù giặc sâu sắc, lòng yêu nƣớc nồng nàn của đồng
bào miền Nam. Hòa nhập cùng dòng văn học kháng chiến chống Mĩ lúc bấy giờ
Nguyễn Thi cũng đã bộc lộ đƣợc cảm nhận của riêng mình. Nếu nhà văn Tô Hoài,
1
Nguyễn Khải đi từ sự thay đổi thân phận công dân trong cuộc đời chung của dân tộc
(Vợ chồng A Phủ, Mùa lạc,...), Nguyễn Minh Châu quan sát chiến tranh nhƣ cuộc
phát lộ ánh sáng của tâm hồn con ngƣời (Mảnh trăng cuối rừng, Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành,...)… thì Nguyễn Thi lại cảm nhận nó từ góc độ gia đình – một
góc nhìn tƣởng chừng không có gì mới mẻ nhƣng lại là điều hệ trọng nhất đối với
mỗi con ngƣời. Từ việc nắm bắt hiện thực chiến đấu anh dũng của đồng bào miền
Nam trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Thi đã vẽ lên bức tranh hùng tráng vừa
chứa đựng sắc thái sử thi trữ tình vừa ẩn chứa những điều giản dị, thân thuộc của
con ngƣời, của vùng đất Nam Bộ. Có rất nhiều nhà nghiên cứu cũng đã tìm hiểu
sáng tác của Nguyễn Thi nhƣng chỉ tìm hiểu về các khía cạnh của truyện ngắn, hay
về nghệ thuật trong tập Truyện và kí,... chứ chƣa đi sâu vào tìm hiểu về nội dung.
Việc khám phá hiện thực và con ngƣời trong Truyện và kí Nguyễn Thi là vô cùng
cần thiết. Quá trình tìm hiểu bức tranh hiện thực và con ngƣời trong Truyện và kí
cũng góp phần quan trọng vào việc tiếp nhận nội dung tác phẩm và thấy đƣợc
phong cách sáng tác độc đáo của Nguyễn Thi.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu kết quả nghiên cứu của thế hệ đi trƣớc cùng với
tính cấp thiết của vấn đề, ngƣời viết lựa chọn đề tài này khẳng định bức tranh hiện
thực và con ngƣời Nam Bộ trong tập Truyện và kí của Nguyễn Thi đồng thời làm
nổi bật đƣợc một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện trong các tác phẩm. Mặt khác,
tác phẩm của ông cũng đƣợc đƣa vào chƣơng trình sách giáo khoa ở phổ thông với
truyện ngắn Những đứa con trong gia đình in trong tập Truyện và kí. Nên việc
nghiên cứu đề tài: Hiện thực và con người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn
Thi cũng góp một phần vào việc tìm hiểu, nâng cao hiệu quả giảng dạy truyện ngắn
của Nguyễn Thi cũng nhƣ truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
Xuất phát từ lòng mến mộ nhà văn – liệt sĩ Nguyễn Thi, tôi lựa chọn đề tài
Hiện thực và con người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi với mong
muốn góp một tiếng nói khẳng định tài năng, phong cách, những giá trị tiêu biểu
trong sáng tác của nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề
Với sự thành công và phong cách nghệ thuật độc đáo của mình, Nguyễn Thi
2
đã giành đƣợc nhiều trang viết của giới nghiên cứu và phê bình. Cho đến nay, rất
nhiều báo chí từ Trung ƣơng đến địa phƣơng có công trình nghiên cứu, lời bàn về
Nguyễn Thi và tác phẩm của ông.
Ngay từ khi truyện ngắn Nguyễn Thi ra đời đã đƣợc đánh giá rất cao. Trong
hai tập truyện ngắn đầu tay Trăng sáng (1960) và Đôi bạn (1962), Trần Hữu Tá đã
nhận xét: “những yếu tố đầu tiên của một tài năng đã đƣợc bộc lộ. Khả năng dựng
truyện tự nhiên, khả năng nhận xét tinh tế, phân tích tâm lí một cách sâu sắc, ngôn
ngữ trong sáng và giàu chất trữ tình” [14;10].
Năm 1965, bài viết Phát hiện mới về nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn (Tạp chí
Văn học, số 2) Ngô Thảo đã bƣớc đầu giới thiệu về nhà văn Nguyễn Thi – một tài
năng trẻ đầy triển vọng trong tƣơng lai. Năm 1966, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ có
bài viết Tính chất điển hình trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi đăng trên
tuần báo Văn nghệ (ngày 01/4). Trong Từ điển văn học bộ mới, Đỗ Đức Hiểu –
Trần Hữu Tá có những nhận xét xác đáng về Nguyễn Thi và đánh giá về truyện kí
Người mẹ cầm súng: “Người mẹ cầm súng có tính dân gian Nam Bộ rất rõ nét, đƣợc
thể hiện qua cách kể chuyện, lối mở đầu, các chƣơng đoạn, đặc biệt trong lời ăn
tiếng nói, nếp suy nghĩ, cảm xúc nhân vật. Người mẹ cầm súng là tác phẩm hoàn
chỉnh nhất của Nguyễn Thi, chứa đựng những yếu tố mầm mống của một nhà tiểu
thuyết có tài” [6;1184]. Đặc biệt là công trình nghiên cứu của tác giả Nhị Ca năm
1983 viết về đời riêng và tác phẩm của ông Gương mặt còn lại – Nguyễn Thi đã một
lần nữa khẳng định những đóng góp to lớn của Nguyễn Thi trong nền văn học
kháng chiến Việt Nam.
Bên cạnh các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi thì tác phẩm của Nguyễn
Thi cũng đƣợc dành rất nhiều sự quan tâm của các thế hệ học viên, sinh viên, học
sinh các trƣờng Đại học, Cao đẳng, Phổ thông cũng nhƣ các độc giả trên cả nƣớc.
Có rất nhiều luận văn, khóa luận tốt nghiệp, công trình nghiên cứu của thạc sĩ, cử
nhân về tác phẩm của Nguyễn Thi nhƣ:
- Văn xuôi Nguyễn Thi (Nguyễn Chí Hòa, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại
học Vinh, 1999).
- Nguyễn Thi trong văn xuôi chống Mĩ (Nguyễn Minh Bằng, Luận văn Thạc
3
sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, 2005).
- Chất trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tấn (Thái Thị Ngọc, Khóa
luận tốt nghiệp Đại học, Đại học Vinh, 2004).
- Đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tấn (Phan Thị Nga, Khóa
luận tốt nghiệp Đại học, Đại học Vinh, 2006).
- Đặc điểm lời thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tấn –
Nguyễn Thi (Hoàng Thị Sâm, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, 2009).
Về tập Truyện và kí cũng có một số nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu và
tìm hiểu nhƣ Nguyễn Thi qua Truyện và kí của Phong Lê đã đi sâu vào tài năng và
phong cách của nhà văn. Hay bài nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan năm 1966 về
Phong cách dân gian của Người mẹ cầm súng in trong Tạp chí Văn học số 7. Trong
Lời giới thiệu tuyển tập Truyện và kí của Nguyễn Thi Nhà xuất bản Giải phóng
cũng đã nêu rõ: “Anh có khả năng quan sát độc đáo, nhạy bén và tinh tế, có một biệt
tài dùng phép tƣơng phản để mô tả cái vĩ đại trong cái tầm thƣờng, hòa nhuyễn cái
vĩ đại của cuộc chiến tranh thần kì trong hơi thở bình thƣờng của cuộc sống hàng
ngày, của con ngƣời bình thƣờng. Nguyễn Thi cũng nắm chắc vốn kiến thức của
quần chúng, đặc biệt là của nông dân Nam Bộ. Tất cả những cái đó cộng lại tạo cho
Nguyễn Thi một phong cách riêng, bình thản mà không lạnh lùng sâu lắng nhƣng
vẫn có cái sôi nổi thầm kín, đặc biệt là đậm đà màu sắc Nam Bộ trong cách dùng
chữ, lời nói, điệu hồn chân chất, thân mật, phóng khoáng, dễ thƣơng, dễ mến biết
bao” [15;6].
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu của sinh viên về tập Truyện và kí
của Nguyễn Thi nhƣ: Hiệu quả của việc sử dụng từ địa phương trong Truyện và kí
của Nguyễn Thi (Ngô Thị Phƣơng, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2, 2010).
Hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đi sâu vào một tác phẩm, trong thể
loại truyện ngắn hoặc nghệ thuật độc đáo trong Truyện và kí của Nguyễn Thi. Vấn
đề hiện thực và con ngƣời trong Truyện và kí của Nguyễn Thi đã đƣợc bàn đến
4
nhƣng vẫn còn nhiều bỏ ngỏ. Chính các công trình nghiên cứu này đã gợi mở cho
tác giả khóa luận hƣớng tiếp cận mới, làm tiền đề cho tác giả đi sâu tìm hiểu đề tài:
Bức tranh hiện thực và con người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của khóa luận là làm rõ bức tranh hiện thực và con ngƣời
Nam Bộ trong tập Truyện và kí của Nguyễn Thi. Từ đó thấy đƣợc những đóng góp
của nhà văn trong nền văn học kháng chiến nói riêng và trong nền văn học Việt
Nam nói chung.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là vấn đề hiện thực và con ngƣời trong
sáng tác của Nguyễn Thi.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tập Truyện và kí của Nguyễn Thi – Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội (1978)
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Tìm hiểu Bức tranh hiện thực và con
người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi, khóa luận có sử dụng các kiến
thức về lí luận văn học và văn học sử. Do vậy, phƣơng pháp mà tôi sử dụng ở đây là
phân tích tổng hợp.
- Bên cạnh đó cũng kết hợp với các phƣơng pháp khác nhƣ: phƣơng pháp
phân tích, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh, đối chiếu,...
7. Đóng góp của khóa luận
- Trên cơ sở những vấn đề lí luận về truyện và kí, thể loại truyện và kí trong
văn học kháng chiến Việt Nam, ngƣời viết vận dụng để tìm hiểu, nghiên cứu các tác
phẩm trong Truyện và kí của Nguyễn Thi. Từ đó khai thác, làm rõ bức tranh hiện
thực và con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi.
- Đồng thời khẳng định đƣợc một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ: không
gian, thời gian nghệ thuật; giọng điệu; ngôn ngữ Nam Bộ mà tác giả sử dụng rất
5
thành công, nhuần nhuyễn trong tác phẩm.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính khóa luận
đƣợc triển khai trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Truyện và kí của Nguyễn Thi trong nền văn học kháng chiến
Việt Nam
Chƣơng 2: Bức tranh hiện thực và con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của
Nguyễn Thi
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện hiện thực và con ngƣời
6
trong Truyện và kí của Nguyễn Thi
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI
TRONG VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lí luận về truyện và kí
1.1.1. Khái niệm truyện và kí
1.1.1.1. Khái niệm truyện
Thuật ngữ truyện bao hàm rất rộng và có nhiều nghĩa khác nhau. Ban đầu với
nguồn gốc chữ Hán, truyện có thể hiểu là giải thích kinh nghĩa nhƣ tác phẩm Xuân
Thu tả truyện. Sau này truyện có nghĩa là bài văn xuôi ghi chép về sự tích một đời
của một ngƣời nào đó nhƣ Lĩnh Nam chích quái liệt truyện ghi lại các sự tích Hồng
Bàng, Bánh chưng, Ngư Tinh, Hồ Tinh,...
Trong tiếng Việt, thuật ngữ truyện chỉ tác phẩm văn học là một bản kể miêu
tả nhân vật và những diễn biến sự kiện thú vị: truyện cổ tích, truyện thần thoại,
truyện cƣời, truyện thần kì, truyện Nôm, truyện thơ, truyện dài, truyện vừa, truyện
ngắn, truyện rất ngắn (mini),...
Theo Trần Đình Sử, khái niệm truyện là “một thể loại tự sự văn xuôi bắt
nguồn từ các câu chuyện thần thoại, chuyện lịch sử, chuyện sinh hoạt, dần dần tách
ra thành một thể loại, kể những chuyện kì lạ, khác thƣờng chỉ trong trí tƣởng tƣợng
của con ngƣời. Ví dụ: truyện truyền kì, truyện cổ tích,...” [5;202]
Truyện bao gồm nhiều thể loại, trong đó tiêu biểu là thể loại truyện ngắn và
tiểu thuyết. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ
nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phƣơng diện của đời
sống: đời tƣ, thế sự hay sử thi nhƣng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn đƣợc
viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [5;370].
“Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời
7
sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận
của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều
kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [5;328].
Nếu tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh toàn vẹn đời sống, có cái nhìn cuộc
sống từ góc độ đời tƣ thì truyện ngắn lại hƣớng tới khắc họa một hiện tƣợng, phát
hiện một nét bản chất trong đời sống tâm hồn hay quan hệ nhân sinh của con ngƣời.
Vì vậy, truyện ngắn thƣờng ít nhân vật và ít những sự kiện phức tạp hơn tiểu thuyết.
1.1.1.2. Khái niệm kí
Kí là một thể loại ra đời rất sớm, xuất hiện từ trƣớc đời Hán ở Trung Quốc.
Vào đời Đƣờng, nhiều tác phẩm kí dùng để ghi lại sự việc xen với lời bình nhƣng
sau đó nó ngày càng phát triển và ý thức hơn về đặc điểm thể loại.
Kí theo nghĩa gốc là ghi chép lại một sự việc nào đó để không quên. Theo Từ
điển thuật ngữ văn học: “Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí
và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự nhƣ bút kí, hồi kí, du kí,
phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút,... Do tính chất trung gian mà có ngƣời liệt kí vào
cận văn học” [5;162].
Thể kí đã có từ rất lâu đời trong văn học Việt Nam nhƣng phải đến thế kỉ
XVII đặc biệt là thế kỉ XIX, khi đời sống con ngƣời ngày càng nâng cao, báo chí, kĩ
thuật in ấn phát triển, văn học bắt đầu thâm nhập vào đời sống tinh thần xã hội thì
thể kí mới thực sự phát triển và trở thành thể loại phức tạp nhất của văn xuôi tự sự
trung đại: Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác),....
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, thể kí hiện đại Việt Nam đặc biệt phát triển với
nhiều tên tuổi nhƣ: Tô Hoài, Trần Đăng, Nguyễn Khải, Chế Lan Viên, Nguyễn
Tuân, Nguyễn Huy Tƣởng, Anh Đức, Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng,..
Trong lí luận văn học, có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm và đặc
trƣng của kí. Có nhà nghiên cứu nhận xét: “Về kí, thực tế là không thể nói đến cái gì
xác định đƣợc đặc trƣng thể loại của nó” [11;275]. Lại có ngƣời cho kí là “loại thể
văn học đặc biệt và phức tạp” [11;277]. Nhƣ vậy, đã có rất nhiều hƣớng tiếp cận
khác nhau về thể kí nhƣng vẫn chƣa đƣa ra đƣợc một hệ thống lí luận thống nhất
8
cho thể loại văn học này.
Truyện và kí là hai thể loại độc lập trong văn học, tuy nhiên ranh giới thể loại
đôi khi khó tách bạch, giữa hai thể loại có sự giao thoa. Trong khung thể loại của
văn học Việt Nam hiện đại, có thể xem truyện và kí là biến thể độc đáo của thể loại
truyện và thể loại kí.
1.1.2. Thể loại truyện và kí trong văn học kháng chiến Việt Nam
Thể loại truyện và kí trong văn học kháng chiến Việt Nam thể hiện rõ qua
các thời kì: kháng chiến chống Pháp, mƣời năm sau kháng chiến chống Pháp và
trong kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ở mỗi chặng đƣờng, thể loại này đều có
những đặc điểm và thành tựu nổi bật.
Truyện và kí trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Về thể loại truyện, thời
kì này có nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực đen tối, ngột ngạt của nhân dân Việt
Nam dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật cùng không khí sục sôi của
các phong trào Cách mạng. Tiêu biểu nhƣ Mò sâm panh (Nam Cao), Một phút yếu
đuối (Nguyễn Huy Tƣởng). Đặc biệt là tập truyện ngắn Địa ngục và Lò lửa của
Nguyên Hồng đã khắc họa hình ảnh những chiến sĩ anh dũng, kiên cƣờng đại diện
cho lực lƣợng mới của dân tộc. Tiểu thuyết giai đoạn 1945 – 1975 chƣa có điều kiện
phát triển nhiều. Tuy nhiên có thể kể đến một số tác phẩm nổi bật nhƣ: Nhà Phó Ba
(Xuân Thu), Bên đường 12, Nhân dân tiến tới (Vũ Tú Nam), Xung kích (Nguyễn
Đình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), Con trâu (Nguyễn Văn Bổng),...
Về thể loại kí, ngay ở những ngày đầu kháng chiến đã có những thiên kí sự,
tùy bút ghi lại hình ảnh cả dân tộc: Lột xác (Nguyễn Tuân), Dân khí miền Trung
(Hoài Thanh), Rãnh cày nổi dậy (Mạnh Phú Tƣ), Ở chiến khu (Nguyễn Huy
Tƣởng),... Ngoài ra còn có bút kí Nhật kí đường trong, Ở mặt trận Nam Trung Bộ (Tô
Hoài) các nhà văn cũng đã hƣớng tới hình ảnh trung tâm là những con ngƣời thời đại
mới cùng sự thức tỉnh và phẩm chất của họ. Thể kí ở giai đoạn này cũng đã có sự
phát triển và đạt đƣợc nhiều thành tựu với các tác phẩm tiêu biểu nhƣ: Chặt gọng
kìm đường Số Bốn của Hoàng Lộc, Ngược sông Thao của Tô Hoài, Kí sự Cao –
Lạng của Nguyễn Huy Tƣởng, Tình chiến dịch, Đường vui, Tùy bút kháng chiến của
9
Nguyễn Tuân,....
Nhìn chung, con ngƣời trong truyện và kí ở giai đoạn này không phải là con
ngƣời trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, đời tƣ mà là con ngƣời mang tƣ cách công
dân. Con ngƣời đƣợc thể hiện trên phƣơng diện con ngƣời chính trị và đƣợc đặt trong
dòng chảy lịch sử với những biến cố của đời sống xã hội. Độc giả có thể bắt gặp ở
những anh bộ đội trong tiểu thuyết Xung kích (Nguyễn Đình Thi), tình yêu làng của
ông Hai trong truyện ngắn Làng (Kim Lân) hay nhân vật Mị, A Phủ trong Vợ chồng
A Phủ (Tô Hoài), ngƣời lính trong kí sự Một cuộc chuẩn bị, Trận phố Ràng (Trần
Đăng),....
Có thể thấy dù chƣa kết tinh đƣợc nhiều tác phẩm xuất sắc nhƣng truyện và
kí giai đoạn này đã mở ra đƣợc hƣớng tiếp cận và phản ánh đời sống lịch sử xã hội,
quan niệm nghệ thuật, con ngƣời,.... Và nó đã đóng góp một phần quan trọng vào
quá trình phát triển của văn xuôi hiện đại.
Truyện và kí trong mười năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp. Các tác
phẩm truyện trong thời kì này đã có sự mở rộng nội dung đề tài rõ rệt. Ngoài thể tài
lịch sử dân tộc thì nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết đã hƣớng đến những vấn đề riêng
tƣ, đời sống thế sự, những khát vọng đời thƣờng của con ngƣời lao động và những
số phận của con ngƣời nhỏ bé trong xã hội: Mùa lạc, Đứa con nuôi, Chuyện người
tổ trưởng máy kéo của Nguyễn Khải, Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phƣơng,...
Bên cạnh đó cũng có nhiều tác phẩm truyện hƣớng về đề tài hiện thực, phản
ánh những sự đổi thay của đất nƣớc và con ngƣời nhƣ tiểu thuyết Cái sân gạch, Vụ
lúa chiêm (Đào Vũ), truyện ngắn Đồng tháng Năm, Vụ mùa chưa gặt (Nguyễn
Kiên),....
Ngoài ra, còn có nhiều đề tài theo khuynh hƣớng sử thi khai thác các vấn đề
trong kháng chiến chống Pháp: Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Trên mảnh đất
này (Hoàng Văn Bổn), Người người lớp lớp (Trần Dần), Đất lửa (Nguyễn Quang
Sáng), Vượt Côn Đảo (Phùng Quán), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi),...
Sau mƣời năm kháng chiến chống Pháp cũng đã xuất hiện nhiều cây bút
chuyên truyện ngắn nhƣ Vũ Thị Thƣờng, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Kim
10
Lân,... Về tiểu thuyết, đã xuất hiện tiểu loại có quy mô lớn toàn xã hội gồm nhiều sự
kiện, nhiều tuyến cốt truyện đan xen và hàng chục nhân vật có số phận, con đƣờng
khác nhau trong dòng chảy của lịch sử nhƣ: Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy
Tƣởng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Cửa biển (Nguyên Hồng),...
Thời kì này thể kí tuy không phát triển mạnh nhƣ thời kì trƣớc nhƣng cũng
để lại nhiều tác phẩm đặc sắc nhƣ tập Sông Đà của Nguyễn Tuân.
Nhìn chung, giai đoạn này đã hình thành đƣợc một số khuynh hƣớng rõ rệt,
những phong cách viết truyện và kí đặc sắc, thành công và có bƣớc tiến mới trong
xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. Truyện và kí đã có bƣớc phát triển
mạnh mẽ, toàn diện đặc biệt là sự mở rộng đề tài và phản ánh hiện thực đời sống
nhân dân. Có rất nhiều tác phẩm thành công với đề tài kháng chiến chống thực dân
Pháp: Một chuyện chép ở bệnh viện (Bùi Đức Ái), Đất nước đứng lên (Nguyên
Ngọc), Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), và nhiều tập truyện ngắn khác của các
nhà văn chiến sĩ nhƣ: Bùi Hiển, Nguyễn Kiên, Hữu Mai,.... Ngoài ra, nhiều tác
phẩm có sự trở lại với đề tài nông dân và lấy bối cảnh những năm 1935 – 1945, tiêu
biểu nhƣ: Tranh tối và tranh sáng, Đống rác cũ (Nguyễn Công Hoan), Mười năm
(Tô Hoài), Cửa biển (Nguyên Hồng),...
Truyện và kí trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ. Nhìn chung, truyện và kí
trong thời kì này đều phản ánh cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, hƣớng đến bảo
vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam giành độc lập và giải phóng đất nƣớc thể hiện
trong: tập truyện và kí Bức thư Cà Mau, Hòn đất (Anh Đức), Bông cẩm thạch, Chiếc
lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Nguyễn Thi - Nguyễn Ngọc Tấn với tập truyện kí
Người mẹ cầm súng và Ước mơ của đất, truyện ngắn và kí Trên quê hương những
anh hùng Điện Ngọc, tiểu thuyết Đất Quảng (Nguyễn Trung Thành),...
Khuynh hƣớng sử thi bao trùm trong truyện và kí thời kì chống đế quốc Mĩ
thể hiện ngay ở nhan đề: Rừng xà nu, Rừng U Minh, Dấu chân người lính, Hòn
Đất,... Đó là những con ngƣời sử thi ý thức về vị trí của mình, thấu đƣợc những
chân lí trong thời đại mình đang sống nhƣ lời cụ Mết trong Rừng xà nu (Nguyễn
Trung Thành): “Kẻ thù đã cầm súng, chúng ta phải cầm lấy giáo” hay câu thề “Còn
cái lai quần cũng đánh” của chị Út Tịch trong kí Người mẹ cầm súng của Nguyễn
11
Thi,...
Nhân vật trong truyện và kí ở giai đoạn này đều đƣợc đặt trong mối quan hệ
riêng chung, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã của chiến tranh để làm nổi bật lên
phẩm chất tốt đẹp của họ: cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng (Rừng xà nu – Nguyễn
Trung Thành), Út Tịch (Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi), Nguyễn Thị Hạnh
(Ước mơ của đất – Nguyễn Thi), Nguyễn Văn Trỗi (Sống như anh – Trần Đình
Vân), Nguyệt, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu),....
Chính khuynh hƣớng sử thi này đã tạo nên giọng điệu ngợi ca hào sảng,
trang trọng, sùng kính cho các tác phẩm thuộc thể truyện và kí trong văn học kháng
chiến chống Mĩ.
1.2. Nguyễn Thi và Truyện và kí của Nguyễn Thi
1.2.1. Tác giả Nguyễn Thi
Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca (bút danh khác là Nguyễn Ngọc
Tấn), sinh ngày 15/5/1928, mất ngày 24/5/1968. Quê ở xã Quần Phƣơng Thƣợng,
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Cha là Nguyễn Bội Quỳnh – một nhà giáo giàu
lòng yêu nƣớc. Mẹ là Thành Thị Du, là vợ hai của giáo Quỳnh. Bà Du vốn là một
ngƣời phụ nữ vừa có tài lại có sắc, lại rất đảm đang. Nguyễn Thi sinh ra trong một
gia đình nghèo, đói khổ và bệnh tật. Nỗi buồn khổ của một gia đình tan nát đã ám
ảnh ông suốt những tháng ngày thơ ấu. Khi gia đình sa sút, cuộc sống của hai mẹ
con Hoàng Ca rất vất vả lại nơm nớp lo sợ những đòn ghen tuông từ ngƣời vợ cả
của cha. Rồi cha mất, mẹ đi bƣớc nữa. Tuổi thơ của ông bắt đầu những tháng ngày
bất hạnh, có lúc phải tự kiếm sống nhƣ một đứa trẻ lang thang. Năm lên 9 tuổi, cậu
bé Hoàng Ca đã phải bắt đầu cuộc sống lƣu lạc, lúc bên ngoại khi bên nội, lúc lên
Hà Nội khi lại về Nam Định. Cuộc sống tự lập đầy khó khăn, chịu bao sự ghẻ lạnh,
hắt hủi đã tạo cho Nguyễn Ngọc Tấn vẻ bề ngoài lạnh lùng với nét mặt thƣờng
xuyên đăm chiêu. Cuộc đời Nguyễn Thi là chuỗi ngày đầy biến động, gian khổ. Từ
lúc còn nhỏ đến khi trƣởng thành ông phải gặp bao thử thách, chông gai nhƣng nhà
văn đều vƣợt qua và hoàn thành ƣớc muốn, sứ mệnh cầm bút của mình.
Năm 1943, ngƣời anh cùng cha khác mẹ định đƣa Tấn vào Sài Gòn ăn học
12
nhƣng ông đã tự đi làm rồi đi học vì không muốn làm gánh nặng cho anh mình. Lúc
này, Tấn bắt đầu bị thu hút bởi những trang sách văn học từ hiện thực đến lãng mạn,
từ Thâm Tâm đến Nam Cao,... Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tấn còn học cả ngoại
ngữ, nhạc, vẽ,...
Năm 17 tuổi, Nguyễn Hoàng Ca tham gia cách mạng, làm thơ, viết văn với
bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Nhƣng sau đó, ông phải theo gia đình về Nam Định, ở
đây Nguyễn Ngọc Tấn đã tham gia Trung đội lƣu động cảm tử Nguyễn Bình. Ông
trở thành Đảng viên chính thức và cũng là duy nhất của tiểu đoàn 901.
Tháng 12/1948, Nguyễn Ngọc Tấn đƣợc điều về làm cán bộ tuyên văn Ban chỉ
huy tiểu đoàn. Thời gian này ông vừa lo việc thông tin, làm bích báo, cổ động, viết
bài, làm thơ, vừa vẽ tranh cho Đoàn văn hóa kháng chiến. Tháng 1/1951, Nguyễn
Ngọc Tấn đƣợc nhận giải thƣởng Văn nghệ Cửu Long về sáng tác nhiều thể loại.
Năm 1954, Nguyễn Ngọc Tấn xây dựng gia đình với bà Bình Trang nhƣng
chỉ sống chung trong thời gian ngắn ngủi thì họ phải chia li mỗi ngƣời một nơi.
Tháng 12/1956, nhà văn đƣợc điều về tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ đây, Nguyễn
Ngọc Tấn mới chuyên tâm làm việc mình yêu thích. Tháng 5 năm 1962, Nguyễn
Ngọc Tấn xung phong vào Nam, đổi bút danh thành Nguyễn Thi (tên của con trai).
Năm 1963, Nguyễn Thi về Mĩ Tho nhƣng đƣợc một năm ông lại vào Bến Tre.
Tháng 5/1968, Nguyễn Thi theo một đơn vị pháo binh tham dự đợt Tổng tiến công
Mậu Thân đợi 2 và đã anh dũng hi sinh vào ngày 24/5/1968 (Theo xác định mới
nhất của Bảo tàng lực lƣợng Vũ trang miền Nam).
1.2.2. Qúa trình sáng tác
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Thi bắt đầu từ tập thơ Hương đồng nội vào
năm 1950 với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn gồm 20 bài. Tác phẩm là tiếng lòng của
con ngƣời tác giả khi bƣớc chập chững vào chặng đƣờng văn chƣơng mới đang tập
quan sát, miêu tả và tự thể hiện nên chƣa đƣợc đánh giá cao. Hầu hết những sáng
tác về thơ và truyện ngắn của anh là viết về những ngƣời tập kết, tâm tƣ, tình cảm
của ngƣời tập kết. Nhƣng cho đến nay Nguyễn Thi vẫn đƣợc ít ngƣời biết đến với tƣ
cách nhà thơ mà biết đến là một nhà văn tài năng. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và
13
trong thời gian này nhà văn mới cảm nhận đƣợc sự gắn bó sâu sắc của mình với
miền Nam. Trƣớc khi quay lại chiến trƣờng miền Nam, Nguyễn Ngọc Tấn đã sáng
tác hai tập truyện ngắn, mỗi tập gồm 7 truyện: Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962).
Tập truyện ngắn đã thể hiện những mảng đề tài khá quen thuộc lúc bấy giờ là tấm
lòng Bắc – Nam trong chia cắt, tình nghĩa quân dân giữa ngƣời dân miền Bắc cùng
bộ đội miền Nam đi tập kết và tội ác của bọn đế quốc Mĩ xâm lƣợc.
Sau hai chuyến vào năm 1963 và năm 1964 đi tìm hiểu lại chiến trƣờng, nhà
văn mới bắt đầu viết những tác phẩm đầu tiên ở giai đoạn mới. Sáng tác của
Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại phong phú: thơ, bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết,...
Hầu hết, truyện và kí viết trong thời kì chiến tranh của đồng bào miền Nam đƣợc
tập hợp trong cuốn: Truyện và kí gồm 11 tác phẩm trong đó có 1 tiểu thuyết, 4
truyện ngắn, 2 kí, 3 tùy bút và 1 ghi chép.
Bên cạnh đó, Nguyễn Thi cũng đang chuẩn bị tài liệu để cho ra đời hai cuốn
tiểu thuyết khác. Phần bản thảo còn lại đƣợc in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội
năm 1970 nhƣng đó chỉ là đề cƣơng ông viết lần đầu và chƣa có phần kết thúc.
Ngoài ra, ông cũng có rất nhiều tác phẩm đăng báo. Về thơ có các sáng tác
tiêu biểu: Áo mới, Thu tháng bảy, Em về mặc áo, Tặng một con người,... Truyện và
kí gồm: Trong xóm nhỏ (truyện ngắn), Chưa nói (truyện ngắn), Cha con (ghi chép),
Im lặng (truyện ngắn), Một cuộc tranh luận (truyện ngắn), Những ngày cuối năm
(bút kí), Những tên ngu dốt (bút kí), Trong rừng (bút kí), Tôi tập viết văn, Mùa
mưa, Một cuốn truyện tốt của Hoàng Văn Bổn,...
Sáng tác rất nhiều thể loại phong phú cho thấy đƣợc sức viết cũng nhƣ tài
năng của Nguyễn Thi. Các tác phẩm này đa số viết về đề tài chiến tranh, ngƣời chiến
sĩ Cách mạng,... Bởi lẽ trƣớc khi cầm bút ông đã cầm súng nên những gì nhà văn viết
đều rất chân thực. Bản thân ông cũng cho rằng cảm hứng sáng tác của mình là từ anh
em chiến sĩ. Một ngƣời bạn văn đã từng viết về ông: “Nguyễn Thi là nhà văn trƣởng
thành từ chiến đấu. Trƣớc khi cầm bút anh đã cầm súng. Anh mồ côi cha từ nhỏ, sớm
tham gia cách mạng. Cuộc sống tự lập, cuộc đấu tranh chịu đựng gạt bỏ những mất
mát riêng tƣ trong tình cảm để lăn vào cuộc chiến đấu đã làm cho anh sớm có một
14
bản lĩnh tạo ra một Nguyễn Thi, và sau này một phong cách Nguyễn Thi trong tác
phẩm của anh” [14;5]. Nhƣng những tác phẩm nổi bật nhất, xuất sắc nhất làm nên
phong cách nhà văn vẫn là các tác phẩm đƣợc in trong cuốn Truyện và kí.
1.2.3. Truyện và kí của Nguyễn Thi
Phần lớn những tác phẩm của Nguyễn Thi viết về miền Nam đƣợc tổng hợp
trong cuốn Truyện và kí in lần đầu vào năm 1969. Có thể khẳng định đây là một trong
những thành tựu xuất sắc của nền văn học kháng chiến miền Nam. Tập truyện bao
gồm 11 tác phẩm: Truyện ngắn Chuyện xóm tôi (1964), truyện ngắn Mùa xuân
(1964), tùy bút Đại hội anh hùng (1965), tùy bút Dòng kinh quê hương (1965), truyện
ngắn Những đứa con trong gia đình (1966), truyện ngắn Mẹ vắng nhà (1966), tùy bút
Những câu nói trong Đại hội (1967), kí Người mẹ cầm súng (1965), ghi chép Những
sự tích ghi ở đất thép, kí Ước mơ của đất và tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa.
Chuyện xóm tôi là truyện ngắn đầu tiên nhà văn lấy bút danh là Nguyễn Thi
để nhớ về ngƣời con trai đang xa. Tác phẩm viết về hai đứa trẻ Đực và Bỉnh nhà
cách nhau một bờ dừa trong một xóm nhỏ ở vùng Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Cả hai gia
đình đều có chung mối thâm thù: hai ngƣời đàn ông – cha của Bỉnh và Đực bị tổng
Phòng bắn chết cùng một ngày. Chị Hai của Bỉnh là một nữ du kích, ngƣời đã khơi
dậy khao khát làm cán bộ đi chiến đấu trong Bỉnh và Đực. Qua tác phẩm này,
Nguyễn Thi nhƣ muốn nhấn mạnh sức mạnh mà con ngƣời Việt Nam vùng dậy
chính là từ lòng căm thù, quyết tâm trả thù nhà, nợ nƣớc của ngƣời dân từ già đến
trẻ nhỏ.
Truyện ngắn Mùa xuân nhƣ tiếp nối của Chuyện xóm tôi với bối cảnh cũ
nhƣng lúc này những thanh niên trong xóm đã nô nức đi tòng quân. So với Chuyện
xóm tôi thì tác phẩm này có cái nhìn bao quát hơn về tình thế Cách mạng, về vai trò
và sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Đại hội anh hùng là tùy bút ghi chép về Đại hội mở ra ngày 2 tháng 5 năm
1965. Tác phẩm nêu rõ lòng quyết tâm, những chiến tích tuyệt đẹp, sự hi sinh cao cả
của các anh hùng: Trần Dƣỡng, Nguyễn Thị Út, Trừ Văn Thố, Pi Năng Tắc, Phạm
15
Văn Hai, Huỳnh Văn Đảnh,... Bên cạnh đó, ngƣời đọc còn thấy đƣợc sự chiến đấu
anh dũng, sự thông minh, dũng cảm cùng tinh thần đoàn kết của nhân dân ta đã làm
nên chiến thắng vang dội.
Tùy bút Dòng kinh quê hương kể về cuộc hành trình của tác giả khi trở lại
dòng kinh anh hùng từng chứng kiến, chịu đựng bao đau thƣơng mà giặc Mĩ gây ra.
Với sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, mỗi khúc của dòng kinh tác giả lại hồi
tƣởng về một khoảng thời gian trong quá khứ. Lần thứ nhất là khi giặc Mĩ mới đến
xâm lƣợc, chúng tàn sát biết bao nhiêu ngƣời, gieo rắc cả khi độc xuống hầm của trẻ
em và biết bao luận điệu phi nhân đạo của chúng. Lần thứ hai tác giả lại thấy đƣợc
thời kì có ánh sáng của Cách mạng, sự góp sức của nhân dân quyết tâm đánh đuổi
Mĩ - Ngụy. Cuối cùng là khi rời xa con kinh anh hùng là sức mạnh làm nên chiến
thắng từ bao đời của dân tộc Việt “nhân nghĩa bị xúc phạm thì nhân nghĩa lại mang
sức khởi quật ghê gớm”.
Đến năm 1966 với truyện ngắn Những đứa con trong gia đình đƣợc đƣa vào
chƣơng trình sách giáo khoa phổ thông hiện hành đã khẳng định đƣợc tài năng và
phong cách độc đáo của Nguyễn Thi. Truyện kể về hai chị em Chiến và Việt đại
diện cho thế hệ trẻ miền Nam trong cuộc chiến đấu với đế quốc Mĩ không cân sức.
Tác phẩm đƣợc Nguyễn Thi nhìn từ góc độ gia đình cùng những chi tiết chân thực,
cảm động (trƣớc ngày hai chị em lên đƣờng, khi Việt bị thƣơng phải nằm lại chiến
trƣờng, lúc khiêng bàn thờ ba má sang gửi chú Năm,...).
Mẹ vắng nhà là truyện ngắn đƣợc Nguyễn Thi viết vào tháng 6 năm 1966 sau
truyện kí Người mẹ cầm súng. Tác phẩm dựa trên những sinh hoạt, tính cách của
đám con chị Út Tịch nhằm giải thích thỏa những băn khoăn, thắc mắc trong lòng
độc giả là tại sao chị có thể yên tâm để các con ở nhà đi chiến đấu nhƣ vậy. Truyện
cho thấy những đứa trẻ đã đƣợc sống đầy ấm áp trong tất cả tình cảm, sự đùm bọc
của bà con lối xóm. Bên cạnh đó cũng thấy đƣợc ý thức căm thù, đánh đuổi giặc Mĩ
của đám con chị Út Tịch.
Tùy bút Những câu nói ghi trong Đại hội, ngƣời đọc cũng thấy đƣợc hình
ảnh những ngƣời anh hùng: Nguyễn Văn Trỗi, Võ Thị Sáu, Lê Thị Thanh, Huỳnh
16
Văn Tạo, chị Lịch,... Tác phẩm nêu rõ quá trình chiến đấu anh dũng, những chiến
công và nhiều câu nói quen thuộc của họ đã trở thành chân lí, phƣơng châm sống
cho cả nhân dân miền Nam.
Truyện kí tiêu biểu nhất trong tập này là Người mẹ cầm súng và Ước mơ của
đất. Người mẹ cầm súng có ngƣời gọi là truyện, có ngƣời nói là kí. Truyện viết dựa
trên nguyên mẫu có thật là chị Út Tịch nhƣng cũng chính là nhân vật điển hình cho
ngƣời dân Nam Bộ từ tính cách đến ý chí đánh giặc. Tác phẩm này đã đƣợc Hội
đồng Văn học nghệ thuật của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam trao giải
thƣởng văn học Nguyễn Đình Chiểu ngay từ khi mới ra đời.
Những sự tích ở đất thép là một ghi chép nhà văn viết tặng đồng chí Phạm
Văn Cội, dũng sĩ diệt Mỹ. Tác phẩm kể về mảnh đất Củ Chi với những con ngƣời
anh hùng. Phần I, ghi chép lại rất chi tiết về nhân vật Cần khi hoạt động kháng
chiến, từ khi bắt gặp Cách mạng đến khi trở thành một chiến sĩ bất khuất, chiến đấu
không ngừng nghỉ. Phần II là câu chuyện kể về cô gái tên Gần “điệu cổ một thằng
Mỹ sống nhăn, băng qua cánh đồng làng Hạ” [16;221].
Ước mơ của đất là tập kí kể về cuộc đời nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh từ
khi đi tìm cách mạng đến khi chị trở thành cán bộ. Cô gái đất Ba Dừa mạnh mẽ đã
vƣợt qua bao tình huống ngặt nghèo, gian khổ để móc nối, tổ chức các cuộc phá ấp
chiến lƣợc vào những năm năm mƣơi. Cũng vì khi đang viết tập này mà Nguyễn
Thi đã không tham gia đƣợc đợt I cuộc Tổng tiến công Mậu Thân.
Tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa lấy bối cảnh vào những năm sau Hiệp định
Geneve – thời kì Cách mạng miền Nam ở trong tình thế gay go nhất. Nguyễn Thi đã
chọn tình huống đắt giá nhất để đặt các nhân vật vào thử thách, những cuộc đụng
độ. Thời kì này lực lƣợng kháng chiến phần lớn đã tập kết ra Bắc, một bộ phận còn
lại thì rút vào bí mật. Dù tác phẩm mới chỉ ở dạng bản thảo, chƣa hoàn thành nhƣng
ngƣời đọc không thể phủ nhận Nguyễn Thi - một “tiểu thuyết gia” đầy tài năng và
hứa hẹn ở tƣơng lai.
Có thể thấy, các tác phẩm trong tập Truyện và kí đều viết về nhân dân Nam
Bộ trong cuộc kháng chiến trƣờng kì chống Mĩ cứu nƣớc. Từ đau thƣơng mà con
17
ngƣời nơi đây phải gánh chịu đến những tháng ngày kiên cƣờng chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc; từ trẻ em, phụ nữ đến ngƣời già đều trở thành anh hùng dân tộc. Các tác
phẩm đều toát lên đƣợc tinh thần yêu nƣớc mãnh liệt của đồng bào miền Nam nói
riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung. Đồng thời tập Truyện và kí cũng là những
trang văn miêu tả hành động, ngôn ngữ nhân vật rất sâu sắc của Nguyễn Thi.
Truyện và kí của Nguyễn Thi là bản tố cáo đanh thép chế độ Mĩ Ngụy dã
man, những hiện thực đời sống ngƣời dân Nam Bộ đầy đau thƣơng. Ngợi ca những
con ngƣời bất khuất, dũng cảm đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Những trang viết của nhà
văn đã góp phần tạo nên nét độc đáo, mang đến một hƣơng sắc riêng cho nền văn
18
học kháng chiến nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung.
Chƣơng 2
BỨC TRANH HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI NAM BỘ TRONG
TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI
2.1. Bức tranh hiện thực đời sống Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi
2.1.1. Hiện thực đời sống trên chiến trường
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến tranh ở nƣớc ta chấm dứt bằng Hiệp
định Geneve. Quân Pháp rút về nƣớc và miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Nhƣng với
âm mƣu xâm lƣợc Việt Nam từ lâu, đế quốc Mĩ đã nhân cơ hội này quyết tâm biến
nƣớc ta thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt hai miền. Dân tộc ta lại phải trải qua một
cuộc đấu tranh để giành độc lập. Với hoàn cảnh lịch sử nhƣ vậy, văn học giai đoạn
này cũng buộc là một phƣơng tiện chiến đấu, phản ánh chính xác, đầy đủ hiện thực
đồng thời cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Thời kì này đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị thể hiện sâu sắc bức tranh hiện
thực trong chiến tranh: Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Rừng xà nu
(Nguyễn Trung Thành), Hòn Đất (Anh Đức), Con đường xuyên rừng (Lê Văn
Thảo),... Hầu hết các nhà văn đều từng là những ngƣời lính trên chiến trƣờng miền
Nam vừa cầm súng vừa cầm bút nên tái hiện rất đầy đủ và chân thực về tội ác của
giặc Mĩ cũng nhƣ số phận của đồng bào ta đã trải qua. Cùng với thế hệ các nhà văn
đó, Nguyễn Thi dù sinh ra ở miền Bắc nhƣng gần nhƣ cả cuộc đời ông đều dành tình
cảm cho miền Nam ruột thịt. Hiện thực trong sáng tác của ông đều là những hiện thực
nhà văn từng trông thấy, cảm thấy và trải nghiệm. Chính thực tế đó đã tạo ra những
trang văn chân thực, giản dị mà tinh tế. Nó đƣợc bứt phá từ trái tim đầy yêu thƣơng
mãnh liệt dù hiện thực ấy có đắng cay, u ám hay hạnh phúc ngập tràn.
Đọc Truyện và kí độc giả có thể cảm nhận đƣợc hiện thực đời sống con
ngƣời Nam Bộ trong thời kì đó, hiện thực đầy đắng cay, gian khổ mà ngƣời dân
vùng sông nƣớc đã trải qua để giành đƣợc tự do.
Nguyễn Thi đã mở ra một bối cảnh đầy bom đạn mà giặc Mĩ đã gieo rắc
19
xuống cho nhân dân miền Nam ở hầu hết các tác phẩm: Chuyện xóm tôi, Dòng kinh
quê hương, Những sự tích ghi ở đất thép,... nhƣ: “Máy bay Mĩ bắn xối xả vào xóm”,
“lƣợn suốt ngày”, “chúng gấp rút cho từng đàn máy bay đi thả hết ngàn tấn bom này
đến ngàn tấn bom khác. Từ các hải cảng ở Nhật, Phi-lip-pin... chúng đem vào miền
Nam ta hàng sứ đoàn lính Mỹ, hàng trăm tàu chiến, máy bay, chúng lén ra miền Bắc
ném bom bừa bãi [16;47].
Ở Những sự tích ở đất thép thì “máy bay giặc đánh đu ở trên sông, chúng
rình bắn bất kì cái gì khác với nƣớc” [16;191]. Bao nhiêu hố bom mới cũ kín cả lối
đi, nhiều khi còn có cả “những miểng pháo nằm trong nồi canh” [16;194].
Chỉ điểm vài câu trong mỗi tác phẩm nhƣng Nguyễn Thi đã cho ngƣời đọc
thấy đƣợc sự dã man, đầy tội ác của Mĩ – Ngụy. Cũng giống Nguyễn Trung Thành
viết trong Rừng xà nu, ngay ở đầu tác phẩm: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn
giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều,
hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” [10;51].
Nếu nhƣ Nguyễn Trung Thành viết về vùng cao Tây Nguyên thì Nguyễn Thi
lại viết về vùng đồng bằng Nam Bộ. Nếu ở Rừng xà nu chúng nó bắn đã thành lệ thì
với không gian, thời gian rộng hơn Truyện và kí, chúng nó bắn nhiều hơn, bắn bất
cứ khi nào khiến ngƣời dân khốn khổ hơn, không kịp chạy vào hầm. Cả hai nhà văn
đều không sử dụng những từ ngữ đau thƣơng nhƣ Tây Tiến (Quang Dũng) nhƣng
ngƣời đọc vẫn hình dung đƣợc bức tranh hiện thực đầy tàn nhẫn trong chiến tranh.
Ngay cả những ngày Tết “máy bay trực thăng ngày đôi ba cữ đến trả thù, đánh nhau
với du kích” [16;26]. Cuộc sống của ngƣời dân Nam Bộ nói riêng và đồng bào miền
Nam nói chung trong suốt hơn 20 năm bị xâm lƣợc không lúc nào không chịu cảnh
loạn lạc.
Hết ném bom, chúng lùng từng nhà bắt cộng sản với chủ trƣơng “thà giết
nhầm còn hơn bỏ sót”. Nhƣng cũng không làm mất đi ý chí chiến đấu giành độc lập
của dân ta. Chính những đau thƣơng, bị áp bức đó lại càng dậy lên sức mạnh quyết
tâm chiến thắng. Dù là cuộc chiến không cân sức nhƣng “trƣớc khó sau quen”, nhân
20
dân Nam Bộ luôn mang trong mình ngọn lửa chiến đấu, đánh đuổi lũ xâm lƣợc. Nhà
văn đã khắc họa thành công bức tranh đời sống nhân dân trong chiến tranh chân
thực, tinh tế.
Những ngày đầu, lực lƣợng của ta chƣa đủ mạnh nên cán bộ, bộ đội phải ở
ẩn trong rừng cùng sự tiếp tế, hỗ trợ của nhân dân đợi thời cơ chiến đấu. Nhƣng
trong Truyện và kí, Nguyễn Thi đặc biệt tập trung đến sự chiến đấu kiên cƣờng của
nhân dân miền Nam.
“Tổ du kích phối hợp với du kích toàn xã đánh giặc tới tấp. Mỹ vào cũng
diệt, Mỹ co lại thì lôi ra mà đánh. Đánh với tất cả nghị lực và trí thông minh của
ngƣời phụ nữ Việt Nam vì nƣớc, vì chồng, vì con, vì cuộc đời cơ cực mà cầm súng”
[16;112]. Khi đã chịu quá nhiều cơ cực, uất ức thì điều hiển nhiên là vùng dậy đòi
công bằng, tự do dù con đƣờng đó không hề dễ dàng, đầy hiểm nguy, cái chết có thể
đến bất cứ lúc nào. Những ngƣời làm Cách mạng chúng bắt đƣợc thì đƣa đi tù, thậm
chí tra tấn dã man, tàn khốc. Anh Chẩn - chồng chị Nguyễn Thị Hạnh trong Ước mơ
của đất: “Hồi anh vƣợt ngục ở Biên Hòa, giặc bắt đƣợc, chúng đóng cọc vào tay
anh, phơi nắng bảy ngày” [16;270]. Đọc Truyện và kí có thể thấy đƣợc toàn bộ quá
trình đồng bào miền Nam chống Mĩ. Cách mạng bắt đầu hoạt động thì giặc Mĩ siết
chặt ngƣời dân dùng súng, thép gai quây lại để dễ cai trị. Những nơi không lùa
đƣợc, chúng chà xát, cấu xé, cán bộ cũng phải lánh ra bƣng. Khi không có ngƣời,
không bắt đƣợc cộng sản, chúng bắn xung quanh, tàn phá từ những thứ nhỏ nhất
“những cành cây bị bom Mỹ phạt rụng đang phơi thân khẳng khiu dầy đặc trên mặt
nƣớc”, “những đàn cá lòng tong nhƣ những chiếc lá chết, nằm phơi bụng trắng bập
bều trôi theo” [16;49]. Ở tùy bút Dòng kinh quê hương, nhà văn khắc họa chân thực
những hành động dã man của giặc Mĩ khi chúng lùa khí độc xuống hầm trẻ em. Với
ngôn ngữ đanh thép, Nguyễn Thi đã cho thấy hiện thực mà đồng bào ta phải chịu
đựng trong chiến tranh. Trong cuốn tiểu thuyết duy nhất, dù chỉ 3 chƣơng, tác giả
cũng chƣa kịp đặt tên nhƣng ngƣời đọc vẫn có thể cảm nhận đƣợc kết thúc tác phẩm
sẽ là “một cuộc đồng khởi long trời lở đất” ở xã Trung Nghĩa. Cuốn tiểu thuyết này
mang tính khái quát cho toàn bộ miền Nam đồng thời sẽ kéo theo sự sụp đổ âm mƣu
Bắc tiến của Mĩ – Ngụy ở Sài Gòn; là tiền đề mở ra cuộc chiến tranh nhân dân phát
21
triển đến đỉnh cao và đƣa đến ngày toàn thắng.
Bức tranh hiện thực đời sống ngƣời dân Nam Bộ đƣợc Nguyễn Thi miêu tả
đầy đủ, chân thực trong Truyện và kí với những tội ác của đế quốc Mĩ đồng thời
thấy đƣợc tinh thần chiến đấu quật cƣờng của nhân dân. Trong bức tranh hiện thực
đầy đau thƣơng đó, Nguyễn Thi đã tô điểm bằng những chiến công hào hùng của
ngƣời dân miệt bƣng biền ngập nƣớc. Đó là ánh mắt vui sƣớng, “mừng húm” khi
bắt đƣợc thằng Mĩ. Đó là tình huống dở khóc dở cƣời khi “thằng Mỹ nhƣ không còn
đủ sức đứng nữa, khuỵu đầu gối xuống đất cái huỵch, khóc rống lên” [16;227]. Đó
là những ngƣời lính muốn bỏ trốn khỏi chiến tranh đến xin tiền ngƣời dân. Điều này
cho thấy một khía cạnh khác trên chiến trƣờng là không phải ngƣời lính Mĩ nào
cũng ác, cũng muốn tham gia xâm lƣợc nƣớc ta và chúng rất “ham sống sợ chết”.
Ở hai tác phẩm kí Người mẹ cầm súng và Ước mơ của đất tác giả đã miêu tả
chi tiết từ những ngày đầu kháng chiến đến ngày toàn thắng trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ – Ngụy. Trong hai tác phẩm đó nói riêng và Truyện và kí nói chung, bên
cạnh bức tranh hiện thực đời sống đầy đau thƣơng, hào hùng còn có cuộc sống đời
thƣờng vừa giản dị vừa chân thực.
2.1.2. Hiện thực cuộc sống đời thường
Nếu nhƣ ở Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu chỉ tập trung miêu tả
khung cảnh rộng lớn và hào hùng trong chiến tranh, tinh thần dũng cảm, gan dạ của
thế hệ trẻ: Lữ, Khuê, Cận,... trong cuộc kháng chiến trƣờng kì thì đến với Truyện và
kí của Nguyễn Thi, độc giả không chỉ thấy đƣợc bức tranh đời sống trên chiến
trƣờng mà còn thấy đƣợc cuộc sống đời thƣờng khó khăn, đau thƣơng nhƣng tràn
ngập tình cảm, tinh thần đoàn kết.
Đó là những tháng ngày ngắn ngủi bọn giặc “nhịn ăn giữ hang”, cuộc sống
của ngƣời dân mới có chút yên bình: “Hàng so đũa ven lộ bắt đầu đâm tƣợc. Mía
cũng nảy lá non. Những cây thuốc non nằm thu gọn dƣới bóng của những chiếc nón
lá đa, núp nắng. Gà con gây giống kêu chiêm chiếp dƣới hàng rào bông bụt. Trƣờng
học mới đang lợp, nắng còn rọi vào lƣng áo trắng của cô giáo ngồi giảng bài. Trẻ
con ngồi ê a và tự hình dung một cách rất nhạy rằng chữ ơ giống hệt trái lựu đạn”
22
[16;28]. Nguyễn Du đã từng ví: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Ngƣời buồn cảnh
có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều). Ở đây, Nguyễn Thi cũng ví cảnh mang tâm
trạng của con ngƣời. Trong những ngày tháng ngắn ngủi, giặc yên, con ngƣời nhƣ
“đâm tƣợc”, “nảy lá non”,... Điều này cho thấy sự khao khát của nhân dân đƣợc
sống những tháng ngày thanh bình. Những năm tháng tự do, sống yên bình với
chính mình.
Đó còn là bức tranh về những đứa trẻ vui đùa ở nhà, tự chơi với nhau để ba
mẹ yên tâm đi đánh giặc trong truyện ngắn Mẹ vắng nhà, Người mẹ cầm súng. Thực
tế những đứa trẻ trong hai tác phẩm này đều là một, là con của chị Út Tịch. Chúng
mang dòng máu anh hùng của mẹ, chí khí của cha, tự ý thức đƣợc hiện thực lúc bấy
giờ phải diệt hết bọn Mĩ xâm lƣợc. Chúng mang sự quyết tâm đó qua các trò chơi
hàng ngày, qua những con chữ ê a học nói:
“Tờ im tim huyền tìm Mỹ mà diệt... Diệt Mỹ ngụy” [16;96].
Nhƣng đó chỉ là những ngày ngắn ngủi bọn Mĩ ngụy “ở ẩn”. Ngoài ra,
Nguyễn Thi còn vẽ ra bức tranh cuộc sống đầy thiếu thốn, đau thƣơng mà đồng bào
miền Nam phải gánh chịu, chiến đấu gian khổ, giành độc lập. Xã Tam Ngãi: “Năm
đó, 1959, Tam Ngãi nghèo lắm, đất đai chui dần vào những bọn nhƣ Hàm Giỏi...
Tam Ngãi đói. Khoai tháng bảy cũng không đủ ăn. Nhà không còn hột gạo”
[16;142]. Đó không chỉ là cuộc sống đói khổ của Tam Ngãi mà là của cả đồng bằng
Nam Bộ, cả đồng bào miền Nam. Lũ giặc Mĩ siết chặt cả đồng bằng lẫn vùng núi.
“Cả một vùng rộng lớn thiếu muối. Sáu ngàn ngƣời thèm muối, sáu ngàn ngƣời cả
ngƣời già, trẻ con suốt ba năm trời nhịn muối” [16;41]. Muối là thứ gia vị không thể
thiếu của nhân dân thời xƣa mà chúng cấm không cho dùng suốt bao năm. Đây là
một tội ác không thể tha thứ.
Nhƣng không chỉ dừng lại ở sự áp bức về vật chất, chúng còn rải chất độc
màu da cam khiến ngày nay vẫn bao gia đình phải gánh hậu quả của nó. Chất độc
màu da cam – cái tên mà bất kì ai nghe thấy cũng phải rợn ngƣời. Chất độc màu da
cam thực chất là một thứ thuốc diệt cỏ mà quân Mĩ sử dụng trong chiến tranh bấy
giờ. Có rất nhiều nhân chứng sống ghi lại những “sản phẩm” vô lƣơng tâm mà lũ
23
xâm lƣợc gieo rắc cho con ngƣời. Năm 1960, bà Nguyễn Thị Ngọc Phƣợng là hộ
sinh cho những đứa trẻ Sài Gòn. Năm 1968, bà đã chứng kiến một hài nhi không có
óc và xƣơng sống. Sau đó, bà liên tục đỡ ra những đứa bé dị dạng, không tay, không
chân, không mắt,... Trƣờng hợp khác là bà Đào Thị Kiều – một nông dân ở Biên
Hòa có khu ruộng bị giặc Mĩ rải thuốc diệt cỏ. Bà sinh đƣợc tám đứa con thì đến
bảy đứa bị dị tật bẩm sinh và năm ngƣời đã chết yểu. Trong thời kì đó, bọn Mĩ
Ngụy rải đơn tuyên truyền rằng thuốc diệt cỏ “tuyệt nhiên không gây độc hại cho
ngƣời, vật cũng nhƣ nƣớc uống, hít phải hàng ngày cũng không sao”. Đây cũng là
một sự hạn chế của ngƣời dân Việt Nam do thiếu sự hiểu biết và ít ngƣời biết chữ
lúc bấy giờ nên đã tin vào luận điệu xảo trá của lũ xâm lƣợc. Trong Dòng kinh quê
hương, Nguyễn Thi cũng lấy chính nhận xét của nhà văn lớn Mĩ để cho thấy những
luận điệu man rợ: “Có một con lạc đà ăn đƣợc cả mảnh chì lẫn mảnh chai một cách
bình thƣờng nhƣng khi ăn lầm phải một mảnh báo Mỹ thì bỗng lăn đùng ra chết”
[16;51]. Những luận điệu man rợ, giả dối của chúng còn kinh khủng hơn những
mảnh chì, mảnh chai độc, sắc bình thƣờng. Điều này càng nhấn mạnh lên sự vô
nhân đạo của đế quốc Mĩ. Ngoài ra, đồng bào ta còn phải sống những tháng ngày
thiếu thốn, chịu nhiều mất mát, những ngƣời phụ nữ chúng bắt đƣợc thì hãm hiếp,
làm nhục,...
Dù đời sống đầy thiếu thốn, khó khăn, giặc Mĩ dùng mọi cách để dụ dân
nhƣng cũng không thể lay chuyển đƣợc ý chí, tinh thần chiến đấu của họ. Mảnh đất
đó đã chai cứng nhƣ chính tinh thần của ngƣời dân Nam Bộ nói riêng và dân tộc
Việt Nam nói chung.
Tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa cũng cho thấy cuộc sống đời thƣờng của xã
Trung Nghĩa khi Cách mạng đang ở tình thế gay go nhất. Nhà văn lấy cảm hứng, ý
tƣởng, tổng hợp chất liệu văn học từ hai vùng đất Mĩ Tho và Bến Tre. Từ diễn biến
hiện thực ở hai khu trù mật: Long Trung và Thành Thới, Nguyễn Thi đã xây dựng
nên một khu trù mật điển hình của xã Trung Nghĩa điển hình. Tác phẩm viết về
những năm sau Hiệp định Geneve là bƣớc ngoặt quan trọng của Đảng và Cách
mạng. Ở miền Nam lúc này, đế quốc Mĩ đã lợi dụng sự thất bại của thực dân Pháp
24
để nhảy vào, đƣa tập đoàn phản động Ngô Đình Diệm lên nắm quyền. Chúng tập
trung tiêu diệt phong trào Cách mạng Việt Nam, chia cắt hai miền nƣớc ta và biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Vì vậy, nhân dân miền Nam cùng sự tiếp tế
của miền Bắc tiếp tục đấu tranh chống lại đế quốc Mĩ và lũ tay sai. Ngay ở những
trang đầu tiên đã thấy đƣợc tính chất căng thẳng, đối đầu giữa nhân dân với bọn tay
sai và sự thay đổi ở xã Trung Nghĩa khi đế quốc Mĩ chiếm đóng: “Nếu nhƣ hồi
Pháp thì ngƣời ta gọi nó là nhà việc, nhƣng từ ngày trào chính phủ quốc gia lên coi
quyền làng, nó đƣợc đặt lên lại là nhà công sở.... Trƣớc đây, trong miếu Bà, đầu cá
vốn đƣợc đặt đúng cách hai bên xà hai con nhìn xuống giữa bái đƣờng, giờ con kia
đâu mất, chỉ còn một con này đƣợc xây dựng lại, tùy tiện đến mức hàm cá thì ngửa
lên trên, râu cá uốn ngƣợc xuống dƣới, một con mắt bị cái gì đâm lũng trông đau
khổ nhƣ vừa bị trúng đạn” [16;381]. Miếu là một công trình kiến trúc văn hóa thờ
thánh thần, là tín ngƣỡng bao đời nay của dân tộc ta, là một nơi yên tĩnh và thiêng
liêng, đại diện cho cả vùng, cả con ngƣời nơi đây. Nhƣng, từ khi bọn xâm lƣợc đến,
miếu trở nên lố bịch, biến dạng, không còn đƣợc tôn thờ nhƣ đúng nghĩa của nó.
Điều này đã cho thấy đƣợc sự tàn phá, đối nghịch trong cuộc sống, phong tục của
ngƣời dân Việt Nam trƣớc và sau khi bị xâm lƣợc. Chính đó đã cho thấy đƣợc hiện
thực ngột ngạt, bất công của ngƣời dân xã Trung Nghĩa cũng nhƣ nhân dân miền
Nam trong những ngày đầu đế quốc Mĩ xâm lƣợc.
Nhƣng trên chiến trƣờng hay cuộc sống đời thƣờng ta vẫn thấy đƣợc niềm
tin, sự lạc quan của ngƣời dân trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là những tiếng cƣời,
những câu chuyện đùa xua đi áp lực, đau thƣơng của chiến tranh nhƣ trong Những
sự tích ở đất thép:
- “Chị suôi ăn cơm nhẹn rồi đi nghe!
- Anh suôi cứ đánh đi. Chị suôi ăn cơm xong chị suôi sẽ kêu” [16;231].
Anh suôi, chị suôi là cách để gọi thông gia giữa hai gia đình. Cách xƣng hô
thân mật này đã diễn tả chân thực đƣợc tinh thần lạc quan, bất khuất của con ngƣời
trong kháng chiến.
Trong những tháng năm bị xâm lƣợc, chỉ vài giây phút hạnh phúc ngắn ngủi
25
nhƣng cũng đủ tiếp thêm sức mạnh cho họ trên con đƣờng quyết chiến, quyết thắng.
Chính những tháng ngày chịu áp bức đã thôi thúc những lớp thanh niên cầm súng ra
chiến trƣờng. Từ thế hệ cha mẹ nhƣ chị Út Tịch, chị Nguyễn Thị Hạnh,... đến Nga,
Chỉnh, chị Hai, chị Chiến, Việt,.... và cả những cậu bé Đực, Bỉnh, con Bé, thằng
Hiển,... đều mang trong mình khát vọng chiến đấu giành tự do. Ngƣời ngƣời lớp lớp
đều quyết tâm đánh đuổi bọn xâm lƣợc và lũ tay sai bán nƣớc.
Có thể thấy Truyện và kí của Nguyễn Thi chính là một bản án tố cáo đanh
thép những tội ác của thực dân Mĩ đã gây ra cho nhân dân miền Nam. Đồng thời,
qua tập truyện độc giả cũng thấy đƣợc hiện thực đau thƣơng và chiến đấu hào hùng,
anh dũng của đồng bào miền Nam. Tất cả những hiện thực đó đều đƣợc vun đắp bởi
con ngƣời Nam Bộ, bởi ngƣời dân miền Nam kiên cƣờng, bất khuất. Những con
ngƣời đó đƣợc Nguyễn Thi miêu tả vừa ẩn chứa vẻ dịu dàng, tình cảm trong cuộc
sống đời thƣờng vừa mang vẻ hiên ngang, quyết liệt trong kháng chiến.
2.2. Con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi
2.2.1. Con người Nam Bộ trong chiến trường
Hầu hết các tác phẩm viết về chiến tranh đều khắc họa rất chân thực ngƣời
chiến sĩ trên chiến trƣờng. Đó là Kinh, Lữ, Nhẫn, Lƣợng, Khuê, Xiêm,... trong Dấu
chân người lính của Nguyễn Minh Châu trên chiến dịch tại mặt trận Khe Sanh.
Khuê là một chiến sĩ cần vụ nhạy bén, khéo léo, thông minh và là cấp dƣới của cán
bộ Kinh – một chính ủy đầy hoạt bát, đức độ, lí tƣởng, đặc biệt quan tâm tới cấp
dƣới, giàu tình cảm. Nhẫn là một trung đoàn trƣởng của trung đoàn 5, là con ngƣời
nghiêm khắc nhƣng thanh lịch do xuất thân là tiểu tƣ sản và từng đƣợc rèn luyện
khắc khổ. Anh là cấp trên của Lƣợng – đại đội trƣởng bên đại đội trinh sát. Lƣợng
có dáng vẻ cao lớn, vụng về, cứng nhắc, nghiêm nghị. Trong những lần đi tìm hiểu
tình hình địch, anh nảy sinh tình cảm với Xiêm – một ngƣời phụ nữ có chồng theo
hàng ngũ của địch. Nhƣng vì chiến tranh, vì bổn phận ngƣời chiến sĩ tình cảm ấy
cũng chỉ là kỉ niệm trong hồi ức. Mọi ngƣời làm việc cùng nhau, mỗi ngƣời mang
một tính cách riêng nhƣng giữa họ đều mang trong mình lòng nhiệt huyết tràn trề,
sự chiến đấu kiên cƣờng và có niềm tin mãnh liệt vào cuộc kháng chiến trƣờng kì.
Hay đó là cụ Mết, anh Quyết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng trong Rừng xà nu của Nguyễn
26
Trung Thành...
Nhƣng điều đặc biệt trong Truyện và kí của Nguyễn Thi là nhà văn chỉ tập
trung làm nổi bật hình ảnh ngƣời phụ nữ anh hùng Nam Bộ, những ngƣời phụ nữ
chân yếu tay mềm nhƣng khi bƣớc vào cuộc chiến họ rất anh dũng, kiên cƣờng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nƣớc. Đó là
một truyền thống quý báu của dân tộc ta”. Dù vậy, truyền thống anh hùng Bà
Trƣng, Bà Triệu của ta chƣa bao giờ đƣợc bộc lộ rõ nhất trong cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mĩ này. Ta có thể bắt gặp những ngƣời anh hùng đƣợc lấy từ nguyên
mẫu có thực: chị Út Tịch, chị Nguyễn Thị Hạnh,... Đó cũng là những ngƣời “không
ai nhớ mặt đặt tên” chiến đấu đến giây phút cuối cùng để bảo vệ đồng bào mình. Họ
đều là những ngƣời nông dân chất phác, hiền lành nhƣng bƣớc vào cuộc chiến họ
trở nên mạnh mẽ, hiên ngang, luôn giữ vững ý chí của mình. Đây chính là những
ngƣời phụ nữ điển hình cho con ngƣời Nam Bộ, cho đồng bào miền Nam và cả dân
tộc Việt Nam.
Trong tiểu thuyết Hòn Đất, nhà văn Anh Đức đã đúc kết từ nguyên mẫu
ngƣời con gái miền Nam – chị Sứ. Chị là ngƣời mang nhiều đức tính cao quý, sẵn
sàng hi sinh vì sự sống của đồng đội, vì lí tƣởng mà suốt đời chị theo đuổi.
Trong Truyện và kí, trƣớc hết Nguyễn Thi đã khắc họa đƣợc vẻ đẹp thông
minh của con ngƣời Nam Bộ trong kháng chiến. Trong chiến tranh, đặc biệt là
kháng chiến chống Mĩ – một cuộc chiến không cân sức thì sự thông minh là một
trong những yếu tố quan trọng nhất. Từ chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng đến
Hạnh trong Ước mơ của đất đều vì cực khổ quá mà tìm đến Cách mạng. Khi đến
đƣợc với Cách mạng thì họ luôn là những ngƣời phụ nữ thông minh, sắc sảo, quyết
chiến với địch. Khi bọn lính tới nhà lùng anh Hai là cán bộ kháng chiến, chị Út mua
rƣợu, mua gà sang nhà bên cạnh, dụ nó sang đó. Chị hiểu đƣợc bọn lính, thằng nào
cũng nhƣ thằng nào nên rất dễ dụ. Nhờ chị mang rƣợu đến dụ lũ giặc nên quân ta đã
lấy đƣợc một bót giặc. Dịp khác, hai lần chị không rải đƣợc truyền đơn, suýt bị giặc
bắn, chị đã nghĩ ngay đến “phải nhờ dân”. Bà mẹ sáu con chân thật mang bụng bầu
kể cho bà con chuyện đánh Mĩ, chuyện dân ta cực khổ, bị áp bức trong ấp chiến
27
lƣợc,... Và “sáng hôm sau, bọn giặc ở Cầu Kè thấy truyền đơn xuất hiện trắng trên
con đƣờng phía cầu sắt. Chúng không hiểu nổi Giải phóng quân đã vô đây võ trang
tuyên truyền từ lúc nào” [16;167].
Cô gái tên Gần ở vùng đất Củ Chi trong Những sự tích ở đất thép dù nhỏ bé
nhƣng “điệu cổ” đƣợc cả thằng Mĩ “sống nhăn”, băng qua cánh đồng làng Hạ. Hình
ảnh này khiến ta nhớ đến cô o du kích nhỏ trong bài thơ Tấm ảnh của Tố Hữu: “O
du kích nhỏ giƣơng cao súng/ Thằng Mĩ lênh khênh bƣớc cúi đầu/ Ra thế! To gan
hơn béo bụng/ Anh hùng đâu cứ phải mày râu”.
Từ hình ảnh đối lập giữa nữ chiến sĩ với thằng Mĩ to cao đã cho thấy đƣợc sự
can trƣờng, dũng cảm của nhân dân ta. Cô o du kích đó cũng nhƣ đại diện cho nhân
dân Việt Nam ta tuy bé nhỏ nhƣng vẫn chiến thắng bọn Mĩ xâm lƣợc nhờ sự gan dạ,
anh dũng.
Những con ngƣời Nam Bộ đó còn rất gan dạ, bất khuất quyết chiến đến cùng.
Phẩm chất này cũng xuất phát từ điều kiện địa lí đã có từ ngàn năm. Trƣớc đây,
Nam Bộ chỉ là vùng đất rừng rậm, hoang vu, tràn ngập thú dữ, bốn bề quạnh hiu.
Bởi thế mới có ca dao rằng: “Tới đây xứ sở lạ lùng/ Chim kêu cũng sợ, cá vùng
cũng ghê”. Không chỉ gặp những cảnh tƣợng lạ lùng mà con ngƣời còn luôn bị rình
rập bởi thú rừng nhƣ: “Cà Mau khỉ khọt trên bƣng/ Dƣới sông sấu lội, trên rừng cọp
um”, “Chèo ghe sợ sấu cắn chƣn/ Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma”,...
Thiên nhiên hoang vu, bí ẩn, đầy hiểm nguy, không còn cách nào con ngƣời
buộc phải sống, chống chọi với nó. Vì vậy, đây là mảnh đất của những ngƣời gan
dạ. Miền Tây Nam Bộ cũng là mảnh đất lƣu đày và nổi dậy cuối cùng của đất nƣớc,
sơn thủy tận cùng. Nếu không đủ nghị lực để sống ở đây thì đâm đầu xuống biển
Thái Bình Dƣơng mà chết hoặc là phải cố bám trụ, đấu tranh mà sống. Chính nhờ
đặc điểm thiên nhiên nhƣ vậy đã tạo ra con ngƣời Nam Bộ biết chấp nhận nguy
hiểm, luôn có sức sống ngang tàng, một tính cách nghĩa khí, chí khí hiên ngang.
Tính cách đó đã có từ thuở khai hoang nên khi chiến tranh xảy ra sức sống đó lại
vùng lên mãnh liệt.
Con còn nhỏ, lại bụng mang dạ chửa chị Út Tịch vẫn cầm súng ra chiến
28
trƣờng. Ngay ở tiêu đề phần VII cũng thấy đƣợc sự gan dạ, ý chí chiến đấu của chị:
“Có ai đánh giặc mà chờ sanh xong mới đánh”[16;148]. Đến việc sinh con chị cũng
đặt sau nhiệm vụ chiến đấu đã cho thấy đƣợc sự gan lì, quả cảm của chị Út Tịch.
Khi cận kề bót giặc, dù tay không chị cũng không hề sợ hãi, chị bắn một phát “một
thằng chết nhảy dựng, Út lại la: Nó “lâm thôn” rồi! Đánh tới anh em ơi!” [16;149].
Cái giọng kiên định đó đã tạo nên khí thế cho dân ta vùng dậy, cái giọng khiến cả
bọn giặc hoảng sợ. Hôm đó, chị Út đã mang về cho quân ta một bao đạn. Trong
cuộc chiến không cân sức này sự gan dạ, dũng cảm là điều không thể thiếu và đó
cũng chính là yếu tố quan trọng để dẫn đến sự toàn thắng. Từ nhỏ đến lớn, dù trong
bất kì hoàn cảnh khó khăn nào ngƣời nữ anh hùng đều tìm mọi cách để hoạt động
cách mạng và can đảm vƣợt qua: “Bị giặc lùng bắt, út bồng đứa con mới đẻ lƣu lạc
lên Sa Đéc. Ở đó, chị lại móc đƣợc với cơ sở nội tuyến, đi tìm anh em mình vô phá
cầu, lấy bót Cai Châu” [16;136]. Đó là phẩm chất kiên cƣờng, bất khuất của con
ngƣời anh hùng chiến đấu hết mình vì dân tộc. Dù bị giặc lùng bắt, mới sinh con,
phải bồng đứa nhỏ đi chạy trốn nhƣng chị vẫn không đầu hàng trƣớc số phận. Mang
trong mình những phẩm chất anh hùng bất diệt của cách mạng, chính những con
ngƣời Nam Bộ bình dị đã đánh bại kẻ thù tàn bạo nhƣ Tám Thế, Quận Hùm và lũ
tay sai bán nƣớc,....
Bên cạnh đó còn có những cô gái không trực tiếp cầm súng chiến đấu, họ
chọn con đƣờng ở sau chiến trƣờng làm y tá, chăm sóc cho bộ đội bị thƣơng. Khi
đọc Nhật kí Đặng Thùy Trâm, độc giả có thể hình dung đƣợc công việc của các bác
sĩ, y tá trên chiến trƣờng. Họ là những con ngƣời chăm sóc tận tình, đem lại niềm
vui cho các chiến sĩ và luôn hi sinh một cách thầm lặng. Ở Truyện và kí ta cũng bắt
hình ảnh cô gái Bƣng trong Những sự tích ở đất thép không xin đƣợc đi chiến đấu,
cô học làm y tá thể hiện tài năng, tình cảm của mình: “Cô chạy thăm anh này, hỏi
anh kia, rằng vết đau này không cần phải đi quân y, bệnh kia chỉ uống cái gì đó là
hết ngay tức khắc” [16;196].
Trong tùy bút Đại hội anh hùng, Những câu nói ghi trong Đại hội, Nguyễn
Thi đã ghi chép lại rất chân thực hình ảnh ngƣời chiến sĩ hào hùng trong kháng
29
chiến. Ngƣời anh hùng Trần Dƣỡng hai mƣơi ngày nằm dƣới cát nghĩ cách đánh
cho dân ta đến mức gió Lào thổi, anh nhƣ bị nung. Ngƣời anh hùng Trừ Văn Thố
lấy thân lao vào bịt lỗ châu mai khi trận đánh diễn ra hết sức gay go. Ở vùng núi cao
có anh hùng Pi Năng Tắc làm cầu nối giữa ngƣời dân với Cách mạng, bày cho dân
cách làm bẫy đánh giặc. Họ chính là Đảng, là Cách mạng, là đại diện cho cả dân
tộc, là hạt nhân của cả sáu ngàn ngƣời anh hùng. Họ chấp nhận hi sinh để đồng đội,
đồng bào, đất nƣớc mình đƣợc độc lập.
Trong chiến tranh, cái chết là điều không tránh khỏi. Có biết bao ngƣời đã
anh dũng hi sinh, quyết tâm giành tự do cho dân tộc. Họ là những anh hùng đƣợc
sinh ra từ chân lí, lẽ phải, đại diện cho dân tộc chống lại, đánh đuổi bọn xâm lƣợc.
Cậu bé Việt trong Những đứa con trong gia đình, dù chƣa đủ tuổi vẫn xung phong
đi kháng chiến. Khi bị thƣơng, phải nằm lại ở chiến trƣờng Việt vẫn quyết chiến
đấu đến phút cuối cùng, tự nhủ lòng mình: “Việt còn đây! Việt sẽ tới phụ các anh!
Việt chộp súng, lên đạn. Cả mƣời ngón tay không ngón nào còn lên nổi, Việt ghé
răng, giựt mạnh cơ bẩm. Một viên đạn đã lên nòng....” [16;65].
Anh Nguyễn Văn Quang luôn nhắc đi nhắc lại câu nói “Chết! Chết đứng
thẳng còn hơn sống quỳ”. Trong một trận đấu một mình anh với cây đại liên, xung
quanh là giặc Mĩ. Dù ngƣời đồng đội thân thiết nhất đã hi sinh nhƣng anh đã giấu
nỗi đau đó vào trong, bằng tất cả lòng căm thù, một tay xách cây đại liên nòng, tay
kia xách thùng đạn, trên lƣng cõng thêm thùng nữa, hông thêm cây súng, vĩnh biệt
đồng đội, anh “một mình một mũi”. Tất cả các hình ảnh con ngƣời trên chiến trƣờng
đó đã cho thấy đƣợc sự kiên cƣờng, bất khuất của những con ngƣời Nam Bộ nói
riêng và đồng bào miền Nam nói chung đã mang về những chiến công, giành lấy
độc lập cho dân tộc.
Chính nhờ những ngƣời dân, những con ngƣời Nam Bộ hiền lành, chất phác
vì áp bức mà vùng lên chiến đấu là yếu tố then chốt quyết định sự thắng lợi của
cuộc kháng chiến trƣờng kì, giải phóng miền Nam.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, ngƣời dân đặc biệt là ngƣời phụ nữ buộc phải
mạnh mẽ, chiến đấu quyết liệt bằng tất cả sự gan góc, bản lĩnh của dòng máu Nam
Bộ, của đồng bào miền Nam nhƣng trong họ vẫn mang những nét đời thƣờng, chân
30
thật nhất.
2.2.2. Con người Nam Bộ trong cuộc sống đời thường
Rời khỏi cuộc chiến đấu, đồng bào miền Nam lại trở về với con ngƣời đời
thƣờng, với những gì chất phác, mộc mạc nhất. Bên cạnh hình ảnh con ngƣời đầy
dũng cảm, gan dạ trên chiến trƣờng, Truyện và kí của Nguyễn Thi còn khắc họa
thành công hình ảnh con ngƣời Nam Bộ trong cuộc sống bình dị hàng ngày.
Trong tác phẩm của Nguyễn Thi, đa số những ngƣời đàn ông trụ cột gia đình
đều bị giặc Mĩ sát hại để lại gánh nặng lên đôi vai ngƣời phụ nữ. Vốn sinh ra ở vùng
đất đầy thiếu thốn, khó khăn nên con ngƣời Nam Bộ luôn sống bình dị, đoàn kết
giúp đỡ nhau, đảm đang, lo toan mọi việc đặc biệt là ngƣời phụ nữ nhƣ: chị Út Tịch
(Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi), chị Chiến (Những đứa con trong gia đình –
Nguyễn Thi), chị Sứ (Hòn Đất – Anh Đức),... Chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn Đất của
Anh Đức, trên chiến trƣờng chị vô cùng kiên định, gan dạ, bất khuất nhƣng khi rời
bỏ súng đạn chị lại là ngƣời mẹ trung hậu, đảm đang, lo toan từng chút cho con.
Trong Truyện và kí, độc giả cũng có thể bắt gặp hình ảnh những ngƣời phụ nữ đảm
đang nhƣ trong tác phẩm: Mùa xuân, Ước mơ của đất, Người mẹ cầm súng,....
Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình ta cũng thấy má Việt, chị Chiến
biết thu gọn việc nhà, lo toan mọi việc để đi chiến đấu. Chị tính toán, thu vén từ
việc gửi bàn thờ ba má để có ngƣời hƣơng khói đến cả ngôi nhà nhƣờng lại làm
trƣờng học,... Ở họ mang đầy đủ những phẩm chất của con ngƣời Nam Bộ. Ngƣời
phụ nữ hết lòng yêu thƣơng chồng con phải chứng kiến chồng mình bị chặt đầu,
chịu đựng bao đau thƣơng nhƣng vẫn vƣợt qua để nuôi đàn con khôn lớn. Ngƣời mẹ
đó đối mặt với họng súng giặc để che chở cho đàn con khiến bọn chúng cũng phải
run sợ trƣớc đôi mắt ấy. Đó còn là ngƣời con gái mang tên Chiến thay mẹ thu vén
mọi việc trong gia đình. Theo dòng hồi tƣởng của Việt, trƣớc khi ra chiến trƣờng,
chị tính toán sắp xếp việc nhà từ bàn thờ ba má đến nồi niêu, bát đũa,... khiến chú
Năm cũng phải thốt lên: “Khôn! Việc nhà nó thu đƣợc gọn thì việc nƣớc nó mở
đƣợc rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nƣớc non” [16;80].
Bên cạnh má Việt, chị Chiến còn có hình ảnh chị Nguyễn Thị Hạnh trong
31
truyện kí Ước mơ của đất. Chị kiên nhẫn từng bƣớc đi tìm Đảng, đi tìm Cách mạng.
Ngày nào chị cũng đi vận động bà con, cắt rào gai thép của giặc, tiếp tế cán bộ
nhƣng “Hạnh vẫn săn sóc căn nhà nhỏ của mình ở vƣờn cũ. Nếu anh Chẩn về thì
anh ấy sẽ thấy nhƣ Hạnh vẫn còn ở nhà. Giặc phá Hạnh sửa lại” [16;293]. Ngƣời
phụ nữ ấy vừa lo vẹn việc nhà vừa làm tròn việc nƣớc, không quên trách nhiệm
ngƣời vợ của mình.
Con ngƣời trong Truyện và kí còn rất trọng tình, trọng nghĩa – một phẩm
chất điển hình của ngƣời dân Nam Bộ. Nếu ngƣời dân Bắc Bộ luôn sống trong môi
trƣờng làng xã mang tính khép kín, sống ổn định, thân quen thì ngƣời Nam Bộ lại toàn
dân tứ xứ, không quen biết, đùm bọc lẫn nhau nên tình cảm của họ không chỉ có tình
mà còn có nghĩa. Nó trở thành nét tính cách điển hình của con ngƣời nơi đây.
Trọng tình, trọng nghĩa đi sâu vào nếp văn hóa Nam Bộ. Dù họ không thân
quen nhƣng khi tắt lửa tối đèn cần giúp đỡ thì họ vẫn sẵn sàng. Trong làng xóm ai
cất nhà, cƣới xin, ma chay thì mỗi ngƣời đều chung tay giúp đỡ, tƣơng thân tƣơng
ái, đùm bọc lẫn nhau. Khi đất nƣớc xảy ra chiến tranh, phẩm chất ấy lại đƣợc trỗi
lên mãnh liệt. Trong truyện kí Người mẹ cầm súng, dù ba mẹ luôn vắng nhà nhƣng
những đứa con chị Út Tịch vẫn sống hạnh phúc trong sự đùm bọc của bà con lối
xóm: “Nhân dân Tam Ngãi cũng có một thói quen. Dù là Ngãi Nhứt, Ngọc Hồ
nhiều vƣờn hay Bƣng Lớn nhiều lúa, dù là bà con Kinh hay ngƣời Khơ Me, dù là
các mẹ chiến sĩ hay các cô gái trong đội văn nghệ, tất cả đều làm một việc giống
nhau: giúp đỡ gia đình chị Út” [16;156]. Những đứa con của chị dù đang ở đâu,
đang làm gì bất chợt có tiếng súng thì không ai bảo ai cũng kéo chúng vào hầm
mình. Ra chợ, ngƣời này cho cái nọ, ngƣời khác cho cái kia nhƣ con cháu của mình.
Ngƣời dân Nam Bộ luôn trọng tình nghĩa coi nhẹ vật chất, dù nghèo khổ đến đâu thì
vẫn giúp đỡ ngƣời khác. Ngƣời dân Nam Bộ luôn trọng tình nghĩa coi nhẹ vật chất,
dù nghèo khổ đến đâu vẫn cố hết sức giúp đỡ ngƣời khác.
Trong tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa, nhà văn cũng đã khắc họa rất chân thực
hình ảnh ngƣời nông dân trong những năm đầu kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
Nguyễn Thi đã đặt nhân vật vào thử thách, những cuộc đụng độ qua đối thoại giữa
32
ông Tƣ Trầm và tên đại diện Hiếm. Ở thời kì đầu cuộc kháng chiến, ngƣời nông dân
chƣa thể đánh bại bọn xâm lƣợc và lũ tay sai. Ngƣời dân luôn cảm thấy bất an về
một tai họa nhƣ “nghìn cân treo sợi tóc” khi những nhu cầu thiết yếu: cơm ăn áo
mặc và sự giao lƣu tối thiểu đang dần bị tƣớc đoạt. Ở tác phẩm, chỉ duy nhất một
lần Nguyễn Thi nhắc đến cảm giác sung sƣớng. Những câu văn đầy sức gợi cảm,
chắc nịch, nhà văn đã đƣa ngƣời đọc trở lại đề tài vấn đề ruộng đất của ngƣời nông
dân là quan trọng nhất. Trong cuộc kháng chiến trƣờng kì của dân tộc, bên cạnh sự
chiến đấu về quyền lợi của dân tộc còn có mồ mả của cha ông, nhà cửa bao đời,
ruộng đất là hạnh phúc của ngƣời dân Nam Bộ: “Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi
cho nƣớc nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó” (Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu). Việc chia lại ruộng đất cho dân cày chính là đem
lại cho họ sự sống. Khi Ba Sồi, Bảy Kiệt cấu kết với cảnh sát Âu, đại diện Hiếm
cƣớp ruộng đất của ngƣời nông dân thì cũng có nghĩa đã đẩy họ vào cuộc sống buộc
phải cầm súng đứng lên. Ở đây bọn chính quyền là đại diện cho giặc Mĩ xâm lƣợc,
khi đã áp bức, dồn ép ngƣời nông dân vào bƣớc đƣờng cùng thì việc họ đấu tranh
đòi lại công bằng, công lí là điều tất yếu.
Trong Truyện và kí, sâu sắc nhất vẫn là tình cảm với gia đình, quê hƣơng và
đất nƣớc của con ngƣời Nam Bộ. Tình cảm ấy đặc biệt thể hiện trong hai tác phẩm
truyện kí: Ước mơ của đất và Người mẹ cầm súng. Chị Út Tịch trong Người mẹ cầm
súng vốn là một cố nông, từ nhỏ đã đi ở đợ, chịu nhiều cay đắng, hành hạ. Chị đến
với Cách mạng bằng cả trái tim, bằng tất cả những gì chân thật nhất. Năm 14 tuổi,
chị đã đòi đi bộ đội. Không đƣợc làm bộ đội chị đi trinh sát cho quân ta. Với một
đứa bé ốm tong teo thì phải có lòng yêu nƣớc sâu sắc mới dám làm nhƣ vậy. Và cứ
nhƣ thế, chị đến với Cách mạng nhƣ loài hoa hƣớng dƣơng gặp ánh nắng mặt trời.
Trong mọi hoàn cảnh, chị vẫn kiên định “cách mạng không ở đâu xa, ở ngay trong
lòng mình” và “Út giữ chặt lòng mình với cách mạng”.
Lòng yêu nƣớc nhƣ đã ngấm sâu vào dòng máu con ngƣời Nam Bộ và chị Út
chính là đại diện. Khi cầm súng chị mang hết những gì gan góc, mãnh liệt vào cuộc
chiến. Nhƣng khi trở về với đàn con, chị lại là ngƣời mẹ dịu hiền, tình cảm hết sức
33
đằm thắm. Chị dạy đứa con gái lớn ở nhà lo việc nhà, chăm em để chị yên tâm chiến
đấu. Ở bên con, chị quên hết mọi nhọc nhằn, quên hết những giây phút đối mặt với sự
sống và cái chết. Đây chính là phẩm chất đặc biệt của ngƣời phụ nữ miền Nam. Cùng
là đồng đội trinh sát trên chiến trƣờng nhƣng chị vẫn một mình lo việc nhà để chồng
không phải bận tâm. Nhà hết gạo, chị định nhắn anh Tịch về cuốc mƣớn ít hôm để
mua gạo cho con nhƣng chị lại thôi vì sợ ảnh hƣởng đến công việc của chồng. Chỉ
với đức tính ấy, chị Út Tịch đã đại diện cho ngƣời phụ nữ Nam Bộ, ngƣời phụ nữ
Việt Nam chịu thƣơng chịu khó, đảm đang, lo toan mọi việc của gia đình.
Trong trận đánh bót Tám Thế, phải dùng mĩ nhân kế, dù chồng chị vui lòng
nhƣng “Mình hy sinh thân mình đƣợc rồi, nhƣng anh ấy là chồng... Làm sao xẻ
đƣợc nỗi đau lòng ấy của anh để Út xin gánh chịu một mình?” [16;145]. Đúng là
một ngƣời nặng tình với chồng, biết suy nghĩ chí tình, hợp lí. Nhƣng khi cả hai vợ
chồng đã đặt cả tâm hồn với Đảng, tiếng nói mạnh mẽ của Cách mạng cất lên thì đã
tiếp sức cho họ chiến đấu hết mình vì Tổ quốc.
Trong cuộc chiến, con ngƣời đƣợc đặt trong mối quan hệ giữa gia đình và
việc nƣớc. Ngƣời chiến thắng là biết hòa hợp giữa các mối quan hệ đó và chị Út
Tịch là tiêu biểu. Chị vừa hoàn thành tốt việc nhà vừa đảm nhiệm đƣợc công việc
chung của đất nƣớc. Đôi khi ngƣời phụ nữ Út Tịch cũng phải gác việc nhà để lo
việc nƣớc nhƣng với chị chỉ khi đất nƣớc độc lập thì gia đình mới hạnh phúc. Mặt
khác, ở cuộc chiến, chị cũng coi chồng nhƣ là một đồng chí, một ngƣời bạn chiến
đấu bình đẳng, thân thiết đúng với tất cả ý nghĩa của nó. Qua đó, cũng đã làm nổi
bật lên những phẩm chất cao quý của con ngƣời vùng bƣng biền ngập nƣớc, sự
dung hòa nó trên cả chiến trƣờng và trong cuộc sống đời thƣờng.
Nhƣ vậy, bức tranh hiện thực và con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của
Nguyễn Thi chủ yếu đƣợc khắc họa trên hai phƣơng diện: chiến trƣờng và cuộc
sống đời thƣờng. Ở Truyện và kí, tác giả đã tái hiện hiện thực trong chiến tranh hết
sức chân thật. Nhà văn mở ra một bối cảnh đầy bom đạn, nhân dân phải chịu bao
đau thƣơng, gánh những hậu quả đế quốc Mĩ gây ra. Nhƣng chính từ những thƣơng
đau đó, đồng bào ta đã “đánh với tất cả nghị lực và trí thông minh” để giành độc
34
lập. Bên cạnh đó, Nguyễn Thi cũng đan xen hiện thực trong cuộc sống hàng ngày
của ngƣời dân Nam Bộ nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những giây phút
hạnh phúc ngắn ngủi, những nụ cƣời trẻ thơ càng làm nổi bật lên khát vọng dân chủ,
tự do của dân tộc. Tập Truyện và kí chính là một bản án tố cáo tội ác của đế quốc
Mĩ đồng thời độc giả cũng cảm nhận đƣợc vẻ đẹp của con ngƣời Nam Bộ vừa dịu
dàng đằm thắm trong cuộc sống đời thƣờng vừa gan dạ, anh dũng trên mặt trận.
Bƣớc vào cuộc chiến, họ đều mang theo sự thông minh, sắc sảo, dũng cảm chiến
đấu đến cùng nhƣng khi trở về cuộc sống hàng ngày những con ngƣời ấy vẫn lo
toan vẹn toàn cho gia đình, trọng tình trọng nghĩa đặc biệt là có lòng yêu nƣớc tha
thiết. Qua đó, ngƣời đọc cũng thấy đƣợc phong cách độc đáo, chân thực mang đậm
35
dấu ấn Nam Bộ của Nguyễn Thi.
Chƣơng 3
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN VÀ KÍ NGUYỄN THI
3.1. Không gian, thời gian nghệ thuật
3.1.1. Không gian nghệ thuật
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên: “Không gian là khoảng
không bao la trùm lên tất cả sự vật, hiện tƣợng xung quanh đời sống con ngƣời”.
Lại có ý kiến khác cho rằng: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của
hình tƣợng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [5;160]. Có thể thấy, không
gian nghệ thuật đƣợc tác giả xây dựng dựa trên không gian có thực và đó chính là
những quan niệm về không gian sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Nhà văn sẽ tùy
vào từng hoàn cảnh để thể hiện không gian khác nhau qua ngôn từ để ngƣời đọc
thấy đƣợc cái nhìn của họ. Tóm lại, không gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại
của hình tƣợng nghệ thuật. Đó là không gian tồn tại, không gian sinh hoạt của nhân
vật, là bối cảnh mà nhân vật bộc lộ tính cách, suy nghĩ, hành động,...
Không gian trong Truyện và kí của Nguyễn Thi là không gian rộng ở vùng
Nam Bộ, trong đó mỗi tác phẩm là không gian một làng xã cụ thể. Không gian trong
Người mẹ cầm súng là ở xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Ở ghi chép
Những sự tích ở đất thép Nguyễn Thi viết về mảnh đất Củ Chi đầy máu lửa. Truyện
ngắn Chuyện xóm tôi lại viết về vùng Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Hay đó là không gian
ở xã Trung Nghĩa trong tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa.... Tất cả đều đƣợc khắc họa
từ một không gian gia đình nhỏ hẹp đến không gian của chiến trƣờng rộng lớn, từ
cụ thể mở ra trừu tƣợng, từ không gian một làng một xã dũng cảm, kiên cƣờng mở
ra một miền đất nƣớc hiên ngang, bất khuất.
Trong Truyện và kí, Nguyễn Thi chỉ điểm chút miêu tả không gian cảnh vật
nhƣng cũng đã thấy đƣợc sự tinh tế, tài hoa của tác giả. Đó là không gian hiện thực
đƣợc nhà văn miêu tả chân thực trong những ngày nhân dân miền Nam chịu ách đô
hộ. Qua không gian nghệ thuật, nhà văn thể hiện những tâm tƣ, nguyện vọng giành
36
độc lập của nhân vật cũng nhƣ cả đồng bào miền Nam.
Mỗi mảnh đất đều là sự kiên cƣờng, anh dũng của con ngƣời nơi đó. Nhiều
khi mảnh đất hay những vật vô tri vô giác cũng chính là sự tƣợng trƣng cho hình
ảnh con ngƣời. “Có những con đƣờng địa đạo dài từ hồi chín năm bây giờ vẫn còn
nguyên. Đất ở đó đã chai cứng, mƣời mấy mùa mƣa đã phủ lên mặt nó một lớp rêu
xanh nhƣ màu lá” [16;206]. Đó là không gian hiện thực của xã Bến, của quận Củ
Chi đầy máu lửa. Mảnh đất đã chịu nhiều đau thƣơng, chịu mƣời mấy mùa áp bức,
cay đắng, chịu bao bom đạn của bọn Mĩ – Ngụy đã thành chai sạn. Nhƣng họ không
chịu đầu hàng mà vùng lên, vƣơn lên mạnh mẽ. Hay khi nói đến cái chết của mọi
ngƣời trong xóm, những cái chết đầy dã man, oan khuất nhƣng những bà mẹ phải
gƣợng dậy, tiếp tục nuôi đàn con, đánh giặc trả thù nhà nợ nƣớc và nghĩ về cuộc
sống tự do của thế hệ sau: “Từ hƣớng bót Rạch Dầu, một đốm lửa nhỏ hắt lên trời,
dần dần lan thành một vầng sáng đỏ rực, thấy rõ cả đƣờng viền răng cƣa của những
tảng mây đen” [16;20-21]. Nhà văn đã dùng không gian cảnh vật để khắc họa con
ngƣời, thể hiện niềm tin của nhân dân ở tƣơng lai.
Không gian trong Truyện và kí có khi trải rộng theo không gian biển cả.
Trong Ước mơ của đất, những tháng ngày anh Chẩn cùng bao chiến sĩ, cán bộ, đồng
bào ta bị giam hãm “Biển ầm ầm sóng đánh, đêm ngày gào thét chung quanh một
miếng đất choi loi toàn rừng và núi đá” [16;331]. Nhƣng không gian trong văn học
không chỉ thể hiện trực tiếp tâm trạng, suy nghĩ, hành động,... của nhân vật mà còn
thông qua sự đối lập của không gian để hƣớng ngƣời đọc tìm hiểu, khai thác nội
dung tác phẩm. Điều này đƣợc thể hiện ngay ở những trang đầu của tiểu thuyết Ở xã
Trung Nghĩa nhà văn đã mở ra không gian nhà công sở của xã. Với sự thay đổi lố
bịch, vô lí của nhà công sở đã mở ra cho độc giả thấy đƣợc sự mâu thuẫn, đối lập
của hiện thực và con ngƣời nơi đây. Đọc hết tác phẩm có thể thấy đƣợc đó chính là
sự đối lập của những ngƣời nông dân với bọn mang danh nghĩa chính quyền, giữa
ông Tƣ Trầm với lão đại diện Hiếm,...
Nhƣ vậy, dù chỉ điểm chút về không gian nghệ thuật nhƣng ngƣời đọc
cũng đã thấy đƣợc tài năng của Nguyễn Thi, phong cách của một nhà văn đậm
37
chất Nam Bộ.
3.1.2. Thời gian nghệ thuật
Đi liền với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật. Có ý kiến cho
rằng: “Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật. Nó thể hiện
phƣơng thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu nhƣ thế giới thực tồn
tại trong thời gian thì thế giới nghệ thuật cũng tồn tại trong thời gian nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật là thời gian mang tính quan niệm và cá nhân. Mỗi tác giả có
một cách cảm nhận khác nhau về thời gian để thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình”.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình
tƣợng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng nhƣ không gian nghệ thuật,
sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm
nhất định trong thời gian. Và cái đƣợc trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời
gian đƣợc biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp hai yếu tố thời gian này tạo
thành thời gian nghệ thuật, một hình tƣợng ƣớc lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật”
[5;322].
Thời gian trong Truyện và kí chủ yếu là thời gian tuyến tính và thời gian hồi
tƣởng. Thời gian tuyến tính đƣợc thể hiện trong các tác phẩm: Mùa xuân, Ước mơ
của đất, Mẹ vắng nhà. Ước mơ của đất là truyện kí viết về cuộc đời chị Nguyễn Thị
Hạnh. Tác phẩm viết theo trình tự thời gian từ khi chị Hạnh lấy chồng đến từng
bƣớc chị tham gia Cách mạng và lập chiến công. Với kiểu thời gian này ngƣời đọc
sẽ dễ dàng theo dõi, tập trung, cuốn hút theo từng chặng đƣờng, từng giai đoạn mà
nhân vật trải qua.
Thời gian hồi tƣởng chứa đựng cả ba thời: quá khứ, hiện tại và tƣơng lai đan
xen lẫn nhau. Ở truyện ngắn Chuyện xóm tôi, mở đầu tác giả hồi tƣởng về Bỉnh và
Đực. Chúng lớn dần theo lòng căm thù giặc và ƣớc muốn tham gia chiến đấu. Từ
hiện tại đó, Nguyễn Thi lại đƣa về quá khứ “Bốn năm về trƣớc....” với sự tàn ác dã
man của bọn Tổng Phòng đã giết cha của Bỉnh và Đực. Từ quá khứ lại quay trở về
hiện tại Bỉnh, Đực đòi đi đánh giặc nhƣ chị Hai nó và hƣớng đến tƣơng lai tƣơi
sáng, đầy tiếng cƣời “dội vào không gian”. Với tùy bút Dòng kinh quê hương,
38
Nguyễn Thi lại đƣa ngƣời đọc từ hiện tại nhân vật trở lại dòng kinh xanh biếc quay
về ngày giặc Mĩ từng tàn phá con ngƣời, làng xóm và cả dòng kinh này. Thời gian
đa chiều từ hiện tại – quá khứ - hiện tại đan xen đã tạo nên sự hấp dẫn, không gây
nhàm chán đối với một tùy bút.
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình cũng đƣợc viết theo dòng thời
gian hồi tƣởng của nhân vật Việt. Từ hiện tại, nhà văn đã xâm nhập vào hồi ức nhân
vật, khơi dậy những mạch ngầm quá khứ với những kỉ niệm về má, chị Chiến, chú
Năm,... Nhờ kiểu thời gian này mà câu chuyện trở nên tự nhiên, hấp dẫn ngƣời đọc
và bộc lộ đƣợc đời sống tâm hồn nhân vật mang đậm màu sắc Nam Bộ. Mở đầu tập
truyện kí Người mẹ cầm súng cũng bằng dòng hồi tƣởng: “Tại xã Tam Ngãi, huyện
Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh có một ngƣời đàn bà đã sáu con tên là Nguyễn Thị Út...”
[16;129]. Và tiếp đó, hàng loạt sự kiện nối tiếp diễn ra từ khi chị còn nhỏ đi ở đợ, bị
ngƣời ta hành hạ đến khi tham gia Cách mạng, trở thành bà mẹ sáu con anh hùng.
Với kiểu thời gian này đã đem đến nét đặc sắc nghệ thuật cho tác phẩm, lôi cuốn
ngƣời đọc vào những sự kiện, biến cố của nhân vật.
Ngoài ra, tác phẩm còn đan xen thời gian tâm trạng của tác giả tạo nên tính
chân thực, truyền cảm cho tác phẩm.
Kiểu thời gian hồi tƣởng từ hiện tại trở về quá khứ, độc giả có thể bắt gặp rất
nhiều trong văn học Cách mạng. Quá khứ chiến tranh đầy ác liệt, thƣơng đau vẫn
còn đọng lại ở ngƣời còn sống. Nhƣng chính sự hi sinh, mất mát đã qua khơi dậy
lòng yêu nƣớc bao đời vẫn chảy trong huyết mạch dân tộc. Trong tác phẩm Rừng xà
nu (Nguyễn Trung Thành), hiện tại giặc vẫn tấn công đầy ác liệt nhƣng dân làng giờ
đã có vũ khí, có chiến lƣợc, có Đảng,... Từ hiện tại quay về quá khứ, về những ngày
đầu tiên bọn Mĩ Diệm đến rừng xà nu. Dân làng không có súng, cán bộ chỉ có anh
Quyết. Đó là những tháng ngày với cái chết của Mai, của những ngƣời tiếp tế cho
cán bộ và nguyên nhân dẫn đến bàn tay cụt của Tnú. Cũng sử dụng thời gian hồi
tƣởng, Nguyễn Thi đƣa ngƣời đọc từ hiện tại chiến đấu anh dũng về quá khứ khổ
đau của nhân dân khi chƣa có Cách mạng, chƣa có Đảng soi đƣờng. Nhƣng mỗi nhà
văn lại mang trong mình một phong cách riêng tạo nên sự khác biệt, độc đáo cho
39
“những đứa con tinh thần” của mình.
3.2. Giọng điệu
3.2.1. Giọng điệu đa thanh
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trƣờng
tƣ tƣởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tƣợng đƣợc miêu tả thể hiện trong lời
văn quy định cách xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa
gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,...” [5;134]. Giọng
điệu cũng chính là nơi nhà văn bộc lộ rõ nhất phong cách sáng tác của mình, thậm
chí là của cả một giai đoạn văn học. Đa thanh là lời văn đa giọng điệu trong phát
ngôn của nhà văn hoặc của nhân vật. Trong trần thuật có sự pha trộn của nhiều
giọng đƣợc gọi là giọng điệu đa thanh.
Với tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa nhà văn sử dụng rất nhiều giọng điệu khác
nhau: giọng khách quan của một thể loại tự sự hiện đại, giọng giễu nhại, giọng trắc
ẩn,... Ngay ở những trang mở đầu nhà văn đã dùng giọng giễu nhại để miêu tả trụ sở
làm việc của chính quyền: “Nó nằm lấp ló đằng sau cái bót dân vệ có phòng tuyến
ba góc, trông vừa đỏm dáng, vừa hãnh diện, giống hệt cái đuôi ròng ròng” [16;381].
Giọng điệu này còn thể hiện thói đạo đức giả của lão đại diện Hiếm, học đòi nhƣng
nhiều khi “phép lịch sự không thắng nổi cái du côn gác chợ” của tên cảnh sát Âu,
miêu tả Ba Kì với thói ăn phàm thứ “gà què ăn quẩn cối xay” và “hễ thấy hơi đồng
thì mê” của vợ chồng Ba Sồi. Nguyễn Thi sử dụng giọng điệu này khiến độc giả có
thể nhận ra nhân vật thù địch trong tác phẩm của mình. Nhƣng khi miêu tả ngƣời
nông dân, nhà văn lại sử dụng giọng điệu xót xa, trắc ẩn thấm nhuần từ lời dẫn
chuyện đến sự thể hiện ngoại hình, tâm trạng, tình cảm. Khi đứng trƣớc nguy cơ bị
cƣớp ruộng thì tâm trạng vợ chồng ông Tƣ Trầm đầy đau xót, u ám. Đó là khi chỉ có
hai vợ chồng già cô quạnh, đơn côi cùng tâm trạng nặng nề trong đêm sâu chỉ có
“vầng trăng đỏ tía”, “có tiếng chó sủa”, “tiếng gõ mõ”,...
Trong những đoạn văn miêu tả cảnh bọn chính quyền ập vào nhà chị Hai
Khê “bắt quả tang” gia đình bảng đen là nhà chị và bà Tƣ đi lại với nhau, tác giả sử
dụng hai chủ âm: giọng châm biếm và cảm phục, trân trọng. Giọng châm biếm để
40
vạch trần sự vụng trộm, rình mò khi bọn địch mới “ngoi ra từ một nơi không đứng
đắn gì” [16;432]. Và nhà văn dùng giọng cảm phục đối với nghĩa khí của ngƣời
nông dân. Trƣớc sự bắt quả tang, tra hỏi của lão đại diện, bà Tƣ vẫn bình tĩnh chống
lại “thủng thẳng vấn lại mái tóc”, “nhìn ra ngoài, đôi mắt lạnh lẽo, nhƣ muốn nói:
Ngƣời tao đây, ăn đi!” [16;433] và “thản nhiên ngồi chờ những hình phạt đến với
mình” [16;435].
Nguyễn Thi cũng sử dụng sự kết hợp giữa hai giọng điệu trong chƣơng 3 khi
ngƣời dân xã Trung Nghĩa đi làm ở khu trù mật. Nhà văn dùng giọng điệu khinh bạc
để miêu tả lũ tham ăn, vô học mà lại nắm quyền hành; giọng hài hƣớc để vẽ ra các
câu chuyện dân gian vui nhộn của Ba Lung; giọng giễu cợt, mỉa mai khi nhắc đến
buổi lễ khánh thành của con đƣờng đi đến khu trù mật “Trẻ con hết dám ra cầu ngồi
ỉa vì sợ chết chẹt. Ngƣời đã ít đi lại càng ít đi hơn. Đàn bà đi chợ bây giờ hoàn toàn đi
bằng xuồng. Thỉnh thoảng ngƣời ta lại gặp những ngƣời đàn ông mặc áo ni-lông bỏ ra
ngoài quần, hoặc những ả con gáo tóc chải tổ chim, móng tay tô đỏ, đạp những chiếc
xe đạp có chuông dâu kêu roong roong, từ khu trù mật đang xây dở đi vào các xóm”
[16;445]. Và có cả giọng điệu đầy xót xa, thƣơng cảm khi kể về vợ chồng Hai Rô
“lấy vợ tậu nhà”, sự đắng cay, đau xót khi ông Tƣ Trầm đi đòi trả vợ về.
Ở xã Trung Nghĩa còn mang giọng khách quan của thể loại tự sự hiện đại:
“Một tiếng động nhỏ nhƣ đất lở ngoài bờ mƣơng. Ông Tƣ giở chiếu, ngồi chổm
hổm, dòm qua khe vách. Vẫn hơi thở nhƣ tiếng rên của bà vợ và tiếng dế gáy u u
trong lỗ tai. Ngoài kia, giữa rặng cây so đũa, ánh đèn gác trên bót dân vệ hắt lên nền
trời một vệt sáng lờ mờ nhƣ cái mụn bọc” [16;403].
Nhƣ vậy, chỉ trong một tác phẩm Nguyễn Thi đã sử dụng nhiều giọng điệu
khác nhau nhƣ: giọng giễu nại, trắc ẩn, giọng khinh bạc, giọng tự sự khách quan,...
Việc sử dụng tinh tế, kết hợp linh hoạt các giọng điệu đã cho thấy đƣợc tài năng
cũng nhƣ phong cách “nhà văn của vùng sông nƣớc”.
3.2.2. Sắc điệu chủ đạo trong Truyện và kí Nguyễn Thi
Với một nhà văn dành trọn cuộc đời mình cho miền Nam ruột thịt – Nguyễn
Thi thể hiện rất rõ giọng điệu Nam Bộ trong tác phẩm của ông, đặc biệt là tập
41
Truyện và kí. Tập truyện viết về nhân dân Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống
đế quốc Mĩ, giọng điệu bao trùm các tác phẩm là giọng sử thi. Dù đó là những trang
văn về cuộc sống chiến đấu hay bức tranh con ngƣời, cảnh vật đời thƣờng, nó vẫn
mang đậm giọng điệu sử thi. Ví dụ nhƣ trong tùy bút Đại hội anh hùng bằng ngôn
ngữ giản dị, mộc mạc cùng giọng điệu khẳng định, hào hùng đã tạo nên những trang
viết “rất Nam Bộ”: “Chúng ta chỉ mất đi những quần bố tời đầy rận, mất đi cảnh
con gái lớn phải cởi chuồng leo cau, mất đi cuộc đời ăn ngủ dƣới chuồng heo,
quanh năm kẽ chân loét lở đến lòi xƣơng trắng” [16;44]. Với các từ ngữ quen thuộc:
“quần bố tời đầy rận”, “cởi chuồng”, “kẽ chân loét lở”,... đã tạo nên một giọng điệu
vừa mạnh mẽ, dứt khoát vừa gần gũi, thân mật. Chính giọng điệu đầy khí thế đó đã tạo
thành sức mạnh to lớn cổ vũ tinh thần nhân dân vùng dậy kháng chiến. Chúng ta đánh
đuổi bọn xâm lƣợc là chúng ta sẽ mất đi những ngày đói khổ, nghèo nàn, bệnh tật.
Giọng điệu hào hùng cùng con ngƣời anh hùng bao thế hệ đã tạo nên tính sử
thi: “Mẹ già chạy theo giúi vào tay ta viên đạn mẹ đã lƣợm đƣợc của giặc. Em bé
bốn năm tuổi níu lƣng ta đòi đi “Giải phóng”. Ngƣời vợ trẻ ở ấp chiến lƣợc Bình
Giã nhất định xin đi theo ta cầm súng vì chồng chị giặc giết mất rồi. Những hình
ảnh đó sớm chiều nuôi dƣỡng tâm hồn ta. Không ai bảo ta hãy trở thành anh hùng,
nhƣng tự trong lòng ta có một điều suy nghĩ: nếu đã giết chết giặc một thì hãy giết
chúng gấp đôi, gấp ba, gấp trăm lần hơn nữa” [16;45]. Truyện và kí lấy bối cảnh
cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ đang diễn ra mạnh mẽ ở miền Nam. Từ hiện
thực đau thƣơng ấy đã dậy lên ý chí chiến đấu quật cƣờng của dân tộc. Bao thế hệ
từ ngƣời già, phụ nữ đến trẻ em đều góp sức mình vào công cuộc đánh đuổi giặc
ngoại xâm. Chính vì vậy, cùng với giọng điệu đa thanh Truyện và kí còn nổi bật lên
giọng điệu sử thi bao trùm các tác phẩm.
Bên cạnh giọng điệu sử thi hào hùng, ta còn nhận ra giọng điệu trữ tình, nhẹ
nhàng len lỏi trong trang văn Nguyễn Thi. Ngay ở đầu truyện ngắn Mẹ vắng nhà tác
giả đã sử dụng giọng trữ tình, đằm thắm để mở ra không gian tác phẩm: “Nắng
đứng ngọn. Gió ngoài sông Hậu vẫn thổi vào lồng lộng. Đã mấy ngày liền sáng nào
cũng mƣa, trời oi và đục màu khói thuốc. Nắng lên làm cho trời cao và trong xanh.
42
Lớp áo cát phủ quanh mình củ khoai lang bị bom hất vung vãi trên vồng bây giờ đã
khô trắng và óng ánh dƣới nắng” [16;80]. Trƣớc khi bƣớc vào trang viết về những
đứa con của nữ anh hùng – Út Tịch, tác giả đã sử dụng giọng trầm ấm để vẽ ra
khung cảnh vừa thơ mộng, trữ tình đầy nắng gió vừa cảm nhận đƣợc sự gan góc của
cả mảnh đất lẫn con ngƣời nơi đây.
Trong tùy bút Những câu nói ghi trong Đại hội viết về những ngƣời anh hùng
và chiến công của họ, nhà văn cũng sử dụng linh hoạt giọng điệu trữ tình: “Đôi mắt
chị Lịch có sắc tràm của buổi trƣa nắng trên đỉnh núi; vầng trán Trƣơng Văn Hà
mang vẻ dịu dàng và rất dễ nổi giận của những đồi cát; sự gan dạ rất trong sáng của
Nguyễn Văn Thể; Nguyễn Đức Nghĩa hiện ngay trong nụ cƣời, đôi mắt của Nguyễn
Văn Lên thỉnh thoảng lại ánh lên những vệt chớp của bộc phá” [16;116]. Nhờ việc sử
dụng hài hòa các giọng điệu đã giúp tác phẩm viết về Cách mạng của Nguyễn Thi
không nhàm chán, đơn điệu và khơi dậy hứng thú cho ngƣời đọc.
Việc sử dụng sự kết hợp hài hòa giữa các giọng điệu trong Truyện và kí đã
cho thấy đƣợc dụng ý nghệ thuật đặc sắc cũng nhƣ tài năng của Nguyễn Thi. Nhƣng
dù sử dụng giọng điệu nào, ta cũng thấy đƣợc số phận đầy đau thƣơng, bất hạnh của
ngƣời nông dân, sự tàn ác mà giặc Mĩ đã gây ra và từ đó việc vùng lên chiến đấu
đánh đuổi lũ xâm lƣợc là điều tất yếu.
3.3. Ngôn ngữ
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật khách quan
Ngôn ngữ “là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki), là một trong những
yếu tố quan trọng thể hiện phẩm chất, cá tính sáng tạo cũng nhƣ tài năng của nhà
văn. Định nghĩa về ngôn ngữ nghệ thuật thì có rất nhiều ý kiến khác nhau nhƣng
khu biệt hơn cả là định nghĩa của Phan Trọng Luận: “Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn
ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chƣơng, không chỉ có chức năng thông
tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con ngƣời. Nó là ngôn ngữ đƣợc tổ chức,
xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thƣờng và đạt giá trị nghệ thuật –
thẩm mĩ” [9;98]. Ở mỗi loại hình sáng tác, ngôn ngữ nghệ thuật lại có cách tổ chức
với những đặc trƣng riêng. Nếu nhƣ ở thơ trữ tình chủ yếu sử dụng ngôn ngữ ở
phƣơng diện bộc lộ cảm xúc, kịch khai thác ngôn ngữ ở ngôn ngữ đối thoại thì văn
43
xuôi lại lấy ngôn ngữ trần thuật.
Trong văn xuôi tự sự, trần thuật là “phƣơng diện cơ bản của phƣơng thức tự
sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn
cảnh, sự vật theo cách nhìn của một ngƣời trần thuật nhất định” [5;364]. Ngôn ngữ
trần thuật là nơi bộc lộ rõ ý thức sử dụng ngôn ngữ của nhà văn, thể hiện phong
cách, cá tính tác giả. Nó là sự thể hiện toàn bộ giọng điệu, cấu trúc cũng nhƣ tƣ
tƣởng của tác phẩm. Tìm hiểu tập Truyện và kí, nhận thấy Nguyễn Thi chủ yếu sử
dụng nhiều ngôn ngữ trần thuật khách quan. Đây là kiểu trần thuật ngƣời kể xuất
hiện ở ngôi thứ 3, có khoảng cách nhất định với các nhân vật, không tham gia vào
các câu chuyện và đƣợc nhà văn sử dụng rất hiệu quả. Đó cũng chính là đặc trƣng
của thể loại tác giả sử dụng, bởi ghi chép, tùy bút, kí đều chép lại một sự việc đã
xảy ra. Ngay cả truyện ngắn, tiểu thuyết, kí Nguyễn Thi cũng sử dụng ngôn ngữ
trần thuật một cách khách quan, tự nhiên nhƣng cũng rất lạnh lùng. Nhà văn khéo
léo ẩn mình để ngƣời đọc tự lần theo diễn biến câu chuyện, đặc biệt tác phẩm vẫn
mang đậm ngôn ngữ Nam Bộ.
Trong truyện kí Ước mơ của đất có đoạn: “Cuộc chiến diễn ra một ngày hôm
đó. Nhà bỏ trống, các bà mẹ bồng hết con cái đi theo. Trƣớc thì còn giả đò đi chợ,
sau cứ nghe tiếng hô là bà con kéo ra. Con đƣờng ở trƣớc cửa bót đông đặc, xe cộ
phải ngƣng lại từng chập. Cái đồn đóng trên một đại hội, giặc to dềnh dàng làm vậy,
bây giờ coi tum húm. Mấy thằng lính chong súng ra ngoài lỗ châu mai, mặt non
choẹt, bộ dạng nhƣ tƣớng cƣớp, thỉnh thoảng lại cƣời hô hố” [16;310]. Nhà văn
đứng ngoài câu chuyện kể lại diễn biến một ngày đấu tranh của ngƣời dân khiến
ngƣời đọc cảm nhận đƣợc sự khách quan, chân thật, sự việc nhƣ lần lƣợt diễn ra
trƣớc mắt.
Mặt khác, ở hầu hết các tác phẩm, Nguyễn Thi đều đƣa ra các số liệu chính
xác: Ngày 2 tháng 5 năm 1965 mở đại hội anh hùng, mƣời bốn năm về trƣớc chị Võ
Thị Sáu bƣớc ra chiến trƣờng, chị Thanh diệt 69 thằng Mĩ,.... càng tăng thêm sức
thuyết phục.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ trần thuật còn đƣợc Nguyễn Thi sử dụng rất độc đáo
khi viết về tội ác của giặc Mĩ, những nỗi đau mà đồng bào ta phải chịu đựng. Trong
44
truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có đoạn: “Ba mày bị Tây nó chặt đầu,
tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi...” [16;71]. Tác giả sử dụng ngôn ngữ nhân
vật, trần thuật lại qúa khứ nhƣng đó chỉ là bề ngoài ngôn ngữ còn khám phá bề sâu
mạch truyện độc giả sẽ nhận thấy đƣợc sự xót thƣơng, đồng cảm của nhà văn đối
với nhân dân trong thời kì loạn lạc.
3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại gần gũi, thân tình
Đối thoại đƣợc hiểu là: “các lời phát ngôn tham gia trực tiếp hay gián tiếp
vào quá trình giao tiếp và thực hiện giao tiếp. Chức năng của đối thoại là lời (đối
đáp) trong cuộc giao tiếp song phƣơng mà lời này xuất phát nhƣ là phản ứng đáp lại
lời nói trƣớc. Lời đối thoại bộc lộ thuận lợi nhất khi hai bên đối thoại có tiếp xúc
phi quan phƣơng và công khai, không bị câu thúc, trong không khí bình đẳng về
mặt đạo đức của ngƣời đối thoại” [1;160]. Qua hình thức đối thoại, tác phẩm văn
học đã tái tạo những tiếng nói của con ngƣời, lƣu giữ trong nó sự phong phú của lời
nói các thời đại, dân tộc, các nền văn hóa khác nhau.
Trong Truyện và kí của Nguyễn Thi nếu ngôn ngữ trần thuật đƣợc sử dụng
khách quan, tự nhiên thì ngôn ngữ đối thoại lại rất gần gũi, thân tình, đặc biệt là ở
các truyện ngắn, tiểu thuyết, kí: Mùa xuân, Chuyện xóm tôi, Mẹ vắng nhà, Người
mẹ cầm súng, Ở xã Trung Nghĩa,... Ở truyện ngắn Chuyện xóm tôi chủ yếu là cuộc
đối thoại giữa Bỉnh, Đực và chị Hai. Mùa xuân lại là cuộc thoại giữa các cô gái
thanh niên xung phong Chỉnh, Nga, Hà. Trong truyện kí Ước mơ của đất là cuộc
đối thoại giữa Hạnh với những ngƣời xung quanh: anh Chẩn, chị Ba, Mận, bà mẹ
Mận,... Các cuộc đối thoại của các nhân vật khác nhau, hoàn cảnh, tâm trạng khác
nhau nhƣng tất cả đều gần gũi, thân tình, mang đậm sắc màu Nam Bộ, chứa đựng
dấu ấn về mảnh đất và con ngƣời nơi “thành đồng Tổ quốc” trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ hào hùng:
“ - Bộ mình chị biết đi trả thù à?
- Hồi đó má nói cho tao đi, mày ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi
sau” [16;76].
Trong một câu đối thoại ngắn cũng đã thấy đậm màu sắc Nam Bộ qua ngôn
45
ngữ khẩu ngữ nhƣ “bộ”, “trọng trọng”.
Hay trong truyện kí Người mẹ cầm súng có đoạn: “Ngày mai nó bố, tụi em
chuẩn bị đánh. Chị Chín nói em lên đây coi chị có khỏe mời chị xuống chỉ huy giúp
tụi em. Chị Chín có chừa cho chị cây cạc bin ở trển. Út nói: “Bịnh tao cũng đi!”
[16;184].
Ở các cuộc đối thoại, Nguyễn Thi vẫn giữ nguyên giọng điệu, ngôn ngữ của
vùng đất Nam Bộ - mảnh đất của những con ngƣời mộc mạc, chân tình nên khi đƣa
vào tác phẩm văn học sẽ mang đến cho độc giả sự gần gũi, quen thuộc.
Sắc thái Nam Bộ thấm đẫm trong từng trang văn, từng nhân vật của Nguyễn
Thi. Nhân vật của Nguyễn Thi từ trẻ nhỏ đến ngƣời già đều có cách nói rất đặc
trƣng. Ở truyện ngắn Mẹ vắng nhà, nhà văn khắc họa hình ảnh những đứa con chị
Út Tịch bằng ngôn ngữ nhân vật, nên mỗi nhân vật của ông rất gần gũi, nhƣ bƣớc từ
cuộc đời vào tác phẩm:
“ – Tao mang đạn cho má bắt chóc đùng, không cho mày đi!
- Má của em mừ...
- Má của tao chớ má của mày hồi nào?” [16;97]
Trong lối viết của Nguyễn Thi luôn đậm ngôn ngữ Nam Bộ vừa gần gũi, giản
dị, vừa nhẹ nhàng đi sâu vào lòng ngƣời. Điều này mang đƣợc đặc trƣng riêng của
vùng bƣng biền ngập nƣớc mộc mạc, đầy nghĩa tình của con ngƣời nơi đây.
Nhƣ vậy, trong Truyện và kí Nguyễn Thi chủ yếu sử dụng một số phƣơng
diện nghệ thuật nhƣ: không gian, thời gian nghệ thuật, giọng điệu và ngôn ngữ Nam
Bộ. Không gian trong Truyện và kí là không gian rộng vùng Nam Bộ, tuy nhiên ở
mỗi tác phẩm thể hiện một không gian cụ thể. Bên cạnh đó còn có không gian trải
dài theo không gian biển cả không chỉ thể hiện trực tiếp tâm trạng, suy nghĩ, hành
động,... của nhân vật mà còn hƣớng ngƣời đọc thông qua đó để tìm hiểu nội dung
tác phẩm. Cùng với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ
thuật trong Truyện và kí chủ yếu là thời gian tuyến tính và thời gian hồi tƣởng lôi
cuốn độc giả vào những sự kiện, biến cố của nhân vật. Thông qua không gian, thời
gian nghệ thuật sử dụng một cách hài hòa, linh hoạt đã cho thấy đƣợc tài năng độc
46
đáo cũng nhƣ phong cách riêng của Nguyễn Thi. Trong tập Truyện và kí, nhà văn
chủ yếu sử dụng giọng điệu đa thanh và giọng điệu sử thi hào hùng kết hợp với
giọng trữ tình đằm thắm đã khắc họa lên một bức tranh đa sắc, vừa nóng vừa lạnh,
vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ mang đậm dấu ấn của ngƣời dân vùng sông nƣớc. Mặt
khác, Nguyễn Thi sử dụng ngôn ngữ trần thuật khách quan và ngôn ngữ đối thoại
gần gũi, thân tình đã làm nổi bật lên phƣơng ngữ mộc mạc Nam Bộ. Có thể thấy,
một số phƣơng diện nghệ thuật biểu hiện trong Truyện và kí cũng đã góp phần
khẳng định đƣợc vị trí và tài năng của Nguyễn Thi trong nền văn học kháng chiến
47
nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung.
KẾT LUẬN
Dù cuộc đời Nguyễn Thi rất ngắn ngủi, tác phẩm cũng không đồ sộ nhƣ các
cây bút khác nhƣng lại có sự từng trải khổ luyện nên “những đứa con tinh thần”
của ông thực sự là một tài sản quý giá cho kho tàng văn học. Từ chính trải nghiệm
của mình cùng với tấm lòng giàu tình cảm nhà văn đã mang đến những trang viết
thấm đƣợm màu sắc Nam Bộ, phản ánh chân thực hiện thực kháng chiến và con
ngƣời nơi đây.
Bằng công cuộc lao động nghệ thuật từ mồ hôi, nƣớc mắt và cả máu Nguyễn
Thi đã mang đến niềm tin, lòng tự hào dân tộc trong những trang viết của mình.
Qua Truyện và kí, Nguyễn Thi đã khắc họa rất chân thực hiện thực và con ngƣời
Nam Bộ trong cuộc kháng chiến trƣờng kì của dân tộc. Đó là những năm tháng giặc
Mĩ xâm lƣợc gieo rắc đau thƣơng cho đồng bào miền Nam ta, chúng ném bom đạn
vào làng xóm, chèn ép ngƣời dân, bắt giết cán bộ cách mạng... Nhƣng những đau
thƣơng đó không thể làm mất đi ý chí chiến đấu quật cƣờng của dân tộc mà càng
khiến nó thêm mạnh mẽ. Chính từ hiện thực đó đã trỗi dậy những con ngƣời anh
hùng vùng sông nƣớc chiến đấu anh dũng, không chịu khuất phục. Khi đất nƣớc yên
bình, họ là những ngƣời nông dân hiền lành, chất phác nhƣng chiến tranh xảy ra,
chính họ trở thành anh hùng giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Tất cả những hiện
thực và con ngƣời đó đều đƣợc “nhà văn của Nam Bộ” – Nguyễn Thi khắc họa đầy
đủ, chân thực, mang đậm hƣơng sắc Nam Bộ.
Bên cạnh đó, nhà văn còn sử dụng nhuần nhuyễn, rất sáng tạo các biện pháp
nghệ thuật: không gian, thời gian nghệ thuật; giọng điệu; ngôn ngữ. Thông qua
không gian, thời gian nghệ thuật sẽ mở ra hƣớng khai thác, đi sâu tìm hiểu các tác
phẩm. Với sự kết hợp hài hòa của các giọng điệu đa thanh, giọng sử thi cùng trữ
tình đằm thắm đã tạo ra cho tác phẩm sự độc đáo vừa hào hùng lại vừa nhẹ nhàng,
sâu lắng.
Mặt khác, Nguyễn Thi sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ đã mang đến cho Truyện
48
và kí những trang văn đậm chất chân quê, mộc mạc mà thấm đƣợm tình ngƣời. Chỉ
với tập truyện này đã cho thấy một phong cách độc đáo, một tài năng và một
Nguyễn Thi rất Nam Bộ gần gũi với độc giả.
Lao động nghệ thuật quên mình, Nguyễn Thi đã mang đến một bức tranh
toàn cảnh về hiện thực và con ngƣời Nam Bộ cũng nhƣ đồng bào miền Nam
trong kháng chiến chống Mĩ đầy sức sống mãnh liệt. Cuộc đời và tác phẩm của
ông xứng đáng là một trang đẹp trong kho tàng văn học Việt Nam, một tài sản
49
quý giá của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội.
2. Nguyễn Minh Châu (1987), Dấu chân người lính, Nhà xuất bản Thanh niên.
3. Anh Đức (2001), Hòn Đất, Nhà xuất bản Hải Phòng.
4. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2015), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Đỗ Đức Hiểu – Trần Hữu Tá (2010), Từ điển văn học (bộ mới), Nhà xuất bản
Thế giới, Hà Nội.
7. Hội nhà văn Việt Nam (2010), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nhà xuất bản Hội
nhà văn.
8. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2013), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại
tập 2, Nhà xuất bản Đại học Sƣ phạm.
9. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2016), Ngữ văn 10 (tập 2), Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam
10. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2016), Ngữ văn 12 (tập 2), Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam.
11. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2009), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Đại học Sƣ
phạm.
12. Nhiều tác giả (2010), Vẻ đẹp văn học Cách mạng, Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam.
13. Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi (1999), Con người và tác phẩm, Văn nghệ
Quân đội 4.
14. Ngô Thảo (1996), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập, Nhà xuất bản
Văn học Hà Nội.
15. Truyện kí Nguyễn Thi (1969), Nhà xuất bản Giải phóng, Hà Nội.
16. Truyện và kí Nguyễn Thi (1978), Nhà xuất bản Văn học.