TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM

NGƯỜI VIỆT Ở AN GIANG

DƯƠNG PHƯƠNG CẢNH

Hậu Giang, tháng 05 năm 2013

TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM

NGƯỜI VIỆT Ở AN GIANG

Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:

ThS. TĂNG TẤN LỘC DƯƠNG PHƯƠNG CẢNH

Hậu Giang, tháng 05 năm 2013

LỜI CẢM ƠN



Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã gặp không ít khó khăn, nhưng

nhờ sự giúp đỡ của thầy và bạn bè đã giúp tôi vượt qua khó khăn đó. Qua đây tôi

xin gởi lời chân thành cám ơn đến:

Quý thầy cô, các anh chị trong thư viện Thành phố Cần Thơ, thư viện Thành

phố Vĩnh Long, trung tâm học liệu Trường Đại học Cần Thơ, cùng với các thầy cô

Khoa khoa học cơ bản, cán bộ của thư viện Trường Đại học Võ Trường Toản luôn

luôn quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện có thể để giúp tôi sớm hoàn thành tốt

khóa luận.

Đặc biệt tôi ghi lòng cảm ơn đến thầy Tăng Tấn Lộc - GV hướng dẫn đã

dành nhiều thời gian quý báu của mình truyền đạt kiến thức lẫn kinh nghiệm, tận

tình hướng dẫn giúp tôi tìm được hướng đi và phương pháp cụ thể trong quá trình

thực hiện khóa luận.

Đây cũng là lần đầu tiên tôi nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp, trong quá trình

thực hiện có nhiều sai sót và khuyết điểm. Kính mong quý thầy cô và các bạn thông

cảm và đóng góp ý kiến để tôi có thể hoàn thiện tốt hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện

i

Dương Phương Cảnh

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu

thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề

tài nghiên cứu khoa học nào.

Sinh viên thực hiện

ii

Dương Phương Cảnh

MỤC LỤC

trang

MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................... 4

4. Giới hạn vấn đề ............................................................................................... 4

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM

1.1. Những vấn đề chung về đồng dao ........................................................... 6

1.1.1. Định nghĩa đồng dao .............................................................................. 6

1.1.2. Tính chất .................................................................................................. 7

1.1.3. Chức năng ................................................................................................ 9

1.1.4. Tác dụng................................................................................................. 13

1.2. Những vấn đề chung về trò chơi trẻ em ............................................... 15

1.2.1. Nguồn gốc.............................................................................................. 15

1.2.2. Bản chất ................................................................................................. 16

1.2.3. Tác dụng................................................................................................. 16

Tiểu kết ............................................................................................................... 18

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT

Ở AN GIANG

2.1. Đặc điểm nội dung...................................................................................... 19

2.1.1. Thế giới tự nhiên................................................................................... 19

2.1.2. Thế giới vật thể nhân tạo ..................................................................... 28

2.1.3. Con người và xã hội loài người .......................................................... 29

2.2. Đặc điểm nghệ thuật .................................................................................. 33

2.2.1. Kết cấu ................................................................................................... 34

2.2.2. Ngôn ngữ ............................................................................................... 37

2.2.3. Thể thơ ................................................................................................... 43

iii

Tiểu kết ................................................................................................................. 48

CHƢƠNG 3: TRÒ CHƠI TRẺ EM NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG

3.1. Trò chơi cá nhân ......................................................................................... 49

3.1.1. Trò chơi nhảy dây ................................................................................. 49

3.1.2. Lộn tùng phèo ...................................................................................... 50

3.1.3. Thổi bong bóng ..................................................................................... 50

3.1.4. Mảnh thiếc quay.................................................................................... 51

3.1.5. Bắt chuồn chuồn ................................................................................... 51

3.1.6. Vòng cổ .................................................................................................. 52

3.1.7. Kèn lá cây .............................................................................................. 53

3.2. Trò chơi tập thể........................................................................................... 53

3.2.1. Bịt mắt bắt dê ........................................................................................ 53

3.2.2. Trốn tìm ................................................................................................. 54

3.2.3. Chọi cỏ gà .............................................................................................. 55

3.2.4. Pháo đ ất.................................................................................................. 55

3.2.5. Nhảy cò chẹp ......................................................................................... 56

3.2.6. Làm kiệu ................................................................................................ 58

3.2.7. Trò chơi nhà chòi (bày hàng, bán hàng) ............................................ 58

3.2.8. Kéo co .................................................................................................... 59

3.3. Trò chơi kết hợp đồng dao ....................................................................... 59

3.3.1. Tập tầm vông......................................................................................... 59

3.3.2. Oẳn tù tì.................................................................................................. 60

3.3.3. Mèo đuổi chuột ..................................................................................... 61

3.3.4. Xỉa cá mè ............................................................................................... 62

3.3.5. Dung dăng dung dẻ............................................................................... 63

Tiểu kết ................................................................................................................. 64

KẾT LUẬN .................................................................................................................... 65

iv

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 67

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Ngày nay những bài đồng dao và trò chơi dân gian cho trẻ em đang bị lãng

quên, đang bị sản phẩm công nghệ cao lấn át phần nào. Trẻ em hôm nay khá đầy đủ

về vật chất nhưng đời sống tinh thần đang mất dần những yếu tố đã từng là một

phần thiết yếu của nhiều thế hệ trước đây. Đến với đồng dao tôi như hòa mình vào

thế giới tuổi thơ hồn nhiên trong sáng, với thiên nhiên vô tận ta thấy lòng mình trở

nên thanh thản hơn.

Tìm hiểu đồng dao giúp tôi có điều kiện tiếp cận và hiểu sâu hơn về truyền

thống văn hóa Việt Nam, xuôi về với cội nguồn của dân tộc. Trẻ em là mầm non

của đất nước, là tương lai của dân tộc. Chính vì vậy mà việc giáo dục trẻ hiểu biết

sâu sắc về cội nguồn là việc làm hết sức quan trọng, đòi hỏi các nhà giáo dục phải

quan tâm hàng đầu. Nhưng có lẽ hầu như họ đã quên một phương pháp giáo dục

đầy hiệu quả mà chúng ta sẵn có: Đó là kho tàng đồng dao và trò chơi trẻ em.

Những trò chơi đã đến với trẻ thơ một cách nhẹ nhàng theo kiểu “vừa học vừa

chơi”, qua những bài đồng dao theo cách nói vần, đồng dao đã làm tốt chức năng

biểu đạt ý, giáo dục nhận thức, bồi dưỡng tình cảm cho trẻ.

Bên cạnh đó, các bài đồng dao còn đem lại nhiều lợi ích trong việc giáo dục

trẻ từ việc phát triển ngôn ngữ, tâm hồn trẻ đến vận động thể chất. Mặt khác, xã hội

ngày càng phát triển, sự xuất hiện và thống trị của khoa học kỹ thuật, công nghệ

thông tin đã đem đến rất nhiều tiện nghi, lợi ích cho cuộc sống nhưng đồng thời

cũng đẩy con người vào những tất bật, ngột ngạt, xô bồ của một xã hội cơ khí và tự

động hóa. Những chính sách mở cửa, hội nhập với các nước giúp ta có điều kiện

tiếp xúc với các nền văn hóa, tri thức mới tiên tiến trên thế giới. Khi bản sắc văn

hóa truyền thống của dân tộc có dấu hiệu bị mai một cũng là lúc người ta bắt đầu có

ý thức tìm về với cội nguồn, bản nguyên.

Từ cơ sở đó tôi nhận thấy rằng công tác khảo sát, nghiên cứu đồng dao là

một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Nó phù hợp với xu hướng của thời đại, góp phần

làm sống lại những tinh hoa văn hóa của dân tộc và kêu gọi ý thức giữ gìn truyền

thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta.

Những bài đồng dao và trò chơi trẻ em vô cùng phong phú và đa dạng nhưng

1

chủ yếu được các thế hệ truyền miệng cho nhau. Mặc dù hiện nay đã có những công

trình nghiên cứu về Đồng dao và trò chơi trẻ em Việt Nam nói chung nhưng việc

nghiên cứu và sưu tầm đồng dao đó chưa được toàn diện. Riêng ở những người

bằng với sự thích thú và đam mê về những trò chơi đồng dao đã thôi thúc, thì chưa

có một công trình sưu tầm, một tập hợp các sáng tác, nghiên cứu nào về đồng dao

và trò chơi trẻ em đầy đủ… Do đó là người con của đất nước, tôi muốn được góp

một phần nhỏ công sức của mình trong việc sưu tầm và gìn giữ những bài đồng dao

và trò chơi trẻ em của quê hương mình.

Chính vì những lí do trên tôi quyết định chọn “Đồng dao và trò chơi trẻ em

người Việt ở An Giang” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử vấn đề

Vấn đề tập hợp, sưu tầm và phân loại đồng dao cũng đạt được một số thành

tựu đáng kể, đã bắt đầu xuất hiện những công trình về giới thiệu và phân loại đồng

dao:

Quyển Đồng dao Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Dân gồm 2 phần:

Phần một gồm: Đồng dao và hệ thống đồng dao – Tính chất, chức năng và

tác dụng của đồng dao – Nội dung của đồng dao – Đặc điểm thi pháp của đồng dao.

Phần hai gồm: Sưu tầm – Tuyển chọn – Với 5 mục – Đồng dao: Đồng dao

trẻ em hát – Đồng dao: Đồng dao trẻ em hát – trẻ em chơi – Đồng dao: Hát ru, Trẻ

em đố vui, Ca dao cho trẻ em – Phụ lục: Đồng dao của một số dân tộc thiểu số.

Quyển Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt của Nguyễn Thúy Loan,

Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng (Sưu tầm, biên soạn): Trong

công trình này, nhóm tác giả đã kế thừa và phát huy nhiều cuốn sách viết về đồng

dao và trò chơi trẻ em ra đời trước đó (39 cuốn sách đã xuất bản và cả những tài liệu

sưu tầm công bố) để biên soạn. Các tác giả giới thiệu mảng đồng dao và trò chơi trẻ

em của người Việt, hầu hết đều thuộc thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám (1945).

Và ở phần Đồng dao dưới con mắt các nhà nghiên cứu chỉ tập hợp được 14 bài viết

trên tạp chí hoặc chương mục trong sách.

Quyển Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm đã chia đồng dao ra

thành nhiều loại, như: Các bài hát trẻ em (Thằng Bờm), các bài ru trẻ (Bao giờ cho

đến tháng mười), các bài dạy những điều thường thức (Mồng một lưỡi trai).

Quyển Văn hóa dân gian người Việt, lễ hội và trò chơi dân gian của Vũ

2

Ngọc Khánh, tác giả cũng có một phần nói về trò chơi dân gian. Trong đó tác giả có

nhắc đến một số trò chơi cho trẻ em nhưng chỉ ở mức độ diễn giải, giới thiệu trò

chơi. Còn lại phần nhiều tác giả giới thiệu và diễn giải một số hoạt động diễn ra

trong các lễ hội làng mang đậm sắc thái riêng của từng vùng, miền.

Quyển Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan thì cũng chỉ vài

trang (từ trang 735 đến trang 758) gồm những bài hát ru em và hát vui chơi.

Trong Lịch sử văn học Việt Nam – Văn học dân gian (tập 2) của Đinh Gia

Khánh, Chu Xuân diên. Sách đã đề cập đến bài Gọi nghé. Đó là bài ca của trẻ em

chăn trâu, chăn bò hát để gọi súc vật ra đồng, về chuồng hoặc những bài đồng dao

gắn liền với hình thức nghi lễ trong sinh hoạt lao động.

Bài viết “Mấy điều ghi nhận về đồng dao Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh

mang tính chất “ghi nhận” về mấy điều cơ bản của đồng dao Việt Nam, bao gồm

nội dung, hình thức nghệ thuật và tác dụng của đồng dao đối với sự hình thành nhân

cách của trẻ em.

Quyển Kho tàng đồng dao Việt Nam của Trần Gia Linh đã tuyển chọn gần

300 bài đồng dao với 6 chủ đề lớn:

Đồng dao về thiên nhiên đất nước

Đồng dao với trò chơi của tuổi thơ

Đồng dao – những bài ca tập làm lao động

Đồng dao – cái nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ

Đồng dao – những câu đố lí thú

Những bài hát ru.

Quyển Tìm hiểu về đồng dao người Việt của Triều Nguyên đã xác định được

đồng dao là một thể loại văn học dân gian, đồng đẳng với ca dao, tục ngữ, câu đố…

đã đề xuất một hướng phân loại đồng dao dựa vào mục đích hát và độ tuổi.

Quyển Mẹ hát ru con của Nguyễn Hữu Thu cũng đã đề cập đến đồng dao

nhưng dưới hình thức hát ru và diễn xướng đồng dao. Bên cạnh đó thì tác giả cũng

sưu tập một số lời ca chị hát ru em, trẻ em hát, và những câu hát trò chơi nói chung

của Việt Nam chứ không phải của riêng một khu vực nào.

Bài viết “Bước đầu tìm hiểu đồng dao trong hệ thống nghiên cứu thơ cho nhi

đồng” của Lã Thị Bắc Lý. Tác giả đã dành từ trang 116 đến trang 121 để đánh giá

tác dụng và ý nghĩa giáo dục của đồng dao đối với thiếu niên nhi đồng: “Chúng ta

3

sẽ gặp trong đồng dao cả một thế giới trẻ thơ vô cùng phong phú. Cuộc sống trẻ

thơ, sinh hoạt trẻ thơ in đậm dấu ấn trong đồng dao đến nỗi mỗi chữ, mỗi câu đọc

lên đều thấy một mảnh đời của các em trong đó. Có nhiều bài đồng dao kèm theo cả

trò chơi đến nay vẫn còn giữ nguyên chất hồn nhiên, tươi mát và hấp dẫn các em

như bài ca và trò chơi giung giăng giung giẻ, thả đỉa ba ba…”. Và Lã Thị Bắc Lý

còn đề xuất một cách đầy tâm huyết và có trách nhiệm: “Với tất cả tính chất đặc

thù, với nội dung và ý nghĩa lớn lao như thế, đồng dao đã nhanh chóng đứng vào vị

trí quan trọng của thơ cho nhi đồng. Trong tình hình giáo dục nhi đồng hiện nay,

theo chúng tôi nên dạy đồng dao và sáng tác thêm nhiều đồng dao mới cho các em.

Đồng dao là một thể loại đặc thù của thơ cho nhi đồng, có sức sống đặc biệt trong

lòng trẻ thơ và có ý nghĩa giáo dục đặc biệt đối với các em lứa tuổi nhi đồng và

mẫu giáo. Phải phổ biến rộng rãi đồng dao trong các em, phải sáng tác thêm nhiều

đồng dao mới cho phù hợp với các em, ấy là nhiệm vụ của người làm công tác giáo

dục và những người cầm bút phục vụ các em”.

Thi ca bình dân của Nguyễn Tấn Long – Phan Canh đã luận bàn về nguồn

gốc và tác dụng của đồng dao trong sinh hoạt nhi đồng, trích dẫn 60 bài đồng dao cổ

và 39 bài đồng dao mới của hai tác giả Minh Hương và Trần Trung Phương.

Bài viết “Đồng dao với cuộc sống của dân tộc Thái ở Tây Bắc” của Tô Ngọc

Thanh mang tính chất điểm qua một số nội dung sinh hoạt đồng dao của dân tộc

Thái ở vùng Tây Bắc (Việt Nam).

3. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài “Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt ở An Giang”,

chúng tôi muốn hướng đến việc tìm ra nét riêng độc đáo của đồng dao và trò chơi

trẻ em ở An Giang so với các vùng miền khác. Qua đó, người đọc có thể thấy được

cái hay, cái mới, cái hồn nhiên gần gũi của đồng dao và trò chơi trẻ em của người

Việt ở An Giang. Đồng thời có cái nhìn toàn diện hơn về tiến trình phát triển đồng

dao và trò chơi.

Qua đó, cho thấy rõ hơn về sự ngây ngô, sự hồn nhiên yêu đời lúc còn thơ,

và đầy kỷ niệm khó có thể quên của mỗi người.

4. Giới hạn vấn đề

Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu chính của người viết là đồng dao và trò

chơi trẻ em người Việt ở An Giang. Tuy nhiên, với sự hiểu biết của bản thân, người

4

viết phần nào tiếp cận đồng dao và trò chơi được sinh hoạt trong đời sống của trẻ

em ở An Giang nói riêng và các tỉnh lân cận của Đồng Bằng sông Cửu Long nói

chung.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Vui chơi là nhu cầu cần thiết của trẻ em. Các trò chơi dân gian của trẻ thì

phần lớn gắn với các bài đồng dao. Mà đồng dao lại có vai trò rất lớn trong việc

giáo dục, hình thành và phát triển nhận thức, đức, trí, thể, mỹ cho trẻ em.

Chính vì điều này mà người viết đã tiến hành thực hiện phương pháp thống

kê, phương pháp phân loại, phương pháp miêu tả, sưu tầm, tuyển chọn một số bài

đồng dao và trò chơi trẻ em. Đồng thời cũng góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc Việt Nam nói chung và An Giang nói riêng.

Ngoài ra, người viết tìm đọc, nghiên cứu và tham khảo các tài liệu có liên

quan trên sách, báo, tạp chí… chú ý chọn và sưu tầm các bài đồng dao và trò chơi

trẻ em có liên quan đến đề tài này. Cùng với phương pháp nghiên cứu liên ngành,

lịch sử học, dân tộc học mà người viết tiến hành điều tra tài liệu, tổ chức văn thảo

5

để đúc kết vấn đề lại đưa ra cái nhìn khái quát nhất.

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM

NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG

1.1. Những vấn đề chung về đồng dao

1.1.1. Định nghĩa đồng dao

Cho đến nay đồng dao có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Mỗi một tác giả

sẽ có những nhận định khác nhau. Sau đây là một số khái niệm về đồng dao:

Theo Nguyễn Nghĩa Dân cho biết: “Đồng dao là những lời mộc mạc, hồn

nhiên, có vần, được trẻ em truyền miệng cho nhau hoặc hát đồng thanh theo nhịp

điệu đơn giản trong lúc vui chơi hoặc tiến hành các trò chơi dân gian của lứa tuổi

thiếu nhi.” [1; 12].

Theo Triều Nguyên: “Đồng dao là một thể loại của văn học dân gian, thuộc

phương thức biểu đạt tự sự bằng văn vần, gồm phần lời của những bài hát dân gian

trẻ em (những bài hát ấy có thể kèm theo trò chơi hay không).” [14; 70].

Theo Lư Nhất Vũ – Lê Giang: “Đồng dao là loại ca hát của trẻ em trong lúc

vui chơi giải trí, đùa giỡn. Các bài đồng dao thường ngắn gọn, súc tích, câu cú

mạch lạc, mang tính tiết tấu rõ ràng để các em nhỏ dễ hát và dễ nhớ”. [20; 119].

Theo Dương Quảng Hàm cho biết: “dao là hát không có chương có khúc”

[3; 9].

Theo Nguyễn Tấn Long, Phan Canh cho rằng: “đồng dao tức là ca dao nhi

đồng: [9; 368].

Trần Gia Linh định nghĩa: “Đồng dao là những bài hát dân gian có nội dung

và hình thức phù hợp với trẻ em, thường do trẻ em hát.” [7; 3].

Theo Vũ Ngọc Khánh xác định “xin tạm dùng hai chữ đồng dao để chỉ lời ca

dân gian trẻ em, bao gồm cả những lời trong các trò chơi”. [6; 1].

Theo Nguyễn Hữu Thu cho rằng: “đồng dao là sự nối tiếp chức năng của

tiếng hát mẹ ru con, nhưng ở một cấp độ cao hơn…, diễn xướng đồng dao là sự

chuyển tiếp và phát huy vai trò tiếng hát ru của mẹ.” [18; 60].

Theo Hoàng Phê nêu định nghĩa đồng dao như sau: “lời hát dân gian thường

6

kèm theo một trò chơi nhất định” [16; 331].

Theo Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần

Hoàng cho rằng: “đồng dao là những bài hát truyền miệng của trẻ em lứa tuổi nhi

đồng và thiếu niên. Vốn là những sáng tác dân gian không rõ tên tác giả, về sau từ

vần điệu của loại hình này, một số người sáng tác những bài thơ cho trẻ em hát, có

tên tác giả cũng được các nhà nghiên cứu gọi là đồng dao.” [8; lời nói đầu].

Như vậy, từ những định nghĩa trên có thể hiểu rằng đồng dao là những lời

hát dân gian mộc mạc, hồn nhiên của trẻ em và phần nhiều được trẻ em sáng tác

trong lúc vui chơi.

1.1.2. Tính chất

Đồng dao cũng giống như ca dao dân gian phần nhiều được truyền miệng

cho nhau. Truyền từ người này sang người khác và truyền từ vùng này sang vùng

khác. Với ngôn ngữ mộc mạc mà những bài đồng dao đi vào lòng trẻ một cách mau

lẹ. Những bài đồng dao ấy phần nhiều là do những tác giả “trẻ em” của chúng ta

sáng tạo nên trong lúc vui chơi. Với bọn trẻ hình thức truyền miệng là hình thức

đơn giản và chủ yếu nhất. Trẻ em này hát và dạy lại cho trẻ em khác và trẻ em khác

lại truyền lại cho trẻ em khác nữa. Thế là bằng phương pháp thông tin ấy mà các bài

hát đồng dao nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi.

Thực tế, với trẻ nhỏ thì đây là những bài hát phù hợp với lứa tuổi, với nhận

thức của trẻ. Do vậy, khi được hát những bài hát đồng dao do trẻ tự sáng tạo ra nên

trẻ vô cùng thích thú. Trong mỗi lời hát là cả một thế giới thiên nhiên rộng lớn tạo

nên óc tò mò, quan sát và từ đó trẻ thích thú, say sưa vui hát. Tùy vào nhận thức,

lứa tuổi của mỗi bé mà những bài đồng dao sẽ được sáng tạo theo những ngôn ngữ

riêng. Với tính chất truyền miệng mạnh mẽ nên dẫn đến tính nhiều dị bản của đồng

dao. Sự dị bản này là do các em tự thay đổi ngôn ngữ, nhịp điệu cho phù hợp với

nhận thức cũng như với mục đích vận dụng của bọn trẻ. Mặt khác, thì sự dị bản này

cũng một phần do người lớn tác động vào vì có thể người lớn sáng tạo bài đồng dao

này nhằm vào mục đích khác. Một số ví dụ cho thấy rất rõ về tính nhiều dị bản của

đồng dao như những bài đồng dao về chim, về cá, về hoa… là những bài rất nhiều

dị bản. Lời hát Nu na nu nống, hay Chi chi chành chành có ít nhất từ 5 – 7 dị bản.

Có những dị bản khác nhau về lời hát, về số dòng và cũng có dị bản khác nhau về

7

tiếng địa phương…

Bên cạnh đó, qua khảo sát thực tế cho thấy rằng có rất nhiều trường hợp trẻ

em đã tự đặt lấy bài hát đồng dao và trò chơi cho mình. Lúc đầu còn ở dạng thô sơ,

đơn giản bởi tư duy của các em chưa cao nhưng một khi đã phù hợp với các em thì

sẽ được phát triển bổ sung thêm cho đến mức tương đối hoàn chỉnh.

Như vậy, là một thành phần trong kho tàng văn học dân gian, đồng dao cũng

có những đặc trưng của bộ môn này, tất nhiên là ở từng đặc trưng, cách biểu hiện

cũng có những khía cạnh độc đáo. Riêng phương pháp sáng tác đồng dao, có thể có

những quy luật riêng không giống phương thức chung của nhiều thể loại thơ ca dân

gian khác. Nhìn chung về tính chất của đồng dao cũng như tục ngữ, ca dao đều

được lưu hành bằng phương thức truyền miệng, mang tính dị bản rất rõ ràng. Nhưng

tính dị bản của đồng dao có phần tự do hơn đôi chút. Tự do ở đây không phải có

nghĩa là bừa bãi, các yếu tố thu nhập vào vần phải tuân theo khuôn mẫu nhất định.

Và chính trong quá trình chơi thì các em nhỏ sẽ lọc lựa và đào thải, chỉ giữ lại dị

bản nào phù hợp với tri thức của đám trẻ em trong vùng đó mà thôi. Đồng dao do

được lưu truyền trong không gian và thời gian, quá trình này có thể sẽ làm cho tác

phẩm trở nên sâu sắc hơn về nội dung, chặt chẽ thêm về kết cấu, trau chuốt hơn về

nghệ thuật ngôn từ, nhưng sự lưu truyền ấy cũng có thể làm cho cấu trúc tác phẩm

bị phá vỡ mất dần đi hoặc trở thành bộ phận cấu thành của một tác phẩm mới.

Đồng dao còn mang đậm tính tập thể. Có như thế thì đồng dao mới tồn tại và

lưu truyền được. Tính tập thể của đồng dao không chỉ thể hiện trong mối quan hệ

giữa trẻ em với trẻ em mà còn thể hiện mối quan hệ giữa người lớn với trẻ em.

Trong một số câu hát, một số bài đồng dao có thể do người lớn đặt ra nhưng

thông qua sự chọn lọc và thay đổi của trẻ thì đồng dao đó mới được trẻ chấp nhận.

Biết được tâm sinh lí của trẻ nhỏ nên người lớn đặt ra các bài đồng dao thật phù hợp

với lứa tuổi của trẻ để trẻ cảm thấy được niềm vui khi tiếp nhận. Làm cho trẻ thêm

gần gũi với người lớn hơn vì trẻ hiểu được rằng người lớn không phải lúc nào cũng

khó tính, mà ngược lại rất yêu thương trẻ và luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho trẻ.

Đồng thời, qua đó thì người lớn cũng sẽ hiểu nhiều hơn về trẻ, biết được trẻ muốn

gì và nhận thức của trẻ đã đến đâu. Nhờ đó mà khoảng cách giữa người lớn và trẻ

ngày càng nhích lại gần hơn. Mặc dù, có đôi lúc những bài đồng dao do trẻ em tự

sáng tác nên nhưng người lớn cũng góp phần bổ sung chỉnh sửa thêm. Nhưng tất cả

8

chỉ để tạo nên mối quan hệ tốt đẹp, thân thiện, gần gũi giữa trẻ và người lớn.

Nhờ những câu hát đồng dao mà trẻ em đã biết tập hợp lại để đùa vui xung

quanh làng xóm. Qua đó giúp trẻ có ý thức được giá trị của tập thể cho nên trẻ bắt

đầu biết tham gia sinh hoạt đồng dao và cũng là lúc trẻ bước vào sinh hoạt văn hóa

tập thể một cách tự nguyện.

Ngoài ra, đồng dao còn có một tính chất hết sức quan trọng đó là tính chất

gắn liền với trò chơi. Tính chất này thể hiện rất rõ trong “đồng dao trẻ em hát – trẻ

em chơi”. Bởi lời của đồng dao gắn liền với trò chơi. Đây cũng là một trong những

đặc điểm khác biệt của đồng dao để chức năng thẩm mỹ của đồng dao thêm rõ hơn.

Trong trò chơi trẻ em biết cách vận dụng đồng dao thì sẽ làm trò chơi thêm sinh

động. Còn trong đồng dao có bổ sung thêm trò chơi thì tập luyện được cho trẻ cả

mỹ học lẫn thể dục. Những bài đồng dao giữ vai trò điểm nhịp cho trò chơi, lời hát

của đồng dao gắn liền với trò chơi và có mối quan hệ mật thiết với trò chơi. Tuy

nhiên, thì cũng có một số bài đồng dao với lời hát không có liên quan gì đến trò

chơi chủ yếu chỉ vang lên như một mệnh lệnh. Bên cạnh đó, ở một số bài đồng dao

có kèm trò chơi, thì đồng dao trở thành phương tiện để chơi trò chơi, không có

chúng thì không thể chơi được.

Tính chất vui chơi phù hợp với tâm sinh lí trẻ em. Thật vậy, đồng dao là

những bài hát phần nhiều do trẻ em sáng tác ra vì thế nó phù hợp với tâm sinh lí của

các em. Do vậy mà nó mang tính chất giải trí rất cao, nhưng sự giải trí ấy phù hợp

với tư duy của trẻ nhỏ. Nếu những bài đồng dao do người lớn sáng tác thì cũng dựa

vào kiến thức về tâm lí của trẻ nhỏ có như vậy mới được trẻ nhỏ chấp nhận.

Mặt khác, ở lứa tuổi các em thì nhận thức, tư duy lôgic chưa cao cho nên trẻ

em chỉ hát những bài hát một cách ngây ngô nhưng không phải trẻ không hiểu mà

trẻ chỉ hiểu theo tư duy riêng của trẻ. Trẻ con bao giờ cũng là trẻ con, ngô nghê đến

lạ kỳ, trong sáng đến lạ kỳ… Trẻ em hát đồng dao chỉ để nhằm mục đích vui chơi,

giải trí nhưng đến một lúc nào đó bài đồng dao ấy đi vào tiềm thức của trẻ đến khi

trẻ lớn hơn thì trẻ sẽ nhận ra được giá trị của đồng dao.

1.1.3. Chức năng

Đồng dao có những đóng góp quan trọng trong cuộc sống. Các chức năng

chủ yếu của đồng dao là chức năng giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ và cả chức năng

9

giải trí.

Thật vậy, ông bà ta nhận thấy rằng để giáo dục trẻ em phải thông qua con

đường cảm tính là hiệu quả nhất. Với tình mẹ tràn trề, thấm thía qua những bài hát

ru:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”

Rồi đến tình cảm với những vật gần gũi như: cào cào, con trâu, con cua…

cây chổi, con dao… Trong lời hát truyền cho các em sự cảm thông nồng ấm để từ

đó các em thêm yêu thiên nhiên, yêu lao động và yêu mọi người hơn. Từ tình yêu

với con kiến, con sâu… Khi các em lớn thêm vài tuổi các em tiếp xúc, tham gia

đồng áng với người lớn các em sẽ biết quý trọng những dụng cụ lao động, yêu con

trâu, con cò… Tất cả được trẻ em thích thú vì nó phù hợp với đặc điểm trí lực của

các em. Sức chú ý của các em chưa tập trung, tư duy lôgic các em khác hẳn người

lớn. Điều cần cho các em là tiếp thu ngoại vật bằng ấn tượng, chứ không bằng lý

luận. Do đó nhận thức của các em qua đồng dao là nhận thức cảm tính, quan sát,

tiếp cận môi trường tự nhiên, xã hội gần mình, có thể thấy được, nghe được nhưng

chưa phân tích được, chưa suy luận được. Do vậy, đồng dao cung cấp cho trẻ kiến

thức không là kiến thức hệ thống như tư duy người lớn mà là trình bày liệt kê, dừng

lại ở nét bên ngoài dễ nhớ, dễ phân biệt, kích động trí tò mò ở trẻ em. Đó là những

bài đồng dao dạy các em phân biệt giống vật:

“Chàng chàng lót ổ bụi tre

Chèo bẻo lót ổ mái đình.”

Rồi dạy các em chơi chữ, tập quan sát cuộc sống xung quanh mình:

“Mồng một lưỡi trai

Mồng hai lá lúa

Mồng ba câu liêm

Mồng bốn lưỡi liềm

Mồng năm liềm gặt

Mồng sáu thật trăng”

Hay:

10

“Tò vò mà nuôi con nhện

Đến khi nó lớn nó quện nhau đi

Tò vò ngồi khóc tỉ ti

Nhện ơi, nhện hỡi mày đi đằng nào.”

Bên cạnh những kiến thức tự nhiên mà các trẻ nhỏ biết được qua đồng dao

thì đồng dao còn là cả một kho kiến thức xã hội, về hội hè, đình đám, về đồ ăn, thức

uống:

“Con gà cục tác là chanh

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

Con chó khóc đứng khóc ngồi

Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.”

Riêng đối với những em chuẩn bị bước sang tuổi hoa niên thì đồng dao mang

đến cho các em tổng thể những kiến thức về nghề nhiệp trong xã hội sau này: “Ông

thầy có sách, thợ ngạch có dao, thợ rèn có búa…”.

Đồng dao giúp các em nhận thức về những điều tốt, xấu trong cuộc sống như

thói hư tật xấu, sự lười nhác:

“Ăn thì muốn những miếng ngon

Làm thì một việc cỏn con chẳng làm.”

Hay:

“Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè cờ bạc

Đầu hôm xao xác

Bạc tốt như tiên

Đêm khuya hết tiền

Bạc như chim cú

Cái đầu sù sụ

Con mắt trõm lơ

Hình đi phất phơ

Như con chó đói

Chân đi cà khói

Dạo xóm dạo làng

Quần rách lang thang

Lấy tay mà túm…” 11

Mặc dù, đồng dao là do các em hát trong lúc vui chơi hay lúc chơi trò chơi

hay chỉ là “những đoạn chắp vá, gặp đâu nói đó, chỉ cốt vần vè, còn ý nghĩa chung

thì rời rạc, câu nọ xọ sang câu kia, đang nói chuyện này lại bắt sang chuyện khác”

[8; 719], nhưng đồng dao đem đến rất nhiều nhận thức bổ ích cho trẻ em về cuộc

sống, về thiên nhiên, xã hội, về mọi thứ xung quanh.

Theo Nguyễn Nghĩa Dân thì đồng dao bao gồm 5 loại: “đồng dao trẻ em hát,

đồng dao trẻ em hát – trẻ em chơi, đồng dao hát ru, đồng dao trẻ em đố vui, ca dao

cho trẻ em” [1; 13]. Cả kho tàng phong phú đó là phương tiện giáo dục trí, đức, thể,

mỹ cho các em. Qua đó phát triển tâm lí, thể lực, trí tuệ và nhân cách của các em

trong tương lai.

Những lời hát đồng dao giáo dục cảm xúc cho các em trong quan hệ với

thiên nhiên, xã hội, với sinh hoạt cộng đồng tập thể. Đồng dao là môi trường hoạt

động vui chơi của trẻ, qua đó rèn luyện cho trẻ cả về thể lực lẫn trí lực. Từ những

bài đồng dao đó rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ từ bập bẹ đến thành tiếng, hát thành lời,

đồng thời tiếp xúc với nhiều từ ngữ mới. Có thể nói đồng dao là một cuốn từ điển

thiết thực, sống động chứa đựng một kho tàng từ vựng phong phú. Đối với các em

nhỏ, thì trong một số bài đồng dao số lượng từ còn ít nhưng ở các trò chơi cho tuổi

lớn hơn, trong một bài hát có chứa hàng chục từ. Cụ thể như bài “Chuyền thẻ” chứa

các cụm từ con trai, con hến, con nhện, củ mơ… Thông qua kho tàng từ ngữ giàu

có, đồng dao một lần nữa giáo dục các em nhận thức được thiên nhiên và xã hội. Từ

những trò chơi phần nhiều rèn cho trẻ kỹ năng quan sát, rèn luyện cho chân tay

nhanh nhẹn, luyện thính giác, khứu giác nhạy bén… Mặc dù những trò chơi các em

chơi thường lặp đi lặp lại, người lớn xem hay chơi có thể chán nhưng với trẻ thì

không, bởi với các em đó là một việc thú vị vì các em biết cách biến hóa linh hoạt

trong cùng trò chơi.

Không những vậy, đồng dao còn góp phần giáo dục các em ý thức lao động,

ý thức giúp đỡ cha mẹ và những người thân trong gia đình. Đồng dao giáo dục cho

trẻ về lòng kiên trì, tính trung thực, lòng dũng cảm.

Trong đồng dao có một yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa đồng dao và ca dao

là đồng dao rèn cho trẻ trí tưởng tượng phong phú. Tưởng tượng đã nảy sinh và phát

triển từ lúc trẻ biết tiếp xúc với thế giới quanh mình, tưởng tượng trong lúc chơi,

12

các em có sự hình dung rất phong phú và mới lạ trong trí óc của mình về những đồ

vật trong bài hát đồng dao hay lúc chơi trò chơi nhắc đến. Trẻ càng lớn óc sáng tạo

cũng như trí tưởng tượng của trẻ cũng phát triển theo và phát triển một cách mạnh

mẽ. Tuy nhiên, sự sáng tạo hình ảnh về hoạt động của thế giới khách quan, trẻ rất

vô tư, hồn nhiên nên tưởng tượng không có chủ định những hình ảnh xuất hiện

không theo mục đích đặt ra trước, cũng vì vậy mà có những hình ảnh rất ngộ

nghĩnh. Do đó những hình ảnh sáng tạo bằng trí tưởng tượng của các em bao giờ

cũng mang tính xã hội dưới đôi mắt của trẻ thơ.

“Trong đồng dao, có rất nhiều cái đẹp bởi lẽ đồng dao thể hiện tâm hồn vô

tư trong sáng, hồn nhiên của trẻ em chưa có gì vấn vương, với những dục vọng như

người lớn” [1; 16].

Đồng dao là một thế giới toàn nụ cười, mà trong đó thường không có chỗ

dành cho sự buồn bã. Có chăng chỉ là trong những bài hát ru. Những đồng dao về

nói khoác, nói ngược, đồng dao vừa hát vừa chơi… đều biểu hiện cái hài rõ nét.

Không chỉ đem lại nụ cười cho trẻ, mà còn đem lại rất nhiều niềm vui cho mọi

người xung quanh. Chính vì thế mà trong đồng dao cái hài thường gắn với cái đẹp:

Cái đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người…

Trẻ em có nhu cầu vui chơi, giải trí nhất là những trò vui chơi, giải trí kích

thích óc quan sát, trí tưởng tượng, óc khám phá, rèn luyện trí thông minh nơi các

em… Và đồng dao mang trong mình chức năng ấy rất rõ: Đó là những câu nói vần

vè dấu tên vật đố, đòi hỏi các em đoán ra nó. Câu đố trở thành trò chơi thử thách trí

tuệ. Nó huy động cả sức tư duy hình tượng lẫn tư duy suy lí nhưng chỉ ở mức độ

nhận thức của trẻ em. Do đó nhận thức của câu đố thường là các sự vật, hiện tượng

xung quanh cuộc sống nơi các em sinh ra và lớn lên. Với thiên nhiên gần gũi, những

sự vật tầm thường nhưng với trẻ đó là cả thế giới. Từ đó tạo cho các em sân chơi

thật bổ ích, một nơi giải trí lành mạnh, mà không cần phải dàn dựng công phu mà

nó có thể diễn ra bất kì đâu, bất kì lúc nào. Chức năng giải trí và giáo dục của đồng

dao dựa trên việc khai thác cách nhìn mới lạ, bất ngờ, độc đáo đối với các sự vật

hiện tượng.

1.1.4. Tác dụng

Những lời hát đồng dao giáo dục cảm xúc cho các em trong quan hệ với

13

thiên nhiên, xã hội, với sinh hoạt cộng đồng. Đồng dao đem đến cho các em nhiều

bài học giá trị về cuộc sống, đem đến cho mọi người những phút giây vui vẻ, thoải

mái khi tìm về ký ức tuổi thơ.

Và đồng dao cũng là nơi rèn luyện thể chất cho trẻ khi chúng là một phần

không thể tách rời của các trò chơi dân gian thú vị như: Rồng rắn lên mây, Chi chi

chành chành, Thả đỉa ba ba, Bắt kim thang, Đánh chuyền… Qua các trò chơi, đồng

dao giống như chất xúc tác, giúp trẻ gắn bó, vun đắp tình bạn. Đồng dao còn giúp

trẻ hòa đồng và hội nhập với thiên nhiên thông qua những hình ảnh gần gũi, quen

thuộc xung quanh như con cá, củ khoai, cây cam, trời mưa, bong bóng…

Đồng dao là kênh học tập giúp trẻ tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh

mình với đa dạng các sự vật, hiện tượng gần gũi nơi góc nhà, chái bếp từ “củ khoai

chấm mật” đến xa xôi như chuyện “Chú bán dầu qua cầu mà té”, “phật ngồi phật

khóc”. Đồng dao còn có tác dụng luyện trí nhớ cho trẻ em, kích thích sự sáng tạo

thông qua các trò chơi phải vận dụng trí óc như trò chơi Ô ăn quan…

Nếu ca dao là nguồn suối tâm tư của lớp người lớn, là hình thức giao cảm

giữa sinh hoạt và cuộc sống thì đồng dao cũng lại tác động vào nguồn sống trẻ thơ

cùng tính chất tương tự. Đồng dao có tác dụng thỏa mãn nhu cầu vui chơi và tập thể

cho trẻ, có một số tri thức để bước vào đời. Qua những bài đồng dao trẻ được vui

chơi một cách thoải mái và không hề bị bó buộc bởi không gian, thời gian. Các em

có thể chơi bất cứ lúc nào, những lúc chăn trâu, quét nhà hay lúc giúp cha mẹ làm

công việc vặt trong gia đình… Hát đồng dao không đòi hỏi về số người, các em có

thể tự hát vui một mình, hay lúc trông em, lúc cùng nhóm bạn… Do đó đồng dao

giúp các em thỏa mãn nhu cần vui chơi của bản thân. Đồng thời, cũng đem đến cho

các em những hiểu biết về mọi điều trong cuộc sống.

Đồng dao đã góp phần trong việc bồi dưỡng, rèn luyện tiếng nói cho trẻ thơ.

Trước hết là tập cho các em nhỏ tuổi phát âm chính xác: “Nu na/ nu nóng/cái Cống/

nằm trong/ cái Ong/nằm ngoài/…” Bài đồng dao này luyện cho các em nói âm “N”

phân biệt với “L”.

Hay trò Đếm sao: “Một ông/ sáng sao/ Hai ông/ sao sáng/ Ba ông/ sáng

sao…” là bài tập về số đếm, vui vẻ, nhẹ nhàng, không nặng nề như một số bài học.

“Khi đọc ca dao nhi đồng, bao giờ chúng ta cũng cảm thấy mình như trẻ lại

14

và những cảnh tượng xa xưa của thời thơ ấu tự nhiên xuấ t hiện nó dàn cảnh trước

mắt ta, gây cho ta một cảm giác lâng lâng yêu đời, và để lại trong ta một nuối tiếc

về thời vàng son của tuổi trẻ mà chẳng bao giờ ta còn trở lại được nữa.

Tuy thời gian mang đi mất tuổi thơ ngây, hồn nhiên, nhưng cũng chính thời

gian làm cho sự hiểu biết trưởng thành và nhờ đó ta hiểu được và tìm về tuổi thơ

với tất cả chân tình trìu mến. Và nhất là vào những lúc nhàn hạ, bỗng dưng tự đáy

lòng ta dường như thoát ra tiếng hát trong lành ngây thơ đáng yêu vô cùng. Tiếng

hát ấy mang hồn ta ra khỏi cái thực tại đầy ưu tư mệt nhọc đang bám sát ta. Thế là

ta hòa mình với trẻ và cùng vui đùa với chúng. Trong giây phút tươi trẻ lại này, ta

không còn là chính ta nữa, mà là một đứa bé như muôn ngàn đứa bé khác cười rỡn

trên khắp vùng quê, ta cùng bẫy trò, cùng hành động như chúng thôi, và chính ta

cũng không hiểu tại sao lại có thể làm được như thế khi mà thực tế dằng dặc ưu tư

luôn luôn níu kéo ta lại với nó.” [8; 671 – 672].

Những bài đồng dao khi hát lên tuy không thành câu chuyện gì cả mà chỉ cốt

có vần, có điệu một cách ngộ nghĩnh nhưng đã làm nở trên môi các em những nụ

cười hồn nhiên, gieo vào lòng các em cái vui tươi của tuổi thơ. Với những hình ảnh

rất đỗi quen thuộc, những âm thanh gần gũi đã góp phần làm nên cả một viện bảo

tàng văn hóa giúp các em không bị cắt lìa ra khỏi dĩ vãng.

Các em đang ở tuổi khao khát tìm hiểu những cái mới lạ, không riêng gì trẻ

em Việt Nam, mà toàn thể trẻ em trên thế giới. Và kho tàng đồng dao Việt Nam đã

mở cho các em thấy biết bao chân trời mới lạ.

Như vậy, chính những bài hát đồng dao thường ngày lại là những bài học đạo

đức, luân lý kết hợp với nghệ thuật âm nhạc và thơ ca, kích thích khả năng sáng tạo

của trẻ. Từ đó, đồng dao là nơi khơi nguồn văn hóa cho trẻ con và góp phần vào văn

hóa truyền thống của dân tộc.

1.2. Những vấn đề chung về trò chơi trẻ em

1.2.1. Nguồn gốc

Vui chơi là một thiên tính, một bản năng, một sự đam mê thú vị, một hoạt

động tự nhiên của con người. Mỗi lứa tuổi có những trò chơi giải trí hợp với tuổi

tác, giới tính, sức khỏe và theo thói quen của từng địa phương, từng dân tộc.

Ở Việt Nam, trò chơi thường mang đậm bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam,

bắt nguồn từ những công việc thường ngày: cấy lúa, gieo mạ, làm cỏ, đắp bờ… Trò

15

chơi gắn với đời sống sinh hoạt và sản xuất của người nông dân. Những thú vui

lành mạnh không chỉ là phương tiện thư giãn, giải trí bổ ích sau những lúc lao động

mệt nhọc mà còn rèn luyện sức khỏe, tạo phản ứng nhanh nhạy, khéo léo trong mỗi

con người. Và trò chơi trẻ em cũng vậy, nó được hình thành do nhu cầu vui chơi

của các em và do các em sáng tạo hay do người lớn sáng tạo ra. Tuy nhiên, ở mỗi

vùng thì sẽ có cách chơi khác nhau.

1.2.2. Bản chất

“Bản chất của trò chơi là một hoạt động giải trí sinh ra vì nhu cầu sinh lý

của con người. Con người đều có bẩm sinh vui chơi, bẩm sinh này là do nhu cầu

sinh lý bản năng của con người.” [11; 10 – 11].

Như vậy, trò chơi mang tính giải trí rất cao. Kết quả của trò chơi sẽ có ảnh

hưởng quan trọng tới tinh thần của con người, đó chính là làm cho con người cảm

thấy vui vẻ về mặt tình cảm. Qua hoạt động vui chơi thì con người sẽ sinh ra cảm

giác vui vẻ, thoải mái, hưng phấn, cảm thấy được thỏa mãn về mặt tinh thần.

Hầu hết mọi người đều thích trò chơi. Không chỉ trẻ nhỏ mà cả người già.

Điều họ theo đuổi chính là tính giải trí của trò chơi. Mặt khác, trò chơi bao giờ cũng

đòi hỏi những quy tắc nhất định. Đây là đặc trưng bản chất vô cùng quan trọng của

trò chơi. Vì vậy trò chơi phải được tiến hành trong quy tắc đã quy định trước và bắt

buộc mọi người phải tuân theo vì nếu không tuân theo vì nó sẽ không được gọi là

trò chơi nữa.

Trò chơi trẻ em là những trò vui có lời hoặc không có lời, những trò này

cũng mang tính chất của sáng tác dân gian; tính tập thể, tính dị bản… Khi các em tổ

chức vui chơi với nhau thì trò chơi gắn kết các em lại với nhau hơn, trong trò chơi

các em biết thế nào là đoàn kết đồng đội.

Hơn thế nữa, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian thì khẳng định “trò chơi

dân gian nói chung cũng như trò chơi dân gian cho trẻ em nói riêng là một trong

những hình thức sinh hoạt văn hóa, phản ánh khá phong phú và sinh động mối quan

hệ giữa người với thiên nhiên, xã hội.” [1; 31].

1.2.3. Tác dụng

Chuyện vui chơi chẳng phải chỉ của trẻ em, con người ở mọi lứa tuổi, giới

tính… đều phải được vui chơi, giải trí thích hợp để sinh tồn và phát triển. Bên cạnh

lao động, học tập, giao tiếp… Đó cũng là một trong những hoạt động cơ bản, có xu

16

hướng ngày càng tăng trong cuộc sống của con người hiện đại. Tuy nhiên, trẻ càng

nhỏ (chưa phải lao động mà học tập vui chơi là chính) thì hoạt động đó càng quan

trọng.

Do vậy, hoạt động vui chơi là nhu cầu không thể thiếu đối với các trẻ nhỏ.

Bởi trò chơi không chỉ đáp ứng mục tiêu giải trí mà còn có tác dụng gợi mở, kích

thích tính sáng tạo của trẻ trong việc nhận thức và đưa ra những cách chơi mới phù

hợp với chúng hơn. Với những trò chơi: Kéo cưa lừa xẻ, Mèo đuổi chuột, Rồng rắn

lên mây, chốn tìm… Rèn luyện cho các em sự khéo léo. Chơi trò chơi, đặc biệt là

những trò chơi vận động thì rèn luyện thân thể cho trẻ như trò chơi Kéo cưa lừa xẻ

tập cho trẻ sự nhịp nhàng, mỗi động tác kéo đi đưa lại ăn khớp với mọi câu trong

bài hát, câu hát hòa với điệu Kéo cưa lừa xẻ. Đồng thời với sự cử động, trò chơi

cũng giúp khí huyết trong người trẻ lưu thông đều đặn, yếu tố cần thiết của sức

khỏe trẻ thơ. Không những vậy, trò chơi với hoạt động đưa đi đưa lại, luyện sự cứng

cáp của chân tay, gân cốt và như vậy phần nào góp phần vào sự tăng trưởng con

người của em nhỏ.

Mỗi trò chơi sẽ có tác dụng riêng đối với mọi lứa tuổi và có tác dụng khác

nhau. Vừa chơi vừa rèn luyện toàn diện từ cơ thể đến trí thông minh, sáng tạo, phát

triển trí tuệ… Đồng thời qua quá trình chơi của các em sẽ là quá trình chọn lọc và

đào thải, chỉ giữ lại dị bản nào phù hợp với tri thức của đám trẻ em trong vùng ấy

mà thôi.

Ví dụ: Trò chơi Đánh chuyền rõ ràng là một bài dạy cách đếm hiệu quả cho

trẻ. Hay trò Đánh ô ăn quan dạy lối tính nhẩm bằng phép chia, phép trừ rất tốt.

Những bài đồng dao gắn liền với trò chơi của lứa tuổi trẻ thơ. Chẳng hạn như trò

Thả đỉa ba ba, Rồng rắn lên mây… Những trò này góp phần làm phát triển thể lực

cho trẻ, bởi nó được kết hợp với động tác và hơi thở trong lúc hát, lúc diễn.

Bằng những câu hát trò chơi hay các kiểu trò chơi đã phát triển từ đơn giản

đến phức tạp cả về động tác lẫn kết cấu lời ca. Đặc biệt là trò chơi Rồng rắn lên mây

đã mang tính chất trò diễn. Có sự phân chia nhân vật “thầy thuốc” và “rồng rắn”.

Trẻ đã sử dụng câu đối thoại một cách linh hoạt:

“Thầy thuốc: Rồng rắn đi đâu?

Rồng rắn: Rồng rắn đi lấy thuốc cho con.

Thầy thuốc: Con lên mấy?

17

Rồng rắn: Con lên một”

Các nhà tâm lý học và giáo dục học nổi tiếng đã viết “vui chơi cùng với nhu

cầu dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe là cần thiết cho sự phát triển của một con người

hoàn chỉnh… không vui chơi thì không phát triển được!” [8; 767 – 768].

Những câu đố trẻ em cũng là một hình thức vui chơi lành mạnh rèn cho các

em trí thông minh, óc suy luận về bất cứ lĩnh vực nào trong cuộc sống. Như vậy, có

thể thấy rằng trò chơi là một phần thiết yếu của cuộc sống với tác dụng chính là làm

thỏa mãn nhu cầu giải trí của con người. Đồng thời nó cũng có tác dụng gợi mở,

kích thích tính sáng tạo của con người trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề

của thực tiễn đời sống.

Tiểu kết

Chúng tôi đã trình bày những vấn đề chung về đồng dao và trò chơi trẻ em

người Việt ở An Giang. Vấn đề được nói ở đây là việc định nghĩa đồng dao, để

tránh nhằm lẫn đồng dao với các thể loại văn học dân gian khác (ca dao, câu đố,

vè…). Về đồng dao thì ở ba mục: tính chất, chức năng, tác dụng được nêu lên nhằm

khẳng định vị trí , vai trò, cũng như tầm quan trọng của đồng dao trong đời sống, xã

hội, và nuôi dưỡng tinh thần cho trẻ em. Phần nguồn gốc, bản chất, tác dụng của trò

chơi thì góp phần cho trẻ biết được xuất xứ, và cung cấp nguồn kiến thức về những

trò chơi quen thuộc đã có từ lâu đời. Qua đó góp phần giúp cho trẻ nhận ra tầm

quan trọng của đồng dao và trò chơi trẻ em. Có cái nhìn siêu nhiên về một thế giới

trẻ thơ của các thế hệ đi trước đã để lại cho mai sau những bài đồng dao và trò chơi

18

dân gian, mà trong mỗi người không thể nào quên.

CHƢƠNG 2

NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG

2.1. Đặc điểm nội dung

Đồng dao đi vào tâm trí chúng ta tự nhiên như không khí ta thở, như đồng

ruộng bao quanh, như những người thân và bạn bè ta sẻ chia cuộc sống mỗi ngày.

Ta dĩ nhiên có những điều đó, không phải đánh đổi, không mặc cả, tính toán. Qua

những bài đồng dao đem đến cho các bé nhỏ những hiểu biết về thế giới xung

quanh. Các hình ảnh, hiện tượng trong bài đồng dao có thể phi lôgic không liên

quan đến nhau. Song, đó là những mảnh ghép nhỏ bé đầu tiên để trẻ ghép nên bức

tranh phong phú, sinh động, giàu màu sắc về cuộc sống.

“Hệ thống đồng dao Việt Nam dựng lên một cuốn phim hiện thực của thiên

nhiên và xã hội Việt Nam với nền kinh tế nông nghiệp lâu đời mà tác giả và đạo

diễn, người ca hát và diễn xuất là tập thể trẻ em. Với cảm nghĩ vô tư, hồn nghiên, tư

duy ngộ nghĩnh nhưng giàu tưởng tượng, thông minh và sáng tạo.” [1; 19 – 20]

Mọi thứ đi vào đồng dao thật đáng yêu, ngộ nghĩnh dưới cái nhìn của trẻ thơ.

Đó không phải những cái gì xa lạ mà là cỏ cây, hoa lá, bầu trời, sông hồ… Rồi có

cả một thế giới động vật: con cò, con trâu, con cóc, con cua… Hay những hiện

tượng tự nhiên rất đổi bình thường và quen thuộc trong cuộc sống. Cả con người và

xã hội loài người cũng đi vào đồng dao một cách cụ thể, chân thực qua cảm nhận

của tuổi ấu thơ.

2.1.1. Thế giới tự nhiên

Trẻ thơ sống trong lòng thiên nhiên, nơi ban ngày có ánh nắng chan hòa, ban

đêm có trăng thanh gió mát, đây có mặt nước trong xanh, kia có núi non kì lạ…

Thiên nhiên lọng lẫy mà vẫn bình dị. Với các em, thiên nhiên có bầu trời, có mặt

đất, có nắng chói chang, có sấm sét dữ tợn, có mây, có gió… Bầu trời và mặt đất là

nơi vui chơi đầy hấp dẫn. Tâm hồn trẻ thơ giao cảm đặc biệt với trời mây, cây cỏ,

non nước. Trăng sao dù cao vời vợi nhưng vẫn có những sợi dây vô hình gắn bó với

sinh hoạt của trẻ thơ:

“Ông sảo, ông sao

Ông vào cửa sổ 19

Ông chơi với tôi

Ông ngồi lên chiếu”

Trẻ thơ có khả năng kì lạ trong việc nhập cuộc vào thế giới vô tri, vô giác,

biến chúng có tâm hồn để làm bầu bạn. Trăng sao cũng chỉ là trẻ nhỏ, cần ăn no

chóng lớn:

“Tôi biếu củ khoai

Ông nhai tóp tép

Ông ghép với rau

Ăn mau chóng lớn

Ông ngồi dậy

Ông về trời.”

Vũ trụ huyền bí siêu nhiên, nhiều bí ẩn, khó lí giải ngay đối với người lớn

nhưng đối với trẻ thơ lại rất giản dị, ngộ nghĩnh và hồn nhiên:

“Ông sấm ông sét

Ông hét đùng đùng

Ông nổ lung tung

Vỡ vung vỡ nồi

Vỡ cả bát đĩa nhà tôi

Tôi lôi ông ra đánh

Đánh một roi

Đánh hai roi

Ông trốn về trời

Ơi ông sấm ông sét ơi!”

Ông sấm, ông sét không được trẻ yêu quý như ông trăng, ông sao vì “ông nổ

lung tung, vỡ vung cả nồi, vỡ cả bát đĩa…” nên ông bị trẻ phạt đòn và phải trốn về

trời.

Nói đến trẻ thơ là nói đến tính chất vô tư, hồn nhiên, mộc mạc, khác với hệ

thống ca dao người lớn. Sự hồn nhiên, vô tư, mộc mạc ấy chưa pha trộn những mâu

thuẫn xã hội, chưa chứa đựng những dục vọng cá nhân. Do vậy mà chúng ta không

lấy làm lạ khi đọc lên một câu đồng dao không hàm chứa một ý nghĩa nào hết, hoặc

những ý nghĩa đứt đoạn từ hiện tượng này sang hiện tượng khác.

20

Đó là:

“Ông tiển ông tiên

Ông có đồng tiền

Ông giắt mái tai

Ông cài lưng khố

Ông mua những trầu

Ông nhai nhóp nhép

Ông mua con tép

Về ông ăn cơm

Ông mua mớ rơm

Về ông để thổi

Ông mua cái chổi

Về ông quét nhà

Ông mua con gà

Về cho ăn thóc

Ông mua con cóc

Về thả gầm giường

Ông mua nén hương

Về ông cúng cụ.”

Ông tiên có đồng tiền, ra phố mua các thứ ông cần: trầu, tép, rơm, chổi…

Những thứ ông mua cho thấy ông cũng như những người bình thường khác, chẳng

chút xa lạ.

Chúng ta đừng đỏi hỏi ở những câu đồng dao một ý nghĩa nào cả. Nếu phải

có ý nghĩa thì không còn tính chất đồng dao nữa. Với sự ngây thơ chưa trưởng

thành trong cuộc sống xã hội thì những gì không có ý nghĩa chúng cảm thấy thích

thú hơn.

“Ông trăng mà bảo ông trời

Những người hạ giới là người như tiên

Ông trời mà bảo ông trăng

Những người hạ giới mặt nhăn như tiều.”

Bài đồng dao này giúp các em khám phá ra ý nghĩa luân lý là ở gần người

nóng nảy, gay gắt, tính tình mình dễ bực bội lây, trái lại ở gần người hiền từ mình

21

cũng dễ cảm thấy tâm hồn thảnh thơi, thoải mái.

Với các em đẹp nhất là ông trăng. Chính vì vậy mà được các em quan sát rất tỉ mỉ:

“Mồng một lưỡi trai

Mồng hai lá lúa

Mồng ba câu liêm

Mồng bốn lưỡi liềm

Mồng năm liềm gặt

Mồng sáu thật trăng

Mười rằm trăng náu

Mười sáu trăng treo…”

Mặt trăng từ mồng một đến mười sáu được chú ý về hình dáng mà con người

nhìn thấy qua các ngày, từ mười bảy đến cuối tháng thì thời điểm trăng mọc được

quan tâm:

“Mười bảy sảy giường chiếu

Mười tám giám trấu”

Thế giới tự nhiên đối với các em còn có cả bảy vị thần khai thiên lập địa

được kể trong thần thoại Trần trụ trời.

“Một ông đếm cát

Hai ông tát bể

Ba ông kể sao

Bốn ông đào sông

Năm ông trồng cây

Sáu ông xây đá

Bảy ông vá trời…”

Còn biết bao vật thể tự nhiên khác cùng các em sống với đồng dao đem đến

cho các em tầm nhìn về một thế giới rộng lớn với những quy luật tự nhiên vốn dĩ đã

tồn tại hàng nghìn năm qua mà không hề thay đổi và lí giải được. Nhưng khi đến

với đồng dao thì cái hiện tượng tự nhiên ấy nó có hồn và tràn đầy sức sống dưới cái

nhìn non trẻ, ngây thơ của các em.

Bên cạnh đó, thế giới đồng dao là một thế giới đầy đủ sắc màu của hoa lá,

bao nhiêu loài hoa là bấy nhiêu hình dáng, màu sắc, hương vị… Qua đôi mắt trẻ

22

thơ, thiên nhiên gắn bó với các em như: “cô đậu nành, anh dưa chuột…” không

gian tĩnh mịch của thế giới thực vật bỗng trở nên sinh động và có hồn. Trong đồng

dao không có sự cách biệt giữa thiên nhiên và trẻ em.

“Bí ngô là cô đậu nành

Đậu nành là anh dưa chuột

Dưa chuột là ruột dưa gang

Dưa gang là nàng dưa hấu

Dưa hấu là cậu bí ngô

Bí ngô là cô đậu nành”

Lứa tuổi của các em là lứa tuổi của những câu hỏi: Vì sao? Thế nào? Ở đâu?

Đó là lứa tuổi mà thiên nhiên, cuộc sống xã hội mở ra mênh mông trước cặp mắt

ngạc nhiên, ham hiểu biết của trẻ em.

Thiên nhiên trong bài hát đồng dao là thiên nhiên của một xã hội nông

nghiệp. Thế giới thực vật trong tự nhiên ấy vô cùng phong phú. Về trái thì kể làm

sao hết: nào là đậu rồng, đu đủ, mít, ớt, sung, mãng cầu… Những trái quen thuộc

hằng ngày như:

“Dây ở trên mây

Là trái đậu rồng

Có vợ có chồng

Là trái đu đủ

Chặt ra nhiều mủ

Là trái mít ướt”

Có trái đôi khi hiếm thấy cũng xuất hiện trong đồng dao:

“Thổi nghe ú liêu

Là trái cóc kèn

Rủ nhau đi rèn

Là trái đậu rựa

Đua nhau chọn lựa

Là trái dành dành”

Về rau thì sự đa dạng cũng không kém trái. Từ những rau thông thường:

“diếp cá, rau má, rau răm…” cho đến những rau hiếm thấy: “ngành ngạnh, rau co,

rau nhớt, mã đề…”. Với cách tìm hiểu khá độc đáo và thú vị:

23

“Thứ ở hỗn hào

Là rau ngành ngạnh

Trong lòng không chánh

Vốn thiệt rau lang

Đất ruộng bò ngang

Là rau muống biển

Quan đòi thầy kiện

Bình bát nấu canh…”

Về hoa, thì có hàng chục loài hoa với sự phong phú về màu sắc và hình dáng:

“Thương nhau chua xót

Là hoa sầu đâu

Có sông không cầu

Là hoa nàng cách

Đi mà đụng vách

Là hoa mù u

Cạo đầu đi tu

Là hoa dăm bụt…”

Với óc tưởng tượng phong phú mà các loài hoa có biểu hiện như con người:

“hoa dăm bụt” thì “cạo đầu đi tu”, “hoa dâu tằm” thì có thể “đi đám cưới”. Hay

với cách liên tưởng đến sự vật cùng âm với loại hoa được đề cập mà tạo nên sự bất

ngờ cho người đọc:

“Đụng chút đã hờn

Là hoa xấu hổ

Vui chơi thông thả

Là cái hoa chè

Ăn nói lè nhè

Là hoa chùm rượu…”

Ngoài những cỏ cây, hoa trái là cả một thế giới động vật xuất hiện trong

đồng dao. Đồng dao dưới đôi mắt trẻ thơ là cả một vườn bách thú. Nước Việt Nam

là một nước nông nghiệp, trên 90% dân chúng sống và lao động giữa thiên nhiên

đồng nội thì việc những lũy tre xanh, những đàn cò trắng xuất hiện trong đồng dao

24

chẳng có chi là lạ. Hình ảnh “con cò” được nhân cách hóa một cách gần gũi, thân

mật là một điều độc đáo riêng của đồng dao Việt Nam, khi thì tượng trưng cho

người mẹ quê.

“Con có lặn lội bờ sông

Mẹ đi tát nước cho bông có đài

Trông trời, trông đất, trông mây

Trông cho lúa chín, hạt say nặng nhành

Trông cho rau muống màu xanh

Để mẹ cắt nấu bát canh mặn mà

Mát lòng sau bữa rau cà

Con ơi, mau lớn cả nhà cậy trông.”

Khi làm em bé quê:

“Cái cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

Cò về thăm quán cùng quê

Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh.”

Khi thì chỉ dùng làm một hình ảnh khởi hứng:

“Cái cò, cái vạc, cái nông

Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò?

Không không tôi đứng trên bờ

Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi

Chẳng tin thì ông đi đòi

Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.”

Bên cạnh đó, đồng dao là bộ sưu tập về cá. Từ những con cá quen thuộc đến

những con cá hiếm, cá lạ:

“Cá kình, cá ngạc

Cá nác, cá dưa

Cá voi, cá ngựa

Cá rựa, cá đao.”

Thế giới đồng dao là một thế giới sinh động, phong phú, chứa chan sức sống

và màu xanh. Trong đồng dao có đủ những con trâu, con nghé, con lợn, con gà…

Cho đến cả một bảng thống kê đủ loại kiến. Rồi đến cả một nguồn thủy hải sản

phong phú: tôm, cua, ốc, ếch… Và tất cả đều có hồn, biết trò chuyện, biết tâm sự 25

với trẻ em nhiều tưởng tượng bất ngờ đã giúp các em tạo nên một cuộc sống hồn

nhiên, thân mật xung quanh mình.

“Cào cào giã gạo tao xem

Tao may áo đỏ áo đen cho mày”

Đó là lời nói chân tình, xuất phát từ tấm lòng trong trắng và thành thật của

các em.

Trẻ em có óc tư duy ngộ nghĩnh, có trí thông minh kết hợp với sự quan sát

tinh tế, nhận xét hóm hỉnh trong khi hát, khi vui chơi, khiến cho không ít những bài

đồng dao phát hiện được những ý tưởng sâu xa về tự nhiên cũng như xã hội.

Trong hiện thực, những con vật: “chim ri, sáo đen, tu hú, bồ các…” chả có

quan hệ gì với nhau nhưng với trí tưởng tượng của các em mà lũ chim lại trở thành

gia đình thân thuộc, có mối quan hệ với nhau. Với con là dì, con là cậu, con là em,

là chú, là bác… Ta có cảm tưởng như mọi vật trên thế giới này không có gì là tuyệt

đối cả. Tất cả đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại và phát triển.

“Bồ các là bác chim ri

Chim ri là dì sáo sậu

Sáo sậu là cậu sáo đen

Sáo đen là em tu hú

Tu hú là chú bồ các

Bồ các là bác chim ri.”

Đọc hết cả bài ca, ta không thể tìm ra con vật nào có địa vị cao nhất. Cũng ý

tưởng trên, bài đồng dao Kì đà, cắc kè chỉ có bốn câu nói tới ba con vật, nhưng

người đọc cũng khó mà tìm ra con vật nào có địa vị cao nhất.

“Kì nhông là ông kì đà

Kì đà là cha cắc kè

Cắc kè là mẹ kì nhông

Kì nhông là ông kì đà”

Bằng sự quan sát tinh vi và hóm hỉnh về hiện thực cuộc sống qua đôi mắt của

trẻ nhỏ mà thế giới động vật hiện lên với một sự sinh động nhưng đôi khi ngược lại

với cuộc sống.

“Bao giờ cho đến tháng ba

26

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng

Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.”

Hay hát về “con chuồn chuồn” vẻ như đánh động nó trước hiểm họa bị bắt

mà khi chuồn chuồn bị trẻ bắt thì khó mà có con đường sống, nhưng lại như trêu

đùa em bé đang bắt chuồn chuồn.

“Chuồn chuồn có cánh thì bay

Không thôi thằng nhỏ thò tay bắt mày”

“Con cóc” cũng đi vào đồng dao trẻ em nhằm giải thích một thực tế cuộc

sống. Con cóc không phải là động vật bất khả xâm phạm:

“Con cóc là cậu ông trời

Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho”

Ngay cả những sinh vật bé nhỏ như “loài kiến”, nhưng đi vào đồng dao rất

đa dạng từ những con “kiến hôi, kiến lửa, kiến càng…” cho đến những con “kiến

nhót, kiến nhện, kiến bay…”

“Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè con kiến

Kiến càng, kiến kệ

Kiến mẹ, kiến con

Kiến ở trên non

Là con kiến nhót

Hay đi lót thót

Là con kiến hôi

Chân vướng nhọ nồi

Là con kiến nhện

Vừa đi vừa luyện

Là con kiến bay…”

Con mèo, con chó quấn quít các em trong nhiều đồng dao dí dỏm: “con

mèo”:

“Con mèo mày trèo cây cau

Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà

Chú chuột đi chợ đường xa

Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.” 27

Hay chuyện “con cua” thì có tám cửng, hai càng, hai mắt, không đầu thì rõ

ràng là con cua, không thể là con gì khác được.

“Tám sào chống cạn

Hai nạn chống xiên

Con mắt láo liên

Cái đầu không có”

Bằng sự quan sát các bộ phận, tập tính của các con vật mà bọn trẻ sáng tạo

nên bài đồng dao loài vật hết sức chính xác và tinh tế: Con cua thì có hai càng, bò

ngang; cá thì có đuôi, hai vây, bơi tài; rùa thì có mai, cái cổ thụt ngắn, thụt dài; voi

thì có hai ngà, cái vòi có thể “cuốn đổ nhà đổ cây”; và chim thì có cánh và “bay

cùng nam bắc đông tây”.

“Con cua mà có hai càng

Đầu tai không có, bò ngang cả đời

Con cá mà có cái đuôi

Hai vây ve vẩy, nó bơi rất tài

Con rùa mà có cái mai

Cái cổ thụt ngắn, thụt dài vào ra.”

2.1.2. Thế giới vật thể nhân tạo

Trong đồng dao, đặc biệt phần nhiều trong các câu đố thì những đồ dùng cá

nhân, dụng cụ sinh hoạt hay những công cụ lao động chiếm một số lượng khá lớn.

Đồng dao nói về dụng cụ sinh hoạt chiếm số lượng nhiều: từ cái thớt, cái

dao… cho đến cái cân, cái võng, cái trống…

“Mua một cái trống

Ông đánh tùng tùng

Mua một nhúm bông

Để ông nhồi gối

Mua một cái cối

Để ông xay tiêu

Mua một cái siêu

Để ông sắc thuốc.”

Hay:

28

“Cái khăn bịt đầu

Cái gàu tát nước

Cái thước để đo

Cái mo làm quạt.”

Đồng dao gắn với trò chơi thực chất là phương tiện giáo dục của quần chúng

lao động xưa dùng để dạy dỗ con em mình. Qua đồng dao, các em có thể làm quen

với những công cụ sản xuất.

“Cái kéo thợ may

Cái cày làm ruộng

Cái thuổng đắp bờ

Cái lờ thả cá

Cái ná bắn chim

Cái kim may áo.”

Mỗi dòng thể hiện một sự vật, sự việc theo mô hình A thì x (A: danh từ, chỉ

vật/việc; x: vị từ chỉ một hoạt động, tính chất của A).

2.1.3. Con ngƣời và xã hội loài ngƣời

Trẻ con không chỉ có hình hài nhỏ bé yếu ớt mà có tâm hồn, sinh hoạt của

chúng nữa cũng rất là non nớt. Sinh hoạt của trẻ em không giống sinh hoạt của

người lớn, nhưng nếu mất đi sức sống của tuổi thơ, thiếu đi những búp măng trong

một rừng cây đang và sẽ già nua cằn cỗi, thì đó là một điều mất mát lớn lao trong tài

nguyên nhân loại. Hình dáng của trẻ em, tiếng cười, nói của trẻ em; tâm hồn của trẻ

em, sinh hoạt của trẻ em chính là những mầm sống đang vươn lên, nhằm đảm bảo

sự trường tồn của thế giới loài người. Trẻ em là tấm gương phản chiếu của người

lớn. Vì thế, có ca dao người lớn thì sẽ có đồng dao cho trẻ em.

Có một cô gái gánh nước bên bờ suối, cất giọng hát véo von thì có một em

bé ngất ngưỡng trên lưng trâu cũng nghêu ngao hát. Thời gian, không gian không

thể nào chia cắt được tình cảm con người mà ngược lại nó còn có liên quan mật

thiết với cuộc sống hằng ngày.

“Trâu ơi ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

Cấy cày vốn nghiệp nông gia

29

Ta đây trâu đấy ai mà quản công.”

Trong những buổi sum họp, sau một ngày lao động vất vả hoặc trong những

ngày mưa dầm, anh chị em, cô chú cùng với ông bà, cha mẹ quây quần bên nhau có

thể đem đến cho con, cho cháu những câu hát, những trò chơi đầy tình cảm thương

yêu. Tùy theo tính chất từng gia đình mà buổi sinh hoạt văn hóa đó phong phú hay

nghèo nàn, truyền thống hay hiện đại. Ở nông thôn, anh chị hát ru em vẫn là những

câu hát cổ truyền, thân mật, gần gũi, có tính phổ biến của làng xóm:

“Em tôi buồn ngủ buồn nghê

Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà”

Hay:

“Ru em, em hãy nín đi

Kẻo mà mẹ đánh nữa thì em đau

Em đau thì chị cũng buồn rầu

Bé mồm, bé miệng, kêu đâu bây giờ.”

Thực ra, câu hát cũng là một lời tâm sự, nào có ai đánh em đâu, chỉ dọa vậy

thôi. Rồi cứ như thế hàng loạt câu hát chị ru em, không chỉ em thích mà chị cũng

thích. Chị thích vì đó là nhu cầu tình cảm hợp với bản năng sáng tạo và tâm lí chị.

Em thích vì cái giai điệu, tiết tấu tự nhiên của câu hát. Em ngủ rồi nhưng có bao

nhiêu điều kì lạ cứ quây bám lấy giấc ngủ của em. Chị thì vẫn cố tìm trong trí nhớ

để hát cho hết những lời mà ngày bé chị được nghe từ bà, từ mẹ… Từ đó mà khi em

bé lớn lên, em bé chơi với em bé nhỏ hơn mình hay chơi với búp bê thì em bé lại

hát ru em bằng những lời hát là những bài học luân lý do ông bà đặt ra.

“Ngày nào em bé cỏn con

Bây giờ em đã lớn khôn thế này

Cơm cha áo mẹ chữ thầy

Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.”

Có thể nói, chiếc nôi, cánh võng là những vật thân thiết cùng với tiếng hát ru

của bà, của mẹ đưa các em vào giấc ngủ… Thời gian đã cho ta thấy rằng, dù trải

qua bao thế hệ nhưng những lời hát ru của bà, của mẹ vẫn không thể nào xóa khỏi

trí nhớ của các em.

“Công cha như núi Thái Sơn

30

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

Hay những buổi trưa hè oi bức, những đêm thanh tịnh có tiếng các bà, các

mẹ, các chị đưa võng kẽo kẹt vừa cất tiếng hát ru êm ái ngọt ngào.

“Anh em nào phải người xa

Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân

Yêu nhau như thể tay chân

Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”

Những lời nhắn nhủ hiền hòa đó vang lên êm đềm, nỉ non theo nhịp điệu là

cả một phương pháp giáo dục tốt. Em bé tuy không hiểu nhưng nghe mãi dần thấm

thía, nhất là khi các em đã lớn, các em vẫn có thể nghe lại những bài hát đó khi mẹ

hát ru em. Do vậy, các em đã thấm nhuần tới tiền thức những lời mẹ nhắc nhở,

khuyên răn qua những lời hát ru mộc mạc mà sâu sắc.

Đồng dao đem đến cho các em sự nhìn nhận về mối quan hệ trong gia đình.

Dưới đôi mắt thơ ngây, các em sáng tạo nên những lời hát đồng dao đơn giản mà

lắm điều kì diệu.

“Bí ngô là cô đậu nành

Đậu nành là anh dưa chuột

Dưa chuột là ruột dưa gang

Dưa gang là nàng dưa hấu

Dưa hấu là cậu bí ngô

Bí ngô là cô đậu nành.”

Từ “ruột” và “nàng” (ở hai dòng 3 và 4) thì không rõ thứ bậc quan hệ gia

đình, các chỗ khác quan hệ này được nêu rất rõ, đó là: cô, cậu, anh. Có thể coi đây

là một lối nhân hóa, xuất phát từ vật mà gợi ý cho trẻ về việc cần phải nhận biết các

mối quan hệ gia đình giữa những người gần gũi với mình. Thật ra, ở đây hình thành

hai loại quan hệ: quan hệ giữa những người thân với trẻ, và quan hệ giữa họ với

nhau. Quan hệ đầu dễ nhận ra hơn quan hệ sau. Quá trình nhận biết các mối quan hệ

này khởi đầu khi trẻ mới năm bảy tháng tuổi và có thể kéo dài đến hết độ tuổi nhi

đồng.

Với bài:

31

“Kì nhông là ông kì đà

Kì đà là cha cắc kè

Cắc kè là mẹ kì nhông

Kì nhông là ông kì đà”

Những “ông, cha, mẹ” trong quan hệ giữa hai động vật nhằm gợi cho trẻ về

tên gọi và phân biệt các thứ bậc trong gia đình. Bài đồng dao là bài học quan trọng

về mối quan hệ gia đình.

Trong tâm lí của các em ở độ tuổi thiếu nhi, do chưa ý thức được đầy đủ sự

chi phối và từ hệ quả của cơ chế phụ hệ, của tập tục cho nên cách nhìn nhận “cậu”

cũng như chú, bác, thậm chí do “cậu” được mẹ yêu quý hơn chú, bác nên có phần

thân thiết, tin tưởng ở cậu hơn. Nhưng đến lúc phát hiện ra cái tình của cậu với

mình không như mình tưởng (cháu cậu xa hơn cháu bác, cháu chú) thì các em có

cảm giác hụt hẫng, vỡ mộng lắm khi như bị lừa gạt. Từ đó mà nảy sinh lòng oán

thù:

“Sáo sậu là cậu sáo đen

Đánh trống thổi kèn, đưa ma sáo sậu.”

“Sáo sậu” có kết cục là phải chết (vì là cậu) nhưng “sáo sậu” ra ma được/ bị “đánh

trống thổi kèn” để đưa đi.

Như vậy trẻ em thích đồng dao, mê đồng dao, không học cũng thuộc, đó là

một hiện thực. Mỗi câu đồng dao, mỗi trò chơi truyền thống đều có giá trị về nhiều

phương diện: đạo đức, tâm lý, xã hội… Chẳng hạn một bài hát vui mang tính chất

giáo dục sâu sắc: khi ra đường gặp người già yếu, tàn tật phải giúp đỡ, thật thà và

không tham lam.

“Bà còng đi chợ trời mưa

Cái tôm cái tép đi đưa bà còng

Đưa bà đến quãng đường công

Đưa bà về tận ngõ trong nhà bà

Tiền bà trong túi rơi ra

Tép tôm nhặt được trả bà mua rau.”

Những bài đồng dao như thế có tác dụng hơn bất cứ một bài giảng đạo đức

cứng ngắt nào.

“Trời mưa bong bóng phập phòng

32

Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”

Bài đồng dao cũng là lời tâm tư của trẻ. Nếu lời hát này do chính các em hát

lên, khi người mẹ sắp về nhà chồng, thì hẳn khó có người mẹ nào lại nỡ dứt tình

mẫu tử. Lời hát là bài học về cuộc đời, về tình mẫu tử sâu sắc, câu hát ngắn gọn mà

dạt dào cảm xúc, mang đầy ý nghĩa về cuộc sống.

Lời đồng dao đôi khi còn là lời phê phán thói chay lười, được biểu lộ qua

tình trạng không chịu làm việc: “làm ít” mà “ăn nhiều” lại “nằm đâu ngủ đấy” thì

rất dễ thất bại, hỏng việc và đáng trách.

“Kéo cưa kéo kít

Làm ít ăn nhiều

Nằm đâu ngủ đấy

Nó lấy mất cưa

Lấy gì mà kéo?”

Hệ thống đề tài đồng dao thường mượn các chủ đề về thiên nhiên, hoa lá, cây

trái, chim muông, các con vật nuôi trong gia đình, để nói về con người và xã hội,

hay biểu hiện lòng mong muốn của con người. Thời gian trẻ em hoạt động và tiếp

xúc với đồng dao chỉ khoảng chín, mười năm. Sau đó, chúng chuyển sang làm quen

với văn hóa cộng đồng xã hội. Tuy ngắn ngủi nhưng lại có ý nghĩa rất lớn trong

cuộc đời của chúng. Với thời gian như vậy trẻ đã thuộc hàng loạt bài hát với nhiều

kiểu kết cấu nghệ thuật thi ca độc đáo. Chính vì vậy mà đồng dao vẫn tồn tại đến

ngày nay, dù số người nhớ không nhiều nhưng nó cũng phần nào làm sống lại ký ức

tuổi thơ của họ.

2.2. Đặc điểm nghệ thuật

“Vũ Ngọc Khánh, sau khi phân tích so sánh sức sống của đồng dao cổ

truyền với sáng tác của người lớn cho trẻ em viết: “Những bài đồng dao thường bị

xem là lung tung, tản mạn, giá trị tư tưởng nghệ thuật thường bị đánh giá thấp,

hoặc cho là không có gì, vốn có yêu cầu riêng, phương pháp riêng nên mới có thể

tồn tại lâu dài”. Ông cho rằng “vấn đề cơ bản trong thi pháp đồng dao là yếu tố

tưởng tượng của trẻ. Với các em mọi vật đều như có tri giác, các em nói chuyện với

cỏ cây, hoa lá, các đồ đạc loài vật chung quanh mình và hình dung rất hồn nhiên,

chân thực rằng đó là những cuộc đối thoại cảm thôn g cụ thể” [1; 53].

Trên quan điểm đó, dưới đây người viết nghiên cứu nghệ thuật của đồng dao

33

thể hiện ở ba yếu tố cơ bản: kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ.

2.2.1. Kết cấu

Đồng dao trẻ em có kết cấu đa dạng, đơn giản, tự nhiên, vần vè nhằm mục

đích vui chơi, giải trí và phần nào thể hiện tư duy tưởng tượng của các em. Có thể

thấy những biểu hiện sau:

Kết cấu nối vòng, lối kết cấu này chiếm tỉ lệ rất cao trong đồng dao, cách này

gây ấn tượng cho trẻ bởi về số lượng từ lặp đi lặp lại rất nhiều. Ví dụ như:

“Con kiến mà leo cành đa

Leo phải cành cụt leo ra leo vào

Con kiến mà leo cành đào

Leo phải cành cụt leo vào leo ra.”

Số từ lặp lại của bải đồng dao này gần như hoàn toàn. Bài hát được khép

vòng và chuyển động liên tục bởi hai chữ cuối của câu đầu “cành đa” và hai chữ

cuối của câu kết “leo ra”. Với cách lượn vòng và lẩn quẩn như vậy cũng tùy theo

nội dung từng bài mà có kết cấu “nối vòng” khác nhau. Ví dụ như:

“Em tôi buồn ngủ buồn nghê

Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà

Em tôi buồn ngủ buồn ngà

Buồn ăn cơm nếp, thịt gà cháo kê.”

Cụm từ “buồn ngủ buồn nghê” hay “buồn ngủ buồn ngà” cũng là giống

nhau cả. Hai chi tiết của cùng một sự việc thường có tính chất bổ sung cho nhau.

Cho nên, trường hợp này việc tách hai chi tiết trên chỉ là hình thức, tức là giả tách

làm hai chi tiết nhưng thực chất chỉ là một. Bên cạnh đó, ta thấy rằng hai cặp lục bát

của hai chi tiết đối xứng nhau. So sánh cặp lục bát sau với cặp lục bát đầu: Dòng lục

chỉ đổi tiếng cuối để bắt vần với tiếng thứ tám ở dòng bát trước nó; dòng bát chỉ

tráo bốn tiếng cuối theo cặp (nghê – kê, gà – ngà – gà, kê – nghê). Trường hợp lục

bát biến thể theo kiểu hiệp vần ở tiếng thứ tư dòng bát, thì ở vị trí này sẽ đổi khác

(có thể kèm thêm tiếng thứ ba) để đáp ứng, bốn tiếng còn lại chỉ đổi tiếng cuối.

Kiểu kết cấu chuyện nọ dắt dây sang chuyện kia, không ăn nhập gì với nhau,

chỉ liên kết với nhau một cách vu vơ. Đó là trường hợp bài đồng dao Cốc cốc keng

keng, bài dồng dao nói từ chuyện:

“Con ruồi có cánh

34

Đòn gánh có mấu

Củ ấu có tai”

Kết cấu dạng cho và trả: thuộc kết cấu chuỗi sự việc có liên kết chủ đề, chia

làm hai phần: phần cho và phần trả, nhưng phần cho có số lượng dòng thơ gấp đôi

phần trả.

“Chú bé bắt được con công

Đem về biếu ông

Ông cho con gà

Đem về biếu bà

Bà cho quả thị

Đem về biếu chị

Chị cho quả chanh

Đem về biếu anh

Anh cho tu hú

Chú cho buồng cau

Chú thiếm đánh nhau

Buồng cau trả chú

Tu hú trả anh

Quả chanh trả chị

Quả thị trả bà

Con gà trả ông

Con công phần tôi.”

Kết cấu đối đáp (hỏi và trả lời): Loại kết cấu này thường gặp nhiều nhất

trong đồng dao trẻ em hát có kèm theo trò chơi. Trò chơi Rồng rắn lên mây là đối

đáp giữa “rồng rắn” và “thầy thuốc”. Lời trong Thằng Bờm có cái quạt mo cũng sử

dụng kết cấu đối đáp nhưng không đói đáp trực tiếp mà được kể lại qua lời đồng

dao.

Kết cấu nói ngược: Nói ngược gây hứng thú đối với trẻ bởi vì loại kết cấu

này thì sự vật sự việc không liên kết chủ đề, có nội dung đánh tráo đặc điểm (về

hoạt động, tính chất…) của hai sự vật cạnh nhau, khiến chúng tréo hèo. Bất cứ đối

tượng, thiên nhiên, xã hội… đều có thể hát lên bằng đồng dao có kết cấu nói ngược.

Có thể nêu một số ví dụ như sau:

“Nghe vẻ nghe ve 35

Nghe vè nói ngược

Ngựa đua dưới nước

Tàu chạy trên bờ

Lên núi đặt lờ

Xuống sông hái củi

Gà cồ hay ủi

Heo nái hay bươi”

Hoặc:

“Ban đêm oi bức

Ban ngày mát mẻ, trăng cười trên cao

Ban đêm nắng đỏ hồng hào

Ban ngày nhấp nháy ông sao đầy trời.”

Kết cấu một vế đơn giản, ngắn gọn và dễ nhận thức. Kiểu kết cấu này rất phổ

biến trong lời hát ru và ca dao cho trẻ em. Bằng nhạc điệu của thơ lục bát, bằng

ngôn ngữ, nhịp điệu dành cho lứa tuổi thiếu nhi rất phù hợp với tâm lý trẻ em.

“Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lòng nó bay.”

Hoặc:

“Chuồn chuồn có cánh thì bay

Có thằng be bé thò tay bắt mày.”

Kết cấu kể chuyện là kết cấu rất phổ biến trong những lời hát ru. Kết cấu này

đơn giản chỉ kể lại câu chuyện mà không cần chú ý đến hình thức. Mục đích để làm

sau trẻ hiểu được và nắm được câu chuyện trong lời ru đó mà thôi.

“Thằng cuội ngồi gốc cây đa

Thả trâu ăn lúa gọi cha ới ời

Cha còn cắt cỏ trên trời

Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên”

Kết cấu hai vế đối lập nhau: kết cấu này tạo nên hai vế đối lập nhau về mặt

nội dung. Trẻ em biết cách so sánh, đối chiếu với thực tế cuộc sống để nhìn ra giá

trị thực của nó cho nên kết cấu này bắt đầu được các em chú ý.

36

“Con cóc là cậu ông trời

Ai mà đánh nó thì trời đánh cho

Con cóc là cậu thầy nho

Ai mà đánh chết trời cho quan tiền.”

Kết cấu hai vế song hành: đây là kết cấu thường thấy trong những bài đồng

dao và nó đơn giản là chỉ nêu lên tính chất, hình dáng, màu sắc của sự vật hiện

tượng. Thông thường các đối tượng được các em chú ý nhất đó là về cây, trái vì nó

gần gũi với các em và cũng từ nhu cầu ăn uống của các em.

“Khế với sung: khế chua, sung chát

Mật với gừng: mật ngọt, gừng cay.”

Hay:

“Quả dưa gang trong vàng ngoài trắng

Quả mướp đắng trong trắng ngoài xanh.”

Trên đây là những dạng kết cấu thường gặp trong đồng dao. Mỗi một kết cấu

có vai trò khác nhau nhưng đều có chung nhiệm vụ là góp phần làm nên sự độc đáo

riêng cho đồng dao.

2.2.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ đồng dao rất gần gũi với ngôn ngữ của đời thường, ngắn gọn, nhịp

điệu thể hiện rất rõ ý và lời để trẻ em dễ hát, dễ nhớ và dễ thuộc. Có thể nói rằng,

ngôn ngữ trong hệ thống đồng dao là ngôn ngữ của trẻ em và dành cho trẻ em. Bởi

vì đồng dao là do trẻ em sáng tạo ra hay do người lớn sáng tạo ra dành riêng cho các

em. Với tính chất truyền miệng và nhiều dị bản cho nên ngôn ngữ của đồng dao bao

giờ cũng mộc mạc, giản dị, vô tư, hồn nhiên, vui tươi và rất ngộ nghĩnh. Những tính

chất đó ta có thể bắt gặp trong bất kì bài đồng dao nào của trẻ em. Từ những bài

ngắn cho đến những bài dài hay trong lời vè, lời hát ru…

Về mặt tư duy ngôn ngữ của các em giai đoạn này chưa cao: “Xét về vốn từ

ngữ của trẻ em theo nghiên cứu khoa học, cuối năm thứ hai, trẻ chỉ mới biết được

300 từ nhưng cuối năm thứ ba trẻ đã biết được đến 1500 từ.” [1; 35]. Vì thế mà

ngôn ngữ đồng dao là bài học về từ vựng rất tốt cho trẻ. Đặc biệt trong đồng dao có

rất nhiều từ vựng cụ thể về tự nhiên và xã hội gần với cuộc sống, sinh hoạt, lao

động hằng ngày của các em. Đó có thể là mẹ, cha, chị, anh… người mà sống gần

gũi với các em:

37

“Thờ cha mẹ ở hết lòng

Ấy là chữ hiếu ở trong luân thường

Chữ để nghĩa là nhường

Nhường anh, nhường chị, lại nhường bề trên

Ghi lòng tạc dạ chớ quên

Con em phải giữ lấy nền con em.”

Có thể là các con vật nuôi trong nhà: chó, mèo, gà, lợn….

“Con mèo, con mẻo, con meo

Ai dạy mày trèo, chẳng dạy em tao

Con mèo, con mẻo, con meo

Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà.”

Hay xa hơn là các con chim, con cá, con kiến, con tò vò, con nhện…

“Tò vò mà nuôi con nhện

Đến khi nó lớn nó quên nhau đi

Tò vò ngồi khóc tỉ ti

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đường nào.”

Những từ vựng về không gian: trời, trăng, sao; thời gian cụ thể: ban ngày,

ban đêm, các hiện tượng tự nhiên: mưa, nắng, gió. Ví dụ:

“Gió đưa trăng thì trăng đưa gió

Trăng lặn rồi gió biết đưa ai.”

Có những từ vựng trẻ biết được trong trò chơi, trong sinh hoạt hoặc trong

quá trình tham gia lao động:

“Nghé ơi, ta bảo nghé này

Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu

Ở đời khôn khéo chi đâu

Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.”

Với những quan hệ xã hội đã đem đến cho trẻ một kho tàng từ vựng cụ thể

liên kết lại với nhau:

“Ăn một bát cơm

Nhớ người cày ruộng

Ăn một đĩa muống

38

Nhớ người đào ao

Ăn một quả đào

Nhớ người vun gốc

Ăn một con ốc

Nhớ người đi mò

Sang đò

Nhớ người chèo chống

Nằm võng

Nhớ người mắc dây

Đứng mát gốc cây

Nhớ người trồng trọt”

Như vậy, ngôn ngữ mà trẻ em học được qua đồng dao là từ vựng và đại bộ

phận là những từ vựng cụ thể, còn ngôn ngữ trừu tượng thì chỉ có thể hình thành khi

trẻ đi học hay được tiếp xúc nhiều với những từ ngữ trừu tượng của người lớn.

Trong đồng dao, trẻ nhận biết được bước đầu về cấu trúc ngữ pháp theo cách nghĩ

đơn giản của trẻ là cấu trúc hỏi và trả lời. Ví dụ:

“Bông chi?

Bông bác

Bác chi?

Bác hùm”

Hay trong đồng dao “Rồng rắn lên mây”

“Thầy thuốc: Thầy thuốc có nhà không?

Rồng rắn: Thầy thuốc không có nhà”

Từ việc học hỏi những từ vựng cụ thể, với khả năng quan sát của trẻ được

phát triển, ngôn ngữ đồng dao miêu tả chi tiết một cách sinh động và có sự kết hợp

miêu tả với tự sự:

“Kít non con nít

Cái hình nhỏ xít

Đội mũ lá mít

Cưỡi ngựa tàu cau

Đứa trước đứa sau

Rủ nhau một lũ

Ăn rồi đi ngủ 39

Ngủ dậy đi chơi

Xuống nước tập bơi

Lên bờ đánh đá

Miệng thổi kèn lá

Tít tít tò te”

Với các em mọi loài vật hay đồ vật xung quanh mình đều ở trạng thái hoạt

động.

“Con cua mà có hai càng

Đầu tai không có bò ngang cả đời.”

Ngôn ngữ đồng dao giàu âm thanh, đặc biệt là những âm thanh này là những

âm thanh mô phỏng hay bắt chước âm thanh phát ra từ các đồ vật hoặc động vật.

“Theo tâm lý học trẻ em thì thính giác và thị giác của trẻ em phát triển rất sớm từ

khi trẻ còn dưới một tuổi, nhưng thính giác phát triển mạnh hơn trong khi thị giác

phát triển có tính định hướng (Ví dụ theo ánh sáng, màu sắc).” [1; 59]. Đó là những

đồng dao mô phỏng tiếng gà, lợn, trâu bò, tiếng rán mỡ “xèo xèo”, tiếng đồng hồ

tích tắc…

Ví dụ:

“Con gà cụt tác lá chanh

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi…”

Hay:

“Lúc la lúc lắc

Tích ta tích tắc

Ngày ngày đêm đêm

Chỉ giờ chỉ khác….”

Đối với các em, thì những lời đồng dao này chỉ được chú ý về mặt ngữ âm

hơn ngữ nghĩa. Đôi khi những âm thanh này chỉ vang lên như một mệnh lệnh để bắt

đầu hoặc kết thúc trò chơi.

“Dung dăng dung dẻ

Dắt trẻ đi chơi

Đến cổng nhà trời

Lạy cậu lạy mợ

Cho cháu về quê 40

Cho dê đi học

Cho cóc ở nhà

Cho gà bới bếp

Xì xà xì xụp”

Ngôn ngữ đồng dao mang sắc thái vui tươi, ngộ nghĩnh. Đó là những ngôn

ngữ nói ngược:

“Trâu thì nhảy nhót đi chơi

Chích chòe cày ruộng cho người lúa khoai”

Có thể đó là cách nói lặp đi lặp lại:

“Ba bà đi bán lợn con

Bán đi chẳng được lon ton chạy về

Ba bà đi bán lợn sề

Bán đi chẳng được chạy về lon ton.”

Có thể là cách nói vòng tròn:

“Con chim manh manh

Nó đậu cành chanh

Tôi vác miếng sành

Tôi liệng nó chết giãy

Tôi làm bảy mâm

Tôi đem tôi kính

Cho thầy một mâm

Thầy hỏi chim chi?

Con chim manh manh…”

Ngoài ra, ngôn ngữ đồng dao còn là ngôn ngữ mang cách nói gây cười:

“Ngồi buồn đốt một đống rơm

Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào

Khói bay lên tận thiên tào

Ngọc hoàng phán hỏi đứa nào đốt rơm?”

Hay:

41

“Ngồi buồn nói chuyện láo thiên

Hồi tôi còn nhỏ rủ đi khiêng ông tời

Ra đồng thấy muỗi đớp dơi

Bọ hung đám giỗ đi mời ông voi.”

Với suy nghĩ chủ quan của trẻ mà người lớn không tài nào hiểu được. Cho

nên ngôn ngữ đồng dao đôi khi chỉ có lời mà không có nghĩa. Nhưng loại đồng dao

này rất được các em chú ý bởi âm thanh vui tai và nhịp điệu nhẹ nhàng. Cụ thể là

bài đồng dao “Cùm nụm cùm nịu” hoặc “Nu na nu nống”. Ngôn ngữ đồng dao là

ngôn ngữ của trẻ em. Tuy có một vài trường hợp có ngôn ngữ người lớn trong

những bài đồng dao nhưng chỉ với số lượng rất nhỏ. Đồng dao là do trẻ em sáng tạo

nên điều đó không thể nào chối cãi được. Vì thế mà ngôn ngữ trẻ em đi vào đồng

dao một cách nhanh chóng đó cũng là lẽ tự nhiên. Trong lúc vui chơi trẻ em hát

cùng thế giới tự nhiên, xã hội xung quanh mình. Qua đó làm cho tiếng nói của các

em phát triển phong phú thêm đặc biệt là về vốn từ vựng. Mọi hình thức đồng dao:

Nói xuôi, nói ngược, hát vui chơi… đều nhằm mục đích để các em được vui chơi,

được giao tiếp với nhau, và đồng thời cũng là nơi để các em có sự am hiểu ngày

càng tốt hơn về ngôn ngữ của dân tộc.

Có thể nói rằng: đối với các em lớn lên ở nông thôn không có đứa trẻ nào

không lớn lên trong vòng tay của bà, lời ru của mẹ. Với những lời uyển chuyển đó

mà ngôn ngữ của lời ru dễ dàng đi sâu vào tâm hồn của các em. Bên cạnh nhạc điệu

trầm bổng, ngữ âm giản dị và mộc mạc thì ngôn ngữ lời ru còn là ngôn ngữ của sự

kết hợp giữa đời thường và ngôn ngữ thi ca. Do đó mà ngôn ngữ đồng dao rất gần

với trẻ:

“Cái ngủ mày ngủ cho lâu

Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về

Bắt được con trám con trê

Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn.”

Và chứa nhiều chất thơ:

“Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hô thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

42

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

Ngôn ngữ đồng dao còn là những ngôn ngữ sinh động, gợi cảm. Đó là các

ngôn ngữ về việc phân tích hiện thực tự nhiên, xã hội sâu sắc.

“Trời mưa

Quả dưa vẹo vọ

Con ốc nằm co

Con tôm đánh đáo

Con cò kiếm ăn.”

Cũng với tính chất truyền miệng và nhiều dị bản của đồng dao cho nên ngôn

ngữ đồng dao thường mang sắc thái địa phương. Ở từng vùng, từng địa phương mà

đồng dao được hát theo các làn điệu dân ca khác nhau.

Từ thực tế trên cho thấy: ngôn ngữ đồng dao mang tính chất vui tươi, trong

sáng và gây được hứng thú cho trẻ em. Đồng thời, còn là ngôn ngữ của sự mộc mạc,

hồn nhiên, sinh động… Đặc biệt trong những câu đố trẻ em thì ngôn ngữ lại mang

tính đa nghĩa, nhiều ẩn dụ, nặng về lý trí khêu gợi óc tìm tòi của trẻ. Đồng dao

không chỉ giúp trẻ phát triển về mặt ngôn ngữ mà còn góp phần tích cực trong phát

triển tình cảm và tư duy của trẻ em.

2.2.3. Thể thơ

“Qua thống kê từ 113 đơn vị đồng dao ở lứa tuổi nhi đồng, các thể thơ của

đồng dao được tính theo tỉ lệ phần trăm, như bảng sau:

2 3 4 5 6 7 Lục Hỗn Ghi chú tiếng tiếng tiếng tiếng tiếng tiếng bát Hợp

Tổng số đơn vị

0 2.66 64.60 0 2.66 1.77 20.35 7.96 đồng dao khảo sát:

113

Bản thống kê trên chưa phải là số liệu khảo sát từ toàn bộ đồng dao ở An

Giang nói riêng mà chỉ là số lớn đồng dao Việt Nam nói chung mà thôi. Do đó,

những số liệu chỉ có giá trị tương đối. Dù sao, những số liệu thống kê trên đây có

thể giúp rút ra một số kết luận, ít nhất cũng để tham khảo.

Thể thơ bốn tiếng được sử dụng rộng rãi và thuần thục trong đồng dao. Với

cách ngắt nhịp 2/2 rất phù hợp với cách hát của trẻ em. Không những hát mà trẻ em 43

có thể nói tùy theo cách sáng tạo riêng của từng em. Vì vậy, thể thơ này không đòi

hỏi phải tuân theo một cách xướng âm khuôn mẫu sẵn có nào cả. Nhịp 2/2 vui tươi,

nhẹ nhàng lại phù hợp với nhịp thở vừa phải của các em. Hát đồng dao không cần

luyến láy, lên bổng xuống trầm như những làn điệu dân ca trữ tình của người lớn.

Vì thế mà thể thơ bốn tiếng chiếm đại đa số đồng dao.

Thể thơ bốn tiếng thường sử dụng 4 kiểu gieo vần:

Kiểu 1: vần chân kết hợp với vần lưng, tiếng cuối dòng đầu vần với tiếng thứ

hai dòng liền sau, tiếng cuối của dòng liền sau này vần với tiếng thứ hai của dòng

tiếp sau nó, thường theo cách đổi bằng trắc một cách đều đặn, và liên tục như vậy

cho đến hết bài.

“Ù à ù ập

Bắt chập lá tre

Bắt đè lá muống

Bắt cuống lên hoa

Bắt gà mổ thóc

Bắt học cho thông

Cày đồng cho sớm

Nuôi lợn cho chăm

Nuôi tằm cho rõi

Dệt cửi cho mau

Nuôi trâu cho mập

Ù ập ù à”

Kiểu 2: vần chân, tiếng cuối của mỗi dòng đều mang vần theo từng cặp,

thường các vần bằng trắc nối tiếp nhau một cách đều đặn, cho đến hết bài. Do đều là

vần chân, nên đó đồng thời cũng là điểm nhấn giọng khi hát. Nếu dòng đầu mang

vần bằng thì dòng sau mang vần trắc và ngược lại.

“Thứ ở hỗn hào,

Là rau ngành ngạnh.

Trong lòng không chánh,

Vốn thiệt rau lang.

Đất ruộng bò ngang,

Là rau muống biển, 44

Bình bát nấu canh,

Ăn hơi tanh tanh

Là rau diếp cá”

Kiểu 3: là kiểu có sự kết hợp hai kiểu trên. Ví dụ:

“Dung dăng dung dẻ

Dắt trẻ đi chơi

Đến cổng nhà trời

Lạy cậu lạy mợ

Cho cháu về quê

Cho dê đi học

Cho cóc ở nhà

Cho gà bới bếp

Xì xà xì xụp?

Toàn bài đồng dao được làm theo kiểu 1 chỉ trừ cặp dòng 2-3 làm theo kiểu2.

Ngoài ra, còn có một số kiểu vần khác không thuộc ba kiểu vừa trình bày

trên, chúng gồm những kiểu vần, nhịp linh hoạt, riêng lẻ. Ví dụ: bài đồng dao dưới

đây chỉ gieo toàn vần chân, hầu hết nối kết theo cặp nhưng linh hoạt, không đổi

bằng trắc một cách đều đặn như ở kiểu 2.

“Ngày xửa ngày xưa

Có mười ông vua

Một ông tịt mít

Chết một còn chín

Một ông ị rịn

Chết một còn tám

Một ông vốc cám

Chết một còn bảy…”

Trong đồng dao, đặc biệt là trong những bài hát ru thì thể thơ lục bát lại giữ

vai trò quan trọng và chiếm tỉ lệ khá nhiều. Bởi những lời hát ru có thể thơ gần với

dân ca. Tiết tấu của thể thơ này là 2/2/2 – 2/2/2/2, câu hát êm dịu, nhịp nhàng, đều

đều đưa trẻ vào giấc ngủ say nồng.

“Trời mưa/ bong bóng/ phập phồng

45

Mẹ đi/ lấy chồng/ con ở/ với ai?”

Lời ru trên được sáng tạo theo thể lục bát với cách gieo vần thông thường, số

lời gieo vần tiếng thứ sáu câu lục với tiếng thứ tư của câu bát. Tuy nhiên, có một số

bài đồng dao được làm theo thể lục bát biến thể với cách gieo vần không theo chuẩn

mực mà chỉ sáng tạo dựa vào tính tự nhiên của việc kết hợp giữa thanh điệu, ngữ

điệu.

Hiện tượng phối thanh bằng trắc không đúng chuẩn:

“Con mèo mày trèo cây cau

Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà

Chú chuột đi chợ đằng xa

Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.”

Tiếng thứ tư của dòng lục “trèo” sai luật (lẽ ra phải theo thanh trắc) khi so

sánh với cách phối thanh chuẩn mực: (b: bằng, t: trắc).

1 2 3 4 5 6 7 8

Dòng lục - b - t - b

Dòng bát - b - t - b - b

Hiện tượng vần lưng gieo ở tiếng thứ tư:

“Cái bống là cái bống bang

Khéo sảy khéo sàng cho mẹ nấu cơm.”

Có vần lưng của dòng bát nằm ở tiếng thứ tư “sàng”. Lời ca dao quen thuộc:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”

Có tiếng cuối dòng thứ hai vần với tiếng thứ hai của dòng thứ ba (mà không

phải là tiếng thứ sáu). Đồng thời, dòng thứ ba đảo ngược sáu tiếng chính của dòng

thứ hai. Như vậy, trẻ con sáng tạo bài hát để vui chơi cho nên ta không nên ép buộc

phải tuân theo luật làm thơ. Có như vậy thì đồng dao mới là đồng dao.

Ngoài ra, đồng dao còn có các thể thơ khác. Đó là thể thơ hai tiếng (thường

46

gặp trong đồng dao có kết cấu hỏi – đáp):

“Bông chi?

Bông bác

Bác chi?

Bác hùm…”

Thể thơ ba tiếng (thường gặp trong đồng dao có kết hợp với trò chơi):

“Tập tầm vông

Tay nào không?

Tay nào có?

Tập tầm vó

Tay nào có?

Tay nào không?”

Thể thơ sáu tiếng thì thường có trong các lời đồng dao có kết cấu vòng tròn.

Đó là những bài như “Kì nhông là ông kì đà”, “Sáo sậu là cậu sáo đen” .

Hay:

“Bồ các là bác chim ri

Chim ri là dì sáo sậu

Sáo sậu là cậu sáo đen

Sáo đen là em tu hú

Tu hú là chú bồ các

Bồ các là bác chim ri.”

Thể thơ bảy tiếng thì gồm nhóm đồng dao nhận biết về các sự vật, hiện

tượng:

“Cây ngô đồng không trồng mà mọc

Rễ ngô đồng rễ dọc rễ ngang

Quả dưa gang trong vàng ngoài trắng

Quả mướp đắng trong trắng ngoài xanh.”

Tuy nhiên, đồng dao còn có thể hỗn hợp gồm nhiều dòng với số lượng tiếng

của mỗi dòng khác nhau, cách gieo vần, tạo nhịp khá linh hoạt và tự do. Thể thơ

này có được là vì khi sáng tạo đồng dao các em chỉ chú ý đến nội dung cho nên kể

bằng mấy tiếng cũng được.

“Đúc cây dừa

47

Chừa cây mộng

Cây tầm phổng

Cây mía lau

Cây nào cao

Cây nào thấp

Cây nào rơi

Chùm tơi chín đỏ

Quan văn, quan võ

Ăn trộm trứng gà

Bù xa, bù xít

Thì ra tay này.”

Nhìn chung thể thơ đồng dao khá đa dạng, cách gieo vần trong từng thể thơ

cũng thay đổi. Thể bốn tiếng vẫn là thể chính và được các em vận dụng nhiều hơn

bởi cách gieo vần của thể này rất đơn giản. Thể lục bát cũng là thể phổ biến bởi các

em lớn lên bên chiếc nôi, cánh võng, lời ru. Vì thế mà thể lục bát đi vào lòng các em

từ lúc tuổi nằm nôi và nó hình thành cho đến khi các em lớn thêm. Còn các thể thơ

hai tiếng, ba tiếng, sáu tiếng, bảy tiếng hay thể hỗn hợp thì lại mang một hình thức

riêng đã làm nên một dạng đặc biệt cho thể thơ đồng dao.

Tiểu kết

Về nội dung và nghệ thuật đồng dao, chúng tôi giải quyết các vấn đề hiện

thực của thiên nhiên, con người và xã hội loài người trong đồng dao. Mọi thứ hiện

lên sinh động và ngộ nghĩnh dưới cái nhìn và sự hiểu biết hơn, đơn giản hơn. Đó

không phải là những cái gì đó xa lạ mà là những gì gần gũi xung quanh các trẻ,

hằng ngày các em nhìn thấy và sử dụng. Hình ảnh của đồng dao khác biệt với hình

ảnh sử dụng trong văn chương nói chung, ở chỗ mỗi hình ảnh thường được đánh

dấu riêng không liên quan đến hình ảnh khác. Chúng phản ánh lối tư duy chưa mạch

lạc của trẻ. Bằng nhiều kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ gần gũi mà đồng dao đi vào tiềm

thức của các em một cách dễ dàng đã góp phần hình thành nguồn tri thức phong phú

48

cho các trẻ.

CHƢƠNG 3

TRÒ CHƠI TRẺ EM NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG

Trong việc giáo dục trẻ, không phải chỉ dạy chúng học, dạy chúng tập làm

việc này, việc khác, cũng không phải đưa ra những bài lý luận khác nhau mà cũng

cần săn sóc đến sự tiêu khiển của chúng. Chính những sự tiêu khiển này giúp chúng

mở mang trí tuệ, biết dần nếp sống mới, biết được sự khó khăn trong đời sống. Chơi

với học đi liền với nhau. Trong lúc chơi các em luyện tập ý chí, luyện tập thân thể,

luyện tập sự khéo léo, chí khí, đức tính… Tuy nhiên, ở mỗi vùng, miền thì sẽ có

những thú tiêu khiển riêng, khác nhau phù hợp với hoàn cảnh địa lý, kinh tế, xã hội

của nơi đó.

Trình bày những trò chơi của trẻ em người ở An Giang, chúng tôi chia làm 3

phần: Phần thứ nhất những trò chơi cá nhân, phần thứ hai những trò chơi tập thể và

phần thứ ba là những trò chơi kết hợp đồng dao.

3.1. Trò chơi cá nhân

Đây là trò chơi mà các em có thể thực hiện ngay trước sân nhà, hành lang,

trong vườn, dưới bóng mát… Không cần tới một khoảng quá rộng các em vẫn có

thể chơi được. Thường những trò chơi này không đòi hỏi một sự đông đảo, có thể

các em chơi một mình với búp bê, những cây trái, hoa lá xung quanh… Với những

trò chơi cá nhân như thế, các em thơ thẩn không quấy mẹ nhưng các em cũng tìm

thấy được sự thích thú, vui vẻ trong sự hồn nhiên, vô tư của mình.

3.1.1. Trò chơi nhảy dây

Đối tượng chơi: Trẻ em từ 6 tuổi trở lên.

Mục đích chơi:

- Phát triển cơ tay và rèn luyện sự nhanh nhẹn của đôi chân.

- Rèn luyện sự khéo léo cho trẻ.

Chuẩn bị:

- Một đoạn dây thừng hoặc dây thung dài khoảng 1.5- 2 mét.

- Nơi nhảy dây là mặt đất phẳng, rộng.

Cách chơi:

Hai tay cầm hai đầy dây, đưa dây ra phía sau lưng, quay cổ tay cho dây quay

trên đầu văng xuống đất, hai chân nhảy lên để dây qua dưới chân gọi là nhảy tới;

mỗi lần nhảy như vậy được tính một lượt. Vừa nhảy một lượt trẻ đếm “năm, mười, 49

mười lăm, hai mươi, hai mươi lăm…” cứ thế cho đến “một trăm” thì trẻ bắt đầu

đếm lại. Khi nhảy chậm dây không qua được chân là hỏng và trò chơi kết thúc. Nếu

trẻ chưa mệt thì có thể chơi lại từ đầu tương tự như vậy. Với trò chơi này nhiều trẻ

cũng có thể cùng chơi với nhau.

3.1.2. Lộn tùng phèo

Đối tượng: Thường là dành cho các em nam từ 5 tuổi trở lên.

Mục đích:

- Tập cho các em lòng can đảm.

- Luyện cổ tay, cổ chân cho các em thêm cứng cáp.

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi của trẻ.

Chuẩn bị: một chiếc chăn bông hoặc những cái gối trên giường hay một

chiếc giường nệm…

Cách chơi:

Các em quỳ úp sấp, rồi hai tay chống ra trước cùng với đầu. Sau đó các em

dùng sức mạnh đưa cả người lộn ngửa qua đầu và hai tay đã chống xuống giường.

Các em đã lộn một vòng, sự lộn này được gọi là “lộn tùng phèo”.

Đây là trò chơi có độ nguy hiểm cao, vì trò chơi có thể làm cho các em trẹo

xương cổ, trẹo tay… Nhưng với tuổi nhỏ các em không chú ý đến sự nguy hiểm,

nhưng bởi sự tinh nghịch nên các em thấy thích chơi “lộn tùng phèo”.

3.1.3. Thổi bong bóng

Đối tượng: Các em mọi lứa tuổi từ 4 tuổi trở lên.

Mục đích chơi:

- Giúp các em tăng trí tưởng tượng, làm cho sự mơ mộng của các em

thêm bay bổng.

- Giúp các em hình thành dần dần ý niệm về cái đẹp, phát triển năng

khiếu thẩm mỹ.

- Cung cấp kiến thức về cuộc sống. Những thứ làm ra dễ dàng và mau

chóng như bong bóng xà phòng thì dù có đẹp cũng mau hư hại.

Ngược lại, muốn có kết quả tốt đẹp mà bền vững, thì người ta phải

50

chịu khó tốn công vào thời gian đầu tư.

Chuẩn bị:

- Một bát nước xà phòng khá đặc. Hoặc dùng lá gòn góp nát rồi đánh

với nước, lượt bỏ xát rồi bỏ ít xà phòng vào.

- Một ống hút hoặc một ống tre, ống đu đủ… dài cỡ một gang tay và

đường kính nhỏ 1 – 2 mm.

Cách chơi:

Các em nhúng ống vào bát nước xà phòng, rồi đưa lên thổi. Các em sẽ được

quả bong bóng hoặc những chùm bong bóng ánh bảy màu cầu vồng bay tỏa trên

không trung, trước mặt các em. Gặp gió có thể được đưa đi khá xa mới vỡ trông rất

đẹp mắt. Đôi khi với độ đậm đặc thích ứng của xà phòng, các em có thể thổi được

những quả bong bóng rất lớn.

3.1.4. Mảnh thiếc quay

Đối tượng: các em trên 7 tuổi mới có thể chơi được trò chơi này.

Mục đích:

- Luyện tập cho trẻ sự khéo léo.

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.

Chuẩn bị: Một mảnh thiếc tròn hay nắp lon nước ngọt đập dẹp, một sợi dây.

Cách chơi:

Các em cắt một mảnh thiếc tròn cỡ đồng xu đường kinh từ 2 – 3 phân.

Không có mảnh thiếc các em có thể dùng giấy bồi. Giữa hình tròn các em dùi hai lỗ

nhỏ cân nhau, rồi luồn một sợi dây hơi dài qua hai lỗ này. Hai đầu dây được nối lại,

các em dùng hai ngón tay trò lồng vào đây ở phía hai đầu, căng dây cho thẳng, mà

để mảnh thiếc tròn nơi chính giữa. Các em xoắn hai bên dây lại, rồi kéo căng ra, lại

trùn ngắn vào, kéo căng trở lại rồi lại trùn trở vào, mảnh thiếc tròn sẽ quay với tốc

độ nhanh và rất đẹp mắt.

3.1.5. Bắt chuồn chuồn

Đối tượng: các em trai, em gái tuổi từ 7 – 10 tuổi.

Mục đích:

- Rèn luyện sự khéo léo, nhẹ nhàng của chân tay.

- Rèn luyện tính kiên nhẫn cho các em.

51

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.

Chuẩn bị: một que tre dài, một đầu que tre các em buộc một sợi tóc đã được

buộc thành một chiếc thòng lọng, một sợi chỉ.

Cách chơi:

Các em đưa chiếc thòng lọng vào đuôi con chuồn chuồn rồi kéo và như vậy

đã bắt được nó. Tuy nhiên, chuồn chuồn rất nhạy nên cần phải hết sức nhẹ nhàng,

khéo léo không gây ra tiếng động, hoặc không làm cho chiếc que tre rung động

khiến chuồn chuồn sợ mà bay đi. Nếu nó bay đi thì phải chờ nó đậu trở lại một nơi

khác mà bắt. Đôi khi trong lúc bắt chuồn chuồn, các em sẽ bị ai đó phá đuổi đi bằng

cách họ hát:

“Chuồn chuồn có cánh thì bay

Không thôi thằng nhỏ thò tay bắt mày.”

Lúc đó các em phải trầm tĩnh, không nổi giận và kiên nhẫn để tiếp tục bắt

được con chuồn chuồn. Khi bắt được con chuồn chuồn, các em buộc nó vào một sợi

chỉ, buộc vào đuôi nó rồi các em cầm sợi chỉ cho nó bay. Các em tinh nghịch hơn

thì sau khi đã dùng sợi chỉ buộc vào đuôi nó rồi, đầu kia sợi chỉ các em buộc vào

một lá cây rồi thả cho nó bay. Lẽ tất nhiên nó muốn bay cao không được chỉ bay là

là mặt đất.

3.1.6. Vòng cổ

Đối tượng: các bé gái từ 6 tuổi trở lên.

Mục đích:

- Rèn cho các em sự khéo léo, cẩn thận.

- Rèn luyện về ý thức thẩm mỹ cho các em.

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.

Chuẩn bị: một hoa sen còn cả cuống hoa.

Cách chơi:

Cuống hoa sen, khi ta nhẹ nhẹ bẻ, ta sẽ thấy có những sợi tơ sen nối liền hai

đoạn, những tơ sen này cũng khá dai. Các em dùng cuống hoa sen bẻ thành từng

đoạn ngắn không rời, vẫn dính vào nhau bởi những tơ sen. Dùng nhiều cuống hoa

sen nối liền nhau, và được bẻ thành đoạn ngắn như vậy, các em có một chuỗi dài

những đoạn cuống sen và dưới cùng có một bông sen.

Các em quấn chuỗi này quanh cổ một hay nhiều vòng các em có một chiếc

52

vòng cổ tương tự như chuỗi hạt vàng của người lớn. Các em cũng cũng dùng những

cuống hoa sen làm những chiếc vòng đeo tay. Điều cần lưu ý là khi bẻ cuống hoa

sen làm chuỗi hạt, các em phải nhẹ tay, nếu không những tơ đen sẽ bị đứt. Các em

cẩn thận khi bẻ thì sẽ được một chuỗi hạt dài, chuỗi hạt càng dài các em càng thích

thú.

3.1.7. Kèn lá cây

Đối tượng: các em từ 6 – 7 tuổi trở lên.

Mục đích:

- Rèn luyện sự khéo kéo cho trẻ.

- Rèn luyện cho trẻ về kiến thức âm nhạc.

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí.

Chuẩn bị: bất cứ lá cây gì cũng tạo được chiếc kèn: lá cóc kèn, lá tre, lá

chuối, lá dừa…

Cách chơi:

Các em tạo bằng lá cây quấn lại, trên nhỏ dưới loe. Kèn chế tạo bằng lá thổi

không kêu thét như còi, nhưng nghe kêu te te cũng đủ làm cho các em thích thú.

Các em thổi mạnh, thổi nhẹ phát ra âm thanh khác nhau các em sẽ cảm thấy sung

sướng mà thổi vang nhà.

3.2. Trò chơi tập thể

Trò chơi tập thể chiếm số lượng rất lớn. Bởi đây là trò chơi mang lại rất

nhiều niềm vui và ở đây cũng bắt đầu xuất hiện tình đoàn kết trong các em. Nói đến

trò chơi tập thể không thể không kể đến những trò chơi sau đây:

3.2.1. Bịt mắt bắt dê

Đối tượng: các em từ 6 – 15 tuổi.

Mục đích:

- Củng cố vận động đi và bò cho trẻ.

- Phát triển khả năng định hướng trong không gian cho trẻ.

- Phát triển các giác quan và khả năng phán đoán cho trẻ.

- Cung cấp kiến thức về thế giới động vật cho trẻ.

53

- Phát triển ngôn ngữ và thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.

Cách chơi:

Trò chơi này diễn ra ngoài trời trong sân bãi. Cần một em xung phong làm dê

và một em xung phong làm “người bắt dê”. Còn tất cả các em có mặt đứng quây

thành một vòng tròn rộng khoanh vùng khu vực tìm bắt dê và dê hoạt động.

Em làm dê và em bắt dê đều được dùng khăn buộc kín cả hai mắt. Khi em

bắt hô “xong” thì cuộc chơi bắt đầu. Dê di chuyển chỗ nào tùy ý, nhưng thỉnh

thoảng phải kêu lên “be be.”. Em bắt dê căn cứ vào tiếng kêu, tiếng bước chân di

chuyển của dê và sự phán đoán của mình lần tìm bắt dê. Dê ngoài tiếng kêu bắt

buộc phải khéo léo di chuyển sao cho không gây nên tiếng động và đoán định

hướng có thể bị đón bắt mà tìm cách tránh. Vì cả hai bên bắt và tránh bị bắt đều bị

bịt kín mắt nên đôi tai và khối óc của hai em phải được huy động tối đa để chơi sao

cho đạt hiệu quả.

Các em ở ngoài vừa xem vừa vui cười mách bảo, gợi ý để làm lạc hướng di

chuyển của dê và người bắt, gây nên những pha gây cấn, bất ngờ kéo dài cuộc chơi.

Dê bị bắt thì lại chơi ván khác. Có thể thay người làm dê và người bắt dê bằng các

em khác.

3.2.2. Trốn tìm

Đối tượng: các em từ 6 – 15 tuổi.

Mục đích:

- Phát triển các giác quan và khả năng phán đoán cho trẻ.

- Rèn luyện cho đôi chân nhanh nhẹn.

- Luyện tập đếm số cho trẻ.

Cách chơi:

Số lượng trẻ chơi từ 6 – 8 trẻ. Lấy một cái cột hay một cây dừa, cây chuối…

làm chuẩn, gọi là “cột đùng”. Một trẻ làm “cái” đọc “nhiều ra ít bị” các trẻ khác

giơ tay lên khi đến chữ “bị” các trẻ đồng loạt giơ tay xuống úp hay ngửa là tùy các

trẻ. Nhưng nếu đa số các trẻ đều ra bề úp (hoặc bề ngửa) mà có một trẻ ra bề ngửa

(hoặc bề úp) thì bị bắt bịt mắt lại cho các bạn trốn. Trong lúc nhắm mắt trẻ đó đọc

số: “năm, mười, mười lăm, hai mưoi…” cho đến “một trăm” thì trẻ tìm dừng lại và

mở mắt ra trẻ nào chưa trốn kịp sẽ thua, còn nếu các trẻ đã trốn hết thì trẻ nhắm sẽ

54

đi tìm.

Những trẻ đi trốn, tìm cách chạy mau về cột đùng, không để cho trẻ đi tìm

bắt được, chạy được về đến cột đùng, tay ôm cột nói một tiếng “đùng”. Trẻ đi tìm,

nếu không bắt được ai thì phải tiếp tục nhắm để chơi lại. Trẻ đi trốn, nếu bị trẻ đi

tìm bắt được thì thay trẻ đi tìm. Trò chơi tiếp tục.

3.2.3. Chọi cỏ gà

Đối tượng các em từ 6 – 7 tuổi trở lên.

Mục đích:

- Rèn luyện sự héo léo cho các em.

- Nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi của các em.

Chuẩn bị: càng nhiều “cỏ gà” càng tốt.

Cách chơi:

Các em tìm trong đám cỏ những cây “cỏ gà”, các em nhổ lấy cả thân, và mỗi

cây cỏ là một con gà. Cây cỏ gà, nơi đầu tròn thành một núm, núm này dính vào

thân cây. Chọi cỏ gà, các em chọi tay đôi, mỗi em có trong tay năm cỏ. Mỗi em lựa

một cây cỏ gà để chọi nhau.

Một em chìa cây cỏ gà của mình ra, để em kia lấy một cây cỏ gà khác đánh

mạnh vào, nhắm nơi đầu cỏ gà dính vào thân cây. Với cái đánh mạnh ấy, và nhằm

trúng nơi cỏ gà dính với thân cỏ, em đánh với sự khéo léo làm đứt đầu cây cỏ của

em kia, nhưng nếu vụng về kết quả có khi trái lại, thay vì cây cỏ bị đánh một lần rồi

lại đến em kia. Em đã đánh trước lại phải chìa cây cỏ gà ra để chịu lấy cái đánh của

em kia.

Ở đây không có sự hơn thua, nhưng các em thích thú khi đánh đứt đầu được

cây cỏ gà của bạn cùng chơi. Hai em cứ thế chơi với nhau cho tới khi nào không

còn tìm thấy cỏ gà thì nghỉ.

3.2.4. Pháo đất

Đối tượng: trò chơi cần từ 2 – 5 em, các em từ 10 tuổi trở lên.

Mục đích:

- Rèn luyện sự khéo tay cho các em.

- Rèn sự điều khiển cánh tay cho chính xác khi ném pháo hay các vật

thể khác.

55

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.

Chuẩn bị: đất sét hay đất bùn nhưng có độ dẻo và không quá mềm hoặc

cứng. Cách chơi:

Các em lấy đất sét nhào nặn thành những quả tròn to ước chừng bằng quả

cam, rỗng ruột, giống như nhưng chiếc nồi đất. em nào nặn xong trước trình cho các

em khác xem và cầm quả giống chiếc nồi đất nơi tay phải, đít nồi nằm ở lòng bàn

tay, miệng nồi chia ra ở phía trên. Em đó đứng dậy và nói lớn: “Pháo nổ, pháo

nang, cả làng chịu chưa?”. Các em đồng thanh trả lời “chịu”. Em đó dang cánh tay

cầm chiếc pháo đập nó xuống đất, vừa đập vừa lựa cho phía miệng pháo giáng

xuống. Miệng pháo úp kín mặt đất trước sức mạnh của em dang tay đập nổ lên tiếng

kêu to như pháo nổ. Như thế là em đã thành công. Nếu em nặn chiếc pháo không

khéo, hoặc đít pháo không đủ mỏng cho pháo có thể nổ khi miệng pháo úp xuống

đất, hoặc miệng pháo không đủ bằng để khi pháo ném xuống đất úp kín mặt đất,

pháo sẽ không nổ.

Pháo cũng không nổ nếu lúc ném pháo em không khéo léo để miệng pháo

hơi kênh không úp kín mặt đất. Như vậy em không thành công, và em đó sẽ bị phạt.

Khi một quả pháo của em khác nổ, làm vỡ một mảnh ở thân pháo, em phải véo một

miếng đất ở đít nơi quả pháo của em hàn vào chỗ vỡ này.

Các em tham dự lần lượt ném pháo của mình, hết lượt lại bắt đầu trở lại. Em

nào pháo nổ càng to thì được ca ngợi. Pháo em nào không nổ bị chê là “pháo lép”

lấy phần pháo của em đó hàn pháo cho các em có pháo nổ.

3.2.5. Nhảy cò chẹp

Đối tượng: các bé gái từ 6 tuổi trở lên, đôi khi các bé trai cũng chơi trò này.

Mục đích:

- Tập cho em sức dẻo dai, khéo léo.

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.

Chuẩn bị: phấn, gạch, một khoảng sân đủ rộng để vẽ bàn “cò chẹp”.

Cách chơi:

Để chơi trò này phải có ít nhất từ hai em trở lên, nếu số lượng quá đông các

em có thể chia nhóm chơi. Các em dùng phấn trắng vẽ trên đất bàn “cò chẹp” (có

thể là bàn cò hình chữ nhật hay bàn cò hình tàu bay).

Để phân biệt thứ tự đi trước đi sau các em dùng một mảnh gạch tương đối

56

vuông vắn. Các em đứng quay lưng vào bàng cò chẹp trên một mức vạch, tung

mảnh gạch lên. Mảnh gạch nào rơi vào trong bàn cò chẹp mà ở cao nhất thì em đó

đi đầu, rồi lần lượt đến các em khác theo thứ tự mảnh gạch rơi thấp hơn. Em nào có

mảnh gạch rơi ra ngoài bàn cò chẹp dù cao nhất cũng phải đi sau cùng. Nếu mảnh

gạch của hai em cùng ở ngoài thì mảnh gạch của em nào gần bàn cò chẹp nhất thì

được đi trước em kia.

Bắt đầu chơi, em thứ nhất tung mảnh gạch vào ô số một nếu mảnh gạch rơi

ra ngoài thì em đó bị hỏng, đến lượt em kế tiếp. Nếu mảnh gạch rơi trúng ô số một,

thì em đó phải nhảy cò vào ô số 2, rồi cò lên tới ô số 8 đối với bàn cò hình tàu bay

(ô số 10 đối với bàn cò hình chữ nhật), rồi trở về ô số 7 rồi lại cò về ô số 2 nhặt

mảnh gạch lên, cò vào ô số 1 rồi cò ra ngoài.

Cứ như thế tiếp tục cho tới hết các ô số. Mỗi lần chỉ được một ô số. Khi chơi

hết các ô số thì các em được quyền mua nhà, nghĩa là các em đứng quay lưng lại với

bàn cò, em thẩy mảnh gạch đúng ô nào thì ô đó là nhà của em, mọi người không

được cò vào đó. Có khi chơi dễ dãi, các em vạch một đường thẳng cho thuê một lối

đi để các em khác nhảy qua. Khi đã có nhà rồi em này khi đến ô nhà thì nhảy vào đó

bỏ chân xuống nghỉ mà không cần phải cò một chân cho đỡ mỏi. Sau đó cò tiếp các

ô số còn lại.

Nếu em nào thẩy nhầm mảnh gạch vào nhà đã được mua thì gọi là cháy nhà

và phải cố gắng chơi để mua nhà đền lại cho em có nhà bị cháy. Nếu trường hợp em

đó có nhà rồi thì giao nhà đó lại cho em kia. Tuy nhiên có trường hợp một số em

làm nhà mình cháy thì lại trở về con số không. Các em chơi cho tới khi toàn bộ ô số

là nhà thì kết thúc và bắt đầu vòng chơi khác nếu muốn.

8

7

9

10

6

7

8

5

4

5

6

3

3

4

2

1

2

1

Hình 1: Bàn cờ hình chữ nhật.

57

. Hình 2: Bàn cờ hình tàu bay.

3.2.6. Làm kiệu

Đối tượng: các em trai từ 10 tuổi trở lên. Nếu có em gái thì chỉ để làm quan

ngồi trên kiệu.

Mục đích:

- Rèn luyện thể lực, lòng can đảm cho các em.

- Tập cho các em tính nhẫn nhục khi bị bắt làm kiệu cho bạn khác

ngồi.

Cách chơi:

Hai em làm kiệu đứng đối diện nhau, mỗi em duỗi thẳng tay trái, còn tay

phải gập lại nắm lấy cánh tay trái này ở phía trong khuỷu tay. Bàn tay duỗi thẳng

của em này nắm lấy cánh tay gập lại của em kia ở ngoài khuỷu tay. Đấy là cái kiệu,

hai em khi đã làm xong kiệu đều ngồi xổm xuống đất, để em thứ ba bước lên kiệu

ngồi. Em thứ ba ngồi kiệu theo thế ngồi nghiêng, hai chân em để lọt vào khoảng

trống trước trong khuỷu tay, và hai tay em có thể quàng lên cổ hai em làm kiệu.

Kiệu đã có người ngồi, hai em làm kiệu từ từ đứng lên, và em ngồi kiệu vẫn

ngồi nguyên trên kiệu. Kiệu được di chuyển theo bước đi của hai em, hai em khiêng

kiệu phải đi nghiêng, các em đi nghiêng như vậy em ngồi kiệu mới tiến thẳng. Đi

một quảng rồi các em nghỉ và tới lượt em khác làm kiệu, em kia ngồi kiệu. Cứ thế

thay phiên nhau làm và ngồi cho tới khi chán mới thôi.

3.2.7. Trò chơi nhà chòi (bày hàng, bán hàng)

Đối tượng: các em gái từ 4 tuổi đến 7 tuổi.

Mục đích:

- Giúp các em nhanh nhẹn trong việc buôn bán, ngã giá, tính nhẩm…

- Tạo cho các em sự ham thích trong việc kinh doanh, buôn bán sau

này.

- Tập cho các em sự giỏi giang trong việc đi chợ.

Cách chơi:

Các em dùng đồ chơi của mình hay bất cứ hoa lá, cây trái, vật gì đó… mà

các em có. Các em bày thành một cửa hàng, cùng với các em khác giả làm người

mua. Các em tưởng tượng rau lá cây… làm cá, thịt hay bất cứ đồ dùng khác để bán.

58

Các em chơi đến khi chán thì nghỉ.

3.2.8. Kéo co

Đối tượng: các em trai từ 10 tuổi trở lên.

Mục đích:

- Rèn luyện chân tay các em thêm cứng cáp, cơ thể nở nang.

- Trò chơi là bài học về tình đoàn kết.

- Thử thách sức chịu đựng khi các em chịu sức kéo của hai bên.

- Rèn luyện sự gan dạ, chịu đựng đau đớn cho các em.

Cách chơi:

Muốn chơi kéo co, các em phải có một số đông, ít nhất mỗi bên từ 5- 6 em

trở lên. Các em chơi kéo co không có dây và cũng không có cột trụ. Các em trực

tiếp dùng tay và dùng sức để kéo.

Các em tham dự chia ra hai bên, mỗi bên nhân số đều nhau. Hai em đứng

đầu mỗi bên thường là những em lớn và khỏe mạnh, các em này được gọi là các em

“đầu dây”. Hai em này nắm lấy tay nhau, tay phải em nọ nắm lấy cổ tay trái em

kia, còn các em khác thì ôm sau bụng em trước để kéo. Bên nào kéo được đối

phương về bên mình là được.

Đang giữa cuộc, nếu vì sức mạnh của đối phương, một em đứng giữa các em

khác vì yếu sức, tay không ôm chặt được bụng em trước, bên em bị tách làm hai

phần, như vậy gọi là “đứt dây”. Bên đứt dây thường bị thua bên kia, vì sức kéo

giảm đi và chỗ đứt dây chưa kịp nối lại, phần đằng trước đã bị sức mạnh của bên kia

kéo về họ. Sau một keo, các em có thể chơi tiếp những keo khác, với sự sắp xếp kẻ

trước người sau lại để tránh đứt dây lần nữa.

3.3. Trò chơi kết hợp đồng dao

3.3.1. Tập tầm vông

Đối tượng: các em từ 5 tuổi đến 10 tuổi.

Mục đích:

- Giúp các em làm quen với nhịp điệu của bài hát.

- Trò chơi luyện óc quan sát, luyện trí nhớ cho các em.

Cách chơi:

Người chị dùng một vật gì nhỏ có thể nắm gọn vào lòng bàn tay được,

thường trươc đây là đồng tiền kẽm. Người chị chia cho em bé thấy đồng tiền với hai

59

bàn tay lật ngửa, đồng tiền nằm trên một trong hai lòng bàn tay, sau đó đưa cả hai

tay lẫn đồng tiền ra sau lưng, nắm lại. Hai nắm tay được đưa về phía trước và hỏi

em bé đồng tiền nằm trong tay nào, qua một câu hát:

“Tập tầm vông

Tay nào không?

Tay nào có?

Tập tầm vó

Tay nào có?

Tay nào không?

Hai nắm tay không chìa thẳng ngay ra cho em mà được đánh vòng vuộc chỉ

trước mắt em, tay nọ đưa ra tay kia đưa vào cùng theo một chiều, hai tay như cuốn

lấy nhau duỗi thẳng ra trước mặt. Em chỉ vào một nắm tay của chị. Chị xòe tay ra,

nếu trong tay có đồng tiền, thì nói: “Đúng!”. Nếu đồng tiền ở trong tay kia, bàn tay

không cũng được xòe ra, và chị nói: “Sai!”. Em chỉ đúng thì đến lượt em giấu đồng

tiền đố chị, và người chị cũng sẽ chỉ đúng hoặc sai bàn tay có nắm đồng tiền.

3.3.2. Oẳn tù tì

Đối tượng: các em từ 6 tuổi trở lên.

Mục đích:

- Rèn luyện khả năng suy đoán cho trẻ.

- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.

- Dùng để quyết định ai đi trước đi sau trong các trò chơi khác.

Cách chơi:

Thường là hai em. Các em đứng đối mặt nhau, hai bàn tay nắm lại. Vừa vung

vẩy vừa nắm tay này vừa xướng lên:

“Oẳn tù tì

Ra cái gì

Ra cái này”

Phải vung vẩy cùng đều nhau, khi đến tiếng “này” cuối cùng thì các em

cùng giơ bàn tay tượng trưng cho: Cái búa (bàn tay nắm chặt), cái kéo (giơ hai ngón

tay trỏ và giữa, còn ba ngón kia quặp lại), cái bao (bàn tay ròe rộng).

Cách tính bị thua:

Búa thắng kéo và thua bao.

60

Kéo thắng bao nhưng thua búa.

Bao thắng búa nhưng thua kéo.

Nếu cùng ra một thứ thì hòa và làm lại.

Với những trò chơi có kết hợp lời đồng dao trên là một kênh học tập về vốn

từ rất tốt đối với các em mọi lứa tuổi. Trò chơi có kèm theo những lời đồng dao làm

cho cuộc chơi thêm ồn ào, náo nhiệt hơn. Đem đến cho các em những bài học giá trị

về cuộc sống, về toán học… Và điều quan trọng hơn hết là đem đến cho các em

những nụ cười vui vẻ nhất.

3.3.3. Mèo đuổi chuột

“Mời bạn ra đây

Tay nắm chặt tay

Đứng thành vòng rộng

Chuột luồn lỗ hổng

Mèo đuổi đằng sau

Chuột cố chạy mau

Trốn đâu cho thoát

Thế rồi chú chuột

Lại hóa vai mèo

Co cẳng đuổi theo

Bắt mèo hóa chuột.”

Đối tượng: Các em thuộc nhiều độ tuổi khác nhau, thông thường từ 7 tuổi trở

lên.

Mục đích:

- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

- Rèn luyện sự nhanh nhẹn cho đôi chân của trẻ.

- Cung cấp cho các em kiến thức về động vật và quy luật “mèo ăn thịt

chuột”.

Cách chơi:

Trò chơi thành từng nhóm, khoảng 7 đến 10 trẻ, đứng thành vòng tròn cầm

tay nhau giơ cao lên đầu, đồng thanh hát. Chọn hai em: một làm mèo, một làm

chuột, đứng ở giữa vòng tròn tựa lưng vào nhau. Khi nào các bạn hát đến câu cuối

cùng thì “chuột” chạy, “mèo” đuổi theo. Chuột chui vào khe nào (giữa hai bạn

61

đứng giơ tay) thì mèo phải chui đúng khe ấy, nếu mèo bắt được chuột thì mèo thắng

cuộc, hai em đổi vai cho nhau. Nếu mèo chui nhầm, phải ra ngoài một lần chơi. Nếu

mèo không bắt được chuột, sau một thời gian quy định của trò chơi, thì hai em đổi

vai cho nhau (chuột làm mèo, mèo làm chuột), trò chơi lại tiếp tục.

3.3.4. Xỉa cá mè

Đối tượng: dành cho các em từ 6 đến 10 tuổi.

Mục đích:

- Cung cấp kiến thức về các loại “men”.

- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

- Giúp trẻ linh hoạt trong việc trả giá, mua bán.

Cách chơi:

Nhiều em cùng chơi, ngồi xếp hàng ngang, hai chân duỗi thẳng, quần vén

cao trên đầu gối. Em trưởng trò ngồi giữa, dùng tay phải vừa xướng lời vừa điểm

đầu ngón trỏ vào từng chân từ trái sang phải và cũng tuần tự ngược lại từ phải sang

trái và cứ lần lượt như vậy cho đến cuối lời bài đồng dao:

“Xỉ cá mè

Đè cá chép

Chân nào đẹp

Đi buôn men

Chân nào đen

Phải làm mèo

Phải làm chó”

Cứ mỗi tiếng điểm một chân. Em nào trúng vào tiếng “men” thì sẽ làm người

đi bán men. Em nào trúng vào “mèo”, “chó” sẽ phải làm mèo, làm chó.

Đến hết bài các em đứng cả dậy. Em buôn men tìm một cái khăn hay cái áo

nào đấy (nhiều khi cởi ngay áo của mình) vắt lên vai làm đẫy đựng men, rồi vừa đi

xung quanh các em vừa rao:

“Trưởng trò hỏi: Một quan bán chăng?

Em bán men: Chăng chăng chẳng bán

Một em khác: Hai quan bán chăng?

Em bán men: Chăng chăng chẳng bán

Các em khác: Ba quan bán chăng?

62

Em bán men: Chăng chăng chẳng bán

Các em khác: Bốn quan bán chăng?

Em bán men: Chăng chăng chẳng bán

Các em khác: Năm quan bán chăng?

Em bán men: Chăng chăng chẳng bán…”

Các em khác cứ lần lượt mà cả giá với em bán men cho đến trả giá mười

quan, cứ hết lượt lại bắt lại từ trưởng trò. Khi đến em trả giá “Mười quan bán

chăng?” thì em bán men đáp: “Chăng chăng bán vậy”. Các em làm động tác trả

tiền và nhận tiền, rồi trao đẫy men cho em trưởng trò.

“Em bán men: Cho tôi mượn cái đòn gánh

Các em: Để làm gì?

Em bán men: Để tôi gánh tiền về

Các em: Đòn gánh nhà không có

Em bán men: Cho tôi xin khúc tre

Các em: Ra vườn mà chặt

Em bán men: Cho tôi mượn con dao”

Em trưởng trò làm động tác lấy dao cho mượn. Em bán men làm động tác

nhận dao rồi đi ra xa, tay vờ cầm dao chặt tre, miệng kêu “Đốp! Đốp!...”. Tức các

em mèo chó lên tiếng. Chó cắn: “Gâu! Gâu!...”. Mèo kêu: “Meo! Meo!...”. Trò

chơi kết thúc.

3.3.5. Dung dăng dung dẻ

“Dung dăng dung dẻ

Dắt trẻ đi chơi

Đến cổng nhà trời

Lạy cậu lạy mợ

Cho cháu về quê

Cho dê đi học

Cho cóc ở nhà

Cho gà bới bếp

Xì xà xì xụp

Ngồi thụp xuống đây.”

63

Đối tượng: các em từ 4 đến 9 tuổi.

Mục đích:

- Phát triển ngôn ngữ và sự nhịp nhàng cho trẻ.

- Cung cấp kiến thức về thế giới động vật cho trẻ.

- Rèn luyện trí nhớ và thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.

Cách chơi:

Trẻ nắm tay nhau thành từng đôi một, hoặc thành hàng ngang 4 – 5 trẻ, vừa

đi vừa hát. Khi đọc đến chữ “dung” thì vung tay về phía trước, đến chữ “dăng” thì

tay vùng về phía sau. Tiếp tục như vậy cho đến cuối cùng thì ngồi thụp xuống. Sau

đó đứng dậy đọc lại từ đầu và chơi tiếp.

Tiểu kết

Hiện nay, sinh hoạt đồng dao không còn rầm rộ, thường xuyên như trước bởi

trẻ em còn phải đến trường và có nhiều phương tiện để giải trí hơn, nhưng sinh hoạt

đồng dao vẫn còn xuất hiện ở một vùng quê ở nông thôn về sự hồn nhiên, vô tư,

trong sáng.

Các loại hình trò chơi phổ biến được đề cập trong chương 3. Trong chương

này chúng tôi sưu tầm và trình bày theo trình tự trò chơi cá nhân, tập thể, trò chơi

kết hợp đồng dao. Tuy nhiên do số lượng trò chơi phong phú cho nên chúng tôi chỉ

trình bày những trò chơi quen thuộc, đơn giản, thường được nhiều trẻ em chơi nhất,

64

một phần cũng chính bản thân đã được chơi.

KẾT LUẬN

Đồng dao là một bộ phận quan trọng trong kho tàng thơ ca dân gian gồm

những lời hát do các em sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu vui chơi của lứa tuổi và

thường gắn với các trò chơi của trẻ em, giúp các em tiếp xúc với môi trường thiên

nhiên, xã hội, đời sống gần gũi với các em, đem lại cho các em những cảm xúc tốt

đẹp, những hiểu biết phù hợp với tâm lý của trẻ. Đồng thời góp phần giáo dục các

em thành những người công dân tốt. Bên cạnh đó, những bài đồng dao, những trò

chơi còn giúp các em trong việc phát triển trí, đức, thể, mỹ… Tạo nền tảng cho các

em phát triển toàn diện khi trưởng thành. Những sáng tác đồng dao thường được ghi

lại trong các bộ sưu tập trò chơi trẻ em, sưu tập ca dao (hay Văn học dân gian nói

chung).

Người viết trên tinh thần tôn trọng những người đi trước, xem các nhìn nhận

đánh giá của các tác giả này như việc mở đường, chí ít cũng là sự chỉ bày, gợi ý.

Đồng thời tự đặt ra trách nhiệm cho mình là kế tục làm sao cho con đường ấy ngắn

nhất để người tiếp nhận có thể tiếp cận vấn đề một cách dễ dàng, thuận tiện.

Mặc dù đã có nhiều công trình bàn đến đồng dao và trò chơi trẻ em, nhưng

không ít vấn đề còn mang tính chất chung, sơ bộ. Điều này cũng nói lên việc cần

thiết phải có mặt một chuyên luận nhằm bàn kĩ và có cái nhìn nhất quán về đồng

dao ở An Giang.

Vấn đề được bàn đến đó là việc định nghĩa đồng dao. Lí do phải xác định là

vì tránh sự nhằm lẫn đồng dao với các thể loại văn học dân gian khác (ca dao, câu

đố, vẻ…). Ở ba mục: tính chất, chức năng, tác dụng được nêu lên nhằm khẳng định

vị trí, vai trò, cũng như tầm quan trọng của đồng dao trong công tác giáo dục, nuôi

dưỡng tinh thần cho trẻ.

Người viết giải quyết các vấn đề về những hiện thực của thiên nhiên, con

người và xã hội loài người trong đồng dao. Mọi thứ hiện lên thật sinh động và ngộ

nghĩnh dưới cái nhìn và sự hiểu biết đơn giản của trẻ thơ. Đó không phải là những

cái gì đó xa lạ mà là những gì gần gũi xung quanh các em, hằng ngày các em nhìn

thấy và sử dụng. Hình ảnh của đồng dao khác biệt với hình ảnh sử dụng trong văn

chương nói chung, ở chỗ mỗi hình ảnh thường được đóng khung riêng không liên

65

quan đến các hình ảnh khác. Chúng phản ánh lối tư duy chưa mạch lạc của trẻ.

Bằng nhiều kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ gần bũi mà đồng dao đi vào tiềm thức của

các em một cách dễ dàng đã góp phần hình thành nguồn tri thức phong phú cho trẻ.

Các loại hình trò chơi phổ biến được người viết sưu tầm và trình bày theo

trình tự trò chơi cá nhân, tập thể, trò chơi kết hợp đồng dao. Tuy nhiên do số lượng

trò chơi phong phú cho nên người viết chỉ trình bày những trò chơi thường thấy các

em chơi nhất. Với mong muốn cung cấp nguồn tài liệu cho công tác giáo dục từ

mầm non đến cơ sở nên người viết trình bày rất cụ thể về đối tượng, mục đích chơi,

cách chơi trong mỗi trò chơi.

Đồng dao thực sự là những sáng tạo thông minh của các tác giả nhỏ vô danh.

Vừa mang tinh giải trí, vừa có tính giáo dục rèn luyện cho trẻ em trong những năm

tháng ấu thơ, các bài đồng dao đã đánh thức, nuôi dưỡng và phát triển trí tưởng

tượng phong phú, hồn nhiên của trẻ em. Có nhiều ý kiến cho rằng đồng dao khiến

trẻ ngoan ngoãn, thuần tính, dễ bảo hơn là những sự răn đe, dọa nạt của người lớn.

Bên cạnh đó, do buộc phải cùng chơi, cùng ca hát, diễn trò theo nhóm nên đồng dao

cũng là cơ hội rèn luyện tính cộng đồng, tình yêu thương đùm bọc cho một đứa trẻ

để chuẩn bị hành trang vào đời trong tương lai. Không ai khẳng định được đồng dao

ra đời từ bao giờ, nhưng chắc chắn một điều, đồng dao là một phần trí tuệ và tài sản

66

văn hóa của dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Nghĩa Dân (2005), Đồng dao Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

2. Nguyễn Nghĩa Dân (2010), Đồng dao và ca dao cho trẻ em, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

3. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội Nhà văn.

4. Nguyễn Hữu Hiệp (2010), Trò chơi dân gian ở An Giang, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

5. Vũ Ngọc Khánh (1993), Thi pháp đồng dao, Tạp chí Văn học, số 5, tr.20- 23.

6. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa dân gian người Việt: Lễ hội và trò chơi

dân gian, Nxb Quân đội nhân dân Hà Nội.

7. Trần Gia Linh (2011), Kho tàng đồng dao Việt Nam, Nxb Giáo dục.

8. Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng

(1997), Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt, Nxb Văn hóa thông tin Hà

Nội.

9. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1969), Đồng dao - Thi ca bình dân, tập 4, Sài

Gòn.

10. Hoàng Mai (2007), Câu đố dân gian Việt Nam, Nxb Thanh Hóa.

11. Thái Phong Minh (1998), Lịch sử trò chơi (Tự Thanh dịch), Nxb Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Thảo Ngọc (2007), Những bài đồng dao và ca dao mới, Nxb Văn hóa thông

tin Hà Nội.

13. Triều Nguyên (2008), Tìm hiểu lối nối vòng trong đồng dao, Tạp chí Ngôn

ngữ và Đời sống, số 7, tr. 31- 33.

14. Triều Nguyên (2010a), Đồng dao người Việt, Nxb Thuận Hóa.

15. Triều Nguyên (2010b), Tìm hiểu về đồng dao người Việt, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

16. Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội và

trung tâm Từ điển học phối hợp xuất bản, Hà Nội.

17. Nguyễn Hữu Thu (1986), Diễn xướng đồng dao, Tạp chí Văn học, số 4, 79-

67

91.

18. Nguyễn Hữu Thu (1987), Mẹ hát ru con, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

19. Phan Trọng Thưởng, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn (1999), Tuyển tập 40

năm Tạp chí văn học (1960 – 1999), tập 1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1983), Tìm hiểu dân ca Nam Bộ (Chuyên khảo),

68

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.