ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM ĐỨC CƯỜNG
NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TIÊU BIỂU TRONG THƠ CA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM ĐỨC CƯỜNG
NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TIÊU BIỂU TRONG THƠ CA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
Chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 62 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Trần Khánh Thành
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong Luận án “Những biểu tượng
nghệ thuật tiêu biểu trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945” là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần
Khánh Thành.
Những số liệu, kết quả, trích dẫn trong luận án đều trung thực, rõ ràng, có
nguồn gốc đầy đủ và chưa được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Phạm Đức Cường
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới PGS.TS Trần Khánh Thành -
người hướng dẫn khoa học tận tình và tâm huyết - người Thầy đáng kính đã
luôn động viên, ủng hộ em trong quá trình học tập và thực hiện luận án này.
Em xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học trong Hội đồng chấm luận án;
trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Khoa Văn học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã quan tâm, tạo
điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, các đồng nghiệp, các
bạn sinh viên Trường Đại học Hải Phòng - nơi tôi đang công tác - đã động viên,
khích lệ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành việc học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã luôn
quan tâm, động viên, ủng hộ để tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Phạm Đức Cường
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục 1
MỞ ĐẦU 4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 10
1.1. Nghiên cứu biểu tƣợng từ góc nhìn lý thuyết 10
1.1.1. Khái lƣợc về biểu tƣợng 10
1.1.2. Một số quan niệm về biểu tƣợng 13
1.1.3. Đặc trƣng của biểu tƣợng 27
1.1.4. Biểu tƣợng nghệ thuật trong thơ 29
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 33
1.2.1. Lịch sử nghiên cứu biểu tƣợng trên thế giới qua các công 33
trình đƣợc biết đến ở Việt Nam
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu biểu tƣợng, biểu tƣợng nghệ thuật ở 36
Việt Nam
Tiểu kết chƣơng 1 42
Chƣơng 2. NGUỒN GỐC SINH THÀNH CÁC BIỂU TƢỢNG 43
TRONG THƠ CA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
2.1. Kiến tạo biểu tƣợng từ mẫu gốc và mở rộng biên độ tƣợng trƣng 43
2.2. Thực tế thời đại - nguồn gốc đầu tiên của biểu tƣợng 48
2.3. Chủ nghĩa lãng mạn, Chủ nghĩa tƣợng trƣng, Chủ nghĩa siêu 51
thực và ảnh hƣởng tới thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
2.3.1. Chủ nghĩa lãng mạn 51
2.3.2. Chủ nghĩa tƣợng trƣng 56
1
2.3.3. Chủ nghĩa siêu thực 59
2.4. Từ thơ ca yêu nƣớc đến thơ ca cách mạng 62
2.4.1. Tiếp nối truyền thống thơ ca dân tộc 62
2.4.2. Thơ ca Cách mạng ra đời trong thực tiễn đấu tranh cách mạng 64
2.5. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-1945 66
2.5.1. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca lãng mạn 66
2.5.2. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca Cách mạng 69
Tiểu kết chƣơng 2 73
Chƣơng 3. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG 75
THƠ MỚI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932 - 1945
3.1. Biểu tƣợng về không gian - vật thể 75
3.1.1. Biểu tƣợng trăng 75
3.1.2. Biểu tƣợng vƣờn 80
3.1.3. Biểu tƣợng cánh bƣớm 84
3.2. Biểu tƣợng về thế giới tâm linh 89
3.2.1. Biểu tƣợng âm phủ - địa ngục 89
3.2.2. Biểu tƣợng hồn - linh hồn 94
3.2.3. Biểu tƣợng máu 100
3.2.4. Biểu tƣợng giấc mộng 104
3.3. Biểu tƣợng về sự vận động của thời gian 110
3.3.1. Biểu tƣợng mùa xuân 110
3.3.2. Biểu tƣợng mùa thu 116
Tiểu kết chƣơng 3 120
Chƣơng 4. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG 122
THƠ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
4.1. Biểu tƣợng về lý tƣởng cách mạng 122
4.1.1. Biểu tƣợng mặt trời 122
2
4.1.2. Biểu tƣợng con đƣờng 125
4.1.3. Biểu tƣợng cờ - ngọn cờ 132
4.2. Biểu tƣợng về ý chí cách mạng 140
4.2.1. Biểu tƣợng con thuyền 140
4.2.2. Biểu tƣợng lửa 145
4.2.3. Biểu tƣợng máu 150
4.3. Biểu tƣợng về sự vận động của cách mạng 156
4.3.1. Biểu tƣợng bóng tối 156
4.3.2. Biểu tƣợng ánh sáng 162
Tiểu kết chƣơng 4 167
KẾT LUẬN 169
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN 174
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
3
TÀI LIỆU THAM KHẢO 175
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Biểu tƣợng xuất hiện từ lâu trong đời sống văn hóa của các dân tộc
và nhân loại, là một trong những ngôn ngữ cơ bản của con ngƣời, tồn tại trong
hiện thực và cả trong những giấc mơ. Leskie Alvin White, nhà nhân học Hoa
Kỳ, cha đẻ của Thuyết Tiến hóa mới, đã đƣa ra nhận định một cách xác tín
rằng “đơn vị cơ bản” của văn hóa là biểu tƣợng và nó là hạt nhân của di
truyền xã hội. Và thực tế cho thấy, thông qua những lý thuyết mang tính chất
tƣơng đối hệ thống cùng với kinh nghiệm cá nhân, chúng ta đang dần buộc
mình phải ghi nhận biểu tƣợng chính là đơn vị cơ bản của mọi hành vi ứng xử
và văn minh của nhân loại.
Nhà triết học Đức Ernst Cassier đã đƣa ra định nghĩa về con ngƣời nhƣ
một “động vật sản xuất ra các hình thái biểu tƣợng”, thậm chí ông còn đƣa ra
một đề xuất táo bạo và có căn cứ rằng “chúng ta nên định nghĩa con ngƣời
nhƣ là động vật biểu tƣợng”. Biểu tƣợng đƣợc con ngƣời sử dụng nhƣ một
phƣơng tiện thông tin và giao tiếp tƣ tƣởng tình cảm chứa đầy tính thẩm mĩ.
Không chỉ vậy, có thể coi biểu tƣợng là một dạng “đặc sản tinh thần” của văn
hóa mỗi dân tộc, mỗi thời đại, mỗi tập thể và mỗi cá nhân. Ở một góc độ nhất
định, biểu tƣợng chính là nét khác biệt, độc đáo khi so sánh giữa các nền văn
hóa trên thế giới với nhau.
1.2. Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu biểu tƣợng nói chung,
biểu tƣợng nghệ thuật nói riêng đã đƣợc quan tâm và đạt nhiều kết quả đáng
ghi nhận. Trong hƣớng nghiên cứu văn học từ văn hóa nói chung - một bộ
phận không thể tách rời khỏi văn hóa thì giải mã biểu tƣợng là một trong
những khâu quan trọng. Biểu tƣợng là loại mã văn hóa mà nếu muốn tìm hiểu
4
một nền văn học, chúng ta không thể bỏ qua. Hiểu đƣợc các ý nghĩa của biểu
tƣợng chính là hiểu đƣợc cơ bản hệ giá trị văn hóa của cả một dân tộc, một
thời đại sản sinh ra nó. Với khả năng “gợi cảm đến bất tận”, biểu tƣợng đƣợc
biết đến nhƣ một sinh thể có khả năng mở rộng, biến đổi hoặc tái sinh các lớp
nghĩa theo thời gian, hoàn cảnh. Chính vì thế, việc nghiên cứu biểu tƣợng ở
một giai đoạn, một thời kì văn học hay một thời đại nào đó sẽ là nền tảng để
chúng ta thấu hiểu một cách sâu sắc và căn bản một tác giả, hay văn hóa của
một dân tộc. Khu biệt lại ở một phạm vi hẹp, biểu tƣợng ở trong thơ chính là
những hình ảnh cụ thể nhƣng giàu cảm xúc, tính “gợi cảm thẩm mĩ” và điều
quan trọng là nó có khả năng biến hóa linh hoạt cùng với khả năng chứa đựng
nhiều tầng, nhiều lớp ý nghĩa sâu xa mà “bề mặt ngôn từ” không thể hiện hết.
Xây dựng ít hay nhiều, thậm chí là cả một hệ thống biểu tƣợng trong sáng tác
của mình đƣợc coi là một phƣơng thức để nghệ sĩ phản ánh cuộc sống và thể
hiện cá tính, tài năng sáng tạo của mình trong thơ. Chính các biểu tƣợng làm
cho tác phẩm trở nên lung linh, huyền ảo, khơi gợi trí tƣởng tƣợng, tò mò
khám phá của ngƣời đọc. Việc xây dựng các biểu tƣợng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó yếu tố nền tảng là quan niệm và thị hiếu thẩm mĩ của mỗi dân
tộc, mỗi thời đại trong những hoàn cảnh nhất định.
1.3. Thế giới biểu tƣợng trong văn học Việt Nam nói chung và thơ ca
Việt Nam nói riêng là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn, là mảnh đất
nghiên cứu màu mỡ mà trong nhiều năm qua chúng ta mới đang trong quá
trình tìm hiểu, khám phá. Biểu tƣợng nghệ thuật vừa mang tính phổ quát vừa
mang dấu ấn riêng của từng dân tộc, từng thời đại, từng tập thể và mỗi cá
nhân. Thơ ca lƣu giữ và làm sống lại những biểu tƣợng, những giá trị văn hóa
thông qua các biểu tƣợng ngôn từ. Nó chuyên chở mã văn hóa qua tiến trình
văn học dân tộc và đi qua mỗi thời đại, nó lại đƣợc bổ sung những nội dung
mới, nét nghĩa mới, nhiều khi trở thành yếu tố thể hiện phong cách thời đại
5
hoặc phong cách cá nhân.
Thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-1945 ra đời và tồn tại trong một thời
điểm đƣợc cho là cuộc hội tụ lần thứ nhất của nhiều chiều văn hóa, tƣ tƣởng
cũ mới, Đông - Tây, cùng với sự hòa trộn của các ý thức hệ xã hội khác nhau.
Cần phải khẳng định rằng, thơ ca giai đoạn này chứa đựng và kết tinh nhiều
giá trị nội dung, tƣ tƣởng nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu và có nhiều đóng góp
quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Trong đó, có sự xuất
hiện của những biểu tƣợng, hệ biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu, mang giá trị
thẩm mĩ và giá trị tƣ tƣởng cao.
Chính vì thế, chúng tôi chọn Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu
trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 làm đề tài luận án với hy vọng
góp phần làm rõ đặc điểm tƣ duy nghệ thuật, thi pháp và thành tựu của các
khuynh hƣớng thơ Việt Nam trong giai đoạn này, dƣới góc độ tiếp cận biểu
tƣợng nghệ thuật.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi luận án, chúng tôi tập trung khảo sát, phân tích các biểu
tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-1945 (cụ thể
là Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 và thơ ca Cách mạng 1930 - 1945).
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tiếp cận các tác phẩm thơ ca tiêu biểu chứa đựng biểu tƣợng
hoặc hệ thống những biểu tƣợng nghệ thuật đƣợc sáng tác trong giai đoạn từ
năm 1930 đến năm 1945. Do khối lƣợng các tác phẩm khảo sát khá đồ sộ vì
chặng đƣờng thơ diễn ra trong một khoảng thời gian dài nên chúng tôi xin
đƣợc tiếp cận các tác phẩm tiêu biểu của một số tác giả tiêu biểu với phong
cách độc đáo, có tính đại diện, có tầm ảnh hƣởng lớn đến dòng chảy thơ ca
Việt Nam trong giai đoạn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
6
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách hệ thống, tƣơng đối toàn diện những biểu tƣợng
nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945; phân tích,
đánh giá quan niệm thẩm mĩ, đặc điểm tƣ duy nghệ thuật của cả một thời đại
sáng tác nói chung, của các nhà thơ nói riêng; chỉ ra vai trò của hệ thống biểu
tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong việc góp phần làm nên phong cách độc đáo
của đội ngũ tác giả trong một chặng đƣờng sôi động, nhiều thành tựu của thơ
ca Việt Nam; từ đó, đánh giá toàn diện, sâu sắc tƣ duy nghệ thuật và đặc điểm
thi pháp của các khuynh hƣớng thơ ca trong giai đoạn này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về lý thuyết biểu tƣợng và tình hình nghiên cứu biểu tƣợng
nghệ thuật trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Lý giải nguồn gốc sinh thành các biểu tƣợng và hệ biểu tƣợng tiêu
biểu trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Khảo sát, phân loại, phân tích, đánh giá hệ thống biểu tƣợng nghệ
thuật tiêu biểu trong Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) và thơ ca Cách mạng
giai đoạn 1930 - 1945.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Trên cơ sở coi một tác phẩm hay toàn bộ sáng tác của một nhà thơ
trong giai đoạn 1930 - 1945 là một hệ thống bao gồm các khuynh hƣớng nghệ
thuật khác nhau, bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ và đặc trƣng thi pháp,
việc sử dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống sẽ giúp chúng ta đánh giá đƣợc
đầy đủ giá trị và ý nghĩa của các biểu tƣợng nghệ thuật trong giai đoạn này.
4.2. Phương pháp thống kê
Trong quá trình thực hiện luận án, để đi đến những kết luận có cơ sở
khoa học, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê tần số xuất hiện của các biểu
tƣợng trong các bài thơ, tập thơ của các tác giả trong phạm vi nghiên cứu. Từ
đó, tiến hành phân loại, đánh giá, phân tích và giải mã giá trị thẩm mĩ các biểu
7
tƣợng nghệ thuật trong thơ.
4.3. Phương pháp so sánh
Biểu tƣợng không tồn tại biệt lập và đóng kín, ngƣợc lại, biểu tƣợng
luôn có sự vận động và mở rộng nghĩa, do đó, cần phải tìm hiểu biểu tƣợng
trong mối quan hệ đa dạng và đa chiều. Nhất là, biểu tƣợng cần đƣợc so sánh,
đối chiếu giữa các tác giả, các giai đoạn, các trào lƣu, các lĩnh vực, các nền
văn học, các nền văn hóa; trong đó chú ý nhiều hơn đến sự giao thoa giữa văn
hóa phƣơng Tây và phƣơng Đông.
4.4. Phương pháp lịch sử - xã hội
Với tƣ cách là một hiện tƣợng lịch sử, nên biểu tƣợng cũng nhƣ biểu
tƣợng nghệ thuật gắn liền với cơ chế ngôn ngữ, đặc điểm tâm lý, quan niệm
thẩm mĩ của dân tộc và thời đại. Đặt biểu tƣợng nghệ thuật trong hệ quy chiếu
là hoàn cảnh lịch sử, xã hội phát sinh biểu tƣợng là một công việc có thể đƣa
đến cách nhìn toàn diện và khoa học. Đồng thời, cũng thuận lợi hơn trong
việc so sánh, đối chiếu biểu tƣợng trong hệ quy chiếu lịch sử, xã hội.
4.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Biểu tƣợng là đối tƣợng quan tâm của nhiều ngành khoa học, nhất là
trong những năm gần đây. Do đó khi nghiên cứu biểu tƣợng nói chung và
biểu tƣợng nghệ thuật nói riêng cần có sự nghiên cứu, đối sánh, hỗ trợ thông
tin từ các ngành khoa học có liên quan, tiêu biểu nhƣ Tâm lý học, Kí hiệu
học, Phân tâm học, Ngôn ngữ học, Văn hóa học, Xã hội học,….
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên đặt ra và nghiên cứu một cách
hệ thống và tƣơng đối đầy đủ về hệ thống biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu
trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 (cụ thể bao gồm Thơ mới và thơ
Cách mạng). Qua đây, chúng ta sẽ có cái nhìn khách quan, toàn diện và thấu
đáo hơn về diện mạo, quá trình đổi mới và đặc điểm sáng tạo nghệ thuật của
thơ Việt Nam trong giai đoạn này; đồng thời, thấy đƣợc những đóng góp to
8
lớn của các nhà thơ trong nền thơ ca dân tộc.
Công trình này có thể là tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập phần
thơ ca lãng mạn, thơ ca cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 cho giảng
viên, sinh viên ở các trƣờng đại học; cho giáo viên, học sinh ở các trƣờng phổ
thông trung học. Đồng thời, cũng có thể là nguồn tham khảo hữu ích cho giới
nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học hiện đại khi tìm hiểu, đánh giá, phân
tích về thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung Luận án
bao gồm 4 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Nguồn gốc sinh thành các biểu tƣợng trong thơ ca Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Chương 3: Biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong Phong trào Thơ mới
Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945.
Chương 4: Biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Cách mạng Việt
9
Nam giai đoạn 1930 - 1945.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu biểu tƣợng từ góc nhìn lý thuyết
1.1.1. Khái lược về biểu tượng
Biểu tƣợng (symbol) là ngôn ngữ cơ bản, với ý nghĩa vừa rộng lớn nhất
vừa cô đọng nhất của một nền văn hóa. Thậm chí, ở trong những phạm vi nhất
định, có thể coi nó là dấu hiệu nhận biết và phân biệt các nền văn hóa khác
nhau trên thế giới. Trên nhận thức nền tảng là biểu tƣợng có mặt xung quanh
chúng ta, phôi thai và hình thành ngay từ thuở hồng hoang lịch sử loài ngƣời,
mỗi một nền văn hóa trên thế giới này đều là sự tổng hòa của các hệ thống
biểu tƣợng. Biểu tƣợng song hành cùng quá trình hình thành và phát triển của
mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, tác giả của
Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới đã nhận xét rằng: “Nói chúng ta sống
trong một thế giới biểu tƣợng thì vẫn còn chƣa đủ, phải nói một thế giới biểu
tƣợng sống trong chúng ta” [12, XIV].
Thế giới biểu tƣợng đƣợc tạo nên bởi trí tƣởng tƣợng phong phú của
con ngƣời. Có thể hiểu đặc điểm chủ yếu, căn bản của biểu tƣợng là khi nó
xuất hiện lập tức tự động gợi ra một hoặc nhiều ý nghĩa, ý tƣởng nào đó lớn
hơn sự hiện hữu của nó, đƣợc giới hạn phạm vi trong cộng đồng văn hóa chấp
nhận sự tƣơng quan đó, trong điều kiện lịch sử, xã hội nhất định. Claude
Levy-Strauss coi mọi nền văn hóa “đều có thể xem nhƣ một tập hợp các hệ
thống biểu tƣợng trong đó xếp ở hàng đầu là ngôn ngữ, các quy tắc hôn nhân,
các quan hệ kinh tế, nghệ thuật khoa học, tôn giáo” [20, 106].
Với mục đích có thể đi từ nhận thức đến tƣ duy và truyền đạt cho nhau
bức tranh về thế giới ý niệm nằm trong bộ não, với khả năng biểu trƣng hóa
10
bằng sự liên tƣởng, tƣợng tƣợng phong phú, con ngƣời đã sáng tạo ra một thế
giới biểu tƣợng, thậm chí là một “rừng biểu tƣợng”. Có thể hiểu cách khác là
thế giới ý niệm là cái có trƣớc và đƣợc hiện thực hóa thành thế giới biểu
tƣợng. Khi đó, có thể thấy biểu tƣợng chính là vật mang tính chất trung gian,
thay thế, cầu nối giữa thế giới ý niệm và thế giới vật chất bằng cách đƣa cái
vô hình, bất khả tri trở thành cái hữu hình, khả tri. Cấu trúc của một biểu
tƣợng bao gồm cả ba cái: cái thực (thực tại), cái tƣởng tƣợng (ý niệm), cái
tƣợng trƣng (biểu tƣợng).
Iuri Mikhailovich Lotman, nhà kí hiệu học văn hóa Nga khi phân tích,
đánh giá các yếu tố trong hệ thống kí hiệu đã thừa nhận biểu tƣợng là một
trong những từ có nhiều nghĩa nhất. Các tác giả cuốn Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới đã khẳng định chắc chắn rằng: “Không cách gì định nghĩa đƣợc
một biểu tƣợng. Tự bản chất của nó, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập
hợp các thái cực lại trong một khái niệm. Nó giống nhƣ một mũi tên bay mà
không bay, đứng im mà biến ảo, hiển nhiên mà lại không sao nắm bắt đƣợc”
[12, XIV]. Còn theo cách nói của Georges Gurvitch, nhà xã hội học ngƣời
Nga thì quả thật là quá khó cho chúng ta để có thể hiểu hết các tầng lớp ý
nghĩa của biểu tƣợng, nó vừa sáng rõ lại vừa ẩn đi, trốn tránh khi chúng ta cố
tình tìm hiểu nó.
Biểu tƣợng, theo cách hiểu khởi nguyên, là một vật (có thể là kim loại,
mảnh gỗ, vật trang trí) đƣợc cắt làm đôi, sau đó đƣợc giao cho các bên có liên
quan giữ lấy. Sau này, chính vật này sẽ làm dấu hiệu để họ nhận biết lại
những thông tin đã trao đổi, giao ƣớc, thề hẹn với nhau. Ở ngƣời Hy Lạp thời
cổ đại, biểu tƣợng còn là những dấu hiệu để cha mẹ nhận ra khi con cái bị lƣu
lạc… Một đặc điểm khái quát nhất là mọi biểu tƣợng đều chứa đựng dấu hiệu
bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tƣợng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối
kết những phần của nó đã bị vỡ ra. Lịch sử của biểu tƣợng xác nhận rằng mọi
11
vật đều có thể mang giá trị biểu tƣợng, dù là vật tự nhiên (đá, kim loại, cây
cối, hoa, quả, thú nuôi,…) hay là trừu tƣợng (hình hình học, con số, nhịp điệu,
ý tƣởng,..).
Pierre Emmanuel đƣa ra luận giải rằng, ta có thể hiểu “mọi vật” ở đây
không chỉ là những sinh thể, vật thực hiện hữu mà còn có thể hiểu đó là một
khuynh hƣớng, một giấc mơ, một ám ảnh nhận thức, một hệ ý thức,… Biểu
tƣợng “hình thành một vế rõ ràng có thể nắm bắt đƣợc, gắn liền với vế khác,
không nắm bắt đƣợc” [12, XXIV]. Còn theo Sigmund Freud, ngƣời đặt nền
móng cho thuyết Phân tâm học thì “biểu tƣợng diễn đạt một cách gián tiếp,
bóng gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột” [12,
XXIV]. Ông cho rằng biểu tƣợng chính mà mối liên kết chặt chẽ giữa một
hành vi, một tƣ tƣởng với những ý nghĩa tiềm ẩn mà chúng gợi ra. Sẽ có ít
nhất là hai phần ý nghĩa (nghĩa là có thể nhiều hơn, không có căn cứ để giới
hạn) đƣợc gợi ra, thế chỗ phần đã hiện hữu. Khi đó, chúng ta có mối quan hệ
đƣợc gọi là biểu tƣợng. Sigmund Freud cũng nhƣ nhiều nhà phân tâm học
khác, coi cái đƣợc biểu trƣng bao giờ cũng là vô thức. Có thể nói đến nhận
định của Sándor Ferenczi, một cộng sự thân cận của S. Freud khi cho rằng
không phải mọi so sánh đều đƣợc coi là biểu tƣợng mà chỉ xuất hiện biểu
tƣợng khi trong so sánh, vế thứ nhất bị dồn nén vào vô thức.
Còn đối với Carl Gustav Jung, một học trò xuất sắc của S. Freud, thì
cho rằng biểu tƣợng không thể hiểu là những dấu hiệu đơn giản, mà cũng
không phải là một phúng dụ đơn thuần, nó đƣợc dùng để thể hiện cái bản chất
của sự vật trong trạng thái mơ hồ, nghi ngờ hoặc là một dạng của tâm linh
(bao gồm của ý thức và vô thức). Theo quan điểm của ông, cũng nhƣ Georges
Gurvitch, biểu tƣợng là thứ rất khó nắm bắt, vì bản thân nó không cắt nghĩa
và tất cả ý nghĩa gợi ra từ nó đều rất mơ hồ, mà không thể diễn đạt thỏa đáng
trong khuôn khổ nào cả. Không theo quan điểm của S. Freud khi đã coi biểu
12
tƣợng là một dạng “ngụy trang” cho cái gì đó khác, mà C. Jung cho rằng, biểu
tƣợng là một sản phẩm của tự nhiên. Sự chuyển vƣợt từ cái đã biết sang cái
chƣa biết, cái hiển hiện sang cái chƣa biểu lộ chính là giá trị của biểu tƣợng.
Và nếu nhƣ đến một lúc nào đó, cái phần giấu kín, chƣa biểu lộ của biểu
tƣợng mà hết đi, nghĩa là biểu tƣợng sẽ “chết” (chữ dùng của Jung) và chỉ còn
mang ý nghĩa lịch sử. Biểu tƣợng chỉ sống khi nó tràn đầy ý nghĩa và còn phải
có nhiệm vụ khơi gợi nên sự sống khác, giàu ý nghĩa hơn chính bản thân nó.
R.de. Becker đã nghiên cứu và ví biểu tƣợng với một khối tinh thể phục
nguyên lại theo cách khác nhau nguồn sáng tùy theo từng mặt tinh thể tiếp
nhận ánh sáng. Ông coi biểu tƣợng nhƣ là một thể sống, một con ngƣời đang
trong dạng chuyển động và biến đổi không ngừng. Khi chúng ta nắm bắt biểu
tƣợng nhƣ là đối tƣợng suy ngẫm, thì cũng tức là ta đang nhìn ngắm chính cái
quỹ đạo ta sắp lần theo, ta nắm bắt cái hƣớng vận động đang lôi kéo con
ngƣời ta đi tới.
Micera Eliade coi biểu tƣợng là một phạm trù siêu nghiệm của sự cao
siêu, của cái siêu phàm, cái vô tận, cần phải đƣợc tiếp nhận bằng cả trí tuệ lẫn
tâm hồn. Còn Lausberg đã định nghĩa về biểu tƣợng là: “Phép chuyển nghĩa,
theo đó ngƣời ta thay thế bằng tên của một đồ vật, tên của một ký hiệu mà
việc sử dụng đã chọn lựa để gọi tên” [16, 453].
Và nếu phải đi đến việc khép lại một cách cơ bản vấn đề biểu tƣợng,
chúng tôi nghĩ cần nhắc tới quan điểm của Tzvetan Todorov, nhà phê bình
học ngƣời Bulgaria, khi nói đến trạng thái “ngƣng kết” của biểu tƣợng - nghĩa
là trong biểu tƣợng có một, và chỉ cần một cái biểu đạt nhƣng đã giúp chúng
ta nhận thức ra nhiều cái đƣợc biểu đạt, và thực tế là nó dồi dào hơn nhiều so
với cái biểu đạt.
1.1.2. Một số quan niệm về biểu tượng
Trong nghiên cứu nghệ thuật hiện đại đã có nhiều hƣớng tiếp cận khác
13
nhau về vấn đề biểu tƣợng nhƣ: Tâm lý học, Phân tâm học, Ngôn ngữ học,
Văn hóa học, Kí hiệu học, Tôn giáo học… Mỗi hƣớng tiếp cận đều có những
cơ sở lý thuyết nền tảng và đạt đƣợc những kết quả nhất định khi nghiên cứu
biểu tƣợng. Tuy nhiên thực tế cho thấy hƣớng tiếp cận Văn hóa học và Kí
hiệu học trong nghiên cứu nghệ thuật là đƣợc chú ý và quan tâm hơn cả. Bên
cạnh việc phác thảo vài nét về các hƣớng tiếp cận chủ yếu, theo hƣớng triển
khai của luận án, chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn về sự tiếp cận biểu tƣợng dƣới
góc nhìn văn học.
1.1.2.1. Biểu tượng dưới góc nhìn kí hiệu học
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, Charles Peirce và Ferdinand de
Saussure đã đặt cơ sở cho kí hiệu học nhƣ là khoa học về kí hiệu và các chức
năng quan trọng của nó trong đời sống xã hội. Ngành nghiên cứu mối quan hệ
giữa vật là biểu tƣợng với giá trị mà biểu tƣợng bao hàm cũng nhƣ đời sống
của các kí hiệu đƣợc F. De Saussure gọi là Kí hiệu học (Semiology).
Charler Sanders Peirce, triết gia ngƣời Hoa Kỳ đã cho rằng chúng ta chỉ
có thể nghiên cứu hoạt động tinh thần của con ngƣời thông qua những “khách
thể đối ứng” bên ngoài. Xuất phát từ việc những khách thể này có tính chất
thay thế, đại diện cho hoạt động tƣ duy của con ngƣời nên nó mang tính chất
kí hiệu.
Còn theo cách luận giải của Ronanl Barthes, nhà kí hiệu học ngƣời Pháp,
thì “thế giới biểu tƣợng” đồng nhất với khái niệm “thế giới siêu kí hiệu”. Biểu
tƣợng là những kí hiệu với hai mặt biểu hiện: cái biểu đạt (CBĐ) là hình thức
hàm nghĩa và cái đƣợc biểu đạt (CĐBĐ) là nội dung hàm nghĩa. Tuy nhiên, cần
hiểu là cái biểu đạt lại là một “kí hiệu biểu thị”, nên chúng ta có nhận thức “hệ
thống trong hệ thống” (hay còn gọi là “hệ thống kép” - đƣợc gọi với cái tên là
“siêu hệ thống”). Đây chính là hệ thống biểu tƣợng. Nhƣ vậy, cấu trúc cơ bản
của hệ thống biểu tƣợng gồm có: phần “hiển ngôn” và phần “mật ngôn” (tạo
nên hệ thống “ý nghĩa của ý nghĩa”). Thế giới biểu tƣợng vì thế có thể đƣợc coi
14
là thế giới của ý nghĩa.
Chính C. Jung, trƣớc khi đi vào phân tích bản chất của giấc mơ, cũng
đã nhấn mạnh lại về sự khác biệt giữa một kí hiệu và một biểu tƣợng. Ông
cho rằng “Kí hiệu không bao giờ nói hết những ý nghĩa của ý niệm ghi lại
bằng kí hiệu ấy còn biểu tƣợng thì gợi đến một nội dung to lớn hơn ý nghĩa
hiển nhiên và trực tiếp của biểu tƣợng” [47, 67]. Jung đã thật sự cho rằng biểu
tƣợng là một cái gì vừa có yếu tố tất nhiên, vừa có yếu tố ngẫu nhiên.
Theo Từ điển bách khoa Laroussse (Pháp) thì một trong các ý nghĩa
của kí hiệu là “Đơn vị ngôn ngữ học đƣợc tạo thành bởi sự kết hợp giữa cái
biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt”. Từ điển bách khoa Microsoft Encarta
Encyclopedia (Hoa Kỳ) thì định nghĩa về kí hiệu là “Một dấu hiệu, một biểu
trƣng hay một biểu tƣợng đƣợc dùng để biểu thị một sự vật hay để phân biệt
cái sự vật mà ký hiệu đó đƣợc gán cho nó” [18, 102].
Từ góc độ phân tích của các nhà kí hiệu học, chúng ta có thể khái quát
Ký hiệu học biểu thị (Ký hiệu biểu thị)
Hình thức biểu thị
Nội dung biểu thị
A
(Cái biểu đạt)
(Cái đƣợc biểu đạt)
Sự vật, hiện tƣợng
Quan niệm, khái niệm
Hình ảnh biểu thị
Ý nghĩa biểu đạt
Nội dung sự hàm nghĩa
Hình thức sự hàm nghĩa
(Ký hiệu ẩn dụ -
(Ký hiệu biểu thị - Hiển ngôn)
Mật ngôn)
B
(Cái biểu đạt)
(Cái đƣợc biểu đạt)
Ký hiệu học hàm nghĩa (Ký hiệu hàm nghĩa)
Biểu tƣợng (Symbol)
S
và đƣa ra sơ đồ tạo nghĩa của biểu tƣợng nhƣ sau:
Dựa trên sơ đồ này, chúng ta có thể thấy biểu tƣợng là hình tƣợng đƣợc
hiểu ở góc độ kí hiệu, nhƣng không phải hoặc không thể là một kí hiệu đơn
15
nghĩa mà phải là một kí hiệu hàm nghĩa. Phạm trù biểu tƣợng nhằm chỉ đến
cái phần mà hình tƣợng (kí hiệu hiển ngôn) vƣợt lên chính nó để diễn đạt
những ý nghĩa trừu tƣợng khác (kí hiệu mật ngôn). Mặc dù có sự tƣơng tác
với hình tƣợng, song có thể khẳng định là không phải hình tƣợng nào cũng
đồng nhất với biểu tƣợng và không phải hình tƣợng nào cũng có thể trở thành
biểu tƣợng. Có thể phân định một cách đơn giản nhất, hình tƣợng là một “kí
hiệu thông thƣờng”, trong khi biểu tƣợng là một “siêu kí hiệu”. Hình tƣợng và
sự đa nghĩa là hai cực gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời nhau của một biểu
tƣợng. Bởi lẽ, tách khỏi hình tƣợng thì ý nghĩa sẽ mất tính biểu hiện, mà tách
khỏi ý nghĩa thì hình tƣợng sẽ bị phân rã thành hình tƣợng thông thƣờng (hình
ảnh - image) và không còn là biểu tƣợng nữa. Do vậy, hình tƣợng muốn trở
thành biểu tƣợng thì không thể dừng lại ở tính đơn nghĩa, mà phải trở thành
đa nghĩa. Nếu không, nó cũng chỉ là một hình tƣợng nghèo nàn về nội dung
biểu hiện cũng nhƣ không có giá trị thẩm mĩ đặc sắc, không thể gây ấn tƣợng
với chủ thể tiếp nhận, và thậm chí là sẽ mai một theo thời gian một cách
nhanh chóng, vào một thời điểm phù hợp.
Nếu dùng tƣ duy logic và nỗ lực của lý trí, chắc chắn chúng ta không thể
hiểu đƣợc nghĩa của các biểu tƣợng. Giải mã đƣợc biểu tƣợng đòi hỏi nhiều kĩ
năng, trong đó cần nhất là sự liên tƣởng và kinh nghiệm sống của chủ thể tiếp
nhận biểu tƣợng. Đó có thể coi là sự khác biệt lớn nhất và căn bản nhất giữa
hình tƣợng và biểu tƣợng. Vì hình tƣợng chỉ có tính chất đơn nghĩa, đại diện
cho một đối tƣợng cụ thể, duy nhất, không thể thay thế bằng cái khác. Ví dụ
nhƣ: hình tƣợng “Bác Hồ” trong thơ kháng chiến chống Mỹ, đƣợc cụ thể hóa
bằng chính hình ảnh của Bác Hồ, không thể thay thế. Còn biểu tƣợng thì mang
tính đa nghĩa, nó bao hàm nhiều hơn cái nghĩa mà ngƣời ta đã gán cho nó từ
ban đầu (ít nhất là từ hai nghĩa trở lên). Ví dụ nhƣ biểu tƣợng “Mặt trời” trong
thơ Tố Hữu, gợi lên trong chúng ta về lãnh tụ anh minh, về mặt trời chân lý, về
16
cách mạng sáng soi, về tƣơng lai tƣơi sáng của dân tộc. Biểu tƣợng có tính chất
khả biến, không ngừng đƣợc trau dồi và bổ sung thêm chiều sâu của ý nghĩa
(thông qua thực tế cuộc sống, quá trình tiếp nhận, quan niệm thẩm mĩ của từng
thời đại và quan trọng là thông qua tƣ duy, quan điểm thẩm mĩ của tập thể và
từng cá nhân tác giả sáng tác). Nếu chúng ta ép buộc giải thích biểu tƣợng bằng
lối đơn nghĩa, nghĩa là biểu tƣợng sẽ biến mất.
Trong khi đó, nhà nghiên cứu Hoàng Trinh trong công trình Từ kí hiệu
học đến thi pháp học (1997) chuyển dịch thuật ngữ symbole là biểu trƣng.
Theo cách kiến giải của ông thì biểu trƣng có phạm vi tồn tại rất rộng lớn, đa
dạng trong mọi nền văn hóa trên thế giới cũng nhƣ nền văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Ông cho rằng các kí hiệu (trừ những chỉ hiệu hay dấu hiệu của
thiên nhiên) thì đều có thể đƣợc coi là những biểu trƣng. Ngôn ngữ, với tƣ
cách là một hệ thống những tín hiệu (kí hiệu) đồng thời cũng là những biểu
trƣng. Tác giả Hoàng Trinh nhận định rằng “mỗi sự vật ký hiệu và biểu trƣng
đều có hai tƣ cách và do đó có hai cơ chế, hai ý nghĩa, hai tác dụng” và “biểu
trƣng đƣợc hiểu là một loại kí hiệu mang tính chất hình thể từ ngữ cũng nhƣ
ẩn dụ, hoán dụ, phúng dụ” [16, 455].
1.1.2.2. Biểu tượng dưới góc nhìn tâm lí học
Các soạn giả trong cuốn Từ điển tiếng Việt (2011) đã nêu lên ba nét
nghĩa của biểu tƣợng. Nét nghĩa đầu tiên là hình ảnh tượng trưng; nét nghĩa
thứ hai là hình thức nhận thức cao hơn cảm giác cho ta hình ảnh của sự vật
còn lại trong đâu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt;
và nét nghĩa thứ ba là kí hiệu bằng hình ảnh đồ họa trên máy tính [87, 66-67].
Hai nét nghĩa đầu tiên có liên quan đến biểu tƣợng trong văn học sẽ đƣợc sử
dụng để phân tích trong luận án.
Ở nét nghĩa thứ nhất, chúng ta có thể hiểu biểu tƣợng là một hình ảnh
tƣợng trƣng, từ một sự vật cụ thể, hình ảnh cụ thể gợi ra một khái niệm trừu
17
tƣợng nào đó khác nó. Ở nét nghĩa thứ hai, chính khởi nguồn từ lý luận nhận
thức của tâm lý học Marxist, khi đã chỉ ra rằng, biểu tƣợng là hình thức cao
nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính trực quan (nhƣng mới dừng ở cấp độ
thấp). Có hai hình thức tƣ duy, đó là tƣ duy khái niệm và tƣ duy hình tƣợng.
Tƣ duy khái niệm phản ánh việc con ngƣời cảm nhận thế giới thực tại và dùng
khái niệm để suy nghĩ, hoạt động, phán đoán trong thế giới vô hình, bất khả
tri. Còn trong tƣ duy hình tƣợng thì biểu tƣợng ở một cấp độ cao hơn hẳn, đó
là biểu tƣợng của tƣởng tƣợng. Nhƣ vậy, biểu tƣợng dƣới góc nhìn của tâm lý
học là hình ảnh mới đƣợc xây dựng từ những biểu tƣợng của trí nhớ, nó là
biểu tƣợng của biểu tƣợng (biểu tƣợng kép).
Từ luận điểm trên có thể hiểu biểu tƣợng chính là khâu liên kết các giai
đoạn nhận thức của con ngƣời (từ cảm giác trực quan tới tƣ duy trừu tƣợng).
Biểu tƣợng, cùng các cấp độ nhận thức ban đầu là cảm giác và tri giác đã tạo
ra những tiền đề cơ sở cho giai đoạn nhận thức lý tính - một quá trình biện
chứng, tích cực, sáng tạo, từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng rồi từ
tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn. Biểu tƣợng giúp chúng ta nhận thức rõ hơn,
sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tƣợng và những vấn đề thuộc về quy
luật phát triển của sự vật.
Nhƣ trên đã phân tích, S. Freud đã dùng thuật ngữ symbole (biểu
tƣợng) để chỉ các sản phẩm của vô thức cá nhân “diễn đạt một cách gián tiếp,
bóng gió và ít nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột” [12,
XXIV]. Tuy nhiên, do S. Freud thƣờng nhấn mạnh tính chất bản năng, vô
thức nên đã lƣợc bỏ chiều tác động ngƣợc lại của ý thức và khái niệm
symbole theo cách dùng của ông gần nghĩa với symtome (triệu chứng) hơn là
symbole (biểu tƣợng).
Trên bình diện tâm lí học, ta có thể phân thành hai loại biểu tƣợng, đó
là biểu tƣợng trực quan và biểu tƣợng phi trực quan. Cả hai khái niệm này đều
18
là biểu tƣợng nằm ở cấp độ nhận thức. Muốn trở thành biểu tƣợng thực sự của
văn chƣơng nghệ thuật thì biểu tƣợng từ nhận thức này phải đƣợc chuyển hóa,
phải đƣợc sáng tạo thành cái biểu đạt mới, phải chuyển hóa từ trực quan sang
phi trực quan. Và cần lƣu ý rằng sự chuyển hóa không phải nhƣ hình ảnh bất
kì, ngẫu nhiên đƣợc lƣu giữ trong trí óc mà là sự chuyển hóa tổng hợp tất cả
những hình ảnh thu nhận đƣợc, biến cái ngẫu nhiên, cái cá biệt thành cái bản
chất, cái tất yếu của đối tƣợng, để tạo thành tính chất phi trực quan, phi vật
thể. Có nhƣ thế mới biểu tƣợng mới trở thành biểu tƣợng của văn hóa, biểu
tƣợng của văn học nghệ thuật. Dƣới góc độ tâm lý học, khi muốn tiếp cận
biểu tƣợng và giải thích, xem xét ý nghĩa của nó, chúng ta bắt buộc phải “xét
xem biểu tƣợng liên hệ đến một kinh nghiệm hoàn toàn cá nhân hay ngƣời ta
tạo ra nó nhân một giấc mơ, nhân một trƣờng hợp đặc biệt có vận dụng cái
hiểu biết của một ý thức tập thể” [47, 139].
Lucien Lévy-Bruhl, nhà triết học, nhà xã hội học xuất sắc ngƣời Pháp,
trong công trình Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người nguyên thủy
(1938) đã nhận định về góc độ nhận thức của biểu tƣợng: “Bản chất của
những biểu tƣợng là một trong những điểm, trong đó nét khác biệt đó lộ rõ.
Biểu tƣợng, đối với chúng ta, bao giờ cũng kéo theo một ý nghĩ về một mối
quan hệ mà đầu óc nắm bắt đƣợc giữa biểu tƣợng và cái gì đó mà nó tƣợng
trƣng hoặc gợi ra, rằng mối quan hệ đó đƣợc xác lập một cách khách quan và
có thể quan sát thấy, hoặc là nó là mối quan hệ đƣợc áp đặt và dựa vào một
quy ƣớc” [5, 223]. Ví nhƣ khi nói đến biểu tƣợng của cái chết, tang tóc, ở
phƣơng Tây thƣờng là màu đen, ở phƣơng Đông thƣờng là màu trắng. Hay ở
một số dân tộc lấy con sƣ tử, con đại bàng làm biểu tƣợng cho sức mạnh của
mình - không phải là sự võ đoán mà là những biểu tƣợng có tính tự nhiên.
Cũng cần phải nói đến tƣởng tƣợng với tƣ cách là một quá trình tâm lý,
một giai đoạn nhận thức lý tính phản ánh những cái chƣa từng có trong kinh
19
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới dựa trên cơ sở
những hình ảnh, những biểu tƣợng đã có. Tƣởng tƣợng đƣợc coi là một khả
năng, một cách thức để chúng ta nhận thức thế giới. Đây là một trong những
yếu tố then chốt liên quan đến quá trình sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn
mà chúng tôi sẽ trình bày ở những phần sau.
1.1.2.3. Biểu tượng dưới góc nhìn phân tâm học
Biểu tƣợng đƣợc coi là vấn đề cốt lõi, trung tâm của lý thuyết Phân tâm
học, thậm chí có thể coi là ngôn ngữ chính của Phân tâm học, đƣợc khởi
xƣớng từ Sigmund Freud và phát triển gần nhƣ hoàn hảo đến Carl Gustav
Jung. Từ việc lý giải về những giấc mơ, những xung đột giới tính, những ham
muốn, mẫu gốc, bản ngã,… đều đƣợc phân tâm học lý giải từ ngôn ngữ biểu
tƣợng và quá trình biểu tƣợng hóa. Việc lý giải các biểu tƣợng, các hệ kí hiệu
trong phân tâm học luôn gắn liền với việc lý giải các giấc mơ của con ngƣời.
Theo đó, giấc mơ không phải ngẫu nhiên mà có, mà giấc mơ chính là quá
trình liên lạc với tƣ tƣởng và những vấn đề mà ta ý thức đƣợc.
Sigmund Freud là ngƣời đầu tiên chỉ ra sự hình thành biểu tƣợng liên
quan đến hoạt động của tiềm thức. Ông nhiều lần đồng nhất việc khám phá
các hình ảnh trong giấc mơ với việc khảo luận các biểu tƣợng và cho rằng
chiêm bao diễn đạt bằng biểu tƣợng. Qua nghiên cứu hàng loạt giấc mơ, ông
khẳng định rằng, cái quan trọng nhất, cái đáng đƣợc xem xét nhất, đó là vấn
đề về biểu tƣợng - hệ kí hiệu của giấc mơ. Năm 1900, Sigmund Freud cho
phát hành cuốn sách Die traumdeutung (Giải thích giấc mơ), tác phẩm đƣợc
coi là đặt nền tảng cho Phân tâm học, đƣợc Hermann Beland đánh giá là “làm
rung chuyển nền văn hóa của chúng ta và làm thay đổi bức tranh của chúng ta
về con ngƣời” [30, 277]. Biểu tƣợng (trong phân tâm học của S. Freud) là sự
thay thế của cái biểu đạt này bằng cái biểu đạt khác mà ở đó cái biểu đạt luôn
vắng mặt, cái biểu đạt xuất hiện nhƣ cái kí hiệu ám chỉ. Sự vắng mặt của cái
20
biểu đạt có thể liên quan đến cơ chế kiểm duyệt của văn hóa, xã hội, đến cơ
chế tâm lí đặc thù của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, nhƣ S. Freud đã từng tuyên bố,
thì “Phần lớn những biểu tƣợng trong giấc mơ là biểu tƣợng tính dục” [93,
82]. Theo cách hiểu của Anthony Storr trong công trình Dẫn luận về Freud
(1989), biểu tƣợng đƣợc S. Freud xem là chủ yếu phục vụ chức năng che giấu
hoặc khiến cho những khía cạnh cơ thể học của tính dục trở nên dễ chấp nhận
hơn. Nói một cách khác, “các biểu tƣợng Freud” là những đối tƣợng xuất hiện
trong giấc mơ tƣợng trƣng cho bộ phận sinh dục.
Trong khi đó, Carl Gustav Jung nói về kinh nghiệm của mình về những
giấc mơ nhƣ sau: “Giấc mơ là một hiện tƣợng bình thƣờng của con ngƣời,
biểu tƣợng xuất hiện trong giấc mơ rất đa dạng và đặc sắc dƣới dạng các giả
cảnh; qua nhiều năm chiêm nghiệm, tôi đi đến kết luận rằng, giấc mơ chính là
nguồn gốc để ta tìm hiểu biểu tƣợng… Giấc mơ là lĩnh vực thăm dò dễ dàng
nhất và thƣờng thƣờng ngƣời nào muốn nghiên cứu khả năng tạo biểu tƣợng
của con ngƣời cũng dễ dàng đến nhất” [47, 25]. Vì vậy, theo C. Jung, muốn
tìm hiểu biểu tƣợng thì giấc mơ là tài liệu chính yếu nhất, vì giấc mơ là tiếng
nói đặc thù của tiềm thức, vô thức; thăm dò tiềm thức chính là thăm dò giấc
mơ. Giải mã đƣợc giá trị biểu đạt của biểu tƣợng trong giấc mơ chính là giải
mã đƣợc những uẩn khúc, ám ảnh trong tƣ duy con ngƣời. Tuy nhiên, C. Jung
cũng đồng thời cho rằng biểu tƣợng không chỉ xuất hiện trong những giấc mơ
mà còn xuất hiện trong mọi hình thái biểu hiện tâm linh. Khi đó, chúng ta có
thể nhận thấy những suy nghĩ, cảm xúc, hành động và thậm chí là những tình
huống mang tính biểu tƣợng. Ở góc độ này, ông cho rằng cấu tạo của biểu
tƣợng chính là từ những đồ vật vô tri hợp tác với tiềm thức.
Khi nghiên cứu về nhận thức, tâm lý trong thế giới tâm linh của con
ngƣời, Mabel Beggs - ngƣời đồng sáng lập Hiệp hội Ánh Sáng (Foundation of
Light) ở Ithaca, New York vào năm 1974 - đã đƣa ra khái niệm “những giấc
21
mơ biểu tƣợng”. Trong giấc mơ đó, chúng ta đang cố gắng giao tiếp, liên lạc
với “nhân cách ngoại bản ngã” (outer-self personality) là điều gì đó mà cá
nhân không nhận biết đƣợc về bản thân cần sự quan tâm chú ý (vô thức). Thí
dụ, trong giấc mơ, những chiếc xe hơi sẽ tƣợng trƣng cho thể xác hoặc vật
chất. Nhƣ vậy, cũng giống nhƣ các tiếp cận của S. Freud và C. Jung, từ quan
điểm của Mabel, giấc mơ và những biểu tƣợng xuất hiện trong giấc mơ đã
chứa đựng những ý nghĩa đƣợc ẩn giấu, là một phần tinh thần của con ngƣời.
1.1.2.4. Biểu tượng dưới góc nhìn văn hóa học
Từ điển văn hóa bách khoa (2011) đã chỉ ra rằng biểu tƣợng không
phải là một kí hiệu thông thƣờng mà là một loại kí hiệu đặc biệt, thể hiện nội
dung thực tế của một điều nào đó và có mối liên hệ tâm lý với tồn tại mà nó
biểu trƣng. Văn hóa đƣợc thể hiện thông qua thế giới các dạng biểu tƣợng. Và
trong quá trình sống, các dạng biểu tƣợng đó lại truyền lại từ ngƣời này sang
ngƣời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, thậm chí, là từ dân tộc này sang
dân tộc khác. Tuy nhiên, cần chú là, các dạng biểu tƣợng chỉ là bề mặt ngoài
của văn hóa chứ không phải là toàn bộ nội hàm của nó. Các biểu tƣợng trở
thành biểu hiện của văn hóa không phải tự thân nó có thể, mà phải thông qua
tính chủ động, sáng tạo không ngừng của con ngƣời - chủ thể của những biểu
tƣợng. Nếu không vậy, thế giới biểu tƣợng sẽ biến thành lớp vật thể vô hồn,
không sức sống và không hề có giá trị. Nếu chúng ta đồng nhất văn hóa và
xác định khái niệm văn hóa với thế giới biểu tƣợng thì có thể là một sai lầm.
Trong tác phẩm Bản chất của văn hóa, các tác giả David Hicks,
Margazet và A. Gwynne đã so sánh một cách ví von rằng: “Trong tất cả mọi xã
hội, biểu tượng là chiếc xe quan trọng để chuyển tải văn hóa. Hoặc là dưới
hình thức ngôn ngữ, hành động hoặc là vật thể” [16, 456]. Con ngƣời thể hiện
những ý nghĩ và tình cảm của mình nhờ các kí hiệu, nhƣng văn hóa lại đƣợc
thể hiện không đơn giản trong những kí hiệu mà là trong các biểu tƣợng. Khái
22
niệm biểu tƣợng chiếm một vị trí đặc biệt trong văn hóa học, là một cách thức
quan trọng để giải mã văn hóa. Phải hiểu biểu tƣợng không phải là một kí hiệu
thông thƣờng, mà đó là một loại siêu kí hiệu, hoàn toàn đặc biệt. Chúng ta có
thể hiểu một cách đơn giản theo công thức này: kí hiệu đơn giản -> thế giới vật
thể, trực quan (hình ảnh, khái niệm); biểu tƣợng (siêu kí hiệu) -> thế giới phi
vật thể, phi trực quan (ý niệm).
Thông qua các biểu tƣợng, ý thức của chúng ta thấy đƣợc “chốn thiêng
liêng” của văn hóa là các ý niệm vốn sống trong chốn sâu thẳm vô thức của
tâm hồn; nó gắn bó với mọi ngƣời theo một kiểu cảm nhận thống nhất đối với
thế giới và bản thân mình. Đồng thời, biểu tƣợng không chỉ đơn giản là “biểu
thị” ý niệm mà còn mang trong mình đầy đủ sức mạnh hữu hiệu của nó.
Những cách hiểu về biểu tƣợng nhƣ vậy đã nhất quán và phát triển từ Hegel
đến Jung và Spengler.
Xét về nguồn gốc, đƣơng nhiên là các biểu tƣợng không xuất phát đầu
tiên từ chất liệu ngôn từ cũng không phải từ các chất liệu trực quan ban đầu
của biểu tƣợng mà là các vật thể, hành động, trạng thái cụ thể… nhƣng có khả
năng biểu đạt một ý nghĩa rộng hơn chính bản thân nội dung trực tiếp của
hình thức cảm quan cụ thể ấy.
Với tƣ cách là một kí hiệu đặc biệt, một siêu kí hiệu, biểu tƣợng văn
hóa là những thực thể vật chất và tinh thần trong đời sống nhân loại, nhƣng
vấn đề cơ bản nằm ở chỗ, biểu tƣợng văn hóa luôn biểu thị những ý nghĩa
rộng lớn chính những hình thức cụ thể, trực quan của nó. Biểu tƣợng văn hóa
tồn tại trên tất cả các bình diện của xã hội, bao gồm những biểu tƣợng vật thể
và phi vật thể. Đó là những nghi lễ, sự kiêng kị, thần linh, kiến trúc, văn
học,…. Biểu tƣợng văn hóa, theo C. Jung, là những biểu tƣợng dùng để chỉ
chân lý vĩnh cửu. Những biểu tƣợng này đã có quá trình thay đổi liên tục theo
thời gian, môi trƣờng sống và sau này trở thành những hình ảnh, biểu tƣợng
23
tập thể đƣợc các xã hội văn minh chấp nhận và sử dụng. Máu, âm phủ, địa
ngục, linh hồn, thiên đƣờng, lửa, nƣớc, dòng sông, mặt trăng, mặt trời, ngôi
sao, ngọn cờ, vƣờn,… đều là những biểu tƣợng chung trong đời sống văn hóa
của nhiều dân tộc trên thế giới. Đồng thời với sự giao thoa giữa các nền văn
hóa trong quá trình sinh sống của loài ngƣời cũng chính là quá trình giao thoa,
chuyển hóa, sản sinh và sàng lọc những biểu tƣợng hoặc hệ biểu tƣợng mới.
Jean Chevalier và Alain Gheerbrant khi biên soạn công trình Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới chắc hẳn cũng coi đây là một trong những tiêu chí
quan trọng để lựa chọn những biểu tƣợng chung cho toàn nhân loại.
Dựa vào năng lực “tƣợng trƣng hóa” của con ngƣời và xem biểu tƣợng
nhƣ là một hình thái biểu hiện ngôn ngữ đặc trƣng của văn hóa, Toàn thư
quốc tế về phát triển văn hóa (International Thesaurus on Culture
Development) của UNESCO đã đƣa ra định nghĩa văn hóa nhƣ sau: “Văn hóa
là tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và
làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ thành một
cộng đồng riêng biệt” [16, 489]. Từ định nghĩa này, biểu tƣợng có thể đƣợc
coi là một dạng thức ký hiệu - ngôn ngữ văn hóa.
Các soạn giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (2014) cũng đã chỉ ra
rằng quá trình tạo nghĩa của mỗi biểu tƣợng thƣờng có lịch sử hàng vạn năm,
gắn liền với quá trình hình thành quan niệm về thế giới của con ngƣời cổ xƣa.
“… Cho nên, thần thoại, truyền thuyết, ca dao, truyện cổ tích, văn học trung
đại là những cái kho biểu tƣợng khổng lồ” [39, 25]. Chỉ xét riêng trong văn
hóa Việt Nam (khu biệt ở lĩnh vực văn học) cũng đã thấy sự đa dạng và phong
phú của hệ thống biểu tƣợng.
1.1.2.5. Biểu tượng dưới góc nhìn văn học
Trong các tác phẩm lý luận, phê bình văn học ở Việt Nam cũng nhƣ
trên thế giới, vấn đề biểu tƣợng đã đƣợc đề cập khá nhiều với những khía
24
cạnh khác nhau và quan điểm tiếp cận cũng khác nhau.
Chúng ta hàng ngày cũng sống với các biểu tƣợng, sử dụng các biểu
tƣợng cả khi thức và ngay cả trong những giấc mơ. Là một thuật ngữ có xuất
xứ từ tiếng Pháp (symbole), khi dịch sang tiếng Việt, nhiều dịch giả, nhà
nghiên cứu đã dịch là biểu tƣợng, tƣợng trƣng hoặc biểu trƣng. Mặc dù vậy,
nhƣng cách hiểu symbole là biểu tƣợng vẫn đƣợc chấp nhận rộng rãi và đƣợc
sử dụng trong nghiên cứu, phê bình nhiều hơn cả.
Những phân tích phía trên đã chỉ thấy rõ sự phức tạp và đa dạng trong
khái niệm, cách hiểu về biểu tƣợng. Thậm chí, cho đến nay, chúng ta vẫn
chƣa đạt đƣợc sự đồng thuận trong cách hiểu và sử dụng. Trong lịch sử, mỗi
ngành, mỗi trƣờng phái, khuynh hƣớng đều có những kiến giải riêng về biểu
tƣợng. Và ngày nay, mỗi ngành khoa học đều sử dụng tới thuật ngữ biểu
tƣợng và đều có cách tiếp cận, khai thác khái niệm này một cách khác nhau,
với tƣ duy khác nhau. Xét riêng trong khía cạnh văn học, chúng ta cần chú ý
đến ý kiến của Raymond Firth khi cho rằng chính tính chất đa nghĩa và trừu
tƣợng, mơ hồ của biểu tƣợng đã khiến cho việc tiếp cận, giải mã các biểu
tƣợng xuất hiện trong tác phẩm văn học nói chung, thơ ca nói riêng mà một
vấn đề khó khăn, thậm chí đôi khi rơi vào thế bế tắc, tranh luận liên miên.
Thực tế cho thấy, nếu chỉ một lĩnh vực phê bình văn học sẽ rất khó để
giải quyết hết đƣợc những đặc tính mơ hồ, trừu tƣợng và đa nghĩa của biểu
tƣợng. Đó là lý do tại sao, khi giải mã biểu tƣợng trong văn học chúng ta lại
cần có một cái nhìn bao quát, tổng thể, liên ngành, nhƣ: phân tâm học, tâm lí
học, xã hội học, văn hóa học,… Nói riêng trong văn học, biểu tƣợng đƣợc
xem xét chủ yếu là ở góc độ khái quát, tƣợng trƣng.
Trên cơ sở những kết quả của lý luận văn học Marxist, trong cuốn Từ
điển thuật ngữ văn học (2014), các soạn giả đã đƣa ra định nghĩ về biểu tƣợng
nhƣ sau: “Trong nghĩa rộng, biểu tƣợng thể hiện “đặc trƣng phản ánh cuộc
25
sống bằng hình tƣợng văn học nghệ thuật” [39, 23]. Chúng ta đều biết rằng,
văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Văn học phản ánh
hiện thực khách quan theo phƣơng thức, nguyên tắc riêng có. Phƣơng tiện
phản ánh đời sống của văn học nghệ thuật chính là các hình tƣợng nghệ thuật,
vừa cụ thể vừa ƣớc lệ. Và các soạn giả đƣa ra kết luận: “Bằng hình tƣợng,
nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn mang tính biểu tƣợng” [39, 23].
Còn trong Từ điển ngữ văn dùng cho học sinh, sinh viên (2011), các
soạn giả đƣa ra cách hiểu về biểu tƣợng là: “Một kiểu hình tƣợng nghệ thuật
trong sáng tạo văn học phản ánh hiện thực bằng cách tái hiện lại cuộc sống
trên cơ sở quan sát, so sánh, đối chiếu những nét tƣơng đồng và dị biệt giữa
các sự vật, hiện tƣợng, phát hiện những đặc trƣng tiêu biểu, bản chất của
chúng rồi tiến hành khái quát hóa, điển hình hóa theo một triết lí, một quan
điểm thẩm mĩ riêng của nhà văn, nhờ đó gợi ra đƣợc hình ảnh ngƣời thật, việc
thật trong óc ngƣời đọc” [131, 24].
Từ những định nghĩa trên, khái niệm biểu tƣợng có thể hiểu theo nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng, khái niệm biểu tƣợng đƣợc hiểu nhƣ tính ƣớc
lệ trong văn học nghệ thuật. Nghĩa hẹp, biểu tƣợng cùng với ẩn dụ, hoán dụ
hoặc một loại hình tƣợng nghệ thuật đặc biệt, là một phƣơng thức chuyển mã
lời nói, sang những ý nghĩa sâu sắc, có khả năng thể hiện quan niệm, tƣ tƣởng
hay triết lý sâu xa về cuộc sống.
Từ điển thuật ngữ văn học (2014) đồng thời cũng đƣa ra những phƣơng
diện khác của biểu tƣợng, là những đặc điểm của biểu tƣợng. Đó là quá trình
tạo nghĩa từ lịch sử cổ xƣa (cổ mẫu), sự bổ sung, mở rộng nghĩa (tính linh
hoạt của biểu tƣợng), sự ảnh hƣởng và chi phối của thời đại sản sinh biểu
tƣợng, cá tính sáng tạo, quan niệm thẩm mĩ của thời đại, của mỗi nhà văn.
Các ý kiến do các nhà soạn giả đƣa ra trong Từ điển thuật ngữ văn học, về cơ
26
bản đã khái quát đƣợc một cách khá toàn diện các khía cạnh của biểu tƣợng.
Nhƣ vậy, ở góc độ văn học, có thể hiểu biểu tƣợng là một dạng hàm
nghĩa, là một hình ảnh tƣợng trƣng, chuyển tải thông điệp hoặc những ý nghĩa
sâu xa về cuộc sống, về con ngƣời thông qua những hình ảnh, sự vật cụ thể
phản ánh trong tác phẩm.
1.1.3. Đặc trưng của biểu tượng
Biểu tƣợng là một thực thể gồm hai mặt: một là, mặt tồn tại cảm tính
trong hiện thực khách quan (cái biểu trƣng); hai là, mặt có ý nghĩa có mối
quan hệ nội tại (cái đƣợc biểu trƣng). Từ đây, chúng ta có thể xác định đƣợc
những đặc trƣng cơ bản của biểu tƣợng - là những vấn đề cốt yếu để đi đến
tiếp cận biểu tƣợng nghệ thuật trong phạm vi nghiên cứu của luận án, cụ thể
nhƣ sau:
Một là, mối quan hệ giữa cái biểu trƣng và cái đƣợc biểu trƣng (hay
mặt hình thức cảm tính và mặt ý nghĩa) của biểu tƣợng “mang tính lý do, tính
tất yếu”, giữa cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt luôn tồn tại mối quan hệ về
bản chất. Chính mối quan hệ này là điểm phân biệt biểu tƣợng với các tín hiệu
quy ƣớc thuần túy. J. Chevaillier cũng đã chỉ ra rằng, trong khi dấu hiệu là
một quy ƣớc tùy tiện, cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt hầu nhƣ không ăn
nhập với nhau, thì ngƣợc lại, biểu tƣợng là một quy ƣớc có tổ chức, cái biểu
đạt và cái đƣợc biểu đạt có mối liên hệ chặt chẽ, cộng sinh với nhau. Chính trí
tƣởng tƣợng sẽ làm cho biểu tƣợng thể hiện đúng chức năng, sức mạnh tiềm
tàng của nó trong nhận thức của con ngƣời. Biểu tƣợng luôn lớn hơn những
cái ý nghĩa ban đầu mà ngƣời ta gán cho sự vật, hình ảnh. Nó luôn năng động,
biến ảo và khơi gợi những lớp ý nghĩa mới. Hay nói một cách khác, nội hàm
và ngoại diên của biểu tƣợng hoàn toàn không đồng nhất.
Hai là, biểu tƣợng luôn mang tính đa trị trong mối quan hệ giữa hai mặt
của biểu tƣợng (trong khi dấu hiệu, kí hiệu thông thƣờng luôn mang tính đơn
27
trị). Tỉ lệ giữa cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt ở các kí hiệu, dấu hiệu đơn
thuần là 1:1, thì ở biểu tƣợng, tỉ lệ này sẽ là 1>1. Cũng nhƣ đã dẫn ý của
Tzvetan Todorov ở phần trên, ở biểu tƣợng có một sự ngƣng kết, mà ở đó, cái
đƣợc biểu đạt luôn luôn dồi dào, phong phú hơn các biểu đạt. Nhà thần thoại
học Creuzer cũng đã chỉ ra tính không đồng nhất, không thích hợp giữa nội
dung và hình thức của biểu tƣợng, theo đó, nội dung của biểu tƣợng luôn “ứ
tràn”, rộng lớn hơn rất nhiều lần so với hình thức mà biểu tƣợng đang mang.
Ba là, biểu tƣợng có tính biến đổi và sản sinh. Đây cũng là một những
chức năng của biểu tƣợng mà Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã chỉ ra
trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Và tác giả Nguyễn Thị Ngân
Hoa, trong Luận án tiến sĩ Sự phát triển ý nghĩa của hệ Biểu tượng trang phục
trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam (2005) đã nhận định ở một góc độ khác, đó
là biểu tƣợng còn có tính sản sinh: sản sinh ra các hình tƣợng nghệ thuật. Con
đƣờng sản sinh của biểu tƣợng nghệ thuật là đi từ mẫu gốc (hay còn gọi với
khái niệm khác là nguyên mẫu, nguyên hình huyền thoại, siêu mẫu). Quá trình
tồn tại, sinh trƣởng trong môi trƣờng văn hóa, qua thời gian, với khả năng linh
hoạt và mở rộng nghĩa, mỗi mẫu gốc lại có thể sản sinh ra nhiều biểu tƣợng
văn hóa khác nhau. Điều này thể hiện rõ nét trong các lễ nghi, phong tục. Còn
trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng, một mẫu gốc
(biểu tƣợng gốc) sẽ sản sinh ra nhiều biến thể loại hình. Ví dụ nhƣ từ biểu
tƣợng gốc là “bầu trời”, khi đi vào tác phẩm thơ văn có thể sản sinh ra các
biến thể nhƣ: cầu vồng, trăng, mây, sao, mặt trời, ánh sáng,…; từ biểu tƣợng
gốc là “con thuyền” sẽ sản sinh ra các biến thể loại hình nhƣ: tàu, đò, mái
chèo, cánh buồm; từ biểu tƣợng gốc là “ngọn cờ” sẽ sản sinh ra các biến thể
nhƣ: cờ độc lập, cờ búa liềm, cờ tranh đấu, cờ chỉ huy, sao vàng năm cánh,…;
từ biểu tƣợng gốc là “vƣờn” sẽ sản sinh ra các biến thế nhƣ: vƣờn xuân, vƣờn
trần, vƣờn yêu,… Trong loại hình nghệ thuật ngôn từ, biểu tƣợng bắt buộc
28
phải rời ra đời sống nguyên khởi của nó (ý nghĩa ban sơ, ban đầu) để khoác
lấy cái vỏ âm thanh ngôn ngữ. Vì vậy con đƣờng cảm thụ, phân tích, giải mã
biểu tƣợng trong tác phẩm văn học sẽ phải đi từ những cái cụ thể nhƣ ngôn từ,
các thủ pháp nghệ thuật,… để tìm ra cái hàm ẩn đằng sau những biểu tƣợng
ngôn từ. Đó là một trong những điều luôn thú vị và hấp dẫn, bởi xuất phát từ
đặc tính của biểu tƣợng: “mãi mãi gợi cảm đến bất tận: mỗi ngƣời thấy ở đấy
cái mà năng lực thị giác của mình có thể nhận ra, thiếu sự thâm thúy, thì sẽ
chẳng nhận ra đƣợc gì cả” [12, XXVI].
Nhƣ vậy từ những đặc trƣng cơ bản của biểu tƣợng ta thấy rằng giải mã
biểu tƣợng chính là con đƣờng tiếp cận những giá trị đích thực của một tác
phẩm văn học và quá trình sáng tạo của nhà văn.
1.1.4. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ
Trong thơ ca, với tƣ cách là một loại biểu tƣợng nghệ thuật đặc thù,
biểu tƣợng đƣợc xây dựng bằng ngôn từ (bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ
viết). Biểu tƣợng nghệ thuật trong thơ vừa mang những nét đặc điểm chung
của biểu tƣợng lại vừa mang những nét đặc điểm riêng biệt mà chỉ trong thơ
ca mới có (theo sự quy định của thể loại), là cái phân biệt với các loại hình
nghệ thuật khác nhƣ điêu khắc, hội họa, âm nhạc,… Ngay từ văn học dân
gian, biểu tƣợng nghệ thuật đã xuất hiện, thông qua những hình ảnh ẩn dụ,
ƣớc lệ đƣợc cộng đồng chấp nhận và sử dụng thƣờng xuyên, rộng rãi, thể hiện
rõ đặc điểm tƣ duy, thẩm mĩ từng thời đại, thời kì mà nó xuất hiện. Đến khi
dòng văn học viết ra đời, biểu tƣợng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để thực
hiện chức năng và sức mạnh của mình. Các nhà văn, nhà thơ đã sử dụng biểu
tƣợng nhƣ một phƣơng tiện nghệ thuật đặc thù, đắc lực để chuyển tải những
quan niệm, tƣ tƣởng của mình đến với ngƣời tiếp nhận cũng nhƣ cộng đồng
xã hội. Đồng thời, sử dụng biểu tƣợng cũng là cách thức để các tác giả thể
29
hiện tài năng, cá tính của mình trong sáng tạo nghệ thuật.
Biểu tƣợng nghệ thuật trong thơ có thể xuất hiện theo nhiều cách thức
khác nhau, tùy theo quan điểm, thị hiếu của từng tác giả. Đó có thể là một từ,
một cụm từ, một câu hay là cả một văn bản, có thể là một sáng tác trọn vẹn
hay cả một chuỗi văn bản,… Thông qua sự hiển ngôn, chủ thể tiếp nhận với
tƣ duy thẩm mĩ, khả năng thẩm thấu, khám phá sẽ tìm thấy những nét nghĩa
khác nhau của biểu tƣợng thông qua tính hàm súc, đa nghĩa của nó. Nhƣ C.G.
Jung cũng đã nói đại ý rằng, biểu tƣợng là thứ mà chúng ta tƣởng rằng đã
quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày nhƣng vẫn chứa đựng những điều gì
đó mơ hồ, chƣa biết hoặc che dấu đối với mỗi chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải
nỗ lực tìm kiếm. Còn Anthony Storr, trong công trình Dẫn luận về Freud
(1989) đã cho rằng: “Thơ ca là một kiểu bày tỏ của con ngƣời, trong đó biểu
tƣợng và ẩn dụ đóng một vai trò chủ động” [93, 81]. Và cũng theo ông, một
biểu tƣợng có thể đƣợc định nghĩa nhƣ bất kỳ thứ gì đại diện cho điều gì đó,
hoặc mang chức năng miêu tả.
Nhƣ trên đã phân tích, biểu tƣợng là một thuật ngữ hàm nghĩa, đa
nghĩa, bao gồm nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta
cần hiểu tác phẩm văn học nhƣ là một biểu tƣợng, qua đó, thể hiện ý đồ,
thông điệp của tác giả muốn gửi gắm khi sáng tác nó. Còn nếu hiểu theo
nghĩa hẹp, theo công thức 1>1, biểu tƣợng luôn có sức biểu hiện lớn hơn rất
nhiều so với hình tƣợng nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng trong sáng tác của
mình. Sử dụng biểu tƣợng là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt mà qua đó, tác
giả gửi gắm ý đồ sáng tạo. Do đó, việc đi sâu vào tìm tòi, khám phá, giải mã
các biểu tƣợng hiển hiện trong các tác phẩm văn học góp phần giúp độc giả
thấy đƣợc những nét giá trị riêng biệt, độc đáo của tác phẩm cũng nhƣ thấy
đƣợc tài năng, sáng tạo của tác giả.
Biểu tƣợng trong thơ vô cùng phong phú và đa dạng, bởi trong quá
30
trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà thơ đều muốn khẳng định cái tôi cá nhân
theo cá tính riêng, độc đáo của mình. Ví nhƣ trong thơ ca dân gian, những
biểu tƣợng đƣợc xây dựng trên cơ sở những hình ảnh khách quan từ thiên
nhiên, cuộc sống lao động sinh hoạt hằng ngày của nhân dân lao động; đồng
thời, qua thực tế tồn tại, nó lại đƣợc tập thể nhân dân lao động tham gia sáng
tạo, bổ sung, mở rộng thêm nhiều trƣờng ý nghĩa mới. Trong giai đoạn này,
biểu tƣợng hầu nhƣ không có dấu ấn cá nhân, bởi phần lớn nó gắn liền với
dấu ấn tập thể, cộng đồng đã sản sinh và lƣu truyền nó. Đây cũng là một điều
hiển nhiên, một đặc điểm nổi bật của văn hóa dân gian (folklore).
Một vấn đề đặt ra khi nghiên cứu về biểu tƣợng trong thơ, đó là chúng ta
không thể bỏ qua yếu tố truyền thống (truyền thống của dân tộc, truyền thống
của giai cấp, truyền thống của tập thể,…). Biểu tƣợng bắt rễ, uống nƣớc nguồn
từ thời đại mà nó phôi thai, hình thành, cũng nhƣ văn học bắt nguồn từ cuộc
sống. Không thể tách rời biểu tƣợng ra khỏi thời đại sinh ra nó, bởi đó sẽ là một
cách tiếp cận phiến diện, không thể tìm thấy đúng bản chất của biểu tƣợng. Và
từ nguồn cội đó, trong thơ ca, biểu tƣợng - với khả năng linh hoạt, tính động
của nó - cùng với tài năng sáng tạo các nhà thơ, sẽ luôn luôn hƣớng tới sự cách
tân, đổi mới, không ngừng đƣợc bồi đắp thêm nhiều nét nghĩa mới, phù hợp
với nhận thức ngày càng đa dạng, tinh tế và phong phú của con ngƣời.
Biểu tƣợng sẽ có giá trị hơn khi vừa đánh thức những quan niệm, cảm
xúc truyền thống từ ngàn đời của dân tộc trong lòng độc giả vừa khơi gợi về
những điều mới mẻ, hấp dẫn. Tuy nhiên, nhiều lúc dấu ấn cá nhân quá mạnh
mẽ, quá đậm khiến cho biểu tƣợng trở nên khó hiểu, khó khám phá đối với
một số đối tƣợng tiếp nhận (có thể nhận thấy điều này qua một số tác giả
trong phong trào Thơ mới). Thơ là sản phẩm của xã hội đƣợc cá thể hóa cao
độ và mỗi nhà thơ là một thế giới nghệ thuật khác nhau không trộn lẫn. Cách
tƣ duy, quan sát và đánh giá thế giới xung quanh của mỗi nhà thơ khác nhau
nên cách sử dụng từ ngữ, lựa chọn hình ảnh để làm biểu tƣợng cũng khác
31
nhau. Và khi đó biểu tƣợng cũng mang những nét nghĩa không giống nhau.
Biểu tƣợng trong thơ thông thƣờng có thể đƣợc xây dựng theo hai cách.
Một là, nhà văn, nhà thơ lựa chọn một chi tiết, hình ảnh và sắp xếp sao cho
chi tiết, hình ảnh đó chi phối, quán xuyến, ảnh hƣởng đến các chi tiết khác và
toàn bộ tác phẩm; chi tiết, hình ảnh đƣợc lựa chọn trở thành trung tâm của
những mối quan hệ; khám phá, lí giải chi tiết, hình ảnh trung tâm đó sẽ nắm
bắt đƣợc ý nghĩa biểu tƣợng của chính nó. Hai là, việc tác giả dùng lặp đi, lặp
lại của một hình ảnh, hình tƣợng đa nghĩa trong một hoặc nhiều tác phẩm của
mình cũng là một cách tạo thành biểu tƣợng nghệ thuật.
Biểu tƣợng trong thơ hiện đại Việt Nam không còn là một vấn đề mới
mẻ nữa. Bởi việc sử dụng biểu tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm để chuyển tải
thông điệp tƣ tƣởng nhà văn từ lâu đã trở nên quen thuộc. Từ ca dao dân ca
truyền thống đến thơ ca thời trung đại, sau này là phong trào Thơ mới hay thơ
ca Cách mạng, chúng ta dễ dàng nhận thấy hệ thống các biểu tƣợng phong
phú trong các sáng tác của các tác giả đã ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn
học dân tộc. Phát hiện, khám phá và phân tích giá trị của các biểu tƣợng nghệ
thuật trong tác phẩm là một cách hữu hiệu để nhận ra phong cách độc đáo, nét
sáng tạo riêng có của từng cá nhân nhà thơ. Các tác giả tiêu biểu của phong
trào Thơ mới nhƣ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn
Bính, Bích Khê, Lƣu Trọng Lƣ, ... đều xây dựng trong các sáng tác của mình
những hệ thống biểu tƣợng rất phong phú và đa dạng. Không chỉ xuất hiện
nhƣ một phƣơng tiện đắc lực trong sáng tác của các nhà Thơ mới, biểu tƣợng
còn xuất hiện khá dày đặc trong sáng tác của các tác giả thơ cách mạng thời kì
này nhƣ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Sóng Hồng, Trần Huy Liệu, Đặng Xuân
Thiều, Phan Trọng Bình,... Hiểu đƣợc giá trị biểu tƣợng của nhà thơ dùng
trong tác phẩm của mình thì có thể nói đã hiểu gần nhƣ tận cùng tƣ duy và nỗi
lòng nhà thơ ấy. Họ sống và trải nghiệm, vui hay buồn, hi vọng hay thất
32
vọng,… tất cả đều có thể đã đƣợc dồn nén, cô đọng trong những biểu tƣợng
mà họ xây dựng và gửi gắm qua ngôn từ. Biểu tƣợng trở thành cầu nối giữa cá
nhân nhà thơ và cộng đồng, giữa hiện thực và ƣớc mơ, giữa chiêm nghiệm và
cuộc sống. Xét rộng hơn trong phạm vi thơ hiện đại Việt Nam, các biểu tƣợng
gắn với cuộc sống, tính cách của từng tác giả, thể hiện phong cách cá nhân
độc đáo.
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng trên thế giới qua các công trình
được biết đến ở Việt Nam
Theo cách luận giải của các tác giả Jean Chevalier và Alain Gheerbrant
trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biểu tƣợng ra đời ngay từ khi
thế giới loài ngƣời hình thành. Sơ khai, nó chính là các dấu hiệu, là cách thức
để loài ngƣời liên lạc với nhau một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, để nhận
thức rõ ràng về biểu tƣợng thì phải là kết quả của một chặng đƣờng dài phát
triển tƣ duy, văn hóa của con ngƣời.
Platon, nhà triết học cổ đại Hy Lạp, đã đề cập đến khái niệm “thần thoại
bậc hai” khi nói về kết cấu của thần thoại triết lý. Ông cho rằng, thần thoại triết
lý không đơn thuần là sự phản ánh thụ động, đơn chiều, mà nó phản ánh chủ
động, đa chiều. Đây có lẽ là một quan niệm sơ khai nhất về biểu tƣợng.
Aristotle, học trò xuất sắc của Platon, khi đề cập đến mối quan hệ giữa
chữ viết - lời nói - ý nghĩa đã xem ý nghĩa đƣợc thay thế bằng vật tƣơng
đƣơng là hình ảnh, quan hệ giữa ý nghĩa và hình ảnh đó có tình ƣớc lệ và đa
dạng. Cách tiếp cận này của Aristotle có thể hiểu là đang đề cập đến một
trong những bản chất của biểu tƣợng.
Nhà thần học Augustinus, trong các tác phẩm của mình đƣợc sáng tác
trong giai đoạn 397 - 428 đã đề cập đến một khái niệm gọi là “siêu kí hiệu”.
Theo đó, kí hiệu này không chỉ yên vị, đơn nghĩa, mà nó có khả năng chuyển
33
nghĩa, biểu đạt cho điều tiếp theo ngoài bản thân nó. Nhà thần học cho rằng,
lời của con ngƣời chỉ là công cụ biểu đạt lại lời của Chúa mà thôi. Vì Chúa là
thực thế duy nhất trong thế giới không biểu đạt cái khác.
Trong chủ nghĩa lãng mạn Đức (đƣợc hình thành ở Tây Âu sau cách
mạng tƣ sản Pháp 1789), vai trò của biểu tƣợng đã đƣợc đề cập đến một cách
rộng rãi và qui mô hơn. Biểu tượng và huyền thoại của các dân tộc thời cổ,
nói riêng của người Hy Lạp (1810) là một công trình nhiều tập của F. Kseiser,
có thể đƣợc coi là một đóng góp rất quan trọng trong việc hình thành lý thuyết
về biểu tƣợng. Trong công trình này, F. Kseiser đã đƣa ra sự phân loại biểu
tƣợng thành: biểu tƣợng thần bí (chủ yếu là từ tƣ duy của ngƣời nguyên thủy
đối với thế giới tự nhiên, tín ngƣỡng và tôn giáo) và biểu tƣợng thông thƣờng.
Bên cạnh đó, trong các công trình và hƣớng nghiên cứu khác, nhà triết
học duy tâm ngƣời Đức F.W.J Shelling đƣa ra quan điểm đối lập biểu tƣợng
với phúng dụ. J.W. Goethe, nhà văn, nhà thơ, nhà họa sĩ lỗi lạc ngƣời Đức
cũng nhận thấy tính mơ hồ, đa tầng bậc nghĩa và thật khó khăn để phân chia ý
nghĩa của biểu tƣợng.
Việc nhận thức và nghiên cứu biểu tƣợng có vẻ nhƣ tiến triển mạnh mẽ
hơn vào những năm đầu thế kỷ XX với những tên tuổi nổi tiếng nhƣ Ernst
Cassier (khuynh hƣớng nhân triết học), Sigmund Freud, Carl Gustav Jung
(khuynh hƣớng phân tâm học). Trong đó, Ernst Cassier đã cung cấp cho khái
niệm biểu tƣợng một cách hiểu rất rộng lớn. Ông xem con ngƣời là động vật
biểu tƣợng, và những thứ đã tồn tại trong thế giới loài ngƣời nhƣ ngôn ngữ,
nghệ thuật, tôn giáo thì đều đƣợc coi là những hình thức biểu tƣợng.
Các đại diện tiêu biểu của trƣờng phái phân tâm học là Sigmund Freud,
Carl Gustav Jung lại xem xét và tiếp cận biểu tƣợng dƣới góc độ là hiện tƣợng
của tâm thần, là ngôn ngữ trong các giấc mơ. Nhiều công trình đã dịch các tác
phẩm của S. Freud và C. Jung, đƣa đến cho chúng ta một góc nhìn khá toàn
34
diện về vấn đề phân tâm học nói chung và biểu tƣợng trong góc nhìn phân
tâm học nói riêng. Tiêu biểu nhƣ Man and His Symbols (Con người và biểu
tượng), Essai d’exploration de l’inconscient (Nỗ lực khám phá vô thức), Die
Traumdeutung (Giải thích giấc mơ),…
Aleksei Fedorovich Losev, nhà triết học nổi tiếng ngƣời Nga có nhiều
công trình khoa học liên quan đến vấn đề biểu tƣợng. Có thể đến một số công
trình nhƣ: Logic của biểu tượng (1972), Sơ khảo về chủ nghĩa biểu tượng và
huyền thoại cổ đại (1930), Vấn đề biểu tượng trong nghệ thuật hiện thực chủ
nghĩa (1995), Kí hiệu, biểu tượng, thần thoại (1982),… Losev đã nhất định
phân biệt biểu tƣợng với các dạng tu từ khác (ở đây là hai loại gần nhất là
phúng dụ và ẩn dụ).
Đáng chú ý là các công trình của nhà lí luận văn học, văn hóa, triết học
Pháp Tzvetan Todorov là: Các lý thuyết biểu tượng (1977), Chủ nghĩa biểu
tượng và sự diễn giải (1978), Chủ nghĩa tượng trưng và diễn giải (Symbolisme
et interprétation, 1978), Lí thuyết tượng trưng (Théories du symbole, 1985).
Tz. Todorov cho rằng cách hiểu về biểu tƣợng liên quan đến sự diễn giải, bởi
vì cùng một kí hiệu ở thời đại này, dân tộc này coi là biểu tƣợng, nhƣng ở thời
đại, dân tộc khác lại không thấy nhƣ thế.
Năm 1969, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant xuất hiện nổi bật với công
trình Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Đây là công trình nghiên cứu đƣợc
soạn thảo công phu bởi hai tác giả trên với sự cộng tác của nhiều chuyên gia
Pháp và các nƣớc khác; chỉnh lý, bổ sung năm 1982 và tái bản rất nhiều lần (tái
bản 13 lần kể từ năm 1969 đến năm 1992). Cùng với việc trình bày, phân tích
những ý kiến, nhận định của các học giả về vấn đề biểu tƣợng một sâu sắc và
độc đáo, các tác giả cuốn từ điển đã đƣa ra hệ thống các biểu tƣợng văn hóa nhƣ:
các huyền thoại, chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu sắc,
con số,… bao quát đƣợc hầu hết khu vực văn hóa trên thế giới liên quan đến các
35
phƣơng diện dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, thần thoại học, tôn giáo học,…
Trần Đình Sử dịch từ bản tiếng Nga cuốn sách của tác giả Iu. Lotman:
Biểu tượng trong hệ thống văn hóa (1992). Theo đó, biểu tƣợng xuất hiện nhƣ
là một máy tích điện của tất cả các nguyên tắc của tính kí hiệu và đồng thời
vƣợt ra ngoài giới hạn của tính kí hiệu. Nó là cầu nối giữa các phạm vi khác
nhau của cái biểu nghĩa cũng nhƣ giữa tính thực tại kí hiệu học và ngoài kí
hiệu học. Trên mức độ nhƣ nhau nó cũng là cái trung gian giữa tính đồng đại
của văn bản và ký ức của văn hoá. Vai trò của nó là vai trò của máy tích điện
kí hiệu học.
Một trong số những tài liệu có giá trị khi đề cập đến vấn đề biểu tƣợng
đó chính là cuốn Biểu tượng - Chung và Riêng (Symbol - Public and Private)
của Raymond Firth do Đinh Hồng Hải dịch; từ đó, Đinh Hồng Hải đã dịch ra
thành các bài viết rất có ý nghĩa khoa học: Các biểu tượng trong nghệ thuật,
Khám phá các biểu tượng trong văn học, Các biểu tượng trong tôn giáo,
Nghiên cứu văn hóa từ góc nhìn nhân học biểu tượng, Quan điểm của các
nhà nhân học về sử dụng biểu tượng. Qua đó, có thể thấy rõ một điều là,
chính tính chất đa nghĩa, trừu tƣợng, mơ hồ của biểu tƣợng khiến cho việc
tiếp cận nó ở góc độ văn học nói riêng là vô cùng khó khăn. Vấn đề giải mã
biểu tƣợng trong văn học, vì thế cần có cái nhìn tổng thể, bao quát, liên quan
đến những ngành học khác, gần nhất là văn hóa học, kí hiệu học, tâm lí học,
phân tâm học,…
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng, biểu tượng nghệ thuật ở Việt Nam
Ở nƣớc ta, việc nghiên cứu biểu tƣợng còn lẻ tẻ, nhất là nghiên cứu lý
thuyết. Đồng thời với điều này là xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về
nguồn gốc và bản chất của biểu tƣợng. Tất nhiên, chúng ta cũng dễ dàng nhận
thấy là các công trình nghiên cứu này có thể xếp lại thành những nhóm theo
cách tiếp cận biểu tƣợng. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát các công trình và
một số bài báo nghiên cứu về biểu tƣợng nói chung, biểu tƣợng văn học nói
36
riêng và có thể đi đến một số khái lƣợc cơ bản nhƣ sau:
Trong cuốn Biểu tượng (2005), trên cơ sở đối chiếu, so sánh biểu tƣợng
với các dạng tín hiệu khác nhƣ là phù hiệu, huân, huy chƣơng,… tác giả
Nguyễn Duy Lẫm đã đƣa ra khẳng định rằng biểu tƣợng là hình thức tín hiệu
có nội hàm phong phú hơn tất cả. Tuy nhiên, trong công trình này, tác giả
đồng nhất biểu tƣợng là những hình tƣợng ẩn dụ, có sức mạnh tâm thức, đƣợc
ghi dấu lâu bền trong nhận thức của con ngƣời.
Tác giả Trần Lê Bảo trong công trình nghiên cứu Giải mã văn học từ
mã văn hóa (2011) đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng, mật thiết giữa văn học
với văn hóa và khẳng định rằng nghiên cứu văn học từ các mã văn hóa, tìm
các mã văn hóa ẩn tàng và biến hóa trong các hình tƣợng văn học là những
khám phá hết sức lý thú và bổ ích, là sự khai thác không cùng đối với giá trị
của tác phẩm. Giải mã biểu tƣợng văn hóa - một trong ba yếu tố quan trọng
của mã văn hóa - là cơ sở vững chắc đề các nhà nghiên cứu có thể khái quát
đƣợc tính dân tộc của nền văn học đấy [10, 27].
Dƣới góc nhìn tâm lí học, thế giới biểu tƣợng cũng đƣợc tác giả Phạm
Đức Dƣơng phân tích với nhiều nét mới trong cuốn Từ văn hóa đến văn học
học (2013). Tác giả phân tích rằng biểu tƣợng là vật thay thế, làm cầu nối
giữa thế giới ý niệm và thế giới hiện tại bằng cách đƣa cái vô hình, vô hạn, vô
khả tri vào cái hữu hình, hữu hạn, khả tri, làm con ngƣời có thể cảm nhận
đƣợc thế giới ý niệm. Một biểu tƣợng bao gồm ba cái: cái thực (thực tại), cái
tƣởng tƣợng (ý niệm), cái tƣợng trƣng (biểu tƣợng). Thế giới biểu tƣợng cũng
nhƣ sản phẩm trí tuệ của nó đƣợc tạo nên bởi trí tƣởng tƣợng của con ngƣời.
Đặc điểm chủ yếu của biểu tƣợng là khi nó xuất hiện lập tức tự động gọi ra
một ý nghĩa, ý tƣởng nào đó, không tính đến lý do sản sinh ra sự tƣơng quan,
không cần nhờ vào suy luận, và đƣợc giới hạn phạm vi cộng đồng văn hóa
37
chấp nhận sự tƣơng quan đó [20, 104-105].
Tác giả Lê Nguyên Cẩn trong công trình Tiếp cận văn học nhìn từ góc
nhìn văn hóa (2014) cũng có những nhận diện mới về biểu tƣợng qua “mã văn
hóa”. Trong phân tích của mình, tác giả chỉ ra rằng con ngƣời thể hiện những
ý nghĩa và tình cảm của mình nhờ các kí hiệu, nhƣng văn hóa đƣợc thể hiện
không đơn giản trong các kí hiệu mà trong các biểu tƣợng. Tác giả khẳng định
biểu tƣợng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa học, “thông qua biểu
tƣợng, ý thức của chúng ta thấy đƣợc “chốn thiêng liêng” của văn hóa là các ý
niệm - vốn sống trong chốn sâu thẳm vô thức của tâm hồn và gắn bó với mọi
ngƣời theo một kiểu cảm nhận thống nhất đối với thế giới và bản thân mình”
[16, 457]. Và đây cũng là cách hiểu biểu tƣợng đã phát triển từ thời Hegel cho
đến Jung và Spengler. Bên cạnh đó, Lê Nguyên Cẩn cũng có những nhận định
cơ bản về mã văn hóa truyền thống - mẫu gốc, gắn liền với truyền thống văn
chƣơng Đông - Tây. Tính chất huyền thoại của mẫu gốc của mã văn hóa cũng
ẩn mình dƣới các quan niệm về thế giới quan hay nhân sinh quan.
Ở Việt Nam những năm gần đây, ngoài việc biểu tƣợng đƣợc tiếp cận
với góc độ lý thuyết chung và góc nhìn văn hóa, thì việc nghiên cứu biểu
tƣợng trong lĩnh vực văn học, thơ ca cũng đã trở thành một vấn đề đƣợc quan
tâm nghiên cứu một cách tƣơng đối thỏa đáng. Một trong những tác giả đề
cập sớm nhất đến vấn đề này là Vũ Ngọc Phan khi trong bộ sách Tục ngữ, ca
dao, dân ca đã có những đề cập bƣớc đầu đến vấn đề biểu tƣợng trong ca dao.
Trong bài viết Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian đăng trên
tạp chí Văn học năm 1981, Chu Xuân Diên đã đặt ra vấn đề nghiên cứu thi
pháp văn học dân gian nhiều góc độ trong đó có biểu tƣợng thơ ca. Tuy nhiên,
việc tiếp cận biểu tƣợng mới dừng lại chủ yếu ở mức gợi vấn đề.
Biểu tƣợng nghệ thuật nói chung và biểu tƣợng văn học nói riêng theo
Nguyễn Xuân Kính, trong Thi pháp ca dao (2007) là “hình ảnh cảm xúc về
38
hiện thực khách quan, thể hiện quan niệm thẩm mĩ, tƣ tƣởng của từng nhóm
tác giả, từng dân tộc, từng khu vực lƣu trú”. Tác giả cũng đƣa ra kiến giải của
mình trong việc phân loại các biểu tƣợng thuộc thế giới tự nhiên và biểu
tƣợng thuộc các thế giới nhân tạo.
Tác giả Trần Khánh Thành trong công trình nghiên cứu Khuynh hướng
tượng trưng và siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại (2016), từ cách tiếp cận
và phân tích biểu hiện của những khuynh hƣớng tƣợng trƣng, siêu thực trong
thơ Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã đi đến giải mã một số biểu tƣợng nghệ
thuật tiêu biểu đƣợc xây dựng trong phong trào Thơ mới.
Từ kí hiệu đến biểu tượng là công trình nghiên cứu do tác giả Trịnh Bá
Đĩnh chủ biên (2017). Công trình đã diễn giải một số vấn đề lý luận về kí
hiệu, biểu tƣợng, biểu tƣợng nghệ thuật và biểu tƣợng trong tác phẩm văn
học. Nghiên cứu chỉ ra rằng, một kí hiệu gồm có hai bình diện “hình thức” và
“nội dung”. Nhóm tác giả cũng đi sâu nghiên cứu biểu tƣợng theo lịch sử: từ
giai đoạn cổ xƣa, qua thời trung cổ, đến cận - hiện đại cho thấy quan niệm về
biểu tƣợng đã có những bƣớc tiến triển mới, theo những quan điểm khác
nhau: nhân triết học, văn hóa học, phân tâm học, kí hiệu học tu từ học.
Các công trình nghiên cứu của tác giả Trƣơng Thị Nhàn tiếp cận biểu
tƣợng nhƣ một tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt, nhƣ: Giá trị biểu trưng của một số
vật thể nhân tạo trong ca dao, Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật ca dao qua một
tín hiệu thẩm mĩ; Luận án Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ
không gian trong ca dao (Mặc dù tác giả xem xét dƣới góc độ ngôn ngữ học
nhƣng đã phân tích làm rõ các lớp ngữ nghĩa tiềm ẩn trong mỗi biểu tƣợng
đó). Tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa cũng có những đóng góp nhất định đối
với hệ thống lý thuyết biểu tƣợng và áp dụng trong thực tế nghiên cứu với
những bài viết nhƣ: Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần người Việt
qua thơ ca, Tìm hiểu những nhân tố tác động tới ý nghĩa của biểu tượng,
39
Luận án Sự phát triển ý nghĩa của hệ Biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ
thơ ca Việt Nam (2005). Và gần đây nhất là luận án Biểu tượng trong thơ
kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975 (2017) của Trần Thị Hƣờng. Tác giả cũng
đã có những tổng hợp, nghiên cứu vấn đề biểu tƣợng từ góc nhìn lý thuyết.
Dựa trên ngữ liệu là các bài thơ có chứa đựng tính biểu tƣợng, biểu tƣợng
nghệ thuật của các tác giả tiêu biểu, tác giả đã phân tích đƣợc hệ biểu tƣợng
với tâm thức dân tộc về hệ biểu tƣợng về chiến tranh trong thơ kháng chiến
Việt Nam. Đồng thời, tác giả luận án cũng đƣa những phân tích của mình về
phƣơng thức kiến tạo biểu tƣợng thơ trong giai đoạn này.
Bên cạnh đó, biểu tƣợng nghệ thuật và biểu tƣợng nghệ thuật trong thơ
cũng là đề tài của nhiều khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, có thể kể đến
một số tiêu biểu nhƣ: luận văn Biểu tượng màu sắc trong thơ Chế Lan Viên
(Nguyễn Thị Lâm, 2013), luận văn Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu
trong thơ Tố Hữu (Nguyễn Thị Nguyệt, 2011), luận văn Những hình ảnh biểu
tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân (Hà Thị Ngọc Tân, 2012), luận văn Biểu
tượng trong thơ Lưu Quang Vũ (Trần Thị Hƣờng, 2011), luận văn Biểu tượng
nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh (Trần Hà Phƣơng, 2013), luận văn Những
biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng
Tám 1945 (Lã Thị Thanh Hằng, 2015),....
Điểm chung của hầu hết các công trình (dù từ cách tiếp cận vấn đề biểu
tƣợng ở các góc độ, khía cạnh khác nhau) đó là các nhà nghiên cứu đều thừa
nhận trong biểu tƣợng, có hai thứ tồn tại: đó là cái biểu đạt và cái được biểu
đạt. Hay nói một cách khác thì biểu tƣợng bao giờ cũng là tín hiệu hai mặt:
cái biểu thị và cái được biểu thị. Kết quả nghiên cứu cho thấy có thể khái quát
lại thành ba loại tiếp cận biểu tƣợng nhƣ sau:
Loại thứ nhất, biểu tƣợng đƣợc hiểu theo nghĩa rộng nhất, khái quát
nhất là bao gồm tất cả các hình thức biểu hiện của văn hóa loài ngƣời: tôn
40
giáo, tín ngƣỡng, nghi lễ, nghệ thuật, thần thoại,…
Loại thứ hai, biểu tƣợng hiểu theo nghĩa hẹp là một dạng kí hiệu
(nhƣng là kí hiệu đặc biệt, siêu kí hiệu), trong đó cái biểu đạt (cái biểu trưng)
gợi cho ngƣời tiếp nhận những ý nghĩa, nội dung khác ngoài nghĩa bộc lộ trực
tiếp. Ý nghĩa khác này rất nhiều tầng bậc và lớp lang, rất mơ hồ và khó nắm
bắt nếu ngƣời tiếp nhận chỉ dùng lý trí thông thƣờng.
Loại thứ ba, biểu tƣợng đƣợc coi nhƣ là hiện tƣợng thiêng liêng và thần
bí, là thông điệp mà đấng tối cao (Chúa Trời) gửi đến cho con ngƣời hoặc
thông qua nhƣng giấc mơ. Con ngƣời tỏ ra bị động trong quá trình tiếp cận và
giải mã biểu tƣợng.
Luận án này tiếp cận biểu tƣợng theo loại thứ hai, tức là coi biểu tƣợng
là một dạng kí hiệu đặc biệt, siêu kí hiệu. Và nhƣ thế, có thể xác định rằng:
Biểu tƣợng là một kí hiệu mà bình diện nội dung của nó là một kí hiệu khác
(nội hàm và ngoại diên), thƣờng có ý nghĩa văn hóa cao hơn (giàu ý nghĩa
hơn), điều ấy dẫn đến việc nó làm trung hòa (đơn giản hóa) nghĩa thứ nhất,
biến kí hiệu chỉ có một chức năng thông tin thuần túy thành biểu đạt văn hóa
(mang nhiều tầng nghĩa hơn).
Từ việc khảo sát và có những đánh giá cơ bản về đóng góp của tác giả
những công trình khoa học nêu trên, chúng tôi có thể đi đến kết luận rằng,
mặc dù việc nghiên cứu biểu tƣợng nghệ thuật trong Thơ mới trong thời gian
gần đây bắt đầu có xu hƣớng rộng mở hơn, song lịch sử nghiên cứu biểu
tƣợng nghệ thuật trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 chƣa có đƣợc
những thành tựu mang tính chất hệ thống, bề thế, xứng đáng với tầm vóc của
nó. Cụ thể hơn ở đây là những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ ca
lãng mạn (Thơ mới) và thơ ca Cách mạng. Đây chính là khoảng trống để
chúng tôi trên cơ sở kế thừa những luận điểm, minh chứng khoa học đã có,
cùng với việc mạnh dạn khai phá những vấn đề mới, có thể triển khai luận án
41
với đề tài của mình.
Tiểu kết chƣơng 1
Từ góc độ tiếp cận lý thuyết, có thể thấy nghiên cứu biểu tƣợng hiện
đang là một hƣớng đi mới, đƣợc sự quan tâm của nhiều ngành khoa học. Với
tƣ cách là một yếu tố có nguồn gốc lịch sử lâu đời, phôi thai và phát triển
cùng với sự phát triển của mỗi dân tộc - biểu tƣợng xứng đáng đƣợc nghiên
cứu với tinh thần khoa học nghiêm túc nhất. Nó không thể là ngành khoa học
hoàn toàn biệt lập mà cần đƣợc đặt trong mối liên hệ biện chứng với những
ngành khoa học khác. Việc đƣa ra góc nhìn biểu tƣợng trên các bình diện kí
hiệu học, phân tâm học, tâm lý học, văn hóa học và văn học là cách để chúng
ta có thể khám phá biểu tƣợng một cách toàn diện nhất.
Với tƣ cách là một siêu kí hiệu cùng công thức bản chất 1>1, biểu
tƣợng ẩn chứa nhiều tầng bậc ý nghĩa khác nhau, với đặc tính linh hoạt và có
khả năng tái sinh cao. Trong lĩnh vực thơ ca, có thể hiểu biểu tƣợng nhƣ một
tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt bởi sức gợi và sức tạo liên tƣởng của nó. Biểu tƣợng
không khi nào đứng im mà luôn bắn vào vô tận của tƣ duy, để có thể hiểu
đƣợc biểu tƣợng nghệ thuật đến tận cùng ý nghĩa, hoặc đó là biểu tƣợng đã
chết, hoặc đó là sự bất lực của tƣ duy. Sử dụng biểu tƣợng, theo đó, là một
trong những cách thức hữu hiệu để các tác giả thể hiện tài năng, cá tính của
mình trong sáng tạo nghệ thuật.
Việc nghiên cứu lý thuyết biểu tƣợng, biểu tƣợng nghệ thuật trong văn
học nói chung và trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng đã có
những thành tựu nhất định, với nhiều đóng góp của các nhà nghiên cứu, các
tác giả trên thế giới và ở Việt Nam. Tuy nhiên, xét riêng trong lĩnh vực thơ ca
Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 thì chƣa có một công trình nào đề cập đến
biểu tƣợng nghệ thuật một cách toàn diện, chủ yếu mới chỉ tiếp cận ở một số
42
khía cạnh, vấn đề cụ thể, của một số tác giả tiêu biểu.
CHƢƠNG 2
NGUỒN GỐC SINH THÀNH CÁC BIỂU TƢỢNG
TRONG THƠ CA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
Có thể khẳng định rằng, cơ chế sinh thành một biểu tƣợng nói chung,
biểu tƣợng nghệ thuật nói riêng là khá phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Với tƣ cách là một hiện tƣợng lịch sử, biểu tƣợng và hệ giá trị của biểu tƣợng
có mối liên hệ chặt chẽ với thực tế thời đại và đặc điểm văn hóa dân tộc sản
sinh ra nó. Bên cạnh đó, biểu tƣợng nghệ thuật trong thơ ca Việt Nam giai
đoạn 1930-1945 hình thành, sản sinh và biến đổi còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác, cụ thể ở đây là vấn đề mẫu gốc; sự tiếp biến văn hóa Đông - Tây;
quan điểm, tƣ tƣởng thẩm mĩ của chủ thể sáng tạo nghệ thuật.
2.1. Kiến tạo biểu tượng từ mẫu gốc và mở rộng biên độ tượng trưng
Khi tiếp cận vấn đề vô thức trong sáng tạo nghệ thuật, Carl Gustav
Jung, học trò xuất sắc của nhà phân tâm học S. Freud đã khám phá ra lý
thuyết về “vô thức tập thể”. Ông cho rằng đây chính là tài sản chung của nhân
loại, đƣợc cấu trúc thành những siêu mẫu (hay còn đƣợc Jung gọi với nhiều
tên khác nhƣ nguyên tƣợng, cổ mẫu, mẫu gốc - archétipe). Rồi từ mẫu gốc đó
phát sinh ra các hệ biểu tƣợng trong văn hóa nhân loại. Jung cho rằng tất cả
những biểu tƣợng của con ngƣời dù phong phú, đa dạng đến đâu, đi đến tận
cùng đều có cấu trúc là những mẫu gốc. Mẫu gốc là những vết tích tâm lý
hình thành từ thời nguyên thủy, di truyền theo loài và tạo thành những cấu
trúc tâm thần phổ biến của loài ngƣời. Trong bài báo cáo với tựa đề Về quan
hệ của tâm lý học phân tích và sáng tạo văn học nghệ thuật, C. Jung đã nói:
“Nguyên sơ tƣợng (archétype), hay siêu mẫu, hay nguyên hình - dù đó là quỷ,
ngƣời hay biến cố - đƣợc lặp lại trong suốt chiều dài lịch sử ở bất kì đâu có trí
43
tƣởng tƣợng sáng tạo tự do hoạt động” [116, 70]. Khái niệm cổ mẫu của Jung
ở một góc độ nào đó giống với khái niệm “tƣ tƣởng” của Platon. Theo Platon
thì “Tƣ tƣởng là những dạng tinh thần thuần túy, tồn tại trong tâm thức của
thánh thần trƣớc khi cuộc sống loài ngƣời bắt đầu, vì thế chúng nằm ngoài
phạm vi của thế giới hiện tƣợng thông thƣờng. Chúng có tính chất tập thể ở
chỗ chứa đựng đặc tính tổng quát của một sự vật nhƣng cũng ẩn tàng trong
những biểu hiện cụ thể” [92, 82-83]. Biểu tƣợng cũng vậy, mang dấu ấn cộng
đồng nhƣng cũng mang dấu ấn của từng cá nhân, với những nét đặc thù riêng
có, không lẫn với chủ thể khác.
J. A. Cuddon, trong cuốn Từ điển Penguin về thuật ngữ và lý thuyết văn
học đã xác định: “Cổ mẫu là mẫu gốc của những bản sao… đại diện cho hầu
hết các đặc tính đƣợc chia sẻ bởi toàn bộ nhóm đó; là một hình mẫu hoặc một
vật mẫu. Cổ mẫu có tính lại giống và tính phổ quát, là sản phẩm của “vô thức
tập thể” và đƣợc thừa kế từ tổ tiên chúng ta” [11, 172]. Quan điểm này gần
với Jung khi nhận ra một trong những bản chất của biểu tƣợng mẫu gốc, đó là
đi từ cái phổ quát với cái cá thể.
Khi đề cập đến vấn đề này, trong cuốn Ký hiệu và liên ký hiệu (2019),
Lê Huy Bắc đã chỉ ra đặc điểm cơ bản nhất của cổ mẫu trong văn học là gồm
nhiều dạng thức tiếp cận. Theo đó, cổ mẫu vừa là của thời xƣa, vừa là của
thực tại, vừa là trong tâm thức ngƣời sáng tạo, lại vừa là trong tâm thức ngƣời
tiếp nhận. Và từ góc độ tiếp cận cổ mẫu nhƣ trên, tác giả đi đến một nhận
định: “Văn chƣơng suy cho cùng là một trò chơi lớn, kiểu trò chơi liên ký
hiệu cổ mẫu bất tận, vừa quen thuộc, vừa xa lạ, thách thức sự tri nhận và cảm
xúc của con ngƣời” [11, 171].
Rất dễ chấp nhận khi cho rằng huyền thoại chính là thể loại văn chƣơng
đầu tiên của nhân loại mà cổ mẫu đã bắt đầu lan tỏa giá trị của nó. Đến với
huyền thoại, chúng ta có cơ hội đƣợc tìm thấy những cổ mẫu xa xƣa nhất, gắn
44
liền với tƣ duy của ngƣời nguyên thủy. Mircea Eliade, nhà triết học ngƣời
Rumani đã đƣa ra nhận định: “Chức năng chủ của huyền thoại là cố định
những mô hình mẫu cho mọi hoạt động có ý nghĩa của con ngƣời” [12, XXI].
Tuy nhiên, cổ mẫu không chỉ náu mình trong huyền thoại mà nó còn hiển hiện
trong các tác phẩm hôm nay, với khả năng hồi sinh, tái tạo kì diệu của mình.
C. Jung đã dùng khái niệm “biểu tƣợng sống” khi nhấn mạnh đến góc độ biểu
tƣợng có khả năng tạo nên những âm vang đồng vọng sâu xa trong con ngƣời,
cuốn con ngƣời tham gia cùng nó trong quá trình sản sinh ý nghĩa. Có thể nói,
đọc cổ mẫu là cách nhìn tác phẩm văn chƣơng từ bên ngoài. Nhƣng cách nhìn
từ bên ngoài này không quy chiếu những chuẩn mực và tiêu chí có trƣớc vào
tác phẩm, để mà giải thích nó. Đọc cổ mẫu là đi tìm, chăm chú ghi nhận các
hiện tƣợng cùng những cuộc gặp gỡ thƣờng rất bất ngờ của chúng trong tác
phẩm, xuyên qua thời gian và không gian, tra vấn và thử trả lời. Đọc một tác
phẩm theo tinh thần cổ mẫu là đi từ hình tƣợng đến biểu tƣợng, trong biểu
tƣợng, lần ra cổ mẫu. Những tác phẩm không mang biểu tƣợng sẽ không là
đối tƣợng của đọc cổ mẫu. Nhƣng cũng có những tác phẩm mang biểu tƣợng
rõ ràng, thực tế lại trƣợt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. C. Jung cũng đã
chia sẻ với chúng ta những khó khăn khi nắm bắt biểu tƣợng, khi nó luôn luôn
tạo ra những thách thức với khả năng suy xét và cảm nhận của mỗi cá nhân.
Xét theo nguồn gốc của biểu tƣợng, chúng ta có thể phân chia thành hai
loại: Một là, biểu tƣợng gốc (symbole naturelle), gồm các biểu tƣợng có nguồn
gốc tự nhiên hoặc phát sinh từ vô thức, chúng biểu hiện quá trình nhận thức,
khám phá thế giới của con ngƣời. Ví dụ: nƣớc (ao, hồ, sông, suối, sương,…).
Hai là, các biểu tƣợng ƣớc lệ, quy ƣớc thỏa ƣớc (symbole conventionelle), là các
biểu tƣợng do con ngƣời tiếp tục sáng tạo trên cơ sở các biểu tƣợng gốc trong
quá trình phát triển của đời sống văn hóa xã hội. Các biểu tƣợng ƣớc lệ là biểu
tƣợng mang tính chất phái sinh trực tiếp thành các mẫu gốc và biểu tƣợng gốc.
45
Ví dụ: từ biểu tƣợng bầu trời phái sinh ra mặt trời, mây, sao, gió, mặt trăng…
Quá trình sáng tạo nghệ thuật của các nghệ sĩ, theo C. Jung chính là việc họ
tiếp thêm sức sống cho các cổ mẫu từ vô thức, là quá trình tìm tòi, sáng tạo,
trải nó ra và tạo hình cho nó đến khi thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Đồng
thời, ông cũng cho rằng: “Có rất nhiều biểu tƣợng có khi rất quan trọng,
không có tính cách cá nhân mà có tính cách đoàn thể, kể cả phƣơng diện tính
chất lẫn phƣơng diện nguồn gốc” [48, 68].
Tuy nhiên, biểu tƣợng trong nghệ thuật nói chung, trong thơ ca nói
riêng không phải bao giờ cũng mang tính tập thể hoặc là sản phẩm của “vô
thức tập thể”. Các nghệ sĩ có thể khai thác cho mình một hệ thống biểu tƣợng
từ mẫu gốc, từ kho nguyên liệu của thời đại, từ một khuynh hƣớng văn hóa,
một phạm vi xã hội. Cá tính của nghệ sĩ không chỉ thể hiện ở việc sáng tạo ra
những biểu tƣợng mới mang tính đột phá, mà còn bộc lộ ở việc huy động, làm
sống dậy những hình tƣợng mang tính biểu tƣợng đôi khi rất cổ xƣa. Quan
điểm của Jung chƣa toàn diện ở chỗ nó chƣa đánh giá đƣợc vai trò sáng tạo
cũng nhƣ cá tính riêng biệt của các văn nghệ sĩ. Trong khi đó, đây lại là điều
phổ biến trong thơ ca hiện đại nói chung và Thơ mới nói riêng.
Những luận giải xác lập trên đây cho phép chúng ta nhận định rằng
nền văn học của một dân tộc nào cũng dung chứa trong lòng nó ít nhiều cổ
mẫu. Văn học Việt Nam nói chung và thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
cũng không là ngoại lệ. Một điều có thể khẳng định chắc chắn là, nếu chúng
ta đi sâu vào tìm hiểu, phân tích về văn hóa các điển tích, điển cố trong văn
học cổ điển, văn học dân gian (folklore), các dấu vết tôn giáo thì chúng ta sẽ
tìm thấy vô vàn điều thú vị về cổ mẫu, biểu tƣợng. Trong đó có những cổ mẫu
chung của nhân loại và những cổ mẫu riêng của cộng đồng ngƣời Việt, thoát
thai từ huyền thoại (đất, nước, hoa, lửa, mặt trời, mặt trăng,…).
Thậm chí, khi thực hiện việc khảo sát, phân loại hệ thống các biểu
46
tƣợng xuất hiện trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, chúng tôi còn
có thể mạo muội đánh giá, còn nguyên một kho tàng cổ mẫu quý giá mà giới
nghiên cứu chƣa chạm đến bao nhiêu. Dựa vào các tiêu chí trội bật, linh hoạt,
lan tỏa cùng với tần số xuất hiện, luận án lựa chọn và tập trung khảo sát, phân
tích một số cổ mẫu quan trọng, xuyên suốt các sáng tác của các nhà thơ tiêu
biểu trong giai đoạn 1930 - 1945.
Đối với thơ ca trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945), đó là hồn - linh
hồn, âm phủ - địa ngục, máu, trăng, vườn, bướm, ….
Đối với thơ ca Cách mạng (1930 - 1945), đó là con đường, cờ - ngọn
cờ, máu, mặt trời, ánh sáng, bóng tối, ...
Những biểu tƣợng trong thơ ca giai đoạn này, phần nhiều có nguồn gốc
từ cổ mẫu, nằm trong tâm thức Việt Nam từ bao đời, theo chiều dài lịch sử.
Các biểu tƣợng xuyên không gian và thời gian, xuyên qua các trầm tích văn
hóa, ngày càng dầy dặn hơn, phong phú hơn, vừa có những tầng ý nghĩa cổ
xƣa, vừa có những tầng ý nghĩa mới, hiện đại, giàu liên tƣởng. Xây dựng
đƣợc các tầng nghĩa mới của biểu tƣợng (hoặc những biến thể) trong tâm thế
sáng tạo của mình, đó chính là tài năng và nét độc đáo của mỗi ngƣời nghệ sĩ.
Đồng thời, hệ thống các biểu tƣợng này đã góp phần quan trọng trong việc
phân định, làm rõ tƣ tƣởng, quan niệm thẩm mĩ của các khuynh hƣớng thơ ca
giai đoạn này. Ví dụ:
Cờ, cờ hiệu: -> cờ hồng, cờ đỏ, cờ chỉ huy, cờ cách mạng, cờ cộng sản,
ngọn tiền phong, ngọn cờ đầu,…
Con đường -> đƣờng xa, đƣờng xƣa, đƣờng cách mạng, đƣờng đấu
tranh, đƣờng dặm liễu, đƣờng thiên lý,…
Lửa -> đuốc tiền phong, lửa phục thù, lửa vinh quang, lửa căm hờn, lửa
binh reo, lửa hờn,…
Máu -> máu hồng, máu anh hùng, huyết khí, suối máu,…
47
Âm phủ, địa ngục -> xƣơng khô, mồ, mả, bóng ma, yêu tinh,…
Linh hồn -> hồn điên, hồn ma, cô hồn, hồn phách,…
Vườn -> vƣờn xuân, vƣờn tình ái, vƣờn cƣời, vƣờn trần,…
2.2. Thực tế thời đại - nguồn gốc đầu tiên của biểu tƣợng
Trong Hệ tư tưởng Đức, Karl Marx đã phân tích rằng nghệ thuật là một
hình thái ý thức xã hội, cho nên nhất thiết cần phải tìm nguyên nhân đầu tiên -
tạo nên tất cả các sự biến đổi của nghệ thuật - trong tồn tại của con ngƣời,
trong cơ sở kinh tế của xã hội. Trong một tác phẩm nghệ thuật nói chung và
văn học, thơ ca nói riêng, ngƣời ta có thể thấy dấu vết của nền sản xuất, của
những điều kiện sản xuất, nhƣng điều quan trọng là ngƣời ta thấy con ngƣời,
con ngƣời tồn tại trong một hoàn cảnh lịch sử, xã hội cụ thể, con ngƣời với
tình cảm, tƣ tƣởng, cuộc sống của nó, con ngƣời sản xuất hoặc chiến đấu
trong mối quan hệ của nó với các tầng lớp xã hội xung quanh. Còn nói nhƣ
đại thi hào Goethe (Đức), thì thực tế đời sống chính là nguyên nhân, là điểm
xuất phát đầu tiên và cũng là nội dung chủ yếu của thơ ca.
Biểu tƣợng sinh thành, gắn bó trƣớc tiên với thời đại nó đang “sinh
sống” và có những tác động nhất định đối với thực tế xã hội. Do đó, hiểu
đƣợc đặc điểm và những âm vang của thời đại, nghĩa là chúng ta có thể hiểu
đƣợc bƣớc đầu (thậm chí là căn bản) ý nghĩa của các biểu tƣợng, biểu tƣợng
nghệ thuật đƣợc các tác giả sử dụng trong thời đại đó.
Đối với Việt Nam, thời kỳ 1930 - 1945 là một thời kỳ đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp diễn ra hết sức gay gắt. Đó là thời kỳ chủ nghĩa thực dân
kiểu cũ sắp đến ngày cáo chung trên bán đảo Đông Dƣơng; trong khi thực dân
Pháp ngày càng phơi trần bộ mặt thâm hiểm và tàn bạo thì bọn phát xít Nhật
cũng lộ rõ tham vọng làm bá chủ vùng Châu Á - Thái Bình Dƣơng. Từ tháng
02 năm 1930, dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dƣơng, phong trào
công nhân của giai cấp vô sản và các phong trào yêu nƣớc khác nhƣ những
48
đợt sóng thần ngày một dâng cao, mạnh mẽ và quyết liệt, cuốn phăng bè lũ
cƣớp nƣớc và bán nƣớc, tạo nên thành công của cách mạng tháng Tám năm
1945. Đây là cuộc cách mạng đầu tiên trên thế giới diễn ra ở một nƣớc thuộc
địa, và cũng là cuộc cách mạng có quy mô toàn quốc thứ hai trên thế giới
dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản (sau cách mạng vô sản Nga năm 1917).
Cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến những
cuộc đấu tranh của các hình thái ý thức trong kiến trúc thƣợng tầng. Hệ tƣ
tƣởng tƣ sản (bao gồm cả tƣ tƣởng thực dân) cấu kết ngày một chặt chẽ,
khăng khít với hệ tƣ tƣởng phong kiến lỗi thời. Ở chiến tuyến còn lại, đấu
tranh chống lại hệ tƣ tƣởng đó chính là hệ tƣ tƣởng vô sản cùng những khát
vọng dân tộc dân chủ và xã hội chủ nghĩa của các tầng lớp nông dân, tiểu tƣ
sản thành thị yêu nƣớc.
Trong lĩnh vực văn hóa, thực dân Pháp coi Đảng và sách báo cộng sản
là kẻ thù số một, kẻ thù nguy hiểm bậc nhất. Chúng ra lệnh cấm tàng trữ và
lƣu hành sách báo cộng sản. Công văn của Sở mật thám (năm 1931) đã tuyên
bố lệnh cấm đọc và tàng trữ Nhật ký chìm tàu của Nguyễn Ái Quốc vì chúng
xác định đó là “một vũ khí lợi hại của cộng sản”. Bên cạnh đó, chúng quyết
liệt thi hành chính sách ngu dân; chúng mở nhiều nhà tù hơn trƣờng học, bắt
học sinh các trƣờng tƣ thục từ 18 tuổi trở lên phải đóng thuế thân, với mục
đích lớn nhất là để con em nghèo không đƣợc đi học. Với chính sách hiểm
độc đó, hơn 90% nông dân bị mù chữ. Thanh niên có điều kiện đi học thì bị
đầu độc bởi những thứ thuộc chủ nghĩa siêu hình, chủ nghĩa chủ quan duy
tâm, chủ nghĩa ngụy biện, chủ nghĩa hoài nghi. Kẻ thù đã dùng chính sách mị
dân, dùng khuynh hƣớng cải lƣơng để đánh lạc hƣớng và làm hạ nhiệt phong
trào cách mạng. Thâm hiểm hơn, chúng lợi dụng những hoạt động tôn giáo
nhằm ru ngủ và đánh lạc hƣớng thanh niên, đẩy thanh niên vào con đƣờng ăn
chơi, trụy lạc. Chính sách đàn áp về chính trị, bóc lột dã man về kinh tế và
49
đầu độc về văn hóa đã hạn chế và hầu nhƣ bóp nghẹt khả năng phát triển của
nền văn học công khai, trực tiếp đẩy nó vào con đƣờng ngày càng bế tắc.
Nhƣng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và sự lớn mạnh không ngừng của phong
trào cách mạng, sự ảnh hƣởng những tƣ tƣởng và sách báo mác xít đã tạo hậu
thuẫn cho các khuynh hƣớng văn học yêu nƣớc và tiến bộ phát triển, nuôi
dƣỡng cả một dòng văn học cách mạng “từ trong bóng tối rọi ánh sáng ra bên
ngoài” (chữ dùng của Trƣờng Chinh).
Không thể phủ nhận rằng hoàn cảnh chính trị, xã hội rối bời của hiện
tại đã tác động to lớn đến ý thức, tâm tƣ, tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội. Trong đó, có lẽ đội ngũ trí thức, tiểu tƣ sản là đối tƣợng “mong
manh” và bị ảnh hƣởng nhiều nhất. Phong trào Thơ mới (1932-1945) ra đời
trong không khí chính trị ngột ngạt ấy, là tiếng lòng của nhiều trí thức, nhiều
nhà thơ đang trong tâm trạng ngộ nhận, cô đơn: “Lũ chúng ta, lạc loài dăm
bảy đứa/ Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh” (Vũ Hoàng Chƣơng).
Trong thơ, họ bày tỏ sự uất hận, đau xót, bất mãn và đồng thời cũng bất lực
trƣớc thực tế, nhƣng phần nhiều là thể hiện xu hƣớng “chạy trốn”, quay lƣng
lại thời cuộc, thoát ly thực tế bằng những ảo mộng cá nhân. Đó là điều dễ hiểu
khi mà những nhà thơ tiểu tƣ sản quen sống chủ yếu với ảo tƣởng. Những
bƣớc chân của họ không đi trên con đƣờng đời, con đƣờng kháng chiến, và
tâm hồn họ lại bay trên bầu trời huyền ảo do trí tƣởng tƣợng của họ tạo ra. Tất
nhiên, ở một góc nhìn khác, sự lãng mạn, cô đơn này là phẩm tính cần thiết
của những nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo.
Còn ở phía bên kia, lực lƣợng quần chúng lao động, giai cấp vô sản
hăng hái lao vào thực tế cuộc sống, cuộc đấu tranh cách mạng với tinh thần
quật khởi, mạnh mẽ và thể hiện rõ khát vọng chiến thắng, dành độc lập cho
dân tộc. Thơ ca Cách mạng khởi tạo từ mạch nguồn yêu nƣớc ấy. Không khí
cuộc đấu tranh đã nhanh chóng làm cho các nhà thơ bén rễ vào thực tế cuộc
50
sống, vào nhân dân, hút lên nhựa sống nuôi dƣỡng hồn thơ luôn tƣơi xanh,
luôn tin tƣởng và hy vọng. Những nỗi đau thƣơng, tang tóc của nhân dân dội
vào ý chí chiến đấu sắt thép của chiến sĩ cách mạng, tạo thành tiếng thét căm
thù: “Đầu tôi cháy bùng lên như cục lửa/ Sướng bao nhiêu! Chốc nữa sẽ
thành than/ Sẽ ra tro tất cả. Trại đồn tan/ Cờ chúng nó sẽ rơi xuống cỏ/ Cờ ta
sẽ phất trên trời chói đỏ!” (Tố Hữu). Tiếng thơ là tiếng nói của nhân dân, vì
thế nó có sức dội vang và sự mãnh liệt phi thƣờng.
Trong các sáng tác thơ ca giai đoạn này, cả trong thơ ca lãng mạn và
cách mạng, hệ thống biểu tƣợng từ mẫu gốc cũng nhƣ trong kho tàng văn hóa
nhân loại gần nhƣ còn nguyên vẹn (máu, lửa, linh hồn, vườn, trăng, mặt trời,
con đường,…) song đã mang tâm thức của con ngƣời thời đại, với những ý
nghĩa đƣợc phái sinh từ chính tính chất linh hoạt cũng nhƣ khả năng tự điều
chỉnh một cách tích cực trong các ngữ cảnh văn hóa của biểu tƣợng. Nếu nhƣ
các biểu tƣợng nghệ thuật trong Thơ mới thƣờng thiên về sự cô đơn, lạc lõng,
mỏng manh, khép kín, cảm tính (hồn - linh hồn, trăng, vườn, giấc mộng,…)
thì trong thơ Cách mạng lại thiên về sức mạnh chiến đấu, tập thể, kiên định và
lý trí (máu, mặt trời, ngọn cờ, con đường,…). Việc sử dụng hệ thống các biểu
tƣợng trong thơ cũng chính là một phƣơng thức để các nhà thơ thể hiện tƣ
tƣởng, quan niệm thẩm mĩ của mình. Nói rộng hơn, giải mã đƣợc giá trị các
biểu tƣợng trong thơ chẳng những góp phần quan trọng trong việc chiếm lĩnh
thế giới nghệ thuật của nhà thơ mà còn giúp chúng ta phân định “ranh giới
thẩm mĩ” giữa hai trào lƣu thơ vốn có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng và
tồn tại song hành với nhau. Đó là thơ ca lãng mạn và thơ ca cách mạng.
2.3. Chủ nghĩa lãng mạn, Chủ nghĩa tƣợng trƣng, Chủ nghĩa siêu
thực và ảnh hƣởng tới thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
2.3.1. Chủ nghĩa lãng mạn
Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học là một trào lƣu xuất hiện và phát
51
triển từ những năm 1750 đến 1870, với sự phủ sóng hầu hết ở các nƣớc châu
Âu, châu Mỹ. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự hình thành những quan
hệ xã hội mới - chƣa đƣợc định hình một cách rõ ràng, đó chính là cơ sở xã
hội và ý thức của chủ nghĩa lãng mạn. Điều này tác động đến hầu hết các tầng
lớp ngƣời trong xã hội, trong đó ảnh hƣởng nặng nề nhất là đối với tầng lớp
tiểu tƣ sản, trí thức.
Nhà triết học Pháp Jean-Jacques Roussseu và nhà văn Đức Johann
Wolfgang von Goethe đƣợc coi là hai nhân vật tƣ tƣởng vĩ đại đã khơi nguồn
cho cảm hứng lãng mạn, với sự chú trọng đến cảm xúc và trực giác, coi chúng
quan trọng hơn cả lý trí. Roussseu cho rằng: “Tồn tại với chúng ta, đó là cảm
nhận; sự cảm nhận của chúng ta rõ ràng là có trƣớc sự hiểu biết và chúng ta
có cảm xúc trƣớc khi có ý tƣởng” [70, 12]. Quan điểm triết học của Immanuel
Kant cũng đƣợc coi là một trong những ảnh hƣởng quan trọng đến quan điểm
mĩ học của các tác giả lãng mạn. Họ khẳng định tầm quan trọng của cảm giác
và trí tƣởng tƣợng đối với sáng tạo thi ca và đồng thời, hạn chế rồi dẫn đến từ
bỏ hẳn những chủ đề, hình thức, quy tắc của thơ dân gian và thể loại romance
trung cổ; họ quan tâm nhiều đến chủ đề thiên nhiên, đến cảm xúc con ngƣời,
đến những quá khứ và tƣơng lai,…
Nếu nhƣ chủ nghĩa cổ điển trong việc xây dựng tính cách rất chú ý đến
cái chung, cái ý nghĩa khái quát mà coi nhẹ cái riêng, cá tính thì ngƣợc lại,
chủ nghĩa lãng mạn coi trọng vẻ riêng, cái đặc biệt độc đáo, thậm chí nhấn
mạnh đến mức cực đoan, phi thƣờng, ngoại lệ. Nhƣ Victo Huygo đã nói: “Cái
bình thƣờng là cái chết của nghệ thuật”. Do nguyên tắc chủ quan, cho nên
những tính cách trong chủ nghĩa lãng mạn tích cực, trên ý nghĩa nào đó,
chẳng qua là “phân thân” của tác giả. Nó không có logic nội tại khách quan,
mà phát triển chuyển biến theo ảo tƣởng chủ quan của nhà văn, thể hiện đúng
nguyên tắc tổng quát của chủ nghĩa lãng mạn - theo cách nói của Bielinsky,
52
đó là lấy “tâm hồn và trái tim làm cơ sở để nói lên những nguyện vọng không
rõ rệt muốn tiến tới một cái gì tốt đẹp hơn, cao cả hơn, tìm cách tự thỏa mãn
bằng những lý tƣởng chỉ có trong trí tƣởng tƣợng”. Nhƣng xét về bản chất,
những ảo mộng, lý tƣởng, tƣởng tƣợng của nó bắt nguồn từ hiện thực. Và nét
chủ đạo của chủ nghĩa lãng mạn chính là đem đối lập lý tƣởng với hiện thực
đời sống. Nói nhƣ cách của Novalixo, nhà lãng mạn tiêu biểu của văn học
Đức thế kỷ XIX thì: “Tôi chẳng thú tí nào nếu thơ gắn liền với thế giới hiện
thực. Muốn trốn thoát những điều kiện ngột ngạt của hiện thực thì phải tìm
chốn trú ẩn nơi vƣơng quốc của tƣởng tƣợng” [78, 81].
Nhiều học giả phƣơng Tây còn cho rằng, chính trào lƣu lãng mạn là
nguồn cơn, cội rễ của những tác phẩm tƣợng trƣng và siêu thực sau này: “Kể
từ đó thế giới không bao giờ giống nhƣ trƣớc nữa, các nhà lãng mạn đã làm
thay đổi hẳn các nhà chính trị và đạo đức. Không phải quá lời, chắc chắn đây
là sự thay đổi cấp tiến nhất và thực sự kịch tính trong nhân sinh quan ở những
thời kì hiện đại” (Isaiah Berlin, trong The Roots of Romanticism) [70, 10].
Có thể nói, sự xuất hiện ý thức về “cái Tôi” là một bƣớc tiến quan trọng
trong hành trình tƣ tƣởng và nghệ thuật của nhân loại. Sự giải phóng bản ngã,
giải phóng cái tôi của chủ thể sáng tạo sẽ phát huy khả năng sáng tạo của
nghệ sĩ, làm xuất hiện nhiều phong cách cá nhân. Cái tôi trong các sáng tác
thỏa sức bày tỏ niềm vui, nỗi buồn, ƣớc vọng, khát khao, tình yêu thƣơng,
hờn giận, thậm chí là sự thất vọng, chán chƣờng. Phải thấy rằng, những cung
bậc cảm xúc đó, cùng với các yếu tố phi lý, ảo tƣởng trong tính cách của chủ
nghĩa lãng mạn là đại diện cho tâm trạng của một lớp ngƣời trong xã hội.
Từ điển thuật ngữ văn học (2014) xác định: “Ở Việt Nam, chủ nghĩa
lãng mạn nhƣ một trào lƣu văn học xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ
XX. Tiêu biểu cho trào lƣu văn học này là sáng tác văn xuôi của nhóm Tự lực
văn đoàn và sáng tác thơ ca của phong trào Thơ mới” [39, 88]. Thực tế là Thơ
53
mới ra đời trong không khí bi quan, dao động của thời kỳ thoái trào cách cách
mạng và khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933. Thơ mới lãng mạn (1932 -
1945) là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình vận động và phát triển của
dòng chảy thể loại thơ Việt Nam. Với sự “phủ nhận” hầu nhƣ hoàn toàn
những công thức mang tính chất “ƣớc lệ” của thơ cổ điển, cùng với những
sáng tạo trên nhiều phƣơng diện, Thơ mới thực sự đã hình thành, phát triển
đến đỉnh cao chỉ trong vòng gần mƣời lăm năm tồn tại. Trong đó, xuất hiện
nhiều tên tuổi thi nhân lừng danh với phong cách sáng tạo độc đáo, hoàn
thành xuất sắc “trọng trách” thay đổi cơ bản diện mạo của thể loại thơ Việt
Nam. Để “định danh” tên tuổi của mình trên thi đàn Thơ mới, mỗi nhà thơ
đều có một con đƣờng riêng, cách thức riêng để xác lập và khẳng định cái tôi
của mình. Trong Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định:
“Tôi quả quyết rằng trong lịch sử thơ ca Việt Nam chƣa bao giờ có một thời
đại phong phú nhƣ thời đại này. Chƣa bao giờ ngƣời ta thấy xuất hiện cùng
một lần một hồn thơ rộng mở nhƣ Thế Lữ, mơ màng nhƣ Lƣu Trọng Lƣ, hùng
tráng nhƣ Huy Thông, trong sáng nhƣ Nguyễn Nhƣợc Pháp, ảo não nhƣ Huy
Cận, quê mùa nhƣ Nguyễn Bính, kỳ dị nhƣ Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo
rực, băn khoăn nhƣ Xuân Diệu” [102, 32].
Thơ mới chính là tiếng nói của bộ phận tƣ sản dân tộc và tiểu tƣ sản
thành thị. Mặc dù có bộc lộ xu hƣớng thoát ly phong trào đấu tranh chính trị
của quần chúng nhƣng phần lớn trong số họ vẫn còn ấp ủ một tâm sự yêu
nƣớc thầm kín. Sống trong một xã hội bế tắc, quằn quại đau thƣơng dƣới ách
đàn áp của thực dân phong kiến, thái độ “nƣớc đôi” của tầng lớp này là điều
dễ hiểu. Con đƣờng văn chƣơng lúc bấy giờ đối với một số tiểu tƣ sản trí thức
đƣợc coi là một lối thoát ly trong sạch, là một nơi có thể gửi gắm nỗi niềm
tâm sự. Trƣờng Chinh đã đƣa ra nhận định: “Các tầng lớp tƣ sản dân tộc và
tiểu tƣ sản trí thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở
54
dài chống thuộc địa” (Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam) [21, 20]. Về cơ
bản, có thể đánh giá rằng, Thơ mới thể hiện tính chất “thoát ly” về mặt tƣ
tƣởng trên một vài phƣơng diện. Các nhà Thơ mới do không tìm thấy thực tại
nhƣ mình mong muốn nên quay ra chán nản, thất vọng. Nhƣng cũng đâu phải
dễ dàng buông bỏ nhƣ thế, khi thực tế cuộc sống với buồn, vui, đau khổ, lầm
than vẫn bám riết lấy nhà thơ nhƣ một ám ảnh không thể nguôi ngoai. Sự lãng
mạn của hồn thơ khó có thể cất cánh bay lên đƣợc trong sự tù túng nhƣ thế.
Trƣớc cơn biến động của lịch sử và sự đổi thay của xã hội, họ nhƣ kẻ đứng
giữa ngã ba đƣờng, không biết nên đi về hƣớng nào, nên hóa ra cô đơn, bơ vơ,
dao động. Không quá khó để nhận thấy nhận định trên trong sáng tác của các
thi nhân Thơ mới. Xuân Diệu say mê những mối tình đầy khát khao, rạo rực,
nồng nàn, tha thiết; Huy Cận quay trở lại với cảnh xƣa bằng tâm trạng ảo
não, lạc loài, bơ vơ; Hàn Mặc Tử sáng tạo những vần thơ điên loạn, kỳ dị;
Chế Lan Viên tự gây dựng cho mình một thế giới lạ lùng, kinh dị; Lƣu Trọng
Lƣ ru mình trong những cảnh mộng xa xăm, mơ hồ; Nguyễn Bính thì ôm giấc
mộng quê hƣơng với hoa cau, vƣờn giầu, mối tình quê trong trẻo; Vũ Hoàng
Chƣơng thì say trong thơ, và cái say bi đát,… Sự cô đơn - phẩm tính thƣờng
có ở những ngƣời nghệ sĩ đã đƣợc trải nghiệm, phơi bày qua nhiều cung bậc
cảm xúc, tạo nên những nét rất riêng, độc đáo của mỗi thi nhân trong phong
trào thơ ca này.
Thơ mới là một trào lƣu văn học không thuần nhất, vì trên thực tế, nó
vừa kế thừa truyền thống thơ ca phƣơng Đông (chủ yếu là Trung Quốc) vừa
chịu ảnh hƣởng khá đậm các trào lƣu thơ ca phƣơng Tây hiện đại (chủ yếu là
thơ Pháp). Mở đầu phong trào Thơ mới chủ yếu là khuynh hƣớng lãng mạn,
từ năm 1936 có thêm khuynh hƣớng tƣợng trƣng và từ sau 1940 đã chớm vào
siêu thực. Mỗi trào lƣu đều có tuyên ngôn nghệ thuật, quan điểm thẩm mĩ
riêng và từ đó tác phẩm của các tác giả tiêu biểu mỗi trào lƣu này cũng có đặc
55
trƣng thi pháp riêng.
2.3.2. Chủ nghĩa tượng trưng
Chủ nghĩa tƣợng trƣng là một trào lƣu nghệ thuật ở phƣơng Tây cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đi đầu là các nhà thơ và nhà lý luận Pháp giữa
thế kỷ XIX với các đại diện tiêu biểu nhƣ: Charles Baudelaire, Paul
Verlaine,… Nhà thơ ngƣời Pháp Jean Moréas chính là ngƣời đề xuất tên gọi
“Chủ nghĩa tƣợng trƣng” và trình bày bản Tuyên ngôn của chủ nghĩa tượng
trưng vào năm 1886.
Chủ nghĩa tƣợng trƣng ra đời trên cơ sở tiếp thu những tinh túy, thành
tựu của chủ nghĩa lãng mạn, đồng thời cũng là sự phủ nhận lối mô tả tự nhiên,
quá rõ ràng của thơ lãng mạn. Không thể phủ nhận rằng, thơ lãng mạn có
nhiều ƣu thế trong việc thể hiện cái tôi nội cảm, với thế giới nội tâm đầy sống
động, cá tính. Tuy nhiên, các nhà thơ tƣợng trƣng không muốn dừng lại ở đó,
họ muốn thơ phải tinh túy hơn, có sức gợi cảm hơn, ma mị hơn, khơi gợi sự tò
mò khám phá hơn. Mục đích của chủ nghĩa tƣợng trƣng chính là mô tả những
cái không thể mô tả đƣợc một cách vật chất thuần túy hoặc ý thức hời hợi, đó
là tâm trạng, xúc cảm, tƣ tƣởng tƣ duy, tình cảm,… Chủ nghĩa tƣợng trƣng
thâm nhập vào bản chất của sự vật, hiện tƣợng. Và chính các nhà thơ tƣợng
trƣng Pháp cũng đã tin rằng, nghệ thuật có thể nắm bắt đƣợc chân lý tuyệt đối
nhờ vào sự kết hợp tổng lực của các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác,
khứu giác và vị giác). Thơ tƣợng trƣng vì thế, là “tiếng nói của thế giới, là
khát vọng tìm kiếm cái bí ẩn đằng sau, bao gồm bản chất của thế giới, các
hiện tƣợng tâm linh con ngƣời, thế giới cảm giác và vô thức” [96, 68]. Đây
cũng là đặc điểm khác biệt nhất giữa thơ lãng mạn và thơ tƣợng trƣng.
Chủ nghĩa tƣợng trƣng, với ƣu thế trong nhận thức một cách có chiều
sâu của con ngƣời, đã cho thấy đƣợc mối giao hòa khăng khít, gắn bó giữa
con ngƣời với thế giới (giống nhƣ tƣ tƣởng “vạn vật nhất thể” trong văn hóa
56
phƣơng Đông). Cũng chính từ ƣu thế này và mong muốn mô tả, thể hiện một
cách đúng bản chất, rõ nét sự thần bí của mối tƣơng giao giữa con ngƣời và
vũ trụ, các nhà thơ tƣợng trƣng đã tìm đến một phƣơng thức biểu hiện thích
hợp hơn cả. Đó chính là sử dụng các biểu tƣợng trong thơ - cầu nối giữa thế
giới vật thể với thế giới tâm hồn loài ngƣời. Nhiệm vụ chính của biểu tƣợng
chính là khám phá bí ẩn tiềm tàng bên trong sự vật. Biểu tƣợng, vốn dĩ không
phải là tên gọi trực tiếp, đích danh của sự vật, sự việc mà là tín hiệu, triệu
chứng, thi vị hóa, huyền ảo hóa của bản chất sự vật.
Trong những đặc điểm nghệ thuật của thơ tƣợng trƣng (tính nhạc,
ngôn từ, trực giác…), có thể khẳng định, tính biểu tƣợng là một nét độc đáo,
đƣợc phát triển lên một tầm cao mới trong nhận thức. Biểu tƣợng thực sự trở
thành phƣơng tiện quan trọng bậc nhất của thơ tƣợng trƣng, mặc dù, sử dụng
biểu tƣợng không phải là độc quyền của các nhà thơ tƣợng trƣng. Với quan
niệm thế giới hữu hình chỉ là cái bóng, cái ý niệm mà chúng ta không thể thấy
đƣợc, các nhà thơ tƣợng trƣng đã sáng tạo ra một “rừng biểu tƣợng” trong
thơ, giúp ngƣời đọc có cảm nhận đƣợc thế giới huyền bí. Và cũng chính việc
sử dụng một cách rộng rãi, thƣờng xuyên các biểu tƣợng trong thơ “đã tạo cho
thơ tƣợng trƣng những khả năng biểu hiện mới, những vẻ đẹp quyến rũ mà
thơ ca trƣớc đó không thể có đƣợc” [104, 22].
Thơ mới Việt Nam chịu ảnh hƣởng của thơ ca phƣơng Tây, trong đó nổi
bật nhất là thơ tƣợng trƣng là một điều có thể khẳng định chắc chắn. Với tƣ
cách là tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản, các nhà thơ của phong trào Thơ mới có
nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp cận, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc những yếu
tố “tƣợng trƣng” và đƣa vào trong các sáng tác của mình. Trong Thi nhân Việt
Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân cũng đã khẳng định rằng các nhà thơ mới không
nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác nhau, đều bị ám ảnh bởi Baudelaire,
ngƣời đã khơi nguồn thơ ấy. Và chịu ảnh hƣởng nhiều nhất chính là Xuân
57
Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chƣơng.
Bên cạnh đó, một số nhà Thơ mới cũng chịu ảnh hƣởng những sắc thái
tƣợng trƣng từ thơ phƣơng Đông nói chung và thơ Đƣờng nói riêng, trên cơ
sở tính biểu trƣng có thể đƣợc coi là một trong những nguyên lý truyền thống,
cơ bản. Những thi sĩ phƣơng Đông thƣờng dồn nén, cô đọng trong những hình
ảnh tƣợng trƣng đối với những điều không thể nói lên bằng lời, hoặc trong
khuôn khổ một vài câu văn, câu thơ không thể truyền tải hết. Thi sĩ dùng ít
thanh âm (ít tiếng, ít chữ) để truyền tình ý, cảm xúc của mình trong thơ. Điều
đó đã làm cho bài thơ hàm súc, giàu sức gợi, cảnh sinh tình, tình hòa vào cảnh
làm một. Nhƣng chủ yếu, sự ảnh hƣởng của thơ Đƣờng đến các nhà Thơ mới
chính là cảm xúc trữ tình đối với thiên nhiên, con ngƣời. Lý Bạch, Vƣơng
Xƣơng Linh, Mạnh Hạo Nhiên, Thôi Hiệu… đều là những nhà thơ lãng mạn,
với nhiều áng thơ đậm đà tình yêu thiên nhiên, quê hƣơng, đất nƣớc. Nguyễn
Bính, Anh Thơ, Nguyễn Nhƣợc Pháp, Đoàn Văn Cừ là những gƣơng mặt nổi
bật trong xu hƣớng ảnh hƣởng này. Đôi khi, sự ảnh hƣởng thơ Đƣờng và thơ
Pháp đƣợc hòa quyện vào với nhau.
Tuy nhiên cũng cần phải nói đến sự giao thoa, chịu ảnh hƣởng ở mức
độ và góc độ nào. Tác giả Vũ Bội Liêu, khi nói đến sự gặp gỡ giữa Đông
phƣơng và Tây phƣơng trong văn chƣơng, cũng đã khẳng định rằng: “Ngôn
ngữ mình cũng phong phú, văn chƣơng mình cũng tuyệt diệu chẳng kém gì
ngôn ngữ, văn chƣơng nƣớc khác”. Tác giả cũng khuyến cáo chúng ta rằng,
khi chúng ta ca tụng V. Huygo, hay Chateaubriand, thì cũng không nên quên
rằng, ở Việt Nam, chúng ta cũng có những viên ngọc quý giá, những vần thơ
trác tuyệt của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng, Thế Lữ. Còn nói nhƣ Roland
Dorgeles, thì “Ngƣời Nam là một dân tộc học thức, tài hoa có một, phàm
những khóe tài tình của trí tuệ, không gì là không có” [62, 18].
Trong tính thống nhất của văn hóa thế giới, mỗi nền văn hóa nói chung,
58
nền văn học nói riêng của một dân tộc rất cần tìm kiếm và kết nối, để học hỏi
sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa khác. Sự gặp gỡ, hội tụ và giao thoa
lẫn nhau giữa hai nền văn hóa phƣơng Đông và phƣơng Tây, vì thế không
phải là điều gì lạ lẫm, thậm chí, đó là sự cần thiết cho sự phát triển.
2.3.3. Chủ nghĩa siêu thực
Chủ nghĩa siêu thực là khuynh hƣớng nghệ thuật đƣợc hình thành vào
những năm hai mƣơi thế kỷ XX tại Pháp. Những đại diện tiêu biểu của
khuynh hƣớng này là André Brecton, Louis Aragon, Paul Eluard,… và nổi bật
hơn cả là Pierre Reverdy - nhà thơ lớn nhất của thời đại. Nền tảng lý thuyết
ảnh hƣởng quan trọng nhất của chủ nghĩa siêu thực chính là Thuyết phân tâm
(Psychanalyse) của Sigmund Freud. Ông cho rằng cấu trúc tâm thần của con
ngƣời bao gồm ba tầng: Cái đó (nguồn lực nguyên thủy của cuộc sống), Cái
tôi (cá tính tâm lý của con ngƣời) và Cái siêu tôi (phần ý thức và cái tôi lý
tƣởng). Ba tầng này vừa có quan hệ gắn bó, tƣơng tác, vừa có sự xung đột,
đấu tranh, kiểm soát lẫn nhau. Mối quan hệ này tạo nên những ẩn ức trong
tâm thần của mỗi con ngƣời, và đƣợc thể hiện rõ nhất, cụ thể nhất là qua các
giấc mơ.
Sigmund Freud đã ứng dụng lý thuyết phân tâm học để tìm hiểu nguyên
nhân và hành trình sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật. Sau khi tập trung
rất nhiều vào việc nghiên cứu giấc mơ với tƣ cách là sợi dây kết nối giữa ý
thức và vô thức, ông đã chỉ ra rằng, sáng tạo nghệ thuật có thể hiểu nhƣ
“những giấc mơ tỉnh” có nguyên nhân sâu xa từ đời sống tinh thần phức tạp,
đa dạng của con ngƣời. Đồng thời, ông cũng đã đồng nhất những tƣợng trƣng
trong nghệ thuật với những tƣợng trƣng trong giấc mơ. “Một biểu tƣợng có
thể mang tính ý thức ở một thời điểm nào đó, nhƣng ngay sau đó không mang
tính ý thức nữa, rồi sau đó lại trở lại ý thức trong một điều kiện nhất định,
những điều kiện dễ thực hiện. Giữa chúng (giữa những khoảnh khắc xuất hiện
59
và biến mất), chúng ta không biết biểu tƣợng đó là gì, ta có thể nói rằng biểu
tƣợng đó ẩn tàng, đƣợc hiểu là nó hoàn toàn có thể trở lại ý thức vào bất kì
thời điểm nào” [31, 33].
Về quan niệm thẩm mĩ, trƣớc hết có thể thấy các nhà thơ siêu thực
quan niệm về một “hiện thực tuyệt đối” và “hiện thực toàn nguyên”, trong đó
vô thức và ý thức đƣợc soi chiếu trong mối quan hệ biện chứng, khăng khít
với nhau; bên cạnh đó, con đƣờng sáng tạo của chủ nghĩa siêu hình, nhƣ cách
mà André Breton đã đƣa ra, đó là “lối viết tự động” - là cách để cái vô thức tự
nói lên bằng ngôn ngữ riêng của chính nó - nói cách khác, đó là sản phẩm của
giấc mơ và trạng thái mơ màng. Chính xuất phát từ cách nhìn hiện thực không
nhƣ nó vốn có, phi logic, các nhà thơ siêu hình đã tìm đến những phƣơng
pháp tạo hình mới, trong đó nổi bật là cách cắt ghép, lắp dán những hình ảnh
tƣởng chừng xa lạ, không liên quan đến nhau để tạo ra những hiệu ứng bất
ngờ về cảm xúc và nhận thức. Chính đại diện tiêu biểu của trƣờng phái thơ
siêu thực Pierre Reverdy đã cho rằng: “Tiếp xúc với hiện thực, thơ tan biến đi
nhƣ một bóng ma gặp ánh sáng ban ngày” hay “Hiện thực có mặt ở đâu là giết
chết thơ ở đấy, nó vắng mặt ở đâu là sinh ra nguồn thơ ở đấy. Thơ là cái lấp
chỗ trống cho sự thiếu mặt của hiện thực đƣợc mong muốn” [22, 195].
Nhóm Xuân Thu nhã tập xuất hiện vào giai đoạn cuối của phong trào
Thơ mới, chính là lúc khuynh hƣớng lãng mạn đang rơi vào bế tắc, các nhà
thơ trăn trở đi tìm hƣớng đi mới cho thơ. Các nhà thơ trong nhóm Xuân Thu
nhã tập đã tìm thấy trong thơ cổ điển phƣơng Đông có những yếu tố trực giác
và cách biểu đạt hàm xúc, đa nghĩa, đầy sự gợi và liên tƣởng nhƣ thơ tƣợng
trƣng của Pháp. Trong quan niệm “ý tại ngôn ngoại”, nghĩa là thi sĩ dùng ít
thanh âm (ít tiếng, ít chữ) để truyền đạt những cảm giác, tình ý của mình sang
chủ thể tiếp nhận, thì “Đƣờng thi hằng cho ta nếm đầy đủ một thứ hƣơng vị
vừa sáng sủa, vừa thanh khiết, vừa ngát lừng. Cái chứa đựng bên trong vẫn
60
trào ra cả khuôn chữ” [119, 55]. Họ đề cao thần hứng, sự thiêng liêng và kì
diệu của sáng tạo thơ ca; đồng thời, họ cũng đề cập đến sự tƣơng giao, hòa
hợp giữa âm thanh, màu sắc, mùi vị và đặc biệt là nhấn mạnh mối quan hệ
giữa thơ, nhạc, họa. Đây chính là những nét cơ bản của khuynh hƣớng siêu
thực đã nhắc đến ở trên. Vào thời gian sau đó, các nhà thơ Trần Dần, Đinh
Hùng, Vũ Hoàng Địch đã lập nên nhóm Dạ đài. Nội dung quan điểm nghệ
thuật của nhóm này gần tƣơng đồng với các nội dung, tuyên ngôn của chủ
nghĩa siêu thực.
Có thể nói, từ chủ nghĩa lãng mạn đến chủ nghĩa tƣợng trƣng và chủ
nghĩa siêu thực đều là những yếu tố có tầm ảnh hƣởng rất lớn, nếu không
muốn nói là có tính chất quyết định đến quan niệm thẩm mĩ, tƣ duy sáng tạo
nghệ thuật của số đông các nhà thơ trong phong trào Thơ mới giai đoạn 1932
- 1945 (đặc biệt là chủ nghĩa tƣợng trƣng).
Quả thật là một điều khó khăn nhƣng rất hấp dẫn khi tiến hành khảo
sát, phân tích, đối chiếu và so sánh thế giới biểu tƣợng đa dạng, phong phú
trong thơ ca lãng mạn (Thơ mới) và thơ ca cách mạng trong giai đoạn từ 1930
đến năm 1945 từ góc nhìn tiếp biến văn hóa Đông - Tây. Từ khảo sát một số
tác phẩm tiêu biểu, có tính “đại diện”, chúng tôi thấy ở các tác giả (nhất là các
nhà thơ có cá tính độc đáo nhƣ Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Xuân
Diệu, Bích Khê,… và những nhà thơ - chiến sĩ nhƣ Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Trần Huy Liệu, Sóng Hồng, Đặng Xuân Thiều, Phan Trọng Bình…) đều có
sự gặp gỡ mỹ học tƣợng trƣng, nhìn thế giới nhƣ một rừng biểu tƣợng trong
thể thống nhất, tƣơng hợp nhƣng cũng có nhiều sự khác biệt. Tác giả Trần
Khánh Thành trong công trình Khuynh hướng tượng trưng và siêu thực trong
thơ Việt Nam hiện đại (2016) cũng đƣa ra quan điểm về sự gặp gỡ này “không
đơn thuần là sự ảnh hƣởng từ các nhà thơ tƣợng trƣng Pháp thế kỷ XIX mà
còn có sự tiếp thu từ Đƣờng thi và di sản thơ ca dân tộc trên hành trình hiện
61
đại hóa thơ” [104, 80].
2.4. Từ thơ ca yêu nƣớc đến thơ ca Cách mạng
2.4.1. Tiếp nối truyền thống thơ ca dân tộc
Tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nƣớc là một truyền thống lớn của văn
học dân tộc ta. Từ bao nhiêu thế kỉ, lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của
những cuộc chống ngoại xâm vô cùng gian khổ nhƣng cũng vô cùng oanh liệt.
Một dân tộc, nhƣ chúng ta thƣờng nói, ngƣời không đông lắm, đất không rộng
lắm, qua trƣờng kỳ đấu tranh đã tự khẳng định đƣợc bản lĩnh của một dân tộc
có sức sống mãnh liệt.
Không phải ngẫu nhiên mà trong kho tàng văn học Việt Nam, từ nhiều
đời nay đã rực sáng hình tƣợng anh hùng làng Dóng, tiêu biểu cho tinh thần
yêu nƣớc và ý chí chống ngoại xâm của dân tộc. Và qua bao nhiêu thời đại,
bốn câu thơ bất tử trong Nam quốc sơn hà của Lý Thƣờng Kiệt còn vang
vọng vào tâm hồn của mỗi ngƣời dân Việt Nam niềm tự hào chân chính về
chỗ đứng của mình dƣới ánh mặt trời: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư”. Chúng ta cũng không thể quên tấm lòng trung quân, ái
quốc, thƣơng dân hết mực của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi trong hoàn cảnh
nƣớc mất, nhà tan: “Còn một tấc lòng ôm việc nước/ Đêm đêm thức nhẵn nẻo
sơ chung”.
Văn học yêu nƣớc qua các thời đại đã để lại cho chúng ta những hòn
ngọc vô giá. Nhƣng ở mỗi thời kỳ, do những điều kiện lịch sử xã hội khác
nhau, thơ văn yêu nƣớc cũng có những nội dung khác nhau. Ở những năm
cuối thế kỷ trƣớc (thế kỷ XIX), âm hƣởng chính là lòng căm thù mãnh liệt đối
với bọn cƣớp nƣớc và bán nƣớc, lời kêu gọi toàn dân hƣởng ứng các cuộc
khởi nghĩa do các sĩ phu yêu nƣớc lãnh đạo. Bƣớc sang thế kỷ XX, cách mạng
Việt Nam chuyển sang một phƣơng hƣớng mới. Sự thất bại của phong trào
62
Cần Vƣơng, tiếng vang của phong trào Duy Tân ở Nhật,… bấy nhiêu sự kiện
đã khiến cho nhiều sĩ phu yêu nƣớc suy nghĩ và tìm lối thoát cho cách mạng
Việt Nam. Văn thơ yêu nƣớc đã đề ra một hƣớng đi mới với bầu nhiệt huyết
không kém phần thiết tha, mãnh liệt. Nhiều bài thơ cách mạng giai đoạn 1930
- 1945 lấy nguồn cảm hứng từ nội dung, tƣ tƣởng, tình cảm đến hình thức
nghệ thuật của thơ ca dân tộc. Có thể kể đến là những lời thơ cổ động tha thiết
của Phan Bội Châu: “Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần/ Chẳng thèm
chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn/ Đúc gan sắt để dời non lấp bể/ Xối
máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” (Bài ca chúc Tết thanh niên) hoặc những lời thơ
thể hiện khí phách của ngƣời anh hùng trong thơ của Phan Chu Trinh: “Làm
trai đứng giữa đất Côn Lôn/ Lừng lẫy làm cho lở núi non/ Xách búa đánh tan
năm bảy đống/ Ra tay đập bể mấy trăm hòn” (Đập đá ở Côn Lôn). Cái hào
khí ấy thực tế đã đƣợc lan truyền, tỏa sáng một cách rực rỡ trong thơ ca Cách
mạng giai đoạn sau này.
Năm 1960, khi nói về dòng văn học mới xuất hiện dƣới ánh sáng của
Đảng, dƣới góc nhìn của một chính trị gia, Tố Hữu đã từng nhận định:
“Đƣơng nhiên, văn học cách mạng trong buổi đầu còn những dáng nét thô sơ;
nhƣng đó là cái thô sơ của một dòng văn học rất mới, đầy sức sống trẻ tƣơi,
nó tiếp tục và phát triển dòng văn học dân gian” [129, 38]. Nhƣng quả thật,
sau thời điểm khai sinh đó không lâu, văn học cách mạng nói chung và thơ ca
cách mạng nói riêng đã trở nên già dặn hơn, mạnh mẽ hơn, nhiều màu sắc và
dáng vẻ hơn với đà phát triển liên tục từ Xô Viết - Nghệ Tĩnh đến Mặt trận
dân chủ và sau này là Mặt trận Việt Minh 1941. Đội ngũ sáng tác đông đảo,
thuộc đủ các tầng lớp công nông, tiểu tƣ sản, trí thức. Sức sống của thơ ca
cách mạng chính là sức sống khởi nguồn từ tính nhân dân, tính chiến đấu, từ
phẩm chất chính trị và giá trị tƣ tƣởng của nó. Thơ ca cách mạng đƣợc nhân
dân nhiệt tình đón nhận và dày công nuôi dƣỡng, và vì thế có khả năng sống
63
lâu bền với nhân dân.
2.4.2. Thơ ca Cách mạng ra đời trong thực tiễn đấu tranh cách mạng
Có thể khẳng định, thơ ca Cách mạng là một bộ phận quan trọng của
dòng văn học cách mạng trong thời kỳ 1925 - 1945. Lần đầu tiên trong lịch sử
văn học dân tộc ta, xuất hiện một trào lƣu nghệ thuật mạnh mẽ của giai cấp bị
áp bức, bóc lột, mang theo những đặc điểm khác so với thời trƣớc. Thơ ca
Cách mạng đƣợc sáng tác trên cơ sở thế giới quan vô sản. Những ngƣời làm
thơ đứng trên quan điểm triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nhìn nhận lịch sử và xã hội, để phân tích thế giới khách quan và xác định
phƣơng hƣớng tiến tới. Họ thể hiện đƣờng lối chính trị của giai cấp vô sản,
của Đảng tiền phong vào văn học nghệ thuật để giáo dục và động viên quần
chúng trên mặt trận đấu tranh cách mạng. Trên cơ sở thế giới quan vô sản, thơ
ca Cách mạng đã xác định ngay từ đầu chức năng của nó là giáo dục quần
chúng, thơ ca đã cùng quần chúng xông pha trong mọi cuộc đấu tranh, lúc ôn
hòa, lúc quyết liệt đổ máu. Thơ ca đi vào chốn lao tù để động viên tinh thần
của chiến sĩ bị địch bắt và tra tấn. Thơ ca kêu gọi tập hợp quần chúng đấu
tranh với tinh thần “ở đâu có đấu tranh là ở đó có thơ ca”. Đối tƣợng phục vụ
của thơ ca Cách mạng là quần chúng nhân dân, những ngƣời bị áp bức bóc lột
nhất trong xã hội, là lực lƣợng đang đảm nhiệm sứ mệnh làm nên lịch sử. Xác
định đối tƣợng phục vụ tức là xác định tính giai cấp của văn học. Thơ ca Cách
mạng những năm 1930 - 1945 biểu hiện sự tự ý thức một cách sâu sắc về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Nó là tiếng nói của một giai cấp tự giác, một
giai cấp đã có một đội quân tiên phong có lý luận khoa học sáng suốt, có
đƣờng lối, phƣơng hƣớng rõ ràng. Tính giai cấp của thơ ca Cách mạng đƣợc
nâng lên một trình độ tập trung cao, đƣợc nâng lên thành tính Đảng, tính
Nhân dân. Nhƣ tinh thần trong thƣ của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng gửi
Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 4: “Nhân dân ta đang đòi hỏi những tác
phẩm văn nghệ có giá trị phản ánh chân thật cuộc sống và chiến đấu của
64
mình, đồng thời đề ra và giải quyết đúng đắn những vấn đề nóng hổi về tình
cảm và tinh thần của quần chúng, nêu cao lý tƣởng của Đảng và soi sáng
những phƣơng hƣớng đấu tranh của giai cấp công nhân và của dân tộc ta”
[118, 47]. Nói nhƣ nhà phê bình văn học Belinsky, thì tính nhân dân chính là
“anpha và ômêga của mỹ học”, là tiêu chuẩn cao nhất hiện nay, là hòn đá thử
vàng, xác định phẩm chất của một tác phẩm thi ca, xác định sự bền vững của
mọi vinh quang nghệ thuật. Rõ ràng, nhân tố cơ bản quyết định tính nhân dân
của tác phẩm văn học không nhất thiết phải là đề tài về đời sống nhân dân, mà
chủ yếu là ở chủ đề tƣ tƣởng tiến bộ, đề cập đến những vấn đề xã hội có ý
nghĩa đối với nhân dân, đƣợc nêu lên và giải quyết phù hợp với nguyện vọng,
lợi ích của nhân dân, xuất phát từ một nhân sinh quan lành mạnh, từ một lý
tƣởng, đạo lý tiên tiến của thời đại.
Những ƣớc mơ lãng mạn bắt rễ từ hiện thực cuộc sống. Thơ ca Cách
mạng nổi bật nhất ở chỗ đó: sức mạnh vƣơn tới lý tƣởng tiên tiến của thời đại.
Viễn cảnh tƣơi đẹp của xã hội ngày mai, xã hội cộng sản chủ nghĩa thấm đẫm
trong thơ, lặp đi lặp lại nhƣ một điệp khúc của bản hùng ca. Đâu đâu cũng
thấy trong thơ bóng cờ hồng tung bay và hình ảnh xã hội đại đồng trong đó
ngƣời dân làm chủ và mọi ngƣời đƣợc tự do, hạnh phúc.
Các tác giả tiêu biểu thời kỳ này là Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Thủy,
Phan Trọng Bình, Trần Huy Liệu, Sóng Hồng, Lê Đức Thọ, Đặng Xuân
Thiều, Đinh Chƣơng Dƣơng, Nguyễn Ngọc Tỉnh,… Bên cạnh đó là những tác
giả khuyết danh - đó chính là quần chúng nhân dân lao động, là những chiến
sĩ trong chốn lao tù, là tầng lớp trí thức “ẩn danh” - những nhân tố quan trọng
góp phần vào lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc.
Trong đó, phải kể đến sự xuất hiện tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí
Minh - ngƣời chiến sĩ cách mạng, ngƣời khai sinh ra tổ chức Đảng cộng sản,
ngƣời chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam ngay từ những ngày đầu gian
khó. Nhật ký trong tù chính là tiếng thơ vút lên từ chốn lao tù, là tiếng nói
65
chứa chan tinh thần nhân đạo cao cả, là tiếng nói bóc trần, lên án và kết tội
những bóng tối dày đặc đang đè nặng lên những kiếp ngƣời. Và bên cạnh đó
là sự ra đời tập thơ Từ ấy của Tố Hữu - tập thơ đầu tay - tiếng lòng của ngƣời
chiến sĩ cộng sản say mê lý tƣởng cách mạng và là lời khẳng định tinh thần
quyết chiến đấu, hy sinh cho lý tƣởng cao đẹp ấy.
2.5. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
2.5.1. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca lãng mạn
Quan niệm nghệ thuật của các nhà Thơ mới có thể thấy rõ nhất qua câu
thơ sau đây của Xuân Diệu:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
(Cảm xúc)
Cùng với đó, những câu thơ sau của Thế Lữ trong Cây đàn muôn điệu,
có thể coi là “tuyên ngôn của thơ ca lãng mạn”:
Anh dù bảo: tính tình tôi hay đổi
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa: nhưng cần chi?
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể
Phần nhiều các nhà thơ lãng mạn, với góc độ tiếp cận riêng của mình
đối với tình hình chính trị, xã hội hiện tại đã thể hiện sự “xa rời” với cuộc đấu
tranh ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt của quần chúng nhân dân và giai cấp vô
sản do Đảng cộng sản lãnh đạo. Trong thơ, họ đi tìm những thú vui với trăng,
với gió, với mây nƣớc, với cỏ, cây, hoa lá; họ chìm đắm, say sƣa trong những
giấc mộng tình yêu, ảo vọng, đau khổ, điên cuồng với nhớ thƣơng, sầu não;
họ quan tâm đến những giai nhân, khách tình si, nàng thơ, đến những phƣơng
66
trời xa lánh bụi trần.
Trong nghệ thuật lãng mạn nói chung và Thơ mới nói riêng, thời gian
chủ yếu đƣợc nhìn nhận trong mối quan hệ đe doạ, thù địch với con ngƣời.
Thời gian là một sức mạnh tàn phá khủng khiếp, nó cuốn phăng tất cả vào tàn
phai, quên lãng. Nó tạo cho con ngƣời cảm giác bé nhỏ, đơn độc, bất lực trƣớc
dòng thời gian. Chính vì thế mà các nhà Thơ mới nhƣ Xuân Diệu, Hàn Mặc
Tử, Bích Khê, Huy Cận,… mới cuống quýt, vồn vã trƣớc thời gian. Họ sợ thời
gian đi qua mình mà chƣa kịp để lại dấu vết. Tâm trạng hoài cổ là một tâm
trạng điển hình của nghệ thuật lãng mạn và Thơ mới. Các thi sĩ có xu hƣớng
tìm về quá khứ tƣơi đẹp, để thƣởng thức cuộc sống lý tƣởng và cũng là cách
tốt nhất để trốn tránh thực tại đau khổ, nơi hứa hẹn một tƣơng lai vô định, bất
trắc. Thời gian trong Thơ mới đƣợc nhìn từ góc độ cá nhân với những tâm
trạng cô đơn, bất mãn, đi tìm cái đẹp lý tƣởng một cách siêu hình, ở bên ngoài
cuộc sống xã hội và lịch sử. Họ đặt cái tôi cá nhân của mình đối lập, thậm chí
là cao hơn xã hội, họ bênh vực những quyền tự do tuyệt đối của cá nhân.
Về những định hƣớng thẩm mĩ trong Thơ mới, có thể thấy một điều rõ
nét đó chính là sự đối lập giữa lý tƣởng và hiện thực. Trƣớc thực tại cuộc sống
phũ phàng và dƣờng nhƣ tạo ra sự bế tắc, bất lực tuyệt đối, các nhà thơ lãng
mạn đã lý tƣởng hóa bằng những điều không tƣởng, nằm bên ngoài thực tại.
Họ đi tìm những vẻ đẹp nằm ngoài trung tâm cuộc sống, nhƣ tìm về quá khứ
vàng son, tìm đến những vùng đất đã đi vào dĩ vãng, tìm đến những giai nhân,
mặc khách từ thời xƣa cũ, tìm đến những thiên đƣờng, địa ngục,… Họ đã cho
rằng thơ là một địa hạt và phạm vi riêng biệt, thiêng liêng trong tâm hồn của
mỗi con ngƣời, thậm chí, coi thơ là một giấc mơ để qua đó hƣớng tới một
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thơ mới nói nhiều về vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, về tình yêu
con ngƣời. Và thực tế là hệ thống những biểu tƣợng liên quan đến đề tài này
67
xuất hiện trong Thơ mới khá nhiều: trăng, vƣờn, bƣớm, mùa xuân,… Nhƣng
Thơ mới khuyết hẳn một mảng rất quan trọng, đó chính là những thứ thuộc về
bề sâu của xã hội, những phận ngƣời đang lầm lụi, đau khổ dƣới ách thực dân
phong kiến, đó là cuộc chiến đấu cam go của chiến sĩ và nhân dân cả nƣớc.
Tố Hữu đã từng đƣa ra lời giải thích khá xác đáng: “Trong tâm hồn của các
anh lúc đó tôi tìm thấy những nỗi băn khoăn, đau buồn của những ngƣời cùng
thế hệ, đòi hỏi tự do, ƣớc mơ hạnh phúc tuy các anh chƣa tìm thấy lối ra và
nhiều khi rơi vào chán nản” [78, 57-58]. Năm 1964, khi đọc lại cuốn Thi
nhân Việt Nam và suy ngẫm về phong trào Thơ mới khi đã có “độ lùi lịch sử”
nhất định, chính tác giả Hoài Thanh cũng đã nhận định rằng: “Thơ mới là
tiếng nói của một lớp ngƣời ít nhiều có lòng yêu nƣớc nhƣng không đủ dũng
khí để đƣơng đầu với địch. Giữa một bên là quân cƣớp nƣớc và bè lũ tay sai,
một bên là cách mạng, họ muốn tìm một mảnh đất dung thân không dính líu
đến bên nào. Mảnh đất ấy họ tƣởng có thể tìm thấy trong màu sắc của hoa cỏ,
trong hƣơng vị của tình yêu, trong thế giới riêng của nghệ thuật. Con đƣờng
của họ là con đƣờng đi trốn” [103, 223].
Mặc dù Thơ mới chƣa phát huy đƣợc nhiều cái hay, cái đẹp của mạch
nguồn thơ ca yêu nƣớc chống quân xâm lƣợc và giàu giá trị nhân văn của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng,… Song phải khách quan mà nói,
Thơ mới là một dòng chảy tiếp nối của thơ ca dân tộc. Tình yêu quê hƣơng
đất nƣớc, yêu cuộc sống, yêu con ngƣời cũng trải dài trên những trang thơ với
nghệ thuật biểu hiện sáng tạo, nhất là về ngôn từ. Chế Lan Viên đã khẳng
định: “Thơ mới là máu thịt của dân tộc” [78, 59]. Không thể phủ nhận, Thơ
mới đã đƣa tới trong thơ Việt Nam một luồng hơi thở hiện đại Âu Tây, song ở
nhiều góc độ vẫn đậm đà tinh thần dân tộc. Vấn đề ở đây có lẽ là điểm nhìn
và tƣ thế nhập cuộc của các nhà Thơ mới, nhƣ cách phân tích của Tố Hữu
trong bài viết Chuyện thơ (đăng báo Văn nghệ, năm 1948): “Chừng nào sự
68
sống của các thi nhân ta chƣa ăn khớp với sự sống của dân tộc, của quảng đại
nhân dân, chừng nào ý thức của họ chƣa đƣợc chiếu rọi thật sáng thì sự cảm
xúc của thi nhân - và nói chung của các nhà văn nghệ chƣa thể tiêu biểu sự
cảm xúc của dân tộc, tiếng nói của thi nhân chƣa thể là tiếng nói của thời đại”
[70, 5]. Đƣơng nhiên, nếu chỉ từ góc nhìn của một nhà thơ cách mạng, nhận
xét của Tố Hữu chƣa thể phản ánh toàn diện những vấn đề hiện hữu trong nội
dung, tƣ tƣởng, cách tân nghệ thuật của Thơ mới nói chung và các thi sĩ Thơ
mới nói riêng. Điều này, càng về sau càng đƣợc giới nghiên cứu, phê bình văn
học làm sáng rõ hơn.
Cần phải nói rõ thêm một điều rằng, với tên gọi chung là phong trào
Thơ mới, nhƣng thực ra trong đó tập hợp rất nhiều trao lƣu, khuynh hƣớng mà
tiêu biểu là lãng mạn, tƣợng trƣng, siêu thực. Về cơ bản, quan điểm nghệ
thuật của các nhà thơ theo trƣờng phái tƣợng trƣng và siêu thực đều bị ảnh
hƣởng rõ nét từ các nhà thơ tiêu biểu của khuynh hƣớng này, điều mà đã đƣợc
trình bày khá rõ ở phần trƣớc. Trong hƣớng tiếp cận biểu tƣợng, luận án nhắm
tới việc tạo thế tƣơng quan, đối sánh và làm nổi bật mục đích lựa chọn, sử
dụng các biểu tƣợng nghệ thuật giữa thơ ca lãng mạn và thơ ca cách mạng.
2.5.2. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca Cách mạng
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi)
Đây chính là quan điểm cách mạng và tính chiến đấu của thơ ca, đƣợc
thể hiện một cách tập trung và xuyên suốt trong thơ Hồ Chí Minh, đặc biệt là
tập Nhật ký trong tù. Thơ chính trị Hồ Chí Minh lấy cảm hứng từ âm vang
thời đại, bện dệt bằng những sự kiện có tác động lớn đến thời cuộc và sau đó
quay trở lại phục vụ nhiệm vụ chính trị. Chất thép trong tƣ tƣởng ngƣời chiến
sĩ cách mạng đƣợc hun đúc trong thơ, tạo nên sự đanh thép nhƣng không kém
69
phần cuốn hút, truyền cảm hứng lớn đến chiến sĩ và nhân dân cả nƣớc trong
cuộc chiến đấu cam go, ác liệt. Và cũng từ cảm hứng đó, lý tƣởng cao đẹp và
những nhận thức, tƣ tƣởng chính trị đúng đắn của nhà thơ - chiến sĩ đã tạo nên
những vần thơ sáng ngời chất thép. Hai câu thơ trên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đƣợc coi là có ý nghĩa tuyên ngôn, là “khẩu hiệu” hành động của thơ ca
Cách mạng. Và Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh một quan điểm nhất quán, đó là
văn học nghệ thuật phải là vũ khí đấu tranh cách mạng sắc bén, nó phải phục
vụ cho chính trị, phục vụ quần chúng lao động, “văn học nghệ thuật cũng nhƣ
mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính
trị. Văn nghệ đó phải kịp thời, có tính tiến công mạnh mẽ và tính hiện thực
cao” [128, 19].
Nhà thơ cách mạng Sóng Hồng, trong lời đề tựa tập thơ của mình đã
viết: “Thơ là sự thể hiện con ngƣời và thời đại một cách cao đẹp. Thơ không
chỉ nói lên tình cảm riêng của nhà thơ mà nhiều khi thông qua tình cảm đó nói
lên niềm hy vọng của cả một dân tộc, những ƣớc mơ của nhân dân, vẽ lên
những nhịp đập của trái tim quần chúng và xu thế chung của lịch sử loài
ngƣời” [22, 13]. Nói cách khác, đó chính sự cao đẹp của lý tƣởng trong thơ,
khi nó phải mang sứ mệnh là bám rễ từ thời đại, khơi dậy những hoài bão lớn,
những khát vọng chân chính của con ngƣời. Gắn bó với cuộc đấu tranh xã hội,
nguồn cảm hứng của thơ ca trở nên bất tận, đa dạng và phong phú:
Là thi sĩ nghĩa là cao khúc họa
Cuộc đấu tranh vĩ đại của hoàn cầu
Chống hung tàn xâm lược khắp năm châu,
Trên trái đất dựng cao cờ dân chủ.
Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ,
Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền
70
(Là thi sĩ)
Thơ ca Cách mạng, với sức mạnh to lớn của mình, chẳng những ca
ngợi cuộc đấu tranh chính nghĩa, chẳng những phê phán, tố cáo tội ác kẻ thù
mà còn động viên, tập hợp và lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh xóa bỏ
chế độ đƣơng thời, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, xây dựng xã hội
mới. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng đã xác định rõ mặt
trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó ngƣời
cộng sản phải hoạt động, không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải
làm cách mạng văn hóa nữa. Thơ ca Cách mạng kiên quyết chống lại những
thứ tƣ tƣởng định mệnh, chờ đợi sự cứu vớt của một lực lƣợng siêu nhiên.
Các nhà thơ cách mạng cũng kịch liệt phê phán thơ ca lãng mạn “trốn tránh”
thực tế đấu tranh xã hội, vùi đầu khóc gió than mây:
Anh ơi, anh sống về tinh thần
Nhưng lấy cơm đâu mà anh ăn?
Anh trách xã hội là tội lỗi
Anh vào hang đá ngắm thơ nhàn
Quần chúng anh ơi, đương lầm than…
Nhà thơ Tố Hữu, trên tinh thần của giai cấp vô sản, đã nhiều lần đƣa ra
quan điểm của mình về thơ trong vấn đề ranh giới giai cấp. Ông cho rằng:
“Thơ là tiếng nói đồng ý đồng tình, tiếng nói đồng chí. Thơ tƣ sản thì tìm tới
lỗ tai, cái bụng tƣ sản. Thơ của nhân dân lao động thì tìm tới trái tim của
ngƣời lao động” [22, 17].
Cuộc tranh luận giữa quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ
thuật vị nhân sinh” diễn ra từ năm 1935 đã làm rạng rỡ thanh thế của văn học
cách mạng, qua đó những ngƣời làm văn học cách mạng phê phán những xu
hƣớng sáng tác tiêu cực trên văn đàn hợp pháp. Quan điểm của nhiều nhà văn
tiểu tƣ sản bấy giờ là “nghệ thuật không dính líu gì đến chính trị, với luân lý.
71
Chính trị để cho các chiến sĩ, luân lý để cho các nhà đạo đức” [122, 65].
Những ngƣời làm văn học cách mạng tự ý thức rằng mình có một thiên thức
trọng đại, đó là đánh thức quần chúng và kích thích đấu tranh. Và họ gửi gắm
thông điệp đến tất cả những ngƣời cùng chí hƣớng với mình hãy đem ngòi bút
lột trần cái xã hội hiện tại để dân chúng thấy rõ nguồn gốc của mọi đau
thƣơng và để tìm lấy đƣờng sống.
Nếu nhƣ cảm thức thời gian trong thơ lãng mạn là vội vàng, cuống
quýt, mơ hồ thì thời gian trong thơ cách mạng là hiện hữu, “thời gian thuộc về
chúng ta”. Do đó, quan hệ giữa thời gian với con ngƣời đƣợc nhìn nhận khác
hẳn: con ngƣời làm chủ thời gian, con ngƣời nhìn thấy ở thời gian sự vận
động, sinh thành, nảy nở những nhân tố tích cực, là một cách nhìn đầy lạc
quan cách mạng. Thời gian đi theo một chiều tiến lên phía trƣớc, với những
dự định, quyết tâm chiến đấu và khát khao chiến thắng mãnh liệt. Thời gian
tƣơng lai hầu nhƣ không thấy xuất hiện trong thơ lãng mạn thì lại xuất hiện
nhiều ở thơ ca Cách mạng với nhiều hình thức phong phú (ví dụ khái niệm
thời gian nhƣ ngày mai, nay mai, mai kia,… xuất hiện đậm đặc trong thơ Tố
Hữu). Căn nguyên của cách cảm nhận thời gian trong thơ ca Cách mạng, đó là
thời gian đƣợc nhìn từ góc độ cộng đồng, từ vận mệnh của những thực thể
thiêng liêng và bất diệt nhƣ dân tộc, đất nƣớc, nhân dân với những tâm trạng
nổi bật là tin tƣởng, lạc quan, tràn đầy hy vọng… Không phải là cái Tôi - cá
nhân có xu hƣớng thoát ly thực tại xã hội, cái Tôi trong thơ ca Cách mạng
chính là cái Tôi nằm trong quan hệ thống nhất với xã hội, là cái Ta, cái Chúng
ta. Trong điều kiện cụ thể của giai đoạn lịch sử, cá nhân sẵn sàng hy sinh cho
vận mệnh của cộng đồng, cho sự sống của nhân loại.
Về những định hƣớng thẩm mĩ trong thơ Cách mạng, đó chính là sự
thống nhất hài hòa giữa lý tƣởng và hiện thực, giữa hành động của con ngƣời
và các quy luật của xã hội, của lịch sử. Sức mạnh của con ngƣời lý tƣởng của
72
thời đại mới chính là ở chỗ họ kết hợp đƣợc quá khứ và hiện tại, hiện tại với
tƣơng lai. Đối với quá khứ, họ kế thừa những giá trị ƣu tú của mọi thời đại;
đối với tƣơng lai, họ là những ngƣời nắm vững và chủ quy luật phát triển; còn
với hiện tại, họ “đang có mặt”, đang nhiệt tâm và nhiệt tình cải tạo thế giới và
xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Họ xa lạ với những con ngƣời “vắng mặt” (phần
nhiều các nhà thơ lãng mạn đều ở trong trạng thái này), tìm chỗ trú chân trong
những ốc đảo cá nhân bên lề dòng thác của thời đại. Những biểu tƣợng nghệ
thuật đƣợc xây dựng trong thơ Cách mạng, vì thế đƣơng nhiên chủ yếu gắn
liền với phẩm chất và ý chí cách mạng, với niềm tin và khát vọng chiến thắng:
máu, lửa, con đƣờng, ánh sáng, mặt trời,….
Tiểu kết chƣơng 2
Từ cách tiếp cận toàn diện, cần thấy rằng cơ chế sinh thành một biểu
tƣợng nói chung, biểu tƣợng nghệ thuật nói riêng là khá phức tạp, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Trong đó, việc kiến tạo biểu tƣợng từ mẫu gốc và mở rộng
biên độ tƣợng trƣng là một vấn đề quan trọng, bởi nó vừa là tài sản của “vô
thức tập thể” - tài sản chung của văn hóa nhân loại, lại vừa là nguồn ngữ liệu
để các nhà văn, nhà thơ tạo nên những biểu tƣợng mang dấu ấn cá nhân, thể
hiện cá tính sáng tạo của riêng mình. Bên cạnh đó, cần phải kể đến các yếu tố
khác tác động trực tiếp đến việc sinh thành các biểu tƣợng trong giai đoạn
1930-1945, đó là: trào lƣu chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu
thực và sự ảnh hƣởng của nó trong mối giao lƣu văn hóa Đông - Tây; quan
điểm nghệ thuật của tập thể, cá nhân sáng tác biểu tƣợng.
Tuy nhiên, với tƣ cách là một hiện tƣợng lịch sử, biểu tƣợng hoặc hệ
biểu tƣợng đều có mối liên hệ biện chứng, chặt chẽ với thực tế thời đại và văn
hóa dân tộc sản sinh ra nó. Lịch sử giai đoạn 1930 - 1945 của dân tộc Việt
Nam là một thời kỳ nhiều biến động và thăng trầm, đau thƣơng và mất mát.
Những biến thiên của thời đại dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm
73
lý con ngƣời. Cũng chính trong bối cảnh xã hội cùng quẫn, bế tắc đó, thơ ca
vƣơn mình, mang theo nhiều dáng vẻ, hƣơng sắc. Đó là sự ra đời của phong
trào Thơ mới và phong trào thơ ca Cách mạng với nhiều tác giả tiêu biểu, có
cá tính, tài năng sáng tạo và rất độc đáo. Đồng thời trong thơ cũng hình thành
một hệ thống các biểu tƣợng nghệ thuật phong phú, góp phần quan trọng
trong việc thể hiện rõ quan niệm thẩm mĩ của từng trào lƣu.
Tiếp cận biểu tƣợng từ tất các phƣơng diện trên, chúng ta hoàn toàn có
thể tin cậy vào tính chính xác, toàn diện khi khám phá và giải mã những giá
74
trị biểu tƣợng nghệ thuật trong thơ.
CHƢƠNG 3
BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG THƠ MỚI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932-1945
Cần phải khẳng định, trong Thơ mới xuất hiện một “rừng biểu tƣợng”,
phong phú, đa dạng và có tính thẩm mĩ cao. Đó là thành quả sáng tạo của một
thế hệ các nhà thơ tiêu biểu, có tài năng và cá tính độc đáo. Việc sử dụng các
biểu tƣợng nghệ thuật của các nhà thơ Mới sẽ đƣợc soi chiếu và giải mã sâu
sắc hơn từ góc nhìn tiếp biến văn hóa Đông - Tây cũng nhƣ tƣ thế nhập cuộc
của các tác giả. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi đi vào phân tích và khám
phá những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu, có ý nghĩa quan trọng trong việc
phản ánh thế giới nghệ thuật và tƣ duy thẩm mĩ của chủ thể sáng tác. Đó là
những biểu tƣợng thuộc về các góc độ: không gian - vật thể, thế giới tâm linh
và sự vận động của thời gian.
3.1. Biểu tƣợng về không gian - vật thể
3.1.1. Biểu tượng trăng
Trăng là một biểu tƣợng nghệ thuật quen thuộc, đƣợc sử dụng nhiều
trong văn hóa nhân loại nói chung và văn học nói riêng với rất nhiều hàm
nghĩa, thể hiện cách nhìn thế giới, cách cảm nhận thời gian, không gian và
mang nhiều sắc thái thẩm mĩ.
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier và Alain
Gheerbrant đã chỉ ra rằng ý nghĩa biểu tƣợng của mặt trăng biểu hiện ra trong
tƣơng quan với ý nghĩa biểu tƣợng của mặt trời, với những nét nghĩa cơ bản
là: 1. Biểu tƣợng của các nhịp điệu sinh học, tính âm, biến đổi và sinh trƣởng.
2. Biểu tƣợng của sự chuyển tiếp từ sự sống sang chết và từ chết trở lại sống.
3. Trăng là một biểu tƣợng của tri thức gián tiếp, suy lý, tiệm tiến, lạnh lùng
75
[12, 936-737].
Các tao nhân mặc khách từ xƣa vốn xem việc “thƣởng nguyệt” là một
thú vui tao nhã trong cuộc sống. Và cũng vì lẽ đó, trăng hiện lên trong thơ
nhƣ bầu bạn, nhƣ tri âm, tri kỉ. Đó là vầng trăng bầu bạn thân thiết của những
kẻ đơn chiếc trong ca dao: “Anh đi đằng ấy xa xa/ Để em ôm bóng trăng tà
năm canh”; là vầng trăng xẻ làm đôi, đong đầy dƣ vị chia phôi trong Truyện
Kiều của đại thi hào Nguyễn Du: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc,
nửa soi dặm trường”; là trăng khuyết cô đơn, hoang hoải trong thơ Hồ Xuân
Hƣơng: “Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh/ Vầng trăng bóng xế khuyết chưa
tròn” (Tự tình II); là vầng trăng quấn quýt, giao hòa dƣới nỗi niềm cô đơn của
ngƣời chinh phụ trong thơ Đoàn Thị Điểm: “Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một
tấm/ Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông/ Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng
trùng” (Chinh phụ ngâm khúc). Vầng trăng cũng xuất hiện trong những nỗi
ƣu tƣ, trăn trở về thời cuộc trong thơ Nguyễn Khuyến: “Nước biếc trông như
từng khói phủ/ Song thưa để mặc ánh trăng vào” (Thu vịnh).
Không còn đƣợc miêu tả theo lối ƣớc lệ tƣợng trƣng nhƣ thời kì trƣớc,
hình ảnh trăng trong Thơ mới đã đƣợc các thi sĩ thổi vào một sức sống mới,
một màu sắc cá thể hóa cao độ, ấn tƣợng. Trăng hiện hữu rất gần, là ngƣời, là
anh, là em, là nàng, thật sự là biểu tƣợng của cái đẹp với rất nhiều cung bậc
cảm xúc khác nhau. Có thể khẳng định, với tần suất xuất hiện dày đặc, trăng
trong Thơ mới là một trong những biểu tƣợng nghệ thuật đặc sắc, kết nối
nhiều yếu tố thẩm mĩ đặc trƣng của khuynh hƣớng tƣợng trƣng. Trăng góp
phần tạo nên thế giới hƣ thực, huyền ảo, thống nhất các yếu tố nhƣ màu sắc,
ánh sáng, âm thanh. Trăng biến ảo và có khả năng liên kết với các hình ảnh
khác để trở thành những cặp biểu tƣợng độc đáo nhƣ: đàn trăng, sông trăng,
bến trăng, thuyền trăng,…
Kết quả khảo sát cuốn Thơ mới 1932 - 1945 tác giả và tác phẩm (Nxb
Hội Nhà văn, 1998) cho thấy biểu tƣợng trăng xuất hiện nhiều nhất là trong
76
thơ Hàn Mặc Tử (103 lần), Xuân Diệu (87 lần), Bích Khê (44 lần),…
Thơ Hàn Mặc Tử nhuộm đầy ánh trăng. Với việc xuất hiện 103 lần trên
tổng số 73 bài thơ của tập Gái quê, Đau thương (Thơ điên) và Xuân như ý, trăng
trở thành một nỗi ám ảnh thƣờng trực khôn nguôi trong lòng thi sĩ, đến mức
mong muốn “bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi”. Hàn Mặc Tử
có 8 bài thơ có tựa đề về trăng: Sáng trăng, Ngủ với trăng, Say trăng, Rượt
trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Một miệng trăng, Một nửa trăng.
Biểu tƣợng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là một thực thể có linh hồn, có
sự sống riêng khác biệt. Nhà thơ coi trăng là ngƣời, là tri âm, tri kỉ để có thể
lắng nghe, san sẻ và thấu hiểu cõi lòng của thi nhân. Trong những cơn đau
triền miên, dày vò thể xác, Hàn Mặc Tử nhƣ tạo ra một không gian đặc quánh
là trăng xung quanh mình: “Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng
trăng mà nàng cũng trăng” (Huyền ảo).
Chateaubriand, nhà văn Pháp đã viết một cách mềm mại: “Ánh trăng
nằm ngủ trên đám cỏ” (La clarté de la lune dormait sur les gazons). Và Victo
Huygo thì viết: “Tôi yêu những khu rừng đen tối, mà ở nơi ấy, sự im lặng ngủ
yên trên tấm nhung của những đám rêu” (J’aime les forêts ténébreuses où le
silence dort sur le velours des mousses). Còn Hàn Mặc Tử, trong niềm khát
giao hòa vào trăng, là trăng, uống trăng, để thoát khỏi thực tại đau thƣơng
cũng có cảm hứng tƣơng tự:
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực
(Hồn là ai)
Gió rít tầng cao trăng ngã ngữa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
77
(Say trăng)
Trong nỗi đớn đau, cô đơn, sầu tủi, thiếu vắng tình đời, Hàn Mặc Tử
chỉ biết hƣớng về trăng, đau đáu với vầng trăng bị khuyết một nửa: “Hôm nay
có một nửa trăng thôi/ Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi/ Ta nhớ mình xa thương
đứt ruột/ Gió làm nên tội buổi chia phôi” (Một nửa trăng). Bởi suy đến cùng,
thi sĩ chỉ có trăng là bạn mà thôi. Trăng biết lả lơi, trăng biết tâm tình, trăng
biết gào thét, trăng biết tạo ra những sự gặp gỡ và dƣ vị của tình yêu. Và đây
là cuộc đối thoại với chính nội tâm của thi nhân, đẩy nỗi cô đơn lên thành bi
kịch tuyệt đối:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử thƣờng quyện với hồn, máu để cùng gợi
lên những đau thƣơng cả thể xác và tâm hồn thi nhân. Trăng không chỉ là tri
kỷ mà còn là biểu tƣợng của nguồn sống mà nhà thơ khao khát níu kéo, là sự
cứu rỗi mong manh cho tâm hồn đang đau thƣơng tột cùng.
Trong thơ Xuân Diệu, trăng cũng trở thành một biểu tƣợng nghệ thuật
khơi nhiều xúc cảm của ngƣời đọc. Trăng trở đi trở lại 87 lần trong các tập
Thơ thơ, Gửi hương cho gió. Ấn tƣợng chung về những đêm trăng trong thơ
Xuân Diệu là ấn tƣợng về không gian rộng lớn tràn đầy ánh sáng và lạnh lẽo.
Trăng trong thơ Xuân Diệu lung linh huyền ảo với đủ mọi hình hài, dáng vẻ,
cảm xúc. Đó là trăng ngà, trăng ngần, trăng sáng, trăng xa, trăng mộng,
trăng vú mộng, trăng tàn, trăng lạnh,… Trăng đã trở thành hóa thân của nhà
thơ, một tâm hồn cô đơn tìm chỗ ẩn tựa, nƣơng mình:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần”
78
(Nguyệt cầm)
Miêu tả không gian trăng nhƣ vậy, tác giả muốn biểu hiện tâm trạng cô
đơn, trống trải trƣớc cuộc đời. Trăng soi tỏ sự cô đơn, lẻ loi của con ngƣời vì
không có sự đồng cảm:
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đời trăng lạnh lẽo suốt sương da
(Lời kỹ nữ)
Xuân Diệu rất nhạy cảm với những bƣớc đi của thời gian, nên trong
thời khắc chuyển mùa, thi sĩ thấy trăng nhƣ ngƣời con gái đẹp và buồn:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ/ Non xa khởi sự nhạt sương mờ/ Đã
nghe rét mướt luồn trong gió/ Đã vắng người sang những chuyến đò” (Đây
mùa thu tới). Giữa không gian bao la của đất trời và ánh trăng, thi sĩ thấy
mình vô cùng nhỏ bé: “Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá/ Hai người
nhưng chẳng bớt bơ vơ” (Trăng). Đó phải chăng cũng là lời tự tình, bày tỏ nỗi
lòng của ngƣời kĩ nữ, trƣớc những mênh mông của cuộc đời và tình ngƣời.
Chỉ riêng trong bài thơ Ca tụng, trăng xuất hiện đến những 32 lần, với
những cảm xúc thật mãnh liệt: “Trăng, vú mộng”, “Trăng, hoa vàng”,
“Trăng, đĩa ngọc”, “Trăng, nguồn sương”, “Trăng, võng rượu”, “Trăng
thánh thót”, “Trăng nghiêng nghiêng”,… Tâm hồn thi sĩ tràn ngập trăng:
Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền
Ngươi vĩnh viễn như lòng trăng ý gió
Trăng của mắt, trăng của hồn rạng tỏ
(Trăng rất trăng là trăng của tình duyên)
Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền
Biểu tƣợng trăng xuất hiện 44 lần trong hai tập Tinh huyết và Tinh hoa
của Bích Khê, với âm hƣởng sắc lạnh và buồn là chủ đạo. Cũng nhƣ đối với
Hàn Mặc Tử và Xuân Diệu, trăng hiện lên trong thơ Bích Khê cũng nhƣ một
79
ngƣời bạn gần gũi, nơi gửi gắm những tâm sự cá nhân. Đặc biệt, trăng trong
thơ Bích Khê thƣờng gắn liền với hồn, với giấc mộng: “Ồ lạ! làm sao thương
nhớ quá/ Đêm nay trăng ngủ ở bên đường/ Hồn chiêm bao hốt mơ trăng lạnh/
Để giả vờ như ấp bóng nường” (Tân hôn), “Thì mộng: Xuân Hương nường
đã đến/ Thưa cô, dáng nguyệt tuyết còn vương/ Tỉnh ra thì thấy mình trong
mộng/ Nửa mảnh trăng treo, nửa mảnh buồn”(Mộng trong hương). Càng về
sau, với xu hƣớng ảnh hƣởng nhiều từ Baudelaire, trăng trong thơ Bích Khê
càng mang nhiều hơn tính tƣợng trƣng, siêu thực: “Hương say như người say
men tình ái/ Kề ngực trăng người mớm vị say sưa/ Người chưa say vì hương
vị chưa bưa:/ Dìm trăng xuống một vùng trăng nước dãi” (Sọ người).
Chế Lan Viên trong Điêu tàn có 3 bài thơ viết về trăng là Tắm trăng,
Mơ trăng và Trăng điên. Trong đó, nhà thơ khao khát hòa trộn vào trăng nhƣ
đƣợc hòa vào nguồn ánh sáng, nguồn sống và tình ái của giai nhân:
Ngoài kia trăng sáng chảy bao la
Ta nhảy vào quay cuồng lăn lộn
Thôi ngụp lặn trong ánh vàng lẫn lộn
Cho trăng ghì, trăng riết cả làn da
(Tắm trăng)
Chế Lan Viên rất sợ bóng đêm vì bóng đêm là hiện thân của chốn Hƣ
vô. Vì vậy, đối với thi nhân, trăng là một vị cứu tinh của tâm hồn, cũng là nơi
thi nhân gửi gắm nỗi buồn vui, sự thoát ly với thực tại.
3.1.2. Biểu tượng vườn
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã đƣa ra đánh giá “vƣờn” là một
biểu tƣợng có ý nghĩa phong phú, “là một biểu tƣợng của thiên đƣờng trên
mặt đất… Vƣờn thƣờng hiện lên trong các giấc mơ, nhƣ là biểu hiện tốt lành
của một ham muốn không gợi chút lo âu. Nó là địa điểm của sự sinh trƣởng,
của sự vun trồng các hiện tƣợng cốt tử và nội tâm” [12, 1007].
Nếu nhƣ trong thơ cổ, thiên nhiên hiện lên bằng những hình ảnh tĩnh
80
tại, cố định của “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” (Hồ Chí Minh) thì đến
các nhà Thơ mới, thiên nhiên đã thực sự hòa quyện với tâm hồn thi nhân, và
thực tế là, họ đã kéo thiên nhiên ra khỏi những bức mành khép kín, khiến nó
trở lên gần gũi, tự nhiên, có linh hồn và sức sống mới. Vƣờn trong Thơ mới là
một biểu tƣợng nhƣ vậy.
Với nhà thơ Xuân Diệu, “vƣờn” là một trong những biểu tƣợng xuyên
suốt, chứa đầy ý tƣởng, trạng thái và cảm xúc mãnh liệt. Vƣờn xuất hiện 18
lần trong các tập thơ của Xuân Diệu trƣớc cách mạng tháng Tám, với nhiều
dạng thể hiện phong phú. Đó là vườn yêu, vườn tình ái, vườn trần, vườn thơm
ngát, vườn non, vườn anh, vườn cười, vườn xưa,….
Vƣờn ở đây có thể là không gian trừu tƣợng, là cõi dƣơng thế ấm áp
đối lập với cõi âm tối tăm, lạnh lẽo, hoặc có thể là một không gian tƣợng
trƣng: không gian tâm hồn của chủ thể trữ tình. Song nhiều nhất vẫn là khu
vƣờn thiên nhiên cụ thể:
Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu xuân êm ái thế
Cánh hồng kết những nụ cười tươi
(Nụ cƣời xuân)
Chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận đƣợc tâm hồn yêu thiên nhiên,
yêu cuộc đời, tâm hồn tƣơi trẻ, rộn rã reo vui giữa vƣờn trần đầy hƣơng sắc.
Đó là hình ảnh rất khác so với những khu vƣờn đầy âm khí, yêu ma, xƣơng
trắng, sọ ngƣời trong thơ của các nhà thơ cùng thời nhƣ Bích Khê, Đinh
Hùng, Chế Lan Viên. Biểu tƣợng vƣờn trong thơ Xuân Diệu hiện lên đầy tƣơi
vui và trong trẻo: “Vườn cười bằng bướm, hót tiếng chim/ Dưới nhánh không
còn một chút đêm/ Những tiếng tung hê bằng ánh sáng/ Cả đời hưng phục trẻ
trung thêm” (Lạc quan), “Trời xanh thế! hàng cây thơ biết mấy!/ Vườn non
81
sao! đường cỏ mộng bao nhiêu” (Xuân đầu).
Trong quan niệm của Xuân Diệu, vƣờn là biểu tƣợng của sự sống, là
nơi có thể thả hồn mình đón lấy những rung động tinh tế nhất của cuộc đời và
lòng ngƣời. Đó đích thực là khu vƣờn tình ái: “Phải mặn nồng cho mãi mãi
đem xuân/ Đem chim bướm thả trong vườn tình ái” (Phải nói), “Tất cả vườn
anh rất đợi chờ/ Bởi vì em có ngón tay thơ/ Đến đây em hái giùm đôi lộc/ Kẻo
tội lòng anh tủi ước mơ” (Dâng). Vào những đêm trăng sáng, vƣờn trong thơ
Xuân Diệu hiện lên đẹp, lung linh, mờ ảo bởi nó chứng kiến sự giao duyên,
hò hẹn của tình yêu đôi lứa: “Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá/ Ánh sáng
tuôn đầy các lối đi/ Tôi với người yêu qua nhà nhẹ/ Im lìm không dám nói
năng chi” (Trăng).
Vƣờn còn biểu tƣợng cho tâm hồn ngƣời thi sĩ đang yêu mà không
đƣợc đáp lại tấm chân tình: “Chìm trong cỏ một vườn hoa bỏ vắng/ Lòng tôi
đó một vườn hoa cháy nắng…/ Trời đã thắm, lẽ đâu vườn cứ nhạt? Đắn đo gì
cho lỡ mộng song đôi” (Tặng thơ). Và mặc dù tâm hồn luôn trong trạng thái
“mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, nhƣng nỗi khát khao sống, khát khao
yêu đến tận cùng khiến Xuân Diệu luôn tha thiết với thực tại, với vƣờn trần:
“Làm giây đa quấn quít cả mình xuân/ Không muốn đi mãi mãi ở vường trần”
(Thanh niên). Không gian vƣờn của Xuân Diệu có sự dịch chuyển từ vƣờn cụ
thể, xác định sang vƣờn trăng, là không gian trừu tƣợng, mơ hồ. Nhà nghiên
cứu Lý Hoài Thu rất có lý khi đánh giá rằng: “Vƣờn trần đó mới thật sự là
chỗ đứng, là vƣơng quốc riêng của thơ Xuân Diệu” [107, 108].
Hàn Mặc Tử thì mƣợn biểu tƣợng vƣờn để nói lên cái bẽ bàng của
duyên phận lứa đôi, của một con ngƣời trần thế nhƣng vô duyên trƣớc cuộc
đời. Vƣờn là nơi minh chứng cho sự nhỡ nhàng: “Mấy độ trong vườn, cam
chửa chín/ Mỗi lần em nhớ người trai tơ/ Trưa hè năm ấy mua cam ngọt/
Nhưng thấy cam xanh lại cáo từ/ Năm ngoái, trong vườn cam chín cả/ Gốc
82
đào em đợi chẳng qua mua (Trái mùa).
Thi sĩ tìm đến vƣờn để hồi tƣởng và ƣớc mơ một thế giới ngoài kia đẹp
lạ lùng, xa vắng vầng hào quang rực rỡ, cách biệt với thế giới trong này u ám,
khổ đau mà mình đang sống:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Nhà thơ gửi trong mảnh vƣờn một nỗi đau quằn quại, bi thƣơng của
một tâm hồn đang cận kề cái chết mà không gì có thể cứu vãn đƣợc. Tất cả
hiện hữu, và cả tình ngƣời cũng đều mờ ảo nhƣ sƣơng khói mà thôi.
Chúng tôi đặc biệt lƣu tâm tới biểu tƣợng vƣờn trong thơ Nguyễn Bính
với nhiều dạng thức: vườn chè, vườn dâu, vườn bưởi, vườn trầu,…. Vƣờn
tƣợng trƣng cho cảnh quê, duyên quê và hồn quê. Nó đƣợc dựng lên bằng
hàng cau, giàn trầu, dậu mồng tơi, cây cam, cây bƣởi, cây tranh, hoa xoan,…
trong những mơ ƣớc xa xƣa. Nó hoàn toàn khác với vƣờn thành thị, vƣờn
thực tại khao khát mộng tƣởng ân ái của Xuân Diệu. Hai khu vƣờn sánh bƣớc
trong vƣờn thơ của phong trào Thơ mới.
Năm 1936, bài thơ Chân quê ra đời, không chỉ đơn thuần là lời giãi
bày, tâm sự của chàng trai với ngƣời mình yêu, mà sâu xa hơn, chính là mong
muốn níu giữ hồn quê, với tất cả những gì chân chất, mộc mạc vốn có nơi
làng quê bình yên:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
Thơ viết về làng quê của Nguyễn Bính thƣờng là những tiếng reo vui,
là những kỷ niệm, là những hình ảnh trong sáng, thiết tha: “Sáng giăng chia
83
nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau” (Thời trước), “Nhà tôi có
một vườn dâu/ Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần/ Hoa đỗ ván nở mùa xuân/ Lứa
dâu tháng tháng, lứa cần năm năm” (Nhà tôi).
Bên cạnh đó là hình ảnh của thôn Vân quê mẹ, nơi có khu vƣờn mà
Nguyễn Bính đã gắn bó phần lớn thời gian của tuổi thơ mình với những kỷ
niệm êm đẹp. Trong hồi ức của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn, bạn của Nguyễn Bính,
thì thôn Vân đẹp thật, lại còn rất sung túc nữa. Thế nên, khi nhớ và viết về
thôn Vân, ngòi bút của Nguyễn Bính thênh thang và khoáng đạt vô cùng:
“Thôn Vân có biếc có hồng/ Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều/ Đê
cao có đất thả diều/ Giời cao lắm lắm có nhiều chim bay…/ Thần tiên riêng
một góc trời thôn Vân” (Anh về quê cũ).
Cảnh quê vừa thực, lại vừa có chút thi vị hóa. Nhƣng dù gì, Nguyễn
Bính đã nói hộ đƣợc cái ƣớc vọng ngàn đời của những ngƣời nông dân Việt
Nam về một cuộc sống yên bình, no đủ. Đó cũng là hạnh phúc lớn nhất, mà
cũng bình dị nhất của những ngƣời dân quê một nắng hai sƣơng, quanh năm
suốt tháng gần gụi với lũy tre làng: “Thong thả dân gian nghỉ việc đồng/ Lúa
thì con gái mượt như nhung/ Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt
hương bay bướm vẽ vòng” (Xuân về).
Thiên nhiên làng quê, với những mảnh vƣờn trong ký ức, mộng tƣởng
hiện lên trong thơ Nguyễn Bính vừa gần gũi, vừa xa xăm, nhƣ ẩn hiện trong
tâm thức, khiến mỗi chúng ta không khỏi thấy bồi hồi, xao xuyến nhớ về làng
quê của mình.
3.1.3. Biểu tượng cánh bướm
Đối với nền văn hóa các nƣớc, hình ảnh động vật hoặc côn trùng mang
theo ý nghĩa đặc biệt. Trong đó, bƣớm cũng là một loài côn trùng có nhiều ý
nghĩa tƣợng trƣng cho nhiều nền văn hóa của các nƣớc khác nhau.
Trong nền văn hóa Châu Á, biểu hiện nhiều hơn là ở Trung Quốc,
84
bƣớm đại diện cho tình yêu và tuổi thọ. Bƣớm tƣợng trƣng cho cuộc sống lâu
dài (vì từ bƣớm có phát âm tƣơng tự nhƣ “70 năm”). Điều này cũng đƣợc
Patrica Bjaaland Welch, cựu giảng viên Đại học Boston, trong công trình A
guide to Motifs and Visual imagery (Hướng dẫn về biểu trưng và hình ảnh
trực quan trong nghệ thuật Trung Quốc) giải thích rõ ràng hơn: Bƣớm thƣờng
đƣợc cách điệu trong nghệ thuật Trung Quốc và là biểu tƣợng của mùa hè, vẻ
đẹp, sự lãng mạn và giấc mơ. Một bông hoa và một con bƣớm mà đi đôi với
nhau thì đƣợc coi là dấu hiệu của “cảm giác thân thuộc vĩnh viễn” hoặc sự
chung thủy của vợ chồng, cũng giống nhƣ hình ảnh hai con bƣớm đi liền với
nhau [136, 91-92].
Trong văn học, Trang Chu mộng hồ điệp đƣợc coi là một đoạn văn nổi
tiếng Đông Tây kim cổ, đƣợc Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch nghĩa là
“Xƣa Trang Chu chiêm bao thấy mình là bƣớm vui phận làm bƣớm, tự thấy
thích chí, không còn biết có Chu nữa. Chợt tỉnh giấc, thì lại thấy mình là Chu.
Không biết Chu chiêm bao là bƣớm, hay bƣớm chiêm bao là Chu? Chu và
bƣớm ắt phải có tánh phận khác nhau. Đó gọi là Vật hóa”. Trong Thơ mới,
giấc mộng hóa bƣớm, qua đó thể hiện những dụng ý của thi nhân, không phải
là chuyện hiếm gặp.
Cánh bƣớm xuất hiện 15 lần trong những khu vƣờn trần, vƣờn tình ái
của Xuân Diệu. Nhà thơ thƣờng cho “bƣớm” xuất hiện song hành với “chim”
nhƣ một tƣợng trƣng cho tình yêu gắn bó, thủy chung. Cánh bƣớm xuất hiện
trong niềm vui sống, rạng rỡ của tâm hồn: “Vườn cười bằng bướm, hót bằng
chim/ Dưới nhánh, không còn một chút đêm” (Lạc quan). Xuân Diệu nhờ
cánh bƣớm chở bức thông điệp của tình yêu, của nỗi nhớ:
Em nói trong thư: mấy bữa rày
Sao mà bươm bướm cứ đua bay
Em buồn, em nhớ, chao! em nhớ!
Em gọi thầm anh suốt cả ngày
85
(Đơn sơ)
Thi sĩ coi mình nhƣ cánh bƣớm, mở lòng để say đắm trong tình thƣơng
yêu của thiên nhiên, của cuộc đời, của con ngƣời. Nhƣng có vẻ đó chỉ là ảo
mộng, là viển vông mà thôi, hay là vì lòng cứ rộng nhƣng lƣợng đời thì cứ
chật: “Tôi như con bướm đắm tình thương/ Bay vòng hoa đẹp để vây hương/
Cánh con phấn mỏng, mà hương rộng!/ Tham chiếm hồn ai, chỉ đoạn trường”
(Phơi trải), “Chỉ là gió nhưng lòng tôi thả bướm/ Thêm phất phơ cho hơi thở
vừa hiền” (Chỉ ở lòng ta), “Mùa xuân bay lượn bướm như thơ/Cảnh đẹp trên
hoa vừa ghé hờ/ Vồn vã đưa tay: đâu nữa bướm?/ Cánh vàng rơi hạt phấn lơ
thơ” (Ý thoáng).
Cánh bƣớm trong thơ Vũ Hoàng Chƣơng xuất hiện với ý nghĩa biểu
trƣng chủ yếu là cho kiếp giang hồ: “Vạn thuở tiền thân lòng vốn khép/ Hoa
đừng rụng nữa, bướm đừng bay/ Hát ngao nhắn vọng về thiên cổ/ Tình vẫn
nguyên hương, rượu vẫn đầy” (Nhắn về thiên cổ), “Nẻo bướm rờn tươi lửa cố
đô/ Mộng phai ca quán tủi giang hồ” (Nửa đêm ca quán). Còn với nhà thơ
Lƣu Kỳ Linh thì cánh bƣớm là biểu tƣợng cho ngƣời thi sĩ: “Bướm kia ai biết
là thi sĩ/ Kiếp trước đa tình lại hóa thân” (Con bướm trắng). Với Huy Cận,
bƣớm là chiếc cầu nối cho con ngƣời gửi tình cảm vào quá khứ xa xôi: “Lòng
non dại đã hóa thành chiếc bướm/ Cánh bâng khuâng bay tới đậu bên người”
(Bi ca).
Nhƣng có thể nói, biểu tƣợng cánh bƣớm mang nhiều ý nghĩa và cung
bậc cảm xúc nhất chính là trong thơ của Nguyễn Bính. Trong cuốn hồi ký
Nguyễn Bính và tôi, Bùi Hạnh Cẩn - một ngƣời anh em “con nhà Nho cũ”, một
bạn học thời niên thiếu, một bạn thơ - đã tiết lộ rằng Nguyễn Bính có một tập
thơ đầu tay chƣa in mà Bính rất trân trọng. Đó là tập thơ Bướm. Nguyễn Bính
tự nhận tiền thân của mình là bƣớm, nên lấy hiệu là Điệp Lang [17, 156].
Trong 7 tập thơ chính của Nguyễn Bính đƣợc sáng tác trƣớc năm 1945,
86
con bƣớm (cánh bƣớm) xuất hiện tới 62 lần; trong đó khái niệm bƣớm theo
nét nghĩa chung xuất hiện 42 lần, bƣơm bƣớm xuất hiện 04 lần, bƣớm vàng
xuất hiện 07 lần và bƣớm trắng xuất hiện 09 lần. Cánh bƣớm xuất hiện trong
thơ Nguyễn Bính với nhiều tên gọi, tính chất vô cùng phong phú và thi vị:
bướm xưa, bướm yêu, bướm xuân xanh, bướm già, bướm láng giềng, bướm
dại, bướm giang hồ, bướm tiên, bướm đi tu,.... Ngƣời đọc có cảm giác nhƣ
hình ảnh cánh bƣớm quấn quyện từng chữ, từng câu thơ Nguyễn Bính, xuất
hiện trong mọi cung bậc tình cảm của nhà thơ. Có một số bài thơ, Nguyễn
Bính sử dụng hình ảnh con bƣớm là nhân vật trung tâm của tác phẩm, tiêu
biểu nhƣ Truyện cổ tích, Hương cố nhân, Hết bướm vàng, Người hàng xóm.
Ngỡ nhƣ theo cánh bƣớm, ta có thể làm một cuộc lãng du trong tâm hồn thi sĩ
chân quê cùng với bao nhiêu cung bậc của tình yêu.
Cánh bƣớm - biểu tƣợng của khát khao hạnh phúc lứa đôi. Nguyễn
Bính là một thi sĩ đa tình và cũng đa sầu, đa cảm đến vô cùng. Trong những
năm tháng là học trò trƣờng huyện nơi làng quê thân thuộc cho đến khi thực
hiện giấc mộng giang hồ, Nguyễn Bính dƣờng nhƣ không ngừng yêu, không
ngừng bận tâm về những ngƣời tình trong mộng tƣởng. Đặc biệt là ở chỗ, tất
cả đều thể hiện sự nghiêm túc, chân thành và khát khao hạnh phúc lứa đôi đến
cháy bỏng. Hình ảnh cánh bƣớm xuất hiện với tần suất lớn và thể hiện nét
nghĩa này đậm đặc nhất.
Hình ảnh đôi bƣớm vàng xuất hiện trong bài thơ Truyện cổ tích mang
đậm tính “liêu trai”, rất thi vị, tình tứ và nhiều yếu tố bất ngờ: “Em ạ, ngày
xưa vua nước Bướm/ Kén nhân tài mở “Điệp khoa lang”/ Vua không lấy
Trạng, vua thề thế/ Con Bướm vàng tuyền đậu Thám hoa”. Rồi vua Bƣớm gả
con gái yêu cho Thám hoa. Hai vợ chồng bƣớm đƣợc nuông chiều, sớm chiều
chỉ mải đi xem hoa, đến quên cả lối về. May thay, trong cơn nguy khó thì gặp
đƣợc bà tiên phúc hậu ngỏ ý tốt bụng giúp đỡ. Và đến phần cuối của câu
87
chuyện này thì điều bất ngờ đã xẩy ra: “Đêm ấy chăn êm và gối êm/ Vợ chồng
ăn bánh với bà tiên/ Ăn xong thoắt chốc liền thay lốt/ Chồng hoá làm anh, vợ
hoá em”. Câu chuyện cổ tích với hình ảnh hai vợ chồng nhà bƣớm gợi nhớ
đến tích “Trang Chu mộng hồ điệp” nhƣ đã nói ở trên, chẳng biết thi sĩ hóa
bƣớm hay bƣớm hóa thành thi sĩ.
Thi sĩ kể chuyện mình trồng hai vƣờn cải, trồng hoa mà cũng chính nhƣ
ƣơm mầm tình yêu vậy. Đến tháng Chạp, cải nở hoa vàng hấp dẫn nhƣ lời
mời gọi “lũ bƣớm láng giềng đƣơng khát nhụy” sang chơi: “Qua dậu tầm
xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng vàng quá, bướm yêu yêu/ Em sang bắt
bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo” (Hết bướm
vàng). Cánh bƣớm vàng xuất hiện nhƣ một cầu nối cho sự gặp gỡ và khởi
nguồn tình yêu. Và cũng chính những cánh bƣớm là chứng nhân cho tình cảm
trong sáng, ngây thơ của tuổi học trò trƣờng huyện: “Lá sen vương vấn hương
sen ngát/ Ấp ủ hai ta chút nhuỵ hờ/ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc/ Theo về
tận cửa mới tan mơ” (Trường huyện).
Nguyễn Bính xa quê, làm một chuyến giang hồ với bao nhiêu mộng
tƣởng làm nên sự nghiệp và công danh. Nhà thơ tự nhận mình là cánh bƣớm
“giang hồ” phiêu bạt nay đây mai đó, dẫu vẫn biết là khó khăn nhƣng vẫn
không nguôi mong ƣớc một tình yêu trọn vẹn: “Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa
khuê các bướm giang hồ gặp nhau?” (Tương tư).
Cánh bƣớm - biểu tƣợng của sự nhỡ nhàng, tan vỡ. Phần nhiều cánh
bƣớm xuất hiện trong thơ tình Nguyễn Bính gắn liền với ý nghĩa biểu trƣng
này. Ngƣời thơ đa tình dễ rung động, dễ khao khát, dễ yêu say đắm thì cũng
dễ đau khổ, thất vọng ghê gớm vì tình yêu. Mối thân tình vừa chớm nở thì đã
theo cánh bƣớm bay đi mất: “Em đã sang ngang với một người/ Anh còn
trồng cải nữa hay thôi?/ Đêm qua mơ thấy hai con bướm/ Khép cánh tình
chung ở giữa đời” (Hết bướm vàng). Hình ảnh “hai con bƣớm” biểu tƣợng
88
cho sự gắn kết giữa hai vợ chồng, nay đã “khép cánh” lại, nhƣ một dấu chấm
hết cho cuộc tình đầy dƣ vị tiếc nuối. Và ngay cả câu chuyện tình yêu ngây
thơ, trong vắt của học trò ngày xƣa ấy, sau bao nhiêu mộng tƣởng, bao nhiêu
đợi chờ cũng trở nên bẽ bàng, nhƣ gió thoảng mây bay: “Mà đến hôm nay anh
mới biết/ Tình ta như chuyện bướm xưa thôi” (Trường huyện).
Thế nên, cũng không có gì lạ khi đến lúc ngƣời đa tình ấy có cảm giác
chán nản, buông xuôi, thậm chí là bất lực trƣớc tình yêu, những khao khát
ngày xƣa trở thành nỗi ám ảnh, khó chịu. Tình yêu lúc này không phải là
mộng đẹp nữa, mà chính xác là gánh nặng, là bi kịch, là đau khổ tuyệt cùng:
Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
Rặt những tin đồn chuyện bướm ong
(Xuân tha hƣơng)
Cả cuộc đời chàng thi sĩ đa tình, dù qua bao nhiêu sƣơng gió, qua bao
nhiêu cô đơn, tuyệt vọng và cả những bạc bẽo, đắng cay chắc cũng chƣa thể
trả lời cho vẹn nghĩa câu hỏi này. Nó nhƣ một chiếc dằm, cứ lẩn khuất găm
vào trong trái tim nhà thơ, dù cũng đã đau đớn nhận ra: “Chao ơi! ba bốn tao
ân ái/ Đã đủ tan tành một kiếp trai”, nhƣng vẫn không nguôi nỗi khao khát
yêu đƣơng.
Nhƣ vậy có thể thấy, trăng, vƣờn và cánh bƣớm là những biểu tƣợng
nghệ thuật tiêu biểu về góc độ không gian - vật thể, xuất hiện với tần suất khá
dày đặc trong sáng tác của nhiều thi sĩ. Đó chính là không gian lý tƣởng để
“náu mình”, che đậy những nỗi niềm cô đơn, lạc lòng; đồng thời, cũng là nơi
để gửi gắm nỗi khát khao yêu ngƣời, yêu đời với nhiều cung bậc cảm xúc.
3.2. Biểu tƣợng về thế giới tâm linh
3.2.1. Biểu tượng âm phủ - địa ngục
Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier,
Alain Gheerbrant diễn giải về âm phủ, địa ngục với những nét nghĩa cơ bản
89
sau: (1) Chốn đó không ai nhìn thấy, vĩnh viễn không có lối ra, chìm trong tối
tăm, lạnh lẽo, đầy ma quỷ, quái vật hành hạ những ngƣời chết; (2) Đƣờng đi
ngƣợc chiều ánh sáng mà không đi theo ánh sáng, tƣợng trƣng cho bƣớc thoái
triển, đi vào bóng tối; (3) Bản chất sâu kín của địa ngục chính là đại tội, kẻ
mắc tội ấy là những linh hồn chết, là điều bất hạnh tuyệt đối, là sự thiếu thốn
cơ bản, sự dày vò huyền bí và vô tận [12, 35].
Âm phủ, địa ngục và những hình ảnh liên quan đến cuộc sống nơi cõi
âm, thế giới tâm linh (xƣơng khô, mồ, mả, bóng ma,…) hiện lên đầy rẫy trong
Thơ mới, nhất là với những nhà thơ ảnh hƣởng nhiều của trƣờng phái tƣợng
trƣng, siêu thực, tiêu biểu nhƣ Chế Lan Viên, Huy Cận, Bích Khê.
Đúng nhƣ Chế Lan Viên đã định nghĩa về thi sĩ rằng: “Thi sĩ không
phải là Ngƣời. Nó là Ngƣời Mơ, Ngƣời Say, Ngƣời Điên. Nó là Tiên, là Ma,
là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ Vãng. Nó ôm
trung Tƣơng Lai” [122, 719]. Thì quả thật, trong các nhà Thơ mới, khi nói
đến việc sử dụng biểu tƣợng âm phủ, địa ngục, về cõi chết, chắc không ai có
thể qua đƣợc Chế Lan Viên. Chỉ riêng trong 37 bài thơ của tập Điêu tàn thì
biểu tƣợng địa ngục đã xuất hiện đến 81 lần với nhiều biến thể phong phú của
nó: đầu lâu, sọ người, bãi tha ma, hồn ma, huyệt tối, yêu tinh, quỷ không đầu,
chiếc xương khô, vạn yêu ma,…. Và nhiều bài thơ có tựa đề về cuộc sống âm
phủ: Cái sọ người, Mồ không, Lời của mồ không, Những nầm mồ, Đám ma,…
Chế Lan Viên trở lại thế giới cõi âm, với những mồ hoang, huyệt
lạnh, xƣơng trắng, sọ ngƣời và những hồn ma vật vờ trong sƣơng lạnh. Chàng
trai khi ấy đã theo hồn ma để trở về quá khứ của nƣớc Chiêm Thành xƣa
(Phải nói thêm là hình ảnh của Chiêm quốc xuất hiện đến 28 lần trong tập
Điêu tàn: muôn binh Chàm, vạn dân Chiêm, voi Chàm, Chiêm nữ, Chiêm
nương, nước Chàm ta,…).
Trên đƣờng về quá khứ trong giấc mộng mê man ấy, Chế Lan Viên đã
90
gặp những “đền xƣa đổ nát”, “những dòng sông vắng”, “những tƣợng Chàm
lở lói” và gặp “muôn ma sờ soạng dắt nhau đi”. Thế giới xung quanh hầu nhƣ
không có màu ánh sáng, mà bao trùm là đêm tối, với những rờn rợn khí yêu
ma, với những sọ ngƣời, xƣơng khô, yêu tinh: “Vẳng đâu đây, rùng rợn dưới
trăng mờ/ Tiếng xương người mạnh va sườn quách gỗ/ Rùng rợn như… tiếng
vỡ sọ dừa ta” (Mộng), “Và xương khô, và sọ dừa, và thịt nát/ Và hơi âm rờn
rợn của yêu tinh/ Loài người đã mang đi qua mộ khác/ Để lòng ta trống trải
khí thiêng linh” (Mồ không). Và trong cái không gian ngập ngụa khí chết ấy,
từ sâu thẳm tâm hồn thi nhân cũng bị bủa vây: “Nàng hỡi nàng! trên tay ta là
một trống/ Trong lòng ta là huyệt bỏ, với trong hồn/ Là mồ không lạnh lùng
sương giá đọng/ Toàn khổ đau, sầu não với lo buồn” (Lời của mồ không).
Theo cách phân tích của Nguyễn Vỹ, thì có lẽ khi mới là một chàng
trai 17 tuổi, Chế Lan Viên bị ảnh hƣởng hoàn toàn bởi những Tháp Chàm ở
rải rác khắp Bình Định, gần Quy Nhơn, là chứng tích của một văn minh cổ
kính, oai hùng vừa sụp đổ. “Nếu Chế Lan Viên không phải là dòng dƣới
ngƣời Chàm, thì Chế Lan Viên cũng là sản phẩm của những điêu tàn bi hận
mà lịch sử vẻ vang của dân tộc Chàm còn để lại trên đất nƣớc thiêng liêng của
Po-Nagar” [75, 25]. Là một nhà thơ giàu tƣởng tƣợng, có lẽ cái phần trong
sáng của trí tƣởng tƣợng đã giúp Chế Lan Viên dựng lên những cảnh thanh
bình, yên ấm trong quá khứ vàng son của nƣớc Chiêm Thành. Nhƣng phần tối
trong trí tƣởng tƣợng có lẽ mạnh hơn rất nhiều, nó dựng lên một quá khứ
nƣớc Chiêm đầy rẫy yêu ma, xƣơng khô, yêu tinh:
Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước
Vào nơi đây, thế giới vạn cô hồn
Hơi người Chết tỏa đầy trong gió lướt
Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ non xanh
(Xƣơng khô)
91
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét ầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận
Xương Chàm tuôn rào rạt nỗi căm hờn
(Trên đƣờng về)
Đó không phải là thế giới trƣớc mắt mà là thực tại trong tâm hồn thi
nhân đƣợc thể hiện qua các biểu tƣợng. Đó là những thực tại ám ảnh khôn
cùng. Chúng ta đang gặp một thi nhân luôn sống trong mộng tƣởng, suy
tƣởng triền miên, mơ màng trong thi hứng. Chế Lan Viên đã dùng những
tƣởng tƣợng siêu thực, những ám ảnh vô thức để nói lên cái thực tại trong hồn
mình và những ngƣời dân mất nƣớc. Có vẻ nhƣ, tìm về quá khứ của dân tộc
khác thời vàng son cũng là một cách để tránh nói đến thực tại đau thƣơng của
dân tộc mình?
Âm phủ, địa ngục xuất hiện 14 lần trong các sáng tác của Huy Cận
trƣớc cách mạng tháng Tám, với nhiều biến thể nhƣ: tha ma, cửa mộ, xe tang,
hàng cờ đen, kèn đám ma,… Trong cái nhìn của Huy Cận, biểu tƣợng địa
ngục (địa phủ) là thế giới mờ mịt, tối tăm lạnh lẽo, nơi của những “cô hồn vạn
thuở buồn đơn chiếc” phải chịu cảnh:
Ai đắp mền cho, trải nệm là?
Đem dày ướt rượi khí tha ma
Coi chừng cửa mộ quên không khép
Địa phủ hàn phong lọt cả mà
(Ngủ chung)
Trong hoàn cảnh đất nƣớc đang lầm than, rên xiết dƣới ách đô hộ tàn
ác của thực dân, bản thân nhà thơ không tìm ra lối thoát, nên thấy bế tắc, chán
chƣờng. Xung quanh chỉ thấy “một vùng tang” với những điệu nhạc sầu,
những cái chết lặng lẽ: “Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy/ Xe tang đi về tận
92
thế giới nào?/ Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao/ Không lửa ấm, chắc
hồn buồn lắm đó… / Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!/ Kèn đám ma hay ấy
tiếng đau thương” (Nhạc sầu).
Địa phủ là nơi đày ải linh hồn nhƣng trần gian cũng không phải là nơi
an lành cho linh hồn trú ngụ. Sử dụng biểu tƣợng địa phủ, Huy Cận đã nói lên
một cách sâu sắc thân phận của con ngƣời, nhất là tầng lớp tiểu tƣ sản trong
xã hội cũ và niềm khát vọng vƣơn tới cõi thanh cao, yên lành, hạnh phúc.
Khát vọng đối lập với hiện thực trần trụi, đáng thƣơng: “Thân bay nhảy giam
trong mồ nhỏ tí/ Một dáng điệu suốt trăm năm thế kỷ” (Chết).
Trong thế giới nghệ thuật thơ của Bích Khê cũng có một hệ thống
biểu tƣợng về cõi âm, địa phủ. Hệ thống hình ảnh về cõi âm xuất hiện 55 lần
trong tập thơ Tinh huyết và Tinh hoa, với các dạng thể nhƣ: đầu lâu, sọ người,
xác chết, xương ma, nấm mộ,… Cái chết đối với thi nhân nhƣ một nỗi ám ảnh
thƣờng trực, nên phải tìm đến cái chết để giải thoát nỗi đau trong tâm tƣởng:
Ồ! Đừng có ngớp! Mời anh hãy bước.
Qua nơi này là cách biệt trần gian
…
Đi vào cõi mê ly không bờ bến...
Bước đi anh! Sa gấm trải lòng đường.
…
Anh đừng run! Đừng dại! Cũng đừng điên!
Lẹ làm sao! Địa ngục hiện ra liền,
Anh đừng khiếp! - Lòng tôi mang địa ngục
(Một cõi trời)
Nhƣng điều oái ăm là ở chốn địa ngục tối tăm này, nhà thơ lại tìm
thấy những khoái cảm mà nơi trần gian không có: “Nhạc khiêu vũ đã đầy lan
sóng múa…/Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn/ Những xiêm áo bay rờn
93
trong cảnh mộng/ Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng/ Bắn tinh ra trộn trạo giữa
nguồn hương” (Châu). Từ cảm nhận đó, cái chết với Bích Khê không trở nên
đáng sợ nữa, ngƣợc lại, nó là điều thú vị, chờ đợi: “Hơn một bận ta đi vào cõi
chết/ Cạy nắp hòm tìm ý vị cao sang” (Cặp mắt).
Trong thơ Bích Khê, ta còn gặp những huyệt sâu, xương người, xác
chết, … tƣởng chừng toàn những hình ảnh gợi sự đau thƣơng nhƣng đọc kỹ,
ta thấy tất cả lại trở thành ƣớc mơ, tình yêu, quấn quýt với nhau trong tình yêu
vĩnh cửu: “Hãy khép trong đau để ước mơ/ Để yêu lờ lặng trong trang thơ/
Để chôn tất cả hồn vô hạn/ Sâu hóm trong đây huyệt chữ mờ/ Huyệt chữ bằng
tinh vạn thước sâu/ Mồ người thi sĩ rất đa sầu!/ Mồ người mỹ nữ xuân mười
bốn!/ Hai đứa bên nhau quấn lấy nhau” (Tấm bia trước mộ thơ).
Ngôi mộ luôn là biểu tƣợng cho cái chết và cũng là biểu tƣợng cho sự
an toàn, yên nghỉ, vĩnh hằng. Ngôi mộ cũng là nới chứa đựng mầm sống, diễn
ra cuộc thụ pháp của vạn vật khi bƣớc sang một mầm sống mới. Bích Khê
viết nhiều thơ về cõi chết nhƣ là phƣơng thức thể hiện khát vọng khám phá
đến tận cùng những chiều kích của cuộc sống, những giới hạn các cung bậc
cảm xúc của con ngƣời, chạy trốn nỗi cô đơn, chán chƣờng của thực tại. Đó
cũng là tâm trạng và cách thức chung của phần nhiều các nhà Thơ mới.
3.2.2. Biểu tượng hồn - linh hồn
Trong các biểu tƣợng văn hóa, có thể nhận thấy rằng không có biểu
tƣợng nào mang tính đa nghĩa, đa trị bằng hồn (linh hồn). Hồn bao giờ cũng
vô hình, nó tồn tại một cách thần bí, thiêng liêng và bất tử. “Từ hồn gợi ý
niệm về một quyền năng vô hình: một bản thể khác biệt, một bản nguyên của
sự sống. Nhờ khả năng huyền bí của mình, nó gợi ý tƣởng về một sức mạnh
siêu nhiên, về thần linh, về một trung tâm năng lƣợng. Hồn, linh hồn trƣng ra
một chuỗi biểu tƣợng” [12, 448].
Linh hồn là một biểu tƣợng nghệ thuật chứa đựng nhiều sự thú vị về nhân
94
sinh của con ngƣời. Trong văn học phƣơng Tây, motif bán linh hồn cho quỷ sứ
khá quen thuộc, với hai lớp ý nghĩa chính: một là quá trình vƣơn lên không
ngừng đến chân giá trị, hai là sự sa đọa có ý thức, hƣởng thụ cuộc đời trong
tội lỗi. Điều đặc biệt trong thế giới nghệ thuật của các nhà Thơ mới, biểu tƣợng
hồn xuất hiện rất đa dạng, phong phú, có sức ám gợi rất mạnh. Tiêu biểu nhất
phải nói đến Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Thế Lữ.
Trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, có 50 bài thì 47 lần tác giả nhắc
đến hồn và linh hồn (chiếm 94%, nghĩa là tính trung bình thì bài nào cũng
xuất hiện hình ảnh này). Hoàn toàn có thể khẳng định, đây là biểu tƣợng nghệ
thuật quan trọng nhất trong thơ Huy Cận trƣớc cách mạng tháng Tám. Nhà
thơ quan niệm hồn là yếu tố tinh thần, gắn với phần thanh cao trong sáng của
con ngƣời, là biểu tƣợng của bản nguyên bất tử. Huy Cận nhiều lần nói về
tình trạng hồn bơ vơ, lƣu lạc, ly tán giữa cõi trần:
Lòng tôi đây, trọn một đời thương nhớ
Hồn tôi đây thiên hạ bỏ lìa xa
(Trình bày)
Trời! Ảo não những chiều buồn Hà Nội
Hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu
(Trò chuyện)
Hồn bơ vơ tôi đi dạo giữa đời
Chân theo lòng mà người chẳng theo tôi
(Cầu khẩn)
Tình trạng bơ vơ, lạc lõng của linh hồn giữa chốn trần gian chính là
tình trạng bi đát của con ngƣời bị mất thiên đƣờng, cô đơn nơi trần thế. Nhất
là trong tình thế con ngƣời không biết làm cách nào để bắt nhịp đƣợc vào với
cuộc sống hiện tại, nên càng thấy lạc lõng đến bi kịch. Đó là cảm giác của “cô
hồn vạn thuở buồn đơn chiếc” (Ngủ chung).
Ở một góc độ khác, biểu hiện hồn, linh hồn trong thơ Huy Cận lại gắn
95
với những cung bậc cảm xúc của tình yêu cuộc sống, tình yêu con ngƣời. Thật
hiếm gặp, trong một không gian mùa xuân tràn đầy thi vị lãng mạn, lòng thi sĩ
trở nên hoan lạc, tƣng bừng, hy vọng những điều tốt đẹp: “Tôi luồn tay nhỏ
giữa không gian/ Với gió xa xôi lạnh lẽo ngàn/ Tôi để cho hồn theo với lá/
Xiêu xiêu cúi nhẹ trút buồn tràn” (Mưa). Không còn là hồn bơ vơ, hồn hiu
quạnh nữa, đó là những rung động thƣơng yêu trong trẻo, tinh khiết: “Sáng
hôm nay hồn em như tủ áo/ Ý trong veo là lượt xếp từng đôi” (Tình tự), “Em
nói anh nghe tiếng lẫn lời/ Hồn em anh thở ở trong hơi…/ Dịu dàng áo trắng
trong như suối/ Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay” (Áo trắng). Đó còn là hồn
thơ, hồn thi sĩ: “Hỡi trăng gió đã nghe chàng kể lể/ Hồn các ngươi là hồn của
người thơ” (Mai sau). Đặc điểm quan trọng nhất của phần hồn trong thơ Huy
Cận chính là không thoát ly cuộc sống, mà hồn cũng nhƣ thể xác, cũng phải
chịu những ngang trái, đau khổ do cuộc đời gây nên.
Với tần suất lặp lại rất lớn 63 lần/ 37 bài thơ của tập Điêu tàn, hồn,
linh hồn cũng là một biểu tƣợng ám ảnh trong thơ Chế Lan Viên. Hồn trong
Điêu tàn chủ yếu nói về sự hiện tồn của những vong linh bất hạnh. Hồn ấy là
cả một thế giới đông đúc của cƣ dân Chàm đã tuyệt diệt. Hồn đƣợc tồn tại với
nhiều biến thể nhƣ: hồn điên, hồn tan, hồn ma, cô hồn, hồn phách, thuyền
hồn,… Bản thân Chế Lan Viên cũng đã băn khoăn tự đặt câu hỏi cho mình:
“Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng/ Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma? Hồn
của ai trú ẩn ở đầu ta? Ý của ai trào lên trên đáy óc…/ Ai bảo giùm: Ta có ta
không?” (Ta).
Trong thế giới linh hồn đậm đặc ấy, nhà thơ có thể giao tiếp với những
hồn ma nhƣ một thực thể có thật trong cõi mộng, đất nƣớc Chiêm Thành xƣa:
Hồn ma ơi! Hồn ma ơi! có nhớ
Nơi mi hằng chôn gửi hận Trần Gian?
Nơi đã khô của mi bao máu đỏ
Bao tủy nồng, não trắng với xương tàn?
96
(Mồ không)
Thi nhân tiếp xúc với những cô hồn đau khổ, ly tán ẩn náu trong các
mảnh sọ, đợi đem buông xuống lại vật vờ lên dƣơng gian rồi vội vã trở về
nấm mồ khi gà gáy sáng: “Vào nơi đây, thế giới vạn cô hồn/ Hơi người Chết
tỏa đầy trong gió lướt…/ Tiếng gà bỗng từ đâu vang dội lại/ Hồn yêu tinh sực
tỉnh giấc mơ nồng/ Và vội vã trở về mồ u tối/ Quân làn xương trong cỏ đắm
sương trong” (Xương khô). Biểu tƣợng hồn (hồn ma) trong thơ Chế Lan Viên
có nguồn gốc từ quan điểm phổ biến của ngƣời phƣơng Đông nói chung và
ngƣời Việt nói riêng. Theo đó, hồn có tính nhị nguyên, đƣợc hợp thành bởi
hai yếu tố là Quỷ và Thần. “Quỷ là hồn nặng nề nhất, bị trĩu nặng bởi những
dục vọng của ngƣời sống; nó ở lại bên mộ và lẩn quất bên cạnh những chỗ
quen thuộc. Thần và anh linh, là cái phần thần thánh có ở bản thể con ngƣời”
[12, 450]. Có thể thấy rõ, hồn ma trong Điêu tàn chủ yếu là phần Quỷ (yêu
tinh, yêu ma), là oan hồn không thể siêu thoát. Chúng không thể nào tiêu diệt
đƣợc và tồn tại mãi:
Chính như thế, nơi xa xăm trong cõi Chết
Bao cô hồn vẫn sống tháng ngày qua
Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt
Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ
(Bóng tối)
Với niềm tin chắc đó, thế nên ngay cả khi vũ trụ đã lan tràn đầy ánh
sáng, sự sống lấp lánh cùng với nắng sớm, trời tƣơi, thì lòng ngƣời vẫn thấy
thờ ơ, thất vọng: “Ta vẫn thấy hồn ta buồn ủ rũ/ Và cõi lòng dằng dặc bóng
đêm mờ/ Vì, bạn ơi, trong bao tia nắng rỡ/ Tia nào đâu rơi tự nước Chàm ta”
(Nắng mai).
Trong hai tập thơ Tinh huyết và Tinh hoa của Bích Khê, hồn, linh hồn
xuất hiện 59 lần/ 73 bài thơ, chiếm 80.82%. Biểu tƣợng hồn trong thơ của
97
Bích Khê hoàn toàn nằm trong thế giới của cõi mộng, thoát ly thực tế cuộc
sống. Cả bài thơ Mơ tiên là một giấc mộng của hồn. Thi nhân đã hòa mình
vào cõi mơ, để hồn đƣợc say sƣa, hƣởng khoái lạc:
Hồn bay! Hồn bay! Hồn bay
Ngửa nghiêng tắm mát vàng lay, nhạc hường
Đêm nay no ớn nguồn hương
Một trời thanh khí mười phương đa tình
…
Ô coi! Hồn đương say nghiền
Đã nư khoái lạc trong miền chiêm bao
Hồn trong thơ Bích Khê là thực thể hiện hữu, không tách khỏi thể xác,
tồn tại song song với thể xác. Và đặc biệt là vẫn mang nặng những dục vọng
của con ngƣời trần tục, nhất là với ngƣời đẹp: “Mình nóng hổi và hơi ran giữa
ngực/ Tôi mê man ghì lấy một giai nhân/ Hồn say sưa đương cố lột cho trần/
Cả sắc đẹp ngời ra như lưỡi kiếm” (Một cõi trời). Nhà thơ dùng biểu tƣợng
hồn nhƣ một hình thức để đi vào cõi mộng, giải thoát những ẩn ức, những bất
hạnh thực tế của cuộc đời bằng những giấc mơ. Thậm chí, hồn trong thơ của
Bích Khê còn trở thành kẻ ăn mày, xin bố thí để giải phóng nỗi đau: “Hồn ta
đau quá là ta ngửa tay/ Lạy tứ hướng và xin khắp thiên hạ/ Nắng có nhạc
chớp đầy hương hơi lạ/ Nấc âm thanh chết lịm giữa triền miên” (Ăn mày).
Biểu tƣợng hồn, linh hồn trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện tới 60 lần
trên tổng số 72 bài thơ, và cũng có thể coi là một biểu tƣợng độc đáo, giàu giá
trị thẩm mĩ. Tất cả biểu tƣợng hồn trong thơ Hàn Mặc Tử đều có cội nguồn từ
những tín niệm của Kinh Thánh khi cho rằng con ngƣời là hữu thể vừa thể
xác vừa linh hồn. Nhờ linh hồn mà thân xác của con ngƣời đƣợc hình thành
và sống động trong thể thống nhất. Nó không thể tách rời thể xác: “Cả hơi
hám muôn xưa theo ám ảnh/ Hồn trơ vơ không biết lạc về đâu?/ Và vướng
98
phải muôn vàn tinh khí lạnh/ Hồn mê man bất tỉnh một hồi lâu”, “Rồi sửng
sốt bay tìm muôn tử khí/ Mà muôn sao xa cách cõi hoang sơ/ Hồn cảm thấy
bùi ngùi như rớm lệ/ Thôi hồn ơi, phiêu lạc đến bao giờ” (Hồn lìa khỏi xác).
Và linh hồn luôn bất tử dù nó có lìa thân xác lúc chấm dứt hơi thở. Theo đó,
hồn chính là sự sống, là phần tử không thể tách rời:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ
(Những giọt lệ)
Thậm chí, thi sĩ còn tƣởng tƣợng đến cảnh hồn và xác làm một cuộc du
ngoạn trong một đêm say: “Cả thiên đàng, trần gian và địa ngục/ Hồn là ai?
Là ai? Tôi không hay/ Dẫn hồn đi ròng rã một đêm say/ Hồn mệt lả mà tôi thì
chết giấc” (Hồn là ai). Hồn bị giam cầm trong thể xác, nhiều khi bị thể xác
làm băng hoại, tê liệt và tan rã cùng thể xác:
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa”
(Hồn lìa khỏi xác)
Ám ảnh bởi bệnh tật giày vò, thể xác kiệt suy, thi nhân đau đáu giải
phóng linh hồn, tìm mọi cách đƣa hồn ra khỏi thể xác: “Ta khạc hồn ra khỏi
cửa miệng/ Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi” (Say trăng), “Đêm nay ta
khạc hồn ra khỏi miệng/ Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương” (Hồn lìa khỏi
xác). Hàn Mặc Tử tự nhận mình một kẻ điên dại, đến cuộc đời với một sự đau
thƣơng vô cùng. Sự đau thƣơng do Chúa tạo ra, và Hàn Mặc Tử thì lại là một
con chiên ngoan đạo với tên thánh là Francois Trí. Chính vì thế, trong thơ
Hàn Mặc Tử, chúng ta tuyệt nhiên không thấy sự trách cứ, oán thán cuộc đời,
mà nếu có chỉ là oán trách số phận, bệnh tật bủa vây quanh mình. Và nhà thơ
muốn giải thoát khỏi sự đơn độc, quạnh hiu ấy, bằng cách thoát phần hồn của
99
mình ra khỏi xác thịt.
Nói chung biểu tƣợng hồn - linh hồn thƣờng chứa đựng những ý tứ kín
đáo, thâm trầm, thậm chí bí hiểm của nghệ sĩ, nên khi tìm hiểu biểu tƣợng thú
vị này ta phải đặt nó trong một cái nền khác nữa: chỉnh thể tác phẩm và toàn
bộ thế giới nghệ thuật của tác giả. Biểu tƣợng hồn - linh hồn trong Thơ mới
có nhiều biến thể, lắm sắc thái, thể hiện rõ sự ảnh hƣởng của trƣờng phái thơ
tƣợng trƣng, siêu thực đến các nhà Thơ mới. Và ở một góc độ khác, cũng thể
hiện rõ sự dung hợp của hai nguồn văn hóa phƣơng Đông và phƣơng Tây.
Hồn - linh hồn trong thơ ca Cách mạng cũng hiện lên với nhiều dạng
thức, phong phú nhƣ trong Thơ mới, nhƣng lại là hồn oan, hồn vô sản, hồn
chiến đấu, hồn phấn đấu, hồn khổ,... Biểu tƣợng hồn - linh hồn trong thơ
Cách mạng có giá trị biểu đạt hoàn toàn khác so với trong Thơ mới. Đó là
biểu đạt cho tinh thần cách mạng, cho ý chí của ngƣời chiến sĩ, cho sự sẻ chia
nhân ái: “Đứng phắt dậy! Hỡi muôn hồn phấn đấu/Phá bất bình, mưu sống
cho ngày mai...” (Xuân lòng, Tố Hữu), “Dậy lên, hỡi những linh hồn thép/
Dân tộc lưu đây vạn tập truyền!” (Dậy lên thanh niên, Tố Hữu), “Nghe còi
như giục hồn vô sản/ Trông nước càng sôi nỗi bất bình” (Đi đày Sơn-La,
Phạm Đình Cấu).
3.2.3. Biểu tượng máu
Máu là bản nguyên của sự sinh thành, và là sự sống (theo quan điểm
của Kinh Thánh). “Máu tƣợng trƣng cho tất cả những giá trị liên đới với lửa,
với sức nóng và sự sống” [12, 566]. Ở phƣơng Đông, dòng máu biểu trƣng
cho sự dẫn truyền giữa các thế hệ (dòng máu anh hùng, dòng máu Lạc Hồng).
Còn đối với nhà thơ tƣợng trƣng Baudelaire ở phƣơng Tây, ông quan niệm
máu là mặt trời trong mỗi con ngƣời, khi dòng máu tƣơi xối chảy cũng chính
là lúc nguồn sống đang cạn dần.
Cùng với âm phủ, địa ngục, hồn, linh hồn, máu là biểu tƣợng xuất
100
hiện nhiều trong sáng tác của các nhà thơ chịu ảnh hƣởng từ chủ nghĩa tƣợng
trƣng, siêu thực, tiêu biểu nhƣ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Đinh Hùng, Bích
Khê. Trong cuộc giao thoa giữa Thơ mới và thơ ca lãng mạn Pháp có hai làn
sóng: một là chịu ảnh hƣởng chủ yếu của thơ lãng mạn Pháp, hai là chịu tác
động sâu sắc của Baudelaire và những nhà thơ tƣợng trƣng chủ nghĩa Pháp.
Theo đó, máu cũng là một ám ảnh rất lớn trong sự gặp gỡ tƣ duy thơ này, xuất
hiện chủ yếu là trong thế giới của những giấc mơ và sự tỉnh thức mơ hồ.
Hình ảnh máu xuất hiện 15 lần trong thơ Hàn Mặc Tử, là biểu tƣợng kết
nối sự sống và cái chết, giữa những âm thanh hỗn loạn của thể xác và linh hồn:
Anh cắn lời thơ để máu trào
Lời thơ ngậm cứng không rền rĩ
Mà máu tim anh vọt láng lai
(Lƣu luyến)
Có thể nói thơ Hàn Mặc Tử là những dòng đầy máu lệ, là tiếng kêu
gào trong nƣớc mắt bất lực trƣớc bệnh tật. Bệnh tật và những cơn đau, nhất là
không có ai ở bên cạnh đã đẩy nỗi cô đơn lên tận cùng. Nó là bi kịch, nhƣng
cũng là động lực duy nhất, cứu cánh duy nhất để thúc đẩy trong nhà thơ niềm
sáng tạo vô biên. Đau thƣơng đồng hành cùng sáng tạo. Biểu tƣợng máu, khởi
nguồn từ vô thức, tạo chất men say trong nguồn sống ấy:
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trên niềm đau trên mảnh giấy mong manh…
Và muôn năm rướm máu trong không gian
(Rƣớm máu)
Hàn Mặc Tử mang nỗi đau của ngƣời có trong mình một tình yêu quá
mãnh liệt với cuộc đời và con ngƣời, nhƣng lại vô vọng và tuyệt vọng. Thiết
101
tha sống nhƣng luôn phải đối mặt với việc chia lìa sự sống, nên tuyệt vọng là
trạng thái thƣờng trực trong tinh thần của thi nhân. Máu trong thơ Hàn Mặc
Tử xuất hiện không quá bạo liệt nhƣng cũng mang ý nghĩa tự hủy hoại: “Ta
nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” (Say trăng).
Không ai yêu sống bằng một ngƣời sắp phải chia lìa cõi sống, sắp bị tƣớc đoạt
sự sống: “Ta sẽ hộc ra từng búng huyết/ Nhuộm đầy phong vị lúc mê ly”
(Người ngọc), “Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng/ Hóa thành vũng máu đào
trong ác lặn” (Trường tương tư).
Cũng nhƣ linh hồn, biểu tƣợng máu trong thơ Hàn Mặc Tử có căn
nguyên từ Kinh Thánh, là hình ảnh cứu rỗi mà chúa Giêsu đã đổ ra trên cây
thánh giá để cứu rỗi con ngƣời. Máu là biểu trƣng cho sự hành hạ và giải
thoát, đồng thời là nguyên lý của sự sống, là chờ đợi vòng phục sinh. Nếu
không thấy căn nguyên ấy, sẽ thật khó tiếp cận sự biến đổi kỳ ảo của biểu
tƣợng máu trong thơ Hàn Mặc Tử: “Máu tim ta tuôn ra làm biển cả/ Mà sóng
lòng dồn dập như mây trôi…/ Ôi, ta đã mửa ra từng búng huyết/ Khi say sưa
với lượn sóng triền miên” (Biển hồn ta), “Xin dâng này máu đang tươi/ Này
đây nước mắt giọng cười theo nhau” (Này đây lời ngọc song song). Cho đến
tận cùng của nỗi đau và sự bất lực chẳng hề giải thoát, thi nhân vẫn luôn đau
đáu: “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi?/ Bao giờ tôi hết được yêu vì/ Bao giờ mặt
nhật tan thành máu/ Và khối lòng tôi cứng tợ si?” (Những giọt lệ).
Trong tổng số 37 lần biểu tƣợng máu xuất hiện trong tập Điêu tàn của
Chế Lan Viên thì phần nhiều là gắn với hình ảnh của Chiêm Quốc, có thể xuất
hiện trực tiếp với nghĩa gốc của biểu tƣợng hoặc với nhiều biến thể nhƣ: máu
đỏ, suối máu, máu thắm, máu vàng tươi, khí tanh hôi, khí huyết tanh hôi,…
Để phục sinh một thời vàng son của dân tộc Chăm, nhà thơ quay
ngƣợc cỗ máy thời gian, tìm thấy những rung cảm trong sự tuyệt vọng, hãi
hùng, kinh dị điên cuồng với máu:
102
Trong gió rét, tiếng huyết kêu rạo rực
Như cô hồn rạo rực bãi tha ma
Khí ồ ạt như muôn năm không dứt
Ồ ạt trôi nguồn máu chiến trường xa
(Sông Linh)
Máu trở thành biểu tƣợng của sự tiếc nuối, của sự căm hận và của
những ƣớc mơ hồi sinh một cuộc sống thanh bình của dân Chiêm: “Đây chiến
địa đôi bên giao trận/ Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/ Máu Chàm cuộn
tháng ngày niềm oán hận/ Xương Chàm tuôn rào rạt nỗi căm hờn” (Trên
đường về), “Thi nhân sầu, nhìn theo giòng huyết cuốn/ Tâm hồn trôi theo giải
máu bơ vơ/ Người vẳng nghe trong thành tim cuồn cuộn/ Máu dân Chàm lôi
mạnh đống xương khô” (Sông Linh).
Chế Lan Viên đã viết trong lời tựa của tập Điêu tàn: “Điêu tàn có riêng
gì cho nƣớc Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu? Kìa kìa nó đang đục sọ dừa
anh. Tiếng xƣơng rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi” [75, 719]. Xƣơng máu của dân
Chàm, một thời đại huy hoàng của dân Chàm đã ám ảnh hồn thơ Chế Lan
Viên, tạo thành những mĩ cảm vô biên, cho nên nhà thơ đã khẳng định chắc
chắn rằng: “Trong thơ ta dân Chàm luôn sống mãi/ Trong thơ ta xương máu
khóc không thôi”.
Trong khi đó, biểu tƣợng máu trong thơ của Đinh Hùng mang biểu
trƣng cho sự hủy diệt cao độ, nhất là khi nhà thơ dùng hình ảnh máu gắn liền
với mặt trời. Trong bài thơ Bài ca man rợ, Đinh Hùng đã đẩy màu sắc của
biểu tƣợng máu lên mức độ đậm đặc nhất khi viết: “Cảnh sắc này bỗng
nhuộm máu tà dương” và “Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng”. Đặc biệt
là máu hòa trộn với màu tịch dƣơng, gắn liền với khoảnh khắc ngày tàn, khi
không gian, thời gian sắp bƣớc vào cái chết để hóa thân vào một không gian,
thời gian mới. Máu và sự siêu thoát có thể coi là sự ám ảnh, gặp gỡ tƣ duy
103
giữa các nhà Thơ mới với các nhà thơ tƣợng trƣng siêu thực Pháp. Chúng ta
có thể bắt gặp hình ảnh “máu” hiện lên trong sự bạo tàn, khoái cảm đau đớn
thể xác và tinh thần trong thơ Baudelaire: “Đôi khi dường như máu tôi chảy
lênh láng/ Như một đài phun thổn thức nhịp nhàng/ Tôi nghe rõ tiếng rì rầm
chảy mãi/ Hoài công tìm nhưng chẳng thấy vết thương mang” (La fontaine du
sang - Đài phun máu).
Biểu tƣợng máu trong thơ Bích Khê cũng xuất hiện nhiều lần. Máu
xuất hiện với những từ gắn liền với trạng thái tâm lí, nhƣ: “Máu cuồng vẫn
chảy điệu mê tơi/ Máu cuồng run khắp trong thân thể” (Cơn mê), “Lòng chết
đi như máu vẫn cuồng say/ Nhịp cung cầm cho vang lên tiếng nhạc” (Cô gái
ngây thơ). Máu giúp nhà thơ đi sâu, diễn đạt những cảm giác phi thƣờng mà
những sự vật bình thƣờng khó chuyên chở đƣợc. Máu là biểu tƣợng của sự
đau thƣơng đẩy lên đến ngƣỡng tận cùng: “Buồn sao muốn khóc cho ra máu/
Hiện ảnh trong hồn một đám tang” (Khóc ra máu). Thơ của Hàn Mặc Tử và
Bích Khê gặp nhau ở một số tƣ tƣởng cao siêu, thanh khiết và vô cùng thần bí
từ tôn giáo, cụ thể là đạo Thiên Chúa. Bản thân Hàn Mặc Tử đã từng nhắn
nhủ Bích Khê rằng: “Sáng tạo là điều cần thiết, tối yếu của thơ, mà muốn tìm
nguồn cảm xúc mới lạ, không chi bằng đọc sách tôn giáo cho nhiều. Nhƣ thế
thơ văn mới trở nên trọng vọng, cao quý, có một ý nghĩa thần bí” [95, 375].
3.2.4. Biểu tượng giấc mộng
Frédéric Gaussen đã đƣa ra ý kiến rất hay khi cho rằng chiêm mộng
(giấc mộng) là biểu tƣợng của một cuộc phiêu lƣu cá thể, nó tồn tại sâu trong
tâm khảm của con ngƣời đến mức độ nó vƣợt qua tầm kiểm soát của con
ngƣời. Còn S. Freud lại quan điểm một cách mĩ miều rằng, giải thích mộng
mị chính là một con đƣờng vƣơng giả để hiểu biết căn nguyên của lòng ngƣời.
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier và Alain
Gheerbrant còn cho chúng ta biết rằng, ở Ai Cập cổ đại, ngƣời ta quy cho
104
chiêm mộng một giá trị tiên báo đặc biệt: Thƣợng đế đã sáng tạo ra những
giấc mơ để chỉ đƣờng cho loài ngƣời, một khi họ không có khả năng nhìn
thấy tƣơng lai, một cuốn sách minh triết viết [12, 164]. Các tác giả cũng chỉ ra
rằng, vai trò có thể là cơ bản nhất của chiêm mộng (giấc mơ theo cách gọi của
S. Freud) là “thiết lập một kiểu cân bằng bù trừ trong đời sống tâm thần của
con ngƣời. Nó đảm bảo một sự tự điều chỉnh tâm - sinh học” [12, 166].
Đối với các nhà Thơ mới, thời đại họ đang sống là thời đại của những
niềm hy vọng lớn lao và của những thất vọng nặng nề. Tự tách biệt cuộc sống
cá nhân mình ra khỏi những bộn bề, sôi động của thực tại, các nhà thơ cảm
thấy mình cô đơn, không có chỗ đứng trong cuộc đời. Nhƣ nhận thức của Vũ
Hoàng Chƣơng thì là: “Lũ chúng ta lạc loài, dăm bảy đứa/ Bị quê hương
ruồng bỏ, giống nòi khinh…/ Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỉ/ Một đôi người
u uất nỗi chơ vơ” (Phương xa). Trong tâm trạng ấy, nhiều nhà thơ đã tìm đến
giấc mộng và coi nhƣ một phƣơng thức để khỏa lấp những nỗi đau, nỗi buồn
rầu và chán nản. Không quá khi nói rằng, trong không gian Thơ mới ngập tràn
những mộng tƣởng. Mỗi nhà thơ đều có những giấc mộng của riêng mình, tùy
theo tính cách và quan niệm thẩm mĩ của mình. Chúng tôi cho rằng, biểu
tƣợng giấc mộng trong Thơ mới có hai nét nghĩa cơ bản: Mộng tình yêu và
Mộng công danh.
Trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận, giấc mộng đƣợc lặp lại 22 lần,
với những nét nghĩa biểu trƣng phong phú. Với Huy Cận, giấc mộng trở thành
một sinh thể có hình khối, có thể cảm nhận đƣợc một cách rất rõ ràng:
“Chàng trai gối mộng trên trang sách/ Tỉnh thức, mùa xuân rụng hết hồng…
Trở nghiêng gối mộng hững hờ nằm nghe” (Buồn), “Tình rộng quá, đời không
biên giới nữa/ Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở” (Tình tự). Thậm chí, nhà
thơ có thể “hái mộng”: “Kìa treo trái mộng trĩu cây đời/ Ngang với tầm tay
ngắn của người” (Bình yên). Tâm trạng thờ ơ với âm thanh của cuộc sống,
105
đắm chìm lắng nghe những âm thanh của vũ trụ, sâu thẳm từ tâm linh, nhân
vật đang trong mộng hay đã dứt mộng, nhân vật đang trong mộng hay ngoài
hiện thực? Mộng trong Huy Cận không có đƣờng nét, tính chất mơ hồ tăng
lên. Hồn thơ Huy Cận luôn có khát vọng chiếm lĩnh không gian trên cao,
không gian vũ trụ. Không gian trong mộng của Huy Cận luôn đối lập giữa
giữa không gian trên cao và không gian dƣới thấp, không gian bên trong và
không gian bên ngoài. Sự đối lập ấy gợi bầu không khí tù túng, chật hẹp, ngột
ngạt của xã hội đang đầy ải con ngƣời.
Biểu tƣợng mộng trong thơ Xuân Diệu gắn liền với ý nghĩa biểu trƣng
rõ ràng nhất là tình yêu đôi lứa, tình yêu cuộc sống. Giấc mộng của anh, của
em, của hai ngƣời yêu nhau tƣởng chừng gần gũi mà thực ra lại không hề gặp
gỡ: “Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng/ Em là em: anh vẫn cứ là
anh… / Anh muốn vào dò xét giấc em mơ/ Nhưng anh giấu em những mộng
không ngờ” (Xa cách), “Đấy, ai bảo em làm anh mơ ước/ Lúc đầu tiên anh có
mộng gì đâu!/ Em ác quá, lòng anh như tự xé…” (Hẹn hò). Hầu hết mộng tình
yêu trong thơ Xuân Diệu đều rất mong manh, ẩn chứa dƣ vị tan biến, chia
phôi: “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh
viễn/ Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến” (Giục giã), “Xa là chết: hãy
tặng tình lúc sống/ Chớ chia rẽ - dễ gì ta gặp mộng!” (Tặng thơ).
Nói về cái chất lãng đãng, mộng mơ của Lƣu Trọng Lƣ, nhà phê bình
Hoài Thanh đã nhận xét: “Mộng! Đó mới là quê hƣơng của Lƣ. Thế giới thực
của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng Lƣ không nghe thấy gì cả đâu” [74,
290]. Đó là giấc mộng tình ái với những nàng tiên nữ, những ngƣời đẹp xƣa
nhƣ nàng Quỳnh Diêu, nàng Quý Phi, Hằng Nga,…
Lộng lẫy trong màu xiêm áo biếc
Như nàng tiên nữ động Quỳnh Diêu
…
106
Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh
Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi!
…
Thơ ta cũng giống tình nàng vậy
Mộng, mộng mà thôi! Mộng hão hờ
(Hôm qua)
Lƣu Trọng Lƣ chú ý đến việc thể hiện khoảnh khắc tâm trạng mình một
cách chân thật. Cũng nhƣ các nhà thơ khác chìm đắm trong mộng, Lƣu Trọng
Lƣ muốn xây dựng cho mình một thế giới riêng để vƣợt thoát, chối bỏ hiện
thực phũ phàng. Đã nói đến mơ, mộng thì ngƣời ta hay cũng sẽ hƣớng tới
những điều đẹp đẽ nhất, lý tƣởng nhất. Vậy nhƣng trong mộng, thi nhân cũng
không tránh khỏi những nỗi sầu. Đặc biệt là cảm giác trống trải khi mộng tan:
“Giang tay ta đón nàng vào dạ/ Giật mình ẵm phải cái không gian/ Dưới
nước lâu đài tan tác vỡ/ Bên bờ trơ lại giấc mơ tàn…/ Lúc mộng nhìn nhau
cười ngặt nghẽo/ Mộng tàn, trên gối lệ hoen rơi” (Mộng chiều hè). Mộng
trong thơ Lƣu Trọng Lƣ luôn luôn có sự đối lập rõ ràng giữa thực tại bẽ bàng,
trống trải cô đơn với những khát vọng tình yêu, ƣớc mơ bên trong tâm hồn
đẹp đẽ. Trong Mộng chiều xuân, Nguyễn Nhƣợc Pháp cũng đã tạo cho mình
một giấc mộng nhƣ vậy, chàng thi sĩ chỉ dám đứng lặng vì sợ cái giây phút êm
ái sẽ nhanh chóng tan biến: “Nàng chợt nghiêng thân ngà/ Thoảng bóng
người xa xa/ Reo kinh hoàng, e lệ/ Đưa rơi cành bút hoa/ Ta mơ chưa lại hồn/
Nàng lẹ gót lầu son/ - Vừa toan nhìn nét phượng/ Giấy thẹn bay thu tròn…”.
Biểu tƣợng giấc mộng cũng tràn ngập trong hai tập Tinh huyết và Tinh
hoa của Bích Khê. Không thể phủ nhận, hai tập thơ này của Bích Khê bộc lộ
một xu hƣớng khá gần gũi với tƣ tƣởng, suy lý của các nhà thơ tƣợng trƣng
Pháp (tiêu biểu là Baudelaire, Verlaine) khi họ rất coi trọng trực giác và vô
thức trong sáng tạo nghệ thuật. Hầu nhƣ nhất quán trong Tinh huyết là cảm
107
quan phi thực tại, phi logic, hoặc song hành giữa thực tại và siêu thực tại:
“Mặt cô buồn quá! - tôi yêu quá!/ Nghệ thuật tràn ra giữa bể đêm/ Tôi chợt
ôm cô trong giấc mộng/ Nút bao thanh khí, đã nư thèm” (Cùng một cô đào
hát bộ). Tác giả ôm mộng tƣởng ôm cô đào hát bộ, “nút thanh khí” - nghĩa là
muốn hút lấy cái đẹp, cái nghệ thuật tuyệt vời của cô đào mang lại.
Trong lời tựa tập Tinh huyết, Hàn Mặc Tử đã nhận xét: “Bích Khê là
ngƣời có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ
thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu”.
Quả vậy, đối với Bích Khê, mộng đƣợc xem là một trạng thái tự nhiên của sự
sống: “Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!.../ Mộng ngời lên bay đến
một bến tàu” (Sọ người), “Mộng bay ngàn dặm với thơ say” (Người say
rượu). Các nhà Thơ mới hay mộng, là mộng gặp tiên, gặp ngƣời đẹp. Nhƣng
Bích Khê thì có vẻ khác biệt, nhà thơ mộng tới Lý Bạch, mộng cố hƣơng,
mộng Hồ Xuân Hƣơng: “Ngoài ly Lý Bạch trời như mộng/ Sau khói phù dung
mộng cố hương/ Thì mộng: Xuân Hương nường đã đến/ Thưa cô, dáng nguyệt
tuyết còn vương” (Mộng trong hương), “Đêm nay nửa gối nghiêng nghiêng
mộng/ Muôn dặm người xa đã thấy về” (Hồ Xuân Hương). Cái “mộng cố
hƣơng” cũng là một biểu hiện của cảm thức phƣơng Đông luôn ám ảnh thi
giới Bích Khê. Phải chăng một trong những điều làm nên sức sống diệu kỳ
của thơ Bích Khê chính là cảm thức phƣơng Đông đƣợc chuyển tải trong thơ
qua những hình ảnh mới lạ của thi pháp thơ Tây phƣơng mà ông tiếp nhận và
vận dụng một cách sáng tạo.
Với Nguyễn Bính thì biểu tƣợng giấc mộng chủ yếu là giấc mộng công
danh. Hình ảnh quan Trạng, vua, Thám Hoa, đèn sách, vinh quy,… xuất hiện
38 lần trong 7 tập thơ của Nguyễn Bính trƣớc cách mạng tháng Tám. Sinh
trƣởng trong một gia đình nhà nho nghèo khó, ngay từ nhỏ, Nguyễn Bính đã
đƣợc cha mình là ông đồ Nguyễn Đạo Bình dạy cho những bài học đạo đức
108
vỡ lòng, coi trọng chữ nghĩa, tài năng: “Nhà ta coi chữ hơn vàng/ Coi tài hơn
cả giàu sang cả đời” (Con nhà Nho cũ). Cuộc sống nghèo nơi làng quê, suy
cho cùng, có thể là một trong những nguyên nhân để Nguyễn Bính ôm mộng
thi cử, đỗ đạt để làm quan.
Giấc mơ quan Trạng, thành đạt trong công danh sự nghiệp gắn liền với
những mối tình quê: “Mong sao sự nghiệp chóng thành/ Áo anh đã có em anh
may giùm” (Áo anh), “Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy/ Hai bên có lính hầu đi
dẹp đường/ Tôi ra đứng tận gốc bàng/ Chồng tôi cưỡi ngựa cả làng ra xem”
(Thời trước), “Em ạ, ngày xưa vua nước Bướm/ Kén nhân tài mở Điệp lang
khoa/ Vua không lấy Trạng vua thề thế/ Con bướm vàng tuyền đậu Thám
Hoa” (Truyện cổ tích). Và những trắc trở, lỡ làng trong chuyện tình duyên,
dƣờng nhƣ càng làm cho khát vọng công danh trở nên day dứt hơn:
Từ ngày cô chửa thành hôn
Từ ngày anh khóa vẫn còn hàn vi
Thế rồi vua mở khoa thi
Thế rồi quan Trạng vinh quy qua làng…
(Quan Trạng)
Và sau này, ở đâu đó chốn thị thành vẫn in hình bóng một nhà thơ giàu
tâm huyết, giàu niềm tin ở tƣơng lai: “Bóng một nhà thơ đầy nguyện vọng/
Giàu lòng tin tưởng bước tương lai” (Lá thư về Bắc). Ở một khía cạnh khác,
giấc mộng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính cứ nhƣ màn sƣơng mỏng manh,
bàng bạc bao phủ. Bài Cô hái mơ là một khung cảnh mơ mộng nhƣ vậy, cảnh
cũng mơ và tình ngƣời cũng mơ vậy mà thôi: “Cô hái mơ ơi!/ Chẳng trả lời
nhau lấy một lời/ Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng/ Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi”.
Ở địa hạt thơ ca Cách mạng, giấc mộng cũng là một biểu tƣợng với nội
dung biểu đạt phong phú, nhƣng khác hoàn toàn với thơ lãng mạn. Đó là giấc
mộng lớn, giấc mộng chiến đấu, mộng tƣơng lai tƣơi sáng: “Canh bốn, canh
109
năm vừa chợp mắt/ Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” (Không ngủ được,
Hồ Chí Minh), “Để nao nao với những mộng không cùng/ Để cháy ruột mơ
những ngày hoạt động” (Quanh quẩn, Tố Hữu). Thậm chí, các nhà thơ Cách
mạng cũng có những đả kích thẳng thắn đối với “giấc mộng” của các nhà Thơ
mới: “Ông ngồi soi mộng ánh trăng cao/ Trong lúc dân đen đói tựa bào/
Ngắm chú nai vàng cùng ngơ ngác/ Đi tìm nguồn sống tận trăng sao” (Đọc
thơ, Đặng Xuân Thiều).
Âm phủ - địa ngục, hồn - linh hồn, máu và giấc mộng có thể coi là
những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu về thế giới tâm linh. Mặc dù đây đều là
những biểu tƣợng khởi nguồn từ mẫu gốc, quen thuộc trong đời sống văn hóa,
văn học nhân loại, song đã đƣợc các nhà Thơ mới khoác thêm những tầng lớp
ý nghĩa phong phú và có giá trị thẩm mĩ mạnh mẽ hơn nhiều. Những biểu
tƣợng này góp phần quan trọng thể hiện cách nhìn và thái độ của thi nhân đối
với hiện thực cuộc sống.
3.3. Biểu tƣợng về sự vận động của thời gian
Có thể coi thời gian là biểu tƣợng của giới hạn trong sự kéo dài và của
ranh giới để cảm nhận về sự luân chuyển, ngăn cách giữa cuộc sống trần thế
và cuộc sống phía bên kia (thế giới vĩnh hằng). Thời gian trần thế đƣợc thể
hiện bằng sự tuần hoàn của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đối với các nhà Thơ
mới, mùa nào trong năm cũng khởi nguồn cho những niềm cảm hứng riêng.
Song có lẽ, mùa xuân và mùa thu xuất hiện đậm nét hơn cả, trở thành những
biểu tƣợng chứa nhiều dƣ vị mời gọi sự khám phá.
3.3.1. Biểu tượng mùa xuân
Có thể khẳng định rằng, xuân trong Thơ mới là phạm trù có tính biểu
tƣợng trong tƣ duy, mĩ cảm của các thi sĩ. Bằng những năng lực cảm thụ tinh
vi, theo nhiều chiều kích khác nhau của giác quan, xuân trong Thơ mới không
110
chỉ hàm chứa ý niệm về thời gian, về vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu trƣng
của mùa vui, mùa tình yêu lứa đôi, của rung động cuộc đời, của những giá trị
tự thân cuộc sống.
Xuân trong Thơ mới không còn bị ràng buộc bởi những quy ƣớc văn
hóa và thẩm mĩ thời trung đại kiểu nhƣ đào mai, liễu xanh, gió đông nữa mà
đã thoát thai, phá vỡ những khung khổ ấy để trở nên gần gũi hơn, đời thƣờng
hơn, nhiều màu sắc và dáng vẻ hơn. Đây cũng chính là bƣớc ngoặt có tính
chất quyết định trong cảm thức thời gian nói chung và mùa xuân nói riêng của
các thi nhân Thơ mới, thoát khỏi motif lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, ƣớc lệ
cho con ngƣời.
Tín hiệu “mùa xuân” xuất hiện trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió của
Xuân Diệu là 62 lần/ 96 bài thơ. Xuân Diệu bày tỏ cảm xúc của mình trong
không gian đất trời và không gian tâm hồn tràn ngập mùa xuân: “Xuân của
đất trời nay mới đến/ Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi/ Từ lúc yêu nhau, hoa nở
mãi/ Trong vườn thơm ngát của hồn tôi” (Nguyên đán). Nhà thơ gắn liền mùa
xuân với tình yêu trai gái. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu tràn đầy sức sống
với ong bƣớm, cỏ cây, hoa lá… Là một ngƣời yêu sống, khát khao sự sống
trên trần gian, Xuân Diệu rất sợ thời gian cƣớp mất tuổi xuân:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
(Vội vàng)
Đó là một sự thật không thể chối cãi, vì đó là quy luật của cuộc sống,
quy luật của đời ngƣời: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ
chẳng hai lần thắm lại” (Vội vàng). Mùa xuân gắn với cả tình yêu lứa đôi, và
thi sĩ là ngƣời yêu vội vàng, vồ vập, say đắm. Nhà thơ muốn tận hƣởng vẻ
111
đẹp của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ: “Ta muốn ôm/ Cả sự sống mới bắt đầu
mơn mởn…/ Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nên
thanh sắc của thời tươi/ Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” (Vội vàng).
Trong Văn minh Đông phương và Tây phương, học giả Nguyễn Hữu
Cần đã chỉ rõ: “Ngƣời Đông phƣơng ví bản thể trƣờng tồn của con ngƣời nhƣ
một ngƣời đọc sách, còn mỗi trang lật qua là mỗi lần biến cố bất thƣờng, mà
đọc cuốn sách xong cũng là xong một kiếp ngƣời mà thôi vậy” [15, 44-45]. Vì
lẽ đó, đối với ngƣời phƣơng Đông, họ giữ mãi đƣợc vẻ bình thản của tâm hồn,
với tất cả những biến cố, khó khăn trong cuộc sống. Còn ngƣợc lại, đối với
ngƣời Tây phƣơng, chết nghĩa là hết, thế nên họ mới cuống quýt với thời
gian, chạy đua với thời gian, thời gian quý hơn vàng,… Họ vật lộn với thời
gian để hƣởng trọn sự sống. Thế nên Xuân Diệu trong Vội vàng mới mãnh
liệt, quay cuồng đến vậy.
Trong cảm thức của Xuân Diệu về mùa xuân thì tình yêu và tuổi trẻ bao
giờ cũng song hành cùng mùa xuân: “Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa/
Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta” (Xuân không mùa). Không chỉ vậy, xuân
và tình yêu trong cảm thức của Xuân Diệu còn là sự gắn kết, hòa hợp giữa
lòng ngƣời với đất trời: “Nghìn buổi sáng, bình minh xe chỉ thắm/ Đem lòng
tôi ràng rịt với xuân tươi (Đa tình).
Xuân của đất trời hòa quyện với xuân của lòng ngƣời, len lỏi vào tâm
hồn con ngƣời và ngự trị nhƣ một thiên sứ của ánh sáng và tình yêu: “Ai có biết
mùa xuân lên nặng lắm/ Trên cánh hồng và trong những trái tim?/ Nghe điệu
lòng hưởng ứng với ca chim/ Tôi tự thấy lạc loài trong nắng mới” (Mời yêu).
Từ những khát vọng sống mãnh liệt này mà Xuân Diệu khát khao sống, khát
khao yêu, thiết tha sống và yêu quý sự sống đến vô cùng: “Cũng may mắn, lòng
anh còn trẻ quá/ Máu mùa xuân chưa nỡ hết bông hoa” (Tình thứ nhất), “Xuân
hỡi! trời ơi, xuân sắc ơi!/ Say mê ta vẫn níu chân người/ Sao mà vội quá đi
112
nhanh quá!/ - Họa có ta còn quyết trẻ trai” (Trò chuyện với Thơ Thơ). Thái độ
yêu sống đến vô cùng ấy, đƣơng nhiên là hoàn toàn khác với lối sống gấp,
sống vội. Bởi chỉ có những ngƣời ham sống đến cuồng nhiệt ấy mới thấy tiếc
nuối cho sự trôi chảy của thời gian vô nghĩa lý:
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân
(Giờ tàn)
Hàn Mặc Tử có riêng một tập thơ tựa đề là Xuân như ý, với hình ảnh
xuân xuất hiện khá đa dạng: xuân hồn hậu, xuân gấm, xuân thơm, xuân
trong,.. Nhƣng có vẻ nhƣ khi nhắc đến biểu tƣợng mùa xuân trong thơ Hàn
Mặc Tử, chúng ta hay nhớ đến Mùa xuân chín (trong tập Đau thương). Nó
mang dƣ vị trầm tĩnh, nhẹ nhàng và có phần tiếc nuối: “Trong làn nắng ửng
khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/
Trên giàn thiên lý/ Bóng xuân sang”. Mùa xuân ở đây vẫn là biểu tƣợng cho
sự hòa hợp giữa thiên nhiên mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Các cô thôn nữ
tƣơi trẻ đang hát những bài hát về tình yêu trong một không gian thật thoáng
đãng, mùa xuân đang xanh. “Mùa xuân chín” trong thơ Hàn Mặc Tử quả là
một hình ảnh độc đáo, gợi cho chúng ta thời khắc đẹp nhất, căng tràn nhất,
tuyệt vời nhất của mùa xuân. Tình xuân chín, tình ngƣời vừa tới. Tất cả đều
đang bày tỏ, đang hứa hẹn, đang thênh thang “vắt vẻo lƣng chừng núi”.
Nhƣng điều đáng tiếc là, cũng ngay tại thời điểm đó, tình xuân đã tan, lòng
xuân đã tàn, “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc
chơi”. Mùa xuân khi ấy là biểu tƣợng của dƣ vị tiếc nuối và sự chia phôi.
Không chỉ có vậy, mùa xuân ngọt ngào, rạo rực đƣơng đến gần còn là nỗi
buồn của ngƣời cung nữ trong chốn lãnh cung: “Ngoài kia Xuân đã thắm
duyên chưa?/ Trời ở trong đây chẳng có mùa/ Không có niềm trăng và ý
nhạc/ Có người cung nữ nhớ thương vua” (Nhớ thương). Đó cũng là dƣ âm
113
mênh mang của tâm hồn ngƣời thiếu phụ đƣơng cô đơn, trống trải trong thơ
Lý Bạch: “Đương quân hoài quy nhật/ Thị thiếp đoạn trường thì/ Xuân phong
bất tương thức/ Hà sự nhập la vi?” (Lòng em đau đớn muôn phần/ Phải
chăng là lúc phu quân nhớ nhà/ Gió xuân quen biết chi mà/ Cớ chi lọt bức
màn là tới ai) (Tản Đà dịch).
Với Nguyễn Bính, biểu tƣợng mùa xuân xuất hiện với tần suất lớn: 56
lần trong tổng số 96 bài thơ trƣớc cách mạng tháng Tám. Có thể nói, cùng với
các nhà thơ khác nhƣ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,… Nguyễn Bính là ngƣời có
nhiều câu thơ hay về mùa xuân, về hồn quê hƣơng dân tộc trong văn học Việt
Nam hiện đại.
Mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, xuân thì, mùa của khát khao tình yêu,
hạnh phúc. Trong thơ Nguyễn Bính, có khi đó là một mùa xuân, một tin xuân,
một ý xuân phấp phỏng, phơi phới trong lòng ngƣời con gái thôn quê:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: Thôn Ðoài hát tối nay...
(Mƣa xuân)
Có khi đó là những thay đổi rạo rực của đất trời và lòng ngƣời khi mùa
xuân sang: “Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu má gái chưa chồng/
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong” (Xuân
về); có khi là một bức tranh thêu lên hình ảnh con ngƣời, cây cỏ, quê hƣơng:
“Mưa nhè nhẹ, nắng thanh thanh/ Nên thơ, ôi cả xứ mình nên thơ!/ Hội xuân
gió loạn đuôi cờ/ Làng xa vào đám nhặt thưa trống chèo” (Xuân về nhớ quê
hương). Trong bài Xuân tha hương, với tâm trạng của ngƣời xa quê, với bao
niềm thƣơng nhớ mênh mang, mùa xuân gợi trong lòng thi nhân nhiều điều
mới lạ. Thi sĩ cao hứng với ngƣời chị thƣơng yêu của mình: “Chị ơi em cưới
114
mùa xuân nhé/ Đốt pháo cho thơm với rượu hồng”.
Nhƣng nhắc đến mùa xuân trong thơ Nguyễn Bính, ngƣời ta thƣờng
gắn với biểu tƣợng của sự lỡ làng, chia ly. Đây cũng chính là nét nghĩa chủ
đạo của hình ảnh mùa xuân trong thơ tình Nguyễn Bính. Mùa xuân gắn liền
với những cảm nhận về sự chia ly, tan vỡ, khắc khoải, đau đớn, tuyệt vọng:
“Chờ mãi anh sang anh chẳng sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao
bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng lỡ làng” (Mưa xuân). Hình ảnh
cô lái đò hiện lên với sự trôi chảy lạnh lùng của thời gian, mùa xuân không
đem lại hạnh phúc, những hứa hẹn yêu thƣơng, mà ngƣợc lại, đem lại sự thất
vọng tràn trề: “Nhưng rồi người khách tình xuân ấy/ Đi biệt không về với bến
sông/ Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi/ Mấy lần cô gái mỏi mòn trông” (Cô lái
đò). Còn đây là nỗi đau tình yêu của thi sĩ trong một mùa xuân thật buồn:
“Cao tay nâng chén rượu hồng/ Mừng em: Em sắp lấy chồng xuân nay/ Uống
đi! Em uống cho say/ Để trong mơ sống những ngày xuân qua” (Rượu xuân).
Hẳn nhiên là mùa xuân không phải với ai cũng rực rỡ, vui tƣơi. Ở chiều
ngƣợc lại, mùa xuân đem đến những dự cảm cô đơn, se sắt. Đó chính là tâm
trạng của những kẻ tha hƣơng nhƣ Nguyễn Bính, khi không tìm thấy sự giao
cảm giữa môi trƣờng thành thị, nên cảm thấy cô đơn trống trải vô cùng:
“Xuân đến khắp trời hoa rực nở/ Riêng ta với người buồn vậy thay/ Lòng
đắng sá chi muôn hớp rượu/ Mà không uống cạn mà không say” (Bài hành
phương Nam). Mùa xuân cũng biểu trƣng cho lòng nhớ nhung, sầu muộn của
kẻ lãng du đối với ngƣời khuê phụ trong Xuân giang hoa nguyệt dạ - một bài
thơ trữ tình nổi tiếng của nhà thơ Trƣơng Nhƣợc Hƣ: “Tạc dạ nhàn đàm mộng
lạc hoa/ Khả liên xuân bán bất hoàn gia” (Đêm qua thanh vắng mộng hoa
rơi/ Nhà chửa về, xuân quá nửa rồi!”) (Khƣơng Hữu Dụng dịch).
Mùa xuân đặt trong không gian văn học 1930-1945 có thể thấy những
nét phổ quát và khu biệt về những trƣờng nghĩa của biểu tƣợng này. Bên cạnh
115
những nét biểu trƣng sẵn có từ kho tàng folklore đến văn học thành văn thì
mùa xuân lại có thêm một số nét nghĩa khác, và đã thể hiện đậm đà, phong
phú trong sáng tác của các nhà Thơ mới. Sang đến địa hạt thơ ca Cách mạng,
biểu tƣợng mùa xuân lại đƣợc khoác thêm những nét biểu trƣng khác biệt,
phù hợp với quan niệm thẩm mĩ của đối tƣợng sáng tạo. Nếu nhƣ mùa xuân
trong Thơ mới chủ yếu biểu trƣng cho vẻ đẹp thiên nhiên, tình yêu, sự chia ly,
lỡ làng, niềm hoài cổ, thì sang đến thơ Cách mạng, mùa xuân chủ yếu biểu
trƣng cho niềm tin, thành quả cách mạng. Ý nghĩa biểu trƣng này đƣợc thể
hiện đậm đặc, điển hình nhất trong thơ Tố Hữu: “Trời hôm nay dầu xám ngắt
màu đông/ Ai cản được màu xuân xanh tươi sáng/ Ai cản được những đoàn
chim chiến thắng/ Sắp về đây tắm nắng xuân hồng?” (Xuân đến), “Lâu rồi,
khao khát lắm, xuân ơi/ Nhân loại vươn lên ánh mặt trời/ Nhân loại trườn lên
trên biển máu/ Đang nghe xuân tới nở môi cười” (Xuân nhân loại). Sau
những đêm dài đau khổ, lầm than, những hy sinh, mất mát, dân tộc ta bƣớc
vào một mùa xuân mới, mùa xuân của ý Đảng, lòng dân, muôn ngƣời nhƣ
một: “Đánh đuổi Nhật Tây ra khỏi nước/ Nhân dân ta đều được tự do/ Bấy
giờ sung sướng tha hồ/ Không xuân cũng cứ như là có xuân!” (Núi sông
mừng xuân, Khuyết danh). Tất cả những sắc thái của biểu tƣợng mùa xuân
xuất phát từ thực tiễn cách mạng, từ góc nhìn của ngƣời cách mạng.
3.3.2. Biểu tượng mùa thu
Ánh trăng, mùa thu bao giờ cũng là thi ảnh đẹp, huyền diệu và quyến rũ
trong thi ca cổ điển Đông phƣơng tự bao đời nay. Mùa thu cũng là một đề tài
quen thuộc trong thơ ca Việt Nam và đã có rất nhiều câu thơ hay về mùa thu.
Đó là không gian khoáng đạt trong Thu điếu của Nguyễn Khuyến: “Trời thu
xanh ngắt mấy tầng cao/ Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu/ Nước biếc trông như
tầng khói phủ/ Song thưa để mặc bóng trăng vào” hay bức tranh mùa thu
tuyệt vời trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Long lanh đáy nước in trời/
116
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”. Trong cảm thức chung của mỗi
chúng ta, nhất là đối với các thi nhân, mùa thu là biểu tƣợng của nỗi buồn, nét
hoài cảm, sự bình yên trong tâm hồn.
Với nhận thức về cuộc sống hiện thực đầy rẫy những đau thƣơng, mất
mát, với tâm lý chán chƣờng, bất lực và thậm chí là tuyệt vọng vì không tìm
thấy lối đi cho riêng mình, các nhà Thơ mới cũng đến với mùa thu trong dòng
tâm trạng buồn vốn có. Biểu tƣợng mùa thu trong Thơ mới, về cơ bản, cũng
nằm trong dòng cảm thức chung của thơ ca xƣa.
Không chỉ có hồn thơ xuân rạo rực, khát khao, Xuân Diệu còn có
những bài thơ rất hay về mùa thu (biểu tƣợng “mùa thu” xuất hiện 17 lần
trong tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió). Mùa thu trong thơ Xuân Diệu gợi
buồn trong cả cảnh vật lẫn lòng ngƣời:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
…
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
(Đây mùa thu tới)
Sự im lặng của ngƣời thiếu nữ trong khung cảnh mùa thu khơi gợi thật
nhiều cảm xúc khó diễn tả. Đó có vẻ nhƣ là nỗi buồn sâu lắng nhất: “Bên cửa
ngừng kim thêu bức gấm/ Hây hây thục nữ mắt như huyền/ Gió thu hoa cúc
vàng lưng dậu” (Thu). Và nhất là khi nhà thơ cảm nhận mùa thu trong sự
nhận thức rõ ràng về cuộc đời vô định của mình: “Chúng ta nay trong cuộc
thế ao tù/ Đốt điếu thuốc chiêu hồn sương quá khứ/ Mỗi khi thu đưa gió vàng
117
lưỡng lự/ Có buồn chăng, lòng bận ở đâu xưa?” (Mơ xưa).
Dòng cảm thức này gần giống với Chế Lan Viên, khi thi nhân thấy ở
mùa thu một sự luân chuyển thời gian quá nhanh, đến mức bi đát: “Chao ôi!
thu đã tới rồi sao?/ Thu trước vừa qua mới độ nào!/…./ Trời ơi! chán nản
đương vây phủ/ Ý tưởng hồn tôi giữa cõi tang” (Thu). Sự sống dƣờng nhƣ bị
lụi tàn khi mùa thu sang. Chế Lan Viên vẽ lên những cảnh điêu tàn, niềm
luyến tiếc một thuở vàng son, oanh liệt ngày xƣa của dân tộc Chàm. Niềm
mong nhớ ấy đƣợc khơi nguồn từ mùa thu quá khứ: “Ai đâu trở lại mùa thu
trước/ Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?/ Với cả hoa tươi muôn cánh rã/ Về
đây đem chắn nẻo xuân sang! (Chiều xuân). Mùa thu trong thơ Bích Khê
cũng gợi nét buồn sâu thẳm trong cảm thức thời gian tàn phai nhƣ vậy: “Đêm
nay hồn lặng làm sao/ Cánh thu ôm cả chiêm bao vào lòng/ Sao xanh lợt
phím tơ đồng/ Gió ôi là gió! buồn đông thổi về” (Cuối thu).
Thơ Lƣu Trọng Lƣ thiên về âm thanh và nhạc điệu, điều mà thi sĩ đã
học đƣợc từ Paul Verlaine, đại diện tiêu biểu của Thơ tƣợng trƣng Pháp (De
la musique encore et toujours de la musicque, nghĩa là Thêm nhạc điệu nữa
đi, và lúc nào cũng phải có nhạc điệu). Tiếng thu là một trong những bài thơ
ảo mộng, giàu nhạc điệu và những dƣ vị hấp dẫn.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
118
Đạp trên lá vàng khô?
Vũ Ngọc Phan cũng đã so sánh hình ảnh và nhịp điệu của bài thơ Tiếng
thu với tiếng đàn thu não nùng của Varlaine trong Bài hát thu về. “Thật nó
nhẹ nhàng từ âm điệu đến ý tƣởng, nó cám dỗ ta bằng sự mơn man, rồi thấm
dần vào cõi lòng ta, phải ngây ngất về cái hiu quạnh ở bên sự sống của loài
ngƣời” [81, 29]. Tiếng “thổn thức” trong cảnh trăng mời huyền ảo của mùa
thu là tiếng khóc trong tâm hồn ngƣời cô phụ, nỗi nghẹn ngào, xót xa, tủi hờn
cho thân phận trống trải, cô đơn giữa không gian rộng lớn của cuộc đời. Quả
thật, mùa thu đã hiện lên nhƣ biểu tƣợng của nỗi buồn rất đời, rất nhân văn và
rất đẹp. Ngƣời cô phụ, con nai vàng, hay cả chúng ta nữa, đều tự thấy dịu
lòng mình xuống, lắng nghe cái thổn thức của mùa thu. Và trong cơn gió mùa
thu ấy, những mộng lòng cũng nở, dù phảng phất nỗi buồn nhƣng vẫn chứa
chan bao tình yêu đằm thắm: “Mây trắng bay đầy trước ngõ tre/ Buồn xưa
theo với gió thu về…/ Vài chàng trai trẻ sầu biêng biếc/ Mộng nở trong lòng,
sắc đỏ hoe” (Mây trắng).
Còn với Nguyễn Bính - chàng thi sĩ giang hồ, thì mùa thu chỉ có thể
gắn với nỗi buồn vì xa quê hƣơng, xa gia đình. Khi vô tình bắt gặp mùa thu,
những dƣ âm xốn xang trong lòng của thi nhân về tình quê bỗng cời lên, quặn
thắt, nhất là khi đặt trong không gian phồn hoa đô thị, bụi kinh kì: “Mùa thu
hoa cúc lại tàn/ Thuyền ai buộc mãi bên làn cây cong/ Người về để lạnh
phòng không/ Thu rơi từng cánh cho lòng nhớ thương” (Thu rơi từng cánh),
“Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ/ Vườn cũ còn chăng cúc nở hoa?... / Một
chút công danh rất hão huyền/ Và dang dở nữa cuộc tình duyên/ Thu sang,
quán lẻ con đăm đắm/ Rõi bóng quê nhà mắt lệ hoen” (Bắt gặp mùa thu).
Nguyễn Bính muốn tìm đến một vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết, không thể có
ở chốn đô thị, phồn hoa. Đó cũng chính là nơi mà thi sĩ tìm thấy cho mình
một mảnh đất yên bình, hài hòa, níu giữ đƣợc phần tâm hồn thánh thiện nhất
119
của mình. Đó là quê hƣơng.
Bằng những cảm hứng lãng mạn, các nhà Thơ mới đã vẽ lên những bức
tranh thu thật đẹp, đầy màu sắc. Tuy nhiên, cũng giống nhƣ cảm thức trong
thơ phƣơng Tây và phƣơng Đông, mùa thu trong thơ gắn với những nét thật
buồn - những nỗi buồn bàng bạc, u hoài,…
Với cảm thức tinh tế và sự nhạy cảm trƣớc những bƣớc đi vội vàng của
thời gian, các nhà Thơ mới đã thổi những dòng cảm xúc tha thiết, lƣu luyến,
mãnh liệt và đầy ám ảnh của mình vào những trang thơ. Mùa xuân, mùa thu
có thể coi là những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu chuyên chở dƣ vị đó.
Tiểu kết chƣơng 3
Phong trào Thơ mới ra đời trong cái không khí ngột ngạt, căng thẳng
của tình hình chính trị, xã hội những năm 1932. Nếu nhƣ thơ ca cách mạng
lao vào cuộc đời, hiện hữu giữa cuộc đời đầy bộn bề và đau thƣơng, nhƣ một
thứ vũ khí đấu tranh thì bên kia chiến tuyến, khi đang “bâng khuâng đứng
giữa đôi dòng nƣớc”, các nhà Thơ mới - với cảm thức cô đơn, mong manh sẵn
có, phần nhiều đã có xu hƣớng thoát ly đời sống thực tế. Và hầu nhƣ ai cũng
cố gắng tìm cho mình một thế giới khác, một không gian khác với những
niềm vui, nỗi buồn và cả những đau khổ riêng.
Trong quá trình sáng tạo thi ca, các nhà Thơ mới đã tiếp thu có chọn
lọc những tinh hoa của thơ tƣợng trƣng, siêu thực Pháp với tinh thần “Phải
theo Baudelaire. Văn chƣơng cần phải lãnh đạm nhƣ cẩm thạch… Viết thơ
cần phải tƣợng trƣng nhiều. Phải sâu xa. Gọt đẽo” (Nguyễn Huy Tƣởng) và
đồng thời cũng phát huy tính hàm súc, giàu nhạc điệu, khả năng gợi hình của
thơ ca phƣơng Đông. Với nhu cầu khẳng định cái Tôi của chính mình, giữa
những chiều kích của tâm hồn và cảm xúc, các nhà Thơ mới đã xây dựng
đƣợc trong thơ những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu. Trong khuôn khổ luận
án, chúng tôi đã khám phá và phân tích: biểu tượng về không gian - vật thể:
120
trăng, vƣờn, cánh bƣớm; biểu tượng về thế giới tâm linh: âm phủ - địa ngục,
hồn - linh hồn, máu, giấc mộng; biểu tượng về sự vận động của thời gian:
mùa xuân, mùa thu. Dấu ấn sáng tạo cá nhân của các nhà Thơ mới quả thật rất
đậm nét khi từ những biểu tƣợng quen thuộc - khởi sinh từ mẫu gốc, từ nhiều
nền văn hóa - với cảm xúc và trải nghiệm sống của mình, đã chƣng cất thêm
cho nó những thêm những nét nghĩa biểu trƣng mới vô cùng thi vị, giàu sức
lan tỏa trong cảm nhận. Và quan trọng là những biểu tƣợng này đã góp phần
quan trọng trong việc thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan và tƣ duy nghệ
121
thuật của các nhà Thơ mới.
CHƢƠNG 4
BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG THƠ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
Thơ ca Cách mạng là vũ khí đấu tranh sắc bén, phục vụ chính trị và
phục vụ quần chúng lao động. Sự xuất hiện của những biểu tƣợng nghệ thuật
trong thơ ca Cách mạng có thể coi là một “điểm nhấn”, là yếu tố quan trọng
góp phần thể hiện quan niệm và tƣ duy thẩm mĩ của các nhà thơ - chiến sĩ.
Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi đi vào tìm hiểu và giải mã những biểu
tƣợng nghệ thuật tiêu biểu thuộc các góc độ: lý tƣởng cách mạng, ý chí cách
mạng và sự vận động của cách mạng.
4.1. Biểu tƣợng về lý tƣởng cách mạng
4.1.1. Biểu tượng mặt trời
Mặt trời là một trong những biểu tƣợng có ý nghĩa rất phong phú, đa
dạng và đƣợc biển đổi liên tục trong lịch sử văn hóa nhân loại. Trong Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã chỉ ra
nhiều ý nghĩa biểu trƣng của “mặt trời”, tuy nhiên, tựu trung lại là những ý
nghĩa chính sau: Mặt trời là biểu tƣợng của thần linh; nguồn của ánh sáng,
ban ngày, sức nóng; biểu tƣợng của sự sống và sự bất tử; sự hủy diệt, tàn phá,
sự khô hạn; biểu tƣợng của đế vƣơng, quyền uy; biểu tƣợng của dƣơng tính,
khả năng sinh sản. Đồng thời, mặt trời còn là trí tuệ của vũ trụ, “là trái tim của
thế giới, cũng nhƣ trái tim là trung khu của năng lực nhận thức trong con
ngƣời” [12, 576-580].
Đối với nhà thơ - ngƣời chiến sĩ cách mạng Tố Hữu, bài thơ Từ ấy có vị
trí quan trọng, là dấu mốc bản lề khi ngƣời thanh niên yêu nƣớc đƣợc vinh dự
đứng trong hàng ngũ của những ngƣời chiến sĩ cộng sản chân chính, đƣợc đi
122
theo ngọn cờ cách mạng, đƣợc chiến đấu và hy sinh cho lý tƣởng cao đẹp. Sau
một chặng đƣờng dài “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước/ Chọn một
dòng hay để nước trôi” (Dậy lên thanh niên), ngƣời thanh niên yêu nƣớc ấy
đã tìm thấy hƣớng đi đúng đắn cho cuộc đời mình, đó là hƣớng đi theo Đảng,
hòa mình vào cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Niềm vui lớn của ngƣời thanh niên mƣời tám tuổi khi tìm thấy “mặt
trời chân lý” đƣợc diễn tả qua trạng thái tâm lý “bừng nắng hạ”, “chói qua
tim”. Có thể nói, “mặt trời chân lý” chính là một phát hiện mới, độc đáo của
Tố Hữu, nhƣng đồng thời cũng là cách cảm nhận phổ biến của các nhà thơ
cách mạng nhƣ Hồ Chí Minh, Đặng Xuân Thiều, Trần Huy Liệu, Phạm Ngọc
Trân,… Trong thơ Tố Hữu, mặt trời không chỉ là biểu tƣợng của chân lý mà
còn là biểu tƣợng của cách mạng:
Mặt trời đỏ huyền diệu mọc lên, ôi náo nức
Nhạc nhân gian cuồn cuộn bốc hồng trần
(Vui bất tuyệt)
Trong cuốn Thơ ca cách mạng 1925 - 1945 (Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội, 1973), chúng tôi khảo sát thấy hình ảnh mặt trời xuất hiện 11 lần, đều là
biểu trƣng cho lý tƣởng cách mạng, cho độc lập dân tộc. Mặt trời là hình ảnh
của Đảng cộng sản Đông Dƣơng trong những ngày đầu mới thành lập: “Mặt
trời thuở ấy đang lên/ Chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời” (Những người sống
mãi, Khuyết danh). Bài Quốc tế ca đƣợc Hồ Chí Minh dịch lần đầu tiên vào
năm 1925, đăng trên hai tờ báo bí mật là tờ Thanh niên và tờ Công nông:
“Nếu đem diệt sạch lũ này/ Mặt trời vẫn cứ ngày ngày xuân dung”. Cách
mạng tháng Mƣời Nga diễn ra thành công rực rỡ, là nguồn sáng, nguồn động
viên to lớn cho các dân tộc đang bị áp bức trên toàn thế giới, trong đó có Việt
123
Nam: “Phía đông ánh sáng lập lòe/ Mặt giời vừa động bánh xe bằng vàng”
(Gà gáy, Khuyết danh). Hình ảnh mặt trời xuất hiện trong khí thế đấu tranh
rực lửa của quần chúng nhân dân, tinh thần cách mạng lan tràn khắp làng
thôn, ngõ xóm:
Giờ đây thành thị xóm làng
Dòng máu quật khởi đang sục sục sôi
Rực lên dưới ánh mặt trời
Đấu tranh - ngọn lửa khắp nơi bừng bừng
(Tưởng nhớ anh Nguyễn Sĩ Sách, Phan Trọng Bình).
Hình ảnh ngƣời chiến sĩ lao mình vào lửa đạn, nguyện chiến đấu và hy
sinh để giành lại độc lập cho “mặt trời - dân tộc” trong bài thơ Tổ quốc của
Đặng Xuân Thiều đã đem lại cho chúng ta những cảm xúc thiêng liêng, một
niềm tự hào bất diệt: “Ôi Tổ quốc của tôi/ Sống, thề gửi trọn đời/ Chết, gửi
xương đất nước/ Ngủ trong lòng Tổ quốc/ Việt Nam dưới mặt trời/ Việt Nam
yêu dấu ơi”.
Trong tập thơ Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh cũng đã nhiều lần nhắc
đến hình ảnh mặt trời với khung cảnh, thời gian buổi sáng, bình mình lên.
Hình ảnh mặt trời đƣợc Hồ Chí Minh sử dụng với ý nghĩa tƣợng trƣng cho
tƣơng lai tƣơi sáng, đối lập với bóng tối và các thế lực hắc ám: “Đầu tường
sớm sớm vầng dương mọc/ Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài/ Trong ngục giờ
đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” (Buổi sớm), “Phương Đông
màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn, quét sạch không (Giải đi
sớm), “Đầu non sớm sớm vầng dương mọc/ Khắp núi nơi nơi rực ánh hồng/
Chỉ bởi trước lao còn bóng tối/ Mặt trời chưa rọi thấu vào trong” (Cảnh buổi
sớm). Hình ảnh mặt trời với ánh sáng chói lọi là viễn cảnh về một cuộc sống
độc lập, tự do của dân tộc và cũng chính là đích đến của cách mạng.
Xét về bản chất, cách mạng là một sự vận động, biến đổi không ngừng
124
về chất và lƣợng, là hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ ngày nay tăm tối
đến ngày mai huy hoàng, rực rỡ. Tƣ duy thơ cách mạng luôn chú ý đến sự đối
lập, biến đổi giữa hai thế giới sáng - tối và cái đích cuối cùng của cách mạng
là sự thành công, là tƣơng lai tƣơi sáng. Biểu tƣợng mặt trời trong thơ Tố
Hữu, thơ Hồ Chí Minh và các nhà thơ cách mạng khác đều gặp nhau trong nét
tƣ duy này. Hình ảnh mặt trời xuất hiện trong thế đối lập, lấn lƣớt bóng tối, là
lời cảnh báo với kẻ thù:
Bóng đêm tắt mặt trời sẽ mọc
Đã báo giờ đế quốc cáo chung
(Vô sản diễn ca, Đặng Xuân Thiều)
Trong bài thơ Tặng anh thư ký cho Nhật về bắt dân bóc đay, ngâm đay,
Phạm Đình Cấu còn gửi lời cảnh tỉnh tới những kẻ bán nƣớc, hại dân: “Mặt
trời quay mãi bao giờ mất?/ Quả đất nằm trơ lắm kẻ thầu/ Nhắn nhủ những
người ăn gốc táo/ Xin đừng rào giữ gốc xoan dâu”. Đó cũng là cách để tác giả
bày tỏ niềm tin mãnh liệt về sự trƣờng tồn của dân tộc.
Trong những sáng tác sau này ở các tập thơ nhƣ Việt Bắc, Gió lộng, Ra
trận, Máu và hoa, cũng thêm rất nhiều lần Tố Hữu nhắc đến biểu tƣợng mặt
trời chân lý, mặt trời cách mạng: “Chân lý, mặt trời soi sáng mãi” (Tâm sự),
“Mác - Lênin, vĩnh viễn mặt trời/ Giữa mây đục càng sáng ngời chân lý”
(Chào xuân 1967), “Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn/ Đã bước dưới mặt
trời cách mạng” (Ta đi tới). Điều đó cho thấy mạch nguồn cảm xúc, sự nhất
quán trong lý tƣởng cách mạng của nhà thơ, ngƣời chiến sĩ Tố Hữu.
4.1.2. Biểu tượng con đường
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ, NXB Đà Nẵng - Trung tâm từ điển
học, 2001) đã đƣa ra 9 nét nghĩa của khái niệm “đƣờng”. Trong đó, chúng tôi
đƣa ra hai cách hiểu thông thƣờng, gần với vấn đề nghiên cứu: “1. Lối đi nhất
định đƣợc tạo ra để nối liền hai địa điểm, hai nơi. 2. Khoảng không gian phải
125
vƣợt qua để đi từ một địa điểm này đến một địa điểm khác” [87, 357].
Trong thơ cách mạng Việt Nam 1930 - 1945, không khó để nhận thấy
con đƣờng là một biểu tƣợng xuyên suốt, chủ đạo. Sự chuyển mình hàng
ngày, hàng giờ của cách mạng với những đau thƣơng, thử thách, thành công
và thất bại đã đem đến trong cảm thức của các nhà thơ về những giá trị biểu
hiện khác nhau của biểu tƣợng con đƣờng. Con đƣờng, từ nhận thức nguyên
thủy, mẫu gốc là một kí hiệu cho sự di chuyển, kết nối giữa các vùng, miền đã
đƣợc bổ sung, chuyển tải thêm ý nghĩa về sự hành trình của cách mạng Việt
Nam. Nó trở thành biểu tƣợng của con đƣờng cách mạng, con đƣờng tranh
đấu, và cũng là “con đƣờng đời” của quần chúng nhân dân lao động, của
những ngƣời yếu thế trong xã hội.
Trong Thơ ca cách mạng 1930 - 1945, hình ảnh con đƣờng xuất hiện
62 lần/ 257 bài thơ (chiếm 24.12%); trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu, hình
ảnh con đƣờng xuất hiện 39 lần/ 72 bài thơ (chiếm 54.17%).
Trƣớc hết, con đƣờng là biểu tƣợng của con đƣờng cách mạng, con đƣờng
tranh đấu mà các chiến sĩ cách mạng và quần chúng nhân dân đang hòa mình
vào với khí thế sôi sục, với niềm tin sắt đá. Con đƣờng xuất hiện dƣới nhiều biến
thể rất đa dạng, phong phú: đường thế gian, con đường cách mạng tháng Mười,
đường thiên lý, đường xa gánh nặng, đường xưa, cách mạng đường trường,
đường cách mạng, đường dài, đường đấu tranh, đường Nam Bắc,…
Trong thơ ca cách mạng giai đoạn 1930-1945, sáng tác của các chiến sĩ
đang bị giam cầm trong tù của đế quốc chiếm số lƣợng khá lớn và có nhiều
đóng góp tích cực trong việc tuyên truyền, động viên, thúc đẩy sự lớn mạnh
của phong trào đấu tranh. Bài thơ Giấc mơ đƣợc chiến sĩ Nguyễn Văn Hoan
sáng tác năm 1932 khi đang bị giam tại Côn Đảo, nói về giấc mơ đƣợc gặp
Lê-nin, đƣợc tận mắt chứng kiến những cuộc đời có áo ấm, cơm no, đƣợc độc
lập, tự do thật sự. Và ngƣời chiến sĩ khẳng định niềm tin của mình: “Hai năm
126
thực đã rõ mười/ Con đường Cách mạng tháng Mười là đây!”. Đó chính là
con đƣờng cách mạng vô sản, con đƣờng đúng đắn chỉ lối cho các dân tộc
đang bị áp bức, đang trên hành trình đấu tranh đòi tự do: “Bốn bể năm châu
tới đâu là anh em đấy/ Đường thế gian tha hồ vũng vẫy dọc ngang” (Bài ca
kêu gọi công nông binh làm cách mạng, Đinh Nhu).
Con đƣờng cách mạng tháng Mƣời, con đƣờng của Mác-Lênin dạy
chính là ngọn đuốc soi đƣờng, là kim chỉ nam cho hành động của các chiến sĩ,
cho dù họ đang bị giam hãm, tù đày: “Dù rằng trong khi chúng ta ở nơi lao
tù/ Gan sắt son ghi lòng tạc dạ chớ quên!/ Tiến bước lên trên con đường đua
tranh phấn đấu/ Mưu ích chung ta cùng bảo nhau” (Kỷ niệm Lê-nin, Đinh
Nhu), “Đem lý tưởng Lê - nin chói lọi/ Quyết xua tan bóng tối đêm trường/
Màu hồng liềm búa khai trương/ Một thiên sử mới trên đường đấu tranh” (Vô
sản diễn ca, Đặng Xuân Thiều). Bƣớc theo bƣớc đƣờng của Đảng, là bƣớc
theo ánh sáng, chân lý và trở thành con ngƣời theo đúng nghĩa: “Đường con
đi có Đảng/ Dìu dắt con làm người” (Nhắn cha trong tù, Trƣơng Văn Chấn).
Càng trong hoàn cảnh khó khăn, tinh thần ngƣời chiến sĩ cách mạng
càng thêm tôi luyện, vững vàng. Cho bƣớc đƣờng tranh đấu nhiều chông gai,
thử thách đến mức nào thì những ngƣời chiến sĩ vẫn một lòng, một dạ theo
con đƣờng cách mạng đã lựa chọn: “Đường trường ta bước đã quen chân…/
Ta cứ đi… đi… đến một ngày/ Vừng hồng đỏ chói khắp đông tây” (Tiễn bạn
đi Căng, Trần Huy Liệu), “Cách mạng đường trường lắm ngoắt ngheo/ Quản
chi xuống thác với lên đèo” (Tiễn bước lên đường, Lƣơng Văn Phôi). Còn đây
là lời của ngƣời vợ khuyên chồng sau khi anh đƣợc tha khỏi tù: “Anh cứ về đi,
anh bước đi/ Đi trên đường cũ mấy lâu ni/ Chông, gai, càng bước, càng gian
khổ/ Nhưng chí làm trai có quản gì” (Tiễn anh Chánh ra tù, Phạm Thị Trinh).
Với nhận thức rõ ràng về nỗi nhục của ngƣời dân mất nƣớc và nỗi đau
chung của đồng bào, ngƣời chiến sĩ quyết dấn thân đi làm cách mạng. Và
127
cũng từ đó, ngƣời chiến sĩ hiểu đƣợc giá trị đích thực của sự sống và cái chết.
Đặng Xuân Thiều khi đang bị giam ở nhà lao Phấn Mễ đƣợc mẹ vào thăm và
báo tin đồng chí Lƣơng Khánh Thiện bị xử tử đã nhắn nhủ mẹ trong dòng
nƣớc mắt: “Giây phút viết vội vàng/ Gửi dâng mẹ vài hàng/ Đường đời không
hẹn trước/ Sống chết đều vinh quang” (Mẹ). Con đƣờng cách mạng đồng
nghĩa với gian khổ, hy sinh, cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Nhiều chiến sĩ đã
hy sinh oanh liệt, để “con đƣờng cách mạng” còn đó với nhiều dang dở, dự
định. Nhiều bài thơ khóc bạn, tiễn đƣa đồng chí đã ra đời giữa chốn ngục tù
tăm tối: “Đảng viên Đảng Cộng Đông Dương/Bỏ mình vì nghĩa giữa đường
hôm qua” (Khóc Nguyễn Đức Cảnh, Đặng Xuân Thiều), “Non nước ngậm
ngùi khi nhớ bạn/Đường đời khấp khểnh biết trông ai!” (Khóc Nguyễn Trọng
Đàm, Nguyễn Quang Tạo). Và cũng chính tại nơi đây, tình đồng chí vút lên
những giá trị thiêng liêng tuyệt vời. Đào Duy Kỳ làm bài thơ Vĩnh biệt nhân
cái chết của một đồng chí công nhân bị bắt trong khởi nghĩa Nam Kỳ rồi đem
giam ở Côn Lôn. Trƣớc khi chết, đồng chí công nhân đã nhờ một ngƣời bạn
thân cởi giùm bộ quần áo mình đang mặc để gửi lại cho đồng chí khác dùng.
Ngƣời bạn không chịu cởi, nhƣng đồng chí công nhân nói đây là nguyện vọng
cuối cùng của mình, và cuối cùng là chịu cái chết trần truồng thê thảm: “Hỡi
ơi! đường dài dang dở/ Chân hiền luyến nhớ chông gai…/Đời tôi dẫu có tàn
tạ/ Vẫn nguyền trả nợ núi sông/ Áo quần tôi xin hiến cả/ Góp phần cách mạng
thành công”.
Có thể nhận thấy một trong những đặc điểm của chủ nghĩa nhân đạo
mới trong thơ ca cách mạng 1930-1945 đó là đề cao vai trò của phụ nữ, giải
phóng phụ nữ để họ có thể đem tài năng, sức lực phục vụ cho tổ quốc, cho xã
hội. Điều này khác xa với vấn đề phụ nữ trong chủ nghĩa nhân đạo tƣ sản.
Thơ ca cách mạng trƣớc hết tố cáo thái độ trọng nam khinh nữ, sự yếu thế của
phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày: “Sinh ra gái Nam Việt/ Chịu thua thiệt
128
nhiều bề/ Chỉ điểm phấn tô huê/ Làm đồ chơi cho họ/ Làm đồ dùng cho họ”
và sau đó là sự khuyến khích: “Đường trâm thoa hãy gác/ Nền học vấn âu lo/
Nào sách vở báo đồ/ Phải chăm coi mới được” (Em khuyên chị, Khuyết
danh). Và từ đó trên con đƣờng cách mạng cam go và thử thách, xuất hiện
thêm hình ảnh của những ngƣời phụ nữ mạnh mẽ, quyết liệt: “Chị em ta kết
thành đoàn/ Mau chân mà bước lên đường đấu tranh” (Kêu gọi phụ nữ, Trần
Toại). Hai vợ chồng cùng trên một chiến tuyến đấu tranh chống quân thù,
cùng hẹn ƣớc một tƣơng lai tƣơi sáng sau khi thực hiện xong nghĩa vụ thiêng
liêng với Tổ quốc: “Trên đường gió bụi chông gai/ Đạp bằng ta sẽ cùng ai đi
về/ Bóng hồng phủ khắp thôn quê/ Tình nhà nợ nước đôi bề vẹn hai/ Em ơi
gắng đợi ngày mai” (Trong ca-sô Huế, Nguyễn Chánh).
Trong thơ Hồ Chí Minh giai đoạn này, hình ảnh con đƣờng bên cạnh
việc xuất hiện với nét nghĩa thực tế (là hành trình đi đày của ngƣời chiến sĩ
cách mạng) thì cũng đồng thời xuất hiện với nét nghĩa tƣợng trƣng cho con
đƣờng cách mạng gian khó, chông gai, nhiều thử thách đòi hỏi ngƣời chiến sĩ
phải vững gan, bền chí: “Đi đường mới biết gian lao/ Núi cao rồi lại núi cao
trập trùng” (Đi đường). Hoàn cảnh giam hãm, tù đày khiến ngƣời chiến sĩ
cảm thấy vô cùng sốt ruột, nhất là khi chƣa biết ngày nào mới đƣợc tiếp tục đi
trên con đƣờng cách mạng: “Thuốc đắng, cạn liều càng thấy đắng/ Đường
gay, cuối chặng lại thêm gay” (Giam lâu không được chuyển). Và mặc dù
tƣơng lai còn đang rất mịt mờ, chƣa có đƣờng hƣớng rõ ràng, nhƣng cái cách
của ngƣời chiến sĩ đối mặt với thực tế thật đáng khâm phục. Đó là một thái độ
bình tĩnh, hiên ngang, sẵn sàng chấp nhận mọi giông tố: “Gà gáy một lần đêm
chửa tan/ Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn/ Người đi cất bước trên đường thẳm/ Rát mặt đêm thu trận gió hàn” (Giải đi sớm).
Với nhà thơ - ngƣời chiến sĩ Tố Hữu, con đƣờng cách mạng là con
đƣờng tƣ tƣởng xuyên suốt 7 tập thơ, phản ánh những giai đoạn phát triển
129
khác nhau của cách mạng Việt Nam và đời thơ Tố Hữu từ những năm 1930.
Trong đó, biểu tƣợng con đƣờng thể hiện rõ nét nhất, sâu sắc nhất là trong tập
thơ Từ ấy. Đây là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, là công trình mƣời năm hoạt
động cách mạng của ngƣời chiến sĩ, thi sĩ. Tập thơ là tiếng nói nhiệt thành của
tuổi trẻ say mê lý tƣởng. Vấn đề nhận đƣờng đƣợc thể hiện nghiêm túc trong
suy nghĩ, nhận thức của nhà thơ. Ngay từ tập thơ đầu tiên Tố Hữu đã xây
dựng con đƣờng thành một biểu tƣợng trong thơ, với sự vận động và phát
triển nhƣ chính những bƣớc đi của cách mạng Việt Nam. Qua bao nhiêu trăn
trở suy tƣ, ngƣời thanh niên trẻ tuổi đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, đang
kiếm tìm cho mình một con đƣờng đi tới. Nhƣng ánh sáng của lý tƣởng cộng
sản đã soi hƣớng đi “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua
tim”, và nhà thơ sung sƣớng reo lên, khẳng định một điều chắc chắn: “Khi ta
đã say mùi hương chân lý/ Đời đắng cay không một chút ngọt bùi/ Đời đau
buồn không một tiếng cười vui/ Ta bước tới. Chỉ một đường: Cách mạng”
(Như những con tàu). Con đƣờng cách mạng mà nhà thơ lựa chọn, phấn đấu,
hy sinh suốt cuộc đời đã in đậm nét trong những sáng tác của ông. Vƣợt ra
khỏi sự bế tắc, tuyệt vọng của lớp tiểu tƣ sản đƣơng thời, nhà thơ đứng vào
hàng ngũ của những ngƣời cộng sản, đấu tranh trên con đƣờng cách mạng. Đó
chính là con đƣờng huyết mạch xuyên suốt trong sáng tác của Tố Hữu.
Lựa chọn cho mình con đƣờng cách mạng, dƣới ánh sáng soi đƣờng
của chủ nghĩa Mác-Lênin là nhà thơ đã lựa chọn cho mình một lẽ sống lớn, vẻ
vang, thấm đƣợm tinh thần nhân đạo. Con đƣờng trở thành biểu tƣợng của lý
tƣởng cách mạng, lý tƣởng chính trị của thời đại bấy giờ. Tố Hữu mạnh dạn
bƣớc đi trên con đƣờng cách mạng với một niềm lạc quan, tin tƣởng, một thứ
lạc quan chủ nghĩa cách mạng tràn lên bấy nhiêu vần thơ, khi véo von, khi
hùng tráng của một ngƣời chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi: “Khóc là nhục. Rên,
hèn. Van, yếu đuối/ Và dại khờ là những lũ người câm/ Trên đường đi như
130
những bóng âm thầm/ Nhận đau khổ mà gửi vào im lặng” (Liên hiệp lại). Đây
chính là một sự khẳng định đầy kiêu hãnh, tự tin về con đƣờng mình đã chọn,
con đƣờng quang vinh nhƣng đòi hỏi nhiều gian lao, hy sinh, thử thách.
Không phải ai cũng có đủ can đảm kiên trung để suốt cuộc đời dâng hiến cho
cách mạng, cho nhân dân. Tố Hữu đã bƣớc đến với cách mạng cùng một niềm
lạc quan, yêu đời: “Hai mươi tuổi tim đang dào dạt máu”, nhà thơ hăm hở dấn
thân theo lý tƣởng, niềm tin mãnh liệt của mình: “Nẻo đường ra đã vạch tự
bao giờ/ Mời chân bước mà vẫn còn e ngại” (Liên hiệp lại).
Nhà thơ luôn dặn lòng phải kiên trung trên bƣớc đƣờng đã chọn. Ta luôn
bắt gặp hình ảnh nhà thơ say mê và quyết tâm tiến bƣớc theo lý tƣởng của
Đảng. Con đƣờng không chỉ có hoa thơm, trái ngọt, mà là “đường non thăm
thẳm”, “đá gài lô nhô”, “đường xa”, “đường lầy”,… Và nhà thơ luôn tự nhủ:
“Đường tranh đấu không bao giờ thoái bộ/ Sống đã vì cách mạng, anh em ta/
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà!” (Trăng trối). Và tự tin, vững tay lái
con thuyền cách mạng cập bến bờ vui: “Đường đi đó nhổ sào lên tôi lái/ Chiếc
thuyền tôi vui lướt giữa muôn thuyền” (Những người không chết).
Tố Hữu luôn nhắc về các đồng chí, đồng đội của mình với tình cảm tha
thiết, với sự tin tƣởng sâu sắc. Đó là Phan Đăng Lƣu, Nguyễn Chí Diểu,
Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập,… Những ngƣời đồng chí anh dũng đã
gieo thêm trong lòng nhà thơ những quyết tâm sắt đá: “Từ khi dấn chân bước/
Trên con đường đấu tranh/ Tôi sẵn có trong mình/ Đôi mắt thần chủ nghĩa”
(Con cá chột nưa). Và sau này, khi đang ở trong hoàn cảnh tù đày, mất tự do,
nhƣng ngƣời chiến sĩ ấy hiên ngang khẳng định tinh thần không lùi bƣớc của
mình: “Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu/ Vẫn đứng thẳng trên đường
đầy lửa máu” (Tâm tư trong tù). Những lời thơ ấy có sức vang, lay động đến
tâm can của từng chiến sĩ, giúp họ có đủ dũng khí và sức mạnh để vƣợt qua
biết bao khó khăn: đói, rét, những đòn roi tra tấn,…. Nhà thơ không thôi hy
131
vọng, tin tƣởng. Niềm tin mãnh liệt vào tƣơng lai tƣơi sáng của Việt Nam, dù
đang trong hoàn cảnh tù đày: “Và cứ tưng bừng theo lửa sớm/ Đường xa vô
hạn đích vô cùng/ Chân trời lui mãi lan lan rộng/ Hy vọng tràn lên đồng
mênh mông (Dưới trưa).
Biểu tƣợng con đƣờng trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu cũng mang nét
nghĩa có giá trị nhân đạo sâu sắc, khi hình ảnh con đƣờng gắn liền với những
phận đời, phận ngƣời nghèo khó, không nơi nƣơng tựa, yếm thế trong xã hội.
Con đƣờng xuất hiện với nhiều biến thể nhƣ: đường sương gió, đường sương
lạnh, đường đêm,… Tố Hữu đã tạo ra một vạch nối giữa số phận cá nhân của
vú em, gái giang hồ, đời thợ, em bé bán dạo, trẻ mồ côi, lão đầy tớ,… với
viễn cảnh cách mạng và tƣơng lai tƣơi sáng của dân tộc, của con ngƣời. Tác
giả nhìn cách mạng nhƣ là nhu cầu giải phóng của mỗi cá nhân. Cách mạng
xã hội là con đƣờng duy nhất để thay đổi cuộc đời cá nhân và cách mạng xã
hội trở thành chủ đề trung tâm của thơ.
Tố Hữu cất lên tiếng nói của những ngƣời đau khổ, cùng giai cấp cần
lao. Lời thơ của Tố Hữu nhƣ những lời an ủi, ân cần, ruột thịt với những em
bé lạc loài, mồ côi, không nơi nƣơng tựa: “Gió lùa mưa rơi rơi/ Trên nẻo
đường sương lạnh/ Đi về đâu em ơi/ Phơi thân tàn cô quạnh!” (Mồ côi), “Anh
đã biết rằng em/ Sống rày đây mai đó/ Trong bụi đường sương gió/ Bên xó
chợ chân thềm (Tương tri). Hoặc những mảnh đời “cù bất cù bơ”: “Ai nằm
trong sương/ Bên đường phố lạnh/ Áo tàn nửa cánh/ Cơm thừa nửa mo”
(Tiếng chuông nhà thờ). Thậm chí, trong xà lim tối tăm, ngƣời chiến sĩ vẫn
hƣớng lòng mình về cuộc sống của những cảnh đời tội nghiệp, một em bé đi
bán hàng rong trong đêm khuya vắng: “Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi/
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi/ Tiếng em bước trên đường đêm nho
nhỏ”, “Đuôi tóc chuôi từng bảy tám năm thôi/ Ấy chân em leo bước lên đường
đời” (Một tiếng rao đêm). Những vần thơ gợi lên thực tại đau xót, thực tại nô
132
lệ. Hình ảnh “đường phố lạnh”, “đường sương gió”, “đường đêm”, “đường
đời” cho ta thấy hình ảnh cả dân tộc đang lầm lũi trong đêm trƣờng nô lệ,
đang rên xiết dƣới ách áp bức của thực dân, phong kiến.
Nhà thơ Đặng Xuân Thiều cũng dành sự quan tâm của mình trƣớc
những cảnh đời tội nghiệp, bất hạnh trong xã hội, lâm vào cảnh bƣớc đƣờng
cùng. Đó là những ngƣời lao công, thợ hầm mò: “Nẻo đường phố đổi thay
từng lúc/ Bụi chiều thu phủ lớp lao công/ Đường về như vỡ tổ ong/ Dòng
người tất tưởi, khốn cùng, lao đao”, là cảnh những ngƣời đói ăn, vật vờ:
“Nhặt ăn lá bánh chợ trời/ Tìm ăn bã mía, bới moi rác đường”, là những
ngƣời nghèo khó, hàng ngày vật lộn mƣu sinh: “Đây làm vốn, bán rao hàng
nước/Kế sinh nhai tùy bước đường cùng”, là những thân thế cô đơn không nơi
nƣơng tựa: “Khắp đường bao giọt máu rơi/ Không cha, không mẹ, kiếp người
vất vương” (Kể chuyện cô bụi). Cũng giống nhƣ nhà thơ Tố Hữu, những
ngƣời chiến sĩ cách mạng đặc biệt dành tình cảm cho những trẻ em mồ côi,
vất vƣởng, bởi trong xã hội đau thƣơng ấy, đó là những thân phận mong
manh, yếu đuối nhất: “Đường đời đói rét ngổn ngang/Em đi sờ soạng bước
đường người đi” (Em bé mù, Đặng Xuân Thiều), “Em bước chân lên con
đường đá sỏi/Trên vai gánh mỏi, dưới chân đi chói” (Thợ trẻ em làm trong đá
mỏ, Lê Mạnh Trinh).
Nếu nhƣ biểu tƣợng con đƣờng trong thơ ca Cách mạng là con đƣờng
đấu tranh, con đƣờng đi tới,… thì trong Thơ mới, đó lại là “khúc đƣờng
thơm”, là không gian thơ mộng của tình yêu: “Người cùng tôi đi dạo giữa
đường thơm/ Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng” (Đi giữa đường thơm,
Huy Cận), “Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng trở
chiều/ Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn/ Lần đầu rung động nỗi thương yêu” (Thơ
duyên, Xuân Diệu).
4.1.3. Biểu tượng cờ - ngọn cờ
Hầu hết trong các mã văn hóa, lá cờ hiệu, ngọn cờ nói chung là biểu hiện
133
chỉ một tổ chức, tôn giáo, quốc gia, là biểu hiện của chiến trận, là dấu hiệu của
quyền chỉ huy và bản thân ngƣời chủ tƣớng; đồng thời, ngọn cờ cũng dùng làm
dấu hiệu để tập hợp, huy động sức mạnh, chống lại sức mạnh ác hại. Với góc
độ ngƣời chỉ huy thì “Ngƣời cầm cờ hiệu hay cờ lệnh luôn luôn giƣơng nó lên
trên đầu mình. Anh ta có thể tung lên trời lời kêu gọi, tạo ra một mối liên kết
giữa thƣợng giới và hạ giới, giữa cõi trời và cõi trần” [12, 217-218]. Và trong
văn hóa nghệ thuật, cờ trở thành một biểu tƣợng với nhiều ý nghĩa khác nhau
tùy vào hoàn cảnh sinh thành và mục đích của ngƣời sáng tạo.
Cờ - ngọn cờ trong thơ ca cách mạng 1930 - 1945 xuất hiện với tần suất
rất lớn, với nhiều dạng thức và biến thể phong phú. Ngọn cờ là biểu tƣợng của
vinh quang, chính nghĩa, của lý tƣởng và vinh quanh cách mạng. Ngọn cờ
cũng chính là hiện thân của dân tộc, của ý chí cách mạng, là màu sắc của
niềm tin, sự quả cảm, là biểu tƣợng của sự vận động cách mạng từ đêm tối ra
ánh sáng, từ lầm than nô lệ đến làm chủ vận mệnh, cuộc đời.
Trong thơ Hồ Chí Minh (khảo sát thơ ca chữ Việt và tập Nhật ký trong
tù), cờ, ngọn cờ xuất hiện 09 lần (cờ treo độc lập, cờ đỏ sao vàng, ngọn cờ
kháng Nhật, cờ nghĩa,…). Trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu, biểu tƣợng cờ
xuất hiện 16 lần (cờ dân chủ, cờ dân tộc, cờ đỏ sao vàng,…). Đặc biệt, trong
Thơ ca cách mạng 1930-1945 (NXB Khoa học Xã hội, 1973), lá cờ, ngọn cờ
xuất hiện 122 lần/ 257 bài (chiếm 47.47%) với nhiều biến thể đa dạng (cờ đỏ,
cờ hồng, cờ cộng sản, lá cờ Đảng, cờ chỉ huy, cờ độc lập, lá hồng kỳ, cờ
thống nhất, ngọn cờ phục quốc, cờ xã hội, cờ khởi nghĩa, cờ ngôi sao, ngọn
cờ nhân đạo,…).
Nhắc đến hình ảnh ngọn cờ, trƣớc hết, khơi gợi trong lòng chúng ta
biểu tƣợng về quốc gia, dân tộc. Đó là ngọn cờ cách mạng, ngọn cờ lý tƣởng,
ngọn cờ dân tộc quyết chiến và quyết thắng.
Trong thơ Tố Hữu, ngọn cờ là một biểu tƣợng đẹp, biểu tƣợng của
134
chính nghĩa, của khát vọng tự do, dân chủ, độc lập và chiến thắng, biểu tƣợng
của Dân tộc, của Tổ quốc, của Đảng. Ý thức chính trị của một nhà thơ, ngƣời
chiến sĩ đã tạo nên một cách nhìn tƣơng phản giữa hình ảnh lá cờ của ta và
của địch. Nếu nhƣ lá cờ của địch hiện lên không có màu sắc, ủ rũ, hiu hắt,
không có sức sống: “Thành quách trăm năm sầu mặt lạnh/ Ngọn cờ uể oải,
vật vờ bay (Dửng dưng), “Đồn xa héo hắt cờ bay/Hiu hiu phất lại buồn vây
vây lòng” (Tiếng hát đi đày), thì ngƣợc lại, lá cờ chính nghĩa của chúng ta lại
có nhiều màu sắc, phất phới bay lên trong niềm tự hào vô biên. Biểu tƣợng
ngọn cờ trong những bài thơ của tập Từ ấy tƣợng trƣng cho khát vọng tự do,
độc lập và cho tinh thần chính nghĩa. Ngọn cờ xuất hiện lần đầu trong bài Dậy
lên thanh niên viết năm 1940:
Phất ngọn cờ lên, tung bước lên
Với kho hùng khí của thanh niên…
Cờ tự do bay rợp chiến đài
Bốn phương trời đỏ rực tương lai
Khi ngƣời chiến sĩ bị chịu “cảnh thân tù”, trong sự cô đơn, trống trải vì
không đƣợc tiếp tục trên con đƣờng tranh đấu, thì chính ngọn cờ là điểm tựa
tinh thần, là nguồn động lực mạnh mẽ cho họ: “Tôi, hôm nay, dầu xa tạm
ngọn cờ/ Hồn tranh đấu vẫn còn thôi thúc não” (Tâm tư trong tù). Năm 1943,
trong khoảng thời gian vƣợt ngục Đắc Lay, cũng là lúc đêm giao thừa, lòng
ngƣời chiến sĩ cảm thấy man mác tình cảm đầm ấm của quê hƣơng, gia đình.
Song, vƣợt lên tất cả, đó là hình ảnh ngọn cờ cách mạng choán ngợp trong
tim: “Nép lưng vào miếu tranh nghèo/ Nao nao lòng lại mơ theo cờ hồng”.
Hình ảnh ngọn cờ kết thúc bài thơ đã tạo một điểm nhấn tuyệt vời trong cảm
xúc, khơi gợi trong lòng chúng ta niềm tin vào cách mạng, vào con đƣờng
tƣơng lai nhất định sẽ thắng lợi, hoan ca.
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời, kêu gọi toàn
135
dân đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng đất nƣớc. Nghị quyết Hội nghị Trung
ƣơng Đảng tháng 5/1941 đã giới thiệu những nội dung chính của Chương
trình Việt Minh. Dựa vào đó, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác một bài thơ dài
212 câu, đƣợc Bộ tuyên truyền Việt Minh xuất bản thành sách và giới thiệu
rộng rãi. Hình ảnh ngọn cờ lần đầu tiên xuất hiện trong thơ Hồ Chí Minh:
Việt Nam độc lập đồng minh
Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây
Quyết làm cho nước non này
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền
Làm cho con cháu Rồng, Tiên
Dân ta giữ lấy lợi quyền của ta
(Mƣời chính sách của Việt Minh)
Trong không khí mừng xuân năm 1942, Hồ Chí Minh đã kêu gọi tinh
thần đoàn kết, thống nhất, quyết tâm chiến đấu của “phe dân chủ”, của đồng
bào ta, và gửi lời mong ƣớc, niềm tin vào thắng lợi vẻ vang không chỉ ở Việt
Nam mà trên toàn thế giới: “Chúc toàn quốc ta trong năm nay/ Cờ đỏ sao
vàng bay phất phới/ Năm nay là năm Tết vẻ vang/ Cách mạng thành công
khắp thế giới” (Mừng xuân 1942).
Sau này, khi bị bắt giam trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch, trong những
đêm thâu không ngủ, hình ảnh ngọn cờ dân tộc vẫn cứ trăn trở, ám ảnh giấc mơ
của ngƣời chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh: “Một canh… hai canh… lại ba
canh/ Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành/ Canh bốn, canh năm vừa chợp
mắt/ Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” (Không ngủ được). Hình ảnh sao
vàng năm cánh trong câu thơ cuối chính là biểu tƣợng của đất nƣớc, của Mặt
trận Việt Minh. Một giấc mộng thật đẹp của ngƣời chiến sĩ cách mạng, giàu
cảm xúc và khơi gợi tình cảm yêu nƣớc chứa chan. Tình yêu đất nƣớc đi vào
trong giấc mơ, trong vô thức, đủ thấy tình yêu ấy lớn lao và thƣờng trực nhƣ
136
thế nào. Giấc mơ càng ám ảnh, tình yêu càng lớn, thì hoàn cảnh thực tại càng
làm cho tâm trạng ngƣời chiến sĩ cộng sản thấy xót xa, đau đớn khi nghe tin đất
nƣớc có “biến”: “Thà chết chẳng cam nô lệ mãi/ Tung bay cờ nghĩa khắp trăm
miền/ Xót mình còm hãm trong tù ngục/ Chưa được xông pha giữa trận tiền”
(“Việt Nam có bạo động”, Nguồn tin xích đạo trên báo Ung Ninh 14-11).
Hƣớng về cách mạng là hƣớng về vị lãnh tụ Hồ Chí Minh và ngƣợc lại,
vào những năm sau 1941, ngọn cờ dân tộc quyết chiến, quyết thắng xuất hiện
trong tập thơ Từ ấy mạnh mẽ, phóng khoáng. Ngọn cờ đỏ sao vàng - Quốc kỳ
của Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xuất hiện đồng thời với Tiến quân ca,
một biểu tƣợng của nƣớc Việt Nam độc lập: “Ngọn cờ đỏ sao vàng bay phấp
phới/ Nước non Hồng vang dội Tiến quân ca”. Ngọn cờ ấy đƣợc phất lên bởi
vị lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc/ Trăm thế kỷ trong tên
Người: Ái Quốc/ Bạn muôn đời của thế giới đau thương” (Hồ Chí Minh).
Bên cạnh biểu tƣợng lá cờ, ngọn cờ xuất hiện một cách giàu ý nghĩa
tƣợng trƣng trong thơ Tố Hữu, Hồ Chí Minh, chúng ta phải kể đến một loạt
những sáng tác của Đặng Xuân Thiều, Trần Huy Liệu, Nguyễn Xuân Linh,
Đinh Nhu,… và đặc biệt là những tác giả khuyết danh (một điều dễ hiểu trong
hoàn cảnh chiến tranh, thơ ca cách mạng đƣợc coi là một vũ khí sắc bén mà
thực dân Pháp ra sức cấm đoán, chống phá). Trong đó, biểu tƣợng lá cờ xuất
hiện với những biến thể, với những màu sắc, hình dáng vô cùng phong phú.
Đó là ngọn cờ biểu tƣợng của cách mạng vô sản quốc tế xuất hiện trong thơ
Đinh Nhu: “Ngọn cờ tiền phong nay đỏ chói khắp năm châu/ Đưa người công
nông ra liên kết nắm tay cùng nhau” (Bài ca kêu gọi công nông binh làm cách
mạng), “Cách mạng thành công đồng thời hô lớn muôn năm/ Dưới ngọn cờ
Quốc tế đỏ, tiến bước lên!” (Kỷ niệm Lê-nin). Hình ảnh cờ liềm búa, cờ Các
Mác, Lê - nin xuất hiện nhƣ kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đƣờng cho cuộc đấu
tranh chính nghĩa của giai cấp vô sản toàn thế giới: “Trận giao chiến ào ào
137
bão táp/ Dưới bóng cờ Các Mác - Lê nin… Nghe chân lý dặm chừng vang
động/ Nhìn cờ bay lồng lộng trời cao… Đem lý tưởng Lê - nin chói lọi/ Quyết
xua tan bóng tối đêm trường/ Màu hồng liềm búa khai trương/ Một thiên sử
mới trên đường đấu tranh (Vô sản diễn ca, Đặng Xuân Thiều), “Cờ liềm búa
từ Đông Nga phất tới/ Liếc mắt rõ ràng thời đại mới” (Bài văn tế truy điệu
đồng chí Nguyễn Nghiêm, Trần Kinh Luân). Đó là ngọn cờ biểu tƣợng của
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, của dân tộc, của độc lập, tự do. “Lá cờ Đảng”
xuất hiện đầu tiên trong cao trào cách mạng 1930-1931, thời điểm thực dân
Pháp thực hiện chiến dịch khủng bố trắng:
Lá cờ Đảng
Lá cờ đầu tiên….
Kéo hiên ngang bay lượn trên không
(Cuộc biểu tình đầu tiên mở đầu cao trào 1930-1931)
Cuộc biểu tình này bắt đầu từ các xã Phổ-phong, Phổ-thuận huyện
Đức-phổ và có đến nửa vạn ngƣời tham dự kéo lên huyện đánh phá, chiếm
huyện đƣờng, thả tù, đốt sách,… sau đó giải tán trong thắng lợi. Hình ảnh lá
cờ dân tộc, cờ Việt Minh hiện lên thật sáng ngời, với khí thế chiến đấu mạnh
mẽ: “Đồng thanh đứng dậy ta đi/ Phất cờ cứu quốc dưới cờ Việt Minh” (Bài
ca tuyên truyền chống giặc).
Một trong những nhiệm vụ chính trị rõ nhất, cơ bản nhất của thơ ca
cách mạng chính là cổ động quần chúng nhân dân lao động, các tầng lớp tham
gia, hòa mình vào cuộc chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Và hình ảnh ngọn cờ,
ngọn đuốc tiền phong luôn xuất hiện ở vị trí trên cao nhất, dẫn dắt đồng bào
quốc dân làm cách mạng: “Nay có Đảng Đông-dương cộng sản/Đuốc tiền
phong soi sáng ta đi” (Cổ động binh lính, Khuyết danh), “Nay có đuốc tiền
phong soi sáng/ Đảng Đông-dương cộng sản dẫn đầu” (Cổ động học sinh,
thanh niên, Khuyết danh), “Bớ công nông! Phất cờ lên/ Bớ công nông! Phất
cờ lên/ Đồng tâm lướt tới diệt loài sài lang/ Theo ngọn cờ Mác-Lênin” (Bài
138
ca kêu gọi công nông làm cách mạng, Trần Út).
Đặc biệt là hình ảnh ngọn cờ cách mạng xuất hiện với nhiều màu sắc
rực rỡ, nhất là màu hồng, màu đỏ: “Nhắm cờ hồng ta hãy tiến lên!/ Phất cờ
hồng ta cứ kéo lên!” (Tiễn một số đồng chí bị đày đi Côn-Đảo, Khuyết danh),
“Phất cờ hồng giai cấp công nông/ Đem sức mạnh phá tông đời hủ bại”
(Trong tù mừng năm mới, Khuyết danh), “Trời rung rung nữa giục hoa rơi/
Hoa vẫn như cờ vẫn đỏ tươi/ Sực nhớ ngày nào tôi với gió/ Trời cao cờ đỏ
lộng tung trời” (Xà lim qua lỗ nhỏ, Nguyễn Xuân Linh). Và đây là hình ảnh lá
cờ, biểu tƣợng của chính nghĩa, của tinh thần vô sản, của dân tộc, của nhân
dân hiện lên trong bài thơ đƣợc anh em du kích Ba Tơ rất thích và phổ biến
rộng rãi trong hàng ngũ tự vệ, du kích quân ở các tỉnh Trung bộ:
Cờ ai phất phới Ba-Tơ?
Đó là cách mạng phất cờ Việt Minh
Cờ ai phất phới kinh thành?
Đó cờ chính phủ bù nhìn Việt gian
Cờ ai phất phới Bắc Sơn?
Lá cờ sắc đỏ, sao vàng Việt Minh
Cờ ai đo đỏ, xinh xinh
Búa, liềm hai cái đúc hình với nhau?
Phất cờ toàn cả năm châu
Lá cờ cộng sản dẫn đầu tiên phong
(Cách mạng, Khuyết danh)
Một điều đặc biệt, đó là hình ảnh ngọn cờ xuất hiện gắn với tinh thần
đấu tranh quật khởi của giới “khăn yếm”. Đây là điều không hiếm gặp trong
lịch sử của dân tộc từ thời Bà Trƣng, Bà Triệu nhƣng đƣợc tô vẽ đậm nét hơn,
hào sảng hơn: “Dầu khăn yếm, cũng phất cao cờ cộng sản/ Đem tâm huyết thi
gan cùng súng đạn/ Sợ chi phường tư bản bạo tàn đâu/ Cờ chỉ huy ta nhuộm
139
thắm thêm màu/ Theo kịp gót bạn mày râu, ừ mới giỏi” (Cổ động phụ nữ,
Khuyết danh), “Kết đoàn “quần vận yếm mang”/ Cờ hồng kéo trước, xếp
hàng theo sau” (Bài hò khuyên chị em, Khuyết danh). Đây cũng là những bài
thơ, bài hò đƣợc chị em phụ nữ sử dụng nhiều trong cao trào cách mạng 1930-
1931 ở Quảng Ngãi.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này, cùng
với Tố Hữu, nhiều nhà thơ khác nhƣ Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Quang
Dũng, Nguyễn Khoa Điềm,… cũng dùng biểu tƣợng ngọn cờ nhƣ một biểu
tƣợng cho chân lý, lẽ sống, niềm tin và khát vọng chiến thắng. Nổi bật lên là
việc biểu tƣợng cờ đỏ, sao vàng phần lớn xuất hiện gắn liền với hình tƣợng
Bác Hồ, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là điều dễ hiểu, khi Hồ Chí Minh
chính là ánh sáng, niềm tin, lẽ sống của nhân dân, đất nƣớc: “Hà Nội say mê
chen đón cha về/ Kín trời phơi phới vàng sao” (Người Hà Nội, Nguyễn Đình
Thi), “Trên đường ta về lại thủ đô/ Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ” (Ta đi
tới, Tố Hữu). Tuy nhiên, trong giai đoạn 1930 - 1945, biểu tƣợng cờ, ngọn cờ
xuất hiện nhiều hơn với các biến thể phong phú và đa dạng.
Từ những luận giải và phân tích trên, có thể thấy mặt trời, con đƣờng,
cờ - ngọn cờ là những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu về lý tƣởng cách mạng.
Đó là biểu tƣợng của hƣớng đi, là mục tiêu nhắm tới, là khẩu hiệu hành động
và chiến đấu của các chiến sĩ vì độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp.
4.2. Biểu tƣợng về ý chí cách mạng
4.2.1. Biểu tượng con thuyền
Con thuyền là một “mẫu gốc”, xuất hiện trong hầu hết các nền văn hóa
cổ xƣa trên thế giới, đặc biệt là hình tƣợng con thuyền chở linh hồn ngƣời
chết. “Con thuyền là biểu tƣợng của cuộc hành trình, cuộc vƣợt qua do ngƣời
sống hoặc ngƣời chết thực hiện…. Con thuyền dẫn đến sự tái sinh” [12, 910-
911]. Tuy nhiên, biểu tƣợng con thuyền xuất hiện trong thơ ca cách mạng với
140
những nét nghĩa tƣơng đối khác biệt, với các biến thể nhƣ tàu, chiến hạm,
đò,… chủ yếu là tƣợng trƣng cho con thuyền cách mạng, ý chí của những
ngƣời chiến sĩ cộng sản.
Đọc thơ Tố Hữu, chúng ta sẽ nhận thấy hình ảnh con thuyền đƣợc lặp
đi lặp lại nhiều lần trong các tập thơ. Con thuyền vừa là một hình tƣợng vừa
là một biểu tƣợng đầy sức ám ảnh trong thơ ông. Nói đến con thuyền, ngƣời
ta nghĩ ngay đến sự chuyên chở trên sông biển, con thuyền cũng chính là nhà
của một số ngƣời dân sống ở vùng sông nƣớc; hay theo nhƣ luật phong thủy,
con thuyền buồm đƣợc coi là biểu tƣợng của sự thành công trong kinh doanh,
là biểu trƣng cho khát vọng vƣơn lên, vƣơn tới những tầm cao mới, chân trời
mới. Con thuyền hay con đò, con tàu trong thơ Tố Hữu đƣợc ông xây dựng
nhƣ biểu tƣợng nghệ thuật để nói lên khát vọng vƣợt qua sóng gió để đến đích
vinh quang.
Con thuyền trong tập thơ Từ ấy xuất hiện với tần suất khá nhiều (27
lần). Đó có thể là hình ảnh con thuyền trên sông, con tàu, đoàn chiến hạm
giữa biển khơi mênh mông cũng có thể là hình ảnh trừu tƣợng (biến thể) để
chỉ về con thuyền qua hình ảnh ngƣời lái tàu, ngƣời chèo thuyền. Trong bài
thơ Tiếng hát sông Hương có đoạn: “Trăng lên trăng đứng trăng tàn/ Đời em
ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng/ Em đi với chiếc thuyền không/ Khi mô vô bến
rời dòng dâm ô?.../ Thuyền em rách nát còn lành được không?” thì hình ảnh
con thuyền đó khiến ngƣời ta liên tƣởng đến một kiếp ngƣời trôi nổi, phiêu
bạt, một cuộc đời đầy bấp bênh, đau khổ. Nỗi nhục nhã của một phận ngƣời
dƣờng nhƣ cũng ngập đầy trên chiếc thuyền nan, giữa dòng nhơ bẩn. Đó là
hình ảnh hiếm hoi nhƣng có giá trị nhân văn lớn lao trong thơ Tố Hữu khi viết
về con thuyền của đời ngƣời.
Sau đó, những bài thơ khác cho ta thấy hình ảnh con thuyền với những
đặc điểm, dấu ấn riêng. Đó là con thuyền vƣợt trùng dƣơng mạnh mẽ tiến về
141
đích, mỗi con thuyền chở một ý chí vƣợt lên trên những sóng gió. Nhƣng tiêu
biểu nhất vẫn là tƣợng trƣng cho ngƣời cầm chèo, điều khiển hƣớng đi của
con thuyền cách mạng tiến lên phía trƣớc. Tố Hữu dùng hình ảnh con tàu để
nói về những ngƣời chiến sĩ cách mạng: “Như những con tàu giữa biển mênh
mông/ Còn xa đất vẫn tin ngày cập bến”. Mặc dù thực tế còn nhiều chông gai,
khó khăn thử thách, song ngƣời chiến sĩ vẫn kiên trung, vững vàng một niềm
tin sắt đá:
Bờ đương mờ, hải cảng hãy còn xa
Có lẽ nhiều mỏm đá với phong ba
Sẽ đánh đắm một đôi tàu mỏng mảnh.
Để rồi thấy ý chí quyết tâm lớn hơn tất cả:
Ta hãy là đoàn chiến hạm ra đi,
Hùng dũng tiến đạp muôn đầu ngọn sóng
(Nhƣ những con tàu)
Nhà thơ đã thể hiện một tình cảm rất trân trọng và vô cùng đau đớn
trƣớc sự hy sinh của những đồng chí anh em, những ngƣời đã đồng cam cộng
khổ, ngày đêm cùng mình chèo lái con thuyền cách mạng: “Anh là một thủy thủ
già vững lái/ Tôi bên anh là bạn mới cầm chèo…/ Thuyền anh đã bao lần leo
ngọn sóng/ Trôi điêu linh trên vực mặn không cùng/ Cánh buồm xưa kiêu hãnh
gạt cuồng phong/ Nay tơi tả rủ dòng trên cột lỏng” (Những người không chết).
Chính tình cảm đồng chí lớn lao ấy và hình ảnh của ngƣời bạn đồng
hành gan dạ, bền chí đã làm cho tinh thần của ngƣời chiến sĩ cách mạng trở
nên mạnh mẽ, hiên nganh, quyết tâm hơn bao giờ hết: “Đường đi đó nhổ sào
lên tôi lái/ Chiếc thuyền tôi vui lướt giữa muôn thuyền/ Nào cần chi biển rộng
dẫu bình yên/ Hay ghê gớm nỗi cồn cào sóng dữ/ Tôi cứ lái cho đến ngày mệt
lử/ Một chiều kia dù cũng lại như anh/ Trở về đây trong mạn ván tanh
bành/Giữa lúc những thuyền kia đang lướt tới”. Cuộc chiến đấu hứa hẹn vẫn
142
sẽ diễn ra liên tục, không ngơi nghỉ, hết ngƣời này sẽ có ngƣời khác, hết chiến
thuyền này sẽ đến chiến thuyền khác. Điều này khẳng định ý chí quyết tâm
chiến đấu không gì ngăn nổi của những chiến sĩ chiến đấu vì lý tƣởng của
Đảng cộng sản. Rồi những ngày bị cầm tù, chịu đựng biết bao đòn tra tấn tàn
bạo, hèn hạ của kẻ thù, hình ảnh chiếc thuyền, con tàu đã trở thành thông điệp
để nhà thơ thể hiện nỗi căm giận và bức xúc của mình:
Đây con tàu im lặng vượt thời gian
Toa lớn nhỏ quanh năm vừa chật chỗ
…
Thân giam cấm như con thuyền biển rộng
Sống loanh quanh trong một vũng ao tù
(Quanh quẩn)
Và cho đến khi thời cơ cách mạng đã tới, là lúc ngƣời chiến sĩ phải
luôn nhắn nhủ mình vững tay chèo lái, nỗ lực đến tận cùng: “Tay bình tĩnh cứ
ghì ôm vững lái/ Còn bao nhiêu cứ cắm cổ bơi chèo…/Bạn thuyền ơi nỗ lực
bơi chèo lên” (Giờ quyết định).
Biểu tƣợng con thuyền cũng trở đi trở lại đến 14 lần trong Thơ ca cách
mạng 1930 - 1945 (NXB Khoa học Xã hội, 1973), là biểu tƣợng của ý chí,
quyết tâm son sắt của ngƣời chiến sĩ. Xuất hiện đầu tiên là hình ảnh con
thuyền - cách mạng trong bài Vận động thanh niên của tác giả khuyết danh:
“Chúng ta đồng lực đưa thuyền vượt qua/ Sao cho nổi tiếng con nhà”. Sau đó
là lời Chị khuyên em dấn thân vào con đƣờng cách mạng cho khỏi thẹn với
cuộc đời: “Con thuyền liều với ngọn sông sa/ Sống không ra sức cùng non
nước/ Chết cũng thêm buồn với cỏ hoa”.
Còn lại, phần lớn biểu tƣợng con thuyền xuất hiện ở các sáng tác trong
tù, là lời động viên kịp thời cho các chiến sĩ đang bị giam hãm, không thể tiếp
tục thực hiện mong muốn của mình:
143
Thuyền ngừng lại trên dòng sông xanh biếc
Để hồi sinh sau trận bão gớm ghê
(Đi đày, Khuyết danh).
Với tinh thần lạc quan cách mạng, ngƣời chiến sĩ coi việc tù đày là một
“sự cố”, coi chốn lao tù chỉ là “trạm dừng chân” sau bão táp cách mạng. Họ
coi thƣờng mọi gian lao hiểm nguy, mọi bão giông của cuộc tranh đấu và đặc
biệt là coi thƣờng cái chết: “Kìa con thuyền đương đầu sóng gió/ Người đồng
thuyền kham khổ muôn vàn” (Khúc ngâm chinh phu, Phạm Ngọc Trân).
Khoảng mùa thu năm 1942, có bảy đồng chí chiến sĩ đƣợc mãn hạn tù
về, trong đó có Phan Đình Khải (tức Lê Đức Thọ), Văn Tiến Dũng, Trần
Minh Tƣớc, Nguyễn Ngọc Tỉnh,.. Với tƣ cách là ngƣời cũng đƣợc mãn hạn
tù, ngƣời chiến sĩ Nguyễn Ngọc Tỉnh đã viết bài thơ gửi tặng đồng chí Phan
Đình Khải, nhƣng cũng là những dòng tâm trạng của chính mình: “Với không
khí đầy bầu nghẹt thở/ Với máu xương tràn trụa khắp non sông…/ Thuyền
quốc tế lựa chèo đương vặn lái/ Bất bình thay anh lại phải vô tù/ Năm năm
đây như thép gửi bên lò/ Càng than lửa rèn tô càng lại tốt”. Đó là khí chất,
cốt cách của ngƣời chiến sĩ cách mạng, dù trong hoàn cảnh tù đày, gian khó
nhƣng vẫn ngời lên chất thép phi thƣờng.
Đặng Xuân Thiều viết bài Khóc Nguyễn Đức Cảnh để ca ngợi ngƣời
chiến sĩ kiên trung hy sinh khi mới ngoài hai mƣơi tuổi, một trang tuổi trẻ đã
qua thử lửa, yêu chân lý say đắm, có vai trò gây dựng nền cộng sản: “Đương
cơn sóng cả con thuyền/ Hoa tiêu thiếu một hải viên vững vàng”. Ngƣời chiến
sĩ giàu kinh nghiệm ấy mất đi là một tổn thất lớn của cách mạng, của đồng
chí, nhất là khi tình hình đấu tranh đang diễn ra đầy sóng gió.
Đặc biệt, không chỉ tƣợng trƣng cho con thuyền cách mạng, cho ý chí
gan góc của ngƣời chiến sĩ cộng sản, hình ảnh “thuyền” còn xuất hiện với
hình ảnh “bến” thể hiện mối quan hệ khăng khít, gắn bó giữa gia đình và cách
144
mạng (1 lần duy nhất trong tổng số 257 bài thơ đƣợc khảo sát): “Đông qua
xuân lại đến/ Cách mạng và gia đình/ Giống như thuyền với bến/ Sống bên
nhau nặng tình” (Nhắn cha trong tù, Trƣơng Văn Chấn).
Trong Thơ mới, con thuyền cũng là một biểu tƣợng mang nhiều giá trị
thẩm mĩ thú vị, với những cặp biến thể nhƣ thuyền - hồn, thuyền - bến, thuyền
- trăng. Khác với trong thơ Cách mạng, con thuyền trong Thơ mới chủ yếu là
biểu trƣng cho tình yêu, cho thân phận giang hồ, cho sự cô đơn, lạc lõng giữa
dòng đời: “Thuyền yêu không ghé bến sầu/ Như đêm thiếu phụ bên lầu không
trăng” (Một mùa đông, Lƣu Trọng Lƣ), “Mùa xuân tôi chưa hề có hoa tươi/
Tôi như chiếc thuyền hư, không bến đỗ” (Dối trá, Xuân Diệu).
4.2.2. Biểu tượng lửa
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, lửa là một trong số ít những biểu
tƣợng xa xƣa nhất, có mặt từ thuở hồng hoang của lịch sử loài ngƣời. Theo
cách nói của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant thì biểu tƣợng lửa xuất hiện
cùng với sự hình thành khái niệm “con ngƣời”. Quả thực, lửa là một biểu
tƣợng hàm chứa những nét nghĩa phong phú và đa dạng bậc nhất. Và phần lớn
các mặt ý nghĩa, giá trị của biểu tƣợng lửa đƣợc thu tóm trong giáo thuyết đạo
Hinđu khi giáo thuyết này đã dành cho lửa một tầm quan trọng cơ bản. Tựu
trung lại, có thể thấy biểu tƣợng lửa có những nét nghĩa cơ bản sau: 1. Lửa
ứng với phƣơng Nam, màu đỏ, mùa hè, trái tim. 2. Lửa tƣợng trƣng cho sự
nhiệt huyết (tình yêu, sự giận dữ), cho tinh thần. 3. Lửa nhƣ là một phƣơng
tiện vận chuyển, hay là sứ giả, từ thế giới ngƣời sống sang thế giới ngƣời
chết. 4. Lửa là biểu tƣợng thần thánh, Chúa Trời, sự tẩy uế, tái sinh. 5. Lửa
biểu tƣợng cho sự đốt cháy, tàn phá, thiêu hủy. 6. Lửa của những dục vọng,
của sự trừng phạt, của chiến tranh.
Đặc biệt, các tác giả của Những biểu tượng văn hóa thế giới đã chỉ ra
tính tích cực của sự phá hủy ở nét nghĩa thứ 4, đó là sự tái sinh - sự đảo ngƣợc
145
mới của biểu tƣợng. Nƣớc cũng vậy. Nhƣng lửa phân biệt với nƣớc ở chỗ:
“Lửa tƣợng trƣng cho sự tẩy uế bằng sự thấu hiểu, bằng ánh sáng và chân lý,
đạt đến trạng thái thông tuệ siêu việt nhất; còn nƣớc tƣợng trƣng cho sự thanh
tẩy dục vọng, hƣớng tới dạng thức cao thƣợng nhất, đó là lòng nhân từ” [12,
545-549]. Tất cả những nét nghĩa này hầu nhƣ đều đƣợc thể hiện rất phong
phú, sinh động trong thơ cách mạng.
Biểu tƣợng ngọn lửa xuất hiện với tần suất khá lớn trong thơ ca cách
mạng giai đoạn 1930 - 1945 và trở thành một biểu tƣợng rất quan trọng, tƣợng
trƣng cho con đƣờng, ý chí cách mạng, tinh thần, nghị lực phi thƣờng của những
ngƣời chiến sĩ; đồng thời, cũng tƣợng trƣng cho sự tàn phá man rợ của kẻ thù và
qua đó thể hiện thái độ căm thù giặc sâu sắc của quần chúng nhân dân.
Bài thơ Nhóm lửa đƣợc Hồ Chí Minh sáng tác vào năm 1942. Trong
bài thơ, hình ảnh ngọn lửa đã trở thành tâm điểm, thành cấu tứ cơ bản. Thông
qua so sánh việc nhóm lửa với những bƣớc đi của cách mạng, Hồ Chí Minh
đã giúp cho quần chúng nhân dân hiểu một cách đơn giản, nhƣng đúng bản
chất biện chứng của vấn đề. Thời gian ban đầu: “Lúc leo lắt bắt đầu nhóm
lửa/ Biết bao nhiêu là sự khó khăn?/ Khi lửa đà chắc chắn bén lên/ Thì mưa
gió chi chi cũng cháy/ Mưa lún phún lửa càng nóng nảy/ Gió càng cao, ngọn
lửa càng cao/ Núi rừng đều bén, cháy ào ào/Lửa nung đỏ cả trời sáng tóe/
Việc cách mạng cũng là như thế/ Bước ban đầu là bước gian nan”. Và sau
một thời gian thì: “Song khi cách mạng đã vững chân/ Sẽ ồ ạt lan tràn khắp
xứ/ Sẽ vùn vụt như tòa núi lửa/ Sẽ ầm ầm như ngọn thủy trào/ Sẽ kéo theo tất
cả đồng bào/ Sẽ đè bẹp cả loài lang sói/ Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi/
Chiếu lên cờ Độc lập, Tự do!”.
Trong tập thơ Từ ấy, biểu tƣợng ngọn lửa và những biến thể của nó
xuất hiện không nhiều, tuy nhiên, ý nghĩa biểu trƣng của nó thì rất rõ nét (13
lần): lửa, lửa máu, lửa đỏ, lửa sống, lửa chiến, ngọn lửa thiêng, ngọn đuốc
146
thiêng liêng, ngọn đuốc, lửa thiêu, lửa đương nhen, đám cháy, bốc cháy. Hình
ảnh ngọn lửa xuất hiện đầu tiên và trƣớc hết là biểu trƣng cho khí thế cách
mạng đang ngày càng sôi sục:
Như đám cháy trong gió lồng rần rật
Muôn nghìn trái tim, một ngọn lửa thiêng
Triển gân lên, rung chuyển cả dây xiềng
Đồng đứng dậy đạp đầu quân khốn nạn!
(Tranh đấu)
Đó là thái độ căm phẫn, đau đớn trƣớc những mất mát, đau thƣơng của
đồng bào trƣớc tội án man rợ của kẻ thù:
Máu Việt Nam đang chảy
Đỏ đồng, ôi máu yêu!
Miền Nam đang bốc cháy
Đồng bào ôi lửa thiêu!
(Giết giặc)
Từ niềm uất hận đó, ngƣời chiến sĩ mang trong mình quyết tâm chiến
đấu và chiến thắng, băng qua mƣa bom lửa đạn, coi thƣờng cái chết, sắt son
lời thề: “Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu/ Vẫn đứng thẳng trên đường
đầy lửa máu (Tâm tư trong tù), “Phải sẵn sàng như chiến sĩ ra đi/ Lòng mở
rộng đón muôn lòng yêu nước/ Hồn phải sáng bừng lên như ngọc đuốc/ Chiếu
trăm nơi đến ngỏ hẻm làng xa (Thưa các ông nghị). Trong chuyên luận Phân
tâm học về lửa, Gaston Bachelard đã cho rằng tình yêu, cái chết và ngọn lửa
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong cùng một thời điểm, nghĩa là nó gợi
đến lẫn nhau. Và khi chúng ta hiến thân cho ngọn lửa, thì cũng là lúc ngọn lửa
dạy cho chúng ta bài học về sự trƣờng tồn. “Cái chết toàn diện và không dấu
vết là sự đảm bảo rằng toàn thân chúng ta đi sang thế giới bên kia. Mất tất để
đƣợc tất cả” [116, 219]. Ngọn lửa đấu tranh đòi lại quyền sống, quyền tự do
147
cho nhân dân, cho dân tộc nhƣ một chất “men say”, nhƣ lý tƣởng cách mạng,
rần rần chảy trong huyết quản của ngƣời chiến sĩ. Thân thể dù ở trong nhà lao,
nhƣng trái tim vẫn cứ đau đáu hƣớng về nơi chiến tuyến: “Rát mắt trông ra,
cửa sắt ngăn trời/ Ôi đêm tối, những nơi nào lửa đỏ?” (Quanh quẩn), “Và cứ
tưng bừng theo lửa sống/ Đường xa vô hạn, đích vô cùng/ Chân trời lui mãi
lan lan rộng/ Hy vọng tràn lên đồng mênh mông…” (Dưới trưa).
Đặc biệt là biến thể của biểu tƣợng lửa, ngọn đuốc thiêng liêng - vị lãnh
tụ Hồ Chí Minh luôn luôn soi sáng, dẫn đƣờng cho từng bƣớc đi của Đảng,
của cách mạng, phất cao lá cờ dân tộc để đi đến ngày chiến thắng: “Bước
trường chinh dầu mỏi gối khan hơi/ Tim gang thép vẫn bừng bừng lửa chiến/
Cờ đã phất, phải giương cao quyết tiến!/ Hồ Chí Minh/ Hỡi ngọn đuốc thiêng
liêng/ Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc” (Hồ Chí Minh).
Đây cũng là những nét nghĩa tƣợng trƣng của biểu tƣợng lửa khi xuất
hiện trong các bài thơ cách mạng khác. Kết quả khảo sát từ cuốn Thơ ca cách
mạng 1930 - 1945 (Nxb Khoa học Xã hội, 1973) cho thấy, biểu tƣợng lửa
xuất hiện khá nhiều, 46 lần.
Năm 1930, Nguyễn Văn Long dịch từ tác phẩm Bài ca chống khủng bố
trắng” của Đảng Cộng sản Anh thành Ca chống khủng bố trắng nhằm động
viên, khích lệ tinh thần cách mạng trong nƣớc. Hình ảnh lò lửa - khởi nguồn
của cách mạng vô sản rừng rực cháy, soi sáng khắp thế giới:
Gương Xô Nga kia tự như gương lò lửa
Chói khắp cả năm châu
Ráng noi theo, lập ra “Liên bang xô viết”
Phong trào cách mạng ở Việt Nam, đặc biệt là từ sau khủng bố trắng
của thực dân Pháp không những bị dập tắt, lụi tàn, mà ngƣợc lại, nó càng
ngày càng bùng cháy lên mạnh mẽ, thiêu cháy âm mƣu thâm độc của kẻ thù.
Bài thơ Ngọn lửa Ba - Tơ đƣợc Phạm Thị Trinh sáng tác khi tham gia Ủy ban
148
vận động cứu quốc Quảng Ngãi, phụ trách công tác phụ nữ. Bài thơ ra đời
trong không khí đấu tranh quật khởi, kêu gọi chị em hƣởng ứng phong trào Ba
Tơ khi ấy đang lên cao ở khắp tỉnh: “Ngọn lửa Ba - Tơ đã cháy bùng/ Phất cờ
khởi nghĩa giữa mùa xuân”.
Có lẽ, ngọn lửa có sức lay động lớn nhất, cảm xúc nhất khi biểu tƣợng
cho tinh thần, ý chí quyết tâm của ngƣời chiến sĩ cách mạng. Nó đƣợc khởi
nguồn từ tình yêu đất nƣớc, từ tình yêu đồng bào, từ khát khao tự do và có lẽ
trƣớc hết, là từ lòng căm thù giặc sâu sắc: “Bay có biết tận đáy lòng kiêu
hãnh/ Lửa phục thù ngầm ngấm chảy tim gan/ Với ngục lạnh, súng đồng,
gươm độc/ Bay phải thua gan sắt, quả tim đồng” (Đời tù, Khuyết danh).
Trong tác phẩm Vô sản diễn ca, Đặng Xuân Thiều đã nói đến ý chí cách mạng
ấy với một niềm tự hào vô biên: “Lò địa ngục đọa đày bao thuở/ Ngày tối tăm
biết độ nào tàn/ Lối ra ngăn ngắt cơ hàn/ Ngả vào nung nấu lửa than dãi dầu/
Lò lửa thép tinh anh hun đúc”. Ngọn lửa nhƣ một chất xúc tác để hun đúc tinh
thần cách mạng: “Trang tuổi trẻ từng qua thử lửa/ Đoạt tay chèo sóng gió
nhường ai (Khóc Nguyễn Đức Cảnh, Đặng Xuân Thiều), “Thằng Tây mặt đỏ
hằm hè quát/ Càng quát, càng hun lửa đấu tranh” (Đi đày Sơn La, Phạm
Đình Cấu).
Ngƣời chiến sĩ cách mạng Nguyễn Phong Sắc hiện lên trong thơ thật
đẹp, thật kiêu hùng với ánh mắt nhƣ tia lửa căm thù, vẫn bền gan vững chí dù
kẻ thù có sử dụng nhiều thủ đoạn tra tấn, hành hạ vô cùng dã man: “Đứng
ngồi phong độ ung dung/ Anh nhìn, ánh mắt như bùng lửa đêm/ Hết gông
chúng lại đem cùm/ Thịt nung, điện dí, máu xương tơi bời” (Những người
sống mãi, Khuyết danh).
Nhân ngày giỗ đầu của ngƣời chiến sĩ cách mạng Nguyễn Sĩ Sách
(19/12/1930), Phan Trọng Bình đã viết bài thơ Tưởng nhớ anh Nguyễn Sĩ
Sách. Đây có thể coi là một bức tranh đẹp nhất, phác họa hình ảnh ngƣời
149
chiến sĩ trong mối quan hệ với tổ quốc, với dân tộc, với đồng chí, đồng bào.
Sự hy sinh của anh là một lời hiệu triệu, là ngọn lửa thắp sáng và kêu gọi tinh
thần đấu tranh của quần chúng nhân dân trong những ngày quật khởi:
Rực lên dưới ánh mặt trời
Đấu tranh - ngọn lửa khắp nơi bừng bừng
Sách ơi! lửa cháy không ngừng
Càng trông ngọn lửa, dạ càng nhớ anh
Biết bao đồng chí hy sinh
Để cho ngọn lửa quang vinh đời đời
Các anh chết vẫn sáng ngời
Xây dựng hình mẫu con ngƣời lý tƣởng của thời đại cũng là một nét tƣ
duy nghệ thuật của thơ ca Cách mạng. Đó là những con ngƣời đại diện cho
giai cấp vô sản, yêu chân lý và và lẽ phải, yêu Tổ quốc và nhân dân, nhất là
phải có tinh thần xung phong, “san bằng” những gian lao, thử thách và quyết
chiến, quyết thắng. Thơ ca cách mạng đã có công đóng góp không nhỏ trong
việc nhân những con ngƣời ấy lên thành một lực lƣợng đông đảo, có mặt trên
khắp mọi nẻo đƣờng tranh đấu.
4.2.3. Biểu tượng máu
Cũng giống nhƣ lửa, máu là một biểu tƣợng khỏi nguồn từ “mẫu gốc”,
tồn tại ở hầu hết các nền văn minh trên thế giới. “Máu tƣợng trƣng cho tất cả
những gì liên đới với lửa, với sức nóng và sự sống, gắn với Mặt trời. Tất cả
những gì là đẹp, quý phái, hào hiệp, cao thƣợng đều gắn với những giá trị đó.
Máu cũng tham gia và ý nghĩa tƣợng trƣng phổ quát của màu đỏ” [12, 566-
567]. Nhƣng trƣớc tiên, máu là biểu hiện của sự sống và đƣợc coi là bản
nguyên của sự sinh thành. Ở một góc độ khác, máu đƣợc đặt trong thế đối lập
với ánh sáng.
Biểu tƣợng máu xuất hiện trong thơ ca cách mạng với tần suất nhiều,
150
và hầu nhƣ có rất ít biến thể, nhƣng cách thức thể hiện lại rất phong phú, có
thể liệt kê tiêu biểu nhƣ: máu đỏ, máu Việt Nam, máu yêu, máu hờn sôi, máu
đôi tay, thây máu, giọt máu hồng, máu dân tộc, máu chảy, máu rơi, dòng máu
anh hùng, máu nóng, máu giải phóng, máu hận, máu đào, biển máu, ống máu,
huyết ứ,… Giá trị thẩm mĩ của biểu tƣợng máu trong thơ ca cách mạng hoàn
toàn khác biệt với biểu tƣợng máu trong thơ ca lãng mạn. Đó không phải là
máu đau thƣơng, hành hạ và giải thoát theo căn nguyên từ Kinh Thánh, cũng
không phải là máu căm hận và ƣớc mơ hồi sinh của một dân tộc đã qua. Đó là
máu của tinh thần dân tộc, của ý chí cách mạng quật cƣờng.
Khi tiến hành khảo sát tập thơ Từ ấy, chúng tôi thấy hình ảnh máu xuất
hiện đến 42 lần/ 72 bài thơ (chiếm 58.33%), gần gấp đôi hình ảnh máu xuất
hiện trong Thơ ca cách mạng 1930 - 1945 (Nxb Khoa học Xã hội, 1973) là 84
lần/ 257 bài thơ (chiếm 32.68%). Nhƣ vậy có thể thấy, hình ảnh máu trở đi trở
lại trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu rất đậm đặc, thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật
của nhà thơ. Đó cũng là lý do để chúng tôi đi đến nhận định, máu là một biểu
tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Tố Hữu, với những nét nghĩa cơ bản: phê
phán tội ác man rợ của kẻ thù đối với đồng bào, với chiến sĩ cách mạng; thể
hiện tinh thần dân tộc, ý chí cách mạng quật cƣờng của ngƣời chiến sĩ và nhân
dân; bộc lộ lòng căm thù giặc sâu sắc và lòng quyết tâm chiến thắng.
Là ngƣời chiến sĩ cách mạng đang hòa mình vào dòng chảy của thời
đại, ngày đêm chiến đấu và hy sinh vì lý tƣởng của Đảng, vì mục tiêu độc lập
dân tộc, hơn ai hết, Tố Hữu đau xót trƣớc cảnh đầu rơi, máu chảy, trƣớc
những tang thƣơng mà kẻ thù đã gây ra cho nhân dân: “Máu Việt Nam đang
chảy/ Đỏ đồng, ôi máu yêu!/ Miền Nam đang bốc cháy/ Đồng bào, ôi lửa
thiêu!” (Giết giặc).
Với việc thi hành chính sách đàn áp chính trị, khủng bố trắng sau phong
trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, trong khí thế cách mạng lại càng bốc lên cao ngút
151
trời, thực dân Pháp càng điên cuồng chống trả. Chúng bắt nhiều chiến sĩ cộng
sản vào tù ngục, chém giết nhiều ngƣời dân vô tội, gây đau thƣơng khắp mọi
miền: “Bao nhiêu xương, bao nhiêu máu oan hồn” (Liên hiệp lại). Trong một
lần đi qua nhà lao Lao Bảo, nhà thơ bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm ngày mình
cùng đồng chí còn bị giam giữ, tra tấn dã man mà vẫn nhƣ vẹn nguyên sự căm
thù uất hận: “Chao ôi, xưa cũng chốn này đây/ Thân bạn vùi xương dưới gốc
mây/ Roi vụt rát tay bầy lính rợ/ Máu dầm khoái mắt lũ đồn Tây!/ Một hòn đá
đó, bao hòn huyết/ Một khúc cầu đây, mấy khúc thây” (Tiếng hát đi đày). Nỗi
hận lớn lao và không thể nào xóa nhòa ấy đã đƣợc nhà thơ truyền đến cho lớp
thế hệ thiếu niên, là cách mạng tƣơng lai: “Nuôi đi em, cho đến lớn đến già/
Mầm hận ấy, trong lồng xương ống máu” (Đi đi em). Nhà thơ còn muốn lấy
một chút niềm vui trong trong không khí mùa xuân náo nức để làm động lực
cho sự căm hận thêm mạnh mẽ hơn: “Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới/
Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng!/ Thì vui chút cho hồn thêm nhựa mạnh/ Gần
thêm săn và máu hận thêm nồng!” (Ý xuân). Trong bài thơ Tranh đấu, hình ảnh
máu xuất hiện 5 lần, dồn dập, với cấp độ ngày càng tăng, thể hiện rõ sự căm
phẫn đến tột cùng của ngƣời chiến sĩ trƣớc tội ác của kẻ thù:
Tôi đã sống những ngày điên phẫn uất
Nhưng chưa hề một bữa như hôm nay
Tôi đã nghe ran nóng máu hăng say
…
Trán gân mo nhuộm tím máu căm hờn
…
Và mạch máu tưởng tuôn trào khóe mắt
…
Và huyết quản đứt dòng, tim hộc máu
Một số nhà thơ khác trong thời kỳ này cũng đã trực tiếp lên án tội ác
152
của kẻ thù: “Kìa lũ tham tàn thật bất công/ Làm con xa mẹ vợ xa chồng…/
Chồng chất xương phơi trên đất nước/ Chứa chan máu đổ khắp non sông”
(Dời non lấp biển, Phạm Mạnh Trinh), “Biết bao nỗi máu sông cùng sương
núi…/ Hút máu me rồi gặm đến thịt xương” (Cổ động đấu tranh, Nguyễn
Nghiêm), “Văn minh chi lắm lũ bay/ Gặm xương hút máu đồng loài gớm ghê”
(Bài chống chủ trương “kéo cờ quy thuận” của địch bày ra ở các xã, thôn,
Trần Toại), “Khắp đường bao giọt máu rơi/ Không cha, không mẹ, kiếp người
vất vương” (Kể chuyện cô bụi, Đặng Xuân Thiều). Bên cạnh đó là sáng tác
của những tác giả khuyết danh, những ngƣời cũng trực tiếp chứng kiến hoặc
tham gia cuộc đấu tranh. Họ đã đứng lên mạnh lẽ, trực diện phê phán tội ác
“trời không dung, đất không tha” của thực dân và bè lũ tay sai bán nƣớc:
“Nghĩ giận cái quân sát nhân/ Nào súng đồng, kìa tạc đạn, nọ tàu ngầm/ Nó
giết hại rày công nông, thây máu thành núi sông” (Bài ca phản đối chiến
tranh), “Ta đã kiệt sức rồi, cạn máu/ Đỉa còn tham cố bấu không tha/ Ta gầy
như nắm xương ma/ Quạ còn moi ruột, xé da, mổ đầu” (Cảnh khổ dưới thời
Pháp thống trị), “Tay sai thừa lệnh sói lang/ Chúng lùng, chúng quét, chúng
càn gần xa/ Xác dân chúng phơi ra đồng ruộng/ Máu công nông đổ xuống
thôn nghèo” (Những người sống mãi). Đồng thời, các tác giả khuyết danh
cũng thể hiện lòng căm thù đến tận xƣơng tủy, quyết tâm chiến đấu đến hơi
thở cuối cùng: “Máu hận lâu niên/ Tim sôi sùng sục/ Quyết phen này rả nhục
sạch thôi” (Cổ động dân cày), “Cùng giống nòi xối máu rửa hờn/ Cờ độc lập
cao nêu trên đất Việt” (Khuyên chồng).
Một điều đặc biệt là khi xuất hiện cùng với lời kêu gọi, cổ động, biểu
tƣợng máu thƣờng gắn với hình ảnh của Tổ quốc, dân tộc, đồng bào: “Hai
mươi lăm triệu rồng tiên/ Ta hò ta hét ta lên thử nào/ Quyết đem giọt máu đào
Hồng Lạc/ Thề một phen sống thác ra tay” (Kêu gọi quốc dân, Lê Thế Hiếu),
“Ta tin tưởng, muôn ngàn lần tin tưởng/ Quý biết bao là dòng máu anh hùng/
153
Đã nhuộm thắm ngọn Tiền phong cho Đảng” (Cứ tiến lên, Đặng Xuân Thiều).
Có cơ sở để khẳng định rằng, con ngƣời lý tƣởng của thời đại cách
mạng là một sản phẩm tất yếu của lịch sử. Nhƣng đó là con ngƣời kế tục
những phẩm chất ƣu tú của các thời đại trƣớc: lòng yêu nƣớc thiết tha, sâu
sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất, anh hùng, quyết tâm hy sinh vì nghĩa lớn.
Điều đáng nói là, con ngƣời lý tƣởng thời đại mới bắt rễ sâu từ truyền thống
dân tộc và đồng thời cũng bắt rễ trong lòng quần chúng nhân dân lao động -
đó mới thật sự là sức mạnh của anh hùng.
Biểu tƣợng máu trong thơ ca cách mạng 1930-1945 đã thật sự góp phần
làm đậm nét những tính cách tiêu biểu, tốt đẹp của con ngƣời lý tƣởng - chiến
sĩ cách mạng. Mà nổi bật nhất, đó là ý chí mạnh mẽ nhƣ thép đƣợc tôi luyện
trong lửa, không hề nao núng trƣớc những khó khăn. Đó là con ngƣời của
hành động hiện lên đanh thép trong thơ Tố Hữu: “Đi, bạn ơi, đi! Cả cuộc đời/
Của ta nào chỉ của ta thôi/ Đã vay dòng máu thơm thiên cổ/ Phải trả ta cho
mạch giống nòi! (Đi), “Cho tôi hưởng tinh thần hăng chiến đấu/ Cho da tôi
dày dặn với ngày mai/ Cho tôi hiến đến cùng suối máu/ Để nhuộm trồng bao
cảnh xám bi ai! (Lao Bảo), “Phải tranh đấu đến kỳ cùng, quyết liệt/ Còn một
giây, còn một chút tàn hơi/ Là phải còn tranh đấu mãi không thôi/ Lấy xương
máu mà chọi cùng sắt lửa! (Đôi bạn). Đó là con ngƣời bản lĩnh kiên cƣờng
trong thơ Hồ Sĩ Ninh: “Dù cho súng đến tai, gươm cổ/ Vẫn điềm nhiên thái độ
anh hào/ Nóng sôi một giọt máu đào/ Tử sinh kinh cụ há nào như ai! (Vợ tiễn
chồng đi đày).
Khi đã nguyện dâng hiến cuộc đời cho cách mạng, cho nhân dân, nghĩa
là với những ngƣời chiến sĩ, độc lập và tự do của tổ quốc là mục đích duy nhất,
tối thƣợng, không có điều gì cao quý hơn. Đó là sứ mệnh của giai cấp mà họ đã
đƣợc nhận thức một cách đúng đắn. Họ coi thƣờng hiểm nguy, coi thƣờng cái
chết, coi việc đi vào nhà giam nhƣ một cuộc “tạm nghỉ”, một cuộc “dạo chơi”.
Thế nên, bao nhiêu đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù đâu có nghĩa lý gì:
154
Ri-ne, phán thuyết đổ hồi
Mưa roi máu chảy, đặt ngồi bàn chông
Bó giò, treo ngược, đốt lông
Cạy răng nhét cứt, dận hông, quật thừng
…
Sau song ngục một mình tôi
Ước lòng soi ánh khắp trời như trăng
(Vô đề, Đặng Xuân Thiều)
Đó thực sự là những ngƣời “không bao giờ chết”, vì Tổ quốc, nhân dân
mãi mãi ghi ơn. Còn đồng chí thì lấy đó là tấm gƣơng sáng để noi theo, để
tiếp tục tranh đấu, tiếp tục hy sinh cho lý tƣởng cách mạng sáng soi. Họ chết
nhƣng lại đi gieo sự sống, sự tái sinh trọn vẹn: “Chết hay không, nhân loại,
những linh hồn/ Đã từng đau khổ lắm, đã tiêu non/ Tất cả máu của một thời
trai trẻ/ Để đem lại cho Người ngày mới mẻ?/ Không! Không! Không! Anh
không chết. Trong tôi/ Ý đời anh đã nảy lộc đâm chồi/ Trong cân não của một
đời cơ cực” (Những người không chết, Tố Hữu), “Gương anh sáng rọi nghìn
thu/ Là trang sử máu nhà tù hôm nay” (Truy điệu đồng chí Ngô Duy Phớn,
Nguyễn Ngọc Tỉnh), “Xương anh nắm đất lấp vùi/ Máu anh vẫn nóng trong
người anh em/ Mỗi lần sờ đến trái tim/ Thấy tim sôi sục như tìm thấy anh”
(Tưởng nhớ anh Nguyễn Sĩ Sách, Phan Trọng Bình). Cái chết của ngƣời đồng
chí không phải là một kết thúc bi kịch, mà chính là một tấm gƣơng sáng về
“linh hồn thép”, một nhân tố thúc đẩy tinh thần phấn đấu cách mạng của
những ngƣời còn sống.
Sau này, trong các sáng tác thời kỳ cuộc kháng chiến chống Pháp
(1945-1954), biểu tƣợng máu cũng đã đƣợc Tố Hữu sử dụng nhiều lần, trong
đó biểu đạt sự ca ngợi ý chí chiến đấu gan góc của các chiến sĩ Điện Biên:
“Chiến sĩ anh hùng đầu nung lửa sắt/ Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi,
155
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không
mòn!” (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên). Đó chính là sự hài hòa giữa cái bình
thƣờng và cái phi thƣờng trong cùng một con ngƣời, kết tinh và hiện thân của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Và đọng lại hơn tất thảy, đó là hình ảnh ngƣời chèo thuyền vĩ đại,
ngƣời chiến sĩ cộng sản lỗi lạc Hồ Chí Minh trong thơ Tố Hữu:
Vì nhân loại
Người quyết dâng xương máu
…
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đắng
Hồn vẫn tươi vui, thơm ngát tình đời
(Hồ Chí Minh, Tố Hữu)
Con thuyền, lửa, máu là những biểu tƣợng nghệ thuật có tần suất lặp lại
khá lớn trong thơ ca Cách mạng thời kì này, góp phần rất quan trọng trong
việc thể hiện tinh thần dân tộc, ý chí cách mạng mạnh mẽ, sắt đá của những
ngƣời chiến sĩ cộng sản và quần chúng lao động trên con đƣờng đấu tranh giải
phóng dân tộc và giai cấp.
4.3. Biểu tƣợng về sự vận động của cách mạng
Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier và
Alain Gheerbrant đã chỉ ra nhiều nét nghĩa của “ánh sáng” và “bóng tối”.
Theo đó, có thể thấy, đây là cặp biểu tƣợng thƣờng đi đôi với nhau trong thế
đối xứng và đều là những biểu tƣợng có tính đa nghĩa, mang nhiều sắc thái
với chiều liên tƣởng đa dạng, thú vị.
4.3.1. Biểu tượng bóng tối
Bóng tối là mặt âm, là cái đối lập với ánh sáng, mặt dƣơng; một mặt
khác nó chính là hình ảnh của những hiện tƣợng, sự vật thoáng qua, mang đặc
điểm hƣ ảo và thất thƣờng. Với nhiều dân tộc ở châu Phi, họ coi bóng tối
156
thƣờng gắn liền với sự chết hay thần chết. Và theo cách suy luận ấy, có thể
thấy bóng tối thƣờng là biểu tƣợng của điều ác, của bất hạnh, của mờ ám và
cái chết (địa ngục, linh hồn, thây ma).
Trong thế đối xứng tầng ngữ nghĩa với “ánh sáng”, biểu tƣợng “bóng
tối” trong tập thơ Từ ấy cũng xuất hiện rất ấn tƣợng với nhiều dạng thức. Với
ý nghĩa gốc, “bóng tối” xuất hiện 08 lần. Nhƣng với nghĩa biểu trƣng thì thật
phong phú, nhƣ: đêm trường, đời đen tối, ngục tối, dày bóng nặng, sương
đêm,... Đặc biệt, biểu tƣợng “bóng tối” đƣợc hiện diện trong hình ảnh của: mồ
đêm, mồ lạnh, nấm mồ, linh hồn, mả loạn,… (11 lần).
4.3.1.1. Bóng tối, nỗi thống khổ và lầm than của dân tộc
Thời kỳ 1930-1945 là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
diễn ra hết sức gay gắt. Những cuộc khủng bố trắng do đế quốc Pháp thực
hiện liên tiếp diễn ra, nhắm thẳng vào những “mầm mống” của Đảng Cộng
sản Đông Dƣơng. Nhân dân Việt Nam chịu cảnh “một cổ hai tròng”, khốn
khổ vì cả phong kiến lẫn thực dân. Cuộc sống của dân tộc nhƣ chìm vào bóng
tối, vào màn đêm của thống khổ và lầm than. Thơ ca cách mạng có tính Đảng
sâu sắc đã phản ánh hết sức trung thực cuộc sống khổ cực của quần chúng,
phản ánh các phong trào đấu tranh sôi nổi, đời sống gian khổ và tinh thần bất
khuất của các chiến sĩ trong nhà tù, vạch rõ bộ mặt tàn bạo của đế quốc, quan
lại. Điều đặc biệt trong giai đoạn này, thơ ca cách mạng đã thể hiện rõ chủ
nghĩa nhân đạo mới trên tinh thần vô sản. Trong tập thơ Từ ấy xuất hiện nhiều
số phận con ngƣời nhỏ bé, tội nghiệp đến mong manh. Đó là em bé bán rong,
lão đầy tớ, ngƣời vú em, em bé mồ côi, ngƣời hành khất, cô gái giang hồ,….
Cuộc sống khổ cực của họ đã đƣợc nhà thơ chiến sĩ ghi lại một cách chân
thực và xúc động.
Vì cuộc sống mƣu sinh, ngƣời vú em đành phải gửi con nƣơng ở xóm
cũ để lên thành phố nuôi con ngƣời khác. Ôm con ngƣời khác trong tay, chị
157
vú em không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến cảnh con mình không chăn, không
nệm, không màn. Khi màn đêm buông xuống, nỗi nhớ ấy lại cời lên đau đáu
trong tâm can: “Rồi từ hôm ấy dưới đêm sâu/ Hồi hộp nàng ra vịn cửa lầu/
Nhìn xuống ven trời dày bóng nặng/ Tìm nghe trong gió tiếng con đâu” (Vú
em). Màn đêm đặc quánh, mênh mông nhƣ nuốt chửng lấy hình bóng cô
quạnh của ngƣời mẹ đau khổ.
Trong đêm đen tĩnh lặng chốn xà lim Quy Nhơn, nhà thơ lắng nghe
thấy tiếng rao bán hàng rong của một em bé gái. Bằng tất cả lòng yêu thƣơng
trìu mến nhất, tinh tế nhất, nhà thơ cảm nhận rõ tiếng rao còn “thơm mùi sữa
mẹ”, và yếu dần theo những bƣớc chân liêu xiêu, cảm giác nhƣ con gió có
thổi nghiêng cơ thể đi đƣợc: “Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi/ Anh nằm
nghe qua cửa khám xa xôi/ Tiếng em bước trên đường đêm nho nhỏ” (Một
tiếng rao đêm). Bóng tối trong xà lim, bóng tối ngoài đƣờng đời, hay cũng là
bóng tối của cuộc đời thơ bé, vẫn còn “non tơ” mà đã phải ngƣợc xuôi mƣu
sinh. Cũng đáng thƣơng nhƣ hình ảnh của một cậu bé ru em trong nhà tranh
rách rƣới: “Đây là góc buồng xưa trong bóng tối/ Có tiếng khóc nghe sao
buồn nhức nhối/ Một đứa con ghẻ mụn bám đen ruồi/ Đang chao mình tấp
tểnh đẩy tao nôi/ Để ru ngủ một thằng em quặn đói” (Đời thợ).
Cũng trong màn đêm buồn bã ấy, hình ảnh cô gái trên dòng sông
Hƣơng hiện lên thật chênh vênh, đáng thƣơng. Cô gái giang hồ trên chiếc
thuyền nan xuôi dòng “dâm ô”, với tâm hồn “rách nát”. Từ sự cảm thƣơng,
lòng nhân ái bao la, nhà thơ đã gieo cho cô một niềm tin vào ngày mai tƣơi
sáng hơn, ngày mà thắng lợi của cuộc cách mạng sẽ đem lại sự công bằng cho
những ngƣời yếu thế: “Ngày mai trong giá trắng ngần/ Cô thôi sống kiếp đày
thân giang hồ/ Ngày mai bao lớp đời dơ/ Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay”
(Tiếng hát sông Hương).
Chẳng phải chỉ là những ngƣời phụ nữ, bé gái có cảnh đời bất hạnh, mà
158
ngay cả những ngƣời đàn ông “sức dài vai rộng” cũng chịu cảnh khổ cực, lầm
than. Họ phải chui xuống hầm sâu đào than, nơi bóng tối bao phủ cả một khối
ngƣời, nơi bầu không khí uất nặng với hài cốt, xƣơng trắng, xác chết bao
quanh. Và nhà thơ đã kêu gọi, thúc giục họ tranh đấu: “Nào phá dô ta! Này ta
phá/ Dô ta! Cho mở cửa hầm sâu/ Đó nghe không bạn, hầm đang rã/ Bởi khối
người kia đã ngẩng đầu” (Hầm ngƣời). Với góc nhìn vô cùng tinh tế và nhân
văn, Tố Hữu đã phản ánh rất chân thật, sâu sắc những đau khổ, cực nhục của
kiếp sống lầm than.
Đau đớn, bất bình trƣớc hoàn cảnh của những ngƣời dân mất nƣớc,
chịu cảnh sống cơ cực, đó cũng là tâm trạng của những nhà thơ cách mạng
khác trong giai đoạn này. Họ không chỉ nói ra thực tế cuộc sống khốn cùng
mà còn đƣa ra lời động viên, khích lệ quần chúng hƣớng về miền tƣơi sáng:
“Đời âm u như đêm tối dày sương” (Tiễn bạn đi đày, Vƣơng Gia Khƣơng),
“Đem lý tưởng Lê - nin chói lọi/ Quyết xua tan bóng tối đêm trường (Vô sản
diễn ca, Đặng Xuân Thiều).
4.3.1.2. Bóng tối, nơi giam hãm và rèn luyện ý chí cách mạng
Biểu tƣợng “bóng tối” theo nét nghĩa này đã đƣợc mở rộng ngoại diên,
liên kết trong một chuỗi các hình ảnh về ngục tối và địa ngục, mồ đêm, mồ
lạnh, ngàn thây, linh hồn,…
Nhƣ trên đã đề cập, thơ ca cách mạng đã xây dựng cho mình một hình
mẫu lý tƣởng của thời đại. Một trong những đặc điểm của họ là ý thức rất sâu
sắc trách nhiệm lịch sử của giai cấp, của bản thân trong sứ mệnh giải phóng
chung của giai cấp và dân tộc. Họ luôn xác định, đi theo cách mạng, có nghĩa
là tự nguyện chấp nhận cuộc sống hiểm nguy, coi sự sống và cái chết “nhẹ tựa
lông hồng”. Họ là những con ngƣời hành động, và chỉ thấy cuộc đời có ý
nghĩa nhất khi trên chiến tuyến chống quân thù. Chính vì vậy, việc bị địch bắt,
giam cầm và tra tấn không phải là vấn đề lo sợ của những ngƣời chiến sĩ cách
159
mạng. Vấn đề ở chỗ, họ không đƣợc tự do chiến đấu: “Ta muốn bay ra ánh
sáng bao la/ Mà thịt vẫn nằm trong ngục tối” (14 tháng 7, Khuyết danh). Ánh
sáng của cuộc đời tranh đấu và tự do hoạt động, ánh sáng của tâm hồn ngƣời
chiến sĩ luôn khát khao chiến đấu và chiến thắng. Nó hoàn toàn đối lập với
hình ảnh bóng tối chốn ngục tù.
Ngƣời chiến sĩ cảm thấy vô cùng bí bách, cùng quẫn trong chốn lao tù:
“Mỗi khi người lãnh vé vào toa/ Là cảm thấy mình sa vào địa ngục” (Quẩn
quanh, Khuyết danh). Vòng thời gian khép kín, quay vòng một cách cứng
ngắc và nhàm chán, ngày và đêm diễn ra nhƣ trong vô thức. Không đƣợc dấn
thân trên con đƣờng tranh đấu, đó là nỗi đau khổ lớn nhất của ngƣời cách
mạng. Trong bài thơ Nhớ người, Tố Hữu đã lấy hình ảnh con hổ thênh thang
trong rừng rậm bỗng mắc cạm ví với cảnh ngƣời chiến sĩ bị tù đày: “Cũng
như nó sa chân trong ngục tối/ Sao mà ta tha thiết nhớ rừng người”. Càng
trong tình thế khó khăn, càng trong đọa đày giam hãm, tinh thần ngƣời chiến
sĩ cách mạng càng thêm bền bỉ, gan dạ. Không gian lạnh lẽo nơi nhà giam
Lao Bảo, đồng thời cũng là chốn pháp trƣờng khiến cho nhà thơ thêm uất hận
trong lòng: “Là nơi đây, nấm mồ bao khối não/ Là nơi đây, huyết ứ dưới lời
than!/ Nhắm mí mắt: chờn vờn trong đêm tối/ Nhánh xương khô khua rợn cả
lòng tôi/ Tim không khóc, nhưng sôi lên, dữ dội/ Sóng máu hờn trào uất khí
tanh hôi (Lao Bảo).
Con ngƣời thời đại mới có một tình cảm mới, rất sâu đậm. Đó là tình
cảm đặc thù của thời đại vô sản - tình đồng chí. Nó vƣợt ra khuôn khổ của
quốc gia, trở thành tình cảm quốc tế, rất trong sáng và cao đẹp. Tình đồng chí
góp phần xây dựng thế giới đại đồng trong đó không có áp bức bóc lột, chỉ có
tình yêu thƣơng và hạnh phúc. Viễn cảnh tốt đẹp ấy đã giúp họ có thêm lạc
quan, tin tƣởng, phấn chấn và quyết tâm: “Cái bàn tay lính riết lấy tay tù/ Đôi
cơ thể ôi tưởng hòa trộn máu/ Với tất cả bao nhiêu tình ngọc báu/ Của đôi
160
linh hồn khổ tối hôm nay” (Đôi bạn). Với niềm tin sắt đá ở tƣơng lai, trong
ngục tối họ mơ ngày giải phóng, ngày đƣợc xây dựng một “thiên đƣờng” thay
cho “địa ngục” ở chốn trần gian.
Trong tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, bóng tối chủ yếu gắn
với không gian chật hẹp, tù túng chốn nhà giam: đêm, tối mịt, đêm chƣa
tan,… Đó là bóng tối của sự cô đơn, sốt ruột, phẫn uất vì ngƣời chiến sĩ cách
mạng chƣa thể tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình. Bóng tối không khiến
con ngƣời trở nên ủ dột, sợ hãi, mông lung, mà ngƣợc lại, bóng tối lại khiến
nhà thơ - ngƣời chiến sĩ chiêm nghiệm thêm những điều chân lý của cuộc
cách mạng, vững tin hơn vào con đƣờng mà mình đã lựa chọn. Ấn tƣợng nhất
là trong thời khắc chuyển canh, từ chốn ngục tù, hình ảnh “sao vàng năm
cánh” hiện lên trong giấc mộng thật đẹp, thật đáng trân trọng xiết bao: “Một
canh… hai canh… lại ba canh/ Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành/ Canh
bốn, canh năm vừa chợp mắt/ Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” (Không
ngủ được). Bài thơ đã cho ta thấy cái thao thức, trở trăn thƣờng trực của Hồ
Chí Minh, một tấm lòng luôn nghĩ cho dân cho nƣớc, nghĩ về cách mạng, ẩn
hiện vào trong những giấc mơ. Và cũng từ chốn đày ải tinh thần và thể xác
này, vút lên trong bóng tối mơ màng của một đêm trăng, một tâm hồn nghệ sĩ,
chiến sĩ vô cùng tinh tế và thái độ lạc quan cách mạng: “Trong tù không rượu
cũng không hoa/ Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ/ Người ngắm trăng soi
ngoài cửa sổ/ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” (Ngắm trăng).
Biểu tƣợng bóng tối xuất hiện trong các sáng tác khác trong giai đoạn
này cũng mang nét nghĩa tƣơng tự. Bóng tối xuất hiện cùng với sự giam hãm,
tù đày, đánh đập, tra tấn. Nhƣng đó thật sự là nơi tôi luyện ý chí đấu tranh của
ngƣời cách mạng: “Lò địa ngục đọa đày bao thuở/ Ngày tối tăm biết độ nào
tàn/ Lối ra ngăn ngắt cơ hàn/ Ngả vào nung nấu lửa than dãi dầu” (Vô sản
diễn ca, Đặng Xuân Thiều), “Ở đây, địa ngục giữa trần ai/ Rõ ràng địa ngục
161
giữa trần ai/ Kìa đủ gông, xiềng, khóa, xích, xai/ Kìa mẹt cơm ăn bên ống xí/
Lưỡi lê, nòng súng chĩa bên tai” (Nhắn trời, Phan Trọng Bình), “Hồn u uất,
bóng đêm u uất/ Tưởng tinh thần bất khuất đâu đây” (Những người sống mãi,
Khuyết danh).
4.3.2. Biểu tượng ánh sáng
Trong khi đó, “ánh sáng đƣợc liên hệ với bóng tối, để tƣợng trƣng cho
những giá trị bổ sung hoặc thay phiên nhau trong một quá trình biến đổi. Ý
nghĩa của nó là, một thời đại đen tối sẽ đƣợc nối tiếp, trên mọi bình diện vũ
trụ, bằng một thời đại sáng láng, trong sạch đƣợc phục hƣng” [12, 11]. Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant cũng chỉ ra những cụm thành ngữ nhƣ ánh
sáng thần thánh, ánh sáng tinh thần có nội hàm biểu hiện rất phong phú ở
phƣơng Đông.
Trong tập thơ Từ ấy, biểu tƣợng “ánh sáng” xuất hiện rất phong phú, có
thể đƣợc “gọi tên” một cách trực tiếp nhƣ: đầy ánh sáng, tìm ánh sáng, ánh
sáng, ánh sáng bao la và ánh trời; có thể xuất hiện bằng những hình ảnh
mang ý nghĩa biểu trƣng, nhƣ: không gian hồng, trời hồng, trời xanh, chân
trời hồng, nắng đào, nắng mới, nắng hạ, nắng xuân,… Đặc biệt, biểu tƣợng
“ánh sáng” trong tập thơ này đƣợc xuất hiện nhiều với tín hiệu thẩm mĩ “mặt
trời” (07 lần), “mùa xuân” (13 lần) và thể hiện nhiều tầng ý nghĩa rất thú vị.
4.3.2.1. Ánh sáng của lý tưởng cách mạng
Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ cũng là thời điểm cách
mạng Việt Nam chuyển sang một thời kỳ đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị chuẩn bị giành chính quyền. Đúng lúc này, “một nền văn hóa cách
mạng có tính chất dân tộc và dân chủ của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và của
Mặt trận Việt Minh đã phát triển trong bóng tối và chiếu rọi ánh sáng ra
ngoài” [123, 19]. Thứ ánh sáng phát ra hào quang đó chính là chủ nghĩa Mác -
Lênin, là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng Việt Nam, và cũng là
162
khát khao chiếm lĩnh của thế hệ thanh niên chân chính. Qua bao nhiêu trăn trở
suy tƣ, ngƣời thanh niên trẻ tuổi đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, đang
bâng khuâng giữa những ngả đời vô định, đang muốn thoát khỏi cuộc sống tù
túng, ngột ngạt mà chƣa tìm đƣợc lối ra bỗng bắt gặp ánh sáng của lý tƣởng
cộng sản: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim/ Hồn
tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim (Từ ấy).
Mặt trời đƣợc coi là biểu tƣợng của sự sống và sự bất tử, là trí tuệ của
vũ trụ, là trái tim của thế giới, cũng nhƣ trái tim là trung khu của năng lực
nhận thức trong con ngƣời. Ánh sáng từ mặt trời - mặt trời chân lý - vì thế mà
trở nên rực rỡ, đầy sức sống. Nó khiến cho nhà thơ sung sƣớng reo lên, khẳng
định chắc chắn: “Ta bước tới. Chỉ một đường: Cách mạng”(Như những con
tàu). Và con đƣờng cách mạng ấy, mùi hƣơng chân lý ấy có chất men say
diệu kỳ, khiến ngƣời chiến sĩ phấn khởi, vững tin lựa chọn, phấn đấu, hy sinh
suốt cuộc đời mình: “Khi ta đã say mùi hương chân lý/ Đời đắng cay không
một chút ngọt bùi/ Đời đau buồn không một tiếng cười vui/ Đời đen tối phải
đi tìm ánh sáng” (Như những con tàu).
Giác ngộ lý tƣởng cách mạng và quyết tâm đi theo lá cờ của Đảng tiền
phong, bƣớc chân tranh đấu của ngƣời chiến sĩ trở nên khoáng đạt, bao la
cùng thời đại. Niềm tin yêu chân lý một cách mãnh liệt làm cho tâm trạng của
nhà thơ cảm thấy vô cùng vui vẻ, yêu đời trong không gian hồng tƣơi sức
sống: “Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân/ Chen bước nhẹ trong gió đầy
ánh sáng/ Tay hái sắc giàu như trăm bóng ráng/ Đường thơm tho như mật
bộng trưa hè/ Không gian hồng như giấc mộng đê mê/ Tim bồng bột hát
những lời âu yếm” (Như những con tàu).
Văn học cách mạng ngay từ đầu đã xây dựng những nét phác thảo về
một mẫu ngƣời của thời đại mới. Qua thực tế cách mạng, con ngƣời ấy càng
trở nên rõ nét, đại diện tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp nhất mà mọi
ngƣời có thể cần và vƣơn tới, nhất là tầng lớp thanh niên, tri thức, tiểu tƣ sản.
163
Đó phải là những ngƣời có “linh hồn thép”, phải có lòng yêu nƣớc thiết tha,
sâu sắc, phải say mê hoài bão cách mạng và lý tƣởng cộng sản, phải có tinh
thần chiến đấu bất khuất, anh hùng, quyết tâm hy sinh vì nghĩa lớn và phải có
tinh thần vô sản quốc tế cao cả: “Quyết chiến đấu! Nào, ta liên hiệp lại/ Hỡi
tù nhân khốn nạn của bần cùng!/ Ngày mai đây, tất cả sẽ là chung/ Tất cả sẽ
là vui và ánh sáng!” (Liên hiệp lại). Tiến hành đấu tranh giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả của
giai cấp vô sản, đó là nấc thang cao nhất của lý tƣởng cách mạng đã soi
đƣờng. Đây có lẽ cũng chính là nét nổi bật nhất của thơ ca cách mạng, đó là
đề cập đến sức mạnh vƣơn tới lý tƣởng tiên tiến của thời đại, với những viễn
cảnh tƣơi đẹp của ngày mai, của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Niềm tin đó của họ đƣợc chắp cánh bởi lý tƣởng cách mạng từ phƣơng
Đông đƣa tới, kết hợp với phong trào đấu tranh yêu nƣớc ngày càng diễn ra
mạnh mẽ trên quy mô lớn. Họ vững tin hơn vào một ngày mai: “Phương đông
đã nhuộm màu rực rỡ/ Ánh dương bừng, nhắc nhở muôn hoa” (Khúc ngâm
chinh phu, Phạm Ngọc Trân), “Ta cứ đi… đi… đến một ngày/ Vừng hồng đỏ
chói khắp đông tây” (Tiễn bạn đi Căng, Trần Huy Liệu).
4.3.2.2. Ánh sáng là niềm tin chiến thắng, niềm hy vọng tương lai
Trong tác phẩm Làm gì? Lê-nin có dẫn một đoạn văn của Pissarev nói
về sức mạnh của mơ ƣớc: “… Nếu con ngƣời ta hoàn toàn không có chút khả
năng nào để mơ ƣớc nhƣ vậy, nếu thỉnh thoảng nó không có thể vƣợt lên
trƣớc thực tại để chiêm ngƣỡng trong trí tƣởng tƣợng bức tranh đã hoàn thành
của sự nghiệp mới đƣợc phác họa trong tay thì chắc chắn tôi không thể hiểu
đƣợc động cơ nào đã thúc đẩy con ngƣời trù tính và hoàn thành tốt đẹp những
công trình to lớn và tốn nhiều công sức trong nghệ thuật, khoa học và đời
sống thực tiễn…”. Đúng nhƣ vậy, thơ ca cách mạng nói chung và thơ Tố Hữu
nói riêng đã làm nhiều hơn mong đợi, đã gieo vào lòng quần chúng nhân dân
những khát khao, ƣớc mơ cháy bỏng và nhất là những niềm tin bất diệt vào
164
ngày mai thắng lợi.
Trong nét nghĩa này, biểu tƣợng “ánh sáng” trong tập thơ Từ ấy đƣợc
gắn liền với hình ảnh của mặt trời, bầu trời, ánh nắng và đặt biệt là mùa xuân
với rất nhiều cung bậc tình cảm, nhiều nét nghĩa biểu trƣng độc đáo.
Nhà thơ - ngƣời chiến sĩ trẻ tuổi đang mang trong mình bầu nhiệt
huyết, lòng say mê lý tƣởng cộng sản chảy rần rật trong huyết quản, nhìn đâu
cũng thấy ánh sáng tƣơng lai rạng rỡ. Nhà thơ hân hoan cất lời kêu gọi thanh
niên, bằng tình yêu thƣơng đất nƣớc, gia đình, bằng niềm tự hào của thế hệ trẻ
hãy đứng lên tranh đấu, hãy xóa đi những đêm trƣờng u tối để đón chào bình
minh chói lọi: “Cờ tự do bay rợp chiến đài/ Bốn phương trời đỏ rực tương
lai/ Dậy lên, hỡi những linh hồn trẻ/ Máu của con yêu nhuộm thắm đời!”
(Dậy lên thanh niên).
Trong cảm thức tin tƣởng vào tƣơng lai mãnh liệt nhƣ vậy, nhất là
trong những khoảnh khắc đất trời vào xuân, trong mắt của nhà thơ, ánh sáng
của đất trở nên vô cùng tƣơi đẹp: “Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh
dịu/Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh/Ánh nhởn nhơ đùa quả non
trắng phếu/Và chảy tan qua kẽ lá vườn chanh” (Xuân lòng) hay: “Xuân bước
nhẹ trên nhành non lá mới/ Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng!/ Thì vui chút
cho hồn thêm nhựa mạnh/ Gần thêm săn và máu hận thêm nồng!” (Ý xuân).
Thơ ca cách mạng sinh ta trong cuộc sống ngục tù vậy mà vẫn phơi
phới tinh thần lạc quan và rực rỡ những ƣớc mơ cao đẹp. Nhà thơ, cũng nhƣ
bao ngƣời chiến sĩ khác, mặc dù đang sống trong cảnh tù đày, chân tay đang
bị xiềng xích, chịu bao hình thức tra tấn dã man của kẻ thù, nhƣng những vần
thơ vẫn vút lên cao, với tƣ thế “trên đầu thù”. Những vần thơ thép khẳng định
quyết tâm và tin tƣởng ngày mai thắng lợi của cách mạng: “Trời hôm nay dầu
xám ngắt màu đông/ Ai cản được màu xuân xanh tươi sáng/ Ai cản được
những đoàn chim chiến thắng/ Sắp về đây tắm nắng xuân hồng?” (Xuân đến).
Bài thơ ra đời vào năm 1945, giữa cảnh đồng bào chết đói, chết rét đầy
165
đƣờng, nhƣng niềm tin của ngƣời chiến sĩ thì vô cùng quả quyết và sắt đá.
Và mặc dù trong quá trình hoạt động cách mạng bị bắt và chịu cảnh tù
đày, ngƣời chiến sĩ cách mạng vẫn nhớ về giai đoạn băn khoăn trƣớc bao ngã
rẽ cuộc đời, vẫn nhớ về niềm say mê lý tƣởng, và mong muốn khát khao cống
hiến, tự do hành động: “Ta muốn bay ra ánh sáng bao la” (14 tháng 7), “Nhớ
những mắt thơ ngây nhìn bỡ ngỡ/ Dưới hàng mi mở rộng chân trời hồng”
(Nhớ người).
Một dân tộc đã ào ào đứng dậy, cách mạng tháng Tám thành công với
khí thế mạnh hơn bão táp. Trong không gian rực rỡ cờ sao và đoàn ngƣời kết
thành dòng thác chảy, ánh sáng mặt trời tƣơi mới, ngập tràn trong tim nhà
thơ: “Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi phồng lên. Tim
bỗng hóa mặt trời” (Huế tháng Tám). Niềm vui của ngày chiến thắng lan tỏa
khắp đất trời, biến từ niềm vui của một dân tộc thành niềm vui của cả nhân
loại. Đó chính là tinh thần quốc tế vô sản rọi chiếu đậm đà trong lý tƣởng
cách mạng, đƣợc hiện thực hóa trong thực tế đấu tranh của cách mạng Việt
Nam. Nhà thơ hân hoan, vui sƣớng trong mùa xuân của cả nhân loại: “Lâu
rồi, khao khát lắm, xuân ơi/ Nhân loại vươn lên ánh mặt trời/ Nhân loại trườn
lên trên biển máu/ Đang nghe xuân tới nở môi cười” (Xuân nhân loại). Biểu
tượng “ánh sáng” được gắn liền với hình ảnh mùa xuân tươi sáng, cùng ánh
mặt trời chói chang, rực rỡ cùng sức sống mãnh liệt, vĩnh cửu. Hình ảnh đó
đƣợc lặp lại trong bài Vui bất tuyệt: “Mặt trời đỏ huyền diệu mọc lên, ôi náo
nức/ Nhạc nhân gian cuồn cuộn bốc hồng trần”.
Trong tập thơ Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy một
sự song hành, hầu nhƣ không khi nào tách rời giữa “bóng tối” và “ánh sáng”.
Đó chính là sự vận động của cuộc sống, của cách mạng và cũng là niềm tin tất
thắng của ngƣời chiến sĩ dù đang ở chốn lao tù: “Trong ngục giờ đây còn tối
mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” (Buổi sớm), “Cô em xóm núi xay ngô
166
tối/ Xay hết, lò than đã rực hồng” (Chiều hôm). Và nhất là, ngƣời chiến sĩ ấy
có một niềm tin sắt đá, đặt cơ sở từ chân lý cách mạng: “Phương Đông màu
trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn, quét sạch không” (Giải đi sớm).
Đó cũng là khát vọng vào một ngày mai thắng lợi vẻ vang, rực rỡ của
những chiến sĩ cách mạng đang ngày đêm lăn mình vào cuộc tranh đấu. Họ
biết rằng, niềm tin đó không xây bằng ảo mộng, viển vông. Niềm tin đó xây
bằng lý tƣởng, bằng máu, nƣớc mắt, sự hy sinh của bao thế hệ ngƣời. Bóng
đêm tắt thì mặt trời sẽ mọc. Thiên đƣờng sẽ đƣợc xây dựng để thay cho địa
ngục tối tăm. Cuộc đời của nhân loại, của dân tộc sẽ bƣớc sang trang mới. Đó
là một sự vận động mang tính duy vật lịch sử: “Xây một thiên đường thay địa
ngục/ Thiên đường nào phải của riêng ai” (Nhắn trời, Phan Trọng Bình), “Từ
đây hết cảnh nghèo nàn/ Hết ngày tăm tối lầm than bất bình/ Chân trời ửng
bình minh nhân loại/ Đã bừng lên thế giới tự do/ Chung ta xây đắp ấm no/
Mùa xuân mỹ lệ điểm tô cảnh đời” (Vô sản diễn ca, Đặng Quang Thiều).
Có thể thấy rằng, ánh sáng và bóng tối là cặp biểu tƣợng nghệ thuật góp
phần thể hiện rõ nét xu hƣớng phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn này. Đó chính là quá trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ thất bại đến
thành công, từ hôm qua tăm tối, sầu thảm đến ngày mai rực sáng, huy hoàng.
Tiểu kết chƣơng 4
“Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
chính là bản chất của thơ ca cách mạng, phát triển từ phong trào Xô Viết -
Nghệ Tĩnh cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ sau này. Cƣơng
lĩnh chiến đấu và hƣớng phấn đấu của thơ luôn luôn nhất quán và theo chiều
hƣớng đi lên cùng với dòng chảy cách mạng, và đồng thời, cũng không ngừng
nâng tầm tƣ tƣởng và tính chiến đấu của thơ. Thực tế cho thấy, những giai
đoạn bi thƣơng và hùng tráng của mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều sản sinh ra
167
những khuynh hƣớng, trào lƣu thơ gắn liền với nội dung chiến đấu.
Thơ ca Cách mạng ra đời trong bão táp cách mạng và thật sự trở thành
một thứ vũ khí đấu tranh sắc bén của Đảng, của giai cấp vô sản và của quần
chúng nhân dân. Thơ đã đi lên đầu chiến tuyến, thể hiện tinh thần yêu nƣớc và
ý chí chiến đấu vô cùng quả cảm, gan dạ của chiến sĩ và nhân dân ta. Thơ đã
lao vào cuộc đời, hiện hữu giữa cuộc đời đầy bộn bề và đau thƣơng. Thơ đã
chiến đấu để hoàn thành trọng trách của mình trong lĩnh vực chính trị và vút
lên những trị nhân văn cao đẹp.
Với dòng cảm thức về thực tế thời đại và cuộc chiến, các nhà thơ Cách
mạng đã xây dựng đƣợc những biểu tƣợng nghệ thuật rất phong phú, giàu tính
thẩm mĩ. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi mới có dịp phân tích những
nghệ thuật tiêu biểu, đó là: biểu tượng về lý tưởng cách mạng: mặt trời, con
đƣờng, cờ - ngọn cờ; biểu tượng về ý chí cách mạng: con thuyền, máu, lửa;
biểu tượng về sự vận động của cách mạng: bóng tối, ánh sáng. Hầu hết những
biểu tƣợng này, giống nhƣ hệ thống biểu tƣợng trong Thơ mới, đều đã có
trong cổ mẫu, trong văn hóa nhân loại, nhƣng đã đƣợc dày công vun vén, bồi
đắp thêm nhiều tầng ý nghĩa mới, để có thể chuyên chở những cảm xúc mãnh
liệt của thi sĩ, chiến sĩ trong lý tƣởng cách mạng son sắt, ý chí chiến đấu quả
168
cảm và đặc biệt là niềm tin vào một ngày mai tƣơi sáng.
KẾT LUẬN
1. Với tƣ cách là một “siêu kí hiệu” và đặc tính chủ đạo là “mãi mãi gợi
cảm đến bất tận”, biểu tƣợng thật sự đã và đang là một lĩnh vực thu hút, hấp
dẫn các nhà nghiên cứu khoa học nói chung và giới nghiên cứu văn hóa, văn
học nói riêng. Thực tế cho thấy, biểu tƣợng đã đƣợc xem xét, phân tích một
cách đa chiều, đa diện ở các lĩnh vực nhƣ: phân tâm học, tâm lý học, văn hóa
học, kí hiệu học,… Đồng thời, cũng xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về
biểu tƣợng và đạt kết quả nhất định trong hƣớng lý thuyết và giải quyết một
số vấn đề cụ thể.
Không có gì cần bàn cãi thêm khi khẳng định rằng chúng ta đang sống
trong một thế giới biểu tƣợng. Biểu tƣợng cổ xƣa nhƣ ý thức của loài ngƣời
và đồng hành cùng những biến thiên, thăng trầm trong lịch sử nhân loại. Ở
một góc độ nhất định, có thể nói, biểu tƣợng là một “đặc sản” văn hóa, là nét
khác biệt, độc đáo giữa các nền văn hóa trên thế giới. Mã văn hóa đƣợc ghim
trong biểu tƣợng rất chắc chắn, đậm nét, nhiều tầng bậc, nhiều lớp lang.
Không những thế, với đặc tính linh hoạt vốn có, từ mẫu gốc, biểu tƣợng
xuyên qua lớp không gian và thời gian bất tận để tái tạo, phát sinh nhiều lớp ý
nghĩa mới, tùy theo những điều kiện cụ thể của mỗi cộng đồng và cá nhân.
Hiểu đƣợc những giá trị biểu đạt của biểu tƣợng, có nghĩa là chúng ta có cơ
hội hiểu sâu sắc hệ giá trị văn hóa của cả một dân tộc, của một thời đại sản
sinh ra biểu tƣợng.
2. Biểu tƣợng nghệ thuật là một dạng đặc biệt của biểu tƣợng. Nó có
khả năng mã hóa cảm xúc, tƣ tƣởng, thẩm mĩ của nhà văn về đời sống thông
qua việc xây dựng các biểu tƣợng trong sáng tác của mình. Bắt nguồn từ
những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa nhất định, mỗi dân tộc, mỗi thời đại
lại xây dựng và sở hữu những hệ biểu tƣợng nghệ thuật khác biệt (trong đó,
169
phần nhiều là những biểu tƣợng khai sinh từ mẫu gốc, bên cạnh đó là những
biểu tƣợng phái sinh, đƣợc gán thêm nét nghĩa mới). Khám phá và giải mã
biểu tƣợng nghệ thuật trong văn học nói chung, trong thơ ca nói riêng thật sự
là một phƣơng thức độc đáo, thú vị, chứa đầy mĩ cảm đối với những ai muốn
đi đến tận cùng giá trị của một nền văn học của dân tộc, của tƣ tƣởng, thẩm
mĩ nhà thơ. Việc phát hiện ra lớp ý nghĩa bề mặt của biểu tƣợng và sau đó,
tinh tế hơn, hiểu đƣợc những lớp ý nghĩa thầm kín, sâu xa của biểu tƣợng,
cũng giống nhƣ nguyên lý “Tảng băng trôi”, “3 phần nổi, 7 phần chìm” của
Ernest Hemingway. Tiếp nhận biểu tƣợng nghệ thuật, nhất định phải nhờ đến
sự nhạy cảm, tinh tế, trí tƣởng tƣợng phong phú và kinh nghiệm sống nhất
định. Biểu tƣợng nghệ thuật, cũng nhờ thế mà bay cao, bay xa trong miền suy
tƣởng, biến hóa và tái sinh những tầng bậc ý nghĩa mới. Luận giải biểu tƣợng
nghệ thuật trong thơ, nhất thiết phải căn cứ vào đặc điểm thời đại sản sinh ra
biểu tƣợng và quan niệm thẩm mĩ, tƣ duy nghệ thuật của tập thể, cá nhân tác
giả xây dựng ra biểu tƣợng.
Trong giai đoạn 1930 - 1945, Phong trào Thơ mới và thơ ca Cách mạng
đã đƣợc hình thành, phát triển và ghi dấu những thành tựu nổi bật về nội dung
và nghệ thuật. Trên cơ sở tiếp thu những giá trị tinh hoa của thơ ca lãng mạn,
tƣợng trƣng, siêu thực Pháp; phát huy những yếu tố hàm súc, cô đọng, giàu
hình ảnh trong thơ ca phƣơng Đông; tiếp nối mạch nguồn của thơ ca yêu nƣớc
dân tộc; từ quan điểm thẩm mĩ riêng khác, các nhà thơ của hai trào lƣu này đã
xây dựng đƣợc hệ thống biểu tƣợng nghệ thuật phong phú, đa dạng, có sự
giao thoa về một số mặt nghĩa biểu đạt, song về cơ bản là khác nhau về những
ý nghĩa mà biểu tƣợng chuyên chở.
3. Thời kỳ 1930 - 1945 là thời đại của những rung chuyển lớn lao trong
lòng xã hội Việt Nam. Đó là thời đại của những thách thức, hy vọng lớn lao
và đồng thời cũng là thời kỳ của những thất vọng, đau thƣơng tột cùng. Trong
cơn biến thiên ấy, mỗi con ngƣời đều phải có sứ mệnh tự chọn những hƣớng
đi cho riêng mình, hoặc là lăn xả, hòa vào dòng chảy của lịch sử, hoặc là thoát
170
ly, buông xuôi thời cuộc.
Các nhà thơ trong Phong trào Thơ mới, hầu hết xuất thân từ tầng lớp trí
thức tiểu tƣ sản, khi đứng trƣớc “ngã ba đƣờng” cảm thấy mình trở nên cô
đơn, lạc lõng, bơ vơ, vô định, thiếu hƣớng đi. Và vì thế, họ dễ dàng tìm đến
cõi mơ mộng, nỗi buồn rầu, chán nản. Trƣớc hết và trên hết, nhà thơ lãng mạn
muốn bày tỏ giữa cuộc đời cái Tôi của chính mình, giữa những chiều kích của
xúc cảm, tâm hồn, đồng thời nói lên khát vọng sống mãnh liệt, tình yêu thiên
nhiên và tình cảm yêu nƣớc thầm kín.
Phong trào Thơ mới diễn ra trọn vẹn trong vòng mƣời lăm năm, từ
1932 đến 1945, nhƣng dƣờng nhƣ đã thu gọn tất cả những bộn bề, trăn trở, âu
lo, hoang mang của tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản thời đại. Đây là một cuộc cách
mạng thi ca chƣa từng có trong lịch sử văn học của dân tộc, với giá trị lớn
nhất, độc đáo nhất là góp phần thay đổi căn bản, và gần nhƣ toàn diện hệ
thống thi pháp, thể tài, ngôn ngữ để thay thế thơ trữ tình cổ điển truyền thống.
Trong dòng chảy thơ lãng mạn ấy, xuất hiện nhiều tác giả tiêu biểu, với phong
cách cá nhân độc đáo, đầy màu sắc sáng tạo, nhƣ Xuân Diệu, Chế Lan Viên,
Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính, Bích Khê, Đinh Hùng, Lƣu Trọng
Lƣ,…. Để ghi dấu ấn và đặt “mã vạch” cho riêng mình trong thế giới nghệ
thuật thơ, mỗi nhà thơ đều xây dựng cho mình những biểu tƣợng (hoặc hệ
thống biểu tƣợng) phong phú, có giá trị thẩm mĩ cao, tác động mạnh mẽ vào
cảm nhận của bạn đọc.
Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi mới có dịp khám phá, phân
tích một số biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong sáng tác của những tác giả
sở hữu cá tính nghệ thuật độc đáo. Đó là biểu tƣợng về không gian - vật thể:
trăng, vƣờn, cánh bƣớm; biểu tƣợng về thế giới tâm linh: âm phủ - địa ngục,
hồn - linh hồn, máu, giấc mộng; biểu tƣợng về sự vận động của thời gian:
171
mùa xuân, mùa thu.
4. Cũng trong điều kiện lịch sử, xã hội những năm 1930 - 1945, ra đời
cùng với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, thơ
ca Cách mạng vừa là tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động, vừa là vũ
khí đấu tranh của giai cấp vô sản và mang “tính Đảng” sâu sắc. Tác giả của
thơ ca Cách mạng có thể là tập thể, là cá nhân có tên hoặc khuyết danh, nhƣng
tất cả đều có điểm chung là họ đã hòa mình vào dòng chảy của cuộc đấu tranh
vĩ đại của dân tộc. Họ tìm thấy lý tƣởng cách mạng cao đẹp, họ mang hơi thở
và khí phách anh hùng của thời đại.
Thơ khởi nguồn từ quần chúng và quay trở lại phục vụ quần chúng,
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Đặc điểm nổi bật nhất của thơ ca Cách mạng là
kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa giữa chính trị và thơ ca, hai lĩnh vực tƣởng
chừng khó tìm thấy điểm chung và đồng nhất… Mặc dù đặt vấn đề tuyên
truyền, vận động cách mạng lên trên hết, nhƣng có thể khẳng định, thơ ca
cách mạng không chỉ hoàn thành trọng trách của mình trong lĩnh vực chính trị
mà còn hoàn thành xuất sắc sứ mạnh của mình trong việc đóng góp những giá
trị nghệ thuật quan trọng trong quá trình hiện đại hóa văn học. Thơ ca cách
mạng 1930 - 1945, bên cạnh việc giới thiệu cho thi đàn văn học những nhà
thơ, nhà chiến sĩ tiêu biểu nhƣ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Sóng Hồng, Trần Huy
Liệu, Đặng Xuân Thiều, Nguyễn Ngọc Tỉnh.. thì cũng đã xây dựng đƣợc
những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu.
Cũng nhƣ đối với phong trào Thơ mới, trong khuôn khổ của luận án,
chúng tôi mới chỉ tiếp cận và giải mã những biểu tƣợng mang tính tiêu biểu,
có ý nghĩa quan trọng đối với tƣ tƣởng, giá trị thẩm mĩ của thời đại. Đó là
biểu tƣợng về lý tƣởng cách mạng: mặt trời, con đƣờng, cờ - ngọn cờ; biểu
tƣợng về ý chí cách mạng: con thuyền, lửa, máu; biểu tƣợng về sự vận động
172
của cách mạng: bóng tối, ánh sáng.
5. Từ góc độ biểu tƣợng để tiếp cận văn hóa nói chung và văn học nghệ
thuật, thơ ca nói riêng là một trong những hƣớng đi đang nhận đƣợc nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học. Dựa trên kết quả
nghiên cứu của luận án, nhất là việc tiếp thu một cách trân trọng, cầu thị
những thành tựu nghiêu cứu của các nhà khoa học, các tác giả đi trƣớc, chúng
tôi mong muốn tiếp tục đi sâu hơn nữa vào công việc khám phá, giải mã
những biểu tƣợng nghệ thuật trong văn hóa, văn học nói chung, trong thơ ca
Việt Nam nói riêng. Chúng tôi nghĩ rằng, đó luôn là một hƣớng đi mở, đầy
173
hấp dẫn và thi vị.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phạm Đức Cƣờng (2019), "Biểu tƣợng ánh sáng và bóng tối trong tập
thơ Từ Ấy của Tố Hữu", Tạp chí Khoa học (34), tr. 6-13.
2. Phạm Đức Cƣờng (2019), “Cánh bƣớm - một biểu tƣợng nghệ thuật tiêu
biểu trong thơ tình Nguyễn Bính”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội (Số Đặc
biệt kỳ 2 tháng 11), tr. 27-33.
3. Phạm Đức Cƣờng (2020), “Biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu về lý tƣởng
cách mạng trong thơ ca cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930-1945”, Tạp
174
chí Giáo dục và Xã hội (số Đặc biệt tháng 4/2020), tr. 33-39.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Aristotle (Nhiều tác giả dịch) (2007), Nghệ thuật thi ca, Nxb Lao động,
Hà Nội.
2. Trần Hoài Anh (2017), Đi tìm ẩn ngữ văn chương, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
3. Melanie Barnum (Thế Anh dịch) (2017), Cuốn sách về các biểu tượng
tâm linh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
4. Gillian Butler & Freda McManus (Thái An dịch) (2016), Dẫn luận về
tâm lý học, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
5. Lévy-Bruhl (Ngô Bình Lâm dịch) (2018), Kinh nghiệm thần bí và biểu
tượng ở người nguyên thủy, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
6. Tim Bayne (Nguyễn Tiến Văn dịch) (2016), Dẫn luận về tư duy, Nxb
Hồng Đức, Hà Nội.
7. Luc. Bennoist (Hoàng Mai Anh dịch) (2006), Dấu hiệu, biểu trưng và
thần thoại, Nxb Thế giới, Hà Nội.
8. Georges Batailie (Ngân Xuyên dịch) (2006), Văn học và cái ác, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
9. Nguyễn Bao (tuyển chọn) (1987), Tuyển tập Tế Hanh, Nxb Văn học,
Hà Nội.
10. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Lê Huy Bắc (2019), Ký hiệu và liên ký hiệu, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
12. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (Nhiều ngƣời dịch) (2015), Từ điển
175
biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
13. Laurie Conrad (Quốc Dũng, Thanh Thủy dịch) (2014), Gặp gỡ trong
mơ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
14. Jean - Noel Christine (Thân Thị Mận dịch) (2018), Khai tâm về phân
tâm học, Nxb Tri thức, Hà Nội.
15. Nguyễn Duy Cần (2007), Văn minh Đông Phương và Tây Phương,
Nxb Trẻ, Hà Nội.
16. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Bùi Hạnh Cẩn (1995), Nguyễn Bính và tôi, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
18. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. P.J. Durand (Lê Thành dịch) (2012), Biểu tượng và ý nghĩa của các
loài thú trong Thánh Kinh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
20. Phạm Đức Dƣơng (2013), Từ văn hóa đến văn hóa học, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
21. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
22. Hà Minh Đức (2010), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
23. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thi ca (về phong trào Thơ
mới), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
24. Hà Minh Đức (2010), Huy Cận ngọn lửa thiêng không tắt, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
25. Hà Minh Đức, Đoàn Đức Phƣơng (tuyển chọn) (2007), Nguyễn Bính
về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
176
26. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, 2001.
27. Lê Xuân Đức (2003), Đến với những bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Trần Độ (chủ biên) (1989), Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995
(Memento), Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ƣơng, Hà Nội.
29. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên) (2017), Từ kí hiệu đến biểu tượng, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
30. Sigmund Freud (Ngụy Hữu Tâm dịch) (2018), Về giấc mơ và diễn giải
giấc mơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
31. Sigmund Freud (Thân Thị Mận dịch) (2017), Cái tôi và cái nó, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
32. Jonathan K. Foster (Thái An dịch) (2016), Dẫn luận về trí nhớ, Nxb
Hồng Đức, Hà Nội.
33. S. Freud. E. Fromm, A. Schopenhauer, V. Soloviev, Đỗ Lai Thúy
(Nhiều ngƣời dịch) (2017), Phân tâm học và tình yêu, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
34. Hà Giao, Quách Giao, Trần Thị Huyền Trang (1988), Thơ Hàn Mặc
Tử, Sở văn hóa và thông tin Nghĩa Bình, Quy Nhơn.
35. Văn Giá (1999), Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Đặng Thai
Mai, Nxb Giáo dục.
36. J Allan Hobson (Hân Nhi dịch) (2017), Dẫn luận về giấc mơ, Nxb
Hồng Đức, Hà Nội.
37. Marc Himennez (Phạm Diệu Hƣơng dịch) (2016), 50 câu hỏi mỹ học
đương đại, Nxb Thế giới, Hà Nội.
38. Lƣu Hiệp (Phan Ngọc dịch) (2007), Văn tâm điêu long, NXB Lao
động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
39. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2014),
177
Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng, một số hướng tiếp cận
lý thuyết, Nxb Thế giới, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2005), Sự phát triển ý nghĩa của hệ Biểu tượng
trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ văn học,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
42. Đoàn Trọng Huy (2006), Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Đại học
Sƣ phạm, Hà Nội.
43. Đoàn Hƣơng (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Mai Hƣơng (tuyển chọn) (2000), Thế Lữ cây đàn muôn điệu, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
45. Trần Thị Hƣờng (2017), Biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945 - 1975, Luận án Tiến sĩ văn học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
47. C.G. Jung (Vũ Định Lƣu dịch) (2007), Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
48. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
49. Vũ Ngọc Khánh (2008), Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
50. Nguyễn Xuân Kính (2007), Thi pháp ca dao, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
51. Vũ Khiêu (1976), Anh hùng và nghệ sĩ, Nxb Văn học giải phóng, Hà Nội.
52. Nguyễn Đức Khuông (tuyển chọn) (2005), Tác gia tác phẩm văn học Việt
Nam trong con mắt người nước ngoài, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
53. Lê Đình Kỵ (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
178
54. Lê Đình Kỵ (giới thiệu) (1983), Tuyển tập Thế Lữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
55. IU. Lotman (Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch) (2015),
Ký hiệu học văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
56. Phong Lan, Mai Hƣơng (tuyển chọn) (2003), Tố Hữu - Về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Mã Giang Lân (2004), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
58. Mã Giang Lân (1993), Sức bền của thơ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
59. Nguyễn Duy Lẫm (2005), Biểu tượng, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
60. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
61. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Vũ Bội Liêu (2000), Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây
phương trong Ngôn ngữ và Văn chương, Nxb Văn học, Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
63. Đỗ Hoàng Linh (sƣu tầm và biên soạn) (2003), Nguyễn Ái Quốc Hồ
Chí Minh (giai đoạn 1941-1945), Nxb Hồng Bàng, Gia Lai.
64. Thảo Linh (2000), Nguyễn Bính nhà thơ chân quê, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Long (giới thiệu) (1987), Tuyển tập Lưu Trọng Lư, Nxb
Văn học, Hà Nội.
66. Phong Lê, Trần Hữu Tá (tuyển chọn) (2003), Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh những tác phẩm tiêu biểu (từ 1919 đến 1945), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
67. P.H. Matthews (Thái An dịch) (2016), Dẫn luận về Ngôn ngữ học, Nxb
Hồng Đức, Hà Nội.
68. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Nhà văn - Tư tưởng và phong cách, Nxb
179
Tác phẩm mới, Hà Nội.
69. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Hoàng Tố Mai (chủ biên) (2017), Di sản văn học lãng mạn những
cách đọc khác, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
71. Hoàng Nhƣ Mai (giới thiệu) (1970), Thơ ca kháng chiến 1946-1954,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Nguyễn Xuân Nam (giới thiệu) (1985), Tuyển tập Chế Lan Viên, Nxb
Văn học, Hà Nội.
73. Trƣơng Thị Nhàn (1995), Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm
mĩ - không gian trong ca dao, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sƣ
phạm Hà Nội, Hà Nội.
74. Phƣơng Ngân (tuyển chọn), (2007), Thơ quê hương và những lời bình,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
75. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Chế Lan Viên, một tài năng đặc sắc
đầy cá tính, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
76. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Nguyễn Bính, người nghệ sĩ đắm
say, mơ mộng với hồn quê, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
77. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Hồ Dzếch, người lữ hành đơn đọc
trong nửa thế kỷ văn học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
78. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Thơ mới lãng mạn, cuộc cách
mạng trong thi ca, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
79. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Tế Hanh, một hồn thơ tinh tế, trong
trẻo và đậm tình đất nước, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
80. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Tản Đà, ảo thuật gia về chữ nghĩa,
âm giai và hình tượng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
81. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Lưu Trọng Lư, thi sĩ tài hoa làm
180
thổn thức trái tim bao thế hệ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
82. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Hàn Mặc Tử, một cuộc đời dị biệt,
một con người tài hoa, bạc mệnh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
83. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Tố Hữu, một tài năng thơ ca thuộc
về nhân dân và dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
84. Lã Nguyên (2018), Phê bình kí hiệu học, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
85. Nhiều tác giả (2005), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
86. Lê Lƣu Oanh (2011), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại
học Sƣ phạm, Hà Nội.
87. Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng -
Trung tâm Từ điển học, Hà Nội.
88. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại (1930 - 1945), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
89. Đoàn Đức Phƣơng (2006), Nguyễn Bính hành trình sáng tạo thi ca, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
90. Vũ Tiến Quỳnh (1992), Hoài Thanh, Nguyên Hồng, Chu Văn, Nxb
Tổng hợp Khánh Hòa, Khánh Hòa.
91. David Stafford - Clark (Lê Văn Luyện, Huyền Giang dịch) (1998),
Freud đã thực sự nói gì, Nxb Thế giới, Hà Nội.
92. Anthony Stevens (Thái An dịch) (2016), Dẫn luận về Jung, Nxb Hồng
Đức, Hà Nội.
93. Anthony Storr (Thái An dịch) (2016), Dẫn luận về Freud, Nxb Hồng
Đức, Hà Nội.
94. Chu Văn Sơn (2003), Ba đỉnh cao thơ mới Xuân Diệu - Nguyễn Bính -
Hàn Mặc Tử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
95. Nguyễn Hữu Sơn (2016), Thơ Mới - Những chuyện chưa bao giờ cũ, Nxb
181
Văn học, Hà Nội.
96. Trần Đình Sử (2011), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
97. Trần Đình Sử (2012), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
98. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Trần Đình Sử (2016), Trên đường biên của Lí luận văn học, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
100. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
101. L.I. Timôfêép (Nhiều tác giả dịch) (1962), Nguyên lý lý luận văn học,
NXB Văn hóa, Hà Nội.
102. Hoài Thanh - Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học,
Hà Nội.
103. Hoài Thanh (1965), Phê bình và tiểu luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
104. Trần Khánh Thành (chủ biên) (2016), Khuynh hướng tượng trưng và siêu
thực trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
105. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại, Nxb
Văn học, Hà Nội.
106. Nguyễn Bá Thành (2009), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy
tưởng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
107. Lý Hoài Thu (2003), Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám -
1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
108. Lê Ngọc Trà (2018), Nhà văn và sáng tạo nghệ thuật, Nxb Trẻ, Hà Nội.
109. Hoàng Trung Thông (giới thiệu) (1987), Tuyển tập Anh Thơ, Nxb
Văn học, Hà Nội.
110. Hoàng Trung Thông (chủ biên) (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ
182
cứu nước, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
111. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
112. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng Văn hóa - Dân tộc của Ngôn ngữ
và Tư duy, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
113. Bùi Minh Toán (2015), Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội.
114. Đỗ Lai Thúy (2012), Mắt thơ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
115. Đỗ Lai Thúy (2018), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Tri
thức, 2018.
116. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái khác, Nxb Hội nhà
văn trẻ, Hà Nội.
117. Hoàng Trinh (chủ biên) (1978), Văn học cuộc sống nhà văn, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
118. Lƣơng Đức Thiệp (2016), Việt Nam thi ca luận và văn chương xã hội,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
119. Tố Hữu (2011), Toàn tập thơ Tố Hữu, Nxb Văn học, Hà Nội.
120. Thơ Mới lãng mạn, cuộc cách mạng trong thi ca (2013), Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
121. Thơ Mới 1932 - 1945 tác giả và tác phẩm (1998), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
122. Thơ ca cách mạng 1925 - 1945 (1973), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
123. Tuyển tập Lý luận và phê bình văn học (2005), Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
124. Tuyển tập Nguyễn Bính (2001), Nxb Văn học, Hà Nội
125. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
183
126. Chế Lan Viên (1987), Ngoại vi thơ, Nxb Thuận Hóa, Huế.
127. Viện Văn học (1976), Mấy vấn đề lý luận văn học, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
128. Viện Văn học (2016), Nhật ký trong tù, Nxb Văn học, Hà Nội.
129. Nguyễn Khắc Xƣơng (tuyển chọn) (1986), Tuyển tập Tản Đà, Nxb
Văn học, Hà Nội.
130. Nguyễn Nhƣ Ý, Nguyễn An, Chu Huy (tuyển chọn) (2001), Hồ Chí
Minh tác gia, tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
131. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (2011), Từ điển Ngữ văn dùng cho học
sinh, sinh viên, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Tiếng Anh
132. Frances Lea McCurdy (2009), “Reading symbols of poetry”, nguồn:
https://examples.yourdictionary.com/examples-of-symbolism-in
poetry.html.
133. Ginny Wiehardt (2019), “Symbolism in Fiction Writing”, nguồn:
https://www.thebalancecareers.com/symbol-definition-fiction-writing-
1277138.
134. Kedar Nath Sharma (2013), “What is Symbol?”, nguồn:
https://www.bachelorandmaster.com/literaryterms/symbol.html#.Xgdf
DUczbIU.
135. Melissa Drake (2018), “What is symbolism in poetry? What are some
examples?”, nguồn: https://www.quora.com/What-is-symbolism-in-
poetry-What-are-some-examples.
136. Patricia Bjaaland Welch (2008), Chinese Art - A guide to Motifs and
visual imagery, Published by Tuttle Publishing.
137. Wallace Fowlie (1990), Poem and Symbol: A Brief History of French
Symbolism, nguồn: https://www.amazon.fr/Poem-Symbol-History-
184
French-Symbolism/dp/027100696X.