BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN THỊ HUỆ
TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM
VÀ TRUYỆN NÔM TẤM CÁM TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan – người
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban Giám hiệu; Khoa
Ngữ Văn; Ban Chủ nhiệm; quý thầy cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến người thân, bạn bè đã giúp đỡ,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thiện
luận văn.
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2017
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ HUỆ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2017
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ HUỆ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 8
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu........................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
6. Những đóng góp của luận văn ................................................................... 9
7. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 9
NỘI DUNG ..................................................................................................... 10
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................... 10
1.1. Vấn đề thể loại ...................................................................................... 10
1.1.1. Truyện cổ tích – khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm .................... 10
1.1.2. Truyện Nôm – khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm ....................... 21
1.2. Vấn đề văn bản ...................................................................................... 27
1.2.1. Truyện cổ tích Tấm Cám ............................................................... 27
1.2.2. Truyện Nôm Tấm Cám ................................................................. 29
Chƣơng 2. SO SÁNH CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT ............................ 32
2.1. So sánh về cốt truyện ............................................................................ 32
2.1.1. Khái niệm cốt truyện ..................................................................... 32
2.1.2. Sự tương đồng về cốt truyện ......................................................... 33
2.1.3. Sự khác biệt về cốt truyện ............................................................. 34
2.2. So sánh nhân vật ................................................................................... 44
2.2.1. Sự tương đồng về nhân vật ........................................................... 44
2.2.2. Sự khác biệt về nhân vật ............................................................... 45
Chƣơng 3. SO SÁNH CÁC MÔ TÍP ĐẶC TRƢNG .................................. 55
3.1. Mô típ mẹ ghẻ con chồng ...................................................................... 55
3.1.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 55
3.1.2. So sánh mô típ ............................................................................... 56
3.2. Mô típ vật giao duyên ........................................................................... 59
3.2.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 59
3.2.2. So sánh mô típ .............................................................................. 60
3.3. Mô típ hóa thân ..................................................................................... 64
3.3.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 64
3.3.2. So sánh mô típ ............................................................................... 65
3.4. Mô típ vật gắn kết ................................................................................. 72
3.4.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 72
3.4.2. So sánh mô típ ............................................................................... 73
3.5. Mô típ thưởng – phạt............................................................................. 75
3.5.1. Cấu trúc mô típ .............................................................................. 75
3.5.2. So sánh mô típ ............................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 82
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian và văn học viết là hai dòng văn mạch chủ lưu hình
thành nên nền văn học của bất cứ quốc gia nào trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Văn học dân gian là bộ phận văn học truyền miệng, ra đời từ rất sớm,
được tập thể nhân dân sáng tác, lưu hành từ đời này qua đời khác. Văn học
viết là bộ phận văn học ra đời muộn hơn, khi đã có chữ viết, thường do một
cá nhân sáng tác và lưu truyền bằng các văn bản.
Như vậy, mặc dù cùng là sáng tác văn học nhưng văn học dân gian và
văn học viết vẫn có những nét khác biệt cơ bản về hoàn cảnh ra đời, phương
thức lưu truyền, đối tượng sáng tác… Những nét khác biệt đó sẽ chi phối
nhiều đặc điểm, đặc trưng riêng của từng bộ phận văn học. Tuy nhiên, ta
không thể phủ nhận mối quan hệ gắn bó qua lại, khăng khít giữa hai bộ phận
văn học này bởi trong suốt tiến trình văn học, chúng luôn tồn tại song hành,
bổ sung và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong mối quan hệ ấy, văn học dân
gian là cơ sở, là nền móng để văn học viết hình thành và phát triển. Văn học
viết cũng tiếp thu những tinh hoa của văn học dân gian trên các phương diện
như đề tài, chủ đề, thể loại, ngôn ngữ, thi liệu… để làm phong phú vốn sáng
tác của mình.
Trong các thể loại văn học dân gian, truyện cổ tích được coi là một thể
loại có giá trị đặc sắc và có sức hấp dẫn đặc biệt. Đó là thể loại tự sự dân gian,
ra đời sớm nhưng phát triển nở rộ trong xã hội phân chia giai cấp. Truyện cổ
tích phản ánh chân thực đời sống, ước mơ của nhân dân lao động trong thời
đại xã hội có sự phân chia giai cấp. Đó không chỉ là bức tranh về con người,
xã hội mà còn là nơi ông cha ta gửi gắm tâm tư tình cảm và những bài học
đạo đức sâu sắc giàu giá trị. Một trong những sáng tác tiêu biểu cho thể loại
này chính là truyện cổ tích Tấm Cám.
2
Truyện Nôm là thể loại văn học hình thành và phát triển khi xã hội đã
có bước phát triển vượt bậc. Chữ Nôm ra đời là sự khẳng định sức sáng tạo và
lòng tự cường của cha ông. Bên cạnh những truyện thơ Nôm nổi tiếng của các
tác giả như Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Hữu Hào, Phạm Thái… ta
thấy xuất hiện những truyện thơ Nôm bình dân lấy cốt truyện từ dân gian như
truyện Tấm Cám, truyện Thạch Sanh, truyện Tống Trân Cúc Hoa… đây đều
là các tác phẩm có giá trị cao cả về nội dung và nghệ thuật. Tác giả Kiều Thu
Hoạch coi đó một “hiện tuợng đặc biệt, độc đáo, khá phức tạp và lí thú”.
Nằm trong dòng chảy của những sáng tác này, truyện Nôm Tấm Cám thực sự
là tác phẩm mang nhiều ý nghĩa, góp phần tạo nên diện mạo của thể loại
truyện Nôm bình dân.
Như vậy, truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Tìm hiểu mối quan hệ này để thấy được
tương quan giữa hai tác phẩm nói riêng cũng như mối tương quan giữa văn
học dân gian và văn học viết nói chung. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn lựa đề
tài: Truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám từ góc nhìn so sánh.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử nghiên cứu truyện cổ tích Tấm Cám
Được xem là một trong những thể loại đặc sắc của loại hình tự sự dân
gian, truyện cổ tích lưu giữ trong nó những giá trị to lớn ở nhiều phương diện.
Vì thế, những vấn đề của truyện cổ tích, từ lâu cũng thu hút được sự quan
tâmcủa các nhà nghiên cứu. Ở Việt Nam, ngành “cổ tích học” cũng đã tồn tại
và phát triển hơn 50 năm.
Tấm Cám là truyện cổ tích mang những đặc trưng cơ bản của truyện cổ
tích thần kì và cũng là một trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam được
mọi lứa tuổi biết đến nhiều nhất. Các nhà folkore ở Việt Nam đã dành nhiều
thời gian sưu tầm và nghiên cứu truyện Tấm Cám. Truyện Tấm Cám được lưu
3
truyền trong nhân dân từ khá lâu, sau đó được các nhà folkore văn bản hóa
được gọi là bản kể. Trong đó, bản kể của tác giả Nguyễn Đổng Chi và Vũ
Ngọc Phan được sử dụng rộng rãi hơn cả.
Về vấn đề nghiên cứu, tác giả Đinh Gia Khánh với cuốn Sơ bộ tìm hiểu
những vấn đề của truyện cổ tích Tấm Cám (1968) đã tạo nên một góc nhìn có
tính chất toàn diện, sâu rộng về những vấn đề cơ bản của truyện cổ tích thông
qua một tác phẩm điển hình là truyện cổ tích Tấm Cám. Trong công trình này,
Đinh Gia Khánh đã đề cập đến vấn đề quan trọng của chuyên ngành “Cổ tích
học”, đó là tính dân tộc, tính quốc tế của truyện cổ tích nội dung đấu tranh xã
hội và phương pháp nghệ thuật trong truyện.
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam (Đinh Gia Khánh chủ biên,
2005), khi nghiên cứu về thể loại truyện cổ tích nói chung, các tác giả cũng
nhấn mạnh truyện cổ tích Tấm Cám như một tác phẩm điển hình, đặc trưng
cho thể loại này. Truyện Tấm Cám được tìm hiểu trên các phương diện như
quá trình sinh thành, phát triển không ngừng của truyện cổ tích gắn với quá
trình lưu truyền trong dân gian, do đó cốt truyện của truyện cổ tích Tấm Cám
có sự khác nhau giữa các bản kể: có những bản kể truyển cổ tích Tấm Cámkết
thúc ở chi tiết Tấm trả thù mẹ con Cám, một số bản kể khác lại gắn với thần
tích về Ỷ Lan thái hậu… Bên cạnh đó, về nội dung, truyện cổ tích là tấm
gương phản chiếu một cách phong phú và chân thật đời sống dân tộc mà
truyện cổ tích Tấm Cám là một tác phẩm điển hình. Tác giả cũng đi sâu tìm
hiểu nghệ thuật của thể loại truyện cổ tích nói chung thông qua một tác phẩm
tiêu biểu của thể loại là truyện cổ tích Tấm Cám…
Tác giả Chu Xuân Diên là người nghiên cứu khá sớm và sâu sắc về
truyện cổ tích Tấm Cám. Trong Văn học dân gian Việt Nam, tác giả đã đưa ra
những nhận định cơ sở tạo nền tảng cho việc nghiên cứu tác phẩm cùng với
đó là những chuyên luận, những bài báo khai thác cụ thể các vấn đề như Về
4
cái chết của mẹ con dì ghẻ trong truyện TấmCám… Như vậy,có thể thấy
truyện cổ tích Tấm Cám đã được nghiên cứu trên các phương diện: quá trình
hình thành, phát triển và lưu truyền trong dân gian, cốt truyện, nhân vật, nội
dung phản ảnh, nghệ thuật… Những nghiên cứu đó cho ta cái nhìn khá đa
chiều về tác phẩm này.
Tác giả Cao Thị Hà trong luận văn thạc sĩ (2012): Giải mã hệ biểu
tượng trong truyện cổ tích Tấm Cám và các truyện có mô típ tương đồng (Từ
góc độ ngôn ngữ - văn hóa) đã khảo sát hệ biểu tượng trong truyện cổ tích
Tấm Cám và các truyện có mô típ tương đồng, từ đó phân tích ý nghĩa của
một số biểu tượng đặc trưng. Việc giải mã hệ biểu tượng trong truyện Tấm
Cám đã trở thành “chìa khóa” để lí giải nhiều hiện tượng thú vị của truyện cổ
tích Tấm Cám nói riêng và thể loại truyện cổ tích nói chung.
Tấm Cám là một truyện cổ tích tiêu biểu, rất điển hình cho thể loại
truyện cổ tích thần kì Việt Nam. Vì vậy, truyện cổ tích Tấm Cám luôn giành
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Bên cạnh những nghiên cứu trên,
còn khá nhiều bài nghiên cứu về tác phẩm này. Có thể kể đến một số nghiên
cứu như: bài viết Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của nhân vật giao tiếp trong
truyện cổ tích Tấm Cám và một vài kết luận sư phạm của tác giả Lê Thị Kim
Cúc, Truyện cổ tích Tấm Cám và sự đánh tráo số phận con người; Mâu thuẫn
trong truyện Tấm Cám là giữa Tấm và Cám chứ không phải là giữa dì ghẻ
với con chồngcủa Nguyễn Tấn Đắc, Truyện cổ tích Tấm Cám nhìn từ góc độ
thể loại của Nguyễn Ngọc Lâm, Đổi mới cách đọc – hiểu đoạn kết Tấm Cám
của Lê Như Bình… Những công trình nghiên cứu về truyện cổ tích Tấm Cám
đã giúp chúng ta có được cái nhìn khá toàn diện về tác phẩm.
Như vậy có thể khẳng định, việc tìm hiểu những giá trị kết tinh trong
truyện cổ tích Tấm Cám đã được các nhà nghiên cứu quan tâm và dành nhiều
tâm huyết. Tuy nhiên, đặt tác phẩm trong tương quan so sánh với các tác
5
phẩm khác và đặc biệt với truyện Nôm Tấm Cám được mượn cốt truyện từ
truyện cổ tích Tấm Cám còn khá mờ nhạt.
2.2 Lịch sử nghiên cứu truyện Nôm và truyện Nôm Tấm Cám
Chữ Nôm là một trong những sáng tạo độc đáo, đặc sắc của cha ông ta
nhằm thoát khỏi sự gò bó, tính quy phạm và chính sách đồng hóa dân tộc của
phong kiến phương Bắc. Những sáng tạo ấy đã đạt đến đỉnh cao trong những
truyện thơ Nôm. Truyện Nôm trung đại Việt Nam mang đặc điểm khá phổ
biến đó là vay mượn cốt truyện của nước ngoài hoặc dựa trên cốt truyện dân
gian. Truyện Nôm Tấm Cám mượn cốt truyện từ truyện cổ tích, được viết
bằng chữ Nôm với những sáng tạo riêng của người viết. Chính vì vậy, lịch sử
nghiên cứu truyện Nôm Tấm Cám cũng nằm trong văn mạch nghiên cứu của
truyện Nôm nói chung và truyện Nôm bình dân nói riêng.
Trước năm 1945, các nhà nghiên cứu đã nhìn thấy giá trị to lớn của thể
loại này. Người có công mở đầu là tác giả Dương Quảng Hàm với công trình
Việt Nam văn học sử yếu (1941). Tiếp bước là các tác giả Nguyễn Đổng Chi,
Đào Duy Anh…
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, việc nghiên cứu truyện Nôm
được chú trọng hơn. Các công trình nghiên cứu được đầu tư kỹ lưỡng, các vấn
đề về nội dung, nguồn gốc, giá trị nghệ thuật… có chiều sâu hơn.
Về các vấn đề chung mang tính khái quát có thể kể đến công trình của
Lê Hoài Nam trong Lịch sử văn học Việt Nam (1965), Nguyễn Lộc trong Văn
học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX (1978), Kiều Thu
Hoạch với Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại (1992), Truyện Nôm
bình dân của người Việt – Lịch sử hình thành và bản chất thể loại (1996), …
hay các bài chuyên khảo như truyện Nôm khuyết danh – một hiện tượng đặc
biệt của Văn học Việt Nam của Bùi Văn Nguyên (Nghiên cứu văn học, số 7-
1960), Một số vấn đề xã hội trong truyện nôm bình dân của Nguyễn Lộc(Tạp
6
chí văn học, số 4-1969)… Các tác giả đã tập trung vào các vấn đề thuộc thể
loại, đi sâu tìm ra và lý giải nguyên nhân, quá trình hình thành phát triển, từ
đó thấy được đặc điểm làm nên giá trị của truyện Nôm. Đây là cái nhìn bao
quát khá toàn diện và là bước đi định hướng đúng đắn để khai thác chiều sâu
nội tại tác phẩm.
Trong quá trình nghiên cứu, giá trị riêng của từng tác phẩm đã được
làm rõ qua một số công trình như Khảo luận về “truyện Thạch Sanh” của Hoa
Bằng (1956), Phạm Tải Ngọc Hoa, một truyện Nôm khuyết danh có giá trị
của Lê Hoài Nam (1960), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Lê Đình
Kỵ (1977), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của Đặng Thanh Lê (1979)…
Các công trình này đã tập trung cụ thể hóa vấn đề trong giới hạn phạm vi
nghiên cứu là tác phẩm. Hướng nghiên cứu này giúp người đọc tiếp cận có
chiều sâu vào văn bản.
Đặc biệt, công trình Truyện Nôm – lịch sử phát triển và thi pháp thể
loại của Kiều Thu Hoạch đã nghiên cứu chuyên sâu về thể loại trên các
phương diện như: chặng đường lịch sử nghiên cứu truyện Nôm, nguồn gốc và
lịch sử phát triển của thể loại truyện Nôm, thi pháp truyện Nôm, chức năng tư
tương – thẩm mỹ của truyện Nôm, truyện Nôm trong tương quan so sánh loại
hình với thể loại truyện thơ các dân tộc bản địa và khu vực… Đó là những
nghiên cứu quan trọng góp phần xác định nguồn gốc, bản chất cũng như đặc
trưng và thi pháp của thể loại này.
Qua quá trình tìm hiểu lịch sử nghiên cứu truyện Nôm chúng tôi nhận
thấy, truyện Nôm được nghiên cứu từ lâu, có những nghiên cứu chuyên sâu
góp phần tìm hiểu đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, những nghiên cứu tập trung
nhiều hơn vào các tác phẩm truyện Nôm bác học, còn vai trò và vị trí của
truyện Nôm bình dân chưa được quan tâm đúng mức. Truyện Nôm Tấm Cám
là một tác phẩm truyện Nôm bình dân có giá trị, tuy nhiên lại chưa có nhiều
7
nghiên cứu chuyên sâu về tác phẩm này. Đặc biệt, đặt truyện Nôm bình dân
nói chung và truyện Nôm Tấm Cám nói riêng trong tương quan so sánh với
tác phẩm sinh thành ra nó (những cốt truyện từ truyện cổ tích) lại chưa được
quan tâm nghiên cứu thỏa đáng.
2.3. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện cổ tích Tấm Cám và
truyện Nôm Tấm Cám
Văn học viết chịu ảnh hưởng từ văn học dân gian trên nhiều phương
diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Mối quan hệ giữa thể
loại truyện cổ tích trong văn học dân gian và truyện Nôm bình dân trong văn
học viết điển hình cho sự ảnh hưởng, mối quan hệ giữa hai bộ phận trong kho
tàng văn học dân tộc. Trong quá trình phát triển của văn học viết, có thể nói,
truyện Nôm bình dân chính là sự gặp gỡ của hai bộ phận văn học dân tộc, thể
hiện mối quan hệ sâu sắc, những ảnh hưởng đậm nét ở cả phương diện nội
dung và hình thức nghệ thuật.
Trong quá trình nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra mối
quan hệ giữa hai thể loại truyện cổ tích và truyện Nôm. Có thể điểm qua một
số công trình đã bước đầu đề cập, tìm hiểu sơ bộ về vấn đề này như Văn học
dân gian Việt Nam của Đinh Gia Khánh (chủ biên), Tiến trình văn học dân
gian Việt Namcủa Cao Huy Đỉnh…
Mối quan hệ giữa truyện Nôm với truyện cổ tích nói riêng và với văn
học dân gian nói chung không phải là đề tài mới mẻ. Tuy nhiên, những
nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thể loại này mới chỉ là những gợi mở
trong quá trình nghiên cứu về văn học dân gian nói chung chứ chưa phải
những bài viết, những công trình riêng biệt, chuyên sâu. Hơn thế nữa, đó chỉ
là những nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thể loại nói chung, còn về mối
quan hệ giữa truyện cổ tích và truyện Nôm qua từng tác phẩm cụ thể thì khá
mờ nhạt. Lựa chọn đề tài so sánh truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm
8
Tấm Cám, trên tinh thần kế thừa được thành quả nghiên cứu của những người
đi trước, tìm hiểu và khác thác kỹ lưỡng hơn những phương diện độc đáo, qua
đó thấy được mối liên hệ mật thiết giữa chúng.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tôi trong việc thực hiện đề tài này là chỉ ra những
nét tương đồng và dị biệt giữa truyện cổ tích Tấm Cám và truyện NômTấm
Cám trên một số phương diện cơ bản. Đồng thời, cũng mong muốn góp thêm
một tư liệu có ý nghĩa cho quá trình học tập và nghiên cứu truyện cổ tích Tấm
Cám và truyện Nôm Tấm Cám từ góc độ so sánh.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: So sánh truyện cổ tích Tấm Cám và truyện
Nôm Tấm Cám.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Tư liệu: Bản kể truyện cổ tích Tấm Cámcủa tác giả Vũ Ngọc Phan
(được in trong phần phụ lục cuốn Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ
tích qua truyện Tấm Cám của Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, 1968)và
Truyện Tấm Cám của nhà in Vĩnh Thịnh. Đây là văn bản cơ sở để hình thành
các tiêu chí so sánh trong luận văn này.
+ Nội dung: Khảo sát các phương diện cơ bản của hai tác phẩm: nhân
vật, cốt truyện và các mô típ đặc trưng. Đồng thời có những phân tích, đánh
giá cụ thể về hai tác phẩm từ góc nhìn so sánh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh.
9
6. Những đóng góp của luận văn
Với đề tài này, chúng tôi tiến hành thao tác so sánh một cách hệ thống
về hai tác phẩm: Truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám. Trên cơ
sở xác định những nét chung giữa hai tác phẩm, thấy được sự ảnh hưởng của
văn học dân gian tới các sáng tác truyện Nôm bình dân. Từ đó, có những đánh
giá khách quan, khoa học về quá trình phát triển của văn học. Bên cạnh đó,
những nét riêng biệt giữa chúng qua một số phương diện cụ thể, cũng cho ta
thấy được sức sáng tạo độc đáo của cha ông trong quá trình “làm mới” tác
phẩm văn học.
Đối với thực tiễn đời sống và giảng dạy, việc đặt hai tác phẩm dưới cái
nhìn đối sánh về một số phương diện như nhân vật, cốt truyện, môtíp đặc
trưng sẽ góp phần giúp giáo viên và học sinh hiểu tác phẩm truyện cổ tích
Tấm Cám trong một chỉnh thể toàn vẹn của quá trình tiếp biến văn học đồng
thời thấy được giá trị của truyện Nôm bình dân trong dòng chảy đó. Nét
tương đồng và dị biệt của hai tác phẩm còn là bài học sáng tạo quý báu của
cha ông để lại cho các tác giả trẻ muốn “làm mới những gì đã cũ” để tạo nên
một tác phẩm độc đáo của riêng mình.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung
Chƣơng 2: So sánh cốt truyện và nhân vật
Chƣơng 3: So sánh các mô típ đặc trƣng
10
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vấn đề thể loại
1.1.1. Truyện cổ tích – khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói chung và truyện dân
gian Việt Nam nói riêng, truyện cổ tích là lĩnh vực sáng tác rộng lớn, là thể
loại có số lượng tác phẩm phong phú, nội dung phản ánh đa dạng. Chính vì
vậy, quá trình nhận thức và nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam chưa bao
giờ là con đường đơn giản. Nghiên cứu về thể loại này, trước tiên cần tìm
được một định nghĩa phù hợp để xác định được những đặc trưng cơ bản của
thể loại.
Trong Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, nhà nghiên cứu
Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra những thuộc tính cơ bản, những đặc điểm bản chất
nhất của thể loại này. Theo ông, có thể nói “Truyện cổ tích là một loại truyện
kể dân gian ra đời từ thời kì cổ đại, gắn liền với quá trình tan rã của chế độ
công xã nguyên thủy, hình thành của gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp
trong xã hội; nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những hiện tượng có tính
phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung đột có tính chất
riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia đình và xã hội. Nó dùng một
thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là “tưởng tượng và hư cấu cổ
tích”) kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống
và mơ ước của nhân dân đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục và
giải trí của nhân dân trong những thời kì, những hoàn cảnh lịch sử khác nhau
của xã hội có giai cấp (ở nước ta chủ yếu là xã hội phong kiến)” [38, tr.42].
11
Truyện cổ tích vốn là thể loại tự sự dân gian có số lượng tác phẩm đồ
sộ, nội dung phản ánh rộng lớn và có giá trị nghệ thuật trong kho tàng văn học
dân gian Việt Nam. Chính vì vậy, về truyện cổ tích có được sự quan tâm đặc
biệt của các nhà nghiên cứu. Cũng đề cập đến về thể loại này, tác giả Nguyễn
Bích Hà trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam đưa ra định nghĩa:
“Truyện cổ tích là những truyện kể có yếu tố hoang đường kì ảo. Nó ra đời từ
sớm nhưng đặc biệt nở rộ trong xã hội có sự phân hóa giàu nghèo, tốt xấu.
Qua những số phận khác nhau của nhân vật, truyện trình bày kinh nghiệm
sống, quan niệm đạo đức, lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao động về một
xã hội công bằng,dân chủ, hạnh phúc” [14, tr.75].
Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, nhà nghiên cứu Lê Chí
Quế cũng định nghĩa về truyện cổ tích thông qua việc xác định những đặc
trưng cơ bản nhất của thể loại. Theo ông, “truyện cổ tích là sáng tác dân gian
trong loại hình tự sự mà thuộc tính của nó là xây dựng trên những cốt truyện;
truyện cổ tích là tác phẩm nghệ thuật được xây dựng thông qua sự hư cấu
nghệ thuật thần kỳ; truyện cổ tích là một thể loại hoàn chỉnh của văn học dân
gian, được hình thành một cách lịch sử...” [30, tr.107].
Có thể nói, định nghĩa về truyện cổ tích, mỗi nhà nghiên cứu đều cố
gắng khái quát những đặc trưng cơ bản nhất của thể loại trên các diện, từ quá
trình hình thành, phát triển, nội dung phản ánh và hình thức nghệ thuật của
truyện cổ tích. Khái quát lại, có thể hiểu: truyện cổ tích là những sáng tác văn
học thuộc loại hình tự sự dân gian, có cốt truyện hoàn chỉnh, phát triển nở rộ
trong thời kì xã hội có phân hóa giai cấp; truyện sử dụng những hư cấu nghệ
thuật với nhiều yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo; truyện hướng vào phản ánh những
mâu thuẫn trong lòng xã hội thời bấy giờ, đồng thời phản ánh ước mơ, khát
vọng của nhân dân về một xã hội hạnh phúc, công bằng.
Những định nghĩa trên cho chúng ta có những khái quát đầu tiên về thể
loại, cũng là cơ sở để xác định một số đặc trưng bản chất của thể loại này.
12
1.1.1.2. Nguồn gốc sinh thành và phát triển
Nghiên cứu một thể loại văn học dân gian, trước hết cần tìm về nguồn
cội, tìm về những điều kiện cho sự sinh thành, phát triển và nở rộ của thể loại.
Từ những định nghĩa về truyện cổ tích ở trên, ngược dòng lịch sử, có thể lí
giải nguồn gốc ra đời của thể loại này.
Trước hết, đó là thể loại văn học có quá trình hình thành và phát triển
dài lâu. Nói đến quá trình hình thành truyện cổ tích phải nhìn nó trong dòng
chảy của một thời kì lịch sử xã hội, khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã,
bước sang giai đoạn hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp trong
xã hội. Cùng với đó, sự phát triển của thể loại này còn phải kể đến nguyên
nhân tư tưởng, ý thức xã hội thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thể loại. Khi
con người sống trong thời kì “thơ ấu” được văn học dân gian phản ánh trong
thần thoại, khi con người chưa bị đặt vào những mối quan hệ đối kháng,
những mâu thuẫn liên quan đến lợi ích trong đời sống xã hội thì mối quan tâm
lớn nhất của cư dân thời đại đó là những vấn đề của đời sống tự nhiên. Vì vậy,
con người trong “thời đại thần thoại” chủ yếu phản ánh và lí giải các hiện
tượng tự nhiên trực tiếp chi phối đến đời sống con người lúc bấy giờ.
Khi xã hội bắt đầu hình thành và phân hóa giai cấp, khi đời sốngcó sự
phân chia giàu nghèo, từ đó cũng bắt đầu xuất hiện những xung đột, mâu
thuẫn. Trong thời đại đó, khi con người tiến lên một trình độ hiểu biết nhất
định, vượt lên việc lí giải những hiện tượng trong tự nhiên, con người hướng
vào đời sống xã hội, nhận thức và lí giải mối quan hệ giữa con người với con
người. Trong xã hội phân hóa giai cấp ấy, khi con người nhận thức được sự
bất công, người lao động hướng vào phản ánh những số phận nhỏ bé, bất hạnh
trong xã hội, từ đó cũng thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, lí tưởng và
đáng sống. Nguồn gốc và quá trình hình thành truyện cổ tích đã chi phối sâu
sắc đến đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật của thể loại.
13
1.1.1.3. Đặc điểm nội dung
Trong định nghĩa của nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu về truyện cổ
tích, từ đặc điểm quá trình hình thành và phát triển của thể loại, tác giả cũng
đã chỉ ra nội dung phản ánh chủ yếu của thể loại là “hướng vào những vấn đề
cơ bản, những hiện tượng có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt
là những xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi
gia đình và xã hội” [39, tr.42]. Truyện cổ tích sinh thành và phát triển trong
điều kiện xã hội đã có sự phân hóa giai cấp, tức là khi xã hội bắt đầu xuất hiện
những mâu thuẫn đối kháng, có liên hệ mật thiết đến quyền và lợi ích của mỗi
con người trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, nội dung cơ bản mà truyện cổ
tích phản ánh cũng là những vấn đề cơ bản trong đời sống thời bấy giờ, những
mâu thuẫn tồn tại trong một giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định.
Trước hết, nội dung cơ bản được phản ánh trong truyện cổ tích là
những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội. Ra đời khi xã hội công xã
nguyên thủy tan rã và hình thành gia đình phụ quyền, xã hội có sự phân chia
giai cấp, tầng lớp, nội dung phản ánh của truyện cổ tích gắn chặt với quá trình
lịch sử dài lâu đầy biến động ấy. Bước sang một giai đoạn lịch sử mới, con
người trong cổ tích ngỡ ngàng trước bao điều mới lạ, bao mối quan hệ xã hội
phức tạp, bao mâu thuẫn đối kháng trong gia đình và xã hội. Vì vậy, nội dung
trước tiên mà truyện cổ tích phản ánh là những mâu thuẫn, xung đột cơ bản,
có tính chất riêng tư và phổ biến trong gia đình và xã hội.
Muốn hiểu ra và lí giải quan niệm của tác giả dân gian khi xây dựng
nhân vật trong truyện cổ tích, cần đặt kiểu truyện này vào quá trình lịch sử đã
sản sinh ra nó và môi trường văn hóa đã nuôi dưỡng thể loại. Những mâu
thuẫn anh cả - em út, chị gái – em gái, mẹ ghẻ - con chồng, con đẻ - con nuôi
hay những bi kịch về hôn nhân và gia đình… là những xung đột có tính chất
riêng tư trong xã hội có giai cấp. Mặc dù đó là xung đột riêng tư nhưng lại là
14
những xung đột phổ biến trong đời sống. Cho dù, “Trong thực tế, không phải
cứ là anh cả mẹ kế thì tham lam xấu bụng, độc ác, còn những người em, những
người con chồng thì luôn luôn là người hiền lành, hiếu thảo” [39, tr.69].
Nhưng rõ ràng, quan niệm thẩm mĩ trong xây dựng nhân vật của tác giả
truyện cổ tích gắn chặt với tư tưởng phản kháng trước những bất công, vô lí
của gia đình phụ quyền, tư tưởng phân biệt con trường, con thứ… Chính vì
vậy, truyện cổ tích tập trung miêu tả, phản ánh và lí giải những mâu thuẫn có
tính chất riêng tư và phổ biến trong gia đình và xã hội phụ quyền: “Truyện cổ
tích chưa đi vào số phận riêng của từng cá nhân trong xã hội mà chú ý đến số
phận chung của những lớp người, những loại người khác nhau trong hàng
ngũ nhân dân, trước hết là những loại người bị đối xử bất công trong gia
đình phụ quyền” [39, tr.70].
Những mâu thuẫn, xung đột đối kháng trong xã hội có giai cấp là điều
con người chưa từng biết ở chế độ mẫu hệ trong lòng xã hội công xã nguyên
thủy. Sang một giai đoạn lịch sử mới, một hình thái xã hội mới, những mâu
thuẫn ấy là vấn đề cơ bản đầu tiên mà tác giả dân gian muốn phản ánh trong
truyện cổ tích, cũng là một nội dung rất quan trọng của thể loại truyện kể này.
Xét về mặt lịch sử, xã hội có giai cấp là một bước tiến vĩ đại, tuy nhiên, trong
xã hội ấy cũng tồn tại vô vàn bất công như những mẫu thuẫn, xung đột được
phản ánh trong truyện cổ tích đã nói ở trên. Hoàng Tiến Tựu đã nhận xét:
“Cái đầu tiên, mà cũng là cái lớn nhất mà tuyệt đại đa số nhân dân đã bị
tước mất, đó là quyền dân chủ bình đẳng – một thứ nhân quyền cơ bản và tối
thiểu của con người mà nhân dân đã từng được hưởng tuy rằng ở một trình
độ thấp – trong thời kì công xã nguyên thủy” [39, tr.71].
Trong một điều kiện lịch sử - xã hội như vậy, việc truyện cổ tích phản
ánh ước mơ, khát vọng của nhân dân lao động về một xã hội công bằng, lí
tưởng, người với người bình đẳng với nhau là điều hợp lí. Để thể hiện khát
15
vọng ấy, truyện cổ tích hướng vào những xung đột mà ở đó những người em
út, con riêng… thường là những người phải chịu áp bức, thiệt thòi hơn cả.
Mặc dù đó không phải là tuyệt đại đa số quy luật trong đời sống thực tế nhưng
thông qua hình tượng những nhân vật mồ côi, con riêng, em út đó, tác giả dân
gian muốn thể hiện một quan niệm thẩm mĩ cũng như một những phản kháng
trước sự bất công của xã hội phân hóa giai cấp.
Truyện cổ tích xây dựng hình tượng những nhân vật bề dưới, những
người con riêng, người em út, những đứa trẻ mồ côi phải chịu nhiều thiệt thòi,
bất hạnh nhưng vẫn luôn sống lương thiện, hiền lành, tốt bụng, hiếu thảo,
thủy chung, chịu thương chịu khó… Vì thế,“Trong đa số truyện cổ tích thần
kì, những nhân vật “đàn em”, “bề dưới” thường được nhìn nhận, miêu tả như
những con người đẹp nhất trong gia đình cũng như xã hội, những con người
mẫu mực, lí tưởng của nhân dân” [39, tr.72]. Nhân dân ta trong xã hội có
phân chia giai cấp chứa đựng muôn vàn bất công ấy muốn hướng đến xây
dựng một xã hội lí tưởng, nơi mà không còn người bóc lột người, không còn
áp bức, bất công, không còn những số phận bất hạnh của những người con
riêng, em út hay mồ côi. Tuy nhiên, điều kiện lịch sử không cho phép nhân
dân hiện thực hóa ước mơ ấy vào hiện thực cuộc sống. Cũng chính vì vậy,
trong truyện cổ tích – đặc biệt là cổ tích thần kì – cần có sự tham gia của các
yếu tố kì ảo để giải quyết xung đột và thể hiện ước mơ, khát vọng của nhân
dân lao động khi mà điều kiện thực tế chưa thể và không thể thỏa mãn được
những lí tưởng ấy.
Một nội dung khác được phản ánh trong truyện cổ tích là triết lí sống
và đạo lí làm người của nhân dân lao động. Nhân vật chính diện như người
con riêng, người em út, người mồ côi… dẫu trong hoàn cảnh đọa đầy và bất
hạnh thì vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người Việt Nam
truyền thống: hiếu thảo, cần cù, chịu thương chịu khó, thủy chung, nghĩa
16
tình… Có thể nói, “lạc quan, yêu đời, ham sống và yêu thương quý trọng con
người, đó chính là phần cốt lõi nhất của triết lí sống và đạo lí làm người của
nhân dân ta ở trong truyện cổ tích” [39, tr.75].
Tinh thần lạc quan là một đặc trưng rất nổi bật trong triết lí sống của
nhân dân lao động được phản ánh trong truyện cổ tích. Đa phần truyện cổ tích
đều kết thúc có hậu – đó được coi là một biểu hiện của tinh thần lạc quan của
tác giả dân gian. Tuy nhiên, đó không phải là biểu hiện duy nhất, cũng chưa
phải là biểu hiện cao nhất của tình cảm cao đẹp này. Nhìn sâu hơn vào những
gì mà tác giả dân gian muốn phản ánh trong truyện cổ tích, có thể thấy rằng
nhiều truyện cổ tích mặc dù không kết thúc có hậu nhưng ở đó vẫn chan chứa
tinh thần lạc quan và niềm vui sống, vẫn cho người đọc những rung cảm thẩm
mĩ cao đẹp, vẫn hướng trái tim con người đến những điều cao thượng và tốt
đẹp: “Rất nhiều truyện cổ tích có kết cục bi thảm, các nhân vật chính diện
đều phải chết hoặc ra đi biệt tích nhưng tinh thần lạc quan vẫn tỏa sáng, vì
những cái chết hoặc sự ra đi biệt tích của các nhân vật chính diện chỉ càng
làm tăng thêm niềm tin và sự khẳng định đối với phẩm chất cao đẹp của con
người chân chính” [39, tr.76].
Từ tinh thần lạc quan trong cổ tích, nhân dân lao động còn muốn hướng
đến những giá trị nhân sinh cao cả, những bài học đạo đức, bài học làm người.
Đạo đức ấy vừa là đạo đức thực tiễn, nhưng đồng thời cũng là đạo đức trong
ước mơ của nhân dân. Xây dựng những hình tượng nhân vật cần cù, chịu khó,
thủy chung, hiếu thảo, hào hiệp quên mình đến mức khó có thể có được trong
thực tế cuộc sống chính là đạo đức lí tưởng mà nhân dân hằng mơ ước. Mỗi
câu chuyện dân gian là một bài học đạo đức, hoặc lồng vào đó những triết lí
đạo đức nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, giáo dục con người sống lạc quan, yêu đời,
nhân ái, thủy chung… Cũng chính nhờ giá trị đạo đức sâu sắc ấy mà truyện cổ
tích có được vị trí quan trọng trong kho tàng văn học dân gian cũng như sức
sống trường tồn trong đời sống nhân dân – môi trường đã sản sinh ra thể loại.
17
1.1.1.4. Đặc điểm nghệ thuật
Truyện cổ tích là một thể loạiđặc sắc trong kho tàng văn học dân gian
với một số lượng tác phẩm rất lớn cũng như giá trị nghệ thuật đặc sắc. Phân
loại truyện cổ tích là một vấn đề cần thiết khi nghiên cứu thể loại này. Nhìn
chung, cách phân loại truyện cổ tích phổ biến và được sự đồng tình cao từ
giới nghiên cứu là cách phân loại truyện cổ tích dựa theo đề tài và phương
pháp sáng tác. Theo đó, truyện cổ tích được phân chia thành ba tiểu loại:
truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích sinh hoạt.
Trong thể loại truyện cổ tích, bên cạnh những điểm chung, mỗi bộ phận
truyện cổ tích có đề tài và phương pháp sáng tác, phương pháp chiếm lĩnh và
phản ánh hiện thực riêng biệt. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập
trung đi sâu, làm rõ hơn những nét nổi bật của truyện cổ tích thần kì - bộ
phận có số lượng truyện kể đồ sộ, nội dung phản ánh phong phú cũng như
giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất – mà Tấm Cám là một ví dụ tiêu biểu của
tiểu loại này.
Nếu đối tượng phản ánh và chiếm lĩnh trong thần thoại là các hiện
tượng trong đời sống tự nhiên thì đối tượng phản ánh, miêu tả trong truyện cổ
tích lại là đời sống xã hội của con người, cụ thể là những mâu thuẫn, xung đột
trong giai đoạn xã hội phân chia giai cấp. Nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu
nhận xét: “Xét về đối tượng miêu tả, phản ánh thì bao giờ truyện cổ tích thần
kì cũng hướng về những nhân vật và những xung đột xã hội của con người, đó
là trung tâm, là đối tượng chủ yếu. Các nhân vật thần kì dù nhiều hay ít,
mạnh hay yếu đều không phải và không thể là đối tượng chính của truyện cổ
tích thần kì” [39, tr.57]. Nói như vậy có nghĩa là, đối tượng chủ yếu mà
truyện cổ tích thần kì hướng đến vẫn là con người và những xung đột trong
đời sống con người, chính vì vậy các nhân vật thần kì có thể xuất hiện với vai
trò đậm hay nhạt nhưng không phải là đối tượng chủ yếu mà truyện cổ tích
18
thần kì muốn phản ánh. Để thể hiện cho ý đồ nghệ thuật ấy, các tác giả dân
gian bao giờ cũng lựa chọn một hình thức nghệ thuật phù hợp để phản ánh nội
dung đó. Chẳng hạn, trong truyện cổ tích, tên tác phẩm luôn là tên của con
người (như truyện Thạch Sanh, Tấm Cám, Chử Đồng Tử…) hoặc hướng về
thế giới loài người (như truyện Sự tích trầu cau, Cây khế…).
Trong quá trình phản ánh và chiếm lĩnh đời sống của bộ phận truyện kể
này, yếu tố thần kì là một phương tiện nghệ thuật không thể thiếu. Yếu tố thần
kì trong truyện cổ tích thần kì là phương tiện và phương pháp giải quyết
những mâu thuẫn, xung đột giữa con người với con người trong đời sống xã
hội. Ở truyện cổ tích, nhân vật chính diện thường rất thụ động và ở vào những
hoàn cảnh khó khăn, thử thách. Nếu không có sự trợ giúp của một lực lượng
siêu nhiên qua những yếu tố thần kì thì mạch phát triển chung của câu chuyện
sẽ rơi vào bế tắc. Vì vậy, yếu tố thần kì ở đây có vai trò vô cùng quan trọng,
là phương tiện và phương pháp để giải quyết những mâu thuẫn trong lòng xã
hội có sự phân chia giai cấp.
Tuy nhiên, như đã nói, đối với truyện cổ tích thần kì thì bao giờ con
người và những gì thuộc về thế giới cũng là đối tượng miêu tả, phản ánh
chính của câu chuyện. Vì vậy, sự xuất hiện của yếu tố thần kì phải đặt vào
hoàn cảnh, mạch phát triển chung của câu chuyện trong thế giới loài người và
nó chỉ có ý nghĩa khi con người thực sự cần đến một lực lượng siêu nhiên bên
ngoài để giải quyết mâu thuẫn đã đi đến tận cùng của sự bế tắc: “Lí do xuất
hiện và tồn tại của các nhân vật thần kì trong truyện cổ tích không thể tìm
thấy ở bản thân chúng mà phải tìm ở các nhân vật là người, nhất là các nhân
vật chính diện” [39, tr.58].
Một yếu tố nữa khẳng định truyện cổ tích thần kì – mặc dù yếu tố thần
kì là phương tiện nghệ thuật quan trọng – nhưng con người và đời sống con
người vẫn là đối tượng phản ánh chủ yếu là sự xuất hiện. Khi mâu thuẫn,
19
xung đột đến độ cao trào, yếu tố thần kì xuất hiện để giải quyết vấn đề, giúp
cho câu chuyện tiếp tục phát triển. Khi mâu thuẫn được giải quyết, các lực
lượng thần kì khi đã làm hết sứ mệnh của mình lại rút lui để nhường chỗ cho
chuyện đời diễn ra theo quy luật, theo logic nội tại của nó. Trong truyện cổ
tích, nhân vật chính diện thường thụ động và bị đặt vào những tình huống
nguy hiểm không chỉ một lần mà có thể nhiều lần. Bao nhiêu lần nhân vật
chính diện rơi vào hoàn cảnh bế tắc không thể giải quyết là bấy nhiêu lần lực
lượng thần kì xuất hiện để giải quyết mâu thuẫn, đảm bảo cho câu chuyện tiếp
tục phát triển. Như vậy, sự xuất hiện của các lực lượng thần kì ở mỗi truyện
cổ tích có thể đậm nhạt, nhiều ít khác nhau song đều chịu sự chi phối quyết
định từ logic nội tại của đời sống con người, của cõi đời thực. “Yếu tố kì diệu,
siêu nhiên chính là một thủ pháp nghệ thuật gắn với nội dung lãng mạn của
truyện. Tác giả dân gian cũng như thính giả dân gian để cho trí tưởng tượng
bay bổng theo những sự kiện kì diệu ở trong truyện không phải vì thực tâm tin
– ít ra thì cũng không hoàn toàn tin – rằng những sự kiện đó là có thực nhưng
chủ yếu là vì những sự kiện đó cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề mà
thực tế cuộc sống trong xã hội cũ chưa cho phép giải quyết hoàn toàn như ý
muốn, như ước vọng của nhân dân” [20, tr.347]. Các yếu tố thần kì có thể
xuất hiện dưới nhiều hình thức như nhân vật thần kì (Bụt, Tiên…), đồ vật
thần kì (cung thần, niêu cơm thần, túi ba gang…) hay sự biến hóa thần kì
(những lần hóa thân của Tấm…). Dù xuất hiện dưới hình thức nào thì đó đều
là phương tiện, là cách thức để tác giả dân gian giải quyết những mâu thuẫn
trong hoàn cảnh bế tắc mà logic của cõi đời thực không thể làm được.
Yếu tố thần kì là phương tiện nghệ thuật của truyện cổ tích thần kì.
Nhưng không riêng ở truyện cổ tích thần kì mới có sự xuất hiện của yếu tố
thần kì. Cần căn cứ vào vai trò của yếu tố thần kì trong quá trình giải quyết
xung đột, mâu thuẫn của truyện để xác định chính xác các tiểu loại của truyện
20
cổ tích: “Khi các yếu tố thần kì không tham gia vào việc giải quyết những
xung đột cơ bản trong truyện mà chỉ góp phần làm tăng thêm tính chất li kì
hấp dẫn của câu chuyện thì đó chính là dấu hiệu của truyện cổ tích sinh hoạt,
chứ không còn là cổ tích thần kì nữa” [39, tr.59].
Để cho câu chuyện diễn biến và phát triển, bao giờ cũng cần một bối
cảnh không gian và thời gian. Tác giả dân gian đã sáng tạo ra một thế giới cho
những nhân vật, những lực lượng thần kì trong truyện cổ tích. Đó không phải
là thế giới trong cõi đời thực, nhưng cũng không hoàn toàn là thế giới thần
linh như trong thần thoại ở giai đoạn trước: “Đó là một thế giới riêng,“thế
giới của truyện cổ tích tồn tại trong trí tưởng tượng của người kể và người
nghe truyện cổ tích” [39, tr.59]. Đó là thế giới mênh mông bao gồm nhiều
tầng, nhiều cõi, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cuộc sống của con người ở
cõi trần. Cõi đời thực cũng là thế giới quy định và chi phối mọi diễn biến
chính của câu chuyện, tất nhiên để câu chuyện ở cõi trần phát triển thì cần sự
tham gia giải quyết mâu thuẫn của các lực lượng thần kì. Thế giới trong
truyện cổ tích phản ánh thế giới quan của tác giả truyện cổ tích với nguyên tắc
chung thống nhất là “dùng tưởng tượng và hư cấu để nối liền hiện thực với lí
tượng, nối liền cõi trần với cõi tiên, con người với thần thánh… tạo thành một
thể thống nhất. Dĩ nhiên đó chỉ là một sự thống nhất ảo tưởng, nhưng nó đã
thực sự tồn tại như một thực thể vốn có và cần phải có trong quan niệm và
niềm tin của tác giả truyện cổ tích” [39, tr.60]. Vì vậy, không thể hiểu và lí
giải tư duy cổ tích nếu không đặt tác phẩm trong từ trường của thế giới
quan cổ tích. Những điều tưởng chừng như vô lí ở cõi đời thực (không gian
nhiều tầng nhiều cõi, các lực lượng thần kì xuất hiện và biến mất trong câu
chuyện, thời gian khi trôi nhanh, khi lại như ngưng đọng…) nhưng lại hợp
lí với thế giới quan trong tưởng tượng của người kể và người nghe truyện cổ
tích thần kì.
21
Một đặc điểm khác của truyện cổ tích thần kì là tính chất đông đảo của
hệ thống nhân vật. Có thể nói, truyện cổ tích thần kì là bộ phận truyện kể
thuộc loại hình tự sự dân gian có hệ thống nhân vật vào loại đông đảo, phong
phú và phức tạp hàng đầu. Về cơ bản, có thể phân chia hệ thống nhân vật
trong truyện cổ tích thần kì thành hai loại chính: nhân vật thần kì hoặc nửa
thần kì, và nhân vật là người. Ở mỗi bộ phận nhân vật ấy đều có những nhân
vật thuộc phe chính diện và phản diện. Mỗi truyện cổ tích thần kì có thể có
đầy đủ hoặc không đầy đủ từng loại nhân vật trong hệ thống nhân vật phong
phú ấy. Qua đặc trưng này cũng có thể khẳng định thế rằng, thế giới mà tác
giả dân gian muốn phản ánh thông qua truyện cổ tích là một thế giới rộng lớn
và phức tạp mang đặc trưng của xã hội phong kiến, hình thành gia đình phụ
quyền, đã có sự phân chia giai cấp và xuất hiện những mâu thuẫn đối kháng
trong đời sống.
Truyện cổ tích – đặc biệt là cổ tích thần kì - là bộ phận có giá trịcủa
loại hình tự sự dân gian. Sinh thành và phát triển trong một giai đoạn lịch sử
dài lâu, truyện cổ tích phản ánh những mâu thuẫn phức tạp trong lòng xã hội
có giai cấp. Chính nội dung phong phú, phức tạp của đời sống xã hội cùng với
đặc trưng thể loại truyện cổ tích, phương pháp sáng tác và phản ánh hiện thực
đã chi phối đến những nội dung phong phú của truyện cổ tích trong kho tàng
sáng tác dân gian.
1.1.2. Truyện Nôm – khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm
1.1.2.1. Khái niệm truyện Nôm
Truyện Nôm là một thể loại có số lượng tác phẩm lớn và có nhiều giá
trị của nền văn học Trung đại Việt Nam. Chính vì vậy, truyện Nôm rất được
các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
(Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) có đưa ra định nghĩa:
“Thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở
22
rộ vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thề kỷ XIX, do viết bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ
Nôm nên được gọi là truyện Nôm” [15, tr.372].
Truyện Nôm gắn với nhiều thành tựu của văn học Việt Nam nên luôn
dành được sự quan tâm rất lớn từ các nhà nghiên cứu. Cũng nghiên cứu về
truyện Nôm, tác giả Lã Nhâm Thìn đưa ra định nghĩa về thể loại: “Truyện
Nôm là loại hình tự sự bằng thơ dùng ngôn ngữ văn tự dân tộc - chữ Nôm để
sáng tác. Xét về thể thơ, một số tác phẩm được viết bằng thể thơ Đường luật,
gọi là Truyện thơ Đường luật (như truyện Vương Tường, Lâm tuyền kì ngộ,
Tô Công phụng sứ…). Nhưng phần lớn truyện Nôm được viết bằng thể thơ lục
bát. Do đó nhiều khi, khái niệm truyện Nôm được được dùng để chỉ những tác
phẩm truyện thơ lục bát” [36, tr. 237].
Quá trình hình thành và phát triển cuả truyện Nôm chịu sự chi phối
nhiều mặt của quy luật lịch sử - xã hội và quy luật văn hóa - văn học nên việc
định nghĩa thật đầy đủ, chính xác về thể loại này chưa bao giờ là đơn giản.
Xét về mặt thuật ngữ, thể loại này cũng được các nhà nghiên cứu gọi bằng
nhiều tên gọi khác nhau. Tác giả Đông Hồ trong bài Khảo cứu truyện Song
Tinh Bất Dạ gọi truyện Nôm là “truyện diễn ca”. Trong Vũ trung tùy bút,
Phạm Đình Hổ lại gọi đó là “tiểu thuyết quốc ngữ”. Cũng nghiên cứu về thể
loại, trong công trình Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm sử dụng
thuật ngữ “truyện Nôm”. Mặc dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng tên gọi
“truyện Nôm” hay “truyện thơ Nôm” vẫn là cách gọi phổ biến nhất, đồng thời
nêu được những đặc trưng cơ bản nhất của thể loại này. Từ những định
nghĩa về truyện Nôm nhưng, có thể xác định những đặc trưng bản chất của
thể loại này: Truyện Nôm là những tác phẩm thuộc loại hình tự sự, được
sáng tác bằng thơ và sử dụng chữ Nôm nên được gọi là truyện thơ Nôm
hay truyện Nôm.
23
Truyện Nôm là một thể loại văn học có nhiều giá trị. Trải qua quá trình
phát triển dài lâu, truyện Nôm từ hình thức ban đầu cũng có nhiều biến đổi,
nhưng cơ bản những đặc điểm trên vẫn là đặc điểm chung nhất của thể loại
trong suốt hành trình phát triển lịch sử. Đây là thể loại có sự kết hợp giữa hai
phương thức biểu đạt cơ bản trong văn học là tự sự và trữ tình. Phương thức
tự sự giúp cho tác phẩm có cốt truyện, tình tiết, nhân vật và cấu trúc tác phẩm
khá quy mô. Cùng với đó là hình thức kể chuyện đậm chất trữ tình, ngôn ngữ
giàu tính biểu cảm. Như vậy, có thể coi truyện Nôm là một loại tiểu thuyết
bằng thơ. Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình đã tạo nên nét riêng
cho thể loại, tạo nên một phạm vi phản ánh hiện thực đời sống rộng lớn vốn
có trong tác phẩm tự sự và một tác phẩm thấm đẫm chất thơ, chất cảm xúc
của thể loại trữ tình. Ngoài một phần nhỏ tác phẩm truyện Nôm ở giai đoạn
đầu khi mới ra đời được viết bằng thể thơ Đường Luật, còn lại hầu hết truyện
Nôm sử dụng hình thức thơ lục bát.
1.1.2.2. Nguồn gốc và quá trình phát triển truyện Nôm
Mỗi thể loại văn học có quá trình hình thành và phát triển gắn chặt với
hoàn cảnh lịch sử - xã hội của thời đại và điều kiện văn hóa, văn học. Nếu như
thể loại truyện cổ tích ra đời vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên
thủy và hình thành gia đình phụ quyền, xã hội có sự phân chia giai cấp thì
truyện thơ Nôm xuất hiện vào giai đoạn suy yếu, khủng hoảng trầm trọng của
chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Vào khoảng thế kỉ XVI, khi nhà
Lê khủng hoảng, vua quan ăn chơi sa đọa, triều đình phong kiến thối nát
khiến đời sống xã hội thời bấy giờ đi vào bế tắc. Trong hoàn cảnh đó, sự bùng
nổ của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân là quy luật tất yếu của lịch sử.
Từ thế kỉ XVI trở về sau, xã hội phong kiến bước vào giai đoạn khủng
hoảng trầm trọng. Những tư tưởng đạo đức phong kiến như “tam cương ngũ
thường”, tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội bắt đầu bị đảo lộn. Những cuộc
24
khởi nghĩa nông dân nổ ra ở giai đoạn này là minh chứng cho sự phản kháng
của quần chúng nhân dân lao động trước những tư tưởng chính thống mà giai
cấp phong kiến. Trong cuốn Việt sử thông giám cương mụcđã nhận xét về giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam ở những thế kỉ
này: “Bên trong trái đạo đức, bên ngoài trái chính lệnh, giềng mối suy tàn,
pháp lệnh không chấn chỉnh, quan lại hà khắc, nhũng nhiễu…” [17, tr.71].
Với bộ phận truyện Nôm bình dân mượn cốt truyện từ tác phẩm văn
học dân gian (tiêu biểu như truyện Nôm Tấm Cám), cũng phải khẳng định
rằng, phải có sự tương đồng trong nội dung cốt truyện, nội dung tư tưởng của
các truyện cổ tích dân gian với nội dung tư tưởng mà các tác giả truyện Nôm
muốn phản ánh ở giai đoạn phong kiến suy tàn. Điều đó lí giải tại sao các tác
giả truyện Nôm lại mượn cốt truyện cổ tích này chứ không phải bất kì một
câu chuyện cổ tích nào khác. Khi chế độ phong kiến rơi vào ngõ cụt, nền tảng
tư tưởng phong kiến suy vong thì con người có xu hướng quay về với những
giá trị đạo đức nhân văn trong truyền thống. Đó cũng là cơ sở cho tư tưởng
nhân nghĩa, những giá trị đạo đức tốt đẹp, những khát vọng hạnh phúc có cơ
hội được sống dậy, vượt lên những ràng buộc chật hẹp của tôn ti, đạo đức
Nho giáo.
1.1.2.3. Đặc điểm nội dung
Truyện Nôm là thể loại sinh thành và phát triển vào giai đoạn suy tàn
của chế độ phong kiến. Khi nhà nước phong kiến mục ruỗng và thối nát, nền
tảng đạo đức Nho giáo không còn giá trị, đời sống tư tưởng trong xã hội quay
về với những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong văn hóa truyền thống. Điều
đó đã tác động sâu sắc đến nội dung được phản ánh trong truyện Nôm. Ở
những truyện Nôm bình dân mượn cốt truyện từ văn học dân gian, các tác giả
truyện Nôm thời trung đại đã tìm thấy ở những tác phẩm văn học dân gian
những điểm tương đồng trong nội dung phản ánh, khát vọng tư tưởng và lí
tưởng xã hội mà họ muốn hướng đến. Bất kì sự lựa chọn nào cũng phù hợp
25
với quy luật lịch sử, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội, điều kiện văn hóa,
văn học ở thời đại đó.
Ở giai đoạn đầu truyện Nôm đi sâu vào kiểu truyện tài tử giai nhân với
mong muốn phản ánh khát vọng về tự do, hạnh phúc đích thực trên nền tảng
của lễ giáo phong kiến. Các tác phẩm đầu mùa như Hoa tiên kí, Truyện Song
Tinh, Sơ kính tân trang… không đi vào phản ánh mặt trái của chế độ phong
kiến mà phải đến kiệt tác Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du hiện thực xã
hội với những góc khuất mới được phơi bày lên án, đó là xã hội của bất công,
ngang trái mà “Trong tay có sẵn đồng tiền/ Dẫu rằng đổi trắng thay đen khó
gì”. Cùng với truyện Nôm bác học, truyện Nôm bình dân cũng góp mình vào
việc phản ánh chân thực bức tranh hiện thực xã hội ấy qua những truyện Nôm
như Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa... Tư tưởng nhân văn thấm
nhuần từ văn học dân gian đến văn học viết đã tạo nên những tác phẩm truyện
Nôm bình dân giàu giá trị như Tấm Cám, Thạch Sanh...
Ở bộ phận truyện Nôm bình dân mượn cốt truyện văn học dân gian với
sự chi phối của quan niệm “ở hiền gặp lành”, với cách kết thúc có hậu như
một đặc trưng điển hình thì nhân vật chính diện luôn lấy khát vọng tự do và
ước mơ hạnh phúc làm cái đích để hướng đến. Nhờ việc mượn cốt truyện cổ
tích, ước mơ của con người cũng có điều kiện để vượt lên trên logic của đời
sống thực tại mà đạt đến khát vọng hạnh phúc như quan niệm dân gian. Đặc
điểm này vừa chứa đựng tư tưởng tích cực, nhưng đồng thời cũng là điểm hạn
chế của truyện Nôm bình dân. Một mặt, tác giả truyện Nôm đề cao khát vọng
hạnh phúc chính đáng của con người, bênh vực lẽ phải, đó là yếu tố tích cực.
Nhưng mặt khác, truyện Nôm lại không chỉ ra nguyên nhân bản chất dẫn đến
bất công, bất hạnh trong xã hội mà sử dụng sự trợ giúp của yếu tố thần kì để
giải quyết mâu thuẫn (giống như trong truyện cổ tích). Đó vốn dĩ không phải
cách thức đấu tranh để con người có được hạnh phúc thật sự, kết cục đó cũng
không phải là hiện thực mà con người thực sự có được trong đời sống. Những
26
điểm tích cực cũng như hạn chế đó là hệ quả của quy luật mượn cốt truyện từ
văn học dân gian. Truyện Nôm bình dân Tấm Cám là tác phẩm tiêu biểu cho
tinh thần ấy. Còn ở bộ phận truyện Nôm bác học – tác giả là những nhà nho
chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo đức Nho giáo thì phần khát vọng ấy dù có
mãnh liệt nhưng vẫn khó lòng thoát khỏi sự sắp đặt của lá bài số phận định
sẵn (tiêu biểu như Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Đi liền với ước mơ hạnh phúc, một nội dung được phản ánh trong
truyện Nôm là vấn đềca ngợi tình yêu tự do nằm ngoài khuôn khổ của lễ giáo
phong kiến. Đó là các tác phẩm từ truyện Nôm bình dân như Tống Trân Cúc
Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa… đến những truyện Nôm bác học như Hoa tiên ký,
Truyện Kiều… Tuy nhiên, ở nhiều tác phẩm, tác giả vẫn lựa chọn cách giải
quyết vấn đề tình yêu tự do trong câu chuyện bằng việc lựa chọn giải pháp
dung hòa với lễ giáo phong kiến. Những kết thúc đó tạo cho câu chuyện có
phần gượng ép, người đọc cảm thấy kết cục ấy khó có thể xảy ra trong thực tế
đời sống. Ở những tác phẩm đỉnh cao của thể loại như Truyện Kiều, logic của
đời sống thực tại đã vượt lên trên lí tưởng hạnh phúc trong tưởng tượng để
cho ta một kết thúc dù đau đớn, không trọn vẹn nhưng lại như những gì diễn
ra trong thực tế đời sống.
1.1.2.4. Đặc điểm nghệ thuật
Nói đến nghệ thuật của truyện Nôm, nét đặc trưng đầu tiên xuất phát từ
chính những đặc trưng bản chất của thể loại. Là tác phẩm sử dụng ngôn ngữ
dân tộc (chữ Nôm) và hình thức thơ ca truyền thống (thơ lục bát) nên truyện
Nôm mang đậm dấu ấn của truyền thống văn học Việt Nam. Tác phẩm truyện
Nôm dù có mượn cốt truyện của văn học nước ngoài thì những nội dung tư
tưởng mà nó phản ánh cũng phù hợp với tâm lí, đời sống của dân tộc. Có thể
nói đây là thể loại thuần túy dân tộc, mang trong mình dòng chảy tâm tình của
tâm hồn người Việt.
27
Truyện Nôm là tác phẩm thuộc loại hình tự sự, có cốt truyện, tình tiết,
nhân vật… nên cách kể, cách tả là một đặc điểmkhông thể thiếu của thể loại.
Bên cạnh một số truyện Nôm còn hạn chế về nghệ thuật miêu tả, nghệ thuật
tự sự thì nhiều tác phẩm đã đạt đến những thành công nhất định. không
chỉchú ý đến đời sống bên ngoài, ở một số tác phẩm có giá trị, tác giả truyện
Nôm đã rất chú trọng miêu tả nội tâm nhân vật, miêu tả những rung động
trong tâm hồn. Miêu tả tâm lý và đặc biệt là miêu tả nội tâm nhân vật là thành
công vượt bậc của truyện Nôm trong sự phát triển của loại hình truyện kể thời
trung đại nói chung.
Nói đến nghệ thuật của truyện Nôm không thể không nhắc đến những
đặc điểm về mặt ngôn ngữ. Bên cạnh một số truyện Nôm, mà chủ yếu là bộ
phận truyện Nôm bình dân, ngôn ngữ kể, tả còn sơ lược, gượng ép, đan xen cả
ngôn ngữ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày thì ở nhiều tác phẩm, đặc biệt là ở
truyện Nôm bác học, ngôn ngữ trong tác phẩm đã đạt đến sự trau chuốt,
nhuần nhuyễn, thành thục.
Bên cạnh những thành tựu nghệ thuật kể trên, nghệ thuật truyện Nôm
cũng có những hạn chế nhất định như sử dụng quá nhiều điển tích, điển cố,
ngôn ngữ còn mang tính khẩu ngữ, đan xen ngôn ngữ hàng ngày… Tuy
nhiên, quá trình phát triển của truyện Nôm đã từng bước hoàn thiện những
đặc trưng nghệ thuật để truyện Nôm trở thành thể loại có đóng góp quan trọng
trong sự phát triển chung của văn học trung đại Việt Nam.
1.2. Vấn đề văn bản
1.2.1. Truyện cổ tích Tấm Cám
Tấm Cám là một truyện cổ tích tiêu biểu, rất điển hình cho thể loại
truyện cổ tích thần kì Việt Nam. Tác phẩm có một quá trình lưu truyền lâu dài
trong dân gian với rất nhiều dị bản khác nhau. Đây có thể coi là truyện cổ tích
có số lượng dị bản nhiều bậc nhất trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Sự
28
khác nhau ở mỗi bản truyện Tấm Cám chủ yếu ở đoạn kết của tác phẩm. Có
thể điểm qua một số bản kể truyện cổ tích Tấm Cám tiêu biểu.
Trong cuốn Truyện Cổ tích Việt Nam đặc sắc của NXB Văn học (Phúc
Hải tuyển chọn), truyện Tấm Cám kết thúc bằng việc Tấm sai quân lính đem
nước sôi dội vào Cám, khiến Cám chết còng queo ngay tức khắc. Nghe tin
Cám chết, mụ dì ghẻ cũng uất lên chết theo con. Đây cũng là cái kết khá phổ
biến trong nhiều bản kể truyện cổ tích Tấm Cám, chẳng hạn như bản truyện
Tấm Cám in trong cuốn Truyện cổ tích Việt Nam của NXB Văn học. Tuy
nhiên, bản truyện này kể thêm về chi tiết sau khi Cám chết, Tấm làm mắm gửi
cho mụ dì ghẻ, mụ tưởng thật bữa nào cũng lấy ra ăn và tấm tắc khen ngon.
Sách giáo khoa Ngữ văn 10 khi dạy về truyện cổ tích Tấm Cám có trích
dẫn bản truyện cổ tích Tấm Cám trong cuốn Tuyển tập truyện cổ tích Việt
Nam(Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996) và
truyện Tấm Cám trong cuốn Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4 (Nguyễn
Đổng Chi, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1975). Ở hai văn bản này, phần kết
của truyện đã được lược đi nhiều chi tiết và kết thúc tác phẩm khá đơn giản:
Cám sai đào một cái hố rồi ngồi xuống ở dưới, gọi người đem nước sôi dội
xuống hố, Cám chết còng queo. Nghe tin Cám chết, mụ dì ghẻ cũng lăn đùng
ra chết.
Bên cạnh những bản kể trên còn có những bản truyện Tấm Cám lựa
chọn cái kết nhẹ nhàng hơn, không nhấn mạnh vào sự trả thù của Tấm qua chi
tiết dội nước sôi vào Cám và làm mắm gửi cho mụ dì ghẻ. Đó là các bản
truyện cổ tích Tấm Cám trong cuốn Truyện cổ tích Việt Nam - Mẹ kể con
nghe, cuốn Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nhà xuất bản Mỹ thuật…
Truyện lựa chọn một cái kết khá nhẹ nhàng như sự trả thù của tự nhiên qua
việc mẹ con Cám xấu hổ bỏ đi và bị sét đánh chết trên đường. Nhiều bản
truyện cổ tích Tấm Cám khác cũng lược đi nhiều chi tiết ở cốt truyện và chỉ
29
kết thúc đơn giản bằng việc Tấm được hưởng hạnh phúc xứng đáng và mẹ
con Cám bị trừng trị cho tội ác mà chúng đã gây ra.
Có thể nói, truyện cổ tích Tấm Cám có một quá trình lưu truyền dài lâu
trong dân gian ở nhiều vùng miền khác nhau. Không chỉ riêng dân tộc Kinh
mà nhiều dân tộc thiểu số cũng có những truyện cổ tích có cốt truyện tương tự
truyện cổ tích Tấm Cám. Ở mỗi vùng miền khác nhau, truyện Tấm Cám lại có
những dị bản khác nhau và đôi khi gắn liền với cả những sự tích lịch sử như
thần tích thái hậu Ỷ Lan. Vấn đề một tác phẩm có nhiều dị bản là vấn đề phổ
biến và cũng là một đặc trưng của văn học dân gian gắn liền với tính truyền
miệng. Tuy nhiên, truyện Tấm Cám là truyện cổ tích có số lượng dị bản nhiều
vào loại bậc nhất, cũng là tác phẩm có nhiều sự tranh cãi nhất, đặc biệt về sự
khác nhau giữa các cách kết thúc tác phẩm.
1.2.2. Truyện Nôm Tấm Cám
Truyện Nôm Tấm Cám là tác phẩm dựa trên cốt truyện cổ tích Tấm
Cámrất quen thuộc trong dân gian. Câu chuyện cô Tấm hiền lành, tấm lòng
thảo thơm nhân hậu luôn đấu tranh giành hạnh phúc đã trở thành một biểu
tượng đẹp trong thế giới truyện cổ tích, gửi gắm ước mơ và khát vọng của
nhân dân lao động về một xã hội công bằng, lý tưởng. Từ một tác phẩm
truyện cổ tích, Tấm Cám được các tác giả truyện Nôm mượn cốt truyện để
xây dựng nên một tác phẩm mới – dẫu không mới về cốt truyện nhưng mới về
cách phản ánh, cách xây dựng nhân vật và trong đó không thể thiếu những
quan điểm, đánh giá của các tác giả truyện Nôm về một giai đoạn lịch sử rối
ren, tăm tối của chế độ phong kiến Việt Nam cuối mùa. Bằng việc mượn cốt
truyện dân gian, truyện Nôm Tấm Cám đã truyền tải những thông điệp xã hội
mới dưới một hình thức nghệ thuật mới, thể hiện quan niệm và cách nhìn
nhận của con người đương thời về các vấn đề xã hội.
30
Truyện Nôm Tấm Cám với dung lượng tác phẩm tương đối dài, bên
cạnh quá trình lưu truyền bằng chữ viết cũng song hành với quá trình truyền
miệng trong dân gian. Chính vì vậy, việc xuất hiện những bản truyện Nôm
Tấm Cám khác nhau cũng là một quy luật tất yếu. Nhà nghiên cứu Đinh Gia
Khánh thống kê được nhiều bản truyện Nôm Tấm Cám như: Truyện Nôm
Tấm Cám (thơ lục bát, do nhà in Phúc Chi – Hà Nội xuất bản trước cách
mạng tháng Tám), Tấm Cám tân ca (thơ lục bát, do Nguyễn Văn Chiểu xuất
bản trước cách mạng tháng Tám), Con Tấm con Cám thơ (thơ lục bát, do
Đặng Lễ Nghi soạn, năm 1911, xuất bản ở Sài Gòn), Tấm Cám (thơ song thất
lục bát, do Tú Mỡ viết năm 1945 và xuất bản năm 1955 ở Hà Nội), Tấm Cám
(thơ bốn chữ, do Nguyễn Bá Thái soạn, nhà sách Kim Vinh xuất bản tại Hà
Nội, năm 1953)… Có thể nói, từ cốt truyện Tấm Cám trong dân gian, các tác
giả truyện Nôm dưới thời trung đại bằng nhiều hình thức thơ khác nhau, từ
lục bát, song thất lục bát, thơ bốn chữ… đã sáng tạo nên những tác phẩm mới,
hướng đến truyền tải những thông điệp nghệ thuật mới cũng như phản ánh
những vấn đề nhân sinh, xã hội của chính thời đại mình.
Vấn đề văn bản truyện cổ tích Tấm Cám cũng như vấn đề văn bản
truyện Nôm Tấm Cám là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp với nhiều ý kiến,
nhiều quan điểm cũng như mối liên quan giữa văn học dân gian và văn học
viết. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề này mà
chỉ điểm qua một số nghiên cứu đã có, thống kê về những bản kể của truyện
cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám. Bản truyện cổ tích Tấm Cám của
tác giả Vũ Ngọc Phan là văn bản khá đầy đủ các chi tiết, sự kiện; bản truyện
Nôm Tấm Cám của nhà in Vĩnh Thịnh cũng là văn bản truyện Nôm được viết
bằng thể thơ lục bát đặc trưng cho thể loại này. Vì vậy, để thống nhất trong
quá trình nghiên cứu, trong luận văn, chúng tôi lựa chọn bản kể truyện cổ tích
31
Tấm Cám của tác giả Vũ Ngọc Phan (được in trong phần phụ lục cuốn Sơ bộ
tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám của Đinh Gia
Khánh, Nxb Văn học, 1968) và truyện Nôm Tấm Cám của nhà in Vĩnh Thịnh
để tiến hành nghiên cứu so sánh.
* Tiểu kết
Chương 1 đã đi sâu, làm rõ một số vấn đề. Trước hết là vấn đề thể loại,
truyện cổ tích là thể loại có số lượng tác phẩm phong phú, nội dung phản ánh
đa dạng. Gắn với quá trình sinh thành và phát triển dài lâu, truyện cổ tích
mang đậm dấu ấn của đời sống hiện thực. Chúng tôi đã chỉ ra những nét cơ
bản trên các phương diện nguồn gốc quá trình hình thành và phát triển truyện
cổ tích, nội dung phản ánh và đặc điểm nghệ thuật của thể loại. Về thể loại
truyện Nôm, đây là một thể loại có nhiều giá trị đặc sắc của nền văn học trung
đại Việt Nam. Để làm cơ sở cho việc triển khai luận văn ở các chương sau,
chúng tôi đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản nhất của thể loại này như nguồn
gốc hình thành và phát triển truyện Nôm, đặc trưng nội dung phản ánh và đặc
điểm nghệ thuật cơ bản.
Về vấn đề văn bản, chúng tôi cũng có những tiêu chí cần thiết để lựa
chọn các văn bản phù hợp cho từng thể loại. Đây là điều kiện quan trọng cho
chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê và thực hiện các nội dung nghiên cứu
trong chương 2 và chương 3 của luận văn.
32
Chƣơng 2
SO SÁNHCỐT TRUYỆNVÀ NHÂN VẬT
2.1. So sánh về cốt truyện
2.1.1. Khái niệm cốt truyện
Cốt truyện đối với tác phẩm tự sự là xương sống, là bộ khung cho toàn
bộ câu chuyện diễn biến và phát triển. Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn
học”, cốt truyện được hiểu là:“hệ thống sự kiện được tổ chức theo yêu cầu tư
tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất
trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [15,
tr.99]. Thể loại truyện Nôm mặc dù sử dụng hình thức thơ lục bát nhưng vẫn
là một tác phẩm truyện kể, tức là tác phẩm thuộc loại hình tự sự. Vì vậy, sự
thành công của tác phẩm không thể không kể đến vai trò của cốt truyện.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “cốt truyện là một phương diện bộc lộ
nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính
cách nhân vật. Mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện
các xung đột xã hội” [15, tr.100].
Để xây dựng cốt truyện phải kể đến sự liên kết, tổ chức của hệ thống
các sự kiện. Thông qua sự sắp xếp các sự kiện trong mạch cốt truyện của tác
phẩm, tác giả khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật, từ đó nêu lên chủ đề tư
tưởng của tác phẩm nói chung. Về chức năng của cốt truyện, có thể khái quát:
“một là, nó gắn kết các sự kiện thành một chuỗi và tạo thành lịch sử của một
nhân vật, thực hiện việc khắc họa nhân vật; hai là, bộc lộ các xung đột, mâu
thuẫn của con người (xã hội, tâm lí, đạo đức…), tái hiện bức tranh đời sống;
ba là, tạo ra một ý nghĩa về nhân sinh có giá trị nhận thức; bốn là, gây hấp
dẫn đối với người đọc, bởi người đọc luôn luôn quan tâm tới số phận nhân
vật” [33, tr.94]. Như vậy, để tạo nên một câu chuyện hấp dẫn, một tác phẩm
tự sự lôi cuốn người đọc không thể thiếu đi vai trò quan trọng của yếu tố cốt
33
truyện. Chính vì vậy, nghiên cứu tác phẩm tự sự tất yếu phải quan tâm đến vai
trò của yếu tố cốt truyện. Những lý thuyết về cốt truyện trên đây sẽ là cơ sở
cho việc nghiên cứu cốt truyện ở từng tác phẩm tự sự văn học cụ thể.
2.1.2. Sự tương đồng vềcốt truyện
Truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám đều là những tác
phẩm thuộc loại hình tự sự, tất yếu phải quan tâm đến vai trò của yếu tố cốt
truyện. Truyện Nôm Tấm Cám mượn cốt truyện từ truyện cổ tích Tấm Cám
nên giữa hai tác phẩm có sự tương đồng cơ bản về cốt truyện. Nói về sự giống
nhau của yếu tố cốt truyện giữa hai tác phẩm, có thể tóm tắt cốt truyện chung
của cả hai tác phẩm qua các sự kiện chính như sau:
(1) Tấm là cô gái mồ côi, sống với mẹ ghẻ và em gái cùng cha khác
mẹ;
(2) Tấm bị mẹ con mụ gì ghẻ hành hạ, bạc đãi (mất giỏ tép, mất cá
bống, không được đi xem hội....);
(3) Nhờ sự giúp đỡ lực lượng thần kì, Tấm được kết hôn với nhà vua,
sống hạnh phúc giàu sang;
(4) Mẹ con gì ghẻ sinh lòng đố kị, lừa gạt, bức hại Tấm chết đi sống lại
nhiều lần.Tấm phải hóa thân thành chim vàng anh, cây xoan đào,khung cửu,
câu thị, quả thị cuối cùng được trở lại làm người;
(5) Công lý dân gian được thực thi khi cô Tấm trở lại cung (mẹ con mụ
dì ghẻ bị trừng phạt cùng với phần thưởng dành cho cô Tấm).
Có thể nói, cả truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám đều
tuân theo mạch liên kết các sự kiện cơ bản: Nhân vật chính xuất hiện – gặp
thử thách – vượt qua thử thách – kết thúc có hậu. Các chi tiết, các sự kiện,
biến cố chính trong câu chuyện, cơ bản không có sự khác biệt ở hai tác phẩm.
Đặc trưng này cũng xuất phát từ việc truyện Nôm mượn cốt truyện từ câu
chuyện cổ tích dân gian nên sự tương đồng trong cốt truyện là điều tất yếu.
34
2.1.3. Sự khác biệt về cốt truyện
Truyện Nôm Tấm Cám mượn cốt truyện từ truyện cổ tích Tấm Cám.
Về cốt truyện cơ bản có sự tương đồng, nhưng bên cạnh đó, tác giả truyện
Nôm vẫn có những sáng tạo, thêm bớt để câu chuyện là một “đơn vị” riêng
biệt chứ không đơn thuần chỉ là sự vay mượn hoàn toàn cốt truyện.
Ở đoạn mở đầu truyện cổ tích, tác giả dân gian không hề giới thiệu về
thời đại, quê quán, địa danh vùng miền của câu chuyện kể. Nhưng ở truyện
Nôm, những thông tin đó được tác giả giới thiệu ngay ở đoạn mở đầu:
Nước ta có truyện lạ thay
Từ đời Trần Kỷ đến nay còn truyền
Ở về An Lãng gần miền
Thôn dân còn truyện lưu truyền đến sau
Đoạn thơ mở đầu, truyện Nôm Tấm Cám giới thiệu về xuất thân của
các nhân vật, những thông tin như thời đại, quê quán của nhân vật được tác
giả chú ý miêu tả. Người nghe biết được, câu chuyện được kể diễn ra từ đời
Trần Kỷ, địa danh là ở vùng An Lãng.
So sánh giữa cốt truyện cổ tích và truyện Nôm, có những đoạn, những
phần ở truyện Nôm kể tỉ mỉ, chi tiết hơn, nhưng ngược lại cũng có những
phần truyện cổ tích miêu tả cụ thể hơn. Đặc điểm chung ở đây là truyện cổ
tích thường hướng vào kể tỉ mỉ các sự kiện, các biến cố, còn truyện Nôm có
những sự kiện chỉ lướt qua, kể các ý chính nhưng lại rất chú ý đến phần bình
luận, đánh giá về nhân vật và tình tiết được kể trong câu chuyện. Có thể dẫn
ra một vài đoạn trích tiêu biểu để làm rõ hơn đặc điểm này.
Ở chi tiết mụ dì ghẻ sai hai chị em Tấm ra đồng hớt tép, ai hớt được
đầy giỏ sẽ được thưởng cái yếm đỏ, truyện cổ tích miêu tả rất cụ thể việc làm
của hai chị em: “Tấm ra đồng không quản trời nắng, mải miết hớt được đầy
một giỏ vừatôm vừa tép. Còn Cám nhởn nhơ hết bờ này bụi nọ để hái hoa, bắt
35
bướm, trời đã về chiều mà giỏ của Cám vẫn chưa có tý gì”. Mặc dù chỉ trong
một vài câu văn ngắn gọn nhưng truyện cổ tích đã miêu tả khá chi tiết diễn
biến của công việc hớt tép ngoài đồng của hai chị em. Trong khi đó, chi tiết
đó ở trong truyện Nôm được kể trong bốn câu thơ nhưng nội dung không có
sự tỉ mỉ, chi tiết như vậy:
Chị em mang giỏ lên đường
Cùng nhau mò tép lòng màng chiếm công
Nhưng Cám trong giỏ vẫn không
Tấm thì tôm tép ở trong đầy phè.
Sau khi cá bống bị mẹ con Cám giết thịt, Tấm nhặt xương bống chôn ở
bốn chân giường, truyện cổ tích có thêm một đoạn kể về cuộc sống của Tấm
khi sống chung cùng dì ghẻ: “Mụ dì ghẻ bắt Tấm làm việc mỗi ngày một
nhiều hơn trước: nào chăn trâu, cắt cỏ, thổi cơm, rồi đêm lại xay lúa, giã
gạo, cho đến canh khuya mới được đi nằm. Tấm ăn thì bữa đói bữa no; mới
ngả lưng được một lúc thì gà đã gáy sáng, dì ghẻ lại dựng dậy. Hai mẹ con
con Cám thì ăn trắng mặc trơn, không hề nhúng tay vào một việc gì”. Đây
mặc dù không phải những sự kiện có ý nghĩa quyết định cốt truyện mà chỉ là
phần miêu tả chi tiết hơn về số phận của Tấm, hơn nữa người đọc cũng có thể
hình dung ra khi đọc từ đầu câu chuyện, nhưng rõ ràng ở truyện cổ tích đã
cho ta thêm những hình dung, những hiểu biết sâu sắc hơn về số phận cô Tấm
cũng như sự độc ác của mẹ con mụ dì ghẻ.
Giữa truyện cổ tích và truyện Nôm có những chi tiết, những sự kiện
được kể tỉ mỉ hay sơ lược hơn nhưng vẫn giữ được nét cơ bản trong cốt
truyện. Sự khác biệt ở đây chủ yếu là khác biệt trên phương diện phương thức
tự sự, phương pháp miêu tả hiện thực, hơn thế nữa cũng là sự khác biệt được
quy định do đặc trưng thể loại. Ở hình thức thơ ca lục bát (truyện Nôm), bên
cạnh việc đảm bảo cốt truyện được kể, tác giả còn phải chú ý đến yếu tố vần,
36
nhịp điệu, số tiếng trong mỗi câu thơ. Để hài hòa giữa các yếu tố đó, sự thêm
bớt trong một chừng mực nhất định để không làm thay đổi phần cốt lõi của
cốt truyện nhưng vẫn phù hợp trong điều kiện thể loại là điều tất yếu. Giữa
cốt truyện của hai tác phẩm cũng có một số điểm khác biệt nhưng không thực
sự lớn, cũng không phải là chi tiết mấu chốt làm thay đổi mạch truyện nói
chung. So sánh giữa hai tác phẩm, có thể nhận thấy một số điểm khác biệt về
cốt truyện như sau:
Trong truyện cổ tích, mẹ con Cám sau khi lừa Tấm đi chăn trâu đồng
xa, ở nhà gọi Bống lên, bắt Bống ăn thịt rồi vứt xương vào bếp. Còn trong
truyện Nôm, sau khi bắt Bống ăn thịt, mẹ con Cám vứt xương ra vườn. Ở
phần sau của truyện, ở chi tiết mụ dì ghẻ sai Cám giết chim vàng anh, giữa
hai tác phẩm cũng có sự khác nhau đôi chút. Trong truyện cổ tích, sự việc đó
được kể: “Mẹ nó bảo: bóp chết con chim đi, đem nướng cho mèo ăn, rồi chôn
lông chim cho mất tích. Về cung vua, con Cám rình lúc vắng, bóp chết chim
vàng anh, nướng cho mèo ăn, còn lông chim nó đem chôn sâu ngoài vườn”.
Ở trong truyện Nôm, tác giả kể Cám sai quân lính bắt chim rồi ăn thịt chứ
không phải chờ lúc vắng mới bóp chết chim vàng anh và nướng cho mèo ăn:
Mẹ rằng ăn thịt là hay
Cám bèn sai lính bắt ngay chim liền
Ăn xong lông vứt ra vườn
Ở truyện cổ tích, tác giả dân gian chỉ chú ý đến việc kể câu chuyện,
miêu tả các hành động, sự kiện, biến cố nhưng không có những đoạn đánh
giá, bình luận về nhân vật. Còn ở truyện Nôm, các tác giả thời trung đại lại
rất chú ý đến việc đưa ra những nhận xét, bình luận sau mỗi hành vi của
nhân vật, mỗi sự kiện trong câu chuyện. Có thể điểm qua một số lời bình
luận vốn không có trong truyện cổ tích những đã được tác giả truyện Nôm
thêm vào tác phẩm.
37
Khi mẹ Cám sai Cám đốt khung cửi rồi đổ tro đi xa, trước vô vàn hành
động độc ác nối tiếp của hai mẹ con Cám trước đó, tác giả truyện Nôm đã
phải thốt lên:
Khi oan chứa chất đã đầy
Tìm đường báo oán biết ngay chăng là
Cho hay hồn phách người ta
Thác oan thì ắt hồn đà linh thiêng
Đó là oan khí tương triền
Đến khi Cám chết, Tấm đem làm mắm biếu mụ dì ghẻ, tác giả truyện
Nôm cũng xen vào đó những lời bình luận về nhân vật:
Chẳng qua độc ác với người
Ác giả ác báo ấy thời đến ngay
Báo giả một mẻ chua cay
Khiến cho hai mẹ con rầy theo nhau
Làm cho bõ lúc cơ cầu
Làm cho không đánh mà đau như dần
Và tương ứng với phần kết thúc của truyển cổ tích, truyện Nôm khép
lại bằng hai câu thơ bình luận:
Cho hay muôn sự tại thiên
Hại nhân, nhân hại cổ truyền sai đâu
Có thể nói, cùng một cốt truyện với những sự kiện chính tương đối
giống nhau nhưng ở mỗi sự kiện, mỗi chi tiết đó, truyện Nôm thường có đan
xen những lời bình luận, triết lý hay bày tỏ thái độ về vấn đề được kể. Đó là
điểm khác biệt so với truyện cổ tích. Nhưng sự khác biệt lớn nhất về cốt
truyện giữa hai tác phẩm là truyện Nôm có thêm phần kết mà truyện cổ tích
không có.Nếu truyện cổ tích chỉ kết thúc ở sự việc: “Đến ngày mắm gần hết,
nhòm vào chĩnh, mụ mới nhìn thấy đầu lâu con mình. Biết chính mình đã đưa
38
con đến chỗ chết, lại chính mình ăn thịt con mình, mụ uất lên, ngã vật xuống
đất mà chết” thì truyện Nôm có thêm một đoạn thơ dài 44 câu kể thêm về
những sự việc mà truyện cổ tích không có:
Giời xanh xanh biếc một màu
Hạ qua thu lại đã hầu sang đông
Năm mây vừa xuống chiếu rồng
Tấm phong thái hậu noi dòng chính cung
Ỷ Lan giáng xuống Tây cung
Thứ phi hoàng hậu theo cùng Tấm nương
Từ đây Tấm được vẻ vang
Trông coi kẻ dưới như hàng chị em
Mấy năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành bích đã chen lá vàng
Truyện Nôm đã đi xa hơn truyện cổ tích trong việc miêu tả cuộc sống
sau này của Tấm. Đó là phần thưởng xứng đáng cho tấm lòng ngay thẳng,
nhân hậu và sự chiến đấu không mệt mỏi của cô Tấm trước cái ác, cái xấu.
Tấm từ cô gái chịu nhiều thiệt thòi bất hạnh đã bước chân vào cung vua với
thân phận “chính cung”. Từ đây cuộc đời nàng đã bước sang một trang mới
với hạnh phúc và bình yên.
Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả truyện Nôm còn ca ngợi tấm lòng
nhân đức của Tấm bằng việc miêu tả khá cụ thể hành động của nàng:
Ninh gia Tấm mới về làng
Viếng thăm phần mộ sửa sang gia đình
Lòng nhân bởi tự tính tình
Giúp cho kẻ khó thương tình kẻ cô
Họ hàng cho chị cậu cô
Đều là tiền bạc giúp cho mọi người
39
Trong nhung lụa, giàu sang cô Tấm của ngày nào vẫn không quên cội
nguồn quê hương và những người nông dân bình dị quanh năm chân lấm tay
bùn đã gắn bó bên nàng. Tấm lòng yêu thương đầy tính nhân văn ấy thể hiện
rõ quan niệm “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân gian.
Sự hiếu thảo của cô Tấm thật đáng trân trọng, nó làm bừng sáng cả câu thơ.
Nàng trở về quê hương trước hết là Viếng thăm phần mộ sửa sang gia đình
sau đó giúp đỡ những người nghèo khó, những cảnh đời bất hạnh, cơ nhỡ.
Nhờ những hành động ấy mà khi trở lại hoàng cung Tấm được mọi người trên
dưới hết lòng yêu mến. Trong ánh hào quang của chốn kinh kỳ, cô Tấm hiện
lên rạng rỡ bởi vẻ đẹp của lòng nhân hậu.
Truyện cũng hướng tới một không gian khác với truyện cổ tích. Đó là
không gian mang đậm các yếu tố của xã hội phong kiến. Ở đó mọi mối quan
hệ đều hòa hợp, con người sống với nhau bằng tình nghĩa và nhân đức. Phải
chăng đây chính là ước mơ của con người thời đại bấy giờ vào một xã hội lý
tưởng?
Tháng giêng chiếu chỉ đến nơi
Kíp truyền nàng lại toan hồi lai kinh
Tới nơi yến tiệc linh đình
Vua tôi cùng chúc chén quỳnh giao hoan
Các dòng liêu thuộc bách quan
Ai ai cũng được đội ơn nhiều bề
Kẻ yêu mến người nể vì
Nhân từ thấu khắp cung phi mọi người
Dẫu được lòng yêu mến của nhân dân bốn phương, được sự yêu thương
của nhà vua và sự cảm phục của bề tôi song truyện Nôm vẫn có cái nhìn hiện
thực khi xây dựng trọng vẹn cuộc đời cô Tấm trong vòng sinh lão bệnh tử.
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, cô Tấm dịu hiền ngày nào cũng phải rời
40
xa nhân thế. Những câu thơ ngập tràn lòng thương xót, tiếc nuối với những
điển cố điển tích đậm thi pháp của văn học trung đại có lẽ là sự thoát ly khá rõ
ràng của truyện Nôm Tấm Cám so với cốt truyện cổ tích:
Núi cao bể rộng sông dài
Tưởng rằng xuân hãy còn dài mấy xuân
Thoắt qua hạ đã tới tuần
Bóng dâu đã xế muôn phần từ đây
Bể dâu trong cuộc đổi thay
Nam Cù sao bỗng sa ngay bể Tần
Thương thay xuân hỡi là xuân
Tiếc thay cung mệnh đến tuần đóng ngang
Sự ân nghĩa thủy chung của nhà vua được miêu tả khá rõ qua những
câu thơ cuối của tác phẩm. Tâm trạng từ ngỡ ngàng đến đau đớn của nhà vua
thật đáng trân trọng. Hành động ban chiếu sắc phong Thục Đức Tố Nga cho
Tấm để tấm lòng nhân hậu yêu thương của nàng trường tồn mãi cùng thời
gian, lưu danh thiên cổ là phần thưởng cuối của cuộc đời Tấm.
Xây dựng trọn vẹn cuộc đời cô Tấm trong những biến cố, thử thách từ
khi Tấm sinh ra đến khi mất đi đã thể hiện cái nhìn toàn diện của tác giả
truyện Nôm về cuộc đời của nhân vật. Thông qua sự sáng tạo đoạn kết sau khi
Tấm trả thù, truyện Nôm đã tạo nên một cô Tấm vẫn mang đầy đủ mọi phẩm
hạnh đáng quý đáng trân trọng.
Vua Trần đang ngự ngai vàng
Thoắt nghe đâu nỗi đoạn tràng biệt ly
Cùng nhau vui chữ sướng tùy
Mấy năm chưa cạn chén thì đã vơi
Chiếu ban hạ xuống tận nơi
Bản hương lập tự thờ người nguy nga
Sắc phong Thục Đức Tố Nga
41
Năm năm hương khói một tòa thâm nghiêm
Hiện nay ở xứ gần miền
Vẫn là phụng sự lập đền anh linh
Cho nên thiên cổ lưu danh
Đến nay còn truyện rành rành không sai
Ở phần trước của truyện Nôm, những tên nhân vật, tên địa danh mặc dù
có nhưng chúng ta cũng không xác định được chắc chắn sự tồn tại thực sự của
nó. Tuy nhiên, ở phần kết này, tác giả lại gắn câu chuyện cô Tấm trong cổ
tích liên quan tới một hình tượng con người có thật trong lịch sử - thái phi Ỷ
Lan. Trong đa số bản kể truyện cổ tích Tấm Cám đều không có chi tiết kết
thúc này, tuy nhiên, ở một số bản truyện cổ tích Tấm Cám cổ xưa hơn, như
bản truyện Tấm Cám được lưu truyền ở vùng Bắc Ninh thì truyện được truyền
tụng như là lịch sử Thái phi Ỷ Lan.
Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Đinh Gia Khánh (chủ
biên) có ghi lại những sự tích truyền tụng trong dân gian về truyện Tấm Cám
trong đời sống thực, nhân dân ta ở nhiều vùng tin đó là những nhân vật có thật
là lập đền thờ: “Dân làng Sơn Nam (Bắc Ninh) còn truyền lại rằng khi trở
thành hoàng hậu, nàng đã cho xây chùa Lãm Sơn ở phía nam núi Dạm. Nhiều
làng còn giữ được sự tích “Lí triều đệ tam hoàng hậu”… Ở làng Thuận
Quang (xưa là làng Thổ Lỗi), huyện Thuận Thành, có một ngôi chùa gọi là
chùa Bà, thờ bà Tấm, bà Cám. Dân làng Thuận Quang có thể chỉ rõ chỗ bờ
sông Thiên Đức (sông Đuống) nơi hai chị em Tấm Cám vớt tôm, cá, giếng
Bống là nơi nuôi cá Bống, ngàn dâu là nơi nàng hái dâu… Tục truyền làng
Thuận Quang chính là quê hương của Tấm” [20, tr.306-307]. Cũng ở vùng
Bắc Ninh, ngôi làng Nam Sơn, huyện Quế Võ, nhân cũng truyền tụng câu
chuyện về sự tích Tấm Cám và có ngôi đền bà Tấm bà Cám: “Sau khi trở
thành hoàng hậu thì nàng đã xây chùa Lãm Sơn ở núi Lãm Sơn và lúc về già
đã tu ở đây. Ở cả hai nơi, bài văn tế hàng năm đọc ở hội bà Tấm bà Cám còn
42
ghi tên cúng như sau: “Lí triều đệ tam hoàng thái hậu, Linh cảm Ỷ Lan, húy
Mệnh, hiệu Khiết Nương, Thắng Quang Bồ Tát tử hạ” [20, tr.307].
Như vậy, bên cạnh bản truyện cổ tích Tấm Cám mà chúng tôi sử dụng
làm tài liệu nghiên cứu so sánh trong luận văn này, còn rất nhiều dị bản
truyện Tấm Cám cũng như có thể có những câu chuyện về sự tích Tấm Cám
còn truyền tụng trong dân gian ở nhiều vùng miền khác nhau với những đặc
điểm khác nhau. Tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi sử dụng bản truyện
cổ tích Tấm Cám của tác giả Vũ Ngọc Phan là bản truyện không có phần kết
thúc đó. Có thể trong quá trình mượn cốt truyện dân gian Tấm Cám để sáng
tác truyện Nôm, tác giả truyện Nôm đã dựa theo những bản kể cổ hơn, ở
những vùng miền khác nhau nên so sánh giữa truyện Nôm Tấm Cám và
truyện cổ tích Tấm Cám (theo Vũ Ngọc Phan) có sự khác biệt khá rõ nét đoạn
kết của tác phẩm.
Trong truyện cổ tích, đến cuối cùng người đọc mới nhận ra kết cục số
phận của các nhân vật: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Tấm hiền hậu, lương
thiện, cần cù, chịu khó thì cuối cùng sẽ được hưởng hạnh phúc và tình yêu
trọn vẹn. Còn mẹ con Cám độc ác, bất nhân, lười biếng thì kết cục phải nhận
sự trừng phạt thích đáng. Nhưng ở trong truyện Nôm, kết cục, số phận của các
nhân vật đã được gợi ra ngay từ đầu tác phẩm và đan xen trong suốt câu
chuyện. Ở ngay những dòng mở đầu, truyện Nôm đã giới thiệu:
Cho hay những thói người ta
Đã sinh ác trước ắt là lụy sau
Hoặc đối với nhân vật Tấm, thông qua lời Bụt – một lực lượng thần kì
giúp sức cho những người lương thiện vượt qua khó khăn, thử thách, đồng
thời là cách thức giải quyết mâu thuẫn và xung đột trong truyện cổ tích thần
kì nói chung – thì số phận hạnh phúc ở hậu vận cũng thấp thoáng hiện ra
trong tác phẩm. Khi Bụt bảo Tấm lấy xương cá Bống cho vào bốn cái lọ rồi
đem chôn ở bốn chân giường, Bụt đã nói với Tấm về cuộc đời mai sau:
43
Con về nhặt lấy xương đi
Mua bốn cái lọ đựng thì lấy xương
Rồi đem chôn bốn chân giường
Sau này con được vẻ vang mọi bề
Hay lời nhận xét của tác giả:
Mới hay sự đã an bài
Người kia bạc ác sau này ác thâm
Trong một số trường hợp, cùng một tiếng kêu cót két của khung cửi khi
người em bạc ác ngồi dệt vải, nhưng ở trong truyện Nôm cũng hàm chứa lời
tiên đoán cho tương lai:
Lấy tranh chồng chị, ấy điều đợi xem
Chị thì khoét mắt moi tim
Mày sao lại giám tranh quyền chồng tao
Ở truyện cổ tích, cách xưng hô của Tấm qua tiếng kêu kẽo kẹt của
khung cửi vẫn là xưng hô “chị - em”. Nhưng ở trong truyện Nôm, cách xưng
hô đã chuyển từ “chị - em” sang “tao – mày”. Hơn thế nữa, Tấm không chỉ
đòi “khoét mắt” mà còn đòi “moi tim” Cám. Dường như ở trong truyện Nôm,
tính chất tăng tiến, mức độ oán hờn của Tấm đã được đẩy lên cao hơn so với
truyện cổ tích.
Truyện cổ tích khiến người ta thương cô Tấm hiền lành, lương thiện,
cần cù nhưng phải chịu bao sự đày đọa cực khổ, nhưng những điều ấy hiện
lên thông qua hành động. Còn trong truyện Nôm, tác giả truyện Nôm trực tiếp
bày tỏ lòng thương cảm đối với nhân vật:
Thương ôi! Oan nghiệt xiết bao
Ai làm tan tác liễu đào cho nên
Thông qua những lời bình luận, triết lý của tác giả truyện Nôm, người
đọc cũng phần nào dự đoán được một kết cục cuối cùng mà không cần đến
44
triết lý “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” trong dân gian (mặc dù truyện Nôm
vẫn phản ánh triết lý dân gian đó, nhưng triết lý đó không phải là cơ sở để xác
định kết cục của nhân vật).
2.2. So sánh nhân vật
Nhân vật là một đối tượng nghệ thuật quan trọng, cũng là đối tượng
quan trọng của nghiên cứu văn học. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học,
các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) cũng đưa
ra định nghĩa: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong văn
học” [15, tr.235]. Có thể nói, trong tác phẩm văn học, nhân vật chính là linh
hồn của tác phẩm. Sáng tạo ra nhân vật, tác giả gửi gắm vào đó những tư
tưởng nghệ thuật, những triết lý cuộc sống, ý nghĩa nhân sinh cũng như thái
độ, tình cảm, quan điểm của mình trước hiện thực.
2.2.1. Sự tương đồng về nhân vật
Nhìn chung, trong cả truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm
Cám, các nhân vật đều hiện lên với đặc điểm tính cách tương đối thống nhất:
Tấm là cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, ở cùng dì ghẻ là mẹ Cám. Tấm hiền lành,
lương thiện, cần cù, chịu thương chịu khó nhưng số phận bất hạnh. Nhờ sự
giúp sức của Bụt và chính bằng sự lương thiện của bản thân mà cuối cùng
Tấm được trở thành hoàng hậu, được hưởng hạnh phúc. Mụ dì ghẻ và Cám
đều là những người độc ác, lười biếng, chỉ ăn trắng mặc trơn dựa trên sức lao
động của Tấm, đã vậy lại còn luôn bày mưu tính kế, hãm hại Tấm hết lần này
đến lần khác. Tội ác của chúng cứ chồng chất lên nhau, không thể nào kể xiết,
cuối cùng phải trả giá xứng đáng. Các nhân vật còn lại như nhà vua, bà cụ bán
hàng nước về cơ bản cũng không khác biệt quá lớn, ngoại trừ những nét khác
biệt do sự chi phối của đặc điểm thời đại sẽ được trình bày ở phần sau của
luận văn.
Trong truyện cổ tích Tấm Cám cũng như truyện Nôm Tấm Cám, các
nhân vật đều được xây dựng theo phương thức loại hình: nhân vật tốt sẽ tốt
45
từ đầu đến cuối, nhân vật xấu sẽ xấu từ đầu đến cuối. Mọi hành động, tính
cách của nhân vật được phản ánh để góp phần làm rõ nét hơn cho đặc trưng
của từng loại nhân vật. Đây là phương thức xây dựng nhân vật rất đặc trưng
của truyện cổ tích, và truyện Nôm bình dân khi mượn cốt truyện từ truyện cổ
tích dân gian đương nhiên cũng xây dựng nhân vật theo phương thức đó. Tấm
là đại diện cho những con người nghèo khổ, mồ côi, bất hạnh nhưng chăm
chỉ, chịu thương chịu khó, cần cù, hiền lành. Số phận của kiểu nhân vật ấy sẽ
phải trải qua biết bao sự đày đọa cực khổ nhưng đền cuối cùng sẽ nhận được
một sự đền đáp xứng đáng, như sự tặng thưởng của dân gian đối với tấm lòng
lương thiện và những đức tính tốt đẹp trong cuộc sống. Ngược lại, mẹ con mụ
dì ghẻ tiêu biểu cho những kẻ độc ác, ăn trên ngồi trốc, chỉ biết bóc lột, đày
đọa những người lương thiện. Những hành động độc ác ấy không chỉ có một
lần mà hết lần này đến lần khác, cuối cùng phải nhận sự trừng phạt thích đáng
của dân gian.
Có thể nói, xây dựng hình tượng các nhân vật trong truyện cổ tích cũng
như truyện Nôm Tấm Cám, những cô Tấm thảo hiền, mẹ con mụ dì ghẻ độc
ác… tác giả dân gian và tác giả truyện Nôm không nhằm mục đích hướng tới
phản ánh một con người cụ thể tên Tấm, tên Cám, mà hướng tới phản ánh
một kiểu người, một bộ phận phổ biến trong xã hội có giai cấp nói chung.
Những nhân vật trong hai tác phẩm đại diện cho những lớp người trong xã
hội, chính vì vậy, tác phẩm cũng là bức tranh phản ánh hiện thực rộng lớn
trong thực tại cổ tích.
2.2.2. Sự khác biệt về nhân vật
Đối với truyện cổ tích, tính chất phiếm chỉ là một đặc trưng quan trọng.
Vì vậy, không gian, thời gian, địa danh hay nhân vật trong truyện cổ tích
thường không có tên gọi riêng mà gọi theo tên nhóm loại hình. Chẳng hạn,
trong truyện cổ tích Tấm Cám, câu chuyện được mở đầu bằng công thức quen
46
thuộc “ngày xửa ngày xưa”… hoàn toàn mang tính phiếm chỉ. Đây là một đặc
trưng nổi bật của truyện cổ tích, một thể loại hướng mối quan tâm vào việc
phản ánh những vấn đề có tính chất “riêng tư nhưng phổ biến” (chứ không
phải là cá biệt) trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, không gian, thời gian, địa
danh, nhân vật cụ thể không phải là vấn đề quan trọng nhất. Điều truyện cổ
tích quan tâm là từ những số phận đơn độc ấy khái quát thành những vấn đề,
những mối quan hệ, những mâu thuân có tính phổ biến trong xã hội có phân
chia giai cấp nói chung.
Là một truyện cổ tích tiêu biểu, truyện Tấm Cám mang đầy đủ những
đặc trưng trên của thể loại. Ở truyện Tấm Cám, chúng ta không biết câu
chuyện diễn ra vào thời gian nào, xảy ra ở đâu. Người mẹ của Tấm cũng
không có tên gọi cụ thể. Tương tự như vậy, mẹ của Cám cũng chỉ được gọi
chung là “mẹ Cám” hoặc “mụ dì ghẻ”. Hay như bà cụ bán hàng nước ven
đường, con đường ấy ở đâu, bà cụ tên là gì cũng là những điều chúng ta
không hề biết. Ngay cả hai nhân vật có tên trong tác phẩm là Tấm và Cám thì
cách đặt tên cũng phần nào mang hàm ý phiếm chỉ. Cái tên Tấm gợi cho ta
liên tưởng đến hình ảnh hạt gạo đã bị vỡ thành các mảnh nhỏ, gọi là hạt tấm.
Còn cái tên Cám lại gợi liên tưởng đến phần vỏ mỏng bao quanh hạt gạo
(dưới lớp vỏ trấu), thường được xát ra khi xay xát gạo. Ở một dị bản Tấm
Cám của dân tộc Choang (Trung Quốc), cô gái mang tên tấm là một cô gái
độc ác còn cám lại là cô gái nết na thảo hiền. Như vậy, mặc dù nhân vật có
tên gọi riêng nhưng những tên gọi ấy cũng hơi hướng mang màu sắc
chungchung, biểu trưng cho thân phận của những con người hoặc gợi lên một
đặc điểm, một tính chất nào đó của nhân vật.
Truyện cổ tích là thể loại hướng đến sự khái quát những vấn đề “riêng
tư nhưng phổ biến”, không hướng vào những số phận riêng lẻ mà muốn khái
quát những quy luật chung của cuộc sống nên nhân vật cũng cần phải mang
47
tính khái quát cao. Bởi vậy, nhân vật thường không có tên gọi cụ thể và mang
đăc điểm chung. Mỗi nhân vật trong truyện cổ tích đại diện cho một loại
người hay một lớp người với những đặc điểm chung mà tác giả dân gian
muốn khái quát. Vì vậy, điều mà tác giả dân gian quan tâm là nhân vật đó giữ
chức năng gì, đại diện cho loại người nào chứ không phải nhân vật đó tên gì,
ở đâu… Do đó, ngay cả khi nhân vật có tên (như Tấm, Cám) thì những cái tên
đó cũng ít nhiều mang hàm ý phiếm chỉ, không nhằm chứng minh rằng nhân
vật ấy là có thật và có lẽ người ta cũng không tin cái tên đó có thật. Nó giống
như ký hiệu để gọi tên chung cho một loại người, một lớp người trong xã hội
mà thôi.
Khác với truyện cổ tích Tấm Cám, các nhân vật trong truyện Nôm Tấm
Cám được các tác giả thời trung đại miêu tả tỉ mỉ hơn và tính chất cụ thể rõ
nét hơn truyện cổ tích. Các nhân vật trong truyện Nôm được giới thiệu với
tương đối rõ ràng:
Có nhà chẳng khó chẳng giàu
Chẳng quan chẳng tước giữ mầu bậc trung
Cũng là dòng dõi Lạc Hồng
Họ Lê chính thực có ông lão già
Trạc niên ngải đã phát hoa
Đầu lòng sinh gái tên là Tấm nương
Gia cảnh của Tấm ở truyện cổ tích không được kể đến thì ở truyện
Nôm cũng được giới thiệu khá tỉ mỉ:“… chẳng khó chẳng giàu/ Chẳng quan
chẳng tước giữ mầu bậc trung”. Cha Tấm mặc dù không được nêu tên cụ thể
nhưng cũng được biết đó là một ông lão “họ Lê”. Người mẹ của Tấm cũng
vậy, cũng được giới thiệu tên gọi “Trần thị”. Đặc điểm này cũng dễ hiểu vì
con người thời trung đại nói chung không chú ý nhiều đến tên mà quan tâm
nhiều hơn đến họ, chủ yếu dùng họ để gọi tên mà ít chú ý đến tên thật. Như
48
vậy, thời gian, địa danh, nhân vật của câu chuyện được tác giả truyện Nôm
chú ý miêu tả.
Về nhân vật trong truyện Nôm Tấm Cám, các nhân vật đều được miêu
tả chi tiết hơn. Truyện cổ tích Tấm Cám chỉ kể về cha mẹ Tấm qua một câu
ngắn gọn: “Mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới chập chững biết đi. Sau đó ít năm,
người cha cũng chết”. Còn ở trong truyện Nôm, tác giả còn lý giải và kể chi
tiết hơn từ việc cha mẹ Tấm hiếm hoi, đến tuổi “ngải đã phát hoa” rồi mới
sinh được Tấm nên rất yêu quý con. Đến khi mẹ Tấm qua đời, Tấm ở cùng
với người dì ghẻ là mẹ Cám.
Con người trong truyện Nôm không chỉ hiện lên qua hành động mà hơn
thế nữa, còn hiện lên qua những lời nhận xét, đánh giá của tác giả cũng như
chính những suy nghĩ, tâm lý của nhân vật. Nhân vật cổ tích thường không có
suy nghĩ mà tính cách hoàn toàn bộc lộ qua hành động. Hai cách xây dựng
hình tượng nhân vật ấy có thể cho ta một cảm nhận tương đối giống nhau về
nhân vật nhưng cách thức xây dựng nhân vật của mỗi tác giả lại có sự khác
biệt. Điều đó tạo nên nét mới mẻ cho truyện Nôm, để tác phẩm không đơn
thuần chỉ là một truyện thơ mượn cốt truyện từ một tác phẩm dân gian có sẵn.
Nhân vật Tấm trong truyện cổ tích được giới thiệu đó là cô gái mồ côi
cả cha lẫn mẹ, phải sống cùng dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ là Cám
thì ở truyện Nôm, ngoài đặc điểm gia đình đó, Tấm được miêu tả cụ thể:
Nét ngài phơn phớt nở nang
Mây thua nước tóc tuyết nhường sánh đôi
Đến lần hóa thân cuối cùng của Tấm, từ trong quả thị bước ra cuộc đời,
trở thành cô Tấm xin đẹp, hiền lành như ngày xưa, truyện Nôm cũng miêu tả
ngoại hình của nhân vật sinh động hơn. Đây cũng là chi tiết trong truyện cổ
tích không có:
49
Trông người chẳng khác chi tiên
Bồng lai đâu đã hiện lên chốn này
Da nhường tuyết, tóc nhường mây
Dung nghi mềm mại, mặt mày nở nang
Đã nên quốc sắc thiên hương
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên
Tính cách của Tấm cũng được tác giả truyện Nôm nhận xét:
Tấm thì ngay thẳng chẳng lòng đắn đo
Khi nhà vua đi qua ghé vào hàng nước của bà cụ ven đường ngồi nghỉ,
nhìn thấy miềng trầu têm cánh phương giống miếng trầu Tấm têm ngày trước.
Truyện cổ tích để cho nhà vua ngỏ ý muốn gặp người con gái têm trầu ấy,
nhận ra vợ mình ngày trước rồi mới ngỏ ý với bà cụ muốn được đón Tấm về
cung. Ở truyện Nôm, trình tự diễn biến có sự khác biệt:
Trầu têm cánh phượng vừa tuần
Dâng lên vua đã tần ngần hỏi ngay:
“Rằng ai têm những trầu này
Têm sao khéo giống như ngày hậu xưa”
Bà hàng trình trước bệ thưa:
“Rằng con lão đó kính thưa dâng ngài”
Vua bèn phén chỉ một hai:
“Truyền cho Thị được ước hài bách niên
Nên chăng thì lão nói liền
Để trẫm sẽ rước về đến chính cung”
Kết quả của sự việc được kể trong truyện cổ tích và truyện Nôm đều
giống nhau: Tấm được nhà vua đón về cung và trở thành hoàng hậu. Tuy
nhiên, diễn biến của sự việc để dẫn đến kết quả đó lại khác nhau. Ở truyện cổ
tích, nhà vua đón Tấm về cung vì từ miếng trầu têm cánh phượng, nhận ra vợ
50
mình ngày xưa nên muốn được đón Tấm trở về. Còn ở trong truyện Nôm, nhà
vua nhìn thấy miếng trầu giống của vợ mình ngày xưa nên “phán chỉ” muốn
được lấy người con gái đã têm trầu ấy làm vợ mà khi đó chưa hề biết người
con gái têm trầu ấy chính là Tấm của ngày xưa. Nhà vua của truyện cổ tích
đón Tấm về vì nhận lại được người vợ hiền ngày xưa thông qua tín hiệu là
miếng trầu têm cánh phượng quen thuộc. Còn nhà vua trong truyện Nôm vì
miếng trầu têm cánh phượng giống vợ mình ngày trước mà muốn lấy người
têm trầu đó làm vợ dù không biết đó là ai. Hơn thế nữa, khi tỏ ý muốn đón
Tấm, nhà vua trong truyện cổ tích kể rõ sự tình với bà cụ rồi mới ngỏ ý muốn
đón Tấm về cung, còn nhà vua trong truyện Nôm “phán chỉ”: “Nên chăng thì
lão nói liền/ Để trẫm sẽ rước về đền chính cung”.
Dường như, truyện cổ tích cho ta hình tượng một nhà vua hiền đức,
trọng tình trọng nghĩa, hơn thế nữa còn luôn ân cần trên dưới với bà cụ già vì
dẫu đó chỉ là một người dân bình thường nhưng đã coi Tấm như con gái
mình. Còn trong truyện cổ tích, cách nhà vua ra lệnh cho bà cụ lựa chọn “Nên
chăng thì lão nói liền” tạo ra một khoảng cách giữa vua và dân. Họ giao tiếp
với nhau bằng mệnh lệnh của người bề trên với kẻ dưới chứ không phải bằng
tình nghĩa chân tình giữa con người với con người. Có lẽ chi phối đặc điểm
này cũng là từ đặc điểm xã hội của thời đại. Chúng ta chưa rõ truyện cổ tích
Tấm Cám có từ thế kỉ nào nhưng chắc chắn sớm hơn nhiều so với truyện Nôm
Tấm Cám, khi tư tưởng Nho giáo chưa được giai cấp phong kiến sử dụng đắc
lực làm công cụ thống trị xã hội, nó chưa ăn sâu vào ý thức nhân dân. Dưới
con mắt nhân dân, nhà vua vẫn là những con người thân dân, gần dân,
đượcdân mến yêu. Còn đến thời đại của truyện Nôm Tấm Cám ra đời, chế độ
phong kiến đã đến giai đoạn suy tàn, trong mắt nhân dân, vua chỉ là những kẻ
chuyên quyền, ăn chơi sa đọa, ban hành mệnh lệnh để bóc lột, vơ vét của cải
từ dân nên nhà vua cũng đón Tấm trở về bằng một lời ra lệnh lạnh lùng như
51
vậy. Không riêng gì nhân vật đế vương mà ngay ở nhân vật Tấm và bà cụ bán
hàng nước, chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được có một tình cảm mộc mạc,
chân tình, yêu thương con người hơn hẳn trong truyện Nôm. Ở truyện cổ tích,
khi nhà vua ngỏ ý muốn đón Tấm về, bà cụ biết được sự tình nên “đành phải
ưng thuận”, còn Tấm thì mừng mừng tủi tủi – nửa mừng vì gặp lại nhà vua,
nưa tủi vì phải xa bà cụ. Còn ở trong truyện Nôm, bà cụ “mừng rỡ khôn
cùng” vì con được làm hoàng hậu, còn Tấm thì:
Tiếng oanh thỏ thẻ trình tâu
Tung hô vạn tuế cao sâu nghìn trùng
Mây vương được thấy bóng rồng
Cũng là thỏa nguyện trông mong những ngày
Ở truyện Nôm, người Tấm được gặp lại là một bậc quân vương, đấng
chí tôn mà người ta vẫn tung hô vạn tuế, vẫn khép nép “thỏ thẻ trình tâu” chứ
đâu phải một người chồng theo nghĩa vợ chồng tình nghĩa đậm sâu trong dân
gian? Và điều khiến nhà vua muốn đón Tấm về cung trước tiên vì nhìn thấy
miếng trầu giống miếng trầu ngày trước, rồi sau đó là thấy một cô gái có bề
thanh tân: “Dung nghi cốt cách khác trần/ Làn thu đượm sóng nét xuân đượm
mầu” chứ tác giả truyện Nôm đâu có nhắc đến việc nhà vua nhận ra đó là vợ
mình ngày trước. Một nhà vua hiện lên thông qua những lời ra lệnh, thông
qua việc quan tâm đến sắc đẹp của người phụ nữ không phải là hình tượng
nhà vua được xây dựng trong truyện cổ tích mà đó chắc chắn là phản chiếu
của hình tượng nhà vua ở giai đoạn phong kiến suy tàn – giai đoạn truyện
Nôm ra đời.
Ngoài miêu tả hành động, truyện Nôm cũng bước đầu chú ý đến miêu
tả tâm lý nhân vật:
Sự tình chẳng hiểu làm sao
Chỉ thấy cục máu giạt vào bờ thôi
52
Tần ngần chẳng hiểu đầu đuôi
Bống thời chẳng thấy, Tấm ngồi khóc than
Nhân vật trong truyện Nôm được chú ý miêu tả tính cách thông qua
hành động và tâm lý, còn nhân vật truyện cổ tích thì phương diện tâm lý mờ
nhạt hơn và chủ yếu thông qua hành động. Truyện cổ tích quan tâm đến miêu
tả hành động, kể chi tiết sự việc để người nghe biết nhân vật đó làm gì, từ đó
thể hiện tính cách ra sao còn ở truyện Nôm, để miêu tả nhân vật, tác giả khai
thác con người trên nhiều phương diện hơn, đồng thời xen kẽ cả những lời
nhận xét của mình về nhân vật vào tác phẩm.
Không chỉ riêng Tấm được tác giả truyện Nôm chú ý miêu tả chi tiết,
nhân vật mụ dì ghẻ độc ác cũng được tác gia truyện Nôm quan tâm xây dựng.
Truyện Nôm không chỉ giới thiệu nhân vật mà ngay ở phần mở đầu đã khái
quát nêu lên đặc điểm, tính cách của mụ dì ghẻ:
Lòng độc ác, dạ sai ngoa
Tính tình nham hiểm biết là nhường bao
…
Tuy rằng miệng chẳng nói ra
Trong lòng nào khác chi là dao găm
Đây cũng là một đặc điểm nhân vật khác biệt giữa truyện Nôm và truyện
cổ tích. Ở truyện cổ tích, tính cách độc ác của mụ dì ghẻ được hiện lên qua toàn
bộ mạch phát triển của cốt truyện, qua các hành động, sự kiện trong câu chuyện
mà không được giới thiệu ngay ở phần mở đầu. Nếu có chăng, người đọc phần
nào hình dung ra tính cách ấy qua một quan niệm chung trong dân gian: “Mấy
đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”.
Mụ dì ghẻ vốn là người độc ác, đày đọa con riêng của chồng khổ sở,
nhưng ở trong truyện cổ tích, điều ấy người đọc sẽ nhận ra qua hàng loạt
những hành động nối tiếp nhau. Ở truyện Nôm, đôi khi hành động lại không
53
được miêu tả quá chi tiết nhưng tác giả lại đan xen những lời bình luận vào
câu chuyện. Khi mụ dì ghẻ bảo Tấm đi chăn trâu đồng xa để ở nhà giết Bống
ăn thịt, tác giả truyện Nôm nhận xét: “Cho hay lòng dạ đàn bà”.
Cũng giống như nhân vật Tấm và mụ dì ghẻ, nhân vật Cám trong
truyện Nôm không chỉ hiện lên qua hành động mà còn thông qua những lời
bình luận, đánh giá của tác giả, đó là điều nhân vật ở truyện cổ tích không có.
Ngay ở phần đầu, khi giới thiệu về Cám, truyện Nôm đã chỉ ra đặc điểm tính
cách của nhân vật:
Cám kia lòng ở bất nghì
Làm em mà vẫn giữ bề đành hanh
Vì chưng mẹ ở chẳng lành
Cho nên con cũng theo tình bất lương
Rồi đến khi Cám lừa Tấm “Chị Tấm ơi, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu,
kẻo về mẹ mắng”, truyện cổ tích không thêm một lời đánh giá nào về tính
cách của Cám, sự gian giảo, xảo quyệt của người em thì truyện Nôm làm chỉ
rõ điều đó:
Đặt mưu nham hiểm dễ bề tranh công
Cám kia sâu sắc khôn cùng
Tấm thì ngay thẳng chẳng lòng đắn đo
Chẳng riêng gì Cám, ngay đến cả nhân vật hiền lành như Tấm, ở trong
truyện Nôm, tác giả cũng miêu tả sự trả thù của Tấm có sự toan tính, căm giận
hơn:
Tấm còn căm tức trăm đường
Mẹo lừa lại bảo phụ phàng mấy ai
Xưa ai gây việc chông gai
Bây giờ sinh hại có ai đâu mà
Con người trong thời đại truyện Nôm hiện lên với tính chất phản kháng
mạnh mẽ hơn, với ý thức đấu tranh giai cấp rõ rệt. Nỗi căm giận của nhân vật
54
trước cái ác, cái bất công cũng như tinh thần đấu tranh xã hội trong truyện
Nôm được hiện lên sâu sắc, rõ nét hơn so với truyện cổ tích.
* Tiểu kết
Trong chương 2, chúng tôi so sánh trên các phương diện cốt truyện và
nhân vật giữa hai tác phẩm truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm
Cám. Có thể nói, cốt truyện giữa hai tác phẩm tương đối giống nhau. Các chi
tiết, các sự kiện, biến cố chính trong câu chuyện cơ bản không có sự khác biệt
ở hai tác phẩm. Đặc trưng này cũng xuất phát từ việc truyện Nôm mượn cốt
truyện từ câu chuyện cổ tích dân gian nên sự tương đồng trong cốt truyện là
điều tất yếu. Tuy nhiên, giữa hai tác phẩm khác nhau về một vài chi tiết, cách
kể và cách dẫn truyện. Nếu truyện cổ tích chú trọng đến việc miêu tả chi tiết
thì truyện Nôm chú ý đến việc thể hiện ý kiếnbình luận, đánh giá của tác giả ở
từng chi tiết, sự kiện.
Về khía cạnh nhân vật, nhìn chung, trong cả truyện cổ tích Tấm Cám và
truyện Nôm Tấm Cám, các nhân vật đều hiện lên với tính cách tương đối
thống nhất: Tấm là cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, ở cùng dì ghẻ là mẹ Cám.
Tấm hiền lành, lương thiện, cần cù, chịu thương chịu khó nhưng số phận bất
hạnh. Mụ dì ghẻ và Cám đều là những người độc ác, lười biếng, chỉ ăn trắng
mặc trơn dựa trên sức lao động của Tấm, luôn bày mưu tính kế, hãm hại Tấm
hết lần này đến lần khác. Các nhân vật còn lại như nhà vua, bà cụ bán hàng
nước về cơ bản cũng không khác biệt quá lớn. Tuy nhiên, do đặc trưng thể
loại và đặc điểm thời đại tác phẩm phản ánh, cách miêu tả nhân vật, tính cách
của từng nhân vật như Tấm, nhà vua, bà cụ hàng nước… có sự khác biệt.
Điều này chịu sự chi phối của đặc điểm thời đại cũng như phương thức nghệ
thuật, đặc điểm thể loại trong quá trình sáng tác.
55
Chƣơng 3
SO SÁNH CÁC MÔ TÍP ĐẶC TRƢNG
Truyện cổ tích nói chung và truyện cổ tích Tấm Cám nói riêng thường
sử dụng các mô típ đặc trưng như một phương tiện nghệ thuật trong sáng tác.
Có thể hiểu mô típ là “những phần tử đơn vị vừa mang tính đặc trưng, vừa
mang tính bền vững của truyện kể dân gian” [41, tr.266]. Trong Từ điển thuật
ngữ văn học, mô típ cũng được định nghĩa: “Từ Hán Việt là Mẫu đề (do
người Trung Quốc phiên âm chữ motif trong tiếng Pháp) có thể chuyển thành
từ khuôn, dạng trong tiếng Việt, nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn
hoặc nhỏ đã được hình thành, ổn định và bền vững, và được sử dụng nhiều
lần trong các sáng tác văn hóa nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật
dân gian” [15, tr.197].
Mô típ trong truyện cổ tích dân gian là những yếu tố vừa mang tính đặc
trưng, vừa mang tính bền vững nên nó rất gắn chặt với quá trình hình thành và
phát triển của truyện cổ tích, có tác động đến một bộ phận những sáng tác
cùng kiểu truyện, đồng thời cũng góp phần tạo nên sắc thái dân gian trong các
truyện kể.
Truyện Tấm Cám nói riêng và kiểu truyện Tấm Cám nói chung sử dụng
khá nhiều các mô típ điển hình. Tác phẩm cũng có kết cấu phức tạp với một hệ
thống các mô típ. Nghiên cứu về vai trò của mô típ trong truyện cổ tích Tấm
Cám, nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Xuân Lạc đã nhận xét: Truyện
Tấm Cám“là một trong nhưng truyện cổ tích đứng hàng đầu về số lượng mô típ
và có những mô típ rất tiêu biểu cho một tác phẩm folklore...” [21, tr.79].
3.1. Mô típ mẹ ghẻ - con chồng
3.1.1. Cấu trúc mô típ
Mô típ mẹ ghẻ - con chồng là mô típ mở đầu cho toàn bộ tác phẩm
truyện cổ tích cũng như truyện Nôm Tấm Cám. Mâu thuẫn giữa mẹ ghẻ - con
56
chồng là một trong hai mâu thuẫn cơ bản (cùng với mâu thuẫn giữa hai chị
em cũng cha khác mẹ Tấm và Cám) tạo nên xung đột trong truyện cổ tích
Tấm Cám và cả truyện Nôm Tấm Cám. Mâu thuẫn giữa mẹ ghẻ - con chồng
được xây dựng bằng hàng loạt các tình tiết từ việc mụ dì ghẻ chèn ép, bóc lột,
đày đọa rồi đến sát hại người con, và song hành với quá trình đó là sự đấu
tranh, vươn lên không ngừng để giành và giữ quyền sống, quyền hưởng hạnh
phúc của bản thân mình, cuối cùng kết thúc bằng sự trả thù thích đáng của
người con dành cho những tội ác dã man của mụ dì ghẻ độc ác.
3.1.2. So sánh mô típ
Trong truyện cổ tích Tấm Cám, mâu thuẫn mẹ ghẻ - con chồng trước
hết xuất phát từ việc đối xử bất công với hai chị em: “Tấm phải làm lụng
quần quật suốt ngày, còn Cám được mẹ nuông chiều, chơi dông dài ngày nọ
sang ngày kia”. Sự bất công ấy là khởi đầu cho cả hai mâu thuẫn cơ bản trong
tác phẩm: mâu thuẫn mẹ ghẻ - con chồng và mâu thuẫn giữa hai chị em cùng
cha khác mẹ. Từ sự bất công vì phân biệt con chung, con riêng ấy, trong suốt
câu chuyện, không biết bao nhiêu lần mụ dì ghẻ đối xử tàn bạo, bày mưu nghĩ
kế hãm hại Tấm. Khi biết Tấm nuôi cá bống dưới giếng, mỗi bữa đều dành
một bát cơm chăn bống, mụ dì ghẻ sai con Cám đi rình, rồi bày mưu để giết
cá bống ăn thịt. Mụ nắm sẵn một nắm cơm đưa cho Tấm, dặn rằng: “Con ơi,
con! Hôm nay chăn trâu thì chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất
trâu”. Chỉ chờ lừa được Tấm, mụ dì ghẻ cùng Cám ở nhà giết cá bống ăn thịt.
Đối với mụ, cá bống chỉ là một con vật nhỏ bé, không có ý nghĩa nhưng đối
với Tấm, đó là vật bầu bạn, xua đi nỗi cô đơn, ghẻ lạnh trong ngôi nhà không
có tình thương của mụ dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ là Cám. Nó có
thể không có ý nghĩa về vật chất, nhưng nó có ý nghĩa lớn lao về mặt tinh
thần, vậy mà giờ đây đã bị mẹ con Cám giết thịt.
57
Mụ dì ghẻ càng ngày càng bắt Tấm làm việc nhiều hơn, “nào chăn
trâu, cắt cỏ, thổi cơm, rồi đêm lại xay lúa, giã gạo, cho đến canh khuya mới
được đi nằm”, dường như không có lúc nào được nghỉ ngơi. Thành quả lao
động mà Tấm tạo ra để phục vụ cho mẹ con Cám được ăn trắng mặc trơn,
không phải động chân động tay vào làm bất cứ việc gì. Ấy vậy mà đến khi
nhà vua mở hội, mụ cũng tìm cách đày đọa, không cho Tấm đi xem hội bằng
cách trộn lẫn một đấu thóc và một đấu gạo bắt Tấm chọn riêng từng loại mới
được đi xem. Như vậy, mụ dì ghẻ không chỉ đày đọa Tấm về thể xác, bắt phải
lao động vất vả, quần quật cả ngày cả đêm mà còn đày đọa Tấm cả về đời
sống tinh thần. Đối với nhân dân ta ngày trước, lễ hội nhà vua tổ chức được
coi là một ngày hội lớn trong năm, mọi người nô nức đi xem hội, đó đã trở
thành một nét văn hóa không thể thiếu. Ấy vậy mà đời sống tinh thần ấy cũng
bị mụ dì ghẻ tìm mọi cách ngăn cản.
Trong hoàn cảnh ấy, Tấm chỉ còn biết bưng mặt khóc, và Bụt lại hiện
lên giúp đỡ cô gái mồ côi lương thiện phải chịu nhiều bất hạnh. Tấm có quần
áo đẹp để đi dự hội, đến khi đi qua chiếc cầu đánh rơi một chiếc giày. Đến khi
Tấm đến ướm thử chân vào giày, mụ dì ghẻ còn chua ngoa: “Chuông khánh
còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh ném ngoài bờ tre”. Sự cay nghiệt, coi
khinh của mụ dì ghẻ đối với người con riêng của chồng là lý do cho biết bao
nỗi thống khổ mà Tấm phải chịu đựng trong cuộc đời.
Những hành động độc ác của mụ dì ghẻ chưa dừng lại ở việc đày đọa
thể xác và tinh thần cô gái mồ côi đáng thương. Hơn thế nữa, khi Tấm được
vào cung, trở thành hoàng hậu, mụ dì ghẻ cũng năm lần bảy lượt bày kế cho
con gái là Cám hãm hại Tấm, khiến Tấm chết đi sống lại không biết bao lần.
Nhưng cuối cùng, sự độc ác ấy cũng phải nhận sự trừng phạt thích đáng, đó là
mong muốn của nhân dân trong một xã hội có giai cấp đầy rẫy những bất
công và bóc lột đối với người nghèo, người có hoàn cảnh bất hạnh.
58
Trong truyện Nôm Tấm Cám, cũng giống như trong truyện cổ tích, mâu
thuẫn giữa mẹ ghẻ - con chồng được phản ánh cơ bản tương đồng. Tuy nhiên,
do đặc trưng thể loại, cách dẫn dắt và những lời bình luận trong truyện Nôm
làm cho cách kể chuyện có sự khác biệt. Trong truyện Nôm, mâu thuẫn mẹ
ghẻ - con chồng cùng những sự phán xét của tác giả đã hiện lên ngay từ đầu
tác phẩm:
Còn cha còn lắm sự hay
Bây giờ cha mất dì rầy sai ngoa
Tuy rằng miệng chẳng nói ra
Trong lòng nào khác chi là dao găm
Truyện Nôm thường nhấn mạnh vào sự độc ác của mụ dì ghẻ thông qua
những lời nhận xét, triết lý, đánh giá của tác giả. Còn trong truyện cổ tích, sự
độc ác, những mâu thuẫn ấy hiện lên chủ yếu thông qua hành động của các
nhân vật từ đầu đến cuối tác phẩm. Ở truyện Nôm, mỗi chi tiết, sự kiện đều
kèm theo lời bình luận, dẫn dắt của tác giả. Đến khi nhà vua mở hội, mù dì
ghẻ cũng bày kế không cho Tấm đi xem hội:
Người ta tấp nập vuông tròn
Mẹ con cái Cám cũng bèn liền đi
Lòng đâu hiểm ác dị kỳ
Đem thóc cùng gạo chộn thì lần thay
Chộn xong bắt Tấm chọn ngay
Bảo rằng: “chọn hết con rày đi xem”
Và đến khi Tấm được vào cung, trở thành Hoàng hậu, mụ dì ghẻ cũng
không buông tha, tìm mọi cách hãm hại Tấm để tranh phần cho con mình:
Dì ghẻ càng tức bội phần
Nghĩ mưu hại Tấm để mà thay con
59
Như vậy, mâu thuẫn giữa dì ghẻ - con chồng trong truyện cổ tích Tấm
Cám và truyện Nôm Tấm Cám được phản ánh về cơ bản tương đồng, chỉ khác
nhau trên phương diện cách kể,cách dẫn dắt tình tiết, vấn đề một phần do sự
chi phối của thể loại. Có thể nói, mâu thuẫn dì ghẻ - con chồng không chỉ
phản ánh mâu thuẫn trong phạm vi gia đình, mà hơn thế nữa, nó còn phản ánh
mâu thuẫn trong xã hội thời bấy giờ. Khi xã hội công xã nguyên thủy tan rã,
bước sang chế độ xã hội có giai cấp với hình thức gia đình chuyển từ mẫu hệ
sang phụ hệ, xã hội hình thành những mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp
thì mâu thuẫn giữa dì ghẻ - con chồng cũng phản ánh mâu thuẫn trong xã hội,
giữa người bóc lột và người bị bóc lột. Mô típ dì ghẻ - con chồng trong truyện
cổ tích Tấm Cám và được tiếp nối ở truyện Nôm Tấm Cám là sự phản ánh
chân thực nhất.
3.2. Mô típ vật giao duyên
3.2.1. Cấu trúc mô típ
Trong tình yêu, vật giao duyên là yếu tố vô cùng quan trọng.Ở truyện
cổ tích Tấm Cám, đồ vật có ý nghĩa mở đầu cho sự gặp gỡ, giao duyên giữa
Tấm và nhà vua là đôi giày. Đôi giày là vật giao duyên trong truyện cổ tích
Tấm Cám, nhưng cũng là vật giao duyên trong nhiều truyện cổ tích theo type
truyện Tấm Cám ở Việt Nam và trên thế giới. Đó có thể coi là một mô típ vật
giao duyên điển hình trong truyện cổ tích.
Sự xuất hiện của đôi giày bắt nguồn từ việc con cá Bống của Tấm bị
mẹ con Cám lừa bắt ăn thịt, ném xương vào tro bếp. Đến khi Tấm đi chăn trâu
đồng xa trở về, đến bữa cơm gọi Bống đâu, chỉ thấy một cục máu nổi lên mặt
nước. Tấm bưng mặt khóc, Bụt hiện lên bảo Tấm nhặt xương Bống bỏ vào
bốn cái lọ, chôn ở bốn chân giường. Đến ngày vua mở hội, Tấm đào bốn cái
lọ ở bốn chân giường lên thì có đủ quần áo, giày dép đi dự hội. Truyện cổ tích
miêu tả chi tiết về đôi giày: “Đến đôi giày văn hài thì thật xinh xẻo, chỉ đôi
60
chân bé nhỏ của Tấm mới đi vừa”. Đôi giày ấy ngay từ đầu đã là một đôi giày
đặc biệt – đôi giày chỉ vừa chân một người. Đó cũng là nguyên tắc cơ bản, là
yếu tố tiên quyết để đôi giày trở thành vật giao duyên trong tình yêu: “chi tiết
xoay quanh đôi giày gắn với quan niệm của nhiều dân tộc về ý nghĩa của đôi
giày trong quan hệ nam nữ, trong hạnh phúc lứa đôi. Nhờ đôi giày kì lạ mà
nàng thiếu nữ được vua biết tới. Đôi giày đã là cái mối của hôn nhân, cái
duyên của đôi lứa” [20, tr.314].
3.2.2. So sánh mô típ
Trong truyện cổ tích, khi Tấm đã có quần áo, giày mới, có ngựa để đi
dự hội, đi qua chỗ lội, “Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước.Tấm vội
xuống ngựa, xắn quần, vén áo, mò mãi mà không thấy. Một lúc sau, voi của
vua đi đến chỗ lội, cứ gầm lên không chịu đi.Vua sai lính hầu thử xuống nước
mò xem thì nhặt được một chiếc giày văn hài xinh xẻo. Vua ngắm nghía chiếc
giày, rất lấy làm vừa ý. Vua truyền lệnh, hễ ai trong đám đàn bà con gái đi
xem hội, ai mà ướm vừa chiếc giày này, vua sẽ lấy làm vợ”. Còn ở trong
truyện Nôm, tác giả cũng miêu tả về việc Tấm đánh rơi chiếc giày trên đường
đi dự hội:
Bờ hồ qua chỗ cầu tre
Giầy bống rơi xuống khôn bề mò lên
Sự đâu gở lạ tự nhiên
Bỗng đâu vua ngự voi tiền đi qua
Đến đó voi gầm kêu la
Vua thấy sự lạ phán ra một lời:
Biết đâu hồ có vật rơi
Sai quân xuống đó xem thời có chi
Quân lính vâng mệnh vội đi
Mò mãi cũng chẳng thấy gì ở đâu
61
Khi mò đến chỗ gầm cầu
Thấy hài một chiếc chưa hầu của ai
Chiếc hài chẳng phải của trai
Rõ ràng của gái chẳng sai chút nào
Vua bèn truyền chỉ khắp rao
Bao nhiêu con gái đều vào ướm xem
Hễ ai châm ướm như in
Vua lấy làm vợ dự bên cung tần
Ngay từ đầu, đôi giày mà Tấm có đã là một đôi hài văn xinh xắn, chỉ
vừa với đôi chân nhỏ bé của Tấm. Tiếp theo đó là vô vàn sự trùng hợp để đôi
giày thực sự trở thành vật giao duyên, đưa Tấm đến với nhà vua trong tình
yêu. Tại sao Tấm lại đi qua con đường ấy và đánh rơi một chiếc giày xuống
nước? Tại sao đó cũng là con đường mà voi của nhà vua đi qua, và qua đúng
chỗ Tấm làm rơi giày thì voi gầm lên không chịu đi nữa? Và tại sao, cũng chỉ
là một chiếc giày rơi xuống nước mà khiến cho nhà vua truyền chỉ cho thử
giày, nếu ai vừa chân thì vua lấy làm vợ? Những sự việc ấy vốn không có gì
quá đặc biệt nếu để có thể đưa Tấm trở thành hoàng hậu nếu như không đặt
nó vào những sáng tạo nghệ thuật của tác giả dân gian. Nhưng trước hết phải
lí giải tại sao, ở đây Tấm lại đánh rơi đôi giày chứ không phải bất cứ đồ vật
nào khác? Đôi giày có ý nghĩa như thế nào trong văn hóa truyền thống của
người Việt Nam?
Có thể nói, không chỉ ở nước ta mà ở rất nhiều nơi trên thế giới, đôi
giày gắn liền với nhân duyên nam nữ. Để trở thành đồ vật gắn liền với nhân
duyên và tình yêu, chiếc giày ấy không phải chiếc giày bình thường mà phải
có một đặc tính riêng biệt nhất định nào đó. Ở những bản truyện cổ tích theo
kiểu truyện Lọ Lem trên trên thế cũng như kiểu truyện Tấm Cám của các dân
tộc Việt Nam đều có sử dụng mô típ chiếc giày xe duyên. Như vậy, mô típ
62
chiếc giày là vật giao duyên là một mô típ phổ biến trong các truyện cổ tích ở
Việt Nam và cả trên thế giới.
Khi nhà vua truyền chỉ trong đám con gái đi xem hội, nếu ai vừa chiếc
giày vua sẽ lấy làm vợ. Trong một điều kiện như vậy, để Tấm được trở thành
hoàng hậu, đôi giày ấy phải là “đôi giày chỉ duy nhất một người đi vừa”.Đây là
một đặc điể quan trọng, cũng là điều kiện tiên quyết để Tấm trở thành hoàng
hậu. Nghiên cứu về chi tiết này, giáo sư Nguyễn Tấn Đắc đã chỉ ra rằng: “Mô
típ cái duy nhất chọn lựa thể hiện ý muốn của thần linh như một định mệnh mà
con người không thể thay đổi được, một quan niệm nền tảng của truyện cổ”
[10, tr.195]. Cũng nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Đường Tiểu Thi trong
Luận án tiến sĩ So sánh kiểu truyện Cô Lọ Lem của một số dân tộc miền Nam
Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam cũng đã chỉ ra: “Đôi giày
chỉ duy nhất một người đi vừa cũng có nghĩa là, chỉ có nàng chứ không phải ai
khác có đủ tư cách để lấy chàng, đó là điều mà trời hoặc thần đã định sẵn,
không ai có thể cưỡng lại được. Mô típ này đã ẩn chứa một quan niệm cổ xưa
– quan niệm định mệnh. Quan niệm “định mệnh” (determinism) cho rằng vũ
trụ và số phận con người đều đã được sắp đặt từ trước do một lực lượng thần
bí không thể chống cự và không thể tránh khỏi” [35, tr.99].
Chi tiết “đôi giày chỉ duy nhất một người đi vừa” là điều kiện không
thể thiếu để đôi giày trở thành vật giao duyên trong tình yêu.Tất cả mọi người
đi xem hội hôm đó đều thi nhau ướm thử, kể cả mẹ con Cám. Nhưng chiếc
giày ấy không vừa chân bất kì một ai, người thì thiếu, người thì thừa… Tới
lượt Tấm, chiếc giày vừa như in với đôi bàn chân bé nhỏ của Tấm. Chiếc giày
mà nhà vua nhặt được cùng với cùng với chiếc giày trong tay Tấm vừa khéo
đúng một đôi. Nhờ đôi giày ấy mà Tấm trở thành hoàng hậu.
Truyện Nôm Tấm Cám dựa trên cốt truyện của truyện cổ tích Tấm
Cám, cũng giữ nguyên sự xuất hiện và ý nghĩa của mô típ đôi giày – vật giao
63
duyên trong truyện cổ tích. Nhờ đôi giày, các cô gái mồ côi đã đến được với
hạnh phúc. Đôi giày có ý nghĩa như một vật báu trực tiếp đem lại may mắn và
thay đổi số phận cho những người mồ côi nghèo khổ như Tấm:
Tấm bèn biết ý tự nhiên
Từ từ cũng đến vào liền ướm chơi
Hay đâu sự bởi lòng giời
Giày mình mình ướm tức thời vừa ngay
Thông qua việc cô gái đánh rơi chiếc giày nhà vua nhận ra người đẹp và
kết hôn, đưa số phận những cô gái mồ côi trở thành hoàng hậu. Nhưng không
phải ngẫu nhiên mà tác giả dân gian lựa chọn hình ảnh đôi giày để làm vật giao
duyên của trai gái trong tình yêu. Tìm hiểu về văn hóa truyền thống các dân tộc
trên thế giới, có thể tìm thấy trong nhiều nền văn hoá nhiều nước, đôi giày có ý
nghĩa giao duyên, là vật làm tin mà các chàng trai, cô gái thường trao cho nhau
trước hôn lễ. Ở Việt Nam, đôi giày không có ý nghĩa giao duyên, phong tục
cưới xin cũng không có ý nghĩa vật làm tin trong đám cưới như nhiều nền văn
hóa khác, tuy nhiên nó vẫn có những ý nghĩa riêng biệt.
Trong truyện cổ tích và truyện Nôm, những người phụ nữ đi hội nghe
tin nhà vua truyền lệnh ai ướm vừa chân với chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ,
khi ấy “tất cả đàn bà con gái trong đám hội đều chen nhau đến ướm chân”.
Con người ta ai cũng có ước mong hạnh phúc, hơn nữa những người phụ nữ
trong xã hội phong kiến ai chẳng khao khát mình được làm vợ vua, được trở
thành hoàng hậu. Họ thử giày để mong chờ một vận may tình cờ có thể đến,
nhưng đó lại là điều không bao giờ có trong cổ tích. Truyện cổ tích phản ánh
những vấn đề có tính chất riêng tư nhưng phổ biến trong xã hội có giai cấp,
chính vì vậy nhân vật có thể là riêng tư nhưng phải mang tính chất đại diện.
Người được truyện cổ tích lựa chọn phải là người đại diện cho những đức tính
tốt đẹp, xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Đôi giày ấy dành cho Tấm không
64
phải sự ngẫu nhiên mà là món quà thưởng công xứng đáng cho những đức
tính tốt đẹp và bản tính lương thiện của cô gái mồ côi phải chịu nhiều bất
hạnh.Ở truyện Tấm Cám, “chiếc giày là vật giao duyên, hơn nữa nó biểu hiện
sắc đẹp của nàng thiếu nữ đáng yêu kia. Chỉ có nàng chứ không phải bất cứ
ai khác cũng có thể đặt vừa bàn chân vào chiếc giày kì lạ để bước vào cuộc
đời hạnh phúc” [20, tr.314]. Cô gái mồ côi tìm được hạnh phúc như một sự
bù đắp mà dân gian muốn dành cho những con người lương thiện nhưng phải
chịu nhiều bất hạnh trong xã hội. Đến đây ta mới hiểu rằng, nhân dân ta đằng
sau luỹ tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao mơ ước lãng mạn và kì diệu của
ngườilao động nghèo, truyện cổ tích đã tạo hình cho những mơ ước đó và
nuôi nó sống động trong những câu chuyện kể. Mỗi câu chuyện đẹp như Tấm
Cám là một luồng gió đem theo niềm tin, khát vọng và ước mơ của nhân dân
về một cuộc sống hạnh phúc, lí tưởng.
3.3. Mô típ hóa thân
3.3.1. Cấu trúc mô típ
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích dân gian là một đặc trưng thẩm mĩ
của thể loại, góp phần tạo ra màu sắc riêng cũng như không khí kì ảo, thần kì
cho truyện cổ tích. Trong truyện cổ tích Tấm Cám, mô típ này được xác định
thông qua hàng loạt các chi tiết liên quan đến “quá trình tìm và diệt” (chữ
dùng của Đỗ Bình Trị) của mẹ con mụ dì ghẻ đối với cô Tấm, làm cho cô
Tấm chết đi sống lại nhiều lần, từ cô Tấm hiền lành qua năm lần hóa thân lại
trở về là chính mình và được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Lần đầu tiên, thông qua “đôi giày giao duyên” mà Tấm được nhà vua
đón vào cung và trở thành hoàng hậu. Cứ tưởng hạnh phúc mỉm cười với cô
gái bất hạnh, từ đây Tấm được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, đó
mới chỉ là khởi đầu của một quá trình giữ hạnh phúc đầy gay go, quyết liệt
mà Tấm sẽ phải trải qua. Tấm chết, linh hồn Tấm lần lượt hóa thân thành
65
chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, cây thị rồi quả thị. Đây vốn là
những vật rất gần gũi trong cuộc sống của người lao động nơi thôn quê dân
dã. Mỗi hình thức biến hóa ấy không phải là ngẫu nhiên mà là một sự chọn
lựa đầy ý nghĩa của tác giả dân gian, là nơi nhân dân gửi vào đó biết bao điều
muốn nói. Mỗi lần Tấm hóa thân đều mang một ý nghĩa đặc sắc riêng.
3.3.2. So sánh mô típ
Lần đầu tiên, Tấm vào cung dù được sống trong cuộc sống nhung lụa
nhưng vẫn nhớ về cuộc sống làng quê thuở trước, “nhớ con trâu mà mình
từng chăn dắt trên đồng cỏ xanh, nhớ ruộng vườn mình từng chăm bón những
ngày sương mù, nắng hạ”. Đến ngày giỗ bố, Tấm xin phép vua cho về thăm
nhà. Khi về đến nhà, mụ dì ghẻ ghen ghét với cuộc sống ăn sung mặc sướng
của Tấm bèn bày mưu hãm hại. Mụ bảo Tấm trèo lên cây cau, xé lấy một
buồng để cúng bố. Tấm vồn hiền lành, hiếu thảo, lại quen với công việc ở
chốn thôn quê nên không đắn đo gì mà đồng ý. Tấm trèo lên xé buồng cau thì
mụ dì ghẻ ở dưới chặt gốc. Thấy rung, Tấm hỏi thì mụ bảo: “Dì đuổi kiến cho
con đấy mà!”. Cây cau đổ, Tấm ngã lộn xuống ao chết.
Ở truyện Nôm, tác giả cũng miêu tả lần hóa thân đầu tiên của Tấm
tương đồng với truyện cổ tích:
Dì ghẻ độc ác gian tà
Nghĩ mưu hại Tấm để mà thay con
Bảo rằng ngày kỵ cha con
Vậy con lên chẩy cau non cúng mà
Tấm thì lòng vẫn thực thà
Tức thời trèo tót lên đà ngọn cây
Dưới gốc dì ghẻ đẵn ngay
Tấm nghe thấy động hỏi rầy làm chi?
Dì rằng: “Ta đuổi kiến đi
66
Để nó khỏi đốt Vương Phi đó mà”
Tấm khi bất ý chẳng ngờ
Cau liền đổ xuống ngang bờ rào ao
Ở trong truyện cổ tích, tác giả dân gian kể “hồn Tấm nhập vào con
chim vàng anh đậu gần bờ ao. Chim vàng anh bay thẳng vào cung vua. Vua
đi đâu, chim cũng bay theo”. Còn ở trong truyện Nôm, cái chết oan nghiệt
của Tấm được tác giả truyện Nôm triết lí sâu sắc hơn:
Oan hồn hồn hiện ra ngay
Tấm oan Tấm hóa chim rày hoàng anh
Tác giả truyện Nôm đã chỉ rõ cái chết oan ức của Tấm khiến linh hồn
không được siêu thoát và hóa thành chim vàng anh bay vào cung vua. Giờ
đây Cám đã thay chị trở thành vợ vua, nhưng tự bản thân Tấm hiểu rõ mình
phải chịu cái chết oan nghiệt. Tấm không còn buông xuôi hay chỉ biết bưng
mặt khóc mà chờ một lực lượng thần kì (Bụt) hiện lên giúp đỡ như ở phần đời
trước khi vào cung. Giờ đây, hạnh phúc là từ tay mình nắm giữ, linh hồn Tấm
hóa thành chim vàng anh bay theo vào cung vua, vẫn quấn quít bên vua, quyết
giữ cho bằng được hạnh phúc của chính mình.
Khi chim vàng anh bay vào cung vua, ở trong truyện cổ tích, tác giả để
chim cứ quấn quít bên vua, vua đi đâu, chim cũng bay theo. Thấy con chim
quấn quít, vua tưởng nhớ Tấm, từ đó rất yêu chim, đi đâu cũng xách theo. Rồi
đến một hôm, nhìn thấy Cám đang giặt áo của vua, chim vàng anh kêu: “Giặt
áo chồng tao, thì giặt cho sạch; phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào; chờ
phơi bờ rào, rách áo chồng tao!”. Ở trong truyện Nôm, ngay khi chim vàng
anh bay vào cung vua, chưa quấn quít bên vua mà hành động đầu tiên của
chim vàng anh là nhắc Cám phơi áo của vua:
Bay vào vườn ngự đậu ngành
Kêu rằng vàng ảnh vàng anh đã vào
67
Đứa kia có giặt hoàng bào
Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao
Đúng lúc ấy nhà vua đi qua, nghe được tiếng chim kêu mới “đinh ninh”
nghĩ về Tấm và từ đó yêu quý vàng anh, đêm ngày quấn quít bên vàng anh
mà không màng gì đến Tấm.
Về cơ bản, lần hóa thân đầu tiên (hóa thân thành chim vàng anh) của
Tấm ở cả truyện cổ tích và truyện Nôm giống nhau. Chim vàng anh đặc trưng
với tiếng hót trong trẻo, thánh thót, màu sắc tươi sáng, đem lại niềm vui cho
con người. Chim quấn quýt bên nhà vua, được vua yêu chiều như đang yêu
chiều đối với chính Tấm vậy. Hình ảnh chim vàng anh là sự hóa thân của một
linh hồn trong sáng, hồn hậu, đồng thời trong sự hóa thân đó đã xuất hiện một
cô Tấm không còn yếu đuối, bị động như trước, dám vươn lên giành và giữ
hạnh phúc của chính mình. Tuy nhiên, giữa hai tác phẩm khác nhau ở một chi
tiết nhỏ đó là trình tự của việc vàng anh quấn quít bên vua trước rồi mới dạy
Cám cách phơi quần áo cho chồng sau ở truyện cổ tích và trình tự ngược lại ở
truyện Nôm. Một chi tiết ấy tưởng chừng như rất nhỏ nhưng cũng thấy được
tính chất đấu tranh quyết liệt hơn ở trong truyện Nôm. Ở truyện cổ tích, điều
đầu tiên chim vàng anh tìm đến khi trở về cung là đến bên vua – bên người
chồng của Tấm. Có thể thấy rằng, tình cảm thắm thiết sâu đậm là một đặc
trưng rất điển hình trong truyện cổ tích. Còn ở truyện Nôm, việc đầu tiên của
vàng anh đã là giải quyết mâu thuẫn, xung đột với lực lượng đối kháng – nhân
vật Cám. Ý thức đấu tranh giữ hạnh phúc quyết liệt ở cách kể trong cổ tích.Sau
đó, vàng anh mới quấn quít bên vua. Có lẽ con người ở thời trung đại khi sáng
tác truyện Nôm đã nhận thức sâu sắc vấn đề hơn, chỉ khi nào giải quyết được
xung đột thì mới có cơ hội để có được hạnh phúc, vì vậy giải quyết mâu thuẫn
là ưu tiên hàng đầu. Hơn thế nữa, nếu như ở truyện cổ tích, tác giả dân gian chỉ
kể lại câu chuyện thì ở truyện Nôm có đan xen cả những bình luận, đánh giá
68
của tác giả. Sự nhận thức bản chất của hạnh phúc, tính chất đầu tranh giành và
giữ hạnh phúc khởi nguồn từ lần hóa thân đầu tiên này sẽ còn được tiếp nối và
nâng lên cao hơn ở những lần hóa thân sau của Tấm.
Tấm biến thành chim vàng anh bay vào cung vua, vua chỉ yêu quý
chim vàng anh mà không quan tâm gì đến Cám khiến Cám càng tức giận hơn.
Con người độc ác, tham lam ấy cũng không chịu bằng lòng, tìm cách giết
chim vàng anh. Ở truyện cổ tích, “Cám rình lúc vắng, bóp chết chim vàng
anh, nướng cho mèo ăn, còn lông chim nó đem chôn sâu ngoài vườn”.Còn ở
trong truyện Nôm, Cám sai lính bắt chim ăn thịt rồi ném lông ra vườn.
Từ chỗ Cám vứt lông chim ra vườn mọc lên một cây xoan đào, vua
mắc võng ra đó nằm nghỉ.“Cứ mỗi khi nằm dưới bóng mát cây xoan đào, vua
như thấy hình ảnh Tấm hiện ra trước mắt, nên lại càng vấn vít với cây”. Và
trong truyện Nôm, cây xoan đào cũng rất được vua yêu quý:
Hay đâu xoan đẹp nhường bao
Vua yêu mắc võng ngay vào nằm chơi
Võng đưa kĩu kịt một hồi
Vua ngồi hóng mát càng ngồi càng yêu
Ở lần hóa thân thứ hai, sự hóa thân của Tấm thành cây xoan đào đều
giống nhau. Đó là loại cây có hoa tím nhẹ nhàng, nhỏ nhắn giống như chính
cái tên của Tấm. Cây xoan đào có cành lá xanh tươi xòe bóng che mát cho
nhà vua mỗi khi nằm, gỗ xoan màu hồng như tấm lòng son sắt với nhà vua sẽ
mãi không phai dẫu phải qua bao thăng trầm của Tấm. Loài cây ấy gắn bó với
nông thôn Việt Nam, thân thuộc với tuổi thơ của những đứa trẻ như Tấm ngày
trước. Dù là cây xoan đào hay chim vàng anh thì linh hồn mà Tấm hóa thân
đều được nhà vua yêu quý. Vua không màng gì đến Cám khiến Cám càng tức
giận và lại tìm cách chặt cây xoan đào đi. Lần này, theo kế sách của mẹ Cám,
Cám chặt xoan đào để làm khung cửi dệt vải. Nhưng sự oan ức của Tấm đâu
69
có chịu để yên, càng đè nén bao nhiêu càng khao khát vùng lên mãnh liệt bấy
nhiêu.Bị chặt đem đi làm khung cửi, Tấm trong cây xoan đào lại lên tiếng
vạch mặt, tiếp tục tuyên chiến với kẻ thù của mình quyết liệt hơn: “Cám ngồi
dệt vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: “Cót ca, cót két, lấy tranh chồng
chị, chị khoét mắt ra”. Trong truyện Nôm, tính chất đấu tranh, lời oán thán
dường như còn gay gắt hơn:
Khung đem mắc cửi vừa xong
Đến khi dệt vải nghe chừng tiếng kêu
Kĩu cà kĩu kịt đều đều:
“Lấy tranh chồng chị, ấy điều đợi xem
Chị thì khoét mắt moi tim
Mày sao lại giám tranh quyền chồng tao”
Không đơn thuần xưng hô chị - em như trong truyện cổ tích nữa mà ở
truyện Nôm, Tấm đã chuyển từ xưng “chị” sang xưng “tao”. Sự kìm nén, nỗi
uất ức trong lòng đã tăng thêm một bậc, không chỉ muốn “khoét mắt” mà hơn
thế nữa còn muốn “moi tim” kẻ đã cướp chồng mình, cướp đi hạnh phúc mà
đáng lẽ ra mình được hưởng.
Tấm hiền lành, lương thiện nhưng Cám độc ác cũng không chịu buông
tha.Con người độc ác ấy muốn bằng mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để cướp đi
hạnh phúc của người khác vì sự ghen ghét, đố kị. Nghe tiếng kêu kẽo kẹt của
khung cửi như tiếng oán trách của chính linh hồn chị Tấm, Cám đem đốt
khung cửi rồi đổ tro tận bên đường, thật xa cung vua. Trong ba lần đầu tiên,
từ chim vàng anh, cây xoan đào đến khung cửi, dù có tiêu diệt thế nào thì nó
vẫn quanh quẩn trong cung vua, ở gần vua, được vua yêu quý. Đến lần này,
Cám tìm cách vứt bỏ đi thật xa, nơi không còn sự liên hệ gì với cung vua nữa.
Cứ tưởng việc làm đó sẽ khiến Tấm không bao giờ còn được gặp nhà vua,
nhưng có lẽ Cám đã nhầm! “Ở đống tro bên đường, chẳng bao lau mọc lên
70
một cây thị lớn, cành lá xum xuê. Cây thị ra nhiều hoa, nhưng chỉ đậu một
quả thật to ở một cành cao vút”. Xa cách với cung vua, không còn được quấn
quít bên vua nhưng cũng chính là lúc Tấm được trở về và sống trong bầu
không khí đã nuôi lớn nàng – trở về với cuộc sống dân dã thôn quê. Tình cảm
yêu thương của bà cụ bán nước nhà nghèo nhưng luôn nâng niu “Thị ơi, thị
hỡi! Thị rụng bị bà, thị thơm bà ngửi, chứ bà không ăn” đã chiếm trọn tình
cảm của cô Tấm. Quả thị rụng xuống “bị bà” như một sự đồng cảm giữa
những con người cùng cảnh ngộ. Từ trong hình hài quả thị ấy, cô Tấm hiền
lành, lương thiện, chịu thương chịu khó của ngày xưa xuất hiện. Dẫu không
phải là cuộc sống nhung lụa như bên nhà vua nhưng lại là cuộc sống ấm áp
nghĩa tình, chan chứa yêu thương như gia đình thực sự.
Tấm vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống cùng dì ghẻ và người em cùng
cha khác mẹ, luôn bị hành hạ, bạc đãi. Cuộc sống và tuổi thơ ấy vốn dĩ thiếu
đi những yêu thương nên khi trở về vòng tay che chở của bà lão bán nước,
Tấm mới có cảm giác được yêu thương, Tấm và bà cụ hàng nước “yêu
thương nhau như mẹ con”.
Trong truyện Nôm, tác giả cũng miêu tả lần hóa thân cuối cùng này của
Tấm, nhưng xen với đó có cả những lời bình luận, nhận xét về câu chuyện:
Khí oan chứa chất đã đầy
Tìm đường báo oán biết tay chăng là
Cho hay hồn phách người ta
Thác oan thì ắt hồn đà linh thiêng
Đó là oan khí tương triền
Gio hóa cây thị mọc liền đường đi
Cũng là sự hóa thân thành cây thị mọc ven đường từ đống tro đốt
khung cửi mà Cám đã mang đổ thật xa cung vua, nhưng truyện Nôm chú ý
nhiều hơn vào việc nhấn mạnh tính chất bất nhân trong hành động của Cám
71
khiến cho “khí oan chứa chất” nên linh hồn sẽ “tìm đường báo oán”. Sự gặp
gỡ của Tấm với bà cụ bán hàng nước – dẫu là hai con người xa lạ nhưng nhân
duyên đã đưa họ gần nhau, coi nhau như ruột thịt:
Lỡ cơ không biến được đi
Mừng mừng rỡ rỡ khác gì gặp con
…
Bà lão tỏ hết càng khen
Nuôi làm nghĩa tử một niềm chẳng sai
Lần hóa thân thứ ba, Tấm hóa thành cây thị xanh tốt mọc ven đường.
Cây thị vốn là loài cây dân dã và thân thiết với người nông dân nơi thôn quê.
Hơn thế nữa, quả thị cho dù nhỏ bé nhưng có một màu vàng đẹp mắt, đầy sức
sống, luôn tỏa ngát hương thơm khiến ai cũng quý, cũng yêu. Hương thơm
ngát tỏa ra từ trái thị là hương vị của hương đồng gió nội, của làng quê Việt
Nam hay chính là hương thơm tỏa ra từ tấm lòng thơm thảo của cô Tấm thảo
hiền. Sau bao cay đắng, sau bao lần bị giày vò, bị hãm hại, cuối cùng Tấm trở
về với nhân dân, sống cuộc sống bình dị yêu thương nhau như mẹ con cùng
bà lão hàng nước nghèo. Giờ đây, Tấm trở lại không lam lũ nghèo hèn như
thuở ấu thơ, không cao sang quyền quý như sống trong cung vua nhưng điều
khiến người ta nhớ mãi, ấn tượng mãi đó chính là tấm lòng thơm thảo rất đỗi
bị dị mà rất đáng trân trọng. Hình ảnh quả thị với màu vàng tươi sáng, “với
đặc điểm hình tròn, có lớp vỏ ngoài dễ dàng bóc ra có thể liên hệ với cái bào
thai trong bụng mẹ. Quả thị chứa hình hài cô Tấm, và cô Tấm đã từ đó bước
ra, một lần nữ tái sinh trở lại kiếp người” [13, tr.104]. Qua mấy kiếp luân
hồi, Tấm vừa là cô Tấm nết na thảo hiền chịu thương chịu khó của ngày xưa,
lại vừa như được lột xác để mang một dáng dấp mới, xinh đẹp hơn, tự tin hơn
và một tâm thế sẵn sàng chủ động trong cuộc sống của chính mình. Lần hóa
thân cuối cùng này có ý nghĩa đặc biệt, chỉ khi trở về với nhân dân, Tấm mới
có đủ sức mạnh để vượt lên và giành lấy hạnh phúc cho chính mình.
72
Con người trong cuộc sống luôn cần vươn lên để giành và giữ hạnh
phúc cho chính mình. Mỗi lần hóa thân của Tấm là một lần ý thức đó sống
dậy, khao khát vươn lên mạnh mẽ. Mỗi vật mà Tấm hóa thân đều là những
vật gần gũi, thân thuộc trong đời sống của người lao động bình dị, gắn liền
với nông thôn và người nông dân Việt Nam. Mặc dù bốn lần hóa thân vào
những vật khác nhau chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi đến cây thị, quả
thị nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ đó đều là những hình ảnh dân dã, gắn
liền với cuộc sống thôn quê, những hình ảnh tưởng chừng rất bình dị nhưng
luôn mang một vẻ đẹp trong trẻo, thánh thiện, trong sáng như chính tâm hồn
lương thiện, trong sáng, thủy chung, không cam chịu khuất phục khi ý thức
được nỗi oan ức của mình.
Quá trình hóa thân của Tấm là sự thể hiện một sức sống mãnh liệt,
không thể bị tiêu diệt của cái đẹp, cái thiện. Quá trình hóa thân của Tấm vừa
phản ánh tư tưởng luân hồi của phật giáo, vừa thể hiện tư tưởng, ước mong
hướng đến hạnh phúc trần thế của nhân dân. Nhân dân đã chiến thắng ở cuộc
hồi sinh cuối cùng của nhân vật, để Tấm trở lại là chính mình, hưởng hạnh
phúc mà cô xứng đáng được hưởng. Đó là quan niệm ở hiền gặp lành, quan
niệm nhân quả đồng thời cũng là mơ ước cháy bỏng của nhân dân lao động
bao đời nay trong cuộc đối mặt với cái ác, cái xấu.
3.4. Mô típ vật gắn kết
3.4.1. Cấu trúc mô típ
Những lần hóa thân của Tấm phản ánh quá trình đấu tranh giành và giữ
hạnh phúc của cô gái mồ côi bất hạnh. Những lần hóa thân ấy khẳng định một
chân lí: cái thiện, cái tốt không bao giờ chịu khuất phục trong cuộc đấu tranh
dù gay go, quyết liệt với cái xấu, cái ác. Cuộc đấu tranh ấy có thể dai dẳng,
gian nan nhưng nhân dân ta tin rằng, chiến thắng cuối cùng vẫn thuộc về phe
chính nghĩa, hạnh phúc cuối cùng vẫn thuộc về những người xứng đáng được
73
hưởng. Một khi con người ý thức được hạnh phúc thì sẽ kiên quyết để giữ cho
mình hạnh phúc ấy. Những lần chết Tấm chết đi sống lại, hóa thân trong con
chim vàng anh, cây xoan đào đến khung cửi hay cây thị ven đường phản ánh
tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa thiện với ác. Từ cuộc
chiến gay go ấy đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị tiêu
diệt của cái thiện. Bằng việc sử dụng yếu tố kì ảo, nhân dân đã đưa cô Tấm
trở về với cuộc đời để từ đây Tấm được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Để trở về với cuộc đời, cần nhờ đến tấm lòng nhân hậu, yêu thương của
bà lão bán hàng nước, nhưng để trở về với hạnh phúc xưa kia vốn có của
Tấm, được gặp lại nhà vua, cần phải nhờ đến một vật gắn kết – đó chính là
miếng trầu. Có thể nói, “Nếu nhờ chiếc giày mà có cuộc hạnh ngộ giữa vua
và Tấm thì lại nhờ một vật khác mà có cuộc tái hợp giữa vua và nàng. Vật đó
là miếng trầu. Nhờ chiếc giày kì lạ mà vua tìm được vợ đẹp. Nhưng chính nhờ
miếng trầu quen thuộc mà vua tìm lại được vợ hiền” [20, tr.315].
Tình yêu thương của nhà vua và Tấm là tình cảm chân thành, thắm
thiết. Tình cảm sâu sắc ấy dẫu có trải qua bao gian nan thì vẫn một lòng sắt
son, thủy chung. Dù bị ngăn cách với nhau bởi hai thế giới nhưng linh hồn
đâu dễ dàng bị khoảng cách làm cho ngăn trở, những con người đã yêu
thương nhau dễ gì để cho khoảng cách xa gần chia cắt, có nhân duyên rồi sẽ
đến lúc trở về bên nhau. Và chính bằng miếng trầu têm cánh phượng, vua và
Tấm đã được gặp lại nhau, hai con người ấy đã trở về bên nhau.
3.4.2. So sánh mô típ
Như ở chương 2 chúng tôi đã phân tích, chi tiết nhà vua ghé vào quán
nước ven đường của bà cụ, nhờ miếng trầu têm cánh phượng mà gặp lại Tấm
và đón Tấm về cung giữa hai tác phẩm truyện cổ tích và truyện Nôm có sự
khác biệt. Đó không chỉ phản ánh sự khác biệt về tính cách nhân vật, quan
niệm về nhân vật đế vương của nhân dân ở từng thời kì khác nhau, mà hơn thế
nữa còn phản ánh những sự khác nhau về hình tượng miếng trầu trong văn hóa.
74
Ở truyện cổ tích, nhà vua khi vừa nhìn thấy miếng trầu đã nhận ra
miếng trầu quen thuộc mà Tấm têm ngày trước, ngỏ ý muốn được gặp người
con gái têm trầu. Khi nhận ra Tấm, nhà vua xin phép được đón Tấm về cung.
Trong văn hóa Việt Nam, “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đồng thời cũng là
vật gắn kết tình yêu nam nữ: “Nhà vua nhìn miếng trầu têm cánh phượng thì
biết ngay là của vợ mình, thấy ngay bàn tay vợ mình ở đó. Và dầu trước kia
đã biết Tấm chết rồi mà nhà vua vẫn tin như sắt đá rằng nàng tất phải ở nhà
bà lão hàng nước” [20, tr.315]. Chính miếng trầu quen thuộc ấy đã giúp nhà
vua nhận ra và khẳng định chắc chắn về sự tồn tại trên cõi đời của Tấm, cũng
nhờ tình cảm sâu đậm, nhớ từng miếng trầu têm mà nhà vua đã tìm lại được
người vợ thảo hiền của mình ngày trước. Miếng trầu ấy đã nối lại tình duyên
xưa, dẫu trải qua bao cách trở nhưng tình cảm tha thiết, gắn bó đậm sâu thì
thông qua miếng trầu quen thuộc ấy cũng nhận ra nhau và trở lại.
Ở trong truyện Nôm, khi nhà vua nhìn thấy miếng trầu têm cánh
phượng cũng thấy giống với miếng trầu vợ mình têm ngày trước. Nhưng điều
nhà vua muốn là lấy người phụ nữ têm trầu đó làm hoàng hậu chứ không phải
gặp lại người vợ của mình thuở trước. Tấm gặp lại nhà vua, nàng “tung hô
vạn tuế” và được gặp vua là thỏa lòng ước mong:
Mây vương được thấy bóng rồng
Cũng là thỏa nguyện trông mong những ngày
Dù vẫn là đón Tấm về cung, đưa Tấm trở về với ngôi hoàng hậu xưa
kia nhưng sao ta vẫn có cảm giác khoảng cách giữa Tấm và nhà vua là
khoảng cách giữa quân vương một nước với người dân, không có sự gần gũi
mộc mạc như nghĩa tình vợ chồng trong truyện cổ tích? Miếng trầu đó vẫn
giữ vai trò là vật gắn kết, là phương tiện để nhà vua nhận ra và nối lại tình
xưa với Tấm nhưng dường như ý nghĩa của nó đã giảm đi đôi chút. Hình ảnh
nhà vua mà tác giả truyện Nôm muốn phản ánh phải chăng có mang dáng dấp
75
của hình tượng nhà vua dưới thời phong kiến suy tàn, những kẻ không còn
giữ được những phẩm chất đẹp đẽ trong mắt nhân dân? Phải đọc truyện cổ
tích, phải nghĩ về miếng trầu trong cổ tích thì mới thấy hết được cái hay, cái
đẹp của hình tượng mô típ vật gắn kết mà tác giả dân gian đã xây dựng. Nó
không phải thứ gì cao sang, nhưng chính những điều bình dị nhất lại gắn bó
con người với nhau. Đây không chỉ là một mô típ đẹp, mà còn là một mô típ
độc đáo chỉ có riêng ở truyện cổ tích Tấm Cám của Việt Nam mà các truyện
cổ tích theo kiểu truyện Lọ Lem trên thế giới không có vì miếng trầu gắn liền
với văn hóa truyền thống Việt Nam: “Chiếc giày kì lạ đã tạo nên hạnh phúc
lứa đôi, tình tiết này có ở trong truyện của nhiều nước. Miếng trầu quen
thuộc đã nối lại tình duyên lỡ dỡ đó, tình tiết này chỉ có ở truyện cổ tích nước
ta” [20, tr.315].
3.5. Môtíp thƣởng – phạt
3.5.1. Cấu trúc mô típ
Quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo là một quan niệm phổ biến
trong văn hóa truyền thống Việt Nam cũng như xuất hiện phổ biến trong các
tác phẩm truyện cổ tích thần kì. Cả truyện cổ tích Tấm Cám là bằng chứng
hùng hồn cho triết lý đạo đức dân gian ấy. Kết thúc truyện, mẹ con Cám độc
ác cuối cùng cũng phải chịu sự trừng phạt thích đáng, người đáng được hưởng
hạnh phúc cũng được hưởng hạnh phúc xứng đáng.
Trong truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám, mô típ
thưởng – phạt nằm ở cuối tác phẩm, là sự thưởng công xứng đáng cho người
hiền lành, lương thiện, tốt bụng, chịu thương chịu khó nhưng số phận phải
chịu nhiều bất hạnh, nhiều sự đày đọa khổ sở. Tác phẩm đã thưởng xứng đáng
cho người có công thì đồng thời cũng trừng trị thích đáng với những kẻ có tội.
Mẹ con mụ dì ghẻ tiêu biểu cho những kẻ độc ác, lười biếng, tham lam, luôn
bày kế hãm hại người cuối cùng cũng nhận sự trừng phạt thích đáng. Mô típ
76
này khép lại tác phẩn như minh chứng cho đạo lý “ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo” trong dân gian ta từ muôn đời.
3.5.2. So sánh mô típ
Ở truyện cổ tích Tấm Cám, Tấm trả thù Cám bằng cách:
“Tấm sai người đào một cái hố, bảo con Cám tụt xuống, rồi Tấm sai
người đem nước sôi dội vào con Cám, con Cám chết còng queo dưới hố. Tấm
đem xác con Cám làm mắm gửi cho dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi
biếu. Mẹ con Cám tưởng là quà của con thật, lấy làm sung sướng, ngày nào
mụ cũng giở mắm ra ăn, khen lấy khen để.
(…) Đến ngày mắm gần hết, nhòm vào chĩnh, mụ mới nhìn thấy đầu lâu
con mình. Biết chính mình đã đưa con đến cái chết, lại chính mình ăn thịt con
mình, mụ uất lên, ngã vật xuống đất mà chết”.
Trong truyện Nôm, tác giả cũng để Tấm trừng phạt Cám theo cách của
truyện cổ tích:
Nhỏ to Tấm mới nói ra
Rằng: “Em muốn đẹp em ra ngoài vườn
Đào đất sâu thẳm một hang
Em chui xuống đó sẵn sàng một nơi
Sai người đun nước rõ sôi
Em dội một lượt từ đầu đến đuôi
Đó là thay dạng đổi mầu
Thế là xinh đẹp khác mầu hằng nga
Chị em tính bảo thực thà
Chị làm như thế nay đà đẹp xinh
Vậy nên chị nói thật tình
Để cho em được phân minh mọi bề”
77
Cả truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám đều sử dụng cách
kết thúc Cám bị dội nước sôi chết, Tấm làm mắm rồi gửi cho mụ dì ghẻ ăn,
đến khi thấy đầu lâu con mình thì mụ cũng lăn đùng ra chết. Lê Như Bình
trong bài viết Đổi mới cách đọc – hiểu đoạn kết Tấm Cám đã chỉ ra: “Cái kết
của “Tấm Cám” thể hiện tâm trạng bức xúc của dân gian đối với cái ác, và là
cách nói để giáo dục, cảnh tỉnh, so với tranh Thập Điện La vương của nhà
Phật thì chưa thấm vào đâu. Để giáo dục người đời tránh xa cái tàn bạo, các
họa sĩ đã vẽ cảnh chịu tội của kẻ ác khủng khiếp hơn nhiều: bị chó ngao xé
xác, bị chặt từng khúc, bị bỏ vào vạc dầu sôi… Và chẳng vì thế mà các đệ tử
của Phật giáo bớt đi lòng nhân ái, cũng như kẻ gây án mạng xưa nay chưa ai
quy vì đọc “Tấm Cám”. Bởi lẽ, không ai coi đó là chuyện thật mà đều hiểu là
câu chuyện dạy đời” [3].
Cách kết thúc truyện Tấm Cám như vậy bị nhiều người cho là “dã
man”, hành động ấy với bản tính lương thiện trong con người Tấm. Nhưng
một tác phẩm sinh ra từ môi trường sinh hoạt văn hóa dân gian, lưu truyền
trong dân gian, được dân gian đón nhận và lưu giữ thì chắc chắn có cái lí của
dân gian. Lí giải điều này, có thể nhìn vào những hành động độc ác của mẹ
con Cám đối với Tấm. Khi nàng đang sống, chúng đày đọa, bắt nàng làm việc
cực nhọc, áp chế cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Đến khi nàng chết đi,
chúng vẫn không buông tha, hết lần này qua lần khác tìm cách hãm hại và tiêu
diệt nàng tận gốc, không cho nàng cơ hội được sống lại, được phục sinh. Dân
gian đã có lí khi để Tấm tự tay trừng phạt mẹ con Cám xứng đáng với những
gì chúng đã gây ra: “Đối với tội ác kéo dài và khủng khiếp như thế ấy, phải
có sự trừng phạt khốc liệt như thế kia thì mới thỏa dạ, thì mới giải quyết được
nỗi căm phẫn của nhân dân. Bọn gian ác đã mất hết nhân tính, phải trừng
phạt chúng như trị loài ác quỷ. Tấm làm việc đó một cách tự nhiên, đơn
giản.Việc trừng phạt này không phải trái ngược với tính cách một cô gái quê
78
thùy mị chất phác, mà lại phù hợp với quan niệm đơn giản nhưng phân minh
về công lí xã hội của nông dân” [20, tr.321].
Cách trừng trị của Tấm đối với mẹ con Cám ở cuối truyện là chi tiết
gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu. Phải thấy rằng, trừng trị những kẻ
có tội cũng là một trong những cách thức để giáo dục cộng đồng, chính vì
vậy, sự trừng phạt ở đây là hoàn toàn cần thiết. Nhưng tranh luận nảy sinh từ
chỗ ai là người trừng phạt và cách thức trừng phạt như thế nào.Nhìn từ quan
điểm hiện đại ngày nay, việc Tấm trả thù mẹ con Cám thì không sai nhưng
cách thức trả thù bằng hành động dã man có lẽ không nhận được sự đồng
tình: “Chúng ta có thể giết kẻ thù, nhưng không làm những việc tàn bạo man
rợ đối với nó như lúc nó đã làm với chúng ta” [20, tr.321]. Lòng căm thù đến
mức mù quáng có thể khiến một con người dù hiền lành, thương thiện cũng
có thể có những hành động độc ác không ngờ đến, đó là quy luật tâm lý phổ
biến. Có thể nói, “Cô Tấm giết Cám và mụ dì ghẻ là đúng.Cô sẽ kém phần
đẹp nếu tỏ ra nhu nhược hoặc thỏa hiệp với kẻ thù gian ác. Tuy vậy, cô sẽ còn
đẹp hơn nữa nếu không dùng hình thức tàn khốc để giết chúng, nếu trong việc
giết mụ dì ghẻ và con Cám không thoáng có một chút thích thú của việc trả
thù để mà trả thù. Nhưng biết làm sao được! Oán thù đã sâu, cô Tấm không
muốn làm khác đi. Tác giả dân gian cũng không muốn làm khác đi. Bởi vì
việc làm ấy phù hợp với mối căm thù sâu sắc của nông dân” [20, tr.322].Mô
típ thưởng – phạt kết thúc truyện Tấm Cám dù được đồng tình ủng hộ hay
phần nào phản đối thì đó cũng là kết quả sáng tạo của dân gian, phản ánh tâm
tư, nguyện vọng, ước mơ, tâm lý của nhân dân. Vì vậy, thiết nghĩ không nên
đặt vấn đề sửa lại kết truyện mà nên đặt vấn đề cần phải hiểu và nhìn nhận
như thế nào về cách kết thúc này, từ đó đổi mới cách đọc hiểu dưới cái nhìn
nhân văn và tiến bộ.
79
* Tiểu kết
Qua việc nghiên cứu các mô típ đặc trưng trong truyện cổ tích Tấm
Cám, có thể thấy rằng đó là những mô típ có một ý nghĩa nghệ thuật quan
trọng, là một phương tiện để kết nối cốt truyện, tạo nên tính liền mạch cũng
như tính thống nhất của truyện kể. Không chỉ có vai trò riêng lẻ trong từng tác
phẩm, những mô típ đó còn có ý nghĩa trong việc làm nên vẻ đẹp của tác
phẩm văn học dân gian: “Bản thân các mô típ này đều mang những ý nghĩa
sâu sắc như ta đã biết, nhưng điều quan trọng hơn cả là các mô típ này đã
tạo nên cái không khí mơ màng vừa thực vừa ảo rất hấp dẫn của truyện cổ
tích, đưa ta vào cái thế giới huyền diệu của folklore. Không tiếp cận các mô
típ thì cũng không thể tiếp cận được vẻ đẹp đích thực của tác phẩm folklore
chính là vì thế” [21, tr.79]. Các mô típ đặc trưng trong truyện cổ tích Tấm
Cám và truyện Nôm Tấm Cám có thể có đôi chút khác biệt nhưng về cơ bản
vẫn thống nhất trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm, khẳng định
giá trị chung của tác phẩm. Thiếu đi các mô típ thì chắc chắn câu chuyện sẽ
thiếu đi phần hấp dẫn, cốt truyện cũng không thể phát triển nếu không có sự
hiện diện đúng lúc của các mô típ để giải quyết những xung đột trong câu
chuyện, đáp ứng nhu cầu sáng tạo của tác giả dân gian.
80
KẾT LUẬN
Tấm Cám là tác phẩm tiêu biểu của truyện cổ tích thần kì Việt Nam. Từ
cốt truyện cổ tích, các tác giả thời trung đại đã sáng tạo nên truyện Nôm Tấm
Cám dưới một hình thức nghệ thuật mới để phản ánh những vấn đề nhân sinh,
xã hội của thời đại mình. Nghiên cứu về truyện cổ tích Tấm Cám đã có một
bề dày lịch sử, tuy nhiên nghiên cứu so sánh giữa truyện cổ tích Tấm Cám và
truyện Nôm Tấm Cám lại là vấn đề chưa được đặt ra trong một đề tài riêng
biệt. Luận văn này thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu hai tác phẩm đó trong cái
nhìn đối sánh.
Về phương diện cốt truyện và nhân vật, giữa truyện cổ tích Tấm Cám
và truyện Nôm Tấm Cám vừa có điểm tương đồng, vừa có điểm dị biệt.Ở
phương diện nhân vật, truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám đều
có sự tương đồng trong việc lự chọn, miêu tả và phản ánh các đặc điểm nổi
bật về hành động, tính cách của nhân vật: Tấm hiền lành, lương thiện, chịu
thương chịu khó, mẹ con Cám độc ác, gian xảo, lười biếng, bày mưu tính kế
hãm hại người; Tấm trải qua quá trình đấu tranh không ngừng nghỉ để giành
hạnh phúc, cuối cùng nhận được sự đền đáp xứng đáng, được hưởng hạnh
phúc trọn vẹn; còn mẹ con Cám độc ác cuối cùng phải trả giá thích đáng cho
những tội ác mà chúng gây ra. Bên cạnh những điểm tương đồng, hai tác
phẩm cũng có sự khác biệt về cách xây dựng nhân vật, cách miêu tả nhân vật,
qua đó thể hiện những đánh giá khác nhau của tác giả về nhân vật và hiện
thực xã hội. Nếu nhân vật trong truyện cổ tích được miêu tả phiếm chỉ thì
nhân vật trong truyện Nôm được miêu tả cụ thể hơn với tên tuổi, xuất thân,
quê quán, địa danh… Nếu nhân vật ở truyện cổ tích được miêu tả chủ yếu qua
các hành động, sự kiện thì nhân vật trong truyện Nôm ngoài hành động còn
được hiện lên qua những câu thơ đánh giá, nhận xét, bình luận của tác giả.
81
Tác giả truyện Nôm không chỉ kể câu chuyện mà còn lồng vào đó những quan
niệm của chính mình về hiện thực.
Về các mô típ điển hình trong tác phẩm, về cơ bản vẫn là sự tương
đồng vì truyện Nôm Tấm Cám mượn cốt truyện từ truyện cổ tích Tấm Cám.
Tuy nhiên, ở từng mô típ có sự khác biệt đôi chút, chủ yếu là ở cách xây
dựng, cách kể và sự đan xen thái độ đánh giá của tác giả.
Nhìn chung, giữa truyện cổ tích Tấm Cám và truyện Nôm Tấm Cám có
sự tương đồng khá lớn do truyện Nôm mượn cốt truyện từ truyện cổ tích. Tuy
nhiên, không vì thế mà truyện Nôm chỉ là một bản sao, một tác phẩm y
nguyên với cốt truyện có sẵn. Từ một cốt truyện quen thuộc, một tác phẩm
được coi là điển hình, với những nhân vật được coi là tiêu biểu của truyện cổ
tích dân gian, tác giả truyện Nôm đã sáng tạo và xây dựng thành công một tác
phẩm dưới một hình thức nghệ thuật mới để truyền tải những thông điệp nghệ
thuật, khái quát những vấn đề xã hội, nhân sinh và thể hiện quan điểm của
mình trước thời đại. Mặc dù mượn cốt truyện từ một tác phẩm có sẵn nhưng
bằng một thể loại mới, truyện Nôm Tấm Cám vẫn tạo được những giá trị nghệ
thuật đặc sắc, góp phần khẳng định sự thành công của thể loại truyện Nôm,
đồng thời một lần nữa khẳng định sức sống lâu bền của truyện cổ tích Tấm
Cám trong đời sống văn hóa, văn học Việt Nam.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Bản truyện Tấm Cám, nhà in Vĩnh Thịnh.
3. Lê Như Bình (2012), Đổi mới cách đọc – hiểu đoạn kết Tấm Cám, Tạp
chí giáo dục số 281, kì 1 - 3/2012.
4. Nguyễn Minh Cảnh (chủ biên) (2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam tập
3, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Lê Thị Kim Cúc (2011), Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của nhân vật
giao tiếp trong truyện cổ tích Tấm Cám và một vài kết luận sư phạm,
Tạp chí Giáo dục số 271, kì 1 - 10/2011.
6. Nguyễn Du (2005), Truyện Kiều, Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Chu Xuân Diên (2000), Về cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong
truyện Tấm Cám, Tạp chí Văn học số 3/2000.
8. Nguyễn Tấn Đắc (1990), Văn hóa dân gian – Những phương pháp
nghiên cứu, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Tấn Đắc (1999), Truyện Tấm Cám và sự đánh tráo thân phận
con người, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 6/1999.
10. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng tif và motif,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Tấn Đắc (2013), Mâu thuẫn trong truyện Tấm là giữa Tấm và
Cám chứ không phải là giữa dì ghẻ với con chồng, Tạp chí Văn học
dân gian số 3/2012.
12. Cao Huy Đỉnh, (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Cao Thị Hà (2012), Giải mã hệ biểu tượng trong truyện cổ tích Tấm Cám
và các truyện có mô típ tương đồng (từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa), Luận
văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
83
14. Nguyễn Bích Hà (2010), Giáo trìnhVăn học dân gian Việt Nam, Nxb.
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2009),
Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
16. Kiều Thu Hoạch (1992), Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại,
Nxb. khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm - Lịch sử phát triển và thi pháp
thể loại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế
kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
19. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ
tích qua truyện Tấm Cám, Nxb. Văn học, Hà Nội.
20. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (2005), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà
trường, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Ngọc Lâm (2012), Truyện cổ tích Tấm Cám, nhìn từ góc độ
thể loại, Tạp chí giáo dục số 282, kì 2 - 3/2012.
23. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Lộc (2005), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nủa đầu
thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
25. Phương Lựu (1988), Lý luận văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Na (chủ biên), (2010), Văn học trung đại Việt Nam, tập
2,Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Nhàn (2009), Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và
Truyện Kiều,Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
84
28. Nguyễn Quang Ngọc (2010), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
29. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
30. Lê Chí Quế (chủ biên) (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
31. Trần Đình Sử (1999), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
32. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt
Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Đình Sử (2014), Lí luận văn học, Tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
34. Trần Ngọc Thêm (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
35. Đường Tiểu Thi (2008), So sánh kiểu truyện Cô Lọ Lem của một số
dân tộc miền Nam Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
từ góc nhìn thể loại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
37. Trần Nho Thìn (2008), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
38. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
39. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
40. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học Trung đại Việt Nam, Nxb. khoa
học xã hội, Hà Nội.
41. Trần Ngọc Vương và nhiều tác giả (2007), Văn học Việt Nam từ thế kỷ
85
X – XIX, Những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
42. Bùi Văn Vượng (1965), Kho tàng truyện Nôm khuyết danh (tập
1,2),NxbVăn học, Hà Nội.
43. Truyện Nôm khuyết danh - Câu truyện cái Tấm cái Cám, Bần nữ thán,
Truyện chàng Chuối, Trinh thử tân truyện (2015), Nxb văn học, Hà Nội.