
1
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM

2
I. PHÂN TÍCH CƠ HỘI & THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG NGOẠI
HỐI VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI
Trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, thị trường ngoại hối Việt Nam đang có
nhiều cơ hội phát triển cũng như phải đương đầu với không ít thách thức. Do đó, để đạt
được mục tiêu hoàn thiện thị trường ngoại hối, những cơ hội này cần phải được tận dụng
một cách linh hoạt và những thách thức cần phải được vượt qua.
1. Cơ hội cho thị trường ngoại hối Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng là một dấu
hiệu tốt cho thị trường ngoại hối. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 ước tính
tăng 6,78% so với năm 2009 . Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 6,31% của năm
2008 và cao hơn hẳn mức 5,32% của năm 2009, vượt mục tiêu đề ra 6,5%. Trong năm
2011, mục tiêu tăng trưởng GPD là 7- 7,5% và lạm phát không quá 7%.
Thị trường ngoại hối Việt Nam đã và đang được phát triển theo hướng mở cửa,
chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế, mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng từ năm 2006 khi
Pháp lệnh Ngoại hối có hiệu lực từ ngày 01/06/2006, được đánh giá là một bước tiến mới
trong cải cách cơ chế quản lý ngoại hối trong bối cảnh mới.
Chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường ngoại hối ngày được mở rộng bao gồm
các NHTM, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng, tổ chức tài chính và ngân hàng nước ngoài, các cá nhân.
Các công cụ giao dịch ngoại hối hiện đại (quyền chọn, hoán đổi, v.v.) sẽ được sử
dụng rộng rãi, chiếm tỷ trọng cao hơn trong các giao dịch ngoại hối. Bên cạnh đó, công
nghệ và phương tiện hiện đại sẽ được áp dụng phổ biến trong kinh doanh dịch vụ ngân
hàng nói chung và dịch vụ ngoại hối nói riêng.
2. Thách thức đối với thị trường ngoại hối Việt Nam
Trong thời gian tới, bên cạnh những cơ hội lớn đã nêu trên, việc phát triển thị
trường ngoại hối Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức như môi trường pháp lý,
khả năng quản lý của các cơ quan chức năng và khả năng bình ổn thị trường ngoại hối.
Về mặt môi trường pháp lý và cơ chế chính sách, Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển của thị trường ngoại hối. Chúng ta có quy định chính sách được ban hành

3
nhưng việc quản lý thực hiện các quy định này vẫn còn nhiễu tồn tại. Do đó, môi trường
pháp lý của thị trường ngoại hối vẫn chưa thực sự phát huy tác dụng của nó.
Trong điều kiện thị trường quốc tế có nhiều biến động khó lường, việc quản lý
điều tiết đảm bảo sự phát triển lành mạnh ổn định của thị trường ngoại hối là một công
việc khá khó khăn và đỏi hỏi khả năng phan đoán chính xác của người quản lý. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay, số lượng cán bộ quản lý giỏi về ngoại hối vẫn chưa đáp ứng đủ
nhu cầu của thị trường ngày càng được mở rộng này.
Với thực trạng tình hình ngoại hối như hiện nay, thách thức lớn nhất là bình ổn thị
trường ngoại hối sau việc điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 9.30%
đồng (từ 18.932 VND/USD lên 20.693 VND/USD ngày 11/2/2011). Việc điều chỉnh tỷ
giá này có tác động lớn đến tâm lý của người dân, doanh nghiệp, ảnh hưởng đến cán cân
thương mại và lạm phát.
II. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
VIỆT NAM
Để thích ứng với nền kinh tế thị trường mở và hội nhập, Việt Nam cần phải có
mục tiêu, quan điểm và định hướng rõ ràng cho thị trường ngoại hối.
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong việc phát triển thị trường ngoại
hối là ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại
tệ. Song song đó, Việt Nam cần từng bước nâng cao vị thế của VND, tạo điều kiện cho
VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi và phối hợp với chính sách ngoại hối để
chống hiện tượng đô la hoá.
Bên cạnh những mục tiêu đề ra, thị trường ngoại hối Việt Nam phải quán triệt một
số quan điểm cơ bản sau trong quá trình phát triển:
Thứ nhất, phát triển thị trường ngoại hối phải phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội.
Thứ hai, gắn liền với chiến lược phát triển thị trường tài chính - tiền tệ và hệ thống
ngân hàng.
Thứ ba, phát triển theo hướng mở cửa hội nhập đồng thời đảm bảo an ninh tài
chính - tiền tệ.
Có mục tiêu quan điểm rõ ràng thị sự phát triển thị trường ngoại hối mới bền vững
và không chệch hướng. Bên cạnh đó, những mục tiêu này sẽ giúp các nhà nghiên cứu đề

4
ra những giảp pháp theo đúng định hướng ban đầu. Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế đòi hỏi chính sách tỷ giá hối đoái phải liên tục được hoàn thiện và điều chỉnh
thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường. Để góp phần khai thác tối đa
những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách Tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện theo những định hướng cơ bản
sau:
Thứ nhất là tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Trong
xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có chính sách
quản lý thích ứng, tạo ra động lực phát triển nền kinh tế trong tiến trình hội nhập; vì chế
độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này
thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà
nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá.
Thứ hai là chính sách Tỷ giá hối đoái phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ
một cách hợp lý cho các doanh nghiệp trong nước.
Thứ ba là Việt Nam cần kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập
khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so
sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so
sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa.
III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
1. Giải pháp từ cơ quan quản lý và Ngân hàng Nhà nước
Các cơ quan quản lý nói chung và Ngân hàng Nhà Nước (“NHNN”) nói riêng có vai trò
quan trọng trong sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam. Giải pháp từ các cơ quan này
sẽ có ảnh hưởng rất lớn. Do đó, việc đưa ra những điều chỉnh thị trường đòi hỏi sự thận trọng từ
các cơ quan quản lý.
1.1 Giải pháp từ cơ quan quản lý
a. Ổn định kinh tế vĩ mô
Với mục tiên ổn định kinh tế vĩ mô, các cơ quan quản lý cần thường xuyên phân
tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để đề ra được chính sách TGHĐ
phù hợp cho từng giai đoạn. Quản lý tốt dự trữ ngoại hối và tăng tích lũy ngoại tệ là một
trong những nhiệm vụ hàng đẩu của chính phủ. Việt Nam cần tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ
nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong
nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có
hiệu qủa. Trong thời gian trước mắt chúng ta vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng
trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng
tránh rủi ro khi USD bị mất giá.
Việc quản lý trong quản lý ngoại hối cần phải được nới lỏng tiến tới tự do hóa.
Hoạt động này bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân

5
hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính
trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh
hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền
tệ của các ngân hàng thương mại.
Thị trường ngoại hối Việt Nam cần được hoàn thiện để tạo điều kiện cho việc thực
hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các
doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều,
tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các
đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng cần được phát triển vì nó là điều kiện cần
thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời
qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những
biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân
hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều
hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
Bên cạnh đó, cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam cần được hoàn thiện hơn nữa để
đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng
bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà
nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ
này là +/- 0.25%). Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch
ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi
động và tránh hiện tượng găm giữ đô la.
Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại
tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm
cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD
trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông
thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để
thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ
thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều
chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như
vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến
hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết
định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ
không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ. Điều chỉnh như
thế nào để tỷ giá theo sát được những cân đối lớn của Chính phủ và phản ánh xác thực
hơn cung cầu thị trường hiện vẫn là một mục tiêu nan giải. Theo quan điểm cá nhân, vấn
đề này có thể xem xét dưới các góc độ sau: