Lai ADN – Phần 3
Lai trong môi trường dịch thể:
Phản ứng lai trong môi trường dịch thể xảy ra nhanh hơn nhiều so với môi
trường chất mang pha rắn (soild). Do cả phân tử ADN đích và mẫu dò đều
th di động tự do trong môi trường do đó phản ứng đạt kết quả cao nhất. Nói
chung với phép lai thực hiện trong dịch thể thì thời gian kết thúc nhanh n từ 5-
10 lần so với trong điều kiện là chất mang (Bryan, et al., 1986). Tuy nhiên, cũng
có thbổ sung thêm chất mang làm tăng phản ứng lai. Cần thêm bước cuối cùng là
tách phức hợp mẫu dò-sợi ADN đích. Hạn chế đây là mẫu trong dịch cho nên
thtạo lên các nền kém đặc hiệu, do vậy cần c giải pháp làm hạn chế mức độ
nhiễu của nền cho thích hợp.
Hình 1.5. Minh hokỹ thuật lai trong môi trường dịch thể.
Trên thực tế hầu hết các KIT thương phẩm dùng cho vi sinh vật đều tiến
hành trong môi trường dịch thể. Vi sinh vật trong mẫu đầu tiên được phân giải
trong điều kiện thích hợp để ADN đích lai với mẫu dò. Sau đó bước lai và tách
phức hệ mẫu ADN đích dựa vào các thông scủa phép lai theo kiểu kẹp díp
cthể. Các phép lai theo kiểu kẹp díp (hình 1.9) cần hai đoạn ADN trình t
khác nhau; một đoạn để m giữ ADN đích gắn vào chất mang và một đoạn là
mẫu dò. Điều quan trọng hai đoạn ADN này phải trình t khác nhau cho dù
chúng đều gắn với hai vùng khác nhau trên đoạn ADN đích theo nguyên tắc bổ
sung. Mẫu dò đánh dấu được bổ sung vào trong dung dịch các đoạn ADN đích
nghiên cứu. Như vậy theo hình vphức hợp ADN mẫu dò đánh dấu để phát hiện
gắn với ADN đích và phức hợp mẫu dò- ADN đích gắn vào chất mang đã được
hình thành. Phức hợp này được tách ra khỏi dung dịch và khi có mặt cơ chất thích
hợp để phát hiện được mẫu dò đánh dấu. Khi dùng hệ thống phát hiện dựa vào các
hoá chất huỳnh quang hay tạo màu có thdùng thiết bị phát hiện kết quả một cách
tự động.
+ Kỹ thuật lai dựa vào màng:
Tác giđầu tiên giới thiệu kỹ thuật cố định ADN trên màng Nygaard
Hall (1963, 1964). Sau đó chính Southern (1975) ni tviệc tách ADN
khỏi gel sau khi điện di và chuyển chúng lên màng nitrocellulose. Các đoạn ADN
đích được phát hiện bằng kthuật lai đây bước tiến quan trọng của sinh học
phân tử. Từ năm 1977 đến nay đã nhiều cải tiến vphép lai cũng như bước
chuyển ADN lên màng của các tác giả khác nhau như: Meinkoth Wahl (1984).
Người ta cũng đã sdụng một số màng nynol, màng nitrocellulose hoạt hoá hay
độ bền cho các phép lai. Đối với công việc định loại vi sinh vật với kthuật cố
định trên màng cho phép lai ADN thì cn chấm mẫu (là ADN sạch, hay tế bào vi
sinh vật hoặc sinh phẩm có vi sinh vật nghiên cứu) lên màng thích hợp. Mẫu được
ly giải và ADN bbiến tính, sau đó ADN được cố định trên màng khi đưa vào t
xấy tại 80oC trong 2 gihoặc đưa vào xvới tia UV trong trường hợp sử dụng
màng lynon. Mẫu dò đánh dấu sau đó được đưa vào dung dịch. Bước tiền lai được
thực hiện để hạn chế các mẫu bám vào nhau không đặc hiệu. Sau đó là bước lai,
màng sau khi lai được rửa để loại các mu dò còn dư. Bước rửa tiếp theo để đánh
giá mức độ m đặc hiệu của phép lai. Sau đó các mẫu dò đánh dấu lai với vị trí
ADN mẫu trên màng được phát hiện bằng các hệ thống phát hiện tương thích.
Toàn bquá trình lai trên màng đã được Meinkoth và Wahl (1984) mô tả chi tiết.
Khi phát hiện typ vi sinh vật, chúng ta phải sử dụng kỹ thuật Southern.
Trong phương pháp này ADN của nhiễm sắc thể được tinh sạch và được xử với
enzym cắt hạn chế thích hợp, sau đó mẫu lại được điện di trên gel agarose và tạo
ra dấu vân (finger print) của nhiễm sắc thể. Sau khi điện di gel được đặt dưới
màng nitrocellulose hay màng nylon nm giữa một số lớp giấy. Lớp giấy lọc phía
trên được đặt trên cùng phần gel và màng kẹp giữa giấy lọc như trong hình 1.6.
Hình 1.6. Mô tphương pháp chuyển ADN lên màng cho kthuật Southern Blot.
Kết quả đệm từ phía dưới được thấm một ch tự nhiên lên trên. Điều đó
giúp cho việc chuyển các mảnh ADN từ gel lên màng và m chặt vào màng với
kích thước và phiên bản đúng như trên gel sau khi điện di ( tả chi tiết theo
Sambrook 1989).
Phương pháp truyền thống này cũng được cải tiến khi dùng màng nylon để
chuyển ADN trong điều kiện biến tính (Read và Mann 1985). Thi gian chuyển có
thvài gihoặc qua đêm. Việc cố định ADN trên màng được thực hiện sau đó
bằng cách xử nhiệt hay tia UV như đã trình bày trên. Tuy nhiên, nhiều
phương pháp cải tiến được thực hiện nhanh như chuyển bằng điện di (Bittner,
Kupfere, Morris, 1980) hay s dụng m chân không (Medveczky, 1987;
Olszewsk, 1988).
Trong nhiều trường hợp dùng điện để chuyển ADN tgel agarose lên màng
thì trước tiên gel phải được xử lý biến tính được làm trung hoà trlại. Gel được
đặt giữa hai bản điện có các bản giấy thấm (hình 1.7).