TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***************
HOÀNG VŨ THỊ THU HÀ
VĂN HÓA LÀNG
TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới ThS.
Nguyễn Phương Hà giảng viên khoa Ngữ văn – Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm khóa luận
tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã cung cấp kiến thức về văn học và
tạo điều kiện tốt nhất để em có thể thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Để hoàn
thành khóa luận này, em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình,
bạn bè, những người thân là điểm tựa vững chắc giúp em hoàn thành tốt nhiệm
vụ học tập và nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Hoàng Vũ Thị Thu Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự
hướng dẫn của ThS. Nguyễn Phương Hà. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nghiên cứu nào. Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Hoàng Vũ Thị Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1 ...................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................................... 7
1.1. Đặc trưng văn hóa làng xã Việt Nam ......................................................... 7
1.1.1. Làng xã Việt Nam mang tính cộng đồng ................................................ 8
1.1.2. Làng xã Việt Nam mang tính chất tự trị ............................................... 10
1.2. Tác giả Kim Lân ....................................................................................... 11
1.2.1. Cuộc đời ............................................................................................... 11
1.2.2. Sự nghiệp .............................................................................................. 12
1.3. Đóng góp của Kim Lân về đề tài văn hóa làng trong văn học Việt Nam
hiện đại ............................................................................................................ 13
CHƢƠNG 2 .................................................................................................... 15
NHẬN DIỆN VĂN HÓA LÀNG VÀ NHỮNG KIỂU NHÂN VẬT ĐẶC TRƢNG TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN ......................................... 15
2.1. Các kiểu loại làng quê Việt ...................................................................... 15
2.1.1. Làng quê truyền thống .......................................................................... 16
2.1.2. Làng xóm ngụ cư ................................................................................... 24
2.1.3. Làng xóm thời kì cải cách ruộng đất ..................................................... 29
2.1.4. Làng xóm tản cư .................................................................................... 32
2.2. Những kiểu nhân vật đặc trưng trong truyện ngắn Kim Lân ................... 36
2.2.1. Nhân vật nghệ sĩ .................................................................................... 36
2.2.2. Nhân vật thượng võ ............................................................................... 42
2.2.3. Nhân vật nhỏ bé, đời thường ................................................................. 47
KẾT LUẬN .................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của Kim Lân tuy không đồ sộ nhưng lại rất
đặc sắc và khó trộn lẫn bởi lối viết văn giản dị, gần gũi, dễ hiểu. Một số
truyện ngắn của ông được xếp vào hàng xuất sắc trong văn xuôi Việt Nam thế
kỉ XX, có thể kể đến tác phẩm: Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí... Là nhà văn
luôn lấy hiện thực cuộc sống làm chất liệu sáng tác, Kim Lân đã vẽ lên bức
tranh làng quê với vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt Nam trong sáng, yêu
đời. Hồn quê đã thấm đẫm vào ông, khiến cho hầu hết các truyện ngắn của
ông đều có dáng dấp và hình ảnh của làng quê Việt và của chính bản thân tác
giả.
1.2. Kim Lân được biết đến là nhà văn của làng quê Việt. Chính bởi vậy,
để tạo nên những trang văn thấm đẫm không gian văn hóa làng quê Kinh Bắc
cũng như tạo dựng phong cách riêng khi viết về đề tài nông thôn Việt Nam,
Kim Lân đã thể hiện sự am hiểu, tài năng khám phá, yếu tố đời sống, lối sống
và phông văn hóa làng xã Việt Nam. Bản thân là người cầm bút, Kim Lân
hiểu rằng chiều sâu của các tác phẩm không chỉ là những mối quan hệ đơn
thuần về quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội mà còn là mối quan hệ về văn hóa.
Văn hóa chính là chất liệu để tạo nên đề tài, chủ đề… góp phần nuôi dưỡng
văn học phát triển. Bởi vậy, hướng tiếp cận tác phẩm dưới góc nhìn văn hóa
sẽ cắt nghĩa một cách đầy đủ hơn về tác phẩm của nhà văn.
1.3. Hiện nay những truyện ngắn của Kim Lân được giảng dạy ở nhiều
cấp học trong nhà trường: THCS, THPT. Vì thế tìm hiểu đề tài Văn hóa làng
trong truyện ngắn Kim Lân là việc làm mang ý nghĩa khoa học, thực tiễn,
giúp cho học sinh có sự cảm thụ văn chương tinh tế cùng với vốn hiểu biết
1
thêm về phông nền văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán, con người thế kỉ
XX.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kim Lân là cây bút truyện ngắn sớm có chỗ đứng trên văn đàn dân tộc
và là nhà văn được bạn đọc trân trọng, yêu mến. Kim Lân và các truyện ngắn
của ông đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều học giả, độc giả dưới
nhiều góc độ, phương diện khác nhau trước Cách mạng tháng Tám và sau
Cách mạng tháng Tám.
Nổi bật hơn cả và cũng sớm hơn cả là hướng nghiên cứu tập trung vào
nội dung sáng tác của Kim Lân. Đây cũng là điều tất yếu, bởi vấn đề nhà văn
phản ánh cũng chính là chìa khóa để mở cánh cửa những điều trăn trở, quan
tâm của họ trước cuộc đời. Nhà văn Nguyên Hồng trong Những nhân vật ấy
đã sống với tôi kể lại rằng: “Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc
mấy truyện của Kim Lân… Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn
thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả
chữ nhau với một số tên như Mộng Ngọc, Mộng Dương, hay Hoài Trạch,
Hoài Tâm… lúc bấy giờ vậy. Nhưng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà
tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại có một cái gì đó
chân chất của đời sống con người nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung
cảm thắm thiết, đặc biệt là lại gần gũi với mình…” [5]. Đây có thể xem là một
ý kiến rất đáng chú ý khi tìm hiểu truyện ngắn của Kim Lân. Ở những tác
phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh hiện thực sâu sắc
nhưng chất hiện thực vẫn toát ra một cách tự nhiên từ những hình tượng nhân
vật của ông. Bởi đó thường là những con người sống ở quê hương Kim Lân,
ruột thịt với ông, từ cuộc sống lam lũ bần cùng, họ đã trực tiếp bước vào văn
học.
2
Điểm lại lịch sử nghiên cứu về Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân
cũng đưa ra nhận xét: “Đọc văn Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những
người dân nghèo vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người dân miền
xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ, bến
sông, một góc phố hay ven một đồn điền, một xóm trại, tiếp tục vật lộn với
miếng sống sơ đẳng hàng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân
vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó
xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của
chính các nhân vật ấy (...) mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất
nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế
khóa, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức đọa đày” [2].
Tìm hiểu về quan niệm sáng tác của Kim Lân, nhà nghiên cứu Trần Hữu
Tá cho rằng: “Kim Lân quan niệm viết văn như cách đòi cho mình một thân
phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của
quê hương” [17].
Đáng chú ý nhất là đánh giá của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh. Trong cuốn
Tổng tập văn học Việt Nam, tác giả đã tỏ ra khá tinh tế vá sắc sảo khi nhận
xét về đề tài phong tục và thú chơi đồng quê của Kim Lân. Ông cho rằng:
“Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là
“thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”… Sở dĩ có sự hấp dẫn, không
phải vì ở đấy những tập quán ngộ nghĩnh, kỳ lạ, những thú chơi phiền phức,
cầu kỳ được trình bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã thể hiện lên được
những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ thiếu thốn
mà vẫn yêu đời” [8].
Từ đó, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khái quát nội dung truyện ngắn
Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám 1945: “Đó là những trang số phận của
các đầu thừa, đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy
3
trắng chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về phía phong
tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh… nhưng vẫn biểu hiện một
phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám những
người sống vất vả, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, trong sáng thông minh, tài
hoa” [8].
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã nhận xét về truyện ngắn của Kim
Lân sau Cách mạng tháng Tám bằng cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan
điểm lịch sử như: “Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung
vào phương diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận
mệnh đất nước. Về đề tài này Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những
truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [9].
Trong Tuyển tập mười năm tạp chí văn học và tuổi trẻ (2003), những
dòng cô đúc đã cố gắng khái quát về truyện ngắn sau cách mạng của Kim
Lân: “Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về
những cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân
dưới chế độ cũ và sự đổi đời của họ nhờ cách mạng” [16].
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong Tạp chí văn học số 6 cũng đã
trích dẫn lời nhận xét của tác giả Lữ Huy Nguyên về toàn bộ truyện ngắn Kim
Lân: “Nếu có dịp đọc toàn bộ tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu là truyện
ngắn ta sẽ thấy, ông không chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa
đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của những người tài hoa, bặt
thiệp, phong lưu riêng…” [2]. Rõ ràng, trong truyện ngắn Kim Lân, người đọc
dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố chất và vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con
người làng quê Bắc bộ - những con người lịch lãm, hào hoa và đầy tinh thần
thượng võ.
Khẳng định về tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, tác giả Hà Minh
Đức viết trong Nhà văn nói về tác phẩm cho rằng: “Kim Lân là một trong
4
những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân
đã tạo được cách viết độc đáo… Phải nói rằng Kim Lân viết không
nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc” [3]. Cả
đời văn Kim Lân chỉ chuyên tâm viết truyện ngắn. Truyện của ông thường tập
trung miêu tả sinh hoạt làng quê và hình tượng người nông dân. Nhưng thế
giới nghệ thuật của ông không vì vậy mà bị giảm sức sống và sự hấp dẫn.
Trên đây là một số trong rất nhiều công trình nghiên cứu về con người và
văn chương Kim Lân. Có thể thấy dù tiếp cận và nghiên cứu ở góc độ khác
nhau nhưng nhìn chung ta vẫn nhận thấy dấu ấn văn hóa làng đậm chất trong
các sáng tác của nhà văn được các nhà nghiên cứu quan tâm và bàn tới song
tất cả đều là những bài viết lẻ tẻ, mang tính chất gợi mở. Trên tinh thần tiếp
thu và vận dụng những thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
chúng tôi đi sâu tìm hiểu đề tài: Văn hóa làng trong truyện ngắn Kim Lân
với mong muốn giúp người đọc cảm nhận rõ yếu tố văn hóa đồng thời thể
hiện sự yêu quý, sáng tạo của Kim Lân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đề tài dưới góc nhìn văn hóa làng, khóa luận giúp cho người
đọc hiểu được phông văn hóa làng xã, từ đó có cái nhìn chiều sâu về đời sống,
con người và văn hóa của đất nước thuần nông nghiệp.
Khẳng định tài năng, vị trí của Kim Lân và những đóng góp của ông
trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ khái niệm văn hóa làng, chúng tôi đi sâu nhận diện văn hóa làng
(truyền thống; ngụ cư; tản cư) và những kiểu nhân vật đặc trưng (nhân vật
nghệ sĩ; nhân vật thượng võ; nhân vật nhỏ bé, đời thường).
5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Văn hóa làng trong truyện ngắn
Kim Lân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Tuyển tập truyện ngắn Kim Lân,
Nxb Văn học (2011).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài khóa luận chúng tôi vận dụng một số phương pháp
chính sau đây:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Phương pháp thống kê
Phương pháp so sánh
Phương pháp phân tích, bình giảng
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung khóa luận
triển khai theo hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nhận diện văn hóa làng và những kiểu nhân vật đặc trưng
trong truyện ngắn Kim Lân
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đặc trƣng văn hóa làng xã Việt Nam
Việt Nam là một đất nước giàu truyền thống văn hóa. Nét nổi bật khi nói đến
văn hóa Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định:
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất và đa dạng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Vì vậy, văn hóa Việt Nam là
một nền văn hóa nông nghiệp, cụ thể là văn hóa nông nghiệp lúa nước. Trong
đó, văn hóa làng xã là kết tinh đậm đặc những đặc trưng cơ bản của văn hóa
Việt Nam.
Về cơ bản thì các khái niệm về làng xã được đưa ra khá thống nhất,
dưới đây là một số khái niệm do các nhà nghiên cứu đưa ra:
Theo Từ điển tiếng Việt: “Làng là đơn vị hành chính ở nông thôn,
cũng thường gọi là xã hay làng xã, làng xóm” [6].
Theo GS. Phan Huy Lê thì: “Làng xã cổ truyền là đơn vị tự cư, là cộng
đồng dựa trên quan hệ láng giềng kết hợp với quan hệ huyết thống, là môi
trường sinh hoạt văn hóa - xã hội từ bao đời nay gắn bó với cuộc sống của
người dân Việt Nam…” [10, 126].
Tìm hiểu khái niệm làng, tác giả Đỗ Lai Thúy cho rằng: “Làng là đơn vị
cộng cư cơ bản nhất của người Việt. Làng Việt được thoát thai từ công xã
nguyên thủy và sau đó là công xã nông thôn” [14, 106].
Theo các quan niệm trên, chúng ta có thể thấy: Làng xã trước hết là một
đơn vị cộng cư cơ bản.
Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông
nghiệp. Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng quê. Hình ảnh làng
với luỹ tre xanh, cây đa, giếng nước, sân đình đã trở nên rất thân thuộc trong
7
tâm hồn người Việt Nam. Lật lại những trang sử của ngành kiến trúc Việt
Nam, người ta thấy rằng kiến trúc Việt Nam ra đời rất sớm, có thể đã xuất
hiện từ thời vua Hùng dựng nước, cách nay khoảng bốn ngàn năm. Làng xóm
cũng xuất hiện vào thời kỳ này.
Làng Việt Nam là sự tích hợp của những gia đình với nhiều phương thức
và quan hệ khác nhau, ít thì dăm bảy chục, nhiều thì vài trăm hộ, có quỹ đất,
tín ngưỡng và phong tục tập quán riêng. Làng là sự liên kết chặt chẽ dòng họ,
giáp phe, phường hội… Các nhà kiến trúc cho rằng làng xã Việt Nam có tính
quần thể cao, có kiểu kiến trúc đơn giản nhẹ nhàng phù hợp với khí hậu và tập
quán của người Việt Nam. Làng luôn được bao quanh bằng những luỹ tre
xanh. Sau luỹ tre xanh là những mái nhà tranh ấm cúng, nơi cưu mang che
chở cho con người. Làng Việt là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội
Việt Nam, nổi lên là gia đình (nhà) – làng – nước, với hai đặc trưng cơ bản là
tính cộng đồng và tính tự trị.
Văn hóa làng Việt Nam là hiện tượng lịch sử cũng là hiện tượng dân
tộc. Văn hóa làng vốn có từ ngàn xưa nhưng vẫn tồn tại đến ngày nay với sự
ngưng kết đậm đặc biểu hiện trong lối sống, phong tục tập quán, kho tàng văn
hóa dân gian, tín ngưỡng – tôn giáo…Văn hóa làng còn chứa đựng những giá
trị vật chất đình, chùa, miếu, lũy tre, bến nước, cây đa,…Tất cả “những yếu tố
vật thể và phi vật thể trên không đứng đơn lập, rời rạc mà hòa quyện vào
nhau, tích hợp lại thành bản sắc văn hóa làng, lưu truyền từ thế hệ trước sang
thế hệ sau như một dòng chảy không bao giờ dứt” [13].
Khi nói về văn hóa làng, các nhà nghiên cứu đã nêu bật được hai đặc
trưng cơ bản đó là: Tính cộng đồng và tính tự trị.
1.1.1. Làng xã Việt Nam mang tính cộng đồng
Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo
nên tính cộng đồng làng xã. Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm: “Tính cộng đồng
8
là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới
người khác - nó là đặc trưng dương tính hướng ngoại” [4].
Người Việt Nam ta vốn xưa nay quen lối sống tình cảm. Mối quan hệ
làng xã khiến người ta phải gắn bó với nhau, phải giữ gìn được quan hệ trong
ấm ngoài êm, sống có tình có nghĩa có tình với nhau. Chỉ có thế người ta mới
có thể duy trì được sự cố kết của cộng đồng. Sự duy trì này không chỉ diễn ra
trong những cộng đồng theo huyết thống như gia đình, dòng họ mà ở cả
những cộng đồng theo quan hệ láng giềng với nhau: ngõ, xóm, làng, vùng
miền…
Mặt khác, tính cộng đồng có vai trò gắn kết các thành viên trong làng lại
với nhau thông qua các biểu tượng mang tính truyền thống như cây đa, bến
nước, sân đình. Hầu hết, mọi làng của người Việt đều hội tụ cả ba biểu tượng
này. Như vậy, tính cộng đồng đóng một vai trò rất lớn trong đời sống sinh
hoạt của người dân làng xã. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất
cùng họ là đồng tộc, cùng tuổi là đồng niên, cùng nghề là đồng nghiệp, cùng
quê là đồng hương. Do sự đồng nhất giống nhau “cùng hội cùng thuyền” cho
nên mọi người luôn sẵn sàng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong
cộng đồng như anh em, chị em trong nhà “tay đứt ruột xót”, “chị ngã em
nâng”… Điều đó làm cho các quan hệ tình cảm của các thành viên trong làng
xã thêm gắn bó. Đặc biệt trong khó khăn, họ có thể hi sinh cho cộng đồng,
trước hết là gia đình, dòng họ, làng xóm sau đó là đất nước. Vì vậy đã tạo nên
sức mạnh quật cường tính tập thể rất cao, mọi người trong cộng đồng đều gắn
bó tập thể. Sự đồng nhất cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ,
bình đẳng bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức nông theo địa bàn cư trú, theo
nghề nghiệp, theo giáp.
9
1.1.2. Làng xã Việt Nam mang tính chất tự trị
Cùng với tính cộng đồng, tính tự trị cũng là một đặc trưng gốc rễ trong
văn hoá làng của người Việt. Tính tự trị nhấn mạnh vào sự khác biệt. Đối với
làng, biểu tượng truyền thống của tính tự trị là luỹ tre làng. Luỹ tre trở thành
thành luỹ kiên cố của làng bất khả xâm phạm. Đối với người Việt, bên ngoài
luỹ tre làng là cả một thế giới khác cho nên có người cả đời không bước ra
khỏi luỹ tre làng. Do tính chất khép kín dẫn đến làng người Việt luôn mang
trong mình tính bảo thủ, địa phương cục bộ “Trống làng nào làng đấy đánh”,
“Thánh làng nào làng nấy thờ” hay “Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn”. Tính tự trị cũng tạo cho người Việt tính gia trưởng tôn ti hay óc
bè phái tư hữu ích kỷ. Bởi vậy trong làng, người ta coi trọng tôn ti, họ to họ
nhỏ, con trưởng con thứ, tư tưởng thứ bậc, thói gia đình chủ nghĩa. Khởi đầu
là sự khác biệt của cộng đồng (làng, họ) này so với cộng đồng (làng, họ) khác.
Sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị, tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi
làng, mỗi tập thể hoạt động độc lập với tập thể khác, phải tự lo liệu lấy mọi
việc. Vì phải tự lo liệu, nên con người Việt Nam có truyền thống cần cù, có
tính chịu thương chịu khó đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.
Nó cũng tạo nên nếp sống tự cấp tự túc: mỗi làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho
cuộc sống của làng mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá tự đảm bảo
nhu cầu về ăn, có bụi tre, rặng xoan, gốc mít tự đảm bảo nhu cầu về chỗ ở.
Tóm lại, với đặc trưng vừa mang tính cộng đồng vừa mang tính tự trị cho
nên làng của người Việt có tinh thần đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau nhưng cũng
luôn khép kín bảo thủ. Như vậy: “làng là tổ chức xã hội cơ sở đặc biệt của
người Việt mà từ đó tạo nên tính cách của người Việt, mà một trong những
tính cách mạng, tính truyền thống ngàn đời đó chính là ý thức độc lập và lòng
yêu nước” [18]. Tính cộng đồng làng xóm tạo nên tinh thần đoàn kết toàn dân.
Xét một cách sâu xa, tinh thần đoàn kết toàn dân, ý thức độc lập dân tộc và
10
lòng yêu nước được xuất phát và hun đúc từ truyền thống làng của người Việt
Nam.
1.2. Tác giả Kim Lân
1.2.1. Cuộc đời
Kim Lân (1920-2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu,
xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn (nay là làng Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã
Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Xuất thân từ một gia đình nghèo, do hoàn cảnh gia
đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm.
Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được
đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện
(Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa…) mang
tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của
nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ
đó.
Sớm giác ngộ Cách mạng nên từ năm 1944, Kim Lân đã tham gia Hội
Văn hóa Cứu quốc cùng với Nguyên Hồng, Nam Cao (những người bạn thân
thiết, đồng tâm của ông). Cuộc kháng Pháp nổ ra, ông tiếp tục có mặt trong
phong trào Văn hoá cứu quốc, công tác ở các báo Chi Lăng (Khu ủy khu
XII), Xông pha (Quân đội khu XII), Dân quân Việt Bắc, Hội Văn nghệ
Việt Nam, Báo Văn nghệ.
Kim Lân là một trong những hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông gắn bó với nghiệp làm báo, viết văn, và khẳng định mình ở mảng truyện
ngắn với những trang viết sâu sắc về làng quê Việt Nam, phản ánh sinh động
đời sống tâm tư, tình cảm của người nông dân trong giai đoạn kháng chiến và
sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất. Ông cũng là một trong nhiều nhà
văn có tác phẩm được đưa vào nhà trường giảng dạy từ rất sớm: Vợ nhặt,
Làng.
11
Từ sau năm 1960, hầu như Kim Lân gác bút trên văn đàn. Ở tuổi 40 với
nghệ thuật viết truyện ngắn bậc thầy, cái việc gác bút của ông được coi là
chuyện lạ với mọi người. Thay vào việc viết văn, ông làm việc biên tập sách
và đào tạo thế hệ nhà văn trẻ.
Sinh thời ông sống tại Hà Nội. Nǎm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông từ trần năm 2007 tại Bệnh viện
Hữu Nghị Hà Nội, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn,
hưởng thọ 87 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp
Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám. Ngòi bút của ông luôn hướng
về đề tài nông thôn và nông dân Việt Nam.
Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân là cây bút biết đến với nhiều tác
phẩm được đăng báo như: Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô
Vịa… hầu hết các truyện ngắn chỉ mang tính tự truyện, tuy nhiên vẫn phần
nào phản ánh được bức tranh ảm đạm, tiêu điều vùng nông thôn Việt Nam.
Đặc biệt, Kim Lân được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những mảng đề
tài tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả
chim, đi săn…). Các truyện: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn… kể lại
một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp
tâm hồn của người nông dân, những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng
vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Do đó truyện của Kim Lân giai đoạn này
mang tính hiện thực nhưng cũng rất giản dị, dễ hiểu, cảnh sắc và con người
trong văn Kim Lân thấm đẫm hồn cốt của vùng quê Kinh Bắc.
Sau Cách Mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông
vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam - mảng hiện
thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Từ năm 1954, ông lần lượt công tác ở
12
một số cơ quan văn nghệ Trung ương và tiếp tục sáng tác. Một số tác phẩm
chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện
ngắn, 1962), Hiệp sĩ gỗ, Ông Cản Ngũ (1998)... Có thể nhận thấy rằng số
lượng tác phẩm của Kim Lân không nhiều, nhưng Kim Lân đã có những đóng
góp tích cực trong đề tài truyện ngắn và đề tài nông nông, những sinh hoạt
văn hóa phong phú ở thôn quê. Ông viết về mảng hiện thực này bằng tình
cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng, của nông thôn
Việt Nam.
Nhìn chung các truyện ngắn của Kim Lân không đồ sộ nhưng lại rất đặc
sắc và khó trộn lẫn. Ông là nhà văn có vị trí vững trãi trên thi đàn văn học,
đặc biệt để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua nhiều thế hệ.
Ngoài sáng tác văn học, Kim Lân còn tham gia đóng phim, đóng kịch và
Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy
Lý Cựu trong phim Chị Dậu
Lão Pẩu trong phim Con Vá
Cả Khiết trong vở Cái tủ chè của Vũ Trọng Can
Cụ lang Tâm trong phim Hà Nội 12 ngày đêm
đều thành công. Một số vai tiêu biểu ông tham gia diễn xuất có thể kể đến:
1.3. Đóng góp của Kim Lân về đề tài văn hóa làng trong văn học Việt
Nam hiện đại
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân chính là minh chứng
sinh động cho quy luật muôn thuở “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Sự thành
công của một nhà văn không hẳn đo bằng số lượng tác phẩm viết được, in
được mà quan trọng hơn là chất lượng nghệ thuật ở sự kết tinh tài năng. Hơn
mười năm cầm bút, Kim Lân chỉ sáng tác vẻn vẹn hơn ba mươi tác phẩm thế
nhưng ông vẫn được xem là một cây bút văn xuôi có tầm vóc lớn lao. Điều
đặc biệt phải kể đến là chất liệu được sử dụng trong văn chương của ông đó
13
chính là hơi thở của làng quê Việt, là những nét đẹp về văn hóa, phong tục tập
quán. Qua những truyện ngắn của mình, Kim Lân giúp cho độc giả có cái
nhìn chiều sâu về vốn văn hóa, phong tục, những ngôi chùa cổ kính những
con đường làng lát gạch êm ả của tuổi thơ, hay những ngôi đình, ngôi đền với
cây đa trăm tuổi đều có chỗ đứng trong văn chương. Điều đó đã thể hiện đặc
biệt qua giọng văn của ông và làm độc giả say mê thú vị.
Kim Lân không phải là nhà văn đầu tiên và duy nhất viết về văn hóa,
phong tục Việt Nam. Trước ông đã từng có nhiều nhà văn Ngô Tất Tố,
Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Thạch Lam… nhưng ở mỗi nhà văn lại chọn cho
mình lối đi riêng. Người thì viết về thú chơi hoa thưởng rượu của các nhà Nho
xưa nay chỉ còn vang bóng. Cũng có người viết về văn hóa ẩm thực, nâng nó
lên thành yếu tố thẩm mĩ. Còn riêng đối với Kim Lân thì ông cũng đóng góp
không nhỏ và trong kho tàng văn học, văn hóa dân gian. Ngược trở lại dòng
lịch sử, ông cho người đọc biết đến những giá trị tinh thần của chốn thôn quê.
Mỗi trang viết của ông đều nói tới khung cảnh làng quê, nói tới những nét
tính cách đặc trưng của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Không gian,
thời gian làng quê có lẽ cứ như vậy mà hiện hữu trong từng trang văn. Không
chỉ vậy Kim Lân là một nhà văn đặc biệt am hiểu về những thú chơi tao nhã
của người nông dân. Đó là niềm say mê với hát tuồng, hát kép và cả nghệ
thuật múa rối nước… hay những trò chơi dân gian như trọi gà, thả chim, đấu
vật, đi săn…
Có thể nói Kim Lân là nhà văn “thuần hậu nguyên thủy” những nét đẹp
về văn hóa, phong tục tập quán, lối sống tình làng nghĩa xóm được Kim Lân
tìm hiểu một cách tường tận, tỉ mỉ để từ đó giúp cho bạn đọc có cái nhìn chiều
sâu về vốn văn hóa dân tộc. Qua đó khẳng định Kim Lân đã đóng góp không
nhỏ vào kho tàng dân tộc những giá trị đặc sắc về văn hóa, phong tục, để từ
đó hoàn thiện bức tranh sống động chốn làng quê Việt.
14
CHƢƠNG 2
NHẬN DIỆN VĂN HÓA LÀNG VÀ NHỮNG KIỂU NHÂN VẬT ĐẶC
TRƢNG TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN
2.1. Các kiểu loại làng quê Việt
Nếu nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn làng quê Việt Nam thì
Kim Lân chính là nhà văn của nông thôn làng quê ấy. Bởi trong toàn bộ các
sáng tác của Kim Lân luôn có sự hiện diện của một kiểu “thế giới”, một
khoảng trời riêng dường như chỉ có trong văn của ông. Đó là thế giới mà
nhiều người đã nói tới - Kim Lân là nhà văn của nông thôn Việt Nam. Quan
sát kỹ bức tranh nông thôn làng quê ấy, người ta còn nhận ra rằng đó không
phải là nông thôn làng quê nói chung mà là làng Việt cổ truyền, làng xóm ngụ
cư, làng xóm tản cư của nông thôn Việt Nam trong những năm trước và sau
Cách mạng tháng Tám. Đây có thể xem như là một cấu trúc không gian đặc
thù của nông thôn làng quê với nhiều vẻ đẹp bình dị của con người, của
phong tục văn hóa mà bất kỳ ai cũng cảm nhận được. Nó đòi hỏi nhà văn phải
có một sự nhạy bén, tinh tế, một cách tinh vi điềm tĩnh, soi ngắm từ nhiều
phía, nhiều tầng để cảm nhận.
Kim Lân là nhà văn của nông thôn làng quê Việt Nam nói chung, của
nông thôn làng quê Bắc Bộ nói riêng, nhà văn được ấp ủ, được nuôi dưỡng và
được tưới tắm đời mình từ nhỏ đến lớn giữa cái nôi văn hóa của làng quê ấy.
Và đây được xem như một quá trình thấm thấu để hình thành một hồn văn
Kim Lân độc đáo. Tuy nhiên làng quê trong sáng tạo của Kim Lân lại không
được đặc tả hoặc nhấn mạnh cái nét đặc trưng Kinh Bắc, mà nhà văn lại
hướng tới không gian làng quê Bắc Bộ nói chung. Do đó, thế giới trong
truyện Kim Lân về căn bản là thế giới nhìn từ nông thôn làng quê, hay từ một
mô hình “nông thôn làng Việt” mang bản sắc rất riêng. Ông tiếp cận làng quê
trên bình diện phong tục sinh hoạt văn hóa cùng với những câu chuyện đời tư,
15
đời thường sau lũy tre xanh. Ở đó, người đọc không thấy được cái lo âu sợ hãi
vì gánh nặng của lệ làng, hủ tục, sưu cao, thuế nặng mà chỉ thấy người nông
dân hòa niềm vui vào trong không khí tưng bừng của những lễ hội sinh hoạt
văn hóa làng quê để quên hết những lo âu, vất vả của cuộc sống thường ngày.
Hơn ba mươi truyện ngắn của Kim Lân đều miêu tả hoặc gợi nhắc đến cuộc
sống muôn màu, muôn vẻ của người dân quê trong làng mạc, thôn xóm ngày
xưa. Từ những truyện ngắn: Đôi chim thành, Con mã mái, Cầu đánh vật,
Thƣợng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật… đến Làng, Thư phát động,
Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Ông lão hàng xóm… tất cả đều
chứa đựng một không gian làng nói chung mang đậm màu sắc địa phương bởi
những yếu tố phong tục, những sinh hoạt văn hóa làng xã gắn liền với những
thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng ruộng”, với những buồn vui thế sự, những
số phận, những tâm tình của con người Việt Nam trước và sau Cách mạng
tháng Tám nói chung.
Làng quê ấy của Kim Lân chính là một làng quê truyền thống ngàn đời,
vừa là làng xóm ngụ cư, làng xóm tản cư thời kháng chiến với những biểu
hiện cụ thể của nó. Không gian làng đi vào trang văn của Kim Lân với tất cả
sự sống động của nó.
2.1.1. Làng quê truyền thống
Nhà văn Kim Lân sinh ra và lớn lên ở làng quê Bắc Bộ. Ông gắn bó máu
thịt với bờ tre, mái rạ, giếng nước, sân đình... để rồi sự am hiểu sâu sắc văn
hóa làng xã ấy cùng với nhãn quan của một nhà văn đã tạo nên những tác
phẩm đặc sắc. Khác với các nhà văn cùng thời, Kim Lân đã thể hiện một cái
nhìn sâu sắc, toàn diện về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Với Kim Lân điều cốt lõi làm nên giá trị của tác phẩm là cái nhìn chiều sâu
văn hóa. Ông từng nói: “Đất có lề, quê có thói, văn hóa được tích tụ hàng
nghìn năm, hàng trăm năm. Nó tồn tại và phát triển trong mỗi con người, mỗi
16
gia đình, mỗi làng xã… và từng làng được ghép thành cộng đồng, thành dân
tộc, quốc gia…” [1]. Chính bởi vậy, ông đi sâu vào tìm kiếm từng ngóc ngách
những yếu tố văn hóa, nét phong tục tập quán độc đáo của làng quê cùng với
đó là sự chiêm nghiệm về cuộc đời và con người. Một điểm sáng trong truyện
ngắn Kim Lân là ông đã khắc họa thành công làng quê Việt truyền thống.
Làng quê truyền thống cũng chính là làng quê gốc gác lâu đời, tồn tại
từ đời này qua đời khác, gắn liền với lũy tre làng, với cây đa, giếng nước, sân
đình. Ở đó là nơi hội tụ của những phong tục tập quán, kiến trúc cổ xưa và lối
sống tình nghĩa của con người. Lật từng trang viết của Kim Lân ta bắt gặp
những nét đặc sắc văn hóa làng quê truyền thống in đậm dấu ấn văn hóa Bắc
Bộ. Làng quê truyền thống được nhà văn đề cập, khai thác dưới nhiều góc độ
khác nhau, có khi được hiển hiện trực tiếp bằng cái tên, địa danh cụ thể nhưng
cũng có khi tồn tại dưới dạng biến thể mang đặc điểm, sắc thái, linh hồn của
làng quê.
Trước hết là các tên chữ trang trọng do các bậc Nho học của làng đã đặt
ra ngay từ ngày mới lập làng: Làng Trang Liệt, Đại Đình, Hạ Dương trong
(Đôi chim thành). Ngoài ra còn có các địa danh khác xuất hiện trong các
truyện ngắn của nhà văn: Đại Sơn, Dưỡng Mông (Chó săn), Cẩm Giang, Từ
Sơn, Đình Tràng, Phù Trẩn, Phù Ninh, Đồng Kỵ (Cầu đánh vật), Cổ Pháp
Đình Bảng, Bỉnh Hạ, Hàm Long (Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng
vật), chùa Vân Điềm, làng Vân Điềm (Đuổi tà), Trang Liệt, Phủ Từ, Hà
Đông, Yên Thế, Ngân Sơn (Trả lại đòn), Triều Dương, La Hiên, Đình Cả
(Nên vợ nên chồng), làng Bính Hạ (Con mã mái)… Những làng quê ấy đều
lưu giữ trong mình những nét đẹp về cảnh quan thiên nhiên, phong tục tập
quán ngàn đời. Đó là những tên gọi gần gũi, thân quen của làng quê Việt nói
chung và của xứ Kinh Bắc quê hương ông nói riêng. Cái tên cổ kính của mỗi
ngôi làng có thể lấy tên của những vị anh hùng dân tộc để đặt hoặc là cách đặt
17
tên gắn liền với địa hình, địa lý cư dân của vùng và luôn mang trong mình
một ý nghĩa nhất định. Trong hầu hết những câu chuyện mà Kim Lân viết đều
nhắc đến địa danh của các ngôi làng mà hiện nay vẫn tồn tại qua năm tháng ở
Bắc Ninh. Như vậy, một điều ta có thể khẳng định được rằng những tên chữ
Nho gia trang trọng đã được Kim Lân khéo léo đưa vào trong từng tác phẩm
của mình để từ đó làm nổi bật lên nét đẹp truyền thống văn hóa quê hương
mình, ngôi làng cổ kính gắn liền với bao kí ức đẹp đẽ về quê hương Kinh Bắc.
Làng giờ đây hiện lên một cách thuần túy nông thôn, vừa thực, vừa sống động
như những gì nó vốn có, điều đó càng chứng tỏ Kim Lân nhà văn của chốn
làng quê thuần túy.
Thứ nữa, làng quê Việt truyền thống còn thấp thoáng những hình ảnh,
ngôi chùa, đình làng, những di tích lịch sử. Sự có mặt của những hình ảnh này
làm cho bức tranh thôn quê thêm phần chân thực và sinh động. Đó là ngôi
chùa cổ Vân Điền trong truyện Đuổi tà được tác giả miêu tả với không gian:
“Tĩnh mịch tôn nghiêm, có thoang thoảng hương trầm của gian tam bảo.
Những pho tượng âm thầm trong ánh đèn dầu vàng vọt bóng run run trên
vách bởi ngọn gió lọt vào tưởng như đang ngồi ngây ngất thẩm âm” [12,
118]. Hay trong truyện Chó săn là cảnh ngôi chùa hoang: “Đó là một ngôi
chùa chơ vơ giữa cánh đồng xung quanh bao bọc bởi một lũy tre trống trải.
Không có sư trụ trì nên càng đìu hiu, hoang vắng. Những cây muỗm sừng
sững gieo lá úa đầy trên sân rêu cỏ. Mái thì ngói sụt, tường thì long lở ngổn
ngang. Trong cái không khí vô cùng tĩnh mịch dãy tượng La Hán sứt mẻ ngồi
nghiêm trang trong bóng chiều nhờ nhờ tối như một thế giới không có dương
gian” [20]. Ở tác phẩm Trả lại đòn ngôi chùa Dận được miêu tả với khung
cảnh thanh bình buồn bã thân quen khi chiều buông…
Để tô đậm cho làng quê truyền thống Việt, Kim Lân khéo léo trong việc
đặt tên nhân vật hết sức giản dị. Ở nông thôn, với những người nông dân việc
18
đặt tên người hết sức giản đơn, họ thường mượn tên các dụng cụ sản xuất, đồ
dùng sinh hoạt để đặt tên, ví như cái Hái, chị Dao, anh Bát, chị Chén… Họ
dựa luôn vào thứ tự trong nhà để gọi: chị Ba, anh Hai, chú Năm, ông Sáu, cụ
Tứ… Hoặc dựa vào những đặc điểm bên ngoài của người đó để gọi: Hai Đen,
Tư Mập, Hùng Khèo… Cũng có khi dựa vào nghề nghiệp chức vụ để gọi:
Binh Chức, Bá Kiến, Cai Huy… Cách gọi tên trên trở thành thói quen thông
dụng tự nhiên ở nông thôn. Trong các tác phẩm viết theo khuynh hướng
phong tục, Kim Lân đã sử dụng thói quen truyền thống của dân gian để đặt
tên cho các nhân vật như: Văm Lớn, Trưởng Thuận, Cả Chuẩn (Con mã mái),
Trạng Sặt, Trạng Kế, Trạch Khô, Quắm Đen, Thằng Quynh (Thượng tướng
Trần Quang Khải - Trạng Vật), ông Cả, anh Tư, Thân (Đứa con người vợ
lẽ), Chánh Bảy, Cả Sâm (Trả lại đòn)… cách đặt tên như thế phù hợp với
việc diễn tả phong tục làng quê, quen thuộc dễ gọi, gần gũi.
Một điểm nữa chúng ta cần nhận thấy đó là cấu trúc không gian của làng
quê truyền thống không phức tạp, nhưng cũng không hề đơn giản đến mức
đơn điệu. Không gian làng quê trong sáng tác của nhà văn Nam Cao chủ yếu
là không gian mang tính chất khép kín, tù đọng, con người dường như bị bó
hẹp trong khuôn khổ chật hẹp, rặng tre, bụi tre, ánh trăng… Còn riêng với
Kim Lân, ông đến với làng quê, thiên nhiên cảnh vật một cách tự nhiên nhất,
lấy bối cảnh thôn quê để từ đó khởi nguồn cho bức tranh quê truyền thống của
người dân Việt.
Không gian làng trong tác phẩm Trả lại đòn là khoảng không gian của
làng mạc, cánh đồng lúa chín, rặng tre… “từng cơn gió lướt qua cánh đồng
lúa chín lào xào, đưa một mùi thơm nhẹ nhàng, đặc biệt của nơi thôn dã về vụ
này. Ở những làng mạc xa xa, sương dâng lên trắng nửa mình tre, làm cho
phần ngọn đen sẫm lại. Từng tiếng chuông từ gác tam quan chùa Dận buông
ra không trung, vọng xa xa, ngân nga và buồn não nuột.” [12, 93]. Đó còn là
19
không gian của nhà Chánh Bảy rộng rãi bề thế “Đủ cả ao trước vườn sau.
Năm gian nhà lim, cửa bức bàn, sừng sững trổi giữa cái xóm nghèo, rúm ró
những mái tranh mỏng và khúm núm, gầy guộc. Hai dẫy nhà ngang cũng lợp
ngói chạy dọc trở xuống, ôm lấy chiếc sân gạch Bát Tràng rộng bát ngát. Hai
dãy cau chạy thẳng tắp từ nhà trên đến chiếc tường hoa cuối xuân. Ở đấy, có
một bể nước “xi măng” mui vồng, và bên trên có cây hương nhỏ. Bên ngoài
dãy tường hoa là vườn cây, có dăm gốc na, vài gốc ổi, một cây chanh tứ thời,
xanh tốt rườm rà. Gần bờ ao, có hai cây khế: một cây ngọt, một cây chua, và
một cây sung quả chi chít, thân ngả xuống mặt ao thành một cái cầu thiên
tạo. Ở giữa khoảng vườn ấy lại còn kê thêm bốn vực thóc cao lừng lững.
Vườn sau nhà lại còn rộng rãi gấp mấy. Đấy là chỗ nuôi gia súc. Có chuồng
trâu, cây ăn quả mùa nào thức ấy không thiếu thứ gì” [12, 100]. Hình ảnh của
một gia đình giàu có, tiền rương thóc mục, ruộng sâu ao cá, tất cả đều hiện
hữu sống động trong không gian làng quê nông thôn thuần túy.
Không chỉ có vậy, bối cảnh làng quê còn hiển hiện qua tác phẩm Con
mã mái “mảnh sân đất nhỏ hẹp chạy dài trước ba gian nhà tranh lụp xụp”;
“Giàn thiên lí, chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá
vàng và bốn chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kĩ, sứt mẻ: hai chậu Bạch ngọc và
hai chậu Nhất điểm. Trong bể, kê một hòn non bộ sần sùi, gân guốc; cỏ tóc
tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn người sành bé nhỏ,
đặt theo điển tích” [12, 49].
Làng quê Việt còn hiện lên với cảnh sống chật chội, nghèo túng, buồn
hiu hắt cùng những biến động của đời người. Chốn thôn quê yên bình ấy xen
lẫn cảnh đời sống chật vật khó khăn, túng thiếu trong bối cảng xã hội đương
thời được Kim Lân miêu tả ở truyện Người kép già “Một làn không khí nhạt
nhẽo bao bọc”; “gian nhà tranh lụp sụp”; “gian nhà ngói cổ”; “mấy ngọn cau
đen sẫm in trên nền trời sáng đục. Tàu mềm lả là thế mà không hề lay động”
20
[12, 8]. Hay tiếng gió thổi “ào ào trong lá cây. Thân cây lắc lư nghiêng ngả.
Lá tre, lá găng không biết từ đâu bay rụng tới tấp xuống sân. Mây đen từ phía
đông lừ lừ tiến lên, che khuất mặt trăng. Trời tối sẫm lại” [12, 9]. Cứ như
vậy, bức tranh xã hội nông thôn Việt Nam được Kim Lân khắc họa đậm nét, ở
đó tất cả các phương diện.
Tài năng Kim Lân còn được thể hiện ở trong các sáng tác viết về nông
thôn, làng quê truyền thống được hiện lên qua các phong tục dân gian, có thể
thấy trong các tác phẩm: Con mã mái, Đôi chim thành, Chó săn… Đọc các
truyện ngắn Kim Lân, người đọc được chứng kiến thú chơi thả chim hay chọi
gà, chơi chó săn được tác giả tái hiện tỉ mỉ qua cách miêu tả từ cách nuôi,
cách chăm sóc, cách chơi, qua đó thấy được sự quan sát, vốn hiểu biết dày
dặn của tác giả về thú chơi dân dã thôn quê. Văn hóa làng quê truyền thống
còn được thể hiện gián tiếp thông qua thú chơi cổ truyền, tinh thần thượng võ
của nhân dân ta, đó là đấu vật, đánh võ. Biểu tượng làng không được gọi tên
cụ thể như trên mà được nói đến qua các hoạt động văn hóa của làng, các địa
điểm tổ chức hoạt động văn hóa ấy, đó là cái xới vật, xới võ. Trong truyện
Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, Kim Lân đã gợi lại không khí
đậm chất văn hóa dân gian của những vùng quê đồng bằng Bắc Bộ vào những
dịp lễ hội đặc sắc đầu xuân. Đánh vật, đấu võ là phong tục có từ lâu đời được
nhân dân yêu thích. Nó không chỉ là thú vui mà bên cạnh đó còn là rèn luyện
sức khỏe, rèn luyện ý chí con người.
Một điểm nữa khi viết về làng quê truyền thống, những thú chơi tao nhã,
Kim Lân thường tập trung xoay quanh nét sinh hoạt văn hóa tinh thần của
những người dân quê. Nhưng rõ ràng đọc sâu, ngẫm kĩ ta mới thấy ẩn đằng
sau những câu chữ ấy là khám phá, phát hiện nền giá trị cổ truyền của dân tộc
ta mà trong đó tình cảm của con người hiện lên rất rõ. Đó là thú “phong lưu
21
đồng ruộng” thân thuộc có từ ngàn đời. Làng trong truyện ngắn Kim Lân quả
thật là một thực thể sống động ẩn chứa nhiều trữ lượng văn hóa.
Thực ra, trong văn chương Việt Nam, không riêng gì Kim Lân sở trường
về các thú chơi tao nhã của người xưa mà còn có nhiều cây bút cự phách khác
cũng có sở trường trong lĩnh vực này. Mỗi người một vẻ, họ đã làm đẹp thêm
cho bản sắc văn hóa của dân tộc mình qua văn chương chữ nghĩa như Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng… Nếu Nguyễn Tuân đã làm sống lại những nét son xưa của
lịch sử văn hóa Việt Nam qua những thú chơi tao nhã cao đẹp. Truyện Hương
cuội là nền nếp gia phong, là cách uống rượu, ngâm thơ, thưởng hoa của các
nhà Nho Hà Nội, rồi đến thú uống trà trong Những chiếc ấm đất, Chén trà
sương rồi Phở Hà Nội… Uống là thế, ăn là thế bên cạnh đó Nguyễn Tuân còn
khắc họa lại nét đẹp văn hóa của người Hà Thành với thú chơi rất văn hóa nữa
là thú viết chữ đẹp của các bậc Nho gia trong Chữ người tử tù…; Vũ Bằng
cũng vậy, ông đã nâng ẩm thực lên thành một nghệ thuật tạo nên những trang
viết xuất thần về Miếng ngon Hà Nội. Còn với Kim Lân, ông đến với nét đẹp
văn hóa truyền thống của dân tộc, nhưng cái đẹp đó không phải bắt nguồn từ
văn hóa của thành thị, của Hà Nội huyên náo với văn hiến, văn hóa lịch sử lâu
đời mà đó là thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng”, bắt nguồn từ cuộc
sống dân dã thôn quê, mảnh đất xứ Kinh Bắc. Từ đó, Kim Lân đã giúp người
đọc hình dung được những tố chất và vẻ đẹp của con người quê hương ông.
Những trang viết của ông trở thành những đường chỉ dẫn văn hóa về các ngón
chơi của những cao thủ làng vật (Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng
vật; Ông Cản Ngũ), hay chọi gà (Con mã mái), thả chim (Đôi chim thành),
đi săn (Chó Săn)… Phải quan sát nhiều và tìm hiểu kĩ lưỡng, Kim Lân mới
miêu tả được như thế. Qua những trang viết của nhà văn, bạn đọc như được
trực tiếp tham dự vào những thú chơi làng quê thật ấn tượng. Đó là tinh thần
thượng võ, niềm say mê trong những cuộc thi tài đấu trí mang đậm bản sắc
22
dân gian từ chính cuộc sống, sinh hoạt thường ngày của xứ sở quê hương.
Biểu tượng về làng quê Việt được nhà văn thể hiện qua những phong tục văn
hóa từ ngàn đời. Qua đó thể hiện niềm tự hào về văn hóa dân tộc, đồng thời
nhà văn cũng cảm nhận được sức mạnh của cộng đồng trong các truyền thống
văn hóa đó.
Những tục lệ, hủ tục còn tồn tại trong xã hội cũng được đưa vào trong
các truyện ngắn Kim Lân. Ngô Tất Tố nhà văn tiếp cận đời sống nông thôn từ
bình diện phong tục. Trong các phóng sự Việc làng, Tập án cái đình Ngô Tất
Tố đã phơi bày và lên án những thói tục ở nơi góc điếm sân đình. Sự tàn nhẫn
của những hủ tục đó khiến nhiều người khánh kiệt gia tài, phải bỏ làng đi vì lo
cỗ “vào ngôi”, “cỗ phạt vạ”, cỗ cưới xin, ma chay, cầu cúng… Qua những hủ
tục đó, nhà văn đã bóc trần bộ mặt của giai cấp thống trị nông thôn dựa vào
những hủ tục, vào sự dốt nát của người dân quê để bòn rút bóc lột. Mặt khác,
tác giả cũng cho thấy những thói xấu, thiển cận của người nông dân và sự tha
hóa của cuộc sống làng quê trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Tuy nhiên,
việc phản ánh phong tục tập quán chỉ dừng lại ở mức độ nào đó. Kế thừa
những giá trị cội nguồn dân tộc, Kim Lân cũng đã dùng tài năng của mình với
vốn am hiểu sâu sắc về đời sống, văn hóa phong tục. Kim Lân cũng đã viết
lên những trang văn về phong tục chốn làng quê. Tác phẩm Đuổi tà là một
trong những minh chứng rõ nét nhất về điều này. Có thể nói, đây là truyện
phản ánh tục lệ cổ truyền của dân tộc - tục đuổi tà đêm ba mươi Tết của người
nông dân. Tập tục độc đáo được Kim Lân miêu tả trong không khí thiêng
liêng đón Tết cổ truyền của dân tộc. Đối với người nông dân, việc đuổi tà đầu
năm rất quan trọng vì nó sẽ “ảnh hưởng đến sự thịnh đạt suy vi của cả dân
làng sang năm mới”. Cho nên “Dẫu là nhà giàu hay nghèo, ai ai cũng cúng
một cách vui vẻ, coi như là bổn phận” [12, 120]. Bởi vậy, họ tin tưởng rằng
sau khi đuổi tà thì cuộc sống sẽ bình an, thịnh vượng hơn trong tương lai. Vì
23
thế mà việc đuổi tà đầu năm như một thuần phong mĩ tục mang đậm màu sắc
dân gian gắn liền với đời sống tinh thần của người dân quê. Nó như một sự
gắn kết tình cảm giữa các thành viên trong cộng đồng với một niềm tin thiêng
liêng thể hiện ước mơ về cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc trong đời sống tinh
thần của người nông dân.
Làng quê truyền thống lâu đời được Kim Lân tái dựng một cách đặc sắc.
Khám phá bức tranh làng quê trong các sáng tác của ông thì chúng ta phải
nhìn nó qua lăng kính văn hóa dân tộc với những yếu tố bất biến của thời đại
dân tộc. Lấy bối cảnh không gian chốn làng quê người đọc phát hiện những
nét đẹp về phong tục tập quán, lối sống chan chứa tình người. Đó là kết quả
trí tuệ, tài năng và sức mạnh của tập thể đồng thời đó còn là nơi gắn kết cộng
đồng, nơi tô đậm tình cảm giữa con người với con người, con người với thiên
nhiên, với quê hương đất nước. Những gì mộc mạc nhất, giản đơn nhất đều từ
từ đi vào trang văn của ông.
2.1.2. Làng xóm ngụ cư
Phía ngoài rìa các không gian làng Việt cổ truyền có gốc gác từ lâu đời
đó là không gian của những người dân trong xóm ngụ cư. Đây là không gian
của bóng đen, của cái chết nặng mùi tử khí, là nơi rìa làng, đầu bãi mom sông,
hội tụ những kẻ giang hồ, trộm cướp, làm thuê, dân tự do sinh sống... Trong
truyện Đứa con người vợ lẽ nhân vật người mẹ là một người dân ngụ cư.
Tràng, người vợ nhặt trong Vợ nhặt cũng đều là dân ngụ cư. Cả cái xóm của
Tràng ở được gọi là “xóm ngụ cư”. Những người như ông Hai trong truyện
ngắn Làng thực chất cũng là thân phận ngụ cư, tuy rằng tình thế ngụ cư trong
kháng chiến có khác đôi chút. Bản thân dòng máu Kim Lân cũng có đến một
nửa mang dòng máu dân ngụ cư: mẹ ông quê ở Kiến An – Hải Phòng theo
chồng về Phù Lưu – Kinh Bắc. Và có lẽ vì thế mà thân phận người dân ngụ
cư trở thành một ám ảnh buồn bã trong truyện ngắn của ông. Gắn liền với
24
thân phận ngụ cư là hội tụ những cảnh đời phiêu tán, lưu lạc, ăn nhờ ở đợ, gá
nghĩa, những mảnh đời nhỏ bé, bất hạnh…
Nếu không gian trong tác phẩm của Ngô Tất Tố và Nam Cao mang màu
sắc tối tăm, ngột ngạt đến bế tắc và hình ảnh người nông dân hiện ra như một
nạn nhân của sự áp bức bóc lột dẫn đến con người đánh mất nhân cách. Trong
tác phẩm Một bữa no của nhà văn Nam Cao, khi mà cái đói mon men tới gần,
len lách vào từng ngõ nhỏ cuộc đời những người dân lao động. Hoàn cảnh bà
lão trong truyện khiến người đọc xót thương. Bản thân bà vốn đi làm người ở,
ban đầu thì người ta thuê bà nhưng tuổi càng cao, sức càng yếu và rồi chẳng
ai thuê bà nữa. Đối với bà lão kiếm một chỗ làm người ở không công thật khó
khăn. Bà như người làm thuê mất giá, trở nên thừa thãi, không còn giá trị sử
dụng và được xem là gánh nặng cho người khác. Cứ như vậy bà lão bị gạt ra
khỏi xã hội, đến những việc làm thấp kém nhất trong xã hội cũng khước từ bà.
Cái chết mòn như đã được dự báo trước. Cái nghèo có thể gây chết người vì
đói. Và để rồi, cái nghèo làm biến chất đạo đức và hủy hoại nhân cách con
người. Bà tìm đến con cái Đĩ, đứa cháu duy nhất của bà đang đi làm con ở
cho nhà bà phó Thụ, bà đến xin bữa ăn của “nhà giàu”, bị hất hủi, sỉ nhục
nhưng bà vẫn ăn. Bà ăn trước sự “lườm với huýt” của chủ nhà, “bà cứ ăn như
không biết gì”. Cái dạ dày nhịn đói lâu quá không chịu nổi “một bữa no” ấy
khiến bà đau đớn quằn quặn thêm nửa tháng rồi bà chết [19]. Từ câu chuyện
đó ta nhận thấy rằng bối cảnh hiện thực xã hội hiện lên gắn liền bi kịch của
con người về giá trị vật chất, tinh thần cũng như sự băng hoại về nhân phẩm
vẫn còn hiện hữu trong cảnh đời tối tăm, ảm đạm.
Với Kim Lân lại khác, như chúng ta đã thấy, cũng vẫn là không gian ấy
không gian cái đói, chết chóc, mùi tử khí, nhưng nó không hề bế tắc. Những
con người ngụ cư thì dám chống chọi với hoàn cảnh để giữ gìn nhân cách,
khẳng định sức sống và quyền sống của chính mình. Những con người ấy
25
nghèo khổ thật đấy nhưng không hèn, trang viết của ông luôn lấp lánh một
sức sống, ấm áp một niềm tin mãnh liệt vào nghị lực, phẩm giá, khát vọng cao
đẹp của con người. Mảng tối của khung cảnh xóm ngụ cư ấy là hiện thực
buồn đau nhưng đó lại là phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người, của
khát vọng tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn. Dù sống
trong hoàn cảnh nào, những con người đầu thừa đuôi thẹo, thấp cổ bé họng
vẫn không bị tiêu diệt, không gục ngã. Họ vươn lên và chiến thắng với những
sức sống tiềm tàng, mãnh liệt phi thường. Càng trong những lúc tối tăm nhất,
con người vẫn luôn khát khao hạnh phúc và tình yêu yêu thương, giữa những
con người nghèo khổ càng tỏa sáng, bất diệt đầy ước mơ và vẫn luôn hướng
tới ánh sáng, đặt niềm tin và tin tưởng tới tương lai. Đây là một thông điệp
khác biệt của Kim Lân đối với các tác giả khác, đồng thời qua đó thể hiện
phẩm chất đáng quý, truyền thống dân tộc trong kết cấu tổ chức làng xã.
Ở truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân miêu tả khoảng không gian bao trùm
lên truyện là khung cảnh đói nghèo, tối tăm, ảm đạm của những kiếp người
quẩn quanh. Xóm ngụ cư là nơi hội tụ của những thân phận nhỏ bé trong xã
hội, khổ cực lầm than tìm đến nhau từ nhiều vùng miền khá. Họ khổ quá, vì
đói nên phải đi tha hương cầu thực và ngụ cư ở một vùng đất mới. Xóm ngụ
cư nơi anh cu Tràng đang sinh sống cũng vậy, nghèo đói, rách rưới, buồn tủi.
Cái đói, cái chết hiện hình thành màu sắc, đường nét, âm thanh, mùi vị rõ rệt
ngay trước mắt người đọc: “Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào
có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật
dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi
chợ cứ gào thét lên từng hồi thê thiết” [12, 148]. Cái đói đã khiến người ta lìa
bỏ quê hương đi tha phương cầu thực “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc
nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt
bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang
26
khắp lều chợ.” Ngay bên cạnh những người sống vật vờ là “người chết như
ngả rạ”; “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”. Cái đói, cái chết cất
lên trong tiếng “quạ gào lên từng hồi thê thiết, tiếng hờ khóc tỉ tê lúc to lúc
nhỏ của những gia đình có người chết”. Bao trùm cả không gian bởi “mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác chết”, rồi cả “mùi đốt đống dấm ở
những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt” [12, 148]. Lấy bối
cảnh hiện thực nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 đó là kiếp sống lầm
than, vất vưởng của những con người sống mà tưởng chừng như đã chết. Tất
cả điều đó đều hiện hữu trong cảnh nghèo đói, xơ xác, tiêu điều. Xóm ngụ cư
được dựng lên trên cái nền đời tối tăm.
Mặc dù khung cảnh xóm ngụ cư ảm đạm, thê lương song trên cái nền
đen tối ấy lại ánh lên ngọn lửa của tình thương yêu, sự vực dậy về tâm hồn,
nhân cách cao đẹp sáng ngời. Khi con người lâm vào thảm cảnh thê lương
nhưng họ vẫn chìa tay ra cứu vớt đồng loại, điển hình cho điều đó là tấm lòng
tốt bụng của anh cu Tràng và tình yêu thương con cái của bà cụ Tứ với những
điều mong ước nhỏ nhoi trong kiếp sống mưu sinh cuộc đời. Xóm ngụ cư tối
tăm ấy bỗng tươi vui hẳn lên, tình yêu thương lòng cảm thông sâu sắc giữa
con người với con người hiện hữu ngay trong những điều bình dị nhỏ nhặt
nhất. Nếu như người vợ nhặt là hiện thân của niềm khát khao sống, thì Tràng
là niềm khát khao hạnh phúc. Vậy nên, giữa thời điểm đói kém nhất, một anh
nông dân nghèo như Tràng dám biến câu chuyện bông đùa, một lời rủ đùa
thành một lời cầu hôn. Thực ra khi “nhặt” vợ về anh Tràng ấy không phải là
không lo vì thóc gạo, đến “cái thân mình chả biết có nuôi nổi không, lại còn
đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta tặc lưỡi dám đánh cuộc với cái đói để được sống
đầy đủ cuộc sống bình thường như mọi người khác, có nghĩa là khát vọng làm
người đã xui khiến Tràng liều lĩnh. Nhìn bề ngoài thì đó là thái đội bất cần
nhưng xét kĩ ra, đó chính là tình cảm cưu mang đồng loại, không nỡ bỏ rơi kẻ
27
đói khổ hơn mình. Cho nên Tràng nâng niu trân trọng cái hạnh phúc nhỏ bé
của mình đến thế “Hắn chặc lưỡi: Vợ mới vợ miếc cũng phải cho sáng sủa
một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay, hí hí…” [12, 150]. Ẩn sau câu
nói đùa ấy là niềm vui không phải tầm thường. Thật cảm động khi giữa không
gian tối sẫm, xơ xác của năm đói, Tràng vẫn chuẩn bị thắp sáng cho chính
cuộc đời mình. Bởi vậy, ánh sáng của ngọn đèn đã trở thành biểu tượng của
hạnh phúc, của niềm tin vào tương lai. Vượt lên trên tất cả đó chính là tình
yêu thương, sự gắn bó tình người của những con người đầu thừa đuôi thẹo,
cuối đáy của xã hội. Làng xóm ngụ cư bấy giờ cũng đã thắp lên niềm vui
sướng, mang đến cái không khí chật hẹp, hẻo lánh ấy chút ánh sáng.
Làng xóm ngụ cư trong tác phẩm của Kim Lân còn được hiển hiện qua
những trang viết rất đời thực. Đó là thói quen, nền nếp sinh hoạt của họ, hình
ảnh người nông dân được đặt trong mối quan hệ làng xóm láng giềng. Mặc dù
họ là những người dân đến từ nhiều nơi khác nhau trên địa hình đất nước
nhưng ở họ lại toát lên lối sống chan hòa, bình dị, yên ả. Trong cái xóm ngụ
cư ấy khi nhìn thấy anh cu Tràng dắt theo một người đàn bà lạ mặt về nhà, họ
ngạc nhiên, bàn tán xôn xao. Để rồi cái không khí của xóm ngụ cư ấy “mỗi
chiều xôn xao lên một tí” (Vợ nhặt). Có thể thấy quan hệ láng giềng hàng
xóm của những con người ngụ cư nơi đây là mối quan hệ mở rộng theo tinh
thần, không gian bị gò bó trong cái nạn đói, khép kín trong một vùng nhất
định nhưng ở họ lại có sự gắn kết tình hữu đơn sơ.
Nhìn chung, tính cách đặc trưng của con người nơi xóm ngụ cư ấy được
thể hiện rõ. Nhà văn Kim Lân đã phát hiện ra cái chân thực, chân thực ở đặc
điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng. Bản
thân Kim Lân là người dân xuất thân từ chốn làng quê, ông sống chan hòa,
tình cảm thắm thiết với những người xung quanh mình, tìm hiểu cặn kẽ, kĩ
lưỡng với những thói quen phong tục, nếp sống của họ. Bên cạnh những mặt
28
hạn chế trong suy nghĩ, thói quen tò mò, tọc mạch, trong nhà chưa tỏ ngoài
ngõ đã thông… của những người nông dân xuất thân từ chốn làng quê Việt ấy
còn là cả lối sống chan chứa, chan hòa, tình nghĩa của những con người nơi
thôn dã. Tất cả những điều đó đã tạo nên nét đẹp về văn hóa làng xã, mối
quan hệ cố kết, gắn kết với cộng đồng.
2.1.3. Làng xóm thời kì cải cách ruộng đất
Từ bối cảnh làng Việt cổ truyền, nhà văn Kim Lân đã mở rộng ra một
không gian làng trong cơn bão cải cách ruộng đất. Làng quê thời kì cải cách
ruộng đất là một bức tranh có những gam màu sắc tươi sáng. Đó là tất cả làng
quê với sự xuất hiện của cán bộ cách mạng làm công tác cải cách ruộng đất,
lao vào đổi đời cho những nhân vật nhỏ bé, bất hạnh. Trong tác phẩm Chị
Nhâm Kim Lân miêu tả sự đổi mới cuộc sống con người với đầy: “Nắng sáng
lóa trước mặt một khoảng đồng ruộng bát ngát hiện ra rực rỡ. Những mái
nhà, những vòm tre những mảnh ruộng, những con đường” [20]. Đó là những
gam màu tươi sáng như một làn sóng mát mẻ thổi về hồn quê Việt trong
truyện Nên vợ nên chồng. Nhà văn đã miêu tả không khí tưng bừng ấy và đặt
trong mối quan hệ xóm làng là sự cố kết gắn bó của mỗi công dân đối với
làng xã, quê hương, đất nước. Văn hóa làng được thể hiện không chỉ trong
mối quan hệ gia đình mà còn mở rộng ra ở mối quan hệ xã hội. Cũng giống
như bao nhiêu làng quê thôn Việt khác, mỗi đợt lại có những cuộc họp giữa
các cán bộ làng xã với quần thể, quần chúng nhân dân nhằm mục đích tổng
kết những hoạch định đề ra trong một đơn vị làng xóm, đồng thời trong cuộc
họp là nơi thông báo triển khai những vấn đề dự định cần làm. Thế và Hòa
vốn là hai thanh niên cán bộ ở trong làng. Trước khi có cuộc cải cách ruộng
đất, họ đều là những con người đến từ hai vùng đất khác nhau, đói khổ và
chịu nhiều nỗi oan ức, áp bức bóc lột của những tay cường hào ác bá, phải bỏ
quê hương đi tha phương cầu thực và sống ngụ cư ở làng Triều Dương. Thế
29
sống ở một “túp lều con con nằm hẻo lánh trong bụi chuối ở góc vườn nhà bà
cụ Tứ. Ở đây Thế chẳng chơi bời với ai, mà cũng chẳng ai chơi bời với Thế.
Một mình hiu quạnh với cái nhà, đi thì chớ, về chỉ đóng cửa im ỉm nằm bẹp
một xó ngủ. Thế rất ít nói, và cũng không muốn gần gũi ai…” [12, 165]. Nhân
vật Hoà cũng vậy, cô có số phận khổ cực: “Đời Hòa cũng rất khổ. Hòa không
phải người ở đây. Ông bà Hòa chết đói năm bốn năm. Bố mẹ Hòa cũng đem
con cái ăn xin lên đất này…” [12, 168]. Như vậy, bản thân họ vốn ban đầu
nghèo khổ, không có bạn bè, không có gia đình và càng không có niềm tin
vào tình yêu. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của Đảng, của Bác Hồ trong cuộc cải
cách ruộng đất, nhờ sự khai mở về tinh thần họ đến với cách mạng, qua làm
việc trong hợp tác, họ đến gần với tình làng nghĩa xóm hơn. Sau buổi họp Thế
có nhiều sự thay đổi “Đầu óc Thế nhẹ nhõm rạng rũa dần. Mặt mũi cũng tươi
tỉnh ra, cái thành kiến giữa Thế với bà con trong xóm không còn nữa. Người
ta thấy Thế đi lại chơi bời trong xóm, và bà con trong xóm cũng đi lại chơi
bời với Thế. Cái nhà nhỏ bé của Thế từ bao lâu chỉ thấy đóng cửa im ỉm, lặng
ngắt trong một góc vườn, bây giờ đã nghe thấy tiếng cười nói xôn xao… Làng
xóm, đồng ruộng bây giờ là của nhân dân, là của những người như Thế…”
[12, 171]. Đối với Hòa cũng vậy, trong Hòa nảy nở niềm vui. Nỗi vui sướng
tràn ngập trong lòng Hòa khi tên địa chủ thằng Khang bị bắt, tịch thu nhà cửa,
ruộng đất, vườn tược. Trong cái vui đấu tranh thắng lợi ấy còn len lỏi vào một
niềm vui khác, êm dịu, bát ngát… đó là tình yêu dành cho Thế. Ở đó có cái gì
đó giản đơn nhưng mang bao ý nghĩa, hi vọng của tương lai. Làng xóm trong
thời kì cải cách tươi vui hơn, hạnh phúc hơn và đẹp hơn. Lối sống chan chứa
tình người, sự hòa quyện giữa cảnh và người giúp cho người đọc có cảm nhận
tinh tế về làng xã, về văn hóa truyền thống Việt.
Tuy nhiên, không gian trong sáng tác của Kim Lân cũng còn nhiều gam
màu tối, u ám của một thời kì đất nước gặp nhiều khó khăn, trở ngại, gian
30
truân. Cũng trong không gian của làng quê cải cách ấy là những khoảnh khắc
nặng nề, lặng lẽ đến lạ thường. Điều này được thể hiện khá rõ nét trong Ông
lão hàng xóm cùng với đó là bi kịch của gia đình Đoàn khi bị tình nghi là kẻ
phản cách mạng - nghi là người của Việt Nam quốc dân đảng. Không chỉ có
Đoàn mà còn có cả đồng đội của anh - những chiến sĩ trung kiên của cách
mạng như Mùi cũng bị quy oan và đã bị bắt. Những gam màu tối ấy được
hiện lên trong sự u uất, căng thẳng khi những người cán bộ, anh du kích đến
nhà Đoàn hỏi tội “không khí bỗng dưng chìm hẳn xuống, nghiêm khắc như
sắp sửa bắt đầu một phiên tòa. Ánh sáng buổi chiều tái ngắt, rét thấu đến
ruột” [12, 186]. Rồi “bóng tối từ trong các hốc cây, các xó xỉnh, khe tường, từ
trong những đốm chum vại, bồ bị và những túm quần áo vắt lươm tươm trên
vách lan ra chiếm hẳn gian buồng tự lúc nào. Con mối trên vách kêu “tắc tắc
tắc!...” lên một hồi như người đời chép miệng. Trong nhà ngoài sân im vắng”
[12, 196]. Đó không chỉ là không gian của ngôi nhà Đoàn đang sống, mà
khoảng không trĩu nặng, liêu xiêu, tiêu điều cũng hiện lên trong đôi mắt của
Đoàn khi nhìn sang nhà ông lão hàng xóm “Những đám mù mù che trước mặt
tan đi. Ngôi nhà thờ họ Lê bên kia hiện ra đứng xiêu vẹo trong bóng tối. Một
bên mái đổ gục xuống, lủa tủa những rui mè và mấy hàng cột đen sì chổng
ngược lên giời. Xung quanh cỏ rậm và cây cối mọc ngổn ngang trên các lối đi
và những thềm gạch cũ” [12, 197]. Bức tranh làng quê hiện lên dưới ngòi bút
của Kim Lân vừa mang giá trị hiện thực đồng thời cũng mang theo những nét
truyền thống văn hóa, những hủ tục lạc hậu của con người trong cách nhìn
nhận phiếm diện. Làng quê trong thời kì cải cách không phải chỉ là nơi nên
thơ, trong trẻo với cánh cò, đồng lúa, bờ đê,… với đầy những gam màu sáng
tươi. Mặc dù lấy bối cảnh xã hội trong thời kì cải cách Kim Lân muốn reo vui
cùng quần chúng nhân dân, nhưng nhìn dưới góc nhìn khách quan nhất cũng
có sự phê phán và còn nhiều vấn đề về vốn văn hóa của một đất nước nông
31
nghiệp nghèo nàn, lạc hậu quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
Không khí nặng nề của cảnh đói nghèo, xác xơ vẫn luôn dai dẳng trong mỗi
ngôi làng cho dù ở thời kì nào đi chăng nữa.
2.1.4. Làng xóm tản cư
Tiếp nối không gian làng Việt cổ truyền là không gian làng tản cư, hay
nói một cách xác định hơn đó là những làng kháng chiến thời chống Pháp
xuất hiện trong sáng tác Kim Lân. Lấy bối cảnh không gian như vậy, Kim
Lân đã tái tạo lên một bức tranh chân thực nhất về đời sống nông thôn. Trong
thời kì đất nước vùng lên đấu tranh, làng quê bị phá hủy xơ xác, tiêu điều
nhưng vẫn ánh lên ngọn lửa ánh sáng đó là niềm tin vào Đảng, Cách mạng,
Bác Hồ. Tình cảm cá nhân nhường chỗ cho tình yêu quê hương, xóm làng, để
từ đó bộc lộ lên những phẩm chất đáng quý của người nông dân và qua đó
phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
Đọc truyện Con chó xấu xí, Kim Lân cũng đã khắc họa bức tranh tản cư
của nhân dân “tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, rồi có tin giặc từ Bắc Giang
đánh lên, Bắc Ninh đánh sang. Lối Kim Tràng, Cầu Xim, Cầu Đồng; bên núi
Hia, núi Đót; dưới chợ Lữ, bến Lủi, bến Phà, đâu đâu cũng có giặc cả rồi.
Người các mạng dưới đánh trâu, bò, bồng bế, gồng gánh chạy giặc dạt lên
đen kín” [12, 213]. Thông qua lời kể của nhân vật “tôi” câu chuyện tản cư dần
dần hiện lên. Gia đình anh cũng khăn gói tản cư đến vùng đất khác trước sự
tàn phá nặng nề của giặc: “Tôi biết vợ con tôi đã chạy vào đồng Kĩnh. Từ mấy
tháng nay, mỗi bận tôi về nhà, hay viết thư về cho nhà, tôi đều căn dặn vợ tôi
lúc nào cũng phải hết sức gọn gàng, phòng giặc đánh lên, hoặc nhảy dù là có
thể bế con chạy ngay được…”; “Người chạy giặc vẫn kéo lên mỗi lúc một
đông. Có tốp tiếp tục đi mãi vào trong mạn rừng, có tốp nghỉ lại ở đây. Cái
túp nhà ông cụ bếp Móm chặt lèn những người” [12, 214]. Vào cái buổi ấy
không chỉ có vợ con nhân vật “tôi” chạy tản cư mà còn biết bao nhiêu gia
32
đình khác. Khung cảnh ấy hiện dần ra trong truyện ngắn Kim Lân với cảnh
người, cảnh đời đua chen nhau đi tản cư từ vùng xuôi lên mạn ngược.
Rồi cả bức tranh quê hương trước sự tàn phá nặng nề của quân giặc
nhảy dù: “Hàng ấp cũng không còn nhà nào ở lại. Xóm ngõ vắng tạnh, súng
giặc nghe rền từng chập...” [12, 214]. Đó còn là bóng tối khuya vắng lẫn
tiếng khóc, tiếng gọi thưa, tiếng than thở, “Đêm tối vẫn rùng rùng bóng
người, bóng trâu bò chạy giặc. Người ở vùng dưới chạy lên đây, người ở đây
lại chạy mãi vào những mạn ven rừng… Chỗ nào cũng nghe thấy tiếng trẻ
con khóc, tiếng gọi thưa, tiếng than thở, chửi rủa” [12, 214]. Kim Lân không
chỉ dừng lại ở đó ông còn đi sâu vào miêu tả cảnh làng quê bị đốt cháy “ngọn
lửa quân xâm lăng tàn bạo nó đốt nhà, đốt cửa” [12, 216]. Chen lẫn tiếng
toán loạn hoảng hốt của từng đoàn người là tiếng bom, tiếng chó kêu, tiếng
của đám cháy rừng rực bốc lên. Làng quê bấy giờ không còn được nguyên
vẹn như những thuở ban đầu nữa, đó là mùi của bom đạn, khói lửa chiến
tranh.
Viết về nông thôn trong giai đoạn tản cư, truyện ngắn Làng được nhà
văn dựng lên với khung cảnh làng quê thông qua lời khoe của ông Hai về làng
của ông trước kháng chiến, trong kháng chiến. Đồng thời qua nhân vật ông
Hai bạn đọc sẽ phát hiện tấm lòng người dân tản cư đối với quê hương bản
quán của họ. Có thể nói ông Hai là hình ảnh tiêu biểu, điển hình cho mẫu
người nông dân Việt Nam với truyền thống vốn có là yêu nước, yêu làng. Rõ
ràng ông Hai là người nông dân, sinh ra tại làng, lớn lên làm lụng, lấy vợ sinh
con đẻ cái, sống chết ở làng. Ông ít khi có điều kiện đi xa khỏi làng. Ông đã
tự nguyện gắn bó với nơi đây. Dường như chính cái cộng đồng làng này đã
hút chặt lấy ông, thậm chí xóa mờ cái tư cách cá nhân của ông. Ông buồn vui
cùng làng, khổ đau cùng làng. Cái tâm thức làng như là một giá trị được hình
thành và chi phối mạnh mẽ đến ông nói riêng, đến mỗi thành viên trong cộng
33
đồng ấy nói chung. Do đó ông luôn tự hào về làng của mình, đi đâu ông cũng
khoe khoang về làng của mình. Ngày trước thì ông khoe cái sinh phần của
viên tổng đốc làng ông “Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng
ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông”. Ông có vẻ hãnh diện
cho làng có được cái sinh phần ấy lắm: “Chết! Chết! Tôi chưa thấy cái dinh
cơ nào lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có lăm lắm là của. Vườn
hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà
Đông nhiều cơ mà!” [12, 129].
Đến thời kháng chiến thì ông lại khoe cái làng kháng chiến của mình với
những lão du kích, với những công trình quân sự đánh giặc… “Ông khoe làng
ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi
phát thanh thì cao gần ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy.
Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”; “Ông khoe những
ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ hồi kỳ còn
bóng tối. Những buổi tập quân sự, cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng
vác gậy đi tập một hai…” [12, 130]. Tình yêu ông Hai đối với làng, suy cho
cùng cũng chính là tình yêu đối với dân, với nước nói chung và rộng ra đó
chính là tình yêu quê hương đất nước, yêu Tổ quốc.
Người Việt Nam chúng ta có một truyền thống yêu nước rất nồng nàn.
Truyền thống ấy trở thành giá trị hàng đầu, cao nhất trong bản giá trị tinh thần
cao quý của dân tộc Việt Nam. Ở truyện ngắn Làng khi nghe tin làng chợ Dầu
theo Tề, theo Ngụy, hai vợ chồng ông Hai cảm thấy đau đớn, nhục nhã, xấu
hổ với đồng bào xung quanh, không dám ngẩng mặt lên trước người khác.
Mặc dù mới là lời đồn đại, chưa biết thực hư ra sao? Còn về phía người dân
vùng tản cư, bất cứ ai khi nghe tin làng Dầu của ông Hai theo Tây, đều lên
tiếng phẫn nộ, khinh bỉ “Cha tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm
bắt được thì người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho
34
mỗi đứa một nhát!” [12, 138]. Chỉ riêng thái độ bất bình, xa lánh, khinh bỉ đối
với những kẻ rắp tâm đi theo giặc đã phần nào nói lên tình cảm yêu nước,
lòng tự trọng có tính cách quốc sĩ của những con dân nước Việt. Cũng vì hiểu
lầm mà chịu sự khinh bỉ như vậy, nên ông Hai mới có niềm sung sướng, hả hê
tột độ khi nghe tin cải chính nỗi oan của làng. Đứng trước một cái tin cải
chính hệ trọng như vậy, ông Hai nói riêng, người dân làng Dầu nói chung đều
vui mừng ra mặt. Chúng ta thấy tất cả mọi người đều vui vì không những bản
thân họ không mang cái tiếng là Việt gian, mà vui hơn khi họ nhận ra toàn
dân đồng lòng yêu nước, đánh giặc. Yêu làng trong trường hợp ông Hai chính
là yêu nước. Họ sống bình dị lẫn vào trong lớp người mà họ đại diện nhưng
tiếp xúc lâu dài, sẽ thấy ở họ một sức chịu đựng đói khổ, cực nhọc và cả đắng
cay thật mạnh mẽ để vươn lên. Vượt lên trên tất cả đó chính là tinh thần cộng
đồng làng. Nó làm nên sức mạnh và niềm kiêu hãnh của dân làng. Tính cộng
đồng luôn được nhà văn miêu tả, không bị khép kín, tự trị mà làng luôn gắn
bó với vùng miền, với đất nước. Nhất là khi Tổ quốc bị lâm nguy, tinh thần
yêu làng lập tức nâng lên thành tinh thần yêu nước. Làng trở thành căn cứ địa
vững chắc chiến đấu chống quân thù, làng cũng là thành lũy gìn giữ văn hóa
dân tộc. Làng trong cái nhìn cảm thụ và cắt nghĩa của nhà văn thực sự đã hiện
lên với sự suy tư và lòng yêu mến sâu sắc, đầy trách nhiệm của một nghệ sĩ
yêu làng, yêu nước.
Tóm lại, xây dựng khung cảnh làng xóm tản cư rất tiện lợi để ngắm nhìn
cuộc sống nông thôn với những sinh hoạt văn hóa, những buồn vui thế sự,
những số phận, những tâm tình của con người cá nhân trong vai trò chủ thể
nhận thức và tự nhận thức. Thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu sắc và tinh tế.
Ở đó, mối quan hệ giữa nhà, làng, nước trở thành tình cảm gắn bó tự nguyện
của mỗi con người. Ở đó có những “ô cửa” nhìn ra thế giới để thấy được
35
những giá trị cuộc sống, phong tục, những sinh hoạt văn hoá truyền thống,
những cảnh đời, những tâm trạng với cả vẻ đẹp trong tâm hồn con người.
2.2. Những kiểu nhân vật đặc trƣng trong truyện ngắn Kim Lân
Kim Lân là nhà văn luôn hướng ngòi bút của mình để đề cao con người
của quê hương, nhưng tác giả lại tìm kiếm cho mình một góc riêng, nhất quán
suốt cả đời văn của mình là sự trải nghiệm bằng chính cuộc đời. Trong quá
trình sáng tác, nhiều truyện ngắn của Kim Lân viết về những con người bình
thường trong cuộc sống đời thường (rõ nhất là những truyện viết sau năm
1945). Cảm hứng của nhà văn hướng về những phẩm chất của những con
người bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Dễ dàng nhận ra khi đọc
những tác phẩm của Kim Lân, ông đã phát hiện và ca ngợi con người ở nông
thôn với những tình cảm hết sức tốt đẹp. Nhà văn luôn có cái nhìn chiều sâu
về con người cùng với đó là phẩm chất đáng quý của họ, để rồi sau mỗi câu
chuyện về con người lại sáng lên những nét phong tục tập quán, văn hóa làng
quê Bắc Bộ. Đó cũng chính là “sợi dây ràng buộc giữa những thành viên
trong cộng đồng làng xã qua sinh hoạt văn hóa, qua phong tục tập quán” [7].
Có thể thấy, văn học thể hiện đời sống theo cách riêng của nó. Từng kiểu
người đi vào văn chương theo kiểu sáng tạo riêng của các nhà văn. Họ thành
những kiểu nhân vật khác nhau. Các nhân vật này vừa thể hiện trạng thái văn
hóa dân tộc, vừa bộc lộ mối quan tâm và sự ảnh hưởng phức tạp của văn hóa
dân tộc đối với người nghệ sĩ. Nghiên cứu con người văn hóa cũng chính là
tìm hiểu các mẫu nhân vật - mẫu người văn hóa trong sáng tác Kim Lân như:
mẫu nhân vật nghệ sĩ làng quê; mẫu nhân vật thượng võ; mẫu nhân vật nhỏ
bé, đời thường.
2.2.1. Nhân vật nghệ sĩ
Kim Lân là nhà văn viết nhiều về những người lao động nghèo. Miêu tả
về họ, ông không chỉ ca ngợi tinh thần thượng võ, nghĩa hiệp của những
36
người nông dân ấy, mà ngòi bút nhà văn còn dành nhiều ưu ái cho việc xây
dựng nhân vật phong lưu tài tử đồng quê, với đời sống tâm hồn phong phú,
trong sáng, biết vượt lên những nhọc nhằn đời thường. Vẻ đẹp tâm hồn ấy
được kết tinh ở niềm say mê với những thú vui, các trò chơi nơi thôn dã. Khi
miêu tả các nhân vật mang phẩm chất tài hoa, có những sở thích cá nhân, tìm
đến những thú chơi dân gian truyền thống, nhà văn thường tập trung miêu tả
các nhân vật ưu tú, vượt trội. Điều này cũng dễ hiểu bởi phẩm chất tài hoa
hơn người trong cái thú “phong lưu đồng ruộng” không phải ai cũng có. Phải
là người biết trọng cõi tinh thần, biết thưởng thức và hưởng thụ đời sống và
cũng phải học cách chơi mới có được. Ở đây, Kim Lân chỉ hướng tới thú chơi
của những người bình dân, những người dân quê bình dị hàng ngày. Đây
được xem là một sự lựa chọn thấm đẫm tinh thần dân chủ trong cái nhìn nghệ
thuật của nhà văn. Đó là những sinh hoạt văn hóa lành mạnh của người dân
quê như thú chơi chim bồ câu, nuôi chó săn, chơi chọi gà, trồng cây cảnh, đấu
vật... Với Kim Lân ông đã tìm cho mình một cách tiếp cận và miêu tả rất
riêng, độc đáo về đề tài hấp dẫn này. Kim Lân viết về những thú chơi, những
phong tục dân dã vui tươi, lành mạnh, khỏe khoắn của những người dân quê
vùng nông thôn Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa quê hương ông. Vậy
nên, khi đọc văn của Kim Lân, người ta không chỉ thấy có phong tục, không
chỉ thu nhận được những tri thức văn hóa cổ truyền mà còn thấy được cả cuộc
sống và con người. Nét độc đáo này đã chi phối cách xây dựng nhân vật nghệ
sĩ chốn làng quê trong sáng tác của Kim Lân. Những kiểu nhân vật nghệ sĩ
trong sáng tác của Kim Lân, hầu hết là những người nông dân nghèo, họ
nghèo đấy mà sang, mà vẫn sống đẹp. Chính họ là những người đã giữ gìn và
phát huy những tinh hoa văn hóa của làng quê, văn hóa Việt Nam qua những
trò chơi dân gian.
37
Các nhân vật nghệ sĩ làng quê trong sáng tác của Kim Lân đều là những
người tài hoa có hạng. Đó là ông trưởng Thuận trong Đôi chim thành, ông Cả
Chuẩn trong Con mã mái, ông Cả Nội trong Chó săn… Dưới ngòi bút của
Kim Lân họ hiện lên như những tay chơi đến mê mẩn, đến xem thường mọi
thứ trên đời, chỉ có đắm đuối mỗi thú chơi của mình. Mỗi người một thú chơi
riêng. Nhưng giữa các nhân vật này lại có những điểm chung giống nhau.
Điểm chung đầu tiên giữa họ là rất vững vàng về “nghiệp vụ” chơi. Mỗi
người một sở thích nhưng họ đều là những người sành sỏi có nghề. Nhiều khi
còn ánh lên chất kiêu bạc đồng quê đáng yêu, đáng quý. Một khi nâng cuộc
chơi lên thành danh dự không chỉ còn là của cá nhân mà của cả làng, cả tổng
thì không thể có chuyện coi nhẹ hoặc xem thường về nghề nghiệp. Tất cả phải
được học hỏi, được đào luyện, tích trữ kinh nghiệm từ hàng chục năm trời, có
những kinh nghiệm rút ra từ những thất bại cay đắng. Các nhân vật này giỏi
từ việc chọn giống cho đến việc chăm nuôi, rồi đến việc luyện ngôn ngữ nhà
nghề gọi là “vần” (đối với gà)… Điều này thể hiện trong cách chọn giống,
cách thưởng thức, cách đánh giá nhận xét chi li, kỹ lưỡng các chi tiết hay - dở,
đẹp - xấu, độc hay thường. Hàng loạt từ ngữ nhà nghề được Kim Lân tung ra
như một người chơi am hiểu từ trong cốt lõi. Chỉ cần nhìn vào một truyện thôi
đã thấy mật độ các từ nhà nghề dầy lên như thế nào. Trong tác phẩm Đôi
chim thành thú chơi chim được miêu tả tỉ mỉ nhưng thật khéo léo. Các từ ngữ
như “liên tam trúng, vần thượng, trung chính, thượng tiểu tùy, đài tùy, trung
khứ, đại biên, cào, bị, sơ, tràng, rơi lạc phao…” cũng được Kim Lân thể hiện
khá rõ nét trong truyện. Còn ở truyện Con mã mái, mật độ các từ nhà nghề
còn dầy đặc hơn thế nữa: “bầu dọc, khâu dao, thái, buông…” Có một điều lạ
là dù dùng nhiều biệt ngữ như vậy mà khi đọc vào truyện người ta không thấy
cản trở, không thấy rờm mà trái lại càng thấy thú vị. Có thể nói, ở đây tác giả
đã làm được cái việc: trang bị những tri thức tối thiểu cho người đọc về những
38
thú chơi đặc sắc ở làng quê Việt Nam - những tri thức mà người bình thường
phổ thông đa số không dễ gì có được.
Điểm giống nhau thứ hai của các nhân vật này là một khi họ đã đam mê
vào thú chơi thì không coi chuyện gì là quan trọng hơn nữa. Từ việc ăn, uống
cũng chẳng coi ra gì, đến cái khó nhọc lặn lội ngoài đồng cũng không quản
ngại. Ốm đau càng coi thường. Trong Đôi chim thành, vì tính cả nể trọng
tình nghĩa với cụ Tứ và những người bạn chơi nên dù trời có vẻ mưa dông,
Trưởng Thuận mở lồng chim, rồi sau đó mưa giống chim bay đi mất. Ông lăn
ra ốm năm hôm. Nhưng khi biết tin đôi chim thành đã quay trở lại thì “Ông
vùng trở dậy, run lẩy bẩy chạy ra sân”. Cái ấm thuốc nước đang trào cũng coi
là không có ý nghĩa gì bằng việc cần phải ngay lập tức lấy thóc cho chim ăn.
Còn trong truyện Con mã mái, Cả Chuẩn lại có thú chơi khác là chơi với
gà chọi. Mê đến nỗi suốt cả ngày chỉ lăn lóc với gà, chẳng thiết gì làm ăn,
suốt ngày đêm say sưa ngắm gà, tỉ mẩn chăm sóc chúng từng li từng tí một.
Vì thú mê gà đấy mà ông tìm mọi cách để có được một tông gà hay. Ông quan
niệm “một con gà hay là phải gan góc, gọn gàng, nhanh nhẹn, nên cứ theo
câu ca xưa mà kén: chân chì mắt ếch đếch sợ ai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng
sai” hoặc lại kinh nghiệm khác: “Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai”... [12,
59]. Vì mê đến nỗi đánh liều cậy nhờ kẻ chuyên đào tường khoét ngạch đi ăn
cắp con Mái Củi Tạ về. Cả Chuẩn còn tinh tường đến nỗi có khi chỉ cần nhìn
vào vẩy ông cũng có thể biết được con gà ấy có những ngón đòn gì. Chẳng
hạn như con gà có “hai hàng vẩy một song song chạy từ khoeo đến bàn. Quản
bên phải, sóng ngang với cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa” gọi là
vẩy cáo, con ấy sẽ có đòn cà và thường hay đá thẳng vào cổ, vào hầu. Con
nào có một hàng vẩy chéo từ bên này sang bên kia, gọi là “vẩy khâu dao thì
con đó đánh rất giỏi và thường đánh thái bằng móng chân sau vào mắt…”
[12, 58]. Đó là những kinh nghiệm nhà nghề được đúc kết… Đam mê khiến
39
Cả Chuẩn dửng dưng trong công việc, chẳng thiết bàn tới. Các nhân vật này
vui cái vui cùng vui với con vật nuôi, buồn cái buồn của vật nuôi khi thấy
chúng ốm đau hoặc không như ý. Thậm chí sẵn sàng sẵng giọng, cáu bẳn với
vợ con khi thấy các con vật nuôi bị sa bẫy hoặc đau ốm. Ngược lại, nếu trong
lòng cảm thấy vui vẻ, hài lòng về những con vật nuôi, bỗng ra ngay cái giọng
ngọt ngào, thậm chí tán tỉnh, lẳng lơ: “Đấy bà này nghe xem. Có phải con gà
mái kêu”. “Vừa đau, vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành:
“Ai cũng thế! Ai cũng thế! Ai cũng thế! Không?” [12, 56].
Từ đó cho thấy tâm lý của người nghệ sĩ đồng quê trong lời ăn tiếng nói.
Tâm tính của những người thôn quê bộc trực, giản dị, chất phác như thế. Nhờ
vậy mà các nhân vật nông dân của Kim Lân thường đưa lại cho người đọc
cảm giác gần gũi, chân thực mà hóm hỉnh, thú vị. Nhà văn có cái biệt tài hiểu
thật chính xác và tinh tế tâm lý của người nông dân Việt Nam dưới góc độ
“con người văn hóa”. Say mê với những thú chơi tao nhã chính là say mê giữ
gìn những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt
Nam. Niềm say mê ấy đã giúp người nông dân nghèo vươn lên cuộc sống vật
chất còn nhiều nhọc nhằn, vất vả để có được đời sống tinh thần phong phú
giàu có.
Ngoài ra, khi đề cập đến những nhân vật được coi là nghệ sĩ chốn làng
quê, nhà văn Kim Lân còn đưa người đọc biết đến những loại hình nghệ thuật
cổ truyền văn hóa dân tộc. Đọc Ông lão hàng xóm ta bắt gặp một ông lão
“ông lão vốn là một tay kép tuồng đã về già, không có vợ, không có con, sống
một thân một mình trong cái nhà thờ họ đổ nát bỏ hoang từ hồi đầu kháng
chiến” [12, 198]. Trong truyện Kim Lân đã nhắc đến nghệ thuật kép tuồng -
một bộ môn văn hóa nghệ thuật của con người, gắn liền với đời sống tinh thần
văn hóa dân tộc. Ông lão hát những thân tuồng quen thuộc “đã quá nửa đời
người hằng đêm sống cùng ông lão trên sân khấu, bây giờ lại cùng ông lão
40
hằng đêm ngất ngưởng say trên bữa rượu” [12,198]. Nếu như thời trẻ ông
dùng lời ca tiếng hát để mưu sinh thì khi về già ông cất lên tiếng hát với nỗi ai
oán, bất bình cho một kiếp nhân sinh trong thời kì chiến tranh, bom đạn.
Trong Người kép già cũng vậy đó cũng là một “Người kép tuồng đã về già”
và xưa kia “ông là một con kép nổi danh” thì giờ đây “tuổi xuân qua, đem cả
giọng hát trong trẻo của ông đi” [12, 18]. Hầu như suốt những trang viết của
Kim Lân cho người đọc thấy được mối ưu tư và tình yêu của họ đối với nền
văn hóa dân tộc.
Như vậy, trên cái nền cổ truyền dân tộc ấy, mỗi nhân vật nghệ sĩ chốn
làng quê đã tạo lên sức hút độc đáo trong những trang văn của Kim Lân. Say
mê với thú chơi tao nhã chính là say mê với những giá trị văn hóa cổ truyền
của dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa của Việt Nam. Niềm say mê ấy đã giúp
người nông dân nghèo vươn lên cuộc sống vật chất còn nhiều nhọc nhằn, vất
vả để có được đời sống tinh thần phong lưu, giàu có. Có thể thấy những nghệ
sĩ bình dân trong sáng tác của Kim Lân là hiện thân cho văn vật thôn làng,
văn hiến đồng quê, đó là những người Việt Nam nghèo khổ, lam lũ nhưng vẫn
có những nét cao sang, phong lưu ngay trong đời thường. Từ những trang viết
về thú phong lưu đồng ruộng, nhà văn Kim Lân đã giúp cho người đọc nhận
biết: “Sau lũy tre xanh từ bao đời nay, người nông dân sống lam lũ cần cù,
hai sương một nắng, nhưng tháng ba ngày tháng tám và những buổi sang
xuân, vẫn tổ chức những trò vui, qua đó thể hiện được sự thông minh, tài hoa,
một tâm hồn tươi sáng, lành mạnh, yêu đời những phong tục đất lề quê thói
của người Phù Lưu - Chợ Dầu coi trọng lễ hội và nhân tình” [11]. Với những
nhân vật nghệ sĩ chốn đồng quê của Kim Lân, luôn ánh lên chất hào hoa Kinh
Bắc đáng yêu và đáng quí, các thú chơi của người nghệ sĩ phong lưu tài tử ấy
đã góp phần xây dựng nét văn hóa đặc sắc, đậm đà hơi thở dân tộc. Đồng thời
41
qua đó phản ánh những giá trị căn cốt của đặc trưng văn hóa làng xã cổ truyền
của dân tộc.
2.2.2. Nhân vật thượng võ
Vùng quê Kinh Bắc là một miền đất văn hiến, văn vật và nhân tài nảy
nở, giàu truyền thống văn hóa. Ngay từ nhỏ Kim Lân đã được sống trong
không khí rộn ràng của những đám vật, hội vật, trong âm hưởng mạnh mẽ,
thúc giục của tiếng trống vật. Truyền thống văn hóa ấy đã ảnh hưởng và kết
tinh trong sáng tác của ông qua tinh thần thượng võ để làm nên vẻ đẹp hào
tráng của những đô vật lẫy lừng. Cũng như kiểu nhân vật nghệ sĩ chốn làng
quê, Kim Lân đã dành những trang văn khá ấn tượng trong việc xây dựng
hình tượng nhân vật thượng võ quê hương. Nói đến mẫu nhân vật này là phải
nói đến phong trào đấu vật ở xứ Bắc nước ta. Đây vốn là một trò chơi dân
gian thể hiện ước vọng cầu sức khỏe cho con người, về sau môn vật này được
thể thức hóa với một số quy tắc trò chơi… Từ đó sinh ra việc thi đấu vào các
ngày hội làng, hội xứ. Và cũng nhiều đô vật lừng danh nổi tiếng trong thiên
hạ như: đô Voi, đô Nghê, Trạch Khô, Vâm Lớn, Trạng Sặt, Trạng Kế
(Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật); Quắm Đen, Cản Ngũ, Cả
Lẫm (Ông Cản Ngũ)…, toàn là những tay đô có đẳng cấp vượt trội. Bằng
việc miêu tả các trận vật căng thẳng, hồi hộp, tràn đầy hứng khởi, với những
chiêu vật cao cường, đầy tính nhà nghề, nhà văn đã thể hiện phẩm chất tài ba,
dũng khí của các đô vật này. Nhà văn tỏ ra am hiểu nghệ thuật của môn võ.
Chả thế mà ông đưa ra khá nhiều những cách gọi các thế miếng vật theo ngôn
ngữ nhà nghề… Rõ ràng, môn vật đã trở thành một phong trào, một thú chơi,
một môn thi đấu tràn đầy tinh thần thượng võ, làm nên nét riêng thuộc sinh
hoạt văn hóa cổ truyền làng Việt. Con người thượng võ trong sáng tác viết về
đề tài nông thôn của Kim Lân là những con người nghèo khổ mà tài giỏi, giàu
tinh thần thượng võ, họ là các gương mặt thuộc nhiều thế hệ, nhiều lứa tuổi.
42
Mỗi người một vẻ mỗi người xuất sắc theo một lối, mỗi người giỏi giang theo
một kiểu, được thể hiện chân thực, sinh động trong các tác phẩm. Xây dựng
kiểu con người thượng võ, Kim Lân tập trung làm nổi bật sức mạnh thế lực và
sức mạnh trí tuệ của những đô vật lẫy lừng. Bức chân dung của họ được nhà
văn phác họa một cách sinh động, tài tình, đầy ấn tượng với những nét vẽ giàu
chất tạo hình như chạm khắc.
Có thể thấy mẫu nhân vật thượng võ được Kim Lân xây dựng với những
nét đẹp khỏe khắn, tinh thần chiến đấu hăng say. Điều đó được thể hiện thông
qua tác phẩm Ông Cản Ngũ, nhà văn miêu tả tài năng và vẻ đẹp oai phong bệ
vệ của các tay đấu. Ông Cản Ngũ là tài năng khác người nức tiếng khắp năm
tỉnh đường ngoài xứ Bắc. Chân dung ông được Kim Lân miêu tả không kém
phần oai phong, lẫm liệt qua đoạn: “Trên thềm cao ông Cản Ngũ ngồi xếp
bằng trên chiếc chiếu đậu trắng cạp điều. Ông ngồi một mình một chiếu;
người ông đỏ như đồng tụ, to lớn, lẫm liệt, nhác trông không khác gì tượng
hai ông tướng Đá Rãi ở trong đền. Đầu ông buộc một vuông khăn xanh lục
giữ tóc, mình trần, đóng khố bao khăn vát” [12, 225]. Ông Cả Lẫm tài năng,
danh tiếng còn lẫy lừng hơn nữa. Tất cả đều gặp gỡ nhau ở hoàn cảnh xuất
thân bình dân và niềm say mê với những giá trị văn hóa tinh thần của quê
hương đất nước. “Cụ Cả Lẫm hôm nay nom oai phong, lẫm liệt như một lão
tướng sắp ra trận. Ông cụ đứng giữa xới, râu tóc bạc phơ, mình trần, đóng
một cái khố bao nhồi trấu bằng vóc vàng, xung quanh vắt hai tấm nhiễu xanh
nhiễu đỏ, lòa xòa đến gối. Cả người ông lão chắc nịch, xù xì gân guốc như
một gốc đa cổ thụ” [12, 230]. Còn với các đô vật thuộc thế hệ sau như: Đô
Vựa, Quắm Đen, Tý Trâu lại toát lên vẻ đẹp thông minh tài trí hơn người,
cường tráng, dũng mãnh, mau lẹ. Ở tác phẩm Thượng tướng Trần Quang
Khải - Trạng vật, Trạng Sặt lại tụ hội sức mạnh phi thường ở : “cặp mắt sáng
43
quắc dưới cặp lông mày lưỡi mác rậm, xếch ngược trên tảng trán dô cao, tỏ
ra người cương quyết, có đảm lược và thông minh, tài trí hơn người” [12, 83].
Khi viết về môn vật, ngòi bút của Kim Lân tỏ ra thông thạo và thích thú
khi thể hiện sức mạnh về tài nghệ của các đô vật. Trong truyện Thượng
tướng Trần Quang Khải - Trạng vật được miêu tả một cách tỉ mỉ. “Bàn tay
Sặt vừa đặt lên gáy Trạch Khô, toàn thân hắn rung hẳn lên. Biết gặp phải tay
địch thủ ghê gớm, Trạch Khô xuống “nằm bò”. Cái miếng “bò cắm” này, khi
nào cùng quá, y mới dùng. Đầu, bụng và chân tay như dán xuống đất. Không
một ai bắt nổi. Người ta thường đồn, khi mà Trạch Khô xuống “bò cắm”’ thì
dẫu lấy thuổng mà bẩy cũng không lên. Sặt loay hoay bắt bò. Đôi bên xoay
xỏa bụi mù cả sới. Từ sáng cho đến đứng bóng, Sặt vẫn chưa làm gì nổi
Trạch Khô. Cậu nóng ruột quá. Sau cũng vớ được “tay khố đỉnh”. Cứ thế, Sặt
dùng toàn lực nhấc bổng Trạch Khô lên, trước muôn nghìn tiếng hoan hô của
mọi người” [12, 86]. Miếng “bò cắm” của Trạch Khô cũng không cứu anh
thoát khỏi thất bại trước “thần lực” của Trạng Sặt. Cái “thần lực” ấy, ở truyện
Ông Cản Ngũ lại được thể hiện ở một dạng khác. Ông Cản Ngũ được tả:
“ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người
xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi chân
ông Cản Ngũ lên. Cái chân tựa như bằng cây cột sắt chứ không phải là chân
người nữa. Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồi
kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm
Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang
bụng vậy” [12, 226]. Đó là sức mạnh thể chất của những đô vật.
Xây dựng kiểu nhân vật thượng võ, Kim Lân còn phát hiện ra một điểm
chung chính là tinh thần trọng danh dự - danh dự cá nhân và danh dự làng. Có
thể nói danh dự là một điều đặc biệt quan trọng đối với cá nhân. Một đô vật
có thể cảm thấy rất đau khổ nếu như ra sới vật lại bị thua các đô vật khác.
44
Nhưng danh dự cá nhân không bằng danh dự cộng đồng, danh dự của mỗi sân
vật, tức là mỗi xứ, mỗi làng. Điều này có thể thấy trong truyện Ông Cản Ngũ,
khi nhân vật Quắm Đen bị Cản Ngũ hạ, những người xem và các tay đô khác
đều chung một tâm trạng thất bại ê chề. Họ nghĩ: “Keo vật bị người ta đánh
bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. Người ta đánh mình, coi không
bằng đánh với một đứa trẻ con! Quắm Đen, một tay đô tài mạnh vào bậc nhất
trong hàng tỉnh mà còn bị đánh thua như vậy thì còn ai là người theo keo
đánh nổi được ông Cản Ngũ? Họ cùng cắn chặt môi lại và thở dài” [12, 227].
Nỗi thất bại trở nên nghiêm trọng đến mức tự nhiên tất cả các đô vật già trẻ
đều đến nhà cả Lẫm để họp bàn xem ai có thể ra đấu với Cản Ngũ để cứu vãn
và bảo toàn danh dự cho làng. Hầu hết ở các trang truyện viết về nhân vật
thượng võ, nhà văn Kim Lân đã khai thác rất sâu về cái tinh thần trọng danh
dự, tinh thần đua tranh của mỗi sân vật thuộc mỗi một làng trong vùng.
Dĩ nhiên nhà văn ý thức rất sâu sắc vấn đề danh dự trong mối quan hệ
với quyền lợi của đất nước và đạo lý làm người. Ở những đô vật lừng danh
như Cả Lẫm, như Cản Ngũ bao giờ họ cũng có những ngón hiểm chết người,
có thể là miếng độc cuối cùng nhằm hạ gục đối phương. Với những đòn hiểm
này, đô vật có thể gây cho đối phương nguy cơ tàn phế, thậm chí dẫn đến cái
chết. Nhưng với những người cùng con dân một nước, họ không bao giờ giở
những chiêu độc có tính sát hại đối phương như vậy. Các đô vật trong sáng
tác của Kim Lân họ đều là những con người trọng đạo lý, hào hiệp, cao
thượng, có nghĩa khí, biết phục thiện. Ở bản thân họ luôn tỏa sáng cái tâm, cái
đức của người thôn quê nghèo, thật thà, chất phác đáng khâm phục. Ông Cả
Lẫm đã có lần hạ gục một đô già, mà cảm thấy trong lòng cứ “áy náy mãi
không yên, vừa thương thương, vừa tội tội”. Đặc biệt một khi cụ cả Lẫm đã
biết được cái mục đích đi ngao du thiên hạ dưới danh nghĩa đi tranh giải vật
để chiêu mộ nghĩa sĩ đánh giặc, lại cộng với con mắt tinh đời của cụ khi phân
45
tích các miếng vật có chủ ý nương tay của Cản Ngũ, nên cụ không trút tổng
lực vào cái miếng bí truyền. Đó là một tinh thần thượng võ cao cả, vừa mang
tính nhân văn sâu sắc, vừa biểu lộ đồng lòng tinh thần nghĩa khí đánh giặc của
các đô vật, của tất cả dân làng. Lòng tự trọng cá nhân, tự trọng làng sẽ là cần
thiết, nhưng sẽ không trở nên quan trọng nữa trước lòng trọng danh dự của
một người dân nước Việt trước họa kẻ thù. “Tôi cứ nghĩ rằng đã là người đô
vật mình, dù ở đâu, ở xứ Đông hay xứ Đoài, xứ Nam hay xứ Bắc, ở đâu cũng
là người dân Việt ta cả, cũng là máu đỏ da vàng với nhau, trong cái buổi còn
đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn thua một keo vật mà đánh một
người nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây thành một người
tàn phế, bỏ đi được không ?” [12, 235]. Nghĩ như thế nên cụ cả Lẫm vì tình
cảm với cộng đồng dân tộc mà chịu thua không nỡ hại ông Cản Ngũ. Một
người như cụ Cả Lẫm dừng tay chịu thua một cao thủ trong làng vật thật cao
đẹp. Ở những tay võ thượng thặng trong làng như ông Cản Ngũ, cụ Cả Lẫm,
đến với hội vật một môn thể thao mang tính cổ truyền của dân tộc không phải
vì sự thắng thua, mà vì lòng say mê những phong tục cổ truyền, muốn lưu giữ
những nét đẹp văn hóa ấy của dân tộc ta. Những nét đẹp văn hóa ấy là kết quả
của sức lực, trí tuệ của cộng đồng, nó gắn kết và tô đậm thêm những tình cảm
cao đẹp của con người với con người, con người với quê hương đất nước. Nhà
văn Kim Lân miêu tả các đô vật trong một tinh thần thượng võ cao quý, sang
trọng, một tư thế văn hóa đáng nể phục.
Như vậy khi viết về nhân vật thượng võ, Kim Lân đã ca ngợi vẻ đẹp của
các đô vật, nhà văn khẳng định phẩm chất cao quý, tinh thần thượng võ của
con người Việt Nam. Mặt khác, tác giả còn đề cao những giá trị văn hóa cổ
truyền, tinh hoa văn hóa của dân tộc, những giá trị được tạo dựng lên từ
những con người thôn quê nghèo. Kim Lân không chỉ dừng lại ở một sinh
hoạt phong tục thôn dã thuần túy mà ông đã dẫn dắt câu chuyện theo hướng
46
tôn vinh về nét đẹp văn hóa con người ở làng quê ông nói riêng và làng quê
Bắc Bộ nói chung. Qua đó, các nhân vật được hiện lên một cách rõ nét mang
trong mình phẩm chất, hào hoa, khí cốt của dân tộc, gắn liền với những nét
đẹp văn hóa làng quê truyền thống.
2.2.3. Nhân vật nhỏ bé, đời thường
Quan điểm sáng tác của Kim Lân là viết cho người nghèo. Bởi vậy như
một lẽ tự nhiên, Kim Lân đã trở thành nhà văn của những con người nghèo
khổ trong xã hội. Cũng do đó chiếm số lượng nhiều nhất trong các sáng tác
của Kim Lân là những nhân vật nhỏ bé, đời thường, kiểu nhân vật thấp cổ bé
họng. Đây là mẫu nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” vô danh tiểu tốt ở chốn làng
quê nông thôn Việt Nam nói chung trong cả hai giai đoạn trước Cách mạng và
sau Cách mạng tháng Tám.
Có thể nói, nhìn người nông dân ở góc độ con người văn hóa, nhà văn
Kim Lân không chỉ dừng lại với những con người thượng võ, tài hoa, bặt
thiệp mang thứ “phong lưu đồng ruộng”. Hay nói cách khác, ông không chỉ
làm sống lại những phong tục, những thú chơi, những sinh hoạt văn hóa
truyền thống của con người ở làng quê Bắc bộ Việt Nam. Kim Lân còn muốn
tạo dựng cái cốt cách tâm hồn của con người Việt - cái cốt cách mà ông cho là
rất cao quý, những con người nghèo mà Kim Lân gọi họ là “Những con người
mà như là những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh của cuộc sống” [15].
Mỗi con người một số phận, một cảnh ngộ khác nhau. Người thì trôi dạt
khốn cùng bởi chiến tranh, đói khát cùng đường, người bị chà đạp, áp bức,
bóc lột, khinh rẻ. Ngòi bút Kim Lân tập trung miêu tả số phận của những con
người đầu thừa đuôi thẹo. Những mẫu người ấy có diện mạo, hồn cốt riêng
biệt, ấn tượng trong nhiều tác phẩm của nhà văn. Họ là những người nghèo
khổ, khốn cùng vậy nhưng dưới ngòi bút của Kim Lân vẫn lấp lánh một vẻ
đẹp tâm hồn, lòng vị tha và đức hy sinh, niềm khát khao sống và thiết tha
47
hạnh phúc. Những nhân vật nhỏ bé đời thường, thấp cổ bé họng, đầu thừa
đuôi thẹo là sự hiện thân của cái nghèo đói, cái khổ, một đứa con người cô
đầu bị mẹ nhẫn tâm bỏ rơi sống chơ vơ, tủi cực trong cuộc sống mưu sinh
(Đứa con người cô đầu), hay người kép già hết thời chỉ biết vùi dập cuộc đời
còn lại của mình trong làn khói thuốc phiện, nghèo túng, mơ màng về thời trẻ
(Người kép già)… Nhiều hơn cả là những người nông dân nghèo không sống
nổi ở làng phải bỏ làng đi phiêu bạt khắp nơi, tất cả họ đều giống nhau ở cái
đói, cái nghèo. Ta còn bắt gặp thế giới của những người nông dân nghèo khổ
vốn là hạ lưu của cái xã hội cũ, những người nông dân hiền lành chất phác ở
miền xuôi mất nhà, mất ruộng đất xiêu dạt lên miền ngược, túp vào một xó
chợ bên sông, một góc phố núi hay ven một đồn điền, một xóm trại, tiếp tục
vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày. Trong truyện ngắn Vợ nhặt đó là
anh cu Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ và cả những con người sống vất vưởng
trong xóm ngụ cư, lúp xúp, tối om, một vùng đất ảm đạm, tối tăm của kiếp
người nhỏ bé trong xã hội. Bản thân họ đều mang thân phận của người nông
dân sống trong bối cảnh xã hội trước Cách mạng tháng Tám nghèo đói, khốn
khổ và phải xiêu dạt đến nơi khác chỉ vì miếng cơm, manh áo. Cuộc sống
cùng cực, họ phải đi tha hương cầu thực từng ngày, từng bữa kiếm miếng ăn
để mưu sinh. Hình ảnh người vợ nhặt, áo quần “tả tơi như tổ đỉa”, gầy sọp
trên cái “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” [12, 153] cũng
vất vả trong cuộc sống mưu sinh, ngồi đợi nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay có công
việc gì gọi đến thì làm và chẳng ai biết thị đến từ đâu, tên họ là gì và dường
như cũng không có ai quan tâm đến thị… Nhân vật như một minh chứng rõ
nét cho hạng người bần cùng trong xã hội hiện thực đương thời.
Chính vì thế mà trên hành trình khám phá và thể hiện những người nông
dân Việt Nam ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ, Kim Lân đã tập trung xoáy vào
chủ đề sức sống mãnh liệt của con người ngay trong những lúc cùng quẫn,
48
tuyệt vọng nhất. Đây chính là một biểu hiện cụ thể nhất của con người văn
hóa làng xã Việt Nam. Rất nhiều truyện của Kim Lân nói chung không chỉ
khám phá và thể hiện mà còn khẳng định bản chất lành mạnh, khỏe khoắn
trong nhân cách của người lao động, như khẳng định một chân lý. Điều này
có lẽ tập trung tiêu biểu nhất ở nhân vật Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ - mẹ
Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt. Anh Tràng lấy vợ trong hoàn cảnh giữa nạn
đói đã mang đến cho con người một niềm tin mãnh liệt về sự sống đang tắt lụi
dần giữa cảnh đói khát, chết chóc, thê lương, ảm đạm. Cụ thể là Tràng đem lại
cho “người vợ nhặt” - con người đói rách có cơ hết sống ấy một chỗ dựa tin
cậy, tồn tại, khiến chị ta vốn chao chát, chỏng lỏn đã sớm hoàn lại tính tình
hiền hậu, đúng mực. Và với bản thân Tràng cũng thế - anh tự thấy mình “nên
người” hơn, anh cảm thấy phải có “trách nhiệm” và “bổn phận” đối với gia
đình hơn. Tất cả càng làm cho người đọc thấm thía hơn về vẻ đẹp trong tâm
hồn những con người nghèo, cần lao cơ cực, cái chết luôn cận kề sự sống
nhưng họ vẫn luôn yêu thương, cưu mang, đùm bọc nhau, vẫn luôn ước ao
thèm khát hạnh phúc - dù đó chỉ là hạnh phúc nhỏ nhặt, tầm thường. Đây
cũng chính là một biểu hiện cơ bản cho kiểu con người duy tình của làng xã
Việt Nam. Những người dân nghèo với nhau có những cư xử đẹp trong khó
khăn, hoạn nạn. Lối sống duy tình ấy đã tạo nên sự giúp đỡ, tương trợ nhau
gắn bó thành chất keo cố kết gia đình và cộng đồng.
Đáng nói hơn nữa, ở nhân vật bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng - một người mẹ
già nua, nghèo khó có tấm lòng nhân hậu và rất yêu thương con. Bà đã thương
con mà chấp nhận người đàn bà xa lạ về nhà làm dâu mình. Thương con, bà
lại càng thương hơn đứa con dâu tội nghiệp của mình. Có lẽ, có một sự đồng
cảm cũng là đàn bà con gái với nhau nên bà cảm thấy xót thương cho “người
vợ nhặt”. Tình thương của bà thật lớn lao và cảm động. Đó là một thứ tình
thương rất gần với bản năng, một lòng thương xót tự nhiên giữa mẹ và con,
49
giữa con người với con người. Tình thương này đặc biệt tiêu biểu cho tấm
lòng của người phụ nữ Việt Nam có từ ngàn đời. Nhưng điều quan trọng là ở
bà cụ Tứ, chính là niềm tin và khát vọng sống lớn lao trong tâm hồn bà. Chính
bà đã thắp lên ngọn lửa hy vọng vào cuộc sống cho vợ chồng Tràng. Bữa cơm
đầu tiên, bà đón tiếp nàng dâu mới chỉ với vài bát cháo loãng cùng lùm rau
chuối thái (cả nhà cùng ăn) và một nồi “chè khoán” nấu loãng cám mà bà cho
là “ngon đáo để”, “xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!” [12,160]. Bà nói
toàn là chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Trên cái khuôn mặt bủng beo
của bà, luôn hiện lên niềm vui và cả sự lo âu khi gia đình có thêm thành viên
mới. Tình thương của bà cụ Tứ thật lớn lao và cảm động. Chính tình thương
này đã góp phần xua đuổi cái bóng đen của đói khát và cái chết ra khỏi cuộc
sống của con người. Đó cũng chính là vẻ đẹp thuộc về tâm hồn Việt, văn hóa
Việt [15].
Nhân vật Đoàn trong truyện ngắn Ông lão hàng xóm cũng vậy. Đoàn bị
quy oan theo quốc dân Đảng, đang bị truy bức, làm nhục. Không chỉ có Đoàn,
mà cả đồng đội của anh - những chiến sĩ trung kiên của Cách mạng như Mùi
cũng bị quy oan và đã bị bắt. Những lời hát của ông lão hàng xóm như một
ngụ ý về thói đời oan nghiệt, về nỗi oan khúc của kiếp người, về lòng đồng
cảm đầy ân tình, cảm động nhưng không dám công khai trong tình cảnh khắc
nghiệt lúc bấy giờ. Điều đáng nói là nhân vật Đoàn trong lúc bị đày ải, bị ép
cung, bị dồn tứ phía, kể cả bà con và người thân, nhưng anh đã hai lần tâm
niệm, như tự thề nguyền với lương tâm và dũng khí của mình: “phải sống”.
Tác giả để cho Đoàn tâm niệm: “Và Đoàn chết đi, liệu đã thoát chưa? Hay là
rồi đây người ta sẽ cho rằng Đoàn trốn đấu tranh? Bị đồng bọn cắt đứt đầu
mối? Không, Đoàn phải sống! Cho dầu hoàn cảnh có đắng cay, tủi nhục đến
chừng nào đi nữa, Đoàn cũng phải sống. Tình thương yêu và bổn phận làm
cha, làm chồng day dứt trong lòng, Đoàn không thể trốn mà đi được” [12,
50
206]. Hai lần, hai tiếng “phải sống” vang lên như một sự quyết đấu, giành lại
chỗ đứng của thân phận giữa thời buổi đảo điên đó. Đây là kiểu con người bất
hạnh, chịu nhiều đau khổ trong cuộc đời, nhưng vẫn luôn tiềm ẩn trong người
một khát vọng sống, một niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai, vào cuộc sống
mới có thể làm thay đổi cuộc đời. Có thể nói rằng sức sống của nhân dân là
bất tử, không sức mạnh nào có thể hủy diệt được. Cường quyền, bạo lực, bom
đạn, cái đói, tất thảy đều trở nên bất lực đến mức thảm hại trước sức sống
mãnh liệt của con người. Các tác phẩm của Kim Lân như những bài ca ngợi
ca sự sống, ngợi ca sự bất tử của con người, rộng hơn là của người Việt, tính
cách Việt, tâm hồn Việt. Và đó cũng chính là cốt cách của con người văn hóa
làng xã.
Khi nhìn vào loại nhân vật này với tư cách là con người văn hóa, chúng
ta không thể không nhắc đến tình cảm và trách nhiệm tự nhiên của họ đối với
số phận và sự tồn vong của đất nước. Phải kể đến là nhân vật ông Hai trong
tác phẩm Làng. Với ông Hai, yêu làng tức là yêu nước, gắn bó với số phận và
danh dự của làng cũng chính là gắn bó với số phận và danh dự của đất nước.
Khi nghe tin đồn, làng mình theo giặc, ông Hai tâm niệm: “Không thể được!
Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù” [12, 143]. Đúng
là một thái độ lựa chọn dứt khoát, mặc dù phải chịu đau đớn. Trong những
năm tháng kháng chiến, trước họa xâm lăng, bất kể ai là con dân của nước
Việt đều đem lòng mến yêu và trách nhiệm đối với sự an nguy của đất nước.
Thật tự nhiên, họ đã vô cùng gắn bó với quê hương, đất nước trong khung
cảnh thời chiến. Lòng yêu nước đã trở thành một giá trị tinh thần cao quý
chảy trong huyết quản của mỗi người. Có thể nói giá trị tinh thần cao nhất
trong con người văn hóa đó chính là lòng yêu nước một cách tự nhiên máu
thịt, cảm động và bền bỉ. Đó cũng chính là cái mạch nguồn thiêng liêng trong
văn hóa Việt.
51
Có thể thấy, Kim Lân đã ưu ái hơn rất nhiều khi viết hình tượng người
nông dân và đặc biệt là những số phận nhỏ bé, đời thừa của họ. Phát hiện ra
những điểm đáng quý của họ để rồi từ đó ngợi ca, phẩm chất, lối sống tình
làng nghĩa xóm của mỗi nhân vật. Khi soi chiếu hình tượng người nông dân
dưới góc nhìn văn hóa làng xã, chúng tôi đã khẳng định lại một lần nữa giá trị
của văn hóa người Việt xưa. Không gian làng xã khép kín, eo hẹp, cùng với
đó là tổ chức kết cấu của mô hình cấu trúc làng xã tự quản, tự trị hiện diện
trong mỗi tác phẩm. Những người nông dân chất phác, thật thà dù sống trong
môi trường nào đi chăng nữa thì vẫn luôn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tấm
lòng vị tha, nhân ái và biết bao phẩm chất tốt đẹp của họ. Lối sống duy tình,
duy nghĩa ăn sâu và luôn chảy trong huyết quản của mỗi người, để rồi từ đó
làm thức tỉnh tâm hồn của họ bất cứ lúc nào. Tình cảm hàng xóm, láng giềng
luôn gắn kết keo sơn giúp cho con người thôn quê hiểu nhau hơn, gần nhau
hơn và từ đó văn hóa Việt theo mãi trong những trang viết của Kim Lân.
52
KẾT LUẬN
Từ việc đi sâu vào tìm hiểu Văn hóa làng trong truyện ngắn của Kim
Lân, chúng tôi rút ra được một số kết luận sau:
1. Kim Lân là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, với các tác
phẩm tiêu biểu như Làng, Vợ nhặt… ông đã tái hiện lại xã hội Việt Nam một
cách sắc nét qua những trang viết của mình, đặc biệt là ở hai mảng đề tài:
người nông thôn và văn hóa phong tục làng quê Bắc Bộ. Ở cả hai mảng đề tài
Kim Lân đều thể hiện một cách sắc nét những hiểu biết của mình để xây dựng
lên bức tranh làng quê mộc mạc giản dị và ông xứng đáng là một cây bút xuất
sắc trong nền văn học Việt Nam.
2. Theo hướng tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa, chúng tôi đã triển khai
một số vấn đề cơ bản để tìm hiểu văn hóa làng trong các sáng tác của Kim Lân.
Cụ thể như sau:
Ở chương thứ hai, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu các sáng tác của Kim Lân
về đề tài nông thôn Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám qua một số
đặc trưng nhất của văn hóa làng xã đó là:
Thứ nhất, xác định một số kiểu làng quê qua các thời kì: làng quê truyền
thống, làng xóm ngụ cư, làng xóm trong thời kì cải cách ruộng đất và làng xóm
tản cư. Đây có thể coi là biểu hiện rõ nhất theo dòng biến thiên của lịch sử. Khi
đi tìm hiểu từng kiểu làng quê chúng tôi phát hiện ra những nét đặc trưng về
không gian văn hóa làng quê. Chúng tôi tìm hiểu bức tranh nông thôn trong các
sáng tác của Kim Lân, đồng thời là lối sống, tình cảm, thói quen của người
nông dân xưa cùng với đó là đặc điểm làng xã Việt Nam. Điều đó đã khẳng
định được bối cảnh không gian làng quê để từ đó tạo dựng lên những nét đặc
sắc trong văn hóa làng xã.
Thứ hai, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu những kiểu nhân vật đặc trưng
trong truyện ngắn Kim Lân. Đọc truyện ngắn của Kim Lân người đọc sẽ phát
53
hiện được những kiểu nhân vật đặc trưng sau: Kiểu nhân vật nghệ sĩ chốn làng
quê, kiểu nhân vật thượng võ và những con người bình thường, nhỏ bé. Qua
việc đi sâu vào tìm hiểu từng kiểu nhân vật đã tạo ra bước tiền đề cơ bản để đi
sâu vào khai thác vốn văn hóa phong tục của làng quê truyền thống. Ở đó tồn
tại những trò chơi dân gian như chọi gà, thả chim, đi săn, múa rối nước… thú
vui của những người nông thôn xưa, và cả những phong tục, hủ tục như lễ đuổi
tà trong ngày tết. Đặc biệt là xây dựng kiểu con người mang trong mình tinh
thần, khí phách Việt, thể hiện sức mạnh nội lực, tinh thần dân tộc…
Hiểu rõ như thế, chúng ta sẽ có cơ sở để khám phá đầy đủ hơn về phông
văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán, con người cũng như cuộc sống trong văn
chương hiện đại.
54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2003), “Kim Lân nhà tiểu thuyết phong tục sở trƣờng về
miêu tả trạng thái nhân thế”, Tạp chí văn (số 13), hội văn nghệ TP.HCM.
2. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn xuôi Kim Lân”, Tạp chí Văn học (số 6).
3. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
4. Lê Văn Hảo (2016) “Về khái niệm tính cộng đồng và tính cá nhân”, Tạp
chí Tâm lí học số 9/24.
5. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm
mới.
6. Nguyễn Văn Hùng (2008), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa.
7. Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Luận văn
Thạc sĩ, ĐHSP. TP.HCM.
8. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Các tác giả văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
10. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Lữ Huy Nguyên (1996), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.
12. Dương Phong (2011), Kim Lân tuyển tập, Nxb Văn học.
13. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
14. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Nha Trang (2009), “Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim
Lân”, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Tp Hồ Chí Minh.
16. Nhiều tác giả (2003), “Tuyển tập 10 năm tạp chí văn học và tuổi trẻ”,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
18. http://langvietonline.vn.
19. http://sachhayonline.vn.
20. http://isach/story.