Khủng hoảng suy vong của vương triều nhà
Nguyễn
Tư bản Pháp đã chọn đúng lúc để n súng xâm lược Việt Nam khi chế độ phong
kiến Việt Nam đang đi sâu vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Chế độ phong
kiến Việt Nam đã khủng hoảng nặng t cuối thế kỉ XVIII.
Tư bản Pháp đã chọn đúng lúc để nổ súng xâm lược Việt Nam khi chế độ phong kiến
Vit Nam đang đi sâu vào giai đoạn khủng hoảng trầm trng. Chế độ phong kiến Việt
Nam đã khủng hoảng nặng từ cuối thế k XVIII. Nhưng mm mng đầu tiên của ch
nghĩa tư bản trong nước đã xuất hiện và ngàyng mâu thuẫn đối kháng với quan hệ kinh
tế phong kiến bảo thlạc hậu bao đời thống trị xã hi Việt Nam. Nền kinh tế tiểu nông
đang cần được phát triển, nhưng bị chế độ chiếm hữu và bóc lt phong kiến uy hiếp
nghiêm trng. Đâyng là thời kì bùng ncác cuộc khởi nga nông dân trên một quy
mô rộng lớn trong phạm vi cả nước, đòi hi đất nước phải sớm thống nhất. Cuộc khởi
nghĩa của nông dân Tây Sơn thắng lợi đã mở ra nhiều triển vng cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng dựa vào thế lực tư b
ản Pháp, Nguyễn
Ánh đã đánh thắng Tây Sơn. Có thể khẳng định rằng triều Nguyễn thành lập là sự thắng
thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ng hộ đối
với triều đại Tâyn tương đối tiến bộ hơn về nhiều mặt.
Ngay sau khi lên ngôi (1802), Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long và các vua ti
ếp theo
(Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) ngày càng đi sâu vào con đường phản động, vừa ra sức
phục hồi và cng cố quan hệ sản xuất cũ, vừa cố tình bóp nght lực lượng sản xuất mới
đã manh nha pt triển hồi thế kỉ XVIII. Mọi chính sách chính tr, kinh tế, văn hóa, xã
hi triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bo vệ đặc quyền đặc lợi cho
tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn.
Bmáy chính trị triều Nguyễn ngay từ đầu đã mang nặng tính chất quan liêu, độc đoán
sâu mọt. Đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyt đối, tập trung cao độ với một
chế độ chính trị lạc hậu, phản động. Mọi quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua.
Vua được coi là "con trời", thay trời" trị dân; quyền hành nhà vua được coi là “thần khí”
thiêng liêng, vô hạn. Nhà vua trong thực tế là đại địa chủ lớn nhất trong nước, có toàn
quyền phung phí tài sản quốc gia trên xương u của nhân dân. Còn quan lại trong triều
ở các địa phương hầu hết là bọn hủ bại; chính tr thì bảo thủ, cầu an, kinh tế thì tham
lamcuồng bạo. Từ vua đến quan đều rất tự cao t đại với mớ học thuyết Khổng, Mạnh
li thời, xem trật tự phong kiến là bất di bất dịch, mãi đến lúcng giặc nầm bên tai
mới bàng hoàng tnh giấc. Trong hoàn cảnh đó, đời sống của người nông dân trong các
thôn xã vô cùng cơ cực. Dưới triều Nguyễn, tổ chức xã thôn đã hoàn toàn trthành mt
công cụ của bọn cường hào địa chủ nông thôn. Nó trói buộc người nông dân trong những
quan hệ địa phương hẹp hòi lợi cho sự bóc lột của nhà nước phong kiến và cn trở sự
phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm trng. Rung đất phần nhiều tập
trung vào tay bn quan lại, đa chủ. Công điền, công thổ chỗ nào mầu mỡ béo tốt đều bị
bọn cường hào lũng đoạn, còn lại thì bọn hương lại bao chiếm, dân nghèo ch được
những chỗ xương xẩu mà thôi. Chon, nói chung nông dân không có ruộng cày, đời
sống vô cùng cực khổ. Hiện tượng nông dân không có ruộng đất cày cấy làm ăn phải bỏ
làng đi tha phương cầu thực là nét phổ biến dưới triều Nguyễn. Chỉ từ năm 1802 đến năm
1806, nông dân trên 870 thôn thuc mấy trấn lớn ngoài Bắc xiêu tán đi nơi khác. Đến
năm 1826, lại đến 108 xã thôn thuộc mười ba huyện của trấn Hải Dương xiêu tán, cộng
thêm vào đó là tô thuế rất nặng nề. Đó là chưa kể tới tình trạng vỡ đê lụt li, mất mùa đói
kém thường xảy ra, hầu như không năm nào không có. Đê Vãn Giang Ở Hưng Yên vỡ 18
năm liền, biến cả một vùng đồng bằng phì nhiêu Khoái Châu thành bãi đất hoang, nhân
dân vùng này phải từng đoàn lang thang kéo nhau đi các nơi xin ăn. Tại các vùng ở Bắc
Ninh, Sơn Tây lại nạn châu chấu phá hoại mùa màng. Vì vậy, nạn đói xảy ra thường
xuyên. Ngay trước khi tư bản Pháp sắp nổ súng đánh vào Đà Nẵng (1858), mt trận đói
ghê gm đã xy ra làm cho hàng chục vạn nhân dân các tỉnh Trung Bắc Kì bị chết. Đồng
thời, cũng do sự bất lực của bọn phong kiến thống trị hi đó, nạn dịch đã hoành hành d
dội, giết hại hàng chục vạn người.
Trước tình hình bi thảm đó, để xoa dịu và ngăn ngừa dân chúng ni dậy chống lại, phong
kiến triều Nguyễn đã có một số biện pháp. Minh Mạng ra lệnh cho Nguyễn Công Tr
chiêu dân tiến hành khai hoang miền ven biển lập ra hai huyện Tiền Hải (Thái Bình),
Kim Sơn (Ninh Bình) trong hai năm 1828 - 1829; Tự Đức giao cho Nguyễn Tri Phương
lo liệu việc mdân lập ấp ở Nam Kì từ năm 1853. Nhiều dân bị tù ti đã được đưa vào
đây khai khẩn. Nhưng tt cả các biện pháp trên đều không mang lại kết quả đáng kể vì
đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Người nông dân sau một thời gian đổ m
ii nước mắt lại thấy ruộng đất do tay mình làm ra b bọn phong kiến cướp đoạt. Vì
vậy, nạn nông dân lưu tán, nhất là đến đời Tự Đức khi tư bản Pháp sắp nsúng khởi hấn,
lại càng trở nên ph biến khắp cả nước và ngày càng trầm trọng hơn lên. Đó là một trong
những nét tiêu biểu của thời kì khủng hoảng suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam
dưới triều Nguyễn.
Trong khi nông nghiệp đang lâm vào tình trạng tiêu điều xơ xác như vậy thìng nghiệp
nằm trong tay bn phong kiến triều Nguyễn cũng ngày mt bế tắc.
Chính sách của triều Nguyễn về mặt công nghiệp vô cùng phản động. Phong kiến nhà
Nguyễn nắm trong tay những ngành kinh doanh lớn. Các công xưởng lớn đúc súng, đóng
tàu, đúc tiền; các xưởng nhỏ chuyên chế to đồ dùng riêng cho nhà vua, vàng bạc, gấm
vóc; các công trường xây dựng cung điện, thành quách, lăng tẩm đều do bộ Công của
triều đình quản lí. Chế độ làm việc trong các công xưởng này là chế độ "công tượng"
mang nặng tính chất cưỡng bức lao động. Những người thợ giỏi ở các đa phương bị bắt
v đây được biên chế tnh đội ngũ, làm việc tập trung với một số lương rất thấp, lại chịu
sự kiểm soát nghiêm ngặt của quan lại nên rất bất mãn, không phấn khởi với công việc.
Triu đình phong kiến còn giữ độc quyền ngành khai mỏ . Số mỏ được khai thác từ 1802
đến 1858 là 139 mỏ, bao gồm đủ các loại. Nhưng phần lớn các mỏ đều do bọn quan lại
triều đình đứng ra khai thác, chỉ mt số ít là do ch mHoa kiu hay Việt Nam chủ trì.
Phương thức sản xuất trong cả ba loại mỏ căn bản vẫn là li sản xuất thủ công cá thể với
những hình thức bóc lột phong kiến mang nặng tính chất nô dịch. Năng suất trong các
công trường mỏ vì vậy thường thấp. Đã thế, triều Nguyễn còn đánh thuế sản vật rất nặng
o các mỏ do Hoa kiều hay người Việt đứng ra khai thác. Nhiều phép tắc vô lí làm hạn
chế sự phát triển của ngành khai mỏ, như quy đnh những khu vực cấm khai mỏ, giữ độc
quyền thu mua các kim loại khai tc được theo giá quy định.
Các ngh thủ công trong nhân dân không có điều kiện phát triển. Tại các công xưởng thủ
công, mặc dù không có mt chế độ phường hội chặt chẽ theo kiểu các nước phong kiến
châu Âu, nhưng các mối quan hệ phức tạp giữa chủ và thợ, giữa thợ cả và th bạn, giữa
các làng chuyên nghip với nhau và rất nhiều luật lệ cấm đoán của triều đình đã làm cho
sáng kiến, tài năng của người thợ ngày càng bbóp nghẹt. Các nghề thủ công nhỏ và ngh
phụ gia đình ở nông thôn còn bị đình đốn vì nông dân đói kh, li tán. Thủ công nghiệp
hu như bị tê liệt.
Thương nghiệp dưới triều Nguyễn sút kém một cách rõ rệt. Chính sách "trọng nông ức
thương" của triều đình đã kìm hãm thương nghiệp. Về nội thương, một mặt chúng nắm
độc quyền buôn bán nguyên liệu công nghiệp (như đồng, thiếc, chì, kẽm, nhất là lưu
hoàng, diêm tiêu), vì sợ nhân dân chế vũ khí chng lại. Mặt khác, chúng đặt ra nhiều luật
lệ chặt chẽ để kiềm chế, như nắm độc quyền buôn bán cả đối với một số lâm sản quý giá
cướp đoạt của đồng bào miền núi (quế, gạc hươu, sáp ong, ngà voi, gquý); đánh thuế
nặng vào các mt hàng quan trọng đến đời sống nhân dân như lúa gạo để hạn chế việc
chuyên chở trao đổi giữa các vùng trong nước; cấm nhân dân họp chợ. Việc giao lưu giữa
các đa phương vì vậy gặp rất nhiều trở ngại, thị trường trong nước không tập trung và
thống nhất.
Ngoại thương cũng bị triều đình nắm độc quyền. Thực hiện cnh sách bế quan tỏa cảng,
triều đình ch mở nhỏ git một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui ti buôn bán. Chỉ được
nhp vào nhng hàng hóa triều đình cn (như sắt, chì, gang, lưu hoàng để làm súng đạn);
còn xuất cảng thì cấm tàu thuyền nước ngoài không được mua tơ lụa, thóc gạo trong nhân
dân. Tàu buôn nước ngoài ti buôn bán còn b khám xét rất kĩ để đánh thuế và định g
hàng, lại còn có thể bị trưng dụng đi phục vụ cho các đợt công tác đột xuất của triều đình
(như chở gạo cho quân lính, hay chuyên chnguyên vật liệu xây dựng lăng tẩm, cung
điện) . Chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình đã làm cho việc buôn bán với nước
ngoài sa sút rõ rt. Thuế cửa quan, trước có 60 sở, đến năm 1851 chỉ còn 21 sở; mt s
cảng trước kia buôn bán rất phn thịnh, nay cũng trở nên tiêu điều vắng vẻ.
Nói tóm lại, nền kinh tế tài chính nước ta trong nửa đầu thế kí XIX đã suy đốn trầm trọng
v mi mặt nông, công thương nghiệp. Do chính sách phản động của triều Nguyễn, các
yếu tố tư bản chủ nga mới nảy sinh trong các khu vực kinh tế, đang trên đà phát trin t
nhiên và tiến bộ, phù hợp với yêu cẩu phát trin của xã hi hồi đó, đều bị bóp nghẹt.
Nền kinh tế hàng hóa vì vậy đã b co hẹp lại. Trên cơ sở đó, nền tài chính quốc gia ngày
mt kiệt quệ. Đời sống nhân dân ngày càng cực khổ. Mối mâu thuẫn giữa bọn phong kiến
thống tr với nhân dân chủ yếu là nông dân đã trở nên cùng gay gắt và đã bc l ra
ngoài mt cách sâu sắc với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân suốt cả mấy đời vua
triều Nguyn. Trước khi tư bản Pháp nổ súng xâm lược, mt scuc khởi nghĩa lớn đã
bùng n: Phan Bá Vành ở Nam Định (1821); Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833); Lê Văn
Khôi ở Gia Định (1833); Nông Vănn ở Tuyên Quang (1833) ; Cao Bá Quát ở Hà Ni
Bắc Ninh (1854). Đó là chưa kể tới nạn th phỉ Trung Quốc liên tục quấy phá trên
vùng biên giới phía bắc, người Đá Vách (Thạch Bích) ở Quảng Ngãi không ngừng ni
dậy trong những năm 1857-1858.
Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn
đã ra sức củng cố trật t bằng mọi cách.
Đối ni, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng, huy động những
lực lượng quân sự to ln vào việc dập tắt các cuc khởi nghĩa nông dân trong biển máu.
Các cuộc hành quân liên miên mt mặt đã làm cho chính lực lượng quân sự của triều đ
ình
b suy yếu dần, mặt khác cũng làm hủy hoại khả năng kháng chiến lớn lao của dân tộc,
càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho tư bản Pháp thôn tính nước ta. Để bin minh cho
thủ đoạn tàn bo trên, chúng đã ban hành b luật Gia Long năm 1815. Bộ luật này được
soạn ra phỏng theo bộ luật phản động của phong kiến Mãn Thanh (Trung Quốc), dưới ý
niệm trấn áp nhân dân và givững trật tự phong kiến tuyệt đối. Chúng còn lợi dụng cả
văn học để tuyên truyn cho chế độ thống trị đẫm máu của chúng, như Minh Mạng ra 10
điều Huấn dụ, T Đức diễn âm Thập điều diễn ca để truyền bá rộng rãi học thuyết Nho
giáo trên cơ sở đó củng cố ý thức hệ phong kiến đã b rạn nứt.
Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như
Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tn thất, tài chính quc gia và tài lực nhân dân bị
khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây thì chúng thi hành ngày một thêm
gắt gao chính sách bế quan tỏa cảng và cấm đạo, giết đạo. Trước âm mưu xâm lược ngày
càng ráo riết của bọn tư bản nước ngoài nhất là củabản Pháp - phong kiến nhà Nguyễn
tưởng làm như vậy là tránh được nạn lớn. Chúng không thấy được muốn bảo vệ độc lập
dân tc, muốn gigìn đất nước trong nhng điều kiện quốc gia và quc tế bấy giờ, biện
pháp thích hợp nhất là mở rộng cửa biển giao thương để duy tân xứ sở, đẩy mạnh phát
trin nông công thương trong nước, trên cơ sở đó nhanh chóng bồi dưỡng sức dân, sức
nước để có thể đi phó kịp thời và hiệu quả với những âm mưu xâm lược ngày càng được
đẩy mạnh của tư bản nước ngoài. Trái li, càng đóng chặt cửa và càng cấm đạo, giết đạo,
lại càng tạo thêm do cho chúng n súng xâm lược sớm hơn.
Rõ ràng là với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu vmi
mặt và trở thành miếng mi ngon đối với các nước tư bản phương Tây. Đặc biệt đối vi
tư bản Pháp từ lâu đã có cơ sở bên trong nước ta nhờ sự hoạt đng ngấm ngầm và liên tục
của bọn gián điệp đội lốt con bn và giáo sĩ. Lịch sử lúc này đã đi ti mt bước ngoặt.
Một là triều Nguyễn bị đánh đổ và thay thế vào là mt triều đại khác tiến theo hướng mới
của tư bản chủ nghĩa có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hai là
nước Việt Nam bị mất vào tay tư bản Pháp để trở thành mt xứ thuộc địa. Thực tế lịch sử
đã chứng minh rằng khi tiếng súng xâm lược của tư bản Pháp bùng nổ, giai cấp phong
kiến Việt Nam đã phân hóa ra hai phái chủ chiến và chủ hòa, phái chủ hòa gm phần
đông bọn đại phong kiến và quan lại lớn với Tự Đức đứng đầu sẽ nhanh chóng câu kết
với bọn cướp nước để làm tay sai cho chúng đàn áp và bóc lột nhân dân cả nước. Đó là
tội lớn của phong kiến nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử. Tất nhiên, khi kh
ẳng định
"tội" của nhà Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp vào nửa sau thế k
XIX, chúng ta không hề quên những đóng góp của họ về các mặt phát trin giáo dục, văn
hóa, nghệ thuật mà mt số thành tựu đến ngày nay vẫn là tài sn quý của dân tộc.