TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM
NGƯỜI VIỆT Ở AN GIANG
DƯƠNG PHƯƠNG CẢNH
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM
NGƯỜI VIỆT Ở AN GIANG
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. TĂNG TẤN LỘC DƯƠNG PHƯƠNG CẢNH
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã gặp không ít khó khăn, nhưng
nhờ sự giúp đỡ của thầy và bạn bè đã giúp tôi vượt qua khó khăn đó. Qua đây tôi
xin gởi lời chân thành cám ơn đến:
Quý thầy cô, các anh chị trong thư viện Thành phố Cần Thơ, thư viện Thành
phố Vĩnh Long, trung tâm học liệu Trường Đại học Cần Thơ, cùng với các thầy cô
Khoa khoa học cơ bản, cán bộ của thư viện Trường Đại học Võ Trường Toản luôn
luôn quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện có thể để giúp tôi sớm hoàn thành tốt
khóa luận.
Đặc biệt tôi ghi lòng cảm ơn đến thầy Tăng Tấn Lộc - GV hướng dẫn đã
dành nhiều thời gian quý báu của mình truyền đạt kiến thức lẫn kinh nghiệm, tận
tình hướng dẫn giúp tôi tìm được hướng đi và phương pháp cụ thể trong quá trình
thực hiện khóa luận.
Đây cũng là lần đầu tiên tôi nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp, trong quá trình
thực hiện có nhiều sai sót và khuyết điểm. Kính mong quý thầy cô và các bạn thông
cảm và đóng góp ý kiến để tôi có thể hoàn thiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
i
Dương Phương Cảnh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề
tài nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
ii
Dương Phương Cảnh
MỤC LỤC
trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................... 4
4. Giới hạn vấn đề ............................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM
1.1. Những vấn đề chung về đồng dao ........................................................... 6
1.1.1. Định nghĩa đồng dao .............................................................................. 6
1.1.2. Tính chất .................................................................................................. 7
1.1.3. Chức năng ................................................................................................ 9
1.1.4. Tác dụng................................................................................................. 13
1.2. Những vấn đề chung về trò chơi trẻ em ............................................... 15
1.2.1. Nguồn gốc.............................................................................................. 15
1.2.2. Bản chất ................................................................................................. 16
1.2.3. Tác dụng................................................................................................. 16
Tiểu kết ............................................................................................................... 18
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT
Ở AN GIANG
2.1. Đặc điểm nội dung...................................................................................... 19
2.1.1. Thế giới tự nhiên................................................................................... 19
2.1.2. Thế giới vật thể nhân tạo ..................................................................... 28
2.1.3. Con người và xã hội loài người .......................................................... 29
2.2. Đặc điểm nghệ thuật .................................................................................. 33
2.2.1. Kết cấu ................................................................................................... 34
2.2.2. Ngôn ngữ ............................................................................................... 37
2.2.3. Thể thơ ................................................................................................... 43
iii
Tiểu kết ................................................................................................................. 48
CHƢƠNG 3: TRÒ CHƠI TRẺ EM NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG
3.1. Trò chơi cá nhân ......................................................................................... 49
3.1.1. Trò chơi nhảy dây ................................................................................. 49
3.1.2. Lộn tùng phèo ...................................................................................... 50
3.1.3. Thổi bong bóng ..................................................................................... 50
3.1.4. Mảnh thiếc quay.................................................................................... 51
3.1.5. Bắt chuồn chuồn ................................................................................... 51
3.1.6. Vòng cổ .................................................................................................. 52
3.1.7. Kèn lá cây .............................................................................................. 53
3.2. Trò chơi tập thể........................................................................................... 53
3.2.1. Bịt mắt bắt dê ........................................................................................ 53
3.2.2. Trốn tìm ................................................................................................. 54
3.2.3. Chọi cỏ gà .............................................................................................. 55
3.2.4. Pháo đ ất.................................................................................................. 55
3.2.5. Nhảy cò chẹp ......................................................................................... 56
3.2.6. Làm kiệu ................................................................................................ 58
3.2.7. Trò chơi nhà chòi (bày hàng, bán hàng) ............................................ 58
3.2.8. Kéo co .................................................................................................... 59
3.3. Trò chơi kết hợp đồng dao ....................................................................... 59
3.3.1. Tập tầm vông......................................................................................... 59
3.3.2. Oẳn tù tì.................................................................................................. 60
3.3.3. Mèo đuổi chuột ..................................................................................... 61
3.3.4. Xỉa cá mè ............................................................................................... 62
3.3.5. Dung dăng dung dẻ............................................................................... 63
Tiểu kết ................................................................................................................. 64
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 65
iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 67
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay những bài đồng dao và trò chơi dân gian cho trẻ em đang bị lãng
quên, đang bị sản phẩm công nghệ cao lấn át phần nào. Trẻ em hôm nay khá đầy đủ
về vật chất nhưng đời sống tinh thần đang mất dần những yếu tố đã từng là một
phần thiết yếu của nhiều thế hệ trước đây. Đến với đồng dao tôi như hòa mình vào
thế giới tuổi thơ hồn nhiên trong sáng, với thiên nhiên vô tận ta thấy lòng mình trở
nên thanh thản hơn.
Tìm hiểu đồng dao giúp tôi có điều kiện tiếp cận và hiểu sâu hơn về truyền
thống văn hóa Việt Nam, xuôi về với cội nguồn của dân tộc. Trẻ em là mầm non
của đất nước, là tương lai của dân tộc. Chính vì vậy mà việc giáo dục trẻ hiểu biết
sâu sắc về cội nguồn là việc làm hết sức quan trọng, đòi hỏi các nhà giáo dục phải
quan tâm hàng đầu. Nhưng có lẽ hầu như họ đã quên một phương pháp giáo dục
đầy hiệu quả mà chúng ta sẵn có: Đó là kho tàng đồng dao và trò chơi trẻ em.
Những trò chơi đã đến với trẻ thơ một cách nhẹ nhàng theo kiểu “vừa học vừa
chơi”, qua những bài đồng dao theo cách nói vần, đồng dao đã làm tốt chức năng
biểu đạt ý, giáo dục nhận thức, bồi dưỡng tình cảm cho trẻ.
Bên cạnh đó, các bài đồng dao còn đem lại nhiều lợi ích trong việc giáo dục
trẻ từ việc phát triển ngôn ngữ, tâm hồn trẻ đến vận động thể chất. Mặt khác, xã hội
ngày càng phát triển, sự xuất hiện và thống trị của khoa học kỹ thuật, công nghệ
thông tin đã đem đến rất nhiều tiện nghi, lợi ích cho cuộc sống nhưng đồng thời
cũng đẩy con người vào những tất bật, ngột ngạt, xô bồ của một xã hội cơ khí và tự
động hóa. Những chính sách mở cửa, hội nhập với các nước giúp ta có điều kiện
tiếp xúc với các nền văn hóa, tri thức mới tiên tiến trên thế giới. Khi bản sắc văn
hóa truyền thống của dân tộc có dấu hiệu bị mai một cũng là lúc người ta bắt đầu có
ý thức tìm về với cội nguồn, bản nguyên.
Từ cơ sở đó tôi nhận thấy rằng công tác khảo sát, nghiên cứu đồng dao là
một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Nó phù hợp với xu hướng của thời đại, góp phần
làm sống lại những tinh hoa văn hóa của dân tộc và kêu gọi ý thức giữ gìn truyền
thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta.
Những bài đồng dao và trò chơi trẻ em vô cùng phong phú và đa dạng nhưng
1
chủ yếu được các thế hệ truyền miệng cho nhau. Mặc dù hiện nay đã có những công
trình nghiên cứu về Đồng dao và trò chơi trẻ em Việt Nam nói chung nhưng việc
nghiên cứu và sưu tầm đồng dao đó chưa được toàn diện. Riêng ở những người
bằng với sự thích thú và đam mê về những trò chơi đồng dao đã thôi thúc, thì chưa
có một công trình sưu tầm, một tập hợp các sáng tác, nghiên cứu nào về đồng dao
và trò chơi trẻ em đầy đủ… Do đó là người con của đất nước, tôi muốn được góp
một phần nhỏ công sức của mình trong việc sưu tầm và gìn giữ những bài đồng dao
và trò chơi trẻ em của quê hương mình.
Chính vì những lí do trên tôi quyết định chọn “Đồng dao và trò chơi trẻ em
người Việt ở An Giang” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề tập hợp, sưu tầm và phân loại đồng dao cũng đạt được một số thành
tựu đáng kể, đã bắt đầu xuất hiện những công trình về giới thiệu và phân loại đồng
dao:
Quyển Đồng dao Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Dân gồm 2 phần:
Phần một gồm: Đồng dao và hệ thống đồng dao – Tính chất, chức năng và
tác dụng của đồng dao – Nội dung của đồng dao – Đặc điểm thi pháp của đồng dao.
Phần hai gồm: Sưu tầm – Tuyển chọn – Với 5 mục – Đồng dao: Đồng dao
trẻ em hát – Đồng dao: Đồng dao trẻ em hát – trẻ em chơi – Đồng dao: Hát ru, Trẻ
em đố vui, Ca dao cho trẻ em – Phụ lục: Đồng dao của một số dân tộc thiểu số.
Quyển Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt của Nguyễn Thúy Loan,
Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng (Sưu tầm, biên soạn): Trong
công trình này, nhóm tác giả đã kế thừa và phát huy nhiều cuốn sách viết về đồng
dao và trò chơi trẻ em ra đời trước đó (39 cuốn sách đã xuất bản và cả những tài liệu
sưu tầm công bố) để biên soạn. Các tác giả giới thiệu mảng đồng dao và trò chơi trẻ
em của người Việt, hầu hết đều thuộc thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám (1945).
Và ở phần Đồng dao dưới con mắt các nhà nghiên cứu chỉ tập hợp được 14 bài viết
trên tạp chí hoặc chương mục trong sách.
Quyển Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm đã chia đồng dao ra
thành nhiều loại, như: Các bài hát trẻ em (Thằng Bờm), các bài ru trẻ (Bao giờ cho
đến tháng mười), các bài dạy những điều thường thức (Mồng một lưỡi trai).
Quyển Văn hóa dân gian người Việt, lễ hội và trò chơi dân gian của Vũ
2
Ngọc Khánh, tác giả cũng có một phần nói về trò chơi dân gian. Trong đó tác giả có
nhắc đến một số trò chơi cho trẻ em nhưng chỉ ở mức độ diễn giải, giới thiệu trò
chơi. Còn lại phần nhiều tác giả giới thiệu và diễn giải một số hoạt động diễn ra
trong các lễ hội làng mang đậm sắc thái riêng của từng vùng, miền.
Quyển Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan thì cũng chỉ vài
trang (từ trang 735 đến trang 758) gồm những bài hát ru em và hát vui chơi.
Trong Lịch sử văn học Việt Nam – Văn học dân gian (tập 2) của Đinh Gia
Khánh, Chu Xuân diên. Sách đã đề cập đến bài Gọi nghé. Đó là bài ca của trẻ em
chăn trâu, chăn bò hát để gọi súc vật ra đồng, về chuồng hoặc những bài đồng dao
gắn liền với hình thức nghi lễ trong sinh hoạt lao động.
Bài viết “Mấy điều ghi nhận về đồng dao Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh
mang tính chất “ghi nhận” về mấy điều cơ bản của đồng dao Việt Nam, bao gồm
nội dung, hình thức nghệ thuật và tác dụng của đồng dao đối với sự hình thành nhân
cách của trẻ em.
Quyển Kho tàng đồng dao Việt Nam của Trần Gia Linh đã tuyển chọn gần
300 bài đồng dao với 6 chủ đề lớn:
Đồng dao về thiên nhiên đất nước
Đồng dao với trò chơi của tuổi thơ
Đồng dao – những bài ca tập làm lao động
Đồng dao – cái nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ
Đồng dao – những câu đố lí thú
Những bài hát ru.
Quyển Tìm hiểu về đồng dao người Việt của Triều Nguyên đã xác định được
đồng dao là một thể loại văn học dân gian, đồng đẳng với ca dao, tục ngữ, câu đố…
đã đề xuất một hướng phân loại đồng dao dựa vào mục đích hát và độ tuổi.
Quyển Mẹ hát ru con của Nguyễn Hữu Thu cũng đã đề cập đến đồng dao
nhưng dưới hình thức hát ru và diễn xướng đồng dao. Bên cạnh đó thì tác giả cũng
sưu tập một số lời ca chị hát ru em, trẻ em hát, và những câu hát trò chơi nói chung
của Việt Nam chứ không phải của riêng một khu vực nào.
Bài viết “Bước đầu tìm hiểu đồng dao trong hệ thống nghiên cứu thơ cho nhi
đồng” của Lã Thị Bắc Lý. Tác giả đã dành từ trang 116 đến trang 121 để đánh giá
tác dụng và ý nghĩa giáo dục của đồng dao đối với thiếu niên nhi đồng: “Chúng ta
3
sẽ gặp trong đồng dao cả một thế giới trẻ thơ vô cùng phong phú. Cuộc sống trẻ
thơ, sinh hoạt trẻ thơ in đậm dấu ấn trong đồng dao đến nỗi mỗi chữ, mỗi câu đọc
lên đều thấy một mảnh đời của các em trong đó. Có nhiều bài đồng dao kèm theo cả
trò chơi đến nay vẫn còn giữ nguyên chất hồn nhiên, tươi mát và hấp dẫn các em
như bài ca và trò chơi giung giăng giung giẻ, thả đỉa ba ba…”. Và Lã Thị Bắc Lý
còn đề xuất một cách đầy tâm huyết và có trách nhiệm: “Với tất cả tính chất đặc
thù, với nội dung và ý nghĩa lớn lao như thế, đồng dao đã nhanh chóng đứng vào vị
trí quan trọng của thơ cho nhi đồng. Trong tình hình giáo dục nhi đồng hiện nay,
theo chúng tôi nên dạy đồng dao và sáng tác thêm nhiều đồng dao mới cho các em.
Đồng dao là một thể loại đặc thù của thơ cho nhi đồng, có sức sống đặc biệt trong
lòng trẻ thơ và có ý nghĩa giáo dục đặc biệt đối với các em lứa tuổi nhi đồng và
mẫu giáo. Phải phổ biến rộng rãi đồng dao trong các em, phải sáng tác thêm nhiều
đồng dao mới cho phù hợp với các em, ấy là nhiệm vụ của người làm công tác giáo
dục và những người cầm bút phục vụ các em”.
Thi ca bình dân của Nguyễn Tấn Long – Phan Canh đã luận bàn về nguồn
gốc và tác dụng của đồng dao trong sinh hoạt nhi đồng, trích dẫn 60 bài đồng dao cổ
và 39 bài đồng dao mới của hai tác giả Minh Hương và Trần Trung Phương.
Bài viết “Đồng dao với cuộc sống của dân tộc Thái ở Tây Bắc” của Tô Ngọc
Thanh mang tính chất điểm qua một số nội dung sinh hoạt đồng dao của dân tộc
Thái ở vùng Tây Bắc (Việt Nam).
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt ở An Giang”,
chúng tôi muốn hướng đến việc tìm ra nét riêng độc đáo của đồng dao và trò chơi
trẻ em ở An Giang so với các vùng miền khác. Qua đó, người đọc có thể thấy được
cái hay, cái mới, cái hồn nhiên gần gũi của đồng dao và trò chơi trẻ em của người
Việt ở An Giang. Đồng thời có cái nhìn toàn diện hơn về tiến trình phát triển đồng
dao và trò chơi.
Qua đó, cho thấy rõ hơn về sự ngây ngô, sự hồn nhiên yêu đời lúc còn thơ,
và đầy kỷ niệm khó có thể quên của mỗi người.
4. Giới hạn vấn đề
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu chính của người viết là đồng dao và trò
chơi trẻ em người Việt ở An Giang. Tuy nhiên, với sự hiểu biết của bản thân, người
4
viết phần nào tiếp cận đồng dao và trò chơi được sinh hoạt trong đời sống của trẻ
em ở An Giang nói riêng và các tỉnh lân cận của Đồng Bằng sông Cửu Long nói
chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Vui chơi là nhu cầu cần thiết của trẻ em. Các trò chơi dân gian của trẻ thì
phần lớn gắn với các bài đồng dao. Mà đồng dao lại có vai trò rất lớn trong việc
giáo dục, hình thành và phát triển nhận thức, đức, trí, thể, mỹ cho trẻ em.
Chính vì điều này mà người viết đã tiến hành thực hiện phương pháp thống
kê, phương pháp phân loại, phương pháp miêu tả, sưu tầm, tuyển chọn một số bài
đồng dao và trò chơi trẻ em. Đồng thời cũng góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam nói chung và An Giang nói riêng.
Ngoài ra, người viết tìm đọc, nghiên cứu và tham khảo các tài liệu có liên
quan trên sách, báo, tạp chí… chú ý chọn và sưu tầm các bài đồng dao và trò chơi
trẻ em có liên quan đến đề tài này. Cùng với phương pháp nghiên cứu liên ngành,
lịch sử học, dân tộc học mà người viết tiến hành điều tra tài liệu, tổ chức văn thảo
5
để đúc kết vấn đề lại đưa ra cái nhìn khái quát nhất.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI TRẺ EM
NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG
1.1. Những vấn đề chung về đồng dao
1.1.1. Định nghĩa đồng dao
Cho đến nay đồng dao có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Mỗi một tác giả
sẽ có những nhận định khác nhau. Sau đây là một số khái niệm về đồng dao:
Theo Nguyễn Nghĩa Dân cho biết: “Đồng dao là những lời mộc mạc, hồn
nhiên, có vần, được trẻ em truyền miệng cho nhau hoặc hát đồng thanh theo nhịp
điệu đơn giản trong lúc vui chơi hoặc tiến hành các trò chơi dân gian của lứa tuổi
thiếu nhi.” [1; 12].
Theo Triều Nguyên: “Đồng dao là một thể loại của văn học dân gian, thuộc
phương thức biểu đạt tự sự bằng văn vần, gồm phần lời của những bài hát dân gian
trẻ em (những bài hát ấy có thể kèm theo trò chơi hay không).” [14; 70].
Theo Lư Nhất Vũ – Lê Giang: “Đồng dao là loại ca hát của trẻ em trong lúc
vui chơi giải trí, đùa giỡn. Các bài đồng dao thường ngắn gọn, súc tích, câu cú
mạch lạc, mang tính tiết tấu rõ ràng để các em nhỏ dễ hát và dễ nhớ”. [20; 119].
Theo Dương Quảng Hàm cho biết: “dao là hát không có chương có khúc”
[3; 9].
Theo Nguyễn Tấn Long, Phan Canh cho rằng: “đồng dao tức là ca dao nhi
đồng: [9; 368].
Trần Gia Linh định nghĩa: “Đồng dao là những bài hát dân gian có nội dung
và hình thức phù hợp với trẻ em, thường do trẻ em hát.” [7; 3].
Theo Vũ Ngọc Khánh xác định “xin tạm dùng hai chữ đồng dao để chỉ lời ca
dân gian trẻ em, bao gồm cả những lời trong các trò chơi”. [6; 1].
Theo Nguyễn Hữu Thu cho rằng: “đồng dao là sự nối tiếp chức năng của
tiếng hát mẹ ru con, nhưng ở một cấp độ cao hơn…, diễn xướng đồng dao là sự
chuyển tiếp và phát huy vai trò tiếng hát ru của mẹ.” [18; 60].
Theo Hoàng Phê nêu định nghĩa đồng dao như sau: “lời hát dân gian thường
6
kèm theo một trò chơi nhất định” [16; 331].
Theo Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần
Hoàng cho rằng: “đồng dao là những bài hát truyền miệng của trẻ em lứa tuổi nhi
đồng và thiếu niên. Vốn là những sáng tác dân gian không rõ tên tác giả, về sau từ
vần điệu của loại hình này, một số người sáng tác những bài thơ cho trẻ em hát, có
tên tác giả cũng được các nhà nghiên cứu gọi là đồng dao.” [8; lời nói đầu].
Như vậy, từ những định nghĩa trên có thể hiểu rằng đồng dao là những lời
hát dân gian mộc mạc, hồn nhiên của trẻ em và phần nhiều được trẻ em sáng tác
trong lúc vui chơi.
1.1.2. Tính chất
Đồng dao cũng giống như ca dao dân gian phần nhiều được truyền miệng
cho nhau. Truyền từ người này sang người khác và truyền từ vùng này sang vùng
khác. Với ngôn ngữ mộc mạc mà những bài đồng dao đi vào lòng trẻ một cách mau
lẹ. Những bài đồng dao ấy phần nhiều là do những tác giả “trẻ em” của chúng ta
sáng tạo nên trong lúc vui chơi. Với bọn trẻ hình thức truyền miệng là hình thức
đơn giản và chủ yếu nhất. Trẻ em này hát và dạy lại cho trẻ em khác và trẻ em khác
lại truyền lại cho trẻ em khác nữa. Thế là bằng phương pháp thông tin ấy mà các bài
hát đồng dao nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi.
Thực tế, với trẻ nhỏ thì đây là những bài hát phù hợp với lứa tuổi, với nhận
thức của trẻ. Do vậy, khi được hát những bài hát đồng dao do trẻ tự sáng tạo ra nên
trẻ vô cùng thích thú. Trong mỗi lời hát là cả một thế giới thiên nhiên rộng lớn tạo
nên óc tò mò, quan sát và từ đó trẻ thích thú, say sưa vui hát. Tùy vào nhận thức,
lứa tuổi của mỗi bé mà những bài đồng dao sẽ được sáng tạo theo những ngôn ngữ
riêng. Với tính chất truyền miệng mạnh mẽ nên dẫn đến tính nhiều dị bản của đồng
dao. Sự dị bản này là do các em tự thay đổi ngôn ngữ, nhịp điệu cho phù hợp với
nhận thức cũng như với mục đích vận dụng của bọn trẻ. Mặt khác, thì sự dị bản này
cũng một phần do người lớn tác động vào vì có thể người lớn sáng tạo bài đồng dao
này nhằm vào mục đích khác. Một số ví dụ cho thấy rất rõ về tính nhiều dị bản của
đồng dao như những bài đồng dao về chim, về cá, về hoa… là những bài rất nhiều
dị bản. Lời hát Nu na nu nống, hay Chi chi chành chành có ít nhất từ 5 – 7 dị bản.
Có những dị bản khác nhau về lời hát, về số dòng và cũng có dị bản khác nhau về
7
tiếng địa phương…
Bên cạnh đó, qua khảo sát thực tế cho thấy rằng có rất nhiều trường hợp trẻ
em đã tự đặt lấy bài hát đồng dao và trò chơi cho mình. Lúc đầu còn ở dạng thô sơ,
đơn giản bởi tư duy của các em chưa cao nhưng một khi đã phù hợp với các em thì
sẽ được phát triển bổ sung thêm cho đến mức tương đối hoàn chỉnh.
Như vậy, là một thành phần trong kho tàng văn học dân gian, đồng dao cũng
có những đặc trưng của bộ môn này, tất nhiên là ở từng đặc trưng, cách biểu hiện
cũng có những khía cạnh độc đáo. Riêng phương pháp sáng tác đồng dao, có thể có
những quy luật riêng không giống phương thức chung của nhiều thể loại thơ ca dân
gian khác. Nhìn chung về tính chất của đồng dao cũng như tục ngữ, ca dao đều
được lưu hành bằng phương thức truyền miệng, mang tính dị bản rất rõ ràng. Nhưng
tính dị bản của đồng dao có phần tự do hơn đôi chút. Tự do ở đây không phải có
nghĩa là bừa bãi, các yếu tố thu nhập vào vần phải tuân theo khuôn mẫu nhất định.
Và chính trong quá trình chơi thì các em nhỏ sẽ lọc lựa và đào thải, chỉ giữ lại dị
bản nào phù hợp với tri thức của đám trẻ em trong vùng đó mà thôi. Đồng dao do
được lưu truyền trong không gian và thời gian, quá trình này có thể sẽ làm cho tác
phẩm trở nên sâu sắc hơn về nội dung, chặt chẽ thêm về kết cấu, trau chuốt hơn về
nghệ thuật ngôn từ, nhưng sự lưu truyền ấy cũng có thể làm cho cấu trúc tác phẩm
bị phá vỡ mất dần đi hoặc trở thành bộ phận cấu thành của một tác phẩm mới.
Đồng dao còn mang đậm tính tập thể. Có như thế thì đồng dao mới tồn tại và
lưu truyền được. Tính tập thể của đồng dao không chỉ thể hiện trong mối quan hệ
giữa trẻ em với trẻ em mà còn thể hiện mối quan hệ giữa người lớn với trẻ em.
Trong một số câu hát, một số bài đồng dao có thể do người lớn đặt ra nhưng
thông qua sự chọn lọc và thay đổi của trẻ thì đồng dao đó mới được trẻ chấp nhận.
Biết được tâm sinh lí của trẻ nhỏ nên người lớn đặt ra các bài đồng dao thật phù hợp
với lứa tuổi của trẻ để trẻ cảm thấy được niềm vui khi tiếp nhận. Làm cho trẻ thêm
gần gũi với người lớn hơn vì trẻ hiểu được rằng người lớn không phải lúc nào cũng
khó tính, mà ngược lại rất yêu thương trẻ và luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho trẻ.
Đồng thời, qua đó thì người lớn cũng sẽ hiểu nhiều hơn về trẻ, biết được trẻ muốn
gì và nhận thức của trẻ đã đến đâu. Nhờ đó mà khoảng cách giữa người lớn và trẻ
ngày càng nhích lại gần hơn. Mặc dù, có đôi lúc những bài đồng dao do trẻ em tự
sáng tác nên nhưng người lớn cũng góp phần bổ sung chỉnh sửa thêm. Nhưng tất cả
8
chỉ để tạo nên mối quan hệ tốt đẹp, thân thiện, gần gũi giữa trẻ và người lớn.
Nhờ những câu hát đồng dao mà trẻ em đã biết tập hợp lại để đùa vui xung
quanh làng xóm. Qua đó giúp trẻ có ý thức được giá trị của tập thể cho nên trẻ bắt
đầu biết tham gia sinh hoạt đồng dao và cũng là lúc trẻ bước vào sinh hoạt văn hóa
tập thể một cách tự nguyện.
Ngoài ra, đồng dao còn có một tính chất hết sức quan trọng đó là tính chất
gắn liền với trò chơi. Tính chất này thể hiện rất rõ trong “đồng dao trẻ em hát – trẻ
em chơi”. Bởi lời của đồng dao gắn liền với trò chơi. Đây cũng là một trong những
đặc điểm khác biệt của đồng dao để chức năng thẩm mỹ của đồng dao thêm rõ hơn.
Trong trò chơi trẻ em biết cách vận dụng đồng dao thì sẽ làm trò chơi thêm sinh
động. Còn trong đồng dao có bổ sung thêm trò chơi thì tập luyện được cho trẻ cả
mỹ học lẫn thể dục. Những bài đồng dao giữ vai trò điểm nhịp cho trò chơi, lời hát
của đồng dao gắn liền với trò chơi và có mối quan hệ mật thiết với trò chơi. Tuy
nhiên, thì cũng có một số bài đồng dao với lời hát không có liên quan gì đến trò
chơi chủ yếu chỉ vang lên như một mệnh lệnh. Bên cạnh đó, ở một số bài đồng dao
có kèm trò chơi, thì đồng dao trở thành phương tiện để chơi trò chơi, không có
chúng thì không thể chơi được.
Tính chất vui chơi phù hợp với tâm sinh lí trẻ em. Thật vậy, đồng dao là
những bài hát phần nhiều do trẻ em sáng tác ra vì thế nó phù hợp với tâm sinh lí của
các em. Do vậy mà nó mang tính chất giải trí rất cao, nhưng sự giải trí ấy phù hợp
với tư duy của trẻ nhỏ. Nếu những bài đồng dao do người lớn sáng tác thì cũng dựa
vào kiến thức về tâm lí của trẻ nhỏ có như vậy mới được trẻ nhỏ chấp nhận.
Mặt khác, ở lứa tuổi các em thì nhận thức, tư duy lôgic chưa cao cho nên trẻ
em chỉ hát những bài hát một cách ngây ngô nhưng không phải trẻ không hiểu mà
trẻ chỉ hiểu theo tư duy riêng của trẻ. Trẻ con bao giờ cũng là trẻ con, ngô nghê đến
lạ kỳ, trong sáng đến lạ kỳ… Trẻ em hát đồng dao chỉ để nhằm mục đích vui chơi,
giải trí nhưng đến một lúc nào đó bài đồng dao ấy đi vào tiềm thức của trẻ đến khi
trẻ lớn hơn thì trẻ sẽ nhận ra được giá trị của đồng dao.
1.1.3. Chức năng
Đồng dao có những đóng góp quan trọng trong cuộc sống. Các chức năng
chủ yếu của đồng dao là chức năng giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ và cả chức năng
9
giải trí.
Thật vậy, ông bà ta nhận thấy rằng để giáo dục trẻ em phải thông qua con
đường cảm tính là hiệu quả nhất. Với tình mẹ tràn trề, thấm thía qua những bài hát
ru:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Rồi đến tình cảm với những vật gần gũi như: cào cào, con trâu, con cua…
cây chổi, con dao… Trong lời hát truyền cho các em sự cảm thông nồng ấm để từ
đó các em thêm yêu thiên nhiên, yêu lao động và yêu mọi người hơn. Từ tình yêu
với con kiến, con sâu… Khi các em lớn thêm vài tuổi các em tiếp xúc, tham gia
đồng áng với người lớn các em sẽ biết quý trọng những dụng cụ lao động, yêu con
trâu, con cò… Tất cả được trẻ em thích thú vì nó phù hợp với đặc điểm trí lực của
các em. Sức chú ý của các em chưa tập trung, tư duy lôgic các em khác hẳn người
lớn. Điều cần cho các em là tiếp thu ngoại vật bằng ấn tượng, chứ không bằng lý
luận. Do đó nhận thức của các em qua đồng dao là nhận thức cảm tính, quan sát,
tiếp cận môi trường tự nhiên, xã hội gần mình, có thể thấy được, nghe được nhưng
chưa phân tích được, chưa suy luận được. Do vậy, đồng dao cung cấp cho trẻ kiến
thức không là kiến thức hệ thống như tư duy người lớn mà là trình bày liệt kê, dừng
lại ở nét bên ngoài dễ nhớ, dễ phân biệt, kích động trí tò mò ở trẻ em. Đó là những
bài đồng dao dạy các em phân biệt giống vật:
“Chàng chàng lót ổ bụi tre
Chèo bẻo lót ổ mái đình.”
Rồi dạy các em chơi chữ, tập quan sát cuộc sống xung quanh mình:
“Mồng một lưỡi trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mồng bốn lưỡi liềm
Mồng năm liềm gặt
Mồng sáu thật trăng”
Hay:
10
“Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi, nhện hỡi mày đi đằng nào.”
Bên cạnh những kiến thức tự nhiên mà các trẻ nhỏ biết được qua đồng dao
thì đồng dao còn là cả một kho kiến thức xã hội, về hội hè, đình đám, về đồ ăn, thức
uống:
“Con gà cục tác là chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.”
Riêng đối với những em chuẩn bị bước sang tuổi hoa niên thì đồng dao mang
đến cho các em tổng thể những kiến thức về nghề nhiệp trong xã hội sau này: “Ông
thầy có sách, thợ ngạch có dao, thợ rèn có búa…”.
Đồng dao giúp các em nhận thức về những điều tốt, xấu trong cuộc sống như
thói hư tật xấu, sự lười nhác:
“Ăn thì muốn những miếng ngon
Làm thì một việc cỏn con chẳng làm.”
Hay:
“Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cờ bạc
Đầu hôm xao xác
Bạc tốt như tiên
Đêm khuya hết tiền
Bạc như chim cú
Cái đầu sù sụ
Con mắt trõm lơ
Hình đi phất phơ
Như con chó đói
Chân đi cà khói
Dạo xóm dạo làng
Quần rách lang thang
Lấy tay mà túm…” 11
Mặc dù, đồng dao là do các em hát trong lúc vui chơi hay lúc chơi trò chơi
hay chỉ là “những đoạn chắp vá, gặp đâu nói đó, chỉ cốt vần vè, còn ý nghĩa chung
thì rời rạc, câu nọ xọ sang câu kia, đang nói chuyện này lại bắt sang chuyện khác”
[8; 719], nhưng đồng dao đem đến rất nhiều nhận thức bổ ích cho trẻ em về cuộc
sống, về thiên nhiên, xã hội, về mọi thứ xung quanh.
Theo Nguyễn Nghĩa Dân thì đồng dao bao gồm 5 loại: “đồng dao trẻ em hát,
đồng dao trẻ em hát – trẻ em chơi, đồng dao hát ru, đồng dao trẻ em đố vui, ca dao
cho trẻ em” [1; 13]. Cả kho tàng phong phú đó là phương tiện giáo dục trí, đức, thể,
mỹ cho các em. Qua đó phát triển tâm lí, thể lực, trí tuệ và nhân cách của các em
trong tương lai.
Những lời hát đồng dao giáo dục cảm xúc cho các em trong quan hệ với
thiên nhiên, xã hội, với sinh hoạt cộng đồng tập thể. Đồng dao là môi trường hoạt
động vui chơi của trẻ, qua đó rèn luyện cho trẻ cả về thể lực lẫn trí lực. Từ những
bài đồng dao đó rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ từ bập bẹ đến thành tiếng, hát thành lời,
đồng thời tiếp xúc với nhiều từ ngữ mới. Có thể nói đồng dao là một cuốn từ điển
thiết thực, sống động chứa đựng một kho tàng từ vựng phong phú. Đối với các em
nhỏ, thì trong một số bài đồng dao số lượng từ còn ít nhưng ở các trò chơi cho tuổi
lớn hơn, trong một bài hát có chứa hàng chục từ. Cụ thể như bài “Chuyền thẻ” chứa
các cụm từ con trai, con hến, con nhện, củ mơ… Thông qua kho tàng từ ngữ giàu
có, đồng dao một lần nữa giáo dục các em nhận thức được thiên nhiên và xã hội. Từ
những trò chơi phần nhiều rèn cho trẻ kỹ năng quan sát, rèn luyện cho chân tay
nhanh nhẹn, luyện thính giác, khứu giác nhạy bén… Mặc dù những trò chơi các em
chơi thường lặp đi lặp lại, người lớn xem hay chơi có thể chán nhưng với trẻ thì
không, bởi với các em đó là một việc thú vị vì các em biết cách biến hóa linh hoạt
trong cùng trò chơi.
Không những vậy, đồng dao còn góp phần giáo dục các em ý thức lao động,
ý thức giúp đỡ cha mẹ và những người thân trong gia đình. Đồng dao giáo dục cho
trẻ về lòng kiên trì, tính trung thực, lòng dũng cảm.
Trong đồng dao có một yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa đồng dao và ca dao
là đồng dao rèn cho trẻ trí tưởng tượng phong phú. Tưởng tượng đã nảy sinh và phát
triển từ lúc trẻ biết tiếp xúc với thế giới quanh mình, tưởng tượng trong lúc chơi,
12
các em có sự hình dung rất phong phú và mới lạ trong trí óc của mình về những đồ
vật trong bài hát đồng dao hay lúc chơi trò chơi nhắc đến. Trẻ càng lớn óc sáng tạo
cũng như trí tưởng tượng của trẻ cũng phát triển theo và phát triển một cách mạnh
mẽ. Tuy nhiên, sự sáng tạo hình ảnh về hoạt động của thế giới khách quan, trẻ rất
vô tư, hồn nhiên nên tưởng tượng không có chủ định những hình ảnh xuất hiện
không theo mục đích đặt ra trước, cũng vì vậy mà có những hình ảnh rất ngộ
nghĩnh. Do đó những hình ảnh sáng tạo bằng trí tưởng tượng của các em bao giờ
cũng mang tính xã hội dưới đôi mắt của trẻ thơ.
“Trong đồng dao, có rất nhiều cái đẹp bởi lẽ đồng dao thể hiện tâm hồn vô
tư trong sáng, hồn nhiên của trẻ em chưa có gì vấn vương, với những dục vọng như
người lớn” [1; 16].
Đồng dao là một thế giới toàn nụ cười, mà trong đó thường không có chỗ
dành cho sự buồn bã. Có chăng chỉ là trong những bài hát ru. Những đồng dao về
nói khoác, nói ngược, đồng dao vừa hát vừa chơi… đều biểu hiện cái hài rõ nét.
Không chỉ đem lại nụ cười cho trẻ, mà còn đem lại rất nhiều niềm vui cho mọi
người xung quanh. Chính vì thế mà trong đồng dao cái hài thường gắn với cái đẹp:
Cái đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người…
Trẻ em có nhu cầu vui chơi, giải trí nhất là những trò vui chơi, giải trí kích
thích óc quan sát, trí tưởng tượng, óc khám phá, rèn luyện trí thông minh nơi các
em… Và đồng dao mang trong mình chức năng ấy rất rõ: Đó là những câu nói vần
vè dấu tên vật đố, đòi hỏi các em đoán ra nó. Câu đố trở thành trò chơi thử thách trí
tuệ. Nó huy động cả sức tư duy hình tượng lẫn tư duy suy lí nhưng chỉ ở mức độ
nhận thức của trẻ em. Do đó nhận thức của câu đố thường là các sự vật, hiện tượng
xung quanh cuộc sống nơi các em sinh ra và lớn lên. Với thiên nhiên gần gũi, những
sự vật tầm thường nhưng với trẻ đó là cả thế giới. Từ đó tạo cho các em sân chơi
thật bổ ích, một nơi giải trí lành mạnh, mà không cần phải dàn dựng công phu mà
nó có thể diễn ra bất kì đâu, bất kì lúc nào. Chức năng giải trí và giáo dục của đồng
dao dựa trên việc khai thác cách nhìn mới lạ, bất ngờ, độc đáo đối với các sự vật
hiện tượng.
1.1.4. Tác dụng
Những lời hát đồng dao giáo dục cảm xúc cho các em trong quan hệ với
13
thiên nhiên, xã hội, với sinh hoạt cộng đồng. Đồng dao đem đến cho các em nhiều
bài học giá trị về cuộc sống, đem đến cho mọi người những phút giây vui vẻ, thoải
mái khi tìm về ký ức tuổi thơ.
Và đồng dao cũng là nơi rèn luyện thể chất cho trẻ khi chúng là một phần
không thể tách rời của các trò chơi dân gian thú vị như: Rồng rắn lên mây, Chi chi
chành chành, Thả đỉa ba ba, Bắt kim thang, Đánh chuyền… Qua các trò chơi, đồng
dao giống như chất xúc tác, giúp trẻ gắn bó, vun đắp tình bạn. Đồng dao còn giúp
trẻ hòa đồng và hội nhập với thiên nhiên thông qua những hình ảnh gần gũi, quen
thuộc xung quanh như con cá, củ khoai, cây cam, trời mưa, bong bóng…
Đồng dao là kênh học tập giúp trẻ tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh
mình với đa dạng các sự vật, hiện tượng gần gũi nơi góc nhà, chái bếp từ “củ khoai
chấm mật” đến xa xôi như chuyện “Chú bán dầu qua cầu mà té”, “phật ngồi phật
khóc”. Đồng dao còn có tác dụng luyện trí nhớ cho trẻ em, kích thích sự sáng tạo
thông qua các trò chơi phải vận dụng trí óc như trò chơi Ô ăn quan…
Nếu ca dao là nguồn suối tâm tư của lớp người lớn, là hình thức giao cảm
giữa sinh hoạt và cuộc sống thì đồng dao cũng lại tác động vào nguồn sống trẻ thơ
cùng tính chất tương tự. Đồng dao có tác dụng thỏa mãn nhu cầu vui chơi và tập thể
cho trẻ, có một số tri thức để bước vào đời. Qua những bài đồng dao trẻ được vui
chơi một cách thoải mái và không hề bị bó buộc bởi không gian, thời gian. Các em
có thể chơi bất cứ lúc nào, những lúc chăn trâu, quét nhà hay lúc giúp cha mẹ làm
công việc vặt trong gia đình… Hát đồng dao không đòi hỏi về số người, các em có
thể tự hát vui một mình, hay lúc trông em, lúc cùng nhóm bạn… Do đó đồng dao
giúp các em thỏa mãn nhu cần vui chơi của bản thân. Đồng thời, cũng đem đến cho
các em những hiểu biết về mọi điều trong cuộc sống.
Đồng dao đã góp phần trong việc bồi dưỡng, rèn luyện tiếng nói cho trẻ thơ.
Trước hết là tập cho các em nhỏ tuổi phát âm chính xác: “Nu na/ nu nóng/cái Cống/
nằm trong/ cái Ong/nằm ngoài/…” Bài đồng dao này luyện cho các em nói âm “N”
phân biệt với “L”.
Hay trò Đếm sao: “Một ông/ sáng sao/ Hai ông/ sao sáng/ Ba ông/ sáng
sao…” là bài tập về số đếm, vui vẻ, nhẹ nhàng, không nặng nề như một số bài học.
“Khi đọc ca dao nhi đồng, bao giờ chúng ta cũng cảm thấy mình như trẻ lại
14
và những cảnh tượng xa xưa của thời thơ ấu tự nhiên xuấ t hiện nó dàn cảnh trước
mắt ta, gây cho ta một cảm giác lâng lâng yêu đời, và để lại trong ta một nuối tiếc
về thời vàng son của tuổi trẻ mà chẳng bao giờ ta còn trở lại được nữa.
Tuy thời gian mang đi mất tuổi thơ ngây, hồn nhiên, nhưng cũng chính thời
gian làm cho sự hiểu biết trưởng thành và nhờ đó ta hiểu được và tìm về tuổi thơ
với tất cả chân tình trìu mến. Và nhất là vào những lúc nhàn hạ, bỗng dưng tự đáy
lòng ta dường như thoát ra tiếng hát trong lành ngây thơ đáng yêu vô cùng. Tiếng
hát ấy mang hồn ta ra khỏi cái thực tại đầy ưu tư mệt nhọc đang bám sát ta. Thế là
ta hòa mình với trẻ và cùng vui đùa với chúng. Trong giây phút tươi trẻ lại này, ta
không còn là chính ta nữa, mà là một đứa bé như muôn ngàn đứa bé khác cười rỡn
trên khắp vùng quê, ta cùng bẫy trò, cùng hành động như chúng thôi, và chính ta
cũng không hiểu tại sao lại có thể làm được như thế khi mà thực tế dằng dặc ưu tư
luôn luôn níu kéo ta lại với nó.” [8; 671 – 672].
Những bài đồng dao khi hát lên tuy không thành câu chuyện gì cả mà chỉ cốt
có vần, có điệu một cách ngộ nghĩnh nhưng đã làm nở trên môi các em những nụ
cười hồn nhiên, gieo vào lòng các em cái vui tươi của tuổi thơ. Với những hình ảnh
rất đỗi quen thuộc, những âm thanh gần gũi đã góp phần làm nên cả một viện bảo
tàng văn hóa giúp các em không bị cắt lìa ra khỏi dĩ vãng.
Các em đang ở tuổi khao khát tìm hiểu những cái mới lạ, không riêng gì trẻ
em Việt Nam, mà toàn thể trẻ em trên thế giới. Và kho tàng đồng dao Việt Nam đã
mở cho các em thấy biết bao chân trời mới lạ.
Như vậy, chính những bài hát đồng dao thường ngày lại là những bài học đạo
đức, luân lý kết hợp với nghệ thuật âm nhạc và thơ ca, kích thích khả năng sáng tạo
của trẻ. Từ đó, đồng dao là nơi khơi nguồn văn hóa cho trẻ con và góp phần vào văn
hóa truyền thống của dân tộc.
1.2. Những vấn đề chung về trò chơi trẻ em
1.2.1. Nguồn gốc
Vui chơi là một thiên tính, một bản năng, một sự đam mê thú vị, một hoạt
động tự nhiên của con người. Mỗi lứa tuổi có những trò chơi giải trí hợp với tuổi
tác, giới tính, sức khỏe và theo thói quen của từng địa phương, từng dân tộc.
Ở Việt Nam, trò chơi thường mang đậm bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam,
bắt nguồn từ những công việc thường ngày: cấy lúa, gieo mạ, làm cỏ, đắp bờ… Trò
15
chơi gắn với đời sống sinh hoạt và sản xuất của người nông dân. Những thú vui
lành mạnh không chỉ là phương tiện thư giãn, giải trí bổ ích sau những lúc lao động
mệt nhọc mà còn rèn luyện sức khỏe, tạo phản ứng nhanh nhạy, khéo léo trong mỗi
con người. Và trò chơi trẻ em cũng vậy, nó được hình thành do nhu cầu vui chơi
của các em và do các em sáng tạo hay do người lớn sáng tạo ra. Tuy nhiên, ở mỗi
vùng thì sẽ có cách chơi khác nhau.
1.2.2. Bản chất
“Bản chất của trò chơi là một hoạt động giải trí sinh ra vì nhu cầu sinh lý
của con người. Con người đều có bẩm sinh vui chơi, bẩm sinh này là do nhu cầu
sinh lý bản năng của con người.” [11; 10 – 11].
Như vậy, trò chơi mang tính giải trí rất cao. Kết quả của trò chơi sẽ có ảnh
hưởng quan trọng tới tinh thần của con người, đó chính là làm cho con người cảm
thấy vui vẻ về mặt tình cảm. Qua hoạt động vui chơi thì con người sẽ sinh ra cảm
giác vui vẻ, thoải mái, hưng phấn, cảm thấy được thỏa mãn về mặt tinh thần.
Hầu hết mọi người đều thích trò chơi. Không chỉ trẻ nhỏ mà cả người già.
Điều họ theo đuổi chính là tính giải trí của trò chơi. Mặt khác, trò chơi bao giờ cũng
đòi hỏi những quy tắc nhất định. Đây là đặc trưng bản chất vô cùng quan trọng của
trò chơi. Vì vậy trò chơi phải được tiến hành trong quy tắc đã quy định trước và bắt
buộc mọi người phải tuân theo vì nếu không tuân theo vì nó sẽ không được gọi là
trò chơi nữa.
Trò chơi trẻ em là những trò vui có lời hoặc không có lời, những trò này
cũng mang tính chất của sáng tác dân gian; tính tập thể, tính dị bản… Khi các em tổ
chức vui chơi với nhau thì trò chơi gắn kết các em lại với nhau hơn, trong trò chơi
các em biết thế nào là đoàn kết đồng đội.
Hơn thế nữa, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian thì khẳng định “trò chơi
dân gian nói chung cũng như trò chơi dân gian cho trẻ em nói riêng là một trong
những hình thức sinh hoạt văn hóa, phản ánh khá phong phú và sinh động mối quan
hệ giữa người với thiên nhiên, xã hội.” [1; 31].
1.2.3. Tác dụng
Chuyện vui chơi chẳng phải chỉ của trẻ em, con người ở mọi lứa tuổi, giới
tính… đều phải được vui chơi, giải trí thích hợp để sinh tồn và phát triển. Bên cạnh
lao động, học tập, giao tiếp… Đó cũng là một trong những hoạt động cơ bản, có xu
16
hướng ngày càng tăng trong cuộc sống của con người hiện đại. Tuy nhiên, trẻ càng
nhỏ (chưa phải lao động mà học tập vui chơi là chính) thì hoạt động đó càng quan
trọng.
Do vậy, hoạt động vui chơi là nhu cầu không thể thiếu đối với các trẻ nhỏ.
Bởi trò chơi không chỉ đáp ứng mục tiêu giải trí mà còn có tác dụng gợi mở, kích
thích tính sáng tạo của trẻ trong việc nhận thức và đưa ra những cách chơi mới phù
hợp với chúng hơn. Với những trò chơi: Kéo cưa lừa xẻ, Mèo đuổi chuột, Rồng rắn
lên mây, chốn tìm… Rèn luyện cho các em sự khéo léo. Chơi trò chơi, đặc biệt là
những trò chơi vận động thì rèn luyện thân thể cho trẻ như trò chơi Kéo cưa lừa xẻ
tập cho trẻ sự nhịp nhàng, mỗi động tác kéo đi đưa lại ăn khớp với mọi câu trong
bài hát, câu hát hòa với điệu Kéo cưa lừa xẻ. Đồng thời với sự cử động, trò chơi
cũng giúp khí huyết trong người trẻ lưu thông đều đặn, yếu tố cần thiết của sức
khỏe trẻ thơ. Không những vậy, trò chơi với hoạt động đưa đi đưa lại, luyện sự cứng
cáp của chân tay, gân cốt và như vậy phần nào góp phần vào sự tăng trưởng con
người của em nhỏ.
Mỗi trò chơi sẽ có tác dụng riêng đối với mọi lứa tuổi và có tác dụng khác
nhau. Vừa chơi vừa rèn luyện toàn diện từ cơ thể đến trí thông minh, sáng tạo, phát
triển trí tuệ… Đồng thời qua quá trình chơi của các em sẽ là quá trình chọn lọc và
đào thải, chỉ giữ lại dị bản nào phù hợp với tri thức của đám trẻ em trong vùng ấy
mà thôi.
Ví dụ: Trò chơi Đánh chuyền rõ ràng là một bài dạy cách đếm hiệu quả cho
trẻ. Hay trò Đánh ô ăn quan dạy lối tính nhẩm bằng phép chia, phép trừ rất tốt.
Những bài đồng dao gắn liền với trò chơi của lứa tuổi trẻ thơ. Chẳng hạn như trò
Thả đỉa ba ba, Rồng rắn lên mây… Những trò này góp phần làm phát triển thể lực
cho trẻ, bởi nó được kết hợp với động tác và hơi thở trong lúc hát, lúc diễn.
Bằng những câu hát trò chơi hay các kiểu trò chơi đã phát triển từ đơn giản
đến phức tạp cả về động tác lẫn kết cấu lời ca. Đặc biệt là trò chơi Rồng rắn lên mây
đã mang tính chất trò diễn. Có sự phân chia nhân vật “thầy thuốc” và “rồng rắn”.
Trẻ đã sử dụng câu đối thoại một cách linh hoạt:
“Thầy thuốc: Rồng rắn đi đâu?
Rồng rắn: Rồng rắn đi lấy thuốc cho con.
Thầy thuốc: Con lên mấy?
17
Rồng rắn: Con lên một”
Các nhà tâm lý học và giáo dục học nổi tiếng đã viết “vui chơi cùng với nhu
cầu dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe là cần thiết cho sự phát triển của một con người
hoàn chỉnh… không vui chơi thì không phát triển được!” [8; 767 – 768].
Những câu đố trẻ em cũng là một hình thức vui chơi lành mạnh rèn cho các
em trí thông minh, óc suy luận về bất cứ lĩnh vực nào trong cuộc sống. Như vậy, có
thể thấy rằng trò chơi là một phần thiết yếu của cuộc sống với tác dụng chính là làm
thỏa mãn nhu cầu giải trí của con người. Đồng thời nó cũng có tác dụng gợi mở,
kích thích tính sáng tạo của con người trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề
của thực tiễn đời sống.
Tiểu kết
Chúng tôi đã trình bày những vấn đề chung về đồng dao và trò chơi trẻ em
người Việt ở An Giang. Vấn đề được nói ở đây là việc định nghĩa đồng dao, để
tránh nhằm lẫn đồng dao với các thể loại văn học dân gian khác (ca dao, câu đố,
vè…). Về đồng dao thì ở ba mục: tính chất, chức năng, tác dụng được nêu lên nhằm
khẳng định vị trí , vai trò, cũng như tầm quan trọng của đồng dao trong đời sống, xã
hội, và nuôi dưỡng tinh thần cho trẻ em. Phần nguồn gốc, bản chất, tác dụng của trò
chơi thì góp phần cho trẻ biết được xuất xứ, và cung cấp nguồn kiến thức về những
trò chơi quen thuộc đã có từ lâu đời. Qua đó góp phần giúp cho trẻ nhận ra tầm
quan trọng của đồng dao và trò chơi trẻ em. Có cái nhìn siêu nhiên về một thế giới
trẻ thơ của các thế hệ đi trước đã để lại cho mai sau những bài đồng dao và trò chơi
18
dân gian, mà trong mỗi người không thể nào quên.
CHƢƠNG 2
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG
2.1. Đặc điểm nội dung
Đồng dao đi vào tâm trí chúng ta tự nhiên như không khí ta thở, như đồng
ruộng bao quanh, như những người thân và bạn bè ta sẻ chia cuộc sống mỗi ngày.
Ta dĩ nhiên có những điều đó, không phải đánh đổi, không mặc cả, tính toán. Qua
những bài đồng dao đem đến cho các bé nhỏ những hiểu biết về thế giới xung
quanh. Các hình ảnh, hiện tượng trong bài đồng dao có thể phi lôgic không liên
quan đến nhau. Song, đó là những mảnh ghép nhỏ bé đầu tiên để trẻ ghép nên bức
tranh phong phú, sinh động, giàu màu sắc về cuộc sống.
“Hệ thống đồng dao Việt Nam dựng lên một cuốn phim hiện thực của thiên
nhiên và xã hội Việt Nam với nền kinh tế nông nghiệp lâu đời mà tác giả và đạo
diễn, người ca hát và diễn xuất là tập thể trẻ em. Với cảm nghĩ vô tư, hồn nghiên, tư
duy ngộ nghĩnh nhưng giàu tưởng tượng, thông minh và sáng tạo.” [1; 19 – 20]
Mọi thứ đi vào đồng dao thật đáng yêu, ngộ nghĩnh dưới cái nhìn của trẻ thơ.
Đó không phải những cái gì xa lạ mà là cỏ cây, hoa lá, bầu trời, sông hồ… Rồi có
cả một thế giới động vật: con cò, con trâu, con cóc, con cua… Hay những hiện
tượng tự nhiên rất đổi bình thường và quen thuộc trong cuộc sống. Cả con người và
xã hội loài người cũng đi vào đồng dao một cách cụ thể, chân thực qua cảm nhận
của tuổi ấu thơ.
2.1.1. Thế giới tự nhiên
Trẻ thơ sống trong lòng thiên nhiên, nơi ban ngày có ánh nắng chan hòa, ban
đêm có trăng thanh gió mát, đây có mặt nước trong xanh, kia có núi non kì lạ…
Thiên nhiên lọng lẫy mà vẫn bình dị. Với các em, thiên nhiên có bầu trời, có mặt
đất, có nắng chói chang, có sấm sét dữ tợn, có mây, có gió… Bầu trời và mặt đất là
nơi vui chơi đầy hấp dẫn. Tâm hồn trẻ thơ giao cảm đặc biệt với trời mây, cây cỏ,
non nước. Trăng sao dù cao vời vợi nhưng vẫn có những sợi dây vô hình gắn bó với
sinh hoạt của trẻ thơ:
“Ông sảo, ông sao
Ông vào cửa sổ 19
Ông chơi với tôi
Ông ngồi lên chiếu”
Trẻ thơ có khả năng kì lạ trong việc nhập cuộc vào thế giới vô tri, vô giác,
biến chúng có tâm hồn để làm bầu bạn. Trăng sao cũng chỉ là trẻ nhỏ, cần ăn no
chóng lớn:
“Tôi biếu củ khoai
Ông nhai tóp tép
Ông ghép với rau
Ăn mau chóng lớn
Ông ngồi dậy
Ông về trời.”
Vũ trụ huyền bí siêu nhiên, nhiều bí ẩn, khó lí giải ngay đối với người lớn
nhưng đối với trẻ thơ lại rất giản dị, ngộ nghĩnh và hồn nhiên:
“Ông sấm ông sét
Ông hét đùng đùng
Ông nổ lung tung
Vỡ vung vỡ nồi
Vỡ cả bát đĩa nhà tôi
Tôi lôi ông ra đánh
Đánh một roi
Đánh hai roi
Ông trốn về trời
Ơi ông sấm ông sét ơi!”
Ông sấm, ông sét không được trẻ yêu quý như ông trăng, ông sao vì “ông nổ
lung tung, vỡ vung cả nồi, vỡ cả bát đĩa…” nên ông bị trẻ phạt đòn và phải trốn về
trời.
Nói đến trẻ thơ là nói đến tính chất vô tư, hồn nhiên, mộc mạc, khác với hệ
thống ca dao người lớn. Sự hồn nhiên, vô tư, mộc mạc ấy chưa pha trộn những mâu
thuẫn xã hội, chưa chứa đựng những dục vọng cá nhân. Do vậy mà chúng ta không
lấy làm lạ khi đọc lên một câu đồng dao không hàm chứa một ý nghĩa nào hết, hoặc
những ý nghĩa đứt đoạn từ hiện tượng này sang hiện tượng khác.
20
Đó là:
“Ông tiển ông tiên
Ông có đồng tiền
Ông giắt mái tai
Ông cài lưng khố
Ông mua những trầu
Ông nhai nhóp nhép
Ông mua con tép
Về ông ăn cơm
Ông mua mớ rơm
Về ông để thổi
Ông mua cái chổi
Về ông quét nhà
Ông mua con gà
Về cho ăn thóc
Ông mua con cóc
Về thả gầm giường
Ông mua nén hương
Về ông cúng cụ.”
Ông tiên có đồng tiền, ra phố mua các thứ ông cần: trầu, tép, rơm, chổi…
Những thứ ông mua cho thấy ông cũng như những người bình thường khác, chẳng
chút xa lạ.
Chúng ta đừng đỏi hỏi ở những câu đồng dao một ý nghĩa nào cả. Nếu phải
có ý nghĩa thì không còn tính chất đồng dao nữa. Với sự ngây thơ chưa trưởng
thành trong cuộc sống xã hội thì những gì không có ý nghĩa chúng cảm thấy thích
thú hơn.
“Ông trăng mà bảo ông trời
Những người hạ giới là người như tiên
Ông trời mà bảo ông trăng
Những người hạ giới mặt nhăn như tiều.”
Bài đồng dao này giúp các em khám phá ra ý nghĩa luân lý là ở gần người
nóng nảy, gay gắt, tính tình mình dễ bực bội lây, trái lại ở gần người hiền từ mình
21
cũng dễ cảm thấy tâm hồn thảnh thơi, thoải mái.
Với các em đẹp nhất là ông trăng. Chính vì vậy mà được các em quan sát rất tỉ mỉ:
“Mồng một lưỡi trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mồng bốn lưỡi liềm
Mồng năm liềm gặt
Mồng sáu thật trăng
Mười rằm trăng náu
Mười sáu trăng treo…”
Mặt trăng từ mồng một đến mười sáu được chú ý về hình dáng mà con người
nhìn thấy qua các ngày, từ mười bảy đến cuối tháng thì thời điểm trăng mọc được
quan tâm:
“Mười bảy sảy giường chiếu
Mười tám giám trấu”
Thế giới tự nhiên đối với các em còn có cả bảy vị thần khai thiên lập địa
được kể trong thần thoại Trần trụ trời.
“Một ông đếm cát
Hai ông tát bể
Ba ông kể sao
Bốn ông đào sông
Năm ông trồng cây
Sáu ông xây đá
Bảy ông vá trời…”
Còn biết bao vật thể tự nhiên khác cùng các em sống với đồng dao đem đến
cho các em tầm nhìn về một thế giới rộng lớn với những quy luật tự nhiên vốn dĩ đã
tồn tại hàng nghìn năm qua mà không hề thay đổi và lí giải được. Nhưng khi đến
với đồng dao thì cái hiện tượng tự nhiên ấy nó có hồn và tràn đầy sức sống dưới cái
nhìn non trẻ, ngây thơ của các em.
Bên cạnh đó, thế giới đồng dao là một thế giới đầy đủ sắc màu của hoa lá,
bao nhiêu loài hoa là bấy nhiêu hình dáng, màu sắc, hương vị… Qua đôi mắt trẻ
22
thơ, thiên nhiên gắn bó với các em như: “cô đậu nành, anh dưa chuột…” không
gian tĩnh mịch của thế giới thực vật bỗng trở nên sinh động và có hồn. Trong đồng
dao không có sự cách biệt giữa thiên nhiên và trẻ em.
“Bí ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô
Bí ngô là cô đậu nành”
Lứa tuổi của các em là lứa tuổi của những câu hỏi: Vì sao? Thế nào? Ở đâu?
Đó là lứa tuổi mà thiên nhiên, cuộc sống xã hội mở ra mênh mông trước cặp mắt
ngạc nhiên, ham hiểu biết của trẻ em.
Thiên nhiên trong bài hát đồng dao là thiên nhiên của một xã hội nông
nghiệp. Thế giới thực vật trong tự nhiên ấy vô cùng phong phú. Về trái thì kể làm
sao hết: nào là đậu rồng, đu đủ, mít, ớt, sung, mãng cầu… Những trái quen thuộc
hằng ngày như:
“Dây ở trên mây
Là trái đậu rồng
Có vợ có chồng
Là trái đu đủ
Chặt ra nhiều mủ
Là trái mít ướt”
Có trái đôi khi hiếm thấy cũng xuất hiện trong đồng dao:
“Thổi nghe ú liêu
Là trái cóc kèn
Rủ nhau đi rèn
Là trái đậu rựa
Đua nhau chọn lựa
Là trái dành dành”
Về rau thì sự đa dạng cũng không kém trái. Từ những rau thông thường:
“diếp cá, rau má, rau răm…” cho đến những rau hiếm thấy: “ngành ngạnh, rau co,
rau nhớt, mã đề…”. Với cách tìm hiểu khá độc đáo và thú vị:
23
“Thứ ở hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không chánh
Vốn thiệt rau lang
Đất ruộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh…”
Về hoa, thì có hàng chục loài hoa với sự phong phú về màu sắc và hình dáng:
“Thương nhau chua xót
Là hoa sầu đâu
Có sông không cầu
Là hoa nàng cách
Đi mà đụng vách
Là hoa mù u
Cạo đầu đi tu
Là hoa dăm bụt…”
Với óc tưởng tượng phong phú mà các loài hoa có biểu hiện như con người:
“hoa dăm bụt” thì “cạo đầu đi tu”, “hoa dâu tằm” thì có thể “đi đám cưới”. Hay
với cách liên tưởng đến sự vật cùng âm với loại hoa được đề cập mà tạo nên sự bất
ngờ cho người đọc:
“Đụng chút đã hờn
Là hoa xấu hổ
Vui chơi thông thả
Là cái hoa chè
Ăn nói lè nhè
Là hoa chùm rượu…”
Ngoài những cỏ cây, hoa trái là cả một thế giới động vật xuất hiện trong
đồng dao. Đồng dao dưới đôi mắt trẻ thơ là cả một vườn bách thú. Nước Việt Nam
là một nước nông nghiệp, trên 90% dân chúng sống và lao động giữa thiên nhiên
đồng nội thì việc những lũy tre xanh, những đàn cò trắng xuất hiện trong đồng dao
24
chẳng có chi là lạ. Hình ảnh “con cò” được nhân cách hóa một cách gần gũi, thân
mật là một điều độc đáo riêng của đồng dao Việt Nam, khi thì tượng trưng cho
người mẹ quê.
“Con có lặn lội bờ sông
Mẹ đi tát nước cho bông có đài
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông cho lúa chín, hạt say nặng nhành
Trông cho rau muống màu xanh
Để mẹ cắt nấu bát canh mặn mà
Mát lòng sau bữa rau cà
Con ơi, mau lớn cả nhà cậy trông.”
Khi làm em bé quê:
“Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh.”
Khi thì chỉ dùng làm một hình ảnh khởi hứng:
“Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò?
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin thì ông đi đòi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.”
Bên cạnh đó, đồng dao là bộ sưu tập về cá. Từ những con cá quen thuộc đến
những con cá hiếm, cá lạ:
“Cá kình, cá ngạc
Cá nác, cá dưa
Cá voi, cá ngựa
Cá rựa, cá đao.”
Thế giới đồng dao là một thế giới sinh động, phong phú, chứa chan sức sống
và màu xanh. Trong đồng dao có đủ những con trâu, con nghé, con lợn, con gà…
Cho đến cả một bảng thống kê đủ loại kiến. Rồi đến cả một nguồn thủy hải sản
phong phú: tôm, cua, ốc, ếch… Và tất cả đều có hồn, biết trò chuyện, biết tâm sự 25
với trẻ em nhiều tưởng tượng bất ngờ đã giúp các em tạo nên một cuộc sống hồn
nhiên, thân mật xung quanh mình.
“Cào cào giã gạo tao xem
Tao may áo đỏ áo đen cho mày”
Đó là lời nói chân tình, xuất phát từ tấm lòng trong trắng và thành thật của
các em.
Trẻ em có óc tư duy ngộ nghĩnh, có trí thông minh kết hợp với sự quan sát
tinh tế, nhận xét hóm hỉnh trong khi hát, khi vui chơi, khiến cho không ít những bài
đồng dao phát hiện được những ý tưởng sâu xa về tự nhiên cũng như xã hội.
Trong hiện thực, những con vật: “chim ri, sáo đen, tu hú, bồ các…” chả có
quan hệ gì với nhau nhưng với trí tưởng tượng của các em mà lũ chim lại trở thành
gia đình thân thuộc, có mối quan hệ với nhau. Với con là dì, con là cậu, con là em,
là chú, là bác… Ta có cảm tưởng như mọi vật trên thế giới này không có gì là tuyệt
đối cả. Tất cả đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại và phát triển.
“Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim ri.”
Đọc hết cả bài ca, ta không thể tìm ra con vật nào có địa vị cao nhất. Cũng ý
tưởng trên, bài đồng dao Kì đà, cắc kè chỉ có bốn câu nói tới ba con vật, nhưng
người đọc cũng khó mà tìm ra con vật nào có địa vị cao nhất.
“Kì nhông là ông kì đà
Kì đà là cha cắc kè
Cắc kè là mẹ kì nhông
Kì nhông là ông kì đà”
Bằng sự quan sát tinh vi và hóm hỉnh về hiện thực cuộc sống qua đôi mắt của
trẻ nhỏ mà thế giới động vật hiện lên với một sự sinh động nhưng đôi khi ngược lại
với cuộc sống.
“Bao giờ cho đến tháng ba
26
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.”
Hay hát về “con chuồn chuồn” vẻ như đánh động nó trước hiểm họa bị bắt
mà khi chuồn chuồn bị trẻ bắt thì khó mà có con đường sống, nhưng lại như trêu
đùa em bé đang bắt chuồn chuồn.
“Chuồn chuồn có cánh thì bay
Không thôi thằng nhỏ thò tay bắt mày”
“Con cóc” cũng đi vào đồng dao trẻ em nhằm giải thích một thực tế cuộc
sống. Con cóc không phải là động vật bất khả xâm phạm:
“Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho”
Ngay cả những sinh vật bé nhỏ như “loài kiến”, nhưng đi vào đồng dao rất
đa dạng từ những con “kiến hôi, kiến lửa, kiến càng…” cho đến những con “kiến
nhót, kiến nhện, kiến bay…”
“Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con kiến
Kiến càng, kiến kệ
Kiến mẹ, kiến con
Kiến ở trên non
Là con kiến nhót
Hay đi lót thót
Là con kiến hôi
Chân vướng nhọ nồi
Là con kiến nhện
Vừa đi vừa luyện
Là con kiến bay…”
Con mèo, con chó quấn quít các em trong nhiều đồng dao dí dỏm: “con
mèo”:
“Con mèo mày trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.” 27
Hay chuyện “con cua” thì có tám cửng, hai càng, hai mắt, không đầu thì rõ
ràng là con cua, không thể là con gì khác được.
“Tám sào chống cạn
Hai nạn chống xiên
Con mắt láo liên
Cái đầu không có”
Bằng sự quan sát các bộ phận, tập tính của các con vật mà bọn trẻ sáng tạo
nên bài đồng dao loài vật hết sức chính xác và tinh tế: Con cua thì có hai càng, bò
ngang; cá thì có đuôi, hai vây, bơi tài; rùa thì có mai, cái cổ thụt ngắn, thụt dài; voi
thì có hai ngà, cái vòi có thể “cuốn đổ nhà đổ cây”; và chim thì có cánh và “bay
cùng nam bắc đông tây”.
“Con cua mà có hai càng
Đầu tai không có, bò ngang cả đời
Con cá mà có cái đuôi
Hai vây ve vẩy, nó bơi rất tài
Con rùa mà có cái mai
Cái cổ thụt ngắn, thụt dài vào ra.”
2.1.2. Thế giới vật thể nhân tạo
Trong đồng dao, đặc biệt phần nhiều trong các câu đố thì những đồ dùng cá
nhân, dụng cụ sinh hoạt hay những công cụ lao động chiếm một số lượng khá lớn.
Đồng dao nói về dụng cụ sinh hoạt chiếm số lượng nhiều: từ cái thớt, cái
dao… cho đến cái cân, cái võng, cái trống…
“Mua một cái trống
Ông đánh tùng tùng
Mua một nhúm bông
Để ông nhồi gối
Mua một cái cối
Để ông xay tiêu
Mua một cái siêu
Để ông sắc thuốc.”
Hay:
28
“Cái khăn bịt đầu
Cái gàu tát nước
Cái thước để đo
Cái mo làm quạt.”
Đồng dao gắn với trò chơi thực chất là phương tiện giáo dục của quần chúng
lao động xưa dùng để dạy dỗ con em mình. Qua đồng dao, các em có thể làm quen
với những công cụ sản xuất.
“Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái thuổng đắp bờ
Cái lờ thả cá
Cái ná bắn chim
Cái kim may áo.”
Mỗi dòng thể hiện một sự vật, sự việc theo mô hình A thì x (A: danh từ, chỉ
vật/việc; x: vị từ chỉ một hoạt động, tính chất của A).
2.1.3. Con ngƣời và xã hội loài ngƣời
Trẻ con không chỉ có hình hài nhỏ bé yếu ớt mà có tâm hồn, sinh hoạt của
chúng nữa cũng rất là non nớt. Sinh hoạt của trẻ em không giống sinh hoạt của
người lớn, nhưng nếu mất đi sức sống của tuổi thơ, thiếu đi những búp măng trong
một rừng cây đang và sẽ già nua cằn cỗi, thì đó là một điều mất mát lớn lao trong tài
nguyên nhân loại. Hình dáng của trẻ em, tiếng cười, nói của trẻ em; tâm hồn của trẻ
em, sinh hoạt của trẻ em chính là những mầm sống đang vươn lên, nhằm đảm bảo
sự trường tồn của thế giới loài người. Trẻ em là tấm gương phản chiếu của người
lớn. Vì thế, có ca dao người lớn thì sẽ có đồng dao cho trẻ em.
Có một cô gái gánh nước bên bờ suối, cất giọng hát véo von thì có một em
bé ngất ngưỡng trên lưng trâu cũng nghêu ngao hát. Thời gian, không gian không
thể nào chia cắt được tình cảm con người mà ngược lại nó còn có liên quan mật
thiết với cuộc sống hằng ngày.
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
29
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.”
Trong những buổi sum họp, sau một ngày lao động vất vả hoặc trong những
ngày mưa dầm, anh chị em, cô chú cùng với ông bà, cha mẹ quây quần bên nhau có
thể đem đến cho con, cho cháu những câu hát, những trò chơi đầy tình cảm thương
yêu. Tùy theo tính chất từng gia đình mà buổi sinh hoạt văn hóa đó phong phú hay
nghèo nàn, truyền thống hay hiện đại. Ở nông thôn, anh chị hát ru em vẫn là những
câu hát cổ truyền, thân mật, gần gũi, có tính phổ biến của làng xóm:
“Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà”
Hay:
“Ru em, em hãy nín đi
Kẻo mà mẹ đánh nữa thì em đau
Em đau thì chị cũng buồn rầu
Bé mồm, bé miệng, kêu đâu bây giờ.”
Thực ra, câu hát cũng là một lời tâm sự, nào có ai đánh em đâu, chỉ dọa vậy
thôi. Rồi cứ như thế hàng loạt câu hát chị ru em, không chỉ em thích mà chị cũng
thích. Chị thích vì đó là nhu cầu tình cảm hợp với bản năng sáng tạo và tâm lí chị.
Em thích vì cái giai điệu, tiết tấu tự nhiên của câu hát. Em ngủ rồi nhưng có bao
nhiêu điều kì lạ cứ quây bám lấy giấc ngủ của em. Chị thì vẫn cố tìm trong trí nhớ
để hát cho hết những lời mà ngày bé chị được nghe từ bà, từ mẹ… Từ đó mà khi em
bé lớn lên, em bé chơi với em bé nhỏ hơn mình hay chơi với búp bê thì em bé lại
hát ru em bằng những lời hát là những bài học luân lý do ông bà đặt ra.
“Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha áo mẹ chữ thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.”
Có thể nói, chiếc nôi, cánh võng là những vật thân thiết cùng với tiếng hát ru
của bà, của mẹ đưa các em vào giấc ngủ… Thời gian đã cho ta thấy rằng, dù trải
qua bao thế hệ nhưng những lời hát ru của bà, của mẹ vẫn không thể nào xóa khỏi
trí nhớ của các em.
“Công cha như núi Thái Sơn
30
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Hay những buổi trưa hè oi bức, những đêm thanh tịnh có tiếng các bà, các
mẹ, các chị đưa võng kẽo kẹt vừa cất tiếng hát ru êm ái ngọt ngào.
“Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”
Những lời nhắn nhủ hiền hòa đó vang lên êm đềm, nỉ non theo nhịp điệu là
cả một phương pháp giáo dục tốt. Em bé tuy không hiểu nhưng nghe mãi dần thấm
thía, nhất là khi các em đã lớn, các em vẫn có thể nghe lại những bài hát đó khi mẹ
hát ru em. Do vậy, các em đã thấm nhuần tới tiền thức những lời mẹ nhắc nhở,
khuyên răn qua những lời hát ru mộc mạc mà sâu sắc.
Đồng dao đem đến cho các em sự nhìn nhận về mối quan hệ trong gia đình.
Dưới đôi mắt thơ ngây, các em sáng tạo nên những lời hát đồng dao đơn giản mà
lắm điều kì diệu.
“Bí ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô
Bí ngô là cô đậu nành.”
Từ “ruột” và “nàng” (ở hai dòng 3 và 4) thì không rõ thứ bậc quan hệ gia
đình, các chỗ khác quan hệ này được nêu rất rõ, đó là: cô, cậu, anh. Có thể coi đây
là một lối nhân hóa, xuất phát từ vật mà gợi ý cho trẻ về việc cần phải nhận biết các
mối quan hệ gia đình giữa những người gần gũi với mình. Thật ra, ở đây hình thành
hai loại quan hệ: quan hệ giữa những người thân với trẻ, và quan hệ giữa họ với
nhau. Quan hệ đầu dễ nhận ra hơn quan hệ sau. Quá trình nhận biết các mối quan hệ
này khởi đầu khi trẻ mới năm bảy tháng tuổi và có thể kéo dài đến hết độ tuổi nhi
đồng.
Với bài:
31
“Kì nhông là ông kì đà
Kì đà là cha cắc kè
Cắc kè là mẹ kì nhông
Kì nhông là ông kì đà”
Những “ông, cha, mẹ” trong quan hệ giữa hai động vật nhằm gợi cho trẻ về
tên gọi và phân biệt các thứ bậc trong gia đình. Bài đồng dao là bài học quan trọng
về mối quan hệ gia đình.
Trong tâm lí của các em ở độ tuổi thiếu nhi, do chưa ý thức được đầy đủ sự
chi phối và từ hệ quả của cơ chế phụ hệ, của tập tục cho nên cách nhìn nhận “cậu”
cũng như chú, bác, thậm chí do “cậu” được mẹ yêu quý hơn chú, bác nên có phần
thân thiết, tin tưởng ở cậu hơn. Nhưng đến lúc phát hiện ra cái tình của cậu với
mình không như mình tưởng (cháu cậu xa hơn cháu bác, cháu chú) thì các em có
cảm giác hụt hẫng, vỡ mộng lắm khi như bị lừa gạt. Từ đó mà nảy sinh lòng oán
thù:
“Sáo sậu là cậu sáo đen
Đánh trống thổi kèn, đưa ma sáo sậu.”
“Sáo sậu” có kết cục là phải chết (vì là cậu) nhưng “sáo sậu” ra ma được/ bị “đánh
trống thổi kèn” để đưa đi.
Như vậy trẻ em thích đồng dao, mê đồng dao, không học cũng thuộc, đó là
một hiện thực. Mỗi câu đồng dao, mỗi trò chơi truyền thống đều có giá trị về nhiều
phương diện: đạo đức, tâm lý, xã hội… Chẳng hạn một bài hát vui mang tính chất
giáo dục sâu sắc: khi ra đường gặp người già yếu, tàn tật phải giúp đỡ, thật thà và
không tham lam.
“Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tôm cái tép đi đưa bà còng
Đưa bà đến quãng đường công
Đưa bà về tận ngõ trong nhà bà
Tiền bà trong túi rơi ra
Tép tôm nhặt được trả bà mua rau.”
Những bài đồng dao như thế có tác dụng hơn bất cứ một bài giảng đạo đức
cứng ngắt nào.
“Trời mưa bong bóng phập phòng
32
Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”
Bài đồng dao cũng là lời tâm tư của trẻ. Nếu lời hát này do chính các em hát
lên, khi người mẹ sắp về nhà chồng, thì hẳn khó có người mẹ nào lại nỡ dứt tình
mẫu tử. Lời hát là bài học về cuộc đời, về tình mẫu tử sâu sắc, câu hát ngắn gọn mà
dạt dào cảm xúc, mang đầy ý nghĩa về cuộc sống.
Lời đồng dao đôi khi còn là lời phê phán thói chay lười, được biểu lộ qua
tình trạng không chịu làm việc: “làm ít” mà “ăn nhiều” lại “nằm đâu ngủ đấy” thì
rất dễ thất bại, hỏng việc và đáng trách.
“Kéo cưa kéo kít
Làm ít ăn nhiều
Nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất cưa
Lấy gì mà kéo?”
Hệ thống đề tài đồng dao thường mượn các chủ đề về thiên nhiên, hoa lá, cây
trái, chim muông, các con vật nuôi trong gia đình, để nói về con người và xã hội,
hay biểu hiện lòng mong muốn của con người. Thời gian trẻ em hoạt động và tiếp
xúc với đồng dao chỉ khoảng chín, mười năm. Sau đó, chúng chuyển sang làm quen
với văn hóa cộng đồng xã hội. Tuy ngắn ngủi nhưng lại có ý nghĩa rất lớn trong
cuộc đời của chúng. Với thời gian như vậy trẻ đã thuộc hàng loạt bài hát với nhiều
kiểu kết cấu nghệ thuật thi ca độc đáo. Chính vì vậy mà đồng dao vẫn tồn tại đến
ngày nay, dù số người nhớ không nhiều nhưng nó cũng phần nào làm sống lại ký ức
tuổi thơ của họ.
2.2. Đặc điểm nghệ thuật
“Vũ Ngọc Khánh, sau khi phân tích so sánh sức sống của đồng dao cổ
truyền với sáng tác của người lớn cho trẻ em viết: “Những bài đồng dao thường bị
xem là lung tung, tản mạn, giá trị tư tưởng nghệ thuật thường bị đánh giá thấp,
hoặc cho là không có gì, vốn có yêu cầu riêng, phương pháp riêng nên mới có thể
tồn tại lâu dài”. Ông cho rằng “vấn đề cơ bản trong thi pháp đồng dao là yếu tố
tưởng tượng của trẻ. Với các em mọi vật đều như có tri giác, các em nói chuyện với
cỏ cây, hoa lá, các đồ đạc loài vật chung quanh mình và hình dung rất hồn nhiên,
chân thực rằng đó là những cuộc đối thoại cảm thôn g cụ thể” [1; 53].
Trên quan điểm đó, dưới đây người viết nghiên cứu nghệ thuật của đồng dao
33
thể hiện ở ba yếu tố cơ bản: kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ.
2.2.1. Kết cấu
Đồng dao trẻ em có kết cấu đa dạng, đơn giản, tự nhiên, vần vè nhằm mục
đích vui chơi, giải trí và phần nào thể hiện tư duy tưởng tượng của các em. Có thể
thấy những biểu hiện sau:
Kết cấu nối vòng, lối kết cấu này chiếm tỉ lệ rất cao trong đồng dao, cách này
gây ấn tượng cho trẻ bởi về số lượng từ lặp đi lặp lại rất nhiều. Ví dụ như:
“Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt leo vào leo ra.”
Số từ lặp lại của bải đồng dao này gần như hoàn toàn. Bài hát được khép
vòng và chuyển động liên tục bởi hai chữ cuối của câu đầu “cành đa” và hai chữ
cuối của câu kết “leo ra”. Với cách lượn vòng và lẩn quẩn như vậy cũng tùy theo
nội dung từng bài mà có kết cấu “nối vòng” khác nhau. Ví dụ như:
“Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
Em tôi buồn ngủ buồn ngà
Buồn ăn cơm nếp, thịt gà cháo kê.”
Cụm từ “buồn ngủ buồn nghê” hay “buồn ngủ buồn ngà” cũng là giống
nhau cả. Hai chi tiết của cùng một sự việc thường có tính chất bổ sung cho nhau.
Cho nên, trường hợp này việc tách hai chi tiết trên chỉ là hình thức, tức là giả tách
làm hai chi tiết nhưng thực chất chỉ là một. Bên cạnh đó, ta thấy rằng hai cặp lục bát
của hai chi tiết đối xứng nhau. So sánh cặp lục bát sau với cặp lục bát đầu: Dòng lục
chỉ đổi tiếng cuối để bắt vần với tiếng thứ tám ở dòng bát trước nó; dòng bát chỉ
tráo bốn tiếng cuối theo cặp (nghê – kê, gà – ngà – gà, kê – nghê). Trường hợp lục
bát biến thể theo kiểu hiệp vần ở tiếng thứ tư dòng bát, thì ở vị trí này sẽ đổi khác
(có thể kèm thêm tiếng thứ ba) để đáp ứng, bốn tiếng còn lại chỉ đổi tiếng cuối.
Kiểu kết cấu chuyện nọ dắt dây sang chuyện kia, không ăn nhập gì với nhau,
chỉ liên kết với nhau một cách vu vơ. Đó là trường hợp bài đồng dao Cốc cốc keng
keng, bài dồng dao nói từ chuyện:
“Con ruồi có cánh
34
Đòn gánh có mấu
Củ ấu có tai”
Kết cấu dạng cho và trả: thuộc kết cấu chuỗi sự việc có liên kết chủ đề, chia
làm hai phần: phần cho và phần trả, nhưng phần cho có số lượng dòng thơ gấp đôi
phần trả.
“Chú bé bắt được con công
Đem về biếu ông
Ông cho con gà
Đem về biếu bà
Bà cho quả thị
Đem về biếu chị
Chị cho quả chanh
Đem về biếu anh
Anh cho tu hú
Chú cho buồng cau
Chú thiếm đánh nhau
Buồng cau trả chú
Tu hú trả anh
Quả chanh trả chị
Quả thị trả bà
Con gà trả ông
Con công phần tôi.”
Kết cấu đối đáp (hỏi và trả lời): Loại kết cấu này thường gặp nhiều nhất
trong đồng dao trẻ em hát có kèm theo trò chơi. Trò chơi Rồng rắn lên mây là đối
đáp giữa “rồng rắn” và “thầy thuốc”. Lời trong Thằng Bờm có cái quạt mo cũng sử
dụng kết cấu đối đáp nhưng không đói đáp trực tiếp mà được kể lại qua lời đồng
dao.
Kết cấu nói ngược: Nói ngược gây hứng thú đối với trẻ bởi vì loại kết cấu
này thì sự vật sự việc không liên kết chủ đề, có nội dung đánh tráo đặc điểm (về
hoạt động, tính chất…) của hai sự vật cạnh nhau, khiến chúng tréo hèo. Bất cứ đối
tượng, thiên nhiên, xã hội… đều có thể hát lên bằng đồng dao có kết cấu nói ngược.
Có thể nêu một số ví dụ như sau:
“Nghe vẻ nghe ve 35
Nghe vè nói ngược
Ngựa đua dưới nước
Tàu chạy trên bờ
Lên núi đặt lờ
Xuống sông hái củi
Gà cồ hay ủi
Heo nái hay bươi”
Hoặc:
“Ban đêm oi bức
Ban ngày mát mẻ, trăng cười trên cao
Ban đêm nắng đỏ hồng hào
Ban ngày nhấp nháy ông sao đầy trời.”
Kết cấu một vế đơn giản, ngắn gọn và dễ nhận thức. Kiểu kết cấu này rất phổ
biến trong lời hát ru và ca dao cho trẻ em. Bằng nhạc điệu của thơ lục bát, bằng
ngôn ngữ, nhịp điệu dành cho lứa tuổi thiếu nhi rất phù hợp với tâm lý trẻ em.
“Ai đem con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lòng nó bay.”
Hoặc:
“Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng be bé thò tay bắt mày.”
Kết cấu kể chuyện là kết cấu rất phổ biến trong những lời hát ru. Kết cấu này
đơn giản chỉ kể lại câu chuyện mà không cần chú ý đến hình thức. Mục đích để làm
sau trẻ hiểu được và nắm được câu chuyện trong lời ru đó mà thôi.
“Thằng cuội ngồi gốc cây đa
Thả trâu ăn lúa gọi cha ới ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên”
Kết cấu hai vế đối lập nhau: kết cấu này tạo nên hai vế đối lập nhau về mặt
nội dung. Trẻ em biết cách so sánh, đối chiếu với thực tế cuộc sống để nhìn ra giá
trị thực của nó cho nên kết cấu này bắt đầu được các em chú ý.
36
“Con cóc là cậu ông trời
Ai mà đánh nó thì trời đánh cho
Con cóc là cậu thầy nho
Ai mà đánh chết trời cho quan tiền.”
Kết cấu hai vế song hành: đây là kết cấu thường thấy trong những bài đồng
dao và nó đơn giản là chỉ nêu lên tính chất, hình dáng, màu sắc của sự vật hiện
tượng. Thông thường các đối tượng được các em chú ý nhất đó là về cây, trái vì nó
gần gũi với các em và cũng từ nhu cầu ăn uống của các em.
“Khế với sung: khế chua, sung chát
Mật với gừng: mật ngọt, gừng cay.”
Hay:
“Quả dưa gang trong vàng ngoài trắng
Quả mướp đắng trong trắng ngoài xanh.”
Trên đây là những dạng kết cấu thường gặp trong đồng dao. Mỗi một kết cấu
có vai trò khác nhau nhưng đều có chung nhiệm vụ là góp phần làm nên sự độc đáo
riêng cho đồng dao.
2.2.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ đồng dao rất gần gũi với ngôn ngữ của đời thường, ngắn gọn, nhịp
điệu thể hiện rất rõ ý và lời để trẻ em dễ hát, dễ nhớ và dễ thuộc. Có thể nói rằng,
ngôn ngữ trong hệ thống đồng dao là ngôn ngữ của trẻ em và dành cho trẻ em. Bởi
vì đồng dao là do trẻ em sáng tạo ra hay do người lớn sáng tạo ra dành riêng cho các
em. Với tính chất truyền miệng và nhiều dị bản cho nên ngôn ngữ của đồng dao bao
giờ cũng mộc mạc, giản dị, vô tư, hồn nhiên, vui tươi và rất ngộ nghĩnh. Những tính
chất đó ta có thể bắt gặp trong bất kì bài đồng dao nào của trẻ em. Từ những bài
ngắn cho đến những bài dài hay trong lời vè, lời hát ru…
Về mặt tư duy ngôn ngữ của các em giai đoạn này chưa cao: “Xét về vốn từ
ngữ của trẻ em theo nghiên cứu khoa học, cuối năm thứ hai, trẻ chỉ mới biết được
300 từ nhưng cuối năm thứ ba trẻ đã biết được đến 1500 từ.” [1; 35]. Vì thế mà
ngôn ngữ đồng dao là bài học về từ vựng rất tốt cho trẻ. Đặc biệt trong đồng dao có
rất nhiều từ vựng cụ thể về tự nhiên và xã hội gần với cuộc sống, sinh hoạt, lao
động hằng ngày của các em. Đó có thể là mẹ, cha, chị, anh… người mà sống gần
gũi với các em:
37
“Thờ cha mẹ ở hết lòng
Ấy là chữ hiếu ở trong luân thường
Chữ để nghĩa là nhường
Nhường anh, nhường chị, lại nhường bề trên
Ghi lòng tạc dạ chớ quên
Con em phải giữ lấy nền con em.”
Có thể là các con vật nuôi trong nhà: chó, mèo, gà, lợn….
“Con mèo, con mẻo, con meo
Ai dạy mày trèo, chẳng dạy em tao
Con mèo, con mẻo, con meo
Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà.”
Hay xa hơn là các con chim, con cá, con kiến, con tò vò, con nhện…
“Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quên nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đường nào.”
Những từ vựng về không gian: trời, trăng, sao; thời gian cụ thể: ban ngày,
ban đêm, các hiện tượng tự nhiên: mưa, nắng, gió. Ví dụ:
“Gió đưa trăng thì trăng đưa gió
Trăng lặn rồi gió biết đưa ai.”
Có những từ vựng trẻ biết được trong trò chơi, trong sinh hoạt hoặc trong
quá trình tham gia lao động:
“Nghé ơi, ta bảo nghé này
Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu
Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.”
Với những quan hệ xã hội đã đem đến cho trẻ một kho tàng từ vựng cụ thể
liên kết lại với nhau:
“Ăn một bát cơm
Nhớ người cày ruộng
Ăn một đĩa muống
38
Nhớ người đào ao
Ăn một quả đào
Nhớ người vun gốc
Ăn một con ốc
Nhớ người đi mò
Sang đò
Nhớ người chèo chống
Nằm võng
Nhớ người mắc dây
Đứng mát gốc cây
Nhớ người trồng trọt”
Như vậy, ngôn ngữ mà trẻ em học được qua đồng dao là từ vựng và đại bộ
phận là những từ vựng cụ thể, còn ngôn ngữ trừu tượng thì chỉ có thể hình thành khi
trẻ đi học hay được tiếp xúc nhiều với những từ ngữ trừu tượng của người lớn.
Trong đồng dao, trẻ nhận biết được bước đầu về cấu trúc ngữ pháp theo cách nghĩ
đơn giản của trẻ là cấu trúc hỏi và trả lời. Ví dụ:
“Bông chi?
Bông bác
Bác chi?
Bác hùm”
Hay trong đồng dao “Rồng rắn lên mây”
“Thầy thuốc: Thầy thuốc có nhà không?
Rồng rắn: Thầy thuốc không có nhà”
Từ việc học hỏi những từ vựng cụ thể, với khả năng quan sát của trẻ được
phát triển, ngôn ngữ đồng dao miêu tả chi tiết một cách sinh động và có sự kết hợp
miêu tả với tự sự:
“Kít non con nít
Cái hình nhỏ xít
Đội mũ lá mít
Cưỡi ngựa tàu cau
Đứa trước đứa sau
Rủ nhau một lũ
Ăn rồi đi ngủ 39
Ngủ dậy đi chơi
Xuống nước tập bơi
Lên bờ đánh đá
Miệng thổi kèn lá
Tít tít tò te”
Với các em mọi loài vật hay đồ vật xung quanh mình đều ở trạng thái hoạt
động.
“Con cua mà có hai càng
Đầu tai không có bò ngang cả đời.”
Ngôn ngữ đồng dao giàu âm thanh, đặc biệt là những âm thanh này là những
âm thanh mô phỏng hay bắt chước âm thanh phát ra từ các đồ vật hoặc động vật.
“Theo tâm lý học trẻ em thì thính giác và thị giác của trẻ em phát triển rất sớm từ
khi trẻ còn dưới một tuổi, nhưng thính giác phát triển mạnh hơn trong khi thị giác
phát triển có tính định hướng (Ví dụ theo ánh sáng, màu sắc).” [1; 59]. Đó là những
đồng dao mô phỏng tiếng gà, lợn, trâu bò, tiếng rán mỡ “xèo xèo”, tiếng đồng hồ
tích tắc…
Ví dụ:
“Con gà cụt tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi…”
Hay:
“Lúc la lúc lắc
Tích ta tích tắc
Ngày ngày đêm đêm
Chỉ giờ chỉ khác….”
Đối với các em, thì những lời đồng dao này chỉ được chú ý về mặt ngữ âm
hơn ngữ nghĩa. Đôi khi những âm thanh này chỉ vang lên như một mệnh lệnh để bắt
đầu hoặc kết thúc trò chơi.
“Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cổng nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê 40
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Xì xà xì xụp”
Ngôn ngữ đồng dao mang sắc thái vui tươi, ngộ nghĩnh. Đó là những ngôn
ngữ nói ngược:
“Trâu thì nhảy nhót đi chơi
Chích chòe cày ruộng cho người lúa khoai”
Có thể đó là cách nói lặp đi lặp lại:
“Ba bà đi bán lợn con
Bán đi chẳng được lon ton chạy về
Ba bà đi bán lợn sề
Bán đi chẳng được chạy về lon ton.”
Có thể là cách nói vòng tròn:
“Con chim manh manh
Nó đậu cành chanh
Tôi vác miếng sành
Tôi liệng nó chết giãy
Tôi làm bảy mâm
Tôi đem tôi kính
Cho thầy một mâm
Thầy hỏi chim chi?
Con chim manh manh…”
Ngoài ra, ngôn ngữ đồng dao còn là ngôn ngữ mang cách nói gây cười:
“Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay lên tận thiên tào
Ngọc hoàng phán hỏi đứa nào đốt rơm?”
Hay:
41
“Ngồi buồn nói chuyện láo thiên
Hồi tôi còn nhỏ rủ đi khiêng ông tời
Ra đồng thấy muỗi đớp dơi
Bọ hung đám giỗ đi mời ông voi.”
Với suy nghĩ chủ quan của trẻ mà người lớn không tài nào hiểu được. Cho
nên ngôn ngữ đồng dao đôi khi chỉ có lời mà không có nghĩa. Nhưng loại đồng dao
này rất được các em chú ý bởi âm thanh vui tai và nhịp điệu nhẹ nhàng. Cụ thể là
bài đồng dao “Cùm nụm cùm nịu” hoặc “Nu na nu nống”. Ngôn ngữ đồng dao là
ngôn ngữ của trẻ em. Tuy có một vài trường hợp có ngôn ngữ người lớn trong
những bài đồng dao nhưng chỉ với số lượng rất nhỏ. Đồng dao là do trẻ em sáng tạo
nên điều đó không thể nào chối cãi được. Vì thế mà ngôn ngữ trẻ em đi vào đồng
dao một cách nhanh chóng đó cũng là lẽ tự nhiên. Trong lúc vui chơi trẻ em hát
cùng thế giới tự nhiên, xã hội xung quanh mình. Qua đó làm cho tiếng nói của các
em phát triển phong phú thêm đặc biệt là về vốn từ vựng. Mọi hình thức đồng dao:
Nói xuôi, nói ngược, hát vui chơi… đều nhằm mục đích để các em được vui chơi,
được giao tiếp với nhau, và đồng thời cũng là nơi để các em có sự am hiểu ngày
càng tốt hơn về ngôn ngữ của dân tộc.
Có thể nói rằng: đối với các em lớn lên ở nông thôn không có đứa trẻ nào
không lớn lên trong vòng tay của bà, lời ru của mẹ. Với những lời uyển chuyển đó
mà ngôn ngữ của lời ru dễ dàng đi sâu vào tâm hồn của các em. Bên cạnh nhạc điệu
trầm bổng, ngữ âm giản dị và mộc mạc thì ngôn ngữ lời ru còn là ngôn ngữ của sự
kết hợp giữa đời thường và ngôn ngữ thi ca. Do đó mà ngôn ngữ đồng dao rất gần
với trẻ:
“Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về
Bắt được con trám con trê
Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn.”
Và chứa nhiều chất thơ:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hô thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
42
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Ngôn ngữ đồng dao còn là những ngôn ngữ sinh động, gợi cảm. Đó là các
ngôn ngữ về việc phân tích hiện thực tự nhiên, xã hội sâu sắc.
“Trời mưa
Quả dưa vẹo vọ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn.”
Cũng với tính chất truyền miệng và nhiều dị bản của đồng dao cho nên ngôn
ngữ đồng dao thường mang sắc thái địa phương. Ở từng vùng, từng địa phương mà
đồng dao được hát theo các làn điệu dân ca khác nhau.
Từ thực tế trên cho thấy: ngôn ngữ đồng dao mang tính chất vui tươi, trong
sáng và gây được hứng thú cho trẻ em. Đồng thời, còn là ngôn ngữ của sự mộc mạc,
hồn nhiên, sinh động… Đặc biệt trong những câu đố trẻ em thì ngôn ngữ lại mang
tính đa nghĩa, nhiều ẩn dụ, nặng về lý trí khêu gợi óc tìm tòi của trẻ. Đồng dao
không chỉ giúp trẻ phát triển về mặt ngôn ngữ mà còn góp phần tích cực trong phát
triển tình cảm và tư duy của trẻ em.
2.2.3. Thể thơ
“Qua thống kê từ 113 đơn vị đồng dao ở lứa tuổi nhi đồng, các thể thơ của
đồng dao được tính theo tỉ lệ phần trăm, như bảng sau:
2 3 4 5 6 7 Lục Hỗn Ghi chú tiếng tiếng tiếng tiếng tiếng tiếng bát Hợp
Tổng số đơn vị
0 2.66 64.60 0 2.66 1.77 20.35 7.96 đồng dao khảo sát:
113
Bản thống kê trên chưa phải là số liệu khảo sát từ toàn bộ đồng dao ở An
Giang nói riêng mà chỉ là số lớn đồng dao Việt Nam nói chung mà thôi. Do đó,
những số liệu chỉ có giá trị tương đối. Dù sao, những số liệu thống kê trên đây có
thể giúp rút ra một số kết luận, ít nhất cũng để tham khảo.
Thể thơ bốn tiếng được sử dụng rộng rãi và thuần thục trong đồng dao. Với
cách ngắt nhịp 2/2 rất phù hợp với cách hát của trẻ em. Không những hát mà trẻ em 43
có thể nói tùy theo cách sáng tạo riêng của từng em. Vì vậy, thể thơ này không đòi
hỏi phải tuân theo một cách xướng âm khuôn mẫu sẵn có nào cả. Nhịp 2/2 vui tươi,
nhẹ nhàng lại phù hợp với nhịp thở vừa phải của các em. Hát đồng dao không cần
luyến láy, lên bổng xuống trầm như những làn điệu dân ca trữ tình của người lớn.
Vì thế mà thể thơ bốn tiếng chiếm đại đa số đồng dao.
Thể thơ bốn tiếng thường sử dụng 4 kiểu gieo vần:
Kiểu 1: vần chân kết hợp với vần lưng, tiếng cuối dòng đầu vần với tiếng thứ
hai dòng liền sau, tiếng cuối của dòng liền sau này vần với tiếng thứ hai của dòng
tiếp sau nó, thường theo cách đổi bằng trắc một cách đều đặn, và liên tục như vậy
cho đến hết bài.
“Ù à ù ập
Bắt chập lá tre
Bắt đè lá muống
Bắt cuống lên hoa
Bắt gà mổ thóc
Bắt học cho thông
Cày đồng cho sớm
Nuôi lợn cho chăm
Nuôi tằm cho rõi
Dệt cửi cho mau
Nuôi trâu cho mập
Ù ập ù à”
Kiểu 2: vần chân, tiếng cuối của mỗi dòng đều mang vần theo từng cặp,
thường các vần bằng trắc nối tiếp nhau một cách đều đặn, cho đến hết bài. Do đều là
vần chân, nên đó đồng thời cũng là điểm nhấn giọng khi hát. Nếu dòng đầu mang
vần bằng thì dòng sau mang vần trắc và ngược lại.
“Thứ ở hỗn hào,
Là rau ngành ngạnh.
Trong lòng không chánh,
Vốn thiệt rau lang.
Đất ruộng bò ngang,
Là rau muống biển, 44
Bình bát nấu canh,
Ăn hơi tanh tanh
Là rau diếp cá”
Kiểu 3: là kiểu có sự kết hợp hai kiểu trên. Ví dụ:
“Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cổng nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Xì xà xì xụp?
Toàn bài đồng dao được làm theo kiểu 1 chỉ trừ cặp dòng 2-3 làm theo kiểu2.
Ngoài ra, còn có một số kiểu vần khác không thuộc ba kiểu vừa trình bày
trên, chúng gồm những kiểu vần, nhịp linh hoạt, riêng lẻ. Ví dụ: bài đồng dao dưới
đây chỉ gieo toàn vần chân, hầu hết nối kết theo cặp nhưng linh hoạt, không đổi
bằng trắc một cách đều đặn như ở kiểu 2.
“Ngày xửa ngày xưa
Có mười ông vua
Một ông tịt mít
Chết một còn chín
Một ông ị rịn
Chết một còn tám
Một ông vốc cám
Chết một còn bảy…”
Trong đồng dao, đặc biệt là trong những bài hát ru thì thể thơ lục bát lại giữ
vai trò quan trọng và chiếm tỉ lệ khá nhiều. Bởi những lời hát ru có thể thơ gần với
dân ca. Tiết tấu của thể thơ này là 2/2/2 – 2/2/2/2, câu hát êm dịu, nhịp nhàng, đều
đều đưa trẻ vào giấc ngủ say nồng.
“Trời mưa/ bong bóng/ phập phồng
45
Mẹ đi/ lấy chồng/ con ở/ với ai?”
Lời ru trên được sáng tạo theo thể lục bát với cách gieo vần thông thường, số
lời gieo vần tiếng thứ sáu câu lục với tiếng thứ tư của câu bát. Tuy nhiên, có một số
bài đồng dao được làm theo thể lục bát biến thể với cách gieo vần không theo chuẩn
mực mà chỉ sáng tạo dựa vào tính tự nhiên của việc kết hợp giữa thanh điệu, ngữ
điệu.
Hiện tượng phối thanh bằng trắc không đúng chuẩn:
“Con mèo mày trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đằng xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.”
Tiếng thứ tư của dòng lục “trèo” sai luật (lẽ ra phải theo thanh trắc) khi so
sánh với cách phối thanh chuẩn mực: (b: bằng, t: trắc).
1 2 3 4 5 6 7 8
Dòng lục - b - t - b
Dòng bát - b - t - b - b
Hiện tượng vần lưng gieo ở tiếng thứ tư:
“Cái bống là cái bống bang
Khéo sảy khéo sàng cho mẹ nấu cơm.”
Có vần lưng của dòng bát nằm ở tiếng thứ tư “sàng”. Lời ca dao quen thuộc:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Có tiếng cuối dòng thứ hai vần với tiếng thứ hai của dòng thứ ba (mà không
phải là tiếng thứ sáu). Đồng thời, dòng thứ ba đảo ngược sáu tiếng chính của dòng
thứ hai. Như vậy, trẻ con sáng tạo bài hát để vui chơi cho nên ta không nên ép buộc
phải tuân theo luật làm thơ. Có như vậy thì đồng dao mới là đồng dao.
Ngoài ra, đồng dao còn có các thể thơ khác. Đó là thể thơ hai tiếng (thường
46
gặp trong đồng dao có kết cấu hỏi – đáp):
“Bông chi?
Bông bác
Bác chi?
Bác hùm…”
Thể thơ ba tiếng (thường gặp trong đồng dao có kết hợp với trò chơi):
“Tập tầm vông
Tay nào không?
Tay nào có?
Tập tầm vó
Tay nào có?
Tay nào không?”
Thể thơ sáu tiếng thì thường có trong các lời đồng dao có kết cấu vòng tròn.
Đó là những bài như “Kì nhông là ông kì đà”, “Sáo sậu là cậu sáo đen” .
Hay:
“Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim ri.”
Thể thơ bảy tiếng thì gồm nhóm đồng dao nhận biết về các sự vật, hiện
tượng:
“Cây ngô đồng không trồng mà mọc
Rễ ngô đồng rễ dọc rễ ngang
Quả dưa gang trong vàng ngoài trắng
Quả mướp đắng trong trắng ngoài xanh.”
Tuy nhiên, đồng dao còn có thể hỗn hợp gồm nhiều dòng với số lượng tiếng
của mỗi dòng khác nhau, cách gieo vần, tạo nhịp khá linh hoạt và tự do. Thể thơ
này có được là vì khi sáng tạo đồng dao các em chỉ chú ý đến nội dung cho nên kể
bằng mấy tiếng cũng được.
“Đúc cây dừa
47
Chừa cây mộng
Cây tầm phổng
Cây mía lau
Cây nào cao
Cây nào thấp
Cây nào rơi
Chùm tơi chín đỏ
Quan văn, quan võ
Ăn trộm trứng gà
Bù xa, bù xít
Thì ra tay này.”
Nhìn chung thể thơ đồng dao khá đa dạng, cách gieo vần trong từng thể thơ
cũng thay đổi. Thể bốn tiếng vẫn là thể chính và được các em vận dụng nhiều hơn
bởi cách gieo vần của thể này rất đơn giản. Thể lục bát cũng là thể phổ biến bởi các
em lớn lên bên chiếc nôi, cánh võng, lời ru. Vì thế mà thể lục bát đi vào lòng các em
từ lúc tuổi nằm nôi và nó hình thành cho đến khi các em lớn thêm. Còn các thể thơ
hai tiếng, ba tiếng, sáu tiếng, bảy tiếng hay thể hỗn hợp thì lại mang một hình thức
riêng đã làm nên một dạng đặc biệt cho thể thơ đồng dao.
Tiểu kết
Về nội dung và nghệ thuật đồng dao, chúng tôi giải quyết các vấn đề hiện
thực của thiên nhiên, con người và xã hội loài người trong đồng dao. Mọi thứ hiện
lên sinh động và ngộ nghĩnh dưới cái nhìn và sự hiểu biết hơn, đơn giản hơn. Đó
không phải là những cái gì đó xa lạ mà là những gì gần gũi xung quanh các trẻ,
hằng ngày các em nhìn thấy và sử dụng. Hình ảnh của đồng dao khác biệt với hình
ảnh sử dụng trong văn chương nói chung, ở chỗ mỗi hình ảnh thường được đánh
dấu riêng không liên quan đến hình ảnh khác. Chúng phản ánh lối tư duy chưa mạch
lạc của trẻ. Bằng nhiều kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ gần gũi mà đồng dao đi vào tiềm
thức của các em một cách dễ dàng đã góp phần hình thành nguồn tri thức phong phú
48
cho các trẻ.
CHƢƠNG 3
TRÒ CHƠI TRẺ EM NGƢỜI VIỆT Ở AN GIANG
Trong việc giáo dục trẻ, không phải chỉ dạy chúng học, dạy chúng tập làm
việc này, việc khác, cũng không phải đưa ra những bài lý luận khác nhau mà cũng
cần săn sóc đến sự tiêu khiển của chúng. Chính những sự tiêu khiển này giúp chúng
mở mang trí tuệ, biết dần nếp sống mới, biết được sự khó khăn trong đời sống. Chơi
với học đi liền với nhau. Trong lúc chơi các em luyện tập ý chí, luyện tập thân thể,
luyện tập sự khéo léo, chí khí, đức tính… Tuy nhiên, ở mỗi vùng, miền thì sẽ có
những thú tiêu khiển riêng, khác nhau phù hợp với hoàn cảnh địa lý, kinh tế, xã hội
của nơi đó.
Trình bày những trò chơi của trẻ em người ở An Giang, chúng tôi chia làm 3
phần: Phần thứ nhất những trò chơi cá nhân, phần thứ hai những trò chơi tập thể và
phần thứ ba là những trò chơi kết hợp đồng dao.
3.1. Trò chơi cá nhân
Đây là trò chơi mà các em có thể thực hiện ngay trước sân nhà, hành lang,
trong vườn, dưới bóng mát… Không cần tới một khoảng quá rộng các em vẫn có
thể chơi được. Thường những trò chơi này không đòi hỏi một sự đông đảo, có thể
các em chơi một mình với búp bê, những cây trái, hoa lá xung quanh… Với những
trò chơi cá nhân như thế, các em thơ thẩn không quấy mẹ nhưng các em cũng tìm
thấy được sự thích thú, vui vẻ trong sự hồn nhiên, vô tư của mình.
3.1.1. Trò chơi nhảy dây
Đối tượng chơi: Trẻ em từ 6 tuổi trở lên.
Mục đích chơi:
- Phát triển cơ tay và rèn luyện sự nhanh nhẹn của đôi chân.
- Rèn luyện sự khéo léo cho trẻ.
Chuẩn bị:
- Một đoạn dây thừng hoặc dây thung dài khoảng 1.5- 2 mét.
- Nơi nhảy dây là mặt đất phẳng, rộng.
Cách chơi:
Hai tay cầm hai đầy dây, đưa dây ra phía sau lưng, quay cổ tay cho dây quay
trên đầu văng xuống đất, hai chân nhảy lên để dây qua dưới chân gọi là nhảy tới;
mỗi lần nhảy như vậy được tính một lượt. Vừa nhảy một lượt trẻ đếm “năm, mười, 49
mười lăm, hai mươi, hai mươi lăm…” cứ thế cho đến “một trăm” thì trẻ bắt đầu
đếm lại. Khi nhảy chậm dây không qua được chân là hỏng và trò chơi kết thúc. Nếu
trẻ chưa mệt thì có thể chơi lại từ đầu tương tự như vậy. Với trò chơi này nhiều trẻ
cũng có thể cùng chơi với nhau.
3.1.2. Lộn tùng phèo
Đối tượng: Thường là dành cho các em nam từ 5 tuổi trở lên.
Mục đích:
- Tập cho các em lòng can đảm.
- Luyện cổ tay, cổ chân cho các em thêm cứng cáp.
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi của trẻ.
Chuẩn bị: một chiếc chăn bông hoặc những cái gối trên giường hay một
chiếc giường nệm…
Cách chơi:
Các em quỳ úp sấp, rồi hai tay chống ra trước cùng với đầu. Sau đó các em
dùng sức mạnh đưa cả người lộn ngửa qua đầu và hai tay đã chống xuống giường.
Các em đã lộn một vòng, sự lộn này được gọi là “lộn tùng phèo”.
Đây là trò chơi có độ nguy hiểm cao, vì trò chơi có thể làm cho các em trẹo
xương cổ, trẹo tay… Nhưng với tuổi nhỏ các em không chú ý đến sự nguy hiểm,
nhưng bởi sự tinh nghịch nên các em thấy thích chơi “lộn tùng phèo”.
3.1.3. Thổi bong bóng
Đối tượng: Các em mọi lứa tuổi từ 4 tuổi trở lên.
Mục đích chơi:
- Giúp các em tăng trí tưởng tượng, làm cho sự mơ mộng của các em
thêm bay bổng.
- Giúp các em hình thành dần dần ý niệm về cái đẹp, phát triển năng
khiếu thẩm mỹ.
- Cung cấp kiến thức về cuộc sống. Những thứ làm ra dễ dàng và mau
chóng như bong bóng xà phòng thì dù có đẹp cũng mau hư hại.
Ngược lại, muốn có kết quả tốt đẹp mà bền vững, thì người ta phải
50
chịu khó tốn công vào thời gian đầu tư.
Chuẩn bị:
- Một bát nước xà phòng khá đặc. Hoặc dùng lá gòn góp nát rồi đánh
với nước, lượt bỏ xát rồi bỏ ít xà phòng vào.
- Một ống hút hoặc một ống tre, ống đu đủ… dài cỡ một gang tay và
đường kính nhỏ 1 – 2 mm.
Cách chơi:
Các em nhúng ống vào bát nước xà phòng, rồi đưa lên thổi. Các em sẽ được
quả bong bóng hoặc những chùm bong bóng ánh bảy màu cầu vồng bay tỏa trên
không trung, trước mặt các em. Gặp gió có thể được đưa đi khá xa mới vỡ trông rất
đẹp mắt. Đôi khi với độ đậm đặc thích ứng của xà phòng, các em có thể thổi được
những quả bong bóng rất lớn.
3.1.4. Mảnh thiếc quay
Đối tượng: các em trên 7 tuổi mới có thể chơi được trò chơi này.
Mục đích:
- Luyện tập cho trẻ sự khéo léo.
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.
Chuẩn bị: Một mảnh thiếc tròn hay nắp lon nước ngọt đập dẹp, một sợi dây.
Cách chơi:
Các em cắt một mảnh thiếc tròn cỡ đồng xu đường kinh từ 2 – 3 phân.
Không có mảnh thiếc các em có thể dùng giấy bồi. Giữa hình tròn các em dùi hai lỗ
nhỏ cân nhau, rồi luồn một sợi dây hơi dài qua hai lỗ này. Hai đầu dây được nối lại,
các em dùng hai ngón tay trò lồng vào đây ở phía hai đầu, căng dây cho thẳng, mà
để mảnh thiếc tròn nơi chính giữa. Các em xoắn hai bên dây lại, rồi kéo căng ra, lại
trùn ngắn vào, kéo căng trở lại rồi lại trùn trở vào, mảnh thiếc tròn sẽ quay với tốc
độ nhanh và rất đẹp mắt.
3.1.5. Bắt chuồn chuồn
Đối tượng: các em trai, em gái tuổi từ 7 – 10 tuổi.
Mục đích:
- Rèn luyện sự khéo léo, nhẹ nhàng của chân tay.
- Rèn luyện tính kiên nhẫn cho các em.
51
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.
Chuẩn bị: một que tre dài, một đầu que tre các em buộc một sợi tóc đã được
buộc thành một chiếc thòng lọng, một sợi chỉ.
Cách chơi:
Các em đưa chiếc thòng lọng vào đuôi con chuồn chuồn rồi kéo và như vậy
đã bắt được nó. Tuy nhiên, chuồn chuồn rất nhạy nên cần phải hết sức nhẹ nhàng,
khéo léo không gây ra tiếng động, hoặc không làm cho chiếc que tre rung động
khiến chuồn chuồn sợ mà bay đi. Nếu nó bay đi thì phải chờ nó đậu trở lại một nơi
khác mà bắt. Đôi khi trong lúc bắt chuồn chuồn, các em sẽ bị ai đó phá đuổi đi bằng
cách họ hát:
“Chuồn chuồn có cánh thì bay
Không thôi thằng nhỏ thò tay bắt mày.”
Lúc đó các em phải trầm tĩnh, không nổi giận và kiên nhẫn để tiếp tục bắt
được con chuồn chuồn. Khi bắt được con chuồn chuồn, các em buộc nó vào một sợi
chỉ, buộc vào đuôi nó rồi các em cầm sợi chỉ cho nó bay. Các em tinh nghịch hơn
thì sau khi đã dùng sợi chỉ buộc vào đuôi nó rồi, đầu kia sợi chỉ các em buộc vào
một lá cây rồi thả cho nó bay. Lẽ tất nhiên nó muốn bay cao không được chỉ bay là
là mặt đất.
3.1.6. Vòng cổ
Đối tượng: các bé gái từ 6 tuổi trở lên.
Mục đích:
- Rèn cho các em sự khéo léo, cẩn thận.
- Rèn luyện về ý thức thẩm mỹ cho các em.
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.
Chuẩn bị: một hoa sen còn cả cuống hoa.
Cách chơi:
Cuống hoa sen, khi ta nhẹ nhẹ bẻ, ta sẽ thấy có những sợi tơ sen nối liền hai
đoạn, những tơ sen này cũng khá dai. Các em dùng cuống hoa sen bẻ thành từng
đoạn ngắn không rời, vẫn dính vào nhau bởi những tơ sen. Dùng nhiều cuống hoa
sen nối liền nhau, và được bẻ thành đoạn ngắn như vậy, các em có một chuỗi dài
những đoạn cuống sen và dưới cùng có một bông sen.
Các em quấn chuỗi này quanh cổ một hay nhiều vòng các em có một chiếc
52
vòng cổ tương tự như chuỗi hạt vàng của người lớn. Các em cũng cũng dùng những
cuống hoa sen làm những chiếc vòng đeo tay. Điều cần lưu ý là khi bẻ cuống hoa
sen làm chuỗi hạt, các em phải nhẹ tay, nếu không những tơ đen sẽ bị đứt. Các em
cẩn thận khi bẻ thì sẽ được một chuỗi hạt dài, chuỗi hạt càng dài các em càng thích
thú.
3.1.7. Kèn lá cây
Đối tượng: các em từ 6 – 7 tuổi trở lên.
Mục đích:
- Rèn luyện sự khéo kéo cho trẻ.
- Rèn luyện cho trẻ về kiến thức âm nhạc.
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí.
Chuẩn bị: bất cứ lá cây gì cũng tạo được chiếc kèn: lá cóc kèn, lá tre, lá
chuối, lá dừa…
Cách chơi:
Các em tạo bằng lá cây quấn lại, trên nhỏ dưới loe. Kèn chế tạo bằng lá thổi
không kêu thét như còi, nhưng nghe kêu te te cũng đủ làm cho các em thích thú.
Các em thổi mạnh, thổi nhẹ phát ra âm thanh khác nhau các em sẽ cảm thấy sung
sướng mà thổi vang nhà.
3.2. Trò chơi tập thể
Trò chơi tập thể chiếm số lượng rất lớn. Bởi đây là trò chơi mang lại rất
nhiều niềm vui và ở đây cũng bắt đầu xuất hiện tình đoàn kết trong các em. Nói đến
trò chơi tập thể không thể không kể đến những trò chơi sau đây:
3.2.1. Bịt mắt bắt dê
Đối tượng: các em từ 6 – 15 tuổi.
Mục đích:
- Củng cố vận động đi và bò cho trẻ.
- Phát triển khả năng định hướng trong không gian cho trẻ.
- Phát triển các giác quan và khả năng phán đoán cho trẻ.
- Cung cấp kiến thức về thế giới động vật cho trẻ.
53
- Phát triển ngôn ngữ và thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.
Cách chơi:
Trò chơi này diễn ra ngoài trời trong sân bãi. Cần một em xung phong làm dê
và một em xung phong làm “người bắt dê”. Còn tất cả các em có mặt đứng quây
thành một vòng tròn rộng khoanh vùng khu vực tìm bắt dê và dê hoạt động.
Em làm dê và em bắt dê đều được dùng khăn buộc kín cả hai mắt. Khi em
bắt hô “xong” thì cuộc chơi bắt đầu. Dê di chuyển chỗ nào tùy ý, nhưng thỉnh
thoảng phải kêu lên “be be.”. Em bắt dê căn cứ vào tiếng kêu, tiếng bước chân di
chuyển của dê và sự phán đoán của mình lần tìm bắt dê. Dê ngoài tiếng kêu bắt
buộc phải khéo léo di chuyển sao cho không gây nên tiếng động và đoán định
hướng có thể bị đón bắt mà tìm cách tránh. Vì cả hai bên bắt và tránh bị bắt đều bị
bịt kín mắt nên đôi tai và khối óc của hai em phải được huy động tối đa để chơi sao
cho đạt hiệu quả.
Các em ở ngoài vừa xem vừa vui cười mách bảo, gợi ý để làm lạc hướng di
chuyển của dê và người bắt, gây nên những pha gây cấn, bất ngờ kéo dài cuộc chơi.
Dê bị bắt thì lại chơi ván khác. Có thể thay người làm dê và người bắt dê bằng các
em khác.
3.2.2. Trốn tìm
Đối tượng: các em từ 6 – 15 tuổi.
Mục đích:
- Phát triển các giác quan và khả năng phán đoán cho trẻ.
- Rèn luyện cho đôi chân nhanh nhẹn.
- Luyện tập đếm số cho trẻ.
Cách chơi:
Số lượng trẻ chơi từ 6 – 8 trẻ. Lấy một cái cột hay một cây dừa, cây chuối…
làm chuẩn, gọi là “cột đùng”. Một trẻ làm “cái” đọc “nhiều ra ít bị” các trẻ khác
giơ tay lên khi đến chữ “bị” các trẻ đồng loạt giơ tay xuống úp hay ngửa là tùy các
trẻ. Nhưng nếu đa số các trẻ đều ra bề úp (hoặc bề ngửa) mà có một trẻ ra bề ngửa
(hoặc bề úp) thì bị bắt bịt mắt lại cho các bạn trốn. Trong lúc nhắm mắt trẻ đó đọc
số: “năm, mười, mười lăm, hai mưoi…” cho đến “một trăm” thì trẻ tìm dừng lại và
mở mắt ra trẻ nào chưa trốn kịp sẽ thua, còn nếu các trẻ đã trốn hết thì trẻ nhắm sẽ
54
đi tìm.
Những trẻ đi trốn, tìm cách chạy mau về cột đùng, không để cho trẻ đi tìm
bắt được, chạy được về đến cột đùng, tay ôm cột nói một tiếng “đùng”. Trẻ đi tìm,
nếu không bắt được ai thì phải tiếp tục nhắm để chơi lại. Trẻ đi trốn, nếu bị trẻ đi
tìm bắt được thì thay trẻ đi tìm. Trò chơi tiếp tục.
3.2.3. Chọi cỏ gà
Đối tượng các em từ 6 – 7 tuổi trở lên.
Mục đích:
- Rèn luyện sự héo léo cho các em.
- Nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi của các em.
Chuẩn bị: càng nhiều “cỏ gà” càng tốt.
Cách chơi:
Các em tìm trong đám cỏ những cây “cỏ gà”, các em nhổ lấy cả thân, và mỗi
cây cỏ là một con gà. Cây cỏ gà, nơi đầu tròn thành một núm, núm này dính vào
thân cây. Chọi cỏ gà, các em chọi tay đôi, mỗi em có trong tay năm cỏ. Mỗi em lựa
một cây cỏ gà để chọi nhau.
Một em chìa cây cỏ gà của mình ra, để em kia lấy một cây cỏ gà khác đánh
mạnh vào, nhắm nơi đầu cỏ gà dính vào thân cây. Với cái đánh mạnh ấy, và nhằm
trúng nơi cỏ gà dính với thân cỏ, em đánh với sự khéo léo làm đứt đầu cây cỏ của
em kia, nhưng nếu vụng về kết quả có khi trái lại, thay vì cây cỏ bị đánh một lần rồi
lại đến em kia. Em đã đánh trước lại phải chìa cây cỏ gà ra để chịu lấy cái đánh của
em kia.
Ở đây không có sự hơn thua, nhưng các em thích thú khi đánh đứt đầu được
cây cỏ gà của bạn cùng chơi. Hai em cứ thế chơi với nhau cho tới khi nào không
còn tìm thấy cỏ gà thì nghỉ.
3.2.4. Pháo đất
Đối tượng: trò chơi cần từ 2 – 5 em, các em từ 10 tuổi trở lên.
Mục đích:
- Rèn luyện sự khéo tay cho các em.
- Rèn sự điều khiển cánh tay cho chính xác khi ném pháo hay các vật
thể khác.
55
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.
Chuẩn bị: đất sét hay đất bùn nhưng có độ dẻo và không quá mềm hoặc
cứng. Cách chơi:
Các em lấy đất sét nhào nặn thành những quả tròn to ước chừng bằng quả
cam, rỗng ruột, giống như nhưng chiếc nồi đất. em nào nặn xong trước trình cho các
em khác xem và cầm quả giống chiếc nồi đất nơi tay phải, đít nồi nằm ở lòng bàn
tay, miệng nồi chia ra ở phía trên. Em đó đứng dậy và nói lớn: “Pháo nổ, pháo
nang, cả làng chịu chưa?”. Các em đồng thanh trả lời “chịu”. Em đó dang cánh tay
cầm chiếc pháo đập nó xuống đất, vừa đập vừa lựa cho phía miệng pháo giáng
xuống. Miệng pháo úp kín mặt đất trước sức mạnh của em dang tay đập nổ lên tiếng
kêu to như pháo nổ. Như thế là em đã thành công. Nếu em nặn chiếc pháo không
khéo, hoặc đít pháo không đủ mỏng cho pháo có thể nổ khi miệng pháo úp xuống
đất, hoặc miệng pháo không đủ bằng để khi pháo ném xuống đất úp kín mặt đất,
pháo sẽ không nổ.
Pháo cũng không nổ nếu lúc ném pháo em không khéo léo để miệng pháo
hơi kênh không úp kín mặt đất. Như vậy em không thành công, và em đó sẽ bị phạt.
Khi một quả pháo của em khác nổ, làm vỡ một mảnh ở thân pháo, em phải véo một
miếng đất ở đít nơi quả pháo của em hàn vào chỗ vỡ này.
Các em tham dự lần lượt ném pháo của mình, hết lượt lại bắt đầu trở lại. Em
nào pháo nổ càng to thì được ca ngợi. Pháo em nào không nổ bị chê là “pháo lép”
lấy phần pháo của em đó hàn pháo cho các em có pháo nổ.
3.2.5. Nhảy cò chẹp
Đối tượng: các bé gái từ 6 tuổi trở lên, đôi khi các bé trai cũng chơi trò này.
Mục đích:
- Tập cho em sức dẻo dai, khéo léo.
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho các em.
Chuẩn bị: phấn, gạch, một khoảng sân đủ rộng để vẽ bàn “cò chẹp”.
Cách chơi:
Để chơi trò này phải có ít nhất từ hai em trở lên, nếu số lượng quá đông các
em có thể chia nhóm chơi. Các em dùng phấn trắng vẽ trên đất bàn “cò chẹp” (có
thể là bàn cò hình chữ nhật hay bàn cò hình tàu bay).
Để phân biệt thứ tự đi trước đi sau các em dùng một mảnh gạch tương đối
56
vuông vắn. Các em đứng quay lưng vào bàng cò chẹp trên một mức vạch, tung
mảnh gạch lên. Mảnh gạch nào rơi vào trong bàn cò chẹp mà ở cao nhất thì em đó
đi đầu, rồi lần lượt đến các em khác theo thứ tự mảnh gạch rơi thấp hơn. Em nào có
mảnh gạch rơi ra ngoài bàn cò chẹp dù cao nhất cũng phải đi sau cùng. Nếu mảnh
gạch của hai em cùng ở ngoài thì mảnh gạch của em nào gần bàn cò chẹp nhất thì
được đi trước em kia.
Bắt đầu chơi, em thứ nhất tung mảnh gạch vào ô số một nếu mảnh gạch rơi
ra ngoài thì em đó bị hỏng, đến lượt em kế tiếp. Nếu mảnh gạch rơi trúng ô số một,
thì em đó phải nhảy cò vào ô số 2, rồi cò lên tới ô số 8 đối với bàn cò hình tàu bay
(ô số 10 đối với bàn cò hình chữ nhật), rồi trở về ô số 7 rồi lại cò về ô số 2 nhặt
mảnh gạch lên, cò vào ô số 1 rồi cò ra ngoài.
Cứ như thế tiếp tục cho tới hết các ô số. Mỗi lần chỉ được một ô số. Khi chơi
hết các ô số thì các em được quyền mua nhà, nghĩa là các em đứng quay lưng lại với
bàn cò, em thẩy mảnh gạch đúng ô nào thì ô đó là nhà của em, mọi người không
được cò vào đó. Có khi chơi dễ dãi, các em vạch một đường thẳng cho thuê một lối
đi để các em khác nhảy qua. Khi đã có nhà rồi em này khi đến ô nhà thì nhảy vào đó
bỏ chân xuống nghỉ mà không cần phải cò một chân cho đỡ mỏi. Sau đó cò tiếp các
ô số còn lại.
Nếu em nào thẩy nhầm mảnh gạch vào nhà đã được mua thì gọi là cháy nhà
và phải cố gắng chơi để mua nhà đền lại cho em có nhà bị cháy. Nếu trường hợp em
đó có nhà rồi thì giao nhà đó lại cho em kia. Tuy nhiên có trường hợp một số em
làm nhà mình cháy thì lại trở về con số không. Các em chơi cho tới khi toàn bộ ô số
là nhà thì kết thúc và bắt đầu vòng chơi khác nếu muốn.
8
7
9
10
6
7
8
5
4
5
6
3
3
4
2
1
2
1
Hình 1: Bàn cờ hình chữ nhật.
57
. Hình 2: Bàn cờ hình tàu bay.
3.2.6. Làm kiệu
Đối tượng: các em trai từ 10 tuổi trở lên. Nếu có em gái thì chỉ để làm quan
ngồi trên kiệu.
Mục đích:
- Rèn luyện thể lực, lòng can đảm cho các em.
- Tập cho các em tính nhẫn nhục khi bị bắt làm kiệu cho bạn khác
ngồi.
Cách chơi:
Hai em làm kiệu đứng đối diện nhau, mỗi em duỗi thẳng tay trái, còn tay
phải gập lại nắm lấy cánh tay trái này ở phía trong khuỷu tay. Bàn tay duỗi thẳng
của em này nắm lấy cánh tay gập lại của em kia ở ngoài khuỷu tay. Đấy là cái kiệu,
hai em khi đã làm xong kiệu đều ngồi xổm xuống đất, để em thứ ba bước lên kiệu
ngồi. Em thứ ba ngồi kiệu theo thế ngồi nghiêng, hai chân em để lọt vào khoảng
trống trước trong khuỷu tay, và hai tay em có thể quàng lên cổ hai em làm kiệu.
Kiệu đã có người ngồi, hai em làm kiệu từ từ đứng lên, và em ngồi kiệu vẫn
ngồi nguyên trên kiệu. Kiệu được di chuyển theo bước đi của hai em, hai em khiêng
kiệu phải đi nghiêng, các em đi nghiêng như vậy em ngồi kiệu mới tiến thẳng. Đi
một quảng rồi các em nghỉ và tới lượt em khác làm kiệu, em kia ngồi kiệu. Cứ thế
thay phiên nhau làm và ngồi cho tới khi chán mới thôi.
3.2.7. Trò chơi nhà chòi (bày hàng, bán hàng)
Đối tượng: các em gái từ 4 tuổi đến 7 tuổi.
Mục đích:
- Giúp các em nhanh nhẹn trong việc buôn bán, ngã giá, tính nhẩm…
- Tạo cho các em sự ham thích trong việc kinh doanh, buôn bán sau
này.
- Tập cho các em sự giỏi giang trong việc đi chợ.
Cách chơi:
Các em dùng đồ chơi của mình hay bất cứ hoa lá, cây trái, vật gì đó… mà
các em có. Các em bày thành một cửa hàng, cùng với các em khác giả làm người
mua. Các em tưởng tượng rau lá cây… làm cá, thịt hay bất cứ đồ dùng khác để bán.
58
Các em chơi đến khi chán thì nghỉ.
3.2.8. Kéo co
Đối tượng: các em trai từ 10 tuổi trở lên.
Mục đích:
- Rèn luyện chân tay các em thêm cứng cáp, cơ thể nở nang.
- Trò chơi là bài học về tình đoàn kết.
- Thử thách sức chịu đựng khi các em chịu sức kéo của hai bên.
- Rèn luyện sự gan dạ, chịu đựng đau đớn cho các em.
Cách chơi:
Muốn chơi kéo co, các em phải có một số đông, ít nhất mỗi bên từ 5- 6 em
trở lên. Các em chơi kéo co không có dây và cũng không có cột trụ. Các em trực
tiếp dùng tay và dùng sức để kéo.
Các em tham dự chia ra hai bên, mỗi bên nhân số đều nhau. Hai em đứng
đầu mỗi bên thường là những em lớn và khỏe mạnh, các em này được gọi là các em
“đầu dây”. Hai em này nắm lấy tay nhau, tay phải em nọ nắm lấy cổ tay trái em
kia, còn các em khác thì ôm sau bụng em trước để kéo. Bên nào kéo được đối
phương về bên mình là được.
Đang giữa cuộc, nếu vì sức mạnh của đối phương, một em đứng giữa các em
khác vì yếu sức, tay không ôm chặt được bụng em trước, bên em bị tách làm hai
phần, như vậy gọi là “đứt dây”. Bên đứt dây thường bị thua bên kia, vì sức kéo
giảm đi và chỗ đứt dây chưa kịp nối lại, phần đằng trước đã bị sức mạnh của bên kia
kéo về họ. Sau một keo, các em có thể chơi tiếp những keo khác, với sự sắp xếp kẻ
trước người sau lại để tránh đứt dây lần nữa.
3.3. Trò chơi kết hợp đồng dao
3.3.1. Tập tầm vông
Đối tượng: các em từ 5 tuổi đến 10 tuổi.
Mục đích:
- Giúp các em làm quen với nhịp điệu của bài hát.
- Trò chơi luyện óc quan sát, luyện trí nhớ cho các em.
Cách chơi:
Người chị dùng một vật gì nhỏ có thể nắm gọn vào lòng bàn tay được,
thường trươc đây là đồng tiền kẽm. Người chị chia cho em bé thấy đồng tiền với hai
59
bàn tay lật ngửa, đồng tiền nằm trên một trong hai lòng bàn tay, sau đó đưa cả hai
tay lẫn đồng tiền ra sau lưng, nắm lại. Hai nắm tay được đưa về phía trước và hỏi
em bé đồng tiền nằm trong tay nào, qua một câu hát:
“Tập tầm vông
Tay nào không?
Tay nào có?
Tập tầm vó
Tay nào có?
Tay nào không?
Hai nắm tay không chìa thẳng ngay ra cho em mà được đánh vòng vuộc chỉ
trước mắt em, tay nọ đưa ra tay kia đưa vào cùng theo một chiều, hai tay như cuốn
lấy nhau duỗi thẳng ra trước mặt. Em chỉ vào một nắm tay của chị. Chị xòe tay ra,
nếu trong tay có đồng tiền, thì nói: “Đúng!”. Nếu đồng tiền ở trong tay kia, bàn tay
không cũng được xòe ra, và chị nói: “Sai!”. Em chỉ đúng thì đến lượt em giấu đồng
tiền đố chị, và người chị cũng sẽ chỉ đúng hoặc sai bàn tay có nắm đồng tiền.
3.3.2. Oẳn tù tì
Đối tượng: các em từ 6 tuổi trở lên.
Mục đích:
- Rèn luyện khả năng suy đoán cho trẻ.
- Thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.
- Dùng để quyết định ai đi trước đi sau trong các trò chơi khác.
Cách chơi:
Thường là hai em. Các em đứng đối mặt nhau, hai bàn tay nắm lại. Vừa vung
vẩy vừa nắm tay này vừa xướng lên:
“Oẳn tù tì
Ra cái gì
Ra cái này”
Phải vung vẩy cùng đều nhau, khi đến tiếng “này” cuối cùng thì các em
cùng giơ bàn tay tượng trưng cho: Cái búa (bàn tay nắm chặt), cái kéo (giơ hai ngón
tay trỏ và giữa, còn ba ngón kia quặp lại), cái bao (bàn tay ròe rộng).
Cách tính bị thua:
Búa thắng kéo và thua bao.
60
Kéo thắng bao nhưng thua búa.
Bao thắng búa nhưng thua kéo.
Nếu cùng ra một thứ thì hòa và làm lại.
Với những trò chơi có kết hợp lời đồng dao trên là một kênh học tập về vốn
từ rất tốt đối với các em mọi lứa tuổi. Trò chơi có kèm theo những lời đồng dao làm
cho cuộc chơi thêm ồn ào, náo nhiệt hơn. Đem đến cho các em những bài học giá trị
về cuộc sống, về toán học… Và điều quan trọng hơn hết là đem đến cho các em
những nụ cười vui vẻ nhất.
3.3.3. Mèo đuổi chuột
“Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Mèo đuổi đằng sau
Chuột cố chạy mau
Trốn đâu cho thoát
Thế rồi chú chuột
Lại hóa vai mèo
Co cẳng đuổi theo
Bắt mèo hóa chuột.”
Đối tượng: Các em thuộc nhiều độ tuổi khác nhau, thông thường từ 7 tuổi trở
lên.
Mục đích:
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Rèn luyện sự nhanh nhẹn cho đôi chân của trẻ.
- Cung cấp cho các em kiến thức về động vật và quy luật “mèo ăn thịt
chuột”.
Cách chơi:
Trò chơi thành từng nhóm, khoảng 7 đến 10 trẻ, đứng thành vòng tròn cầm
tay nhau giơ cao lên đầu, đồng thanh hát. Chọn hai em: một làm mèo, một làm
chuột, đứng ở giữa vòng tròn tựa lưng vào nhau. Khi nào các bạn hát đến câu cuối
cùng thì “chuột” chạy, “mèo” đuổi theo. Chuột chui vào khe nào (giữa hai bạn
61
đứng giơ tay) thì mèo phải chui đúng khe ấy, nếu mèo bắt được chuột thì mèo thắng
cuộc, hai em đổi vai cho nhau. Nếu mèo chui nhầm, phải ra ngoài một lần chơi. Nếu
mèo không bắt được chuột, sau một thời gian quy định của trò chơi, thì hai em đổi
vai cho nhau (chuột làm mèo, mèo làm chuột), trò chơi lại tiếp tục.
3.3.4. Xỉa cá mè
Đối tượng: dành cho các em từ 6 đến 10 tuổi.
Mục đích:
- Cung cấp kiến thức về các loại “men”.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Giúp trẻ linh hoạt trong việc trả giá, mua bán.
Cách chơi:
Nhiều em cùng chơi, ngồi xếp hàng ngang, hai chân duỗi thẳng, quần vén
cao trên đầu gối. Em trưởng trò ngồi giữa, dùng tay phải vừa xướng lời vừa điểm
đầu ngón trỏ vào từng chân từ trái sang phải và cũng tuần tự ngược lại từ phải sang
trái và cứ lần lượt như vậy cho đến cuối lời bài đồng dao:
“Xỉ cá mè
Đè cá chép
Chân nào đẹp
Đi buôn men
Chân nào đen
Phải làm mèo
Phải làm chó”
Cứ mỗi tiếng điểm một chân. Em nào trúng vào tiếng “men” thì sẽ làm người
đi bán men. Em nào trúng vào “mèo”, “chó” sẽ phải làm mèo, làm chó.
Đến hết bài các em đứng cả dậy. Em buôn men tìm một cái khăn hay cái áo
nào đấy (nhiều khi cởi ngay áo của mình) vắt lên vai làm đẫy đựng men, rồi vừa đi
xung quanh các em vừa rao:
“Trưởng trò hỏi: Một quan bán chăng?
Em bán men: Chăng chăng chẳng bán
Một em khác: Hai quan bán chăng?
Em bán men: Chăng chăng chẳng bán
Các em khác: Ba quan bán chăng?
62
Em bán men: Chăng chăng chẳng bán
Các em khác: Bốn quan bán chăng?
Em bán men: Chăng chăng chẳng bán
Các em khác: Năm quan bán chăng?
Em bán men: Chăng chăng chẳng bán…”
Các em khác cứ lần lượt mà cả giá với em bán men cho đến trả giá mười
quan, cứ hết lượt lại bắt lại từ trưởng trò. Khi đến em trả giá “Mười quan bán
chăng?” thì em bán men đáp: “Chăng chăng bán vậy”. Các em làm động tác trả
tiền và nhận tiền, rồi trao đẫy men cho em trưởng trò.
“Em bán men: Cho tôi mượn cái đòn gánh
Các em: Để làm gì?
Em bán men: Để tôi gánh tiền về
Các em: Đòn gánh nhà không có
Em bán men: Cho tôi xin khúc tre
Các em: Ra vườn mà chặt
Em bán men: Cho tôi mượn con dao”
Em trưởng trò làm động tác lấy dao cho mượn. Em bán men làm động tác
nhận dao rồi đi ra xa, tay vờ cầm dao chặt tre, miệng kêu “Đốp! Đốp!...”. Tức các
em mèo chó lên tiếng. Chó cắn: “Gâu! Gâu!...”. Mèo kêu: “Meo! Meo!...”. Trò
chơi kết thúc.
3.3.5. Dung dăng dung dẻ
“Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cổng nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Xì xà xì xụp
Ngồi thụp xuống đây.”
63
Đối tượng: các em từ 4 đến 9 tuổi.
Mục đích:
- Phát triển ngôn ngữ và sự nhịp nhàng cho trẻ.
- Cung cấp kiến thức về thế giới động vật cho trẻ.
- Rèn luyện trí nhớ và thỏa mãn nhu cầu vui chơi cho trẻ.
Cách chơi:
Trẻ nắm tay nhau thành từng đôi một, hoặc thành hàng ngang 4 – 5 trẻ, vừa
đi vừa hát. Khi đọc đến chữ “dung” thì vung tay về phía trước, đến chữ “dăng” thì
tay vùng về phía sau. Tiếp tục như vậy cho đến cuối cùng thì ngồi thụp xuống. Sau
đó đứng dậy đọc lại từ đầu và chơi tiếp.
Tiểu kết
Hiện nay, sinh hoạt đồng dao không còn rầm rộ, thường xuyên như trước bởi
trẻ em còn phải đến trường và có nhiều phương tiện để giải trí hơn, nhưng sinh hoạt
đồng dao vẫn còn xuất hiện ở một vùng quê ở nông thôn về sự hồn nhiên, vô tư,
trong sáng.
Các loại hình trò chơi phổ biến được đề cập trong chương 3. Trong chương
này chúng tôi sưu tầm và trình bày theo trình tự trò chơi cá nhân, tập thể, trò chơi
kết hợp đồng dao. Tuy nhiên do số lượng trò chơi phong phú cho nên chúng tôi chỉ
trình bày những trò chơi quen thuộc, đơn giản, thường được nhiều trẻ em chơi nhất,
64
một phần cũng chính bản thân đã được chơi.
KẾT LUẬN
Đồng dao là một bộ phận quan trọng trong kho tàng thơ ca dân gian gồm
những lời hát do các em sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu vui chơi của lứa tuổi và
thường gắn với các trò chơi của trẻ em, giúp các em tiếp xúc với môi trường thiên
nhiên, xã hội, đời sống gần gũi với các em, đem lại cho các em những cảm xúc tốt
đẹp, những hiểu biết phù hợp với tâm lý của trẻ. Đồng thời góp phần giáo dục các
em thành những người công dân tốt. Bên cạnh đó, những bài đồng dao, những trò
chơi còn giúp các em trong việc phát triển trí, đức, thể, mỹ… Tạo nền tảng cho các
em phát triển toàn diện khi trưởng thành. Những sáng tác đồng dao thường được ghi
lại trong các bộ sưu tập trò chơi trẻ em, sưu tập ca dao (hay Văn học dân gian nói
chung).
Người viết trên tinh thần tôn trọng những người đi trước, xem các nhìn nhận
đánh giá của các tác giả này như việc mở đường, chí ít cũng là sự chỉ bày, gợi ý.
Đồng thời tự đặt ra trách nhiệm cho mình là kế tục làm sao cho con đường ấy ngắn
nhất để người tiếp nhận có thể tiếp cận vấn đề một cách dễ dàng, thuận tiện.
Mặc dù đã có nhiều công trình bàn đến đồng dao và trò chơi trẻ em, nhưng
không ít vấn đề còn mang tính chất chung, sơ bộ. Điều này cũng nói lên việc cần
thiết phải có mặt một chuyên luận nhằm bàn kĩ và có cái nhìn nhất quán về đồng
dao ở An Giang.
Vấn đề được bàn đến đó là việc định nghĩa đồng dao. Lí do phải xác định là
vì tránh sự nhằm lẫn đồng dao với các thể loại văn học dân gian khác (ca dao, câu
đố, vẻ…). Ở ba mục: tính chất, chức năng, tác dụng được nêu lên nhằm khẳng định
vị trí, vai trò, cũng như tầm quan trọng của đồng dao trong công tác giáo dục, nuôi
dưỡng tinh thần cho trẻ.
Người viết giải quyết các vấn đề về những hiện thực của thiên nhiên, con
người và xã hội loài người trong đồng dao. Mọi thứ hiện lên thật sinh động và ngộ
nghĩnh dưới cái nhìn và sự hiểu biết đơn giản của trẻ thơ. Đó không phải là những
cái gì đó xa lạ mà là những gì gần gũi xung quanh các em, hằng ngày các em nhìn
thấy và sử dụng. Hình ảnh của đồng dao khác biệt với hình ảnh sử dụng trong văn
chương nói chung, ở chỗ mỗi hình ảnh thường được đóng khung riêng không liên
65
quan đến các hình ảnh khác. Chúng phản ánh lối tư duy chưa mạch lạc của trẻ.
Bằng nhiều kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ gần bũi mà đồng dao đi vào tiềm thức của
các em một cách dễ dàng đã góp phần hình thành nguồn tri thức phong phú cho trẻ.
Các loại hình trò chơi phổ biến được người viết sưu tầm và trình bày theo
trình tự trò chơi cá nhân, tập thể, trò chơi kết hợp đồng dao. Tuy nhiên do số lượng
trò chơi phong phú cho nên người viết chỉ trình bày những trò chơi thường thấy các
em chơi nhất. Với mong muốn cung cấp nguồn tài liệu cho công tác giáo dục từ
mầm non đến cơ sở nên người viết trình bày rất cụ thể về đối tượng, mục đích chơi,
cách chơi trong mỗi trò chơi.
Đồng dao thực sự là những sáng tạo thông minh của các tác giả nhỏ vô danh.
Vừa mang tinh giải trí, vừa có tính giáo dục rèn luyện cho trẻ em trong những năm
tháng ấu thơ, các bài đồng dao đã đánh thức, nuôi dưỡng và phát triển trí tưởng
tượng phong phú, hồn nhiên của trẻ em. Có nhiều ý kiến cho rằng đồng dao khiến
trẻ ngoan ngoãn, thuần tính, dễ bảo hơn là những sự răn đe, dọa nạt của người lớn.
Bên cạnh đó, do buộc phải cùng chơi, cùng ca hát, diễn trò theo nhóm nên đồng dao
cũng là cơ hội rèn luyện tính cộng đồng, tình yêu thương đùm bọc cho một đứa trẻ
để chuẩn bị hành trang vào đời trong tương lai. Không ai khẳng định được đồng dao
ra đời từ bao giờ, nhưng chắc chắn một điều, đồng dao là một phần trí tuệ và tài sản
66
văn hóa của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Nghĩa Dân (2005), Đồng dao Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
2. Nguyễn Nghĩa Dân (2010), Đồng dao và ca dao cho trẻ em, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
3. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội Nhà văn.
4. Nguyễn Hữu Hiệp (2010), Trò chơi dân gian ở An Giang, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
5. Vũ Ngọc Khánh (1993), Thi pháp đồng dao, Tạp chí Văn học, số 5, tr.20- 23.
6. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa dân gian người Việt: Lễ hội và trò chơi
dân gian, Nxb Quân đội nhân dân Hà Nội.
7. Trần Gia Linh (2011), Kho tàng đồng dao Việt Nam, Nxb Giáo dục.
8. Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng
(1997), Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt, Nxb Văn hóa thông tin Hà
Nội.
9. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1969), Đồng dao - Thi ca bình dân, tập 4, Sài
Gòn.
10. Hoàng Mai (2007), Câu đố dân gian Việt Nam, Nxb Thanh Hóa.
11. Thái Phong Minh (1998), Lịch sử trò chơi (Tự Thanh dịch), Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Thảo Ngọc (2007), Những bài đồng dao và ca dao mới, Nxb Văn hóa thông
tin Hà Nội.
13. Triều Nguyên (2008), Tìm hiểu lối nối vòng trong đồng dao, Tạp chí Ngôn
ngữ và Đời sống, số 7, tr. 31- 33.
14. Triều Nguyên (2010a), Đồng dao người Việt, Nxb Thuận Hóa.
15. Triều Nguyên (2010b), Tìm hiểu về đồng dao người Việt, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
16. Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội và
trung tâm Từ điển học phối hợp xuất bản, Hà Nội.
17. Nguyễn Hữu Thu (1986), Diễn xướng đồng dao, Tạp chí Văn học, số 4, 79-
67
91.
18. Nguyễn Hữu Thu (1987), Mẹ hát ru con, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
19. Phan Trọng Thưởng, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn (1999), Tuyển tập 40
năm Tạp chí văn học (1960 – 1999), tập 1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1983), Tìm hiểu dân ca Nam Bộ (Chuyên khảo),
68
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.