
248
LỄ HỘI VĂN HÓA VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở BÌNH
DƯƠNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
Phạm Thúc Sơn 1
1. Khoa Sư phạm, Trường Đại Thủ Dầu Một
TÓM TẮT
Lễ hội văn hóa truyền thống và Di sản văn hoá ở Bình Dương là thành tựu của cộng đồng dân
cư Bình Dương trong tiến trình phát triển. Việc giữ gìn, phát huy các giá trị tích cực trong lễ hội văn
hoá truyền thống nhằm bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc và thỏa mãn nhu cầu phát triển trong bối
cảnh hiện nay rất cần thiết. Lễ hội văn hoá truyền thống có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giáo
dục ý thức cộng đồng và là niềm tự hào cho các thế hệ tiếp theo. Để lễ hội văn hóa truyền thống phát
huy giá trị hữu hình và vô hình, đem giá trị phục vụ tốt hơn đời sống kinh tế - xã hội cần phải xây
dựng các lễ hội văn hóa truyền thống thành những sản phẩm du lịch có hiệu quả kinh tế cao. Trong
bối cảnh hiện nay, việc phát triển du lịch văn hóa bền vững, đặc biệt là khai thác hiệu quả lễ hội văn
hóa truyền thống để biến thành những sản phẩm du lịch tiêu biểu, hiệu quả ở Bình Dương đang đặt
ra nhiều vấn đề và cần có chiến lược phát triển phù hợp.
Từ khóa: Bình Dương, Du lịch văn hóa; Du lịch bền vững; Lễ hội truyền thống; Lễ hội văn hóa.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển vùng đất Bình Dương đã hình thành nên những đặc trưng
văn hóa vùng đa dạng, phong phú với nhiều nét hấp dẫn, độc đáo riêng. Với điều kiện tự nhiên thuận
lợi đã khiến Bình Dương trở thành một điểm đến hấp dẫn với nhiều du khách. Nhưng việc khai thác
những giá trị và sản phẩm văn hoá cho hoạt động du lịch vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh
cả về số lượng và cách thức tổ chức. Sản phẩm văn hoá là nhân tố hạt nhân tạo nên những sản phẩm
du lịch độc đáo đồng thời việc khai thác các sản phẩm du lịch văn hoá này sẽ tạo ra một môi trường
“sống” cho chính các sản phẩm này. Thông qua khai thác các sản phẩm văn hoá cho hoạt động du
lịch, hệ thống sản phẩm du lịch sẽ trở nên đa dạng hơn, góp phần tăng cường khả năng phát triển du
lịch của Bình Dương. Quá trình này sẽ đưa các sản phẩm văn hoá đến với công chúng đồng thời tạo
nguồn thu cho người dân và chính quyền địa phương để từ đó tăng cường ý thức cũng như nguồn lực
để tôn tạo, bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống ở Bình Dương.
Việc khai thác lễ hội văn hoá truyền thống cho hoạt động du lịch là yêu cần thiết trong bối cảnh hội
nhập hiên nay. Trong quá trình khai lễ hội văn hoá hoặc để lãng phí và chìm vào quên lãng hoặc khai thác
không nên để các sản phẩm kém hiệu quả hoặc trong khi khai thác không để một số sản phẩm khác lại bị
khai thác một cách quá mức, gây ra nhiều tác động tiêu cực. Quá trình phát triển du lịch văn hóa bền vững
phải đảm bảo sự hài hòa. Muốn vậy phải nhận thức đúng vấn đề và xác định được một định hướng hoàn
thiện để biến các lễ hội văn hoá truyền thống thành sản phẩm du lịch nhằm khai thác một cách hợp lý.
Với mục đích đó, bài viết này sẽ bước đầu trình bày xây dựng những giá trị của lễ hội văn hóa truyền
thống thành một sản phẩm du lịch trong phát triển bền vững ở Bình Dương.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tiếp cách cận cấu trúc và hệ thống đồng thời kế thừa lý thuyết, phương pháp tiếp
cận và kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, cùng với quá trình tiếp cận nguồn
các tài liệu. Bài viết sử dụng phương nghiên cứu của chuyên ngành khoa học lịch sử là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic để nghiên cứu và làm rõ nội hàm vấn đề. Phương pháp nghiên cứu lịch

249
sử nhằm khắc họa, tái hiện lại một cách chân thực lễ hội văn hóa trong ở Bình Dương. Lễ hội văn hóa
được trình bày một cách khách quan, chân thực theo tiến trình để đọc giả có hình dung đầy đủ, toàn
diện về vấn đề lịch sử; Phương pháp logic nhằm đặt lễ hội văn hóa trong bối cảnh chung cách mạng
công nghiệp 4.0. Qua đó, đanh giá vị thế, kết quả và tác động việc thực hiện xây dựng lễ hội văn hóa
để phát triển du lịch bền vững ở Bình Dương. Đồng thời, để quá trình xây dựng lễ hội văn hóa thành
một sản phẩm để phát triển du lịch bền vững ở Bình Dương bài viết còn sử dụng kết hợp một số
phương pháp sau: Phương pháp phân tích - tổng hợp nhằm phân tích, đánh giá kết quả theo từng vấn
đề bằng hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc cùng lập luận chặt chẽ, lý giải khách quan. Sau đó, khái
quát, tổng hợp những điều đã phân tích được để từ đó đưa ra đánh giá chung nhằm làm sáng tỏ được
những ý nghĩa và tác động của vấn đề; Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh đối chiếu hệ
thống các quan điểm trên cơ sở các nguồn tư liệu và tài liệu nghiên cứu. Từ đó rút ra những đánh giá,
kết luận về vấn đề nghiên cứu và vấn đề có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Việc sử dụng cách tiếp
cận và hệ thống phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành trên giúp cho việc chứng minh,
lý giải, kết luận vấn đề rõ ràng, tường minh và thuyết phục hơn.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến đời sống kinh tế - xã hội
Cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra những biến đổi đột phá. Trong một thế giới chuyển đổi,
chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức, cả từ tự nhiên lẫn từ chính mô hình phát triển, nhưng
thách thức lớn nhất và quan trọng nhất là làm thế nào để nắm bắt và định hình được cuộc cách mạng
công nghệ mới - một cuộc cách mạng chắc chắn kéo theo sự biến đổi của nhân loại.
Cách mạng công nghiệp 4.0 có hai khác biệt lớn so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước
đó là: 1- Hạ tầng Internet thúc đẩy việc chia sẻ các ý tưởng phát triển và nguồn lực thực hiện ý tưởng;
2- Thương mại hóa ở cấp toàn cầu và các hiệp định tự do hóa, mở cửa thị trường. Cho nên, cách mạng
công nghiệp 4.0 tạo ra những cơ hội lớn, những biến đổi mang tính đột phá cho các nền công nghiệp,
cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Những biến đổi này mang tính lịch sử cả về quy mô, tốc độ và phạm vi ảnh hưởng của nó. Về quy
mô, những đột phá công nghệ sẽ tương tác thúc đẩy các lĩnh vực, còn tốc độ được đánh giá là diễn
biến theo cấp số nhân.
Theo Mike Gregory (Giáo sư Đại học Cambridge, Anh quốc), “đến nay chưa có định nghĩa
được chấp nhận rộng rãi, nhưng có sự đồng ý chung là cách mạng công nghiệp 4.0 đề cập đến những
biến đổi cực nhanh của hàng loạt công nghệ kết nối tiềm năng và tương tác phát triển của chúng. Đó
là việc số hóa hoạt động kiểm soát và truyền thông, sự thay đổi lạ thường của các quá trình sản xuất,
như kỹ thuật in 3D và sự hiểu biết cực nhanh của các công nghệ sinh học” (Mike, p.1), v.v.. Còn theo
Klaus Schwab thì “những biến đổi này sâu sắc đến mức, từ góc độ của lịch sử loài người, chưa từng
có một hứa hẹn nào hoặc rủi ro tiềm tàng nào lớn hơn” (Klaus Schwab, 2015). Tuy nhiên, ông cũng
lo ngại rằng, những người ra quyết định thường bị mắc kẹt trong tư duy tuyến tính truyền thống (và
thiếu sự đột phá) hoặc chú ý quá nhiều đến những mối bận tâm trước mắt ngăn cản họ có được những
suy nghĩ mang tính chiến lược về các lực gây nên sự đổ vỡ và đổi mới vốn đang định hình tương lại
của chúng ta.
Nhưng chắc chắn, cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới
đương đại cả về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp độ (toàn cầu, khu vực, quốc gia và
trong từng lĩnh vực). Các yếu tố tác động này rất tích cực trong dài hạn, song cũng tạo ra nhiều thách
thức trong ngắn hạn và trung hạn. Từ góc độ dài hạn, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động đưa nền
kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực “không có trần giới hạn”
là công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các “yếu tố đầu vào” luôn
có “trần giới hạn” (như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, v.v.). Bên cạnh đó, cách mạng công nghiệp
4.0 cũng tạo ra những thách thức liên quan đến chi phí điều chỉnh trong ngắn và trung hạn, tác động
không đồng đều đến các ngành/lĩnh vực khác nhau. Trong thực tế, sẽ có những ngành tăng trưởng

250
mạnh mẽ liên quan tới phát triển và áp dụng các công nghệ mới, trái lại có những ngành bị thu hẹp
đáng kể do công nghệ lạc hậu, thậm chí có thể bị phá sản, bị đào thải.
Cuộc cách mạng 4.0 với công kết nối vạn vật ở mọi nơi và công nghệ thực tế ảo cho phép con
người ở những không gian khác nhau có thể kết nối liên kết. Trong phát triển du lịch, công nghệ thực
tế ảo cho phép con người ở những khoảng không gian cách xa nhau vẫn có thể đi du lich ảo. Công
nghệ cho phép khách du lịch kết nối với các địa điểm và các sản phẩm du lịch một cách chủ động.
Điều này có tác động không nhỏ tới các sản phẩm du lịch, nếu các sản phẩm du lịch không thực tế
không thực sự hấp dẫn buộc khách du lịch phải đến để thưởng ngoại và trải nghiệm.
3.2. Lễ hội văn hóa - sản phẩm của du lịch văn hóa
Trong hoạt động du lịch, lễ hội văn hoá nói riêng, giá trị văn hoá nói chung có vai trò đặc biệt
quan trọng, quyết định cho sự hình thành của sản phẩm du lịch văn hoá - loại sản phẩm in dấu ấn
truyền thống và nhân văn của dân tộc hay của nhân loại.
Lễ hội văn hoá có “nguyên liệu” quan trọng và cơ bản nhất là những giá trị văn hoá vật thể và phi
vật thể để hình thành, xây dựng các sản phẩm du lịch đưa vào phục vụ đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá.
Trong lễ hội văn hóa giá trị văn hoá càng phong phú, càng giàu bản sắc, càng độc đáo thì khả năng tạo
nên các sản phẩm du lịch văn hoá có sức hấp dẫn càng cao. Tất nhiên sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch
văn hoá không chỉ từ các giá trị văn hoá nhưng nó là yếu tố quan trọng nhất. Một quốc gia, dân tộc, cộng
đồng dân cư làm nên và bảo tồn các giá trị văn hoá, các thành tựu văn hoá đa dạng, đặc sắc sẽ là điều kiện
rất quan trọng để phát triển những sản phẩm du lịch có chất lượng cao và độc đáo.
Lễ hội văn hóa là sản phẩm được đưa ra thị trường và khó có thể đánh giá chất lượng một cách
đơn giản bằng định lượng. Giá trị của lễ hội văn hóa trong sản phẩm du lịch văn hóa không thể chỉ
được đo bằng giá cả mà vượt qua cả giá cả. Một lễ hội văn hóa, một sự kiện văn hoá … chỉ có thể
xác định sản phẩm bằng định tính. Có thể nói sản phẩm du lịch văn hoá chỉ có thể được xây dựng,
bán và sử dụng khi trong sản phẩm đó thể hiện các lễ hội, nghệ thuật ẩm thực, diễn xướng, hay tham
quan nghiên cứu các di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật. Sản phẩm du lịch văn hoá còn được thể hiện
trong việc xây dựng và bán các sản phẩm cụ thể chứa đựng yếu tố văn hoá như đồ thủ công truyền
thống của làng nghề, những món ăn đặc sản dân tộc độc đáo và hấp dẫn…. Tất cả những sản phẩm
này giữa cái hữu hình còn là cái vô hình chứa đựng trong đó mà khách du lịch, khách tham quan khi
mua và sử dụng các sản phẩm này mua cả giá trị vô hình đó. Giá trị vô hình của sản phẩm không thể
lượng hoá và không thể đo lường thuần tuý bằng giá cả như các sản phẩm kinh tế - xã hội khác.
Lễ hội văn hoá là sản phẩm du lịch văn hoá chỉ có thể đánh giá chất lượng sau khi đã sử dụng.
Dù tự khám phá, tự thưởng thức sản phẩm hay có người hướng dẫn phục vụ thì khi được giao dịch,
được mua bán khách hàng thường phải hình dung về sản phẩm và chất lượng của nó chứ chưa thể
biết đầy đủ hay khá đầy đủ như mua một sản phẩm thông thường khác. Mua vé tham quan một lễ hội
trong một chương trình biểu diễn của một chương trình du lịch, một dịch vụ du lịch…, khách du lịch
chỉ có thể tin vào sự quảng bá của người bán. Trong thực tế, chất lượng sản phẩm du lịch văn hoá
phụ thuộc không chỉ là tài nguyên nhân văn – nền tảng cơ bản để tạo nên sản phẩm – mà còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác như việc tổ chức quản lý, chất lượng và số lượng dịch vụ, phẩm chất và
năng lực của đội ngũ những người phục vụ…. Do đó, sản phẩm du lịch văn hoá gắn liền với cả một
quá trình hoạt động và một đội ngũ những người tham gia làm nên nó.
Sản phẩm du lịch văn hoá vừa có thể chứa đựng các giá trị văn hoá, các thành tựu văn hoá vừa
có thể chứa đựng ngay cả các sản phẩm văn hoá trong nó. Làng nghề thủ công truyền thống Bình
Dương như làng sơn mài Tương Bình Hiệp, làng guốc mộc Bình Nhâm, làng gốm Lái Thiêu… là sản
phẩm văn hoá nhưng được khai thác cho việc xây dựng cho các chương trình du lịch làng nghề – làng
quê của Bình Dương. Mặt khác, mỗi sản phẩm của làng nghề thủ công truyền thống cũng được sử
dụng làm đồ lưu niệm cho khách và do đó nó trở thành một sản phẩm du lịch văn hoá cụ thể.
Cần lưu ý rằng sản phẩm du lịch văn hóa là các chương trình du lịch được thiết kế, quảng bá,
bán và thực hiện xong, là các dịch vụ du lịch có khai thác các giá trị văn hoá cả với các dịch vụ cơ
bản và các dịch vụ bổ xung và chỉ khi thực hiện việc phục vụ khách, mới tạo nên sản phâm du lịch
hoàn chỉnh. Khách du lịch quốc tế hay trong nước, dù có lứa tuổi, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, giới
tính, … khác nhau thì cũng không thể so sánh với cả cộng đồng rộng lớn. Sản phẩm du lịch văn hoá

251
còn chứa đựng trong đó yếu tố dịch vụ vì trong bản chất, du lịch là kinh tế dịch vụ, là ngành “công
nghiệp không khói”. Sản phẩm du lịch văn hoá ở bất cứ địa phương, hay quốc gia, dân tộc nào thường
chỉ khai thác phần hấp dẫn khách nhất trong kho tàng văn hoá đồ sộ, có khả năng bán được cho khách
càng nhiều càng tốt.
Sản phẩm du lịch văn hoá như đã trình bày, được hình thành tồn tại và phát triển hay lụi tàn ở
những địa phương, những dân tộc, quốc gia có các giá trị văn hoá đa dạng đặc sắc đang được khai
thác và biết khai thác có hiệu quả. Chính vì vậy Binh Dương đang trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội với rất nhiều yếu tố và yêu cầu cơ bản cần có mà du lịch là một ngành kinh tế đặc thù bởi nó
chứa đựng các yếu tố văn hoá truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại. Muốn phát triển kinh tế
- xã hội bền vững thì không thể không phát triển du lịch. Bởi “sẽ không thể hiểu được nếu tách rời
văn hoá với du lịch mà lại có thể đem lại hiệu quả cao cho du lịch” (Hồ Sỹ Vịnh, 1993). Du lịch ở
Bình Dương sẽ khó mà phát triển nếu không có được các di sản văn hoá, nếu không khai thác có hiệu
quả các giá trị văn hoá đặc trưng của vùng mà các thế hệ đi trước đã tạo dựng nên và lưu giữ đến nay.
Một xã hội phát triển bền vững là xã hội dựa vững chắc vào nền tảng văn hoá, vào cội nguồn dân tộc
mà sản phẩm văn hoá vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của sự phát triển đó. Cũng vì thế, sản phẩm
du lịch văn hoá vừa là nền tảng cho sự phát triển du lịch ở Bình Dương vừa là kết quả sự phát triển
kinh tế - xã hội, kết quả của quá trình khai thác các sản phẩm văn hoá ở Bình Dương. Vai trò và tầm
quan trọng của văn hoá nói chung, của lễ hội văn hoá nói riêng với sản phẩm du lịch văn hoá, với quá
trình phát triển du lịch ở Bình Dương là không thể phủ nhận và là một trong những động lực chủ yếu
để phát triển du lịch bền vững.
Với tiến trình nhận thức và cách tiếp cận lễ hội văn hóa là sản phẩm của du lịch văn hóa như
trên cho ta thấy vấn đề vừa có tính thực tiễn vừa có cơ sở nền tảng lý luận cho việc phát triển du lịch
lễ hội ở Bình Dương.
Để có một cái nhìn bao quát, tổng thể và có căn cứ để thiết lập, xây dựng các các sản phẩm du
lịch lễ hội ở Bình Dương chúng ta phải nhận thức đúng các loại hình lễ hội ở đây. Có thể chia lễ hội
văn hóa truyền thống ở Bình Dương thành các loại hình như sau:
Lễ hội tín ngưỡng tâm linh: Lễ cúng đình làng Nam Bộ: lễ hội “Kỳ Yên Đình Dĩ An", Lễ hội Kỳ
Yên tại Đình thần Tân Trạch, xã Bạch Đằng, thị xã Tân Uyên. Lễ hội Miếu Ông Bổn, Lễ hội Chùa Bà
của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương; Lễ hội liên quan đến Phật giáo (Lễ hội cầu an đầu năm ở chùa
Châu Thới thành phố Dĩ An và Lễ hội chùa Thái Sơn Núi Cậu ở Dầu Tiếng) và Thiên Chúa giáo.
Lễ hội doanh nhân văn hóa anh hùng dân tộc: Lễ hội ghi ơn Trịnh Hoài Đức, Lễ hội ghi ơn
Nguyễn Hữu Cảnh.
Lễ hội truyền thống của cộng đồng các dân tộc: Lễ hội Tết Đoan Ngọ của cộng đồng người Hoa
ở Bình Dương; Lễ hội Oócombóc của cộng đồng người Khơ Me ở Bình Dương; Lễ hội Cầu Mùa của
đồng bào ở xã Tam Lập, huyện Phú Giáo.
Lễ hội du lịch sinh thái: Lễ hội "Lái Thiêu mùa trái chín" được tổ chức 2 năm một lần; Lễ hội
Đờn ca Tài tử tổ chức luôn phiên ở các tỉnh Đông Nam Bộ; Lễ Hội hương bưởi Bạch Đằng hướng
tới phát triển du lịch tại thành phố Tân Uyên: Tổ chức 2 năm một lần; Lễ hội Đua thuyền truyền thống
trên sông Sài Gòn ở thành phố Thuận An.
3.3. Lễ hội văn hòa với sự phát triển du lịch bền vững ở Bình Dương
Trong điều 4, Luật Du lịch nêu rõ: “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các
nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai” (Luật
Du lịch, 2005). Phát triển bền vững phải đạt được các nội dung căn bản: Góp phần bảo vệ môi sinh,
môi cảnh. Xây dựng, phát triển kinh tế tăng trưởng không ngừng. Đảm bảo công bằng xã hội. Không
xâm hại đến lợi ích nhiều mặt của các thế hệ trước mắt cũng như lâu dài. Tạo tiền đề phát triển về
mọi mặt của đời sống xã hội. Phát triển du lịch bền vững (Sustainable Tourism) được Tổ chức Du
lịch thế giới định nghĩa như sau: “Sự phát triển bền vững của ngành du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại
của du khách và của địa phương du lịch, đồng thời bảo vệ và thúc đẩy cơ hội phát triển cho tương lai.
Sự quản lý của ngành phải cân bằng và đáp ứng được nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ mà vẫn
duy trì được các giá trị của sinh thái, văn hóa và môi sinh”. Hoặc: “Du lịch bền vững là các hình thức

252
du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương nhưng
không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Du lịch khả thi về kinh tế
nhưng không phá hủy tài nguyên mà tương lai của du lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường
tự nhiên và kết cấu xã hội của cộng đồng địa phương” (Antonio Machado, 2003).
Xét từ những tiêu chí trên có thể thấy lễ hội du lịch chính là động thái quan trọng trong quá
trình phát triển du lịch bền vững. Trước hết, chúng ta cần hiểu Lễ hội văn hóa du lịch. Lễ hội văn hóa
du lịch, hoặc tuỳ theo địa phương để đặt tên gọi khác nhau. Lễ hội văn hóa du lịch là một sản phẩm
văn hóa nhưng đồng thời đây cũng là một sản phẩm du lịch. Nó thực sự phát triển trong những năm
gần đây ở Bình Dương, trở thành một sinh hoạt văn hóa - chính trị - xã hội sâu rộng mang nặng giá
trị kinh tế, đặc biệt là kinh tế du lịch. Dưới góc độ nào đó có thể coi lễ hội văn hóa du lịch chính là
sự tổng hợp của lễ hội và các sự kiện văn hóa. Đây là một hoạt động tổng hợp, một công cụ văn hóa
đa năng trong đó chứa đựng yếu tố văn hóa tâm linh, chiêm bái các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng, dâng
hương và tưởng nhớ người có công với quê hương đất nước. Đồng thời lễ hội có cả các hoạt động
nghệ thuật biểu diễn, ẩm thực, nghề thủ công truyền thống và đồ lưu niệm cùng rất nhiều hoạt động
văn hóa và dịch vụ liên quan khác. Việc tổ chức Lễ hội văn hóa du lịch chính là một phần công việc
đặc biệt quan trọng trong khai thác, sử dụng, phát huy những giá trị nhiều mặt của kho tàng di sản
văn hóa lễ hội truyền thống của Bình Dương (cả vật thể và phi vật thể) trong quá trình xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cùng với tiến trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước hôm nay.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều lễ hội văn hóa du lịch chưa thành công. Sự chưa thành công ở
chỗ chương trình tổ chức chưa “trúng”. Chưa trúng trong việc chọn thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội.
Chưa trúng còn thể hiện qua nội dung và hình thức thể hiện các chương trình khai mạc, bế mạc và các
chương trình kéo dài trong khuôn khổ của lễ hội đó. Gần như hình thành một khuôn mẫu được và bị lặp
lai cho mọi nơi: khai mạc; giới thiệu một số lượng lớn; đại diện chính quyền địa phương phát biểu, diễn
văn với dung lượng muốn “không bỏ sót điều gì”. Tiếp sau đó là chương trình văn hóa - nghệ thuật được
dàn dựng từ các đoàn nghệ thuật, các trường văn hóa nghệ thuật và các ban ngành đoàn thể khác trong và
ngoài địa phương. Chương trình nghệ thuật địa phương nào cũng muốn ấn tượng, hoành tráng nên đầu tư
rất lớn, nhiều khi gây lãng phí không cần thiết. Nội dung chương trình nghệ thuật của các địa phương dù
khác nhau về qui mô, mức độ và hình thức thể hiện nhưng cũng thường gồm 3 chương lớn: hồng hoang
thời tiền sử, anh hùng thời cách mạng kháng chiến và vận hội thời mở cửa… Tất cả được huy động với
mức độ lớn về con người, trang thiết bị, âm thanh, ánh sáng, trang phục, đạo cụ… vào ra, khép mở, co
cụm, dồn ghép đem đến những nội dung chưa thật đặc sắc. Cuối cùng là pháo hoa, ca nhạc… các chương
trình na ná như nhau khiến người xem có cảm giác nhàm chán. Một số nơi huy động một số lượng lớn
con người, trang thiết bị, địa điểm để tập dượt từ nhiều thời gian trước, gây lãng phí thời gian, tiền bạc
cho ngân sách địa phương. Sẽ còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Tuy nhiên cái được là rõ ràng:
được kinh nghiệm tổ chức, được quảng bá hình ảnh, được giao lưu khu vực, quốc gia và quốc tế… Đặc
biệt là đã và sẽ thu hút được số lượng lớn du khách tới tham quan du lịch, thực hiện tiêu dùng du lịch,
xuất khẩu tại chỗ, mở rộng thị trường… Xu hướng phát triển của loại hình lễ hội du lịch là tất yếu và ngày
càng phát triển hoàn thiện, phù hợp với thực tế tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước
trong giai đoạn mới.
Với tất cả những ưu thế của nó, hoạt động xã hội hóa mang nặng giá trị kinh tế - văn hóa này
đã và sẽ còn phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Từ thực tế của các lễ hội văn hóa du lịch, chúng
tôi xin được trình bày những nội dung có liên quan về vấn đề này như sau:
Trước hết, cần xác định rõ, các lễ hội văn hóa truyền thống tổ chức để phát triển thành sản phẩm
du lịch Bình Dương sẽ là cơ hội cho cho việc hội nhập khu vực, quốc gia và quốc tế, bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa truyền thống. Tham quan du lịch trên địa bàn tổ chức lễ hội văn hóa truyền thống
là một sản phẩm du lịch tạo ra sự trao đổi các sản phẩm hàng hóa, tạo công ăn việc làm, tìm việc và
làm việc. Đồng thời đào tạo, thực tập và thực hành, thử nghiệm thực tế. Giao lưu, quảng bá hình ảnh
văn hóa địa phương nơi tổ chức tổ chức lê hội. Ngoài ra còn có các hoạt động vui chơi giải trí, thẩm
nhận các giá trị văn hóa.