BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH THỊ DUNG

QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN

NỬA ĐẦU THẾ KỈ 19

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2001

MỤC LỤC

108TMỤC LỤC108T ..................................................................................................................... 1

108TLỜI CAM ĐOAN108T ......................................................................................................... 3

108TMỞ ĐẦU108T ........................................................................................................................ 4

108T1. Mục đích – ý nghĩa nghiên cứu:108T .................................................................................... 4

108T2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:108T ............................................................................................ 6

108T3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:108T ................................................................................ 9

108T4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu:108T ............................................................................. 9

108T5. Những đóng góp của luận án:108T ...................................................................................... 11

108TCHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T .................................................................................................................. 12

108T1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỷ 19:108T ................................................. 12

108T1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19:108T .................................................................. 17

108TCHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T .............................................................................................. 29

108T2.1. Những đặc điểm dẫn đến việc hình thành đường lối ngoại giao của triều Nguyễn với Trung Quốc nửa đầu thế kỷ 19:108T ................................................................................ 29

108T2.1.1. Đặc điểm lịch sử:108T ................................................................................................... 29

108T2.1.2. Đặc điểm địa lý:108T .................................................................................................... 30

108T2.1.3. Đặc điểm chính trị - xã hội:108T ................................................................................... 30

108T2.1.4. Đặc điểm tư tưởng:108T ................................................................................................ 34

108T2.2. Đường lối, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .................................................................................................................... 35

108T2.2.1. Vấn đề: “Sách phong” và “Triều Cống”:108T .............................................................. 37

108T2.2.2. Các họat động ngoại giao khác giữa triều Nguyễn và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ............................................................................................................................... 51

108T2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ............................................................................................................ 56

108T2.3.1. Xét về phía triều Nguyễn:108T ..................................................................................... 56

108T2.3.2. Xét về phía nhà Thanh (Trung Quốc).108T .................................................................. 60

108TCHƯƠNG 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI NƯỚC PHÁP NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T .............................................................................................. 62

108T3.1. Việt Nam và Pháp - Những cuộc tiếp xúc đầu tiên cho đến cuối thế kỷ 18:108T ........ 62

108T3.1.1. Việt Nam và Pháp (thế kỷ 16 - thế kỷ 18):108T ........................................................... 62

1

108T3.1.2. Quan hệ giữa Nguyễn Ánh - Gia Long và người Pháp vào cuối thế kỷ 18:108T ......... 65

108T3.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Pháp nửa đầu thế kỷ 19:108T ..................... 72

108T3.2.1. Việt Nam trong tầm nhìn của Pháp:108T ...................................................................... 72

108T3.2.2. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Gia Long (1802 - 1819):108T ............. 74

108T3.2.3. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Minh Mạng (1820 - 1840)108T .......... 80

108T3.2.4. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và đầu thời Tự Đức (1847 - 1883):108T .................................................................................................... 91

108T3.3. Những nhận xét về quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ....................................................................................................................................... 95

108TCHƯƠNG 4: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC XIÊM LA, CHÂN LẠP, VẠN TƯỢNG TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T ........ 101

108T4.1. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .. 101

108T4.1.1. Quan hệ Việt Nam - Xiêm La từ đầu cho đến cuối thế kỷ 18:108T ............................ 101

108T4.1.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ... 104

108T4.1.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ....................................................................................................................... 116

108T4.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với nước Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ..................................................................................................................................... 119

108T4.2.1. Quan hệ Việt Nam và Chân Lạp cho đến năm 1807:108T .......................................... 119

108T4.2.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .. 122

108T4.2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nữa đầu thế kỷ 19:108T ................................................................................................................ 128

108T4.3. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với tiểu vương quốc Lào - Vạn Tượng trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .......................................................................................................... 132

108T4.3.1. Những bước đầu tiên trong quan hệ của Việt Nam với các tiểu quốc Lào:108T ........ 132

108T4.3.2. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Vạn Tượng cho đến 1831:108T ..................... 134

108T4.3.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với tiểu vương quốc Lào - Vạn Tượng trong nửa đầu thế kỷ :108T ................................................................................ 141

108TKẾT LUẬN108T ............................................................................................................... 144

108TTÀI LIỆU THAM KHẢO108T ....................................................................................... 153

108TPHỤ LUC108T .................................................................................................................. 164

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, nếu có gì gian dối tôi xin

42TTP. HCM ngày 20 tháng 4 năm 2001

37TNghiên cứu sinh

37TĐinh Thị Dung

chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.

3

MỞ ĐẦU

1. Mục đích – ý nghĩa nghiên cứu:

37TTriều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

37TNhững đóng 11T37Tgóp 11T37Tvà hạn 11T37Tchế của triều 11T37TNguyễn, 11T37Tđặc biệt 11T37Ttrên lĩnh vực ngoại giao trong

tiến trình xây dựng phát triển đất nước trong nửa đầu thế kỷ 19, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề

thời sự và khoa học trong nghiên cứu lịch sử nói chung và nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại

giao nói riêng. Ví dụ như vấn đề: Tại sao tuy đã tận tâm nỗ lực để xây dựng một quốc gia

phong kiến độc lập, thống nhất, tự chủ, khẳng định tư thế của Việt Nam trong khu vực, triều

Nguyễn cuối cùng lại không có một đối sách hợp lý để “giữ nước” có hiệu quả? Qua quan hệ

ngoại giao của triều Nguyễn, những bài học kinh nghiệm lịch sử nào cho đến nay vẫn còn

nguyên tính thời sự nóng bỏng, trong quan hệ ngoại giao Việt Nam hiện đại với xu thế “mở

cửa”, “hội nhập”?... Nếu triều Nguyễn của thế kỷ 19 đã “đóng cửa”, thì tại sao, nguyên nhân

nào đưa tới đường lối “đóng cửa” ấy? Thực chất và hậu quả của ngoại giao “đóng cửa” ? v.v...

Đó là những vấn đề mà khi thực hiện đề tài “ Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn trong nửa

37TUÝ nghĩa khoa họcU :

37TNhững năm 80 của thế kỷ 20 trở lại 6T37Tđây, 6T37Tnhững vấn 6T37Tđề 6T37Ttrong lịch sử Việt Nam cận đại và

đầu thế kỷ 19” chúng tôi mong muốn và cố gắng tìm ra câu trả lời.

lịch sử triều Nguyễn đang thu hút sự chú ý của đông đảo giới nghiên cứu, trong đó vấn đề

ngoại giao của triều Nguyễn là vấn đề được sự quan tâm37T42T 37T42Tđặc biệt. Nghiên cứu quan hệ ngoại

giao của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 nhằm khôi phục bức tranh lịch sử ngoại giao

của Việt Nam trong nửa thế kỷ là cần thiết để tăng cường sự hiểu biết về vị trí của Việt Nam

trên trường quốc tế thế kỷ 19. Nghiên cứu quan hệ ngoại giao của Việt Nam dưới triều Nguyễn

còn để biết phạm vi quốc tế chủ yếu, ảnh hưởng đến các vấn đề ngoại giao, nội trị và tiến trình

lịch sử đất nước. Đồng thời thực hiện đề tài quan hệ ngoại giao còn nhằm mục đích là sáng tỏ

hơn những nhân tố chủ quan và khách quan góp phần hình thành nên đường lối ngoại giao

37TQuan hệ ngoại giao của Việt Nam với nhà Thanh (Trung Quốc) là mối quan hệ chủ yếu

phong kiến Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 19.

trong các mối quan hệ ngoại giao từ trước cho đến nửa đầu thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, nó chi

4

phối và có tác động đến tất cả các mối quan hệ của Việt Nam với các nước khác. Đây37T42T 37T42Tlà vấn đề

37TVề quan hệ ngoại giao của Việt Nam với phương Tây, điển hình là nước Pháp, cũng là

nhạy cảm và quan trọng trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam.

mối quan hệ cần được xem xét dưới nhiều góc độ. Khi nghiên cứu quan hệ này, chúng tôi cố

gắng lý giải đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Pháp. Trên cơ sở lý giải đó, luận án

rút ra những tiền đề đưa đến việc hoạch định đường lối ngoại giao của triều đình Huế, và góp

37TQuan hệ của triều Nguyễn với các nước láng 11T37Tgiềng 11T37Tnhư Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng

một đánh giá thỏa đáng hơn về những đóng góp và hạn chế của vương triều này.

cũng là vấn đề lý thú và 6T37Tcần 6T37Tđược nghiên cứu một cách nghiêm 11T37Ttúc, 11T37Tkhách quan trong đó nếu

như quan hệ của triều Nguyễn với nước Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19 là mối quan hệ về cơ

bản là hòa hiếu, bình thường thì với Vạn Tượng và Chân Lạp là hai quốc gia luôn có những

biến động chính trị trong 6T37Tnửa đầu6T37T thế kỷ 19, quan hệ của triều Nguyễn với hai nước này là một

loại hình quan hệ trong quan hệ khu vực lúc bấy giờ. Trên cơ sở 11T37Tnguồn 11T37Tthư 11T37Ttịch cổ, 11T37Tnhững tư

liệu thành văn ghi chép về quan hệ giữa ba nước, chúng tôi cố gắng tái hiện lịch sử quan hệ

ngoại giao Việt Nam - Vạn Tượng, Việt Nam - Chân Lạp trong 6T37T50 6T37Tnăm đầu của 6T37Tthể 6T37Tkỷ 19. Đây

là những mối quan hệ lịch sử ít nhiều không mang tính 6T37Tchất 6T37Tbình đẳng. Qua quan hệ của Việt

Nam với ba nước này cũng 6T37Tnhư 6T37Tvới Trung Quốc, chúng tôi sẽ góp phần xác định kiểu quan hệ

37TNghiên cứu đề tài này, luận án cũng mong được góp phần tìm hiểu thêm các đường lối,

ngoại giao có tính phổ biến giữa các quốc gia phương Đông.

chính sách đối ngoại của các nước là đối tượng ngoại giao của Việt Nam như: Trung Quốc,

Pháp, Xiêm La,...trong nửa đầu thế kỷ 19, thời điểm mà chủ nghĩa tư bản phương Tây tăng

37TCuối cùng đề tài còn nhằm mục đích phục vụ cho việc giảng dạy chuyên đề ở đại học và

cường sự xâm nhập Châu Á.

tập hợp một hệ thống tư liệu về lịch sử ngoại giao Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho người

37TUÝ nghĩa thực tiễn:

37THiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi. Việt Nam đang bước vào thời

nghiên cứu về lịch sử và lịch sử ngoại giao.

kỳ “mở cửa”, tăng cường hội nhập với thế giới, thực hiện đa phương, đa dạng hóa ngoại giao.

Do vậy, việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam 11T37Tcó ý 11T37Tnghĩa thực tiễn sâu sắc. Qua việc

nghiên cứu này, chúng 11T37Tta 11T37Tcó điều kiện nhìn lại những trang sử ngoại giao đầy biến động của

5

dân tộc. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử từ thành công hay thất bại trên lĩnh

vực ngoại giao của triều Nguyễn. Triều Nguyễn là quá khứ rất gần với hiện tại nên những bài

37TNghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19 nhằm rút ra bài học về quan

học này có ý nghĩa thực tiễn cao đối với quan hệ ngoại giao trong thời đại của chúng ta.

hệ biện chứng giữa nội trị và ngoại giao. Từ bài học của quá khứ chúng ta có thể xây dựng nên

những luận cứ khoa học cho đường lối ngoại giao hiện đại của Việt Nam trước yêu cầu hội

nhập, mở cửa và tăng cường mở rộng các mối quan hệ với khu vực và các mối quan hệ quốc tế

rộng lớn hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:

37TVề quan hệ ngoại giao và những họat động ngoại giao của triều Nguyễn từ trước cho đến

nay, có nhiều sử gia trong và ngoài nước đề cập đến, nhưng tất 11T37Tcả 11T37Tđều chưa thành một công

trình nghiên cứu chuyên biệt và chuyên sâu. Các tác phẩm của Quốc sử quán triều Nguyễn

như “ Đại Nam thực lục” “Quốc triều chính biên” đã cung cấp những hoạt động ngoại giao của

các vua Nguyễn theo hình thức biên niên. Đây là nguồn tư liệu có độ tin cậy cao, song bộ sử

37TCác tác phẩm khác như “Việt sử thông giám cương mục” được viết vào cuối thế kỷ 19

này được viết ra theo quan điểm của Triều Nguyễn.

37TNguồn thư tịch cổ quan trọng còn lại cho đến nay là những 11T37Ttập 11T37TChâu bản 11T37Tcủa 11T37TTriều

cũng có nhiều thông tin 11T37Tvề 11T37Tngoại giao Triều Nguyễn.

Nguyễn. Đó là những giấy 11T37Ttờ 11T37Tđược vua xem qua hoặc chấm vào một dấu son, hoặc cho ý kiến.

Những tờ Châu bản được đóng theo từng Bộ, đã cho chúng ta biết toàn bộ sinh hoạt của đất

37TMột cuốn sử quan trọng khác là “Hoàng triều bang giao đại điển” 11T37Tgồm 16 11T37Tquyển, gom

nước ta kể cả lĩnh vực ngoại giao.

góp công văn giao thiệp của Việt Nam với Trung Quốc 11T37Ttừ 11T37T1789 - 1815. Cuốn “Lịch sử

hiến 11T37Tchương 11T37Tloại chí” được viết từ 1809 - 1821 của Phan Huy Chú cũng có đề cập đến quan hệ

37TTiếp đến còn có sách “Đại Nam liệt truyện” ghi chép về một số nước lân cận, tạo điều

Việt Nam - Trung Quốc cuối thế kỷ 18.

37TNgoài ra, một số tác phẩm mang tính tổng quát như “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”

kiện cho chúng ta hiểu hơn các đối tượng mà triều Nguyễn có quan hệ ngoại giao.

đã nêu những điển chế về bộ Lễ và ngoại giao. “Minh Mạng chính yếu” cũng có đề cập đến

6

nhiều 11T37Tsự 11T37Tkiện 11T37Tngoại 11T37Tgiao thời Minh Mạng11T37T. “Quốc 11T37TTriều sử 11T37Ttrí 11T37TVạn Tượng nghi lục” của tác

giả Ngô Xuân Lãng cũng có đề 11T37Tcập 11T37Tđến quan hệ Việt Nam - Vạn Tượng trong một giai đoạn

37TTừ thời Pháp thuộc đến trước năm 1975,các37T42T 37T42Thoại động ngoại giao 11T37Tthời các 11T37Tvua đầu triều

ngắn (1827 - 1828).

Nguyễn cũng được giới thiệu trong các tác phẩm như “Sơ thảo lược sử” của Minh Tranh (xuất

bản năm 1955), “Coup d' oeil sur histoire d37T42T' 37T42TAnnam” của Đỗ Đình Nghiêm, “Quốc 11T37Tsử 11T37Tđi biên”

của Phan Thúc Trực, “Việt Nam sử 11T37Tlược” 11T37Tcủa Trần Trọng Kim, “Việt Nam ngoại giao sử” của

Ưng Trình, “Chống xâm lăng” của Trần Văn Giàu, “Việt sử tân biên” của Phạm Văn Sơn,

“Lịch sử Việt Nam sơ 11T37Tgiảng” của Văn Tân v.v... nhưng tất cả chỉ được viết dưới dạng

sách giáo khoa hay 11T37Tnhững biên khảo, chưa trình bày một cách toàn diện và chuyên khảo về

lĩnh vực ngoại giao Triều Nguyễn. Các tác giả Lê Hữu Thu, Nguyễn Thế Anh, Dương Quảng

Hàm, Đào Duy Anh... đều có viết về triều Nguyễn nói chung nhưng không đi sâu37T42T 37T42Tvào quan hệ

37TMột số giáo trình lịch sử Việt Nam cận đại cũng 6T37Tđã 6T37Tviết về triều Nguyễn và tình hình xã

ngoại giao.

hội Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Gần đây có các nhà “Huế học” như Phan Thuận An, Mai

Khắc Ứng, Nguyễn Đắc Xuân... đều có những công trình nghiên cứu về triều Nguyễn, giúp

chúng ta phần nào hình dung cuộc đời của vua và chúa Nguyễn trong từng bối cảnh lịch sử cụ

37TCác Luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ nghiên cứu về triều Nguyễn trên từng khía cạnh cụ thể cũng

thể.

được thực hiện thành công khá nhiều 6T37Tnhư 6T37Tluận án Tiến sĩ Nguyễn Minh Tường về pháp luật

Triều Nguyễn, luận án của Thạc sĩ Phan Kim Dung về đường lối ngoại giao của Nguyễn Ánh

Gia Long... cung cấp cho giới nghiên cứu những thông tin và cách tiếp cận mới về triều

37TNhững công trình chuyên về lĩnh vực ngoại giao giữa Việt Nam và một số nước như

Nguyễn.

“Lịch sử quan hệ Trung - Việt” của Tatsuroo Yamamoto (Nhật Bản) nghiên cứu quan hệ Việt

- Trung từ khi Khúc Thừa Dụ giành được quyền tự chủ đến 11T37Tnăm 11T37T1884. Đây là một công trình

37TCác nhà nghiên cứu phương Tây, chủ yếu là các tác giả 6T37Tngười 6T37TPháp 6T37Tnhư 6T37TM. Gaultier,P.

nặng về trình bày sự kiện.

Cultru, Georges Taboulet, Maybon, A. Launay v.v...đều có những công trình về lịch sử Việt

7

Nam nói chung và về triều Nguyễn nói riêng. Đó là những sách giáo khoa và mang tính tổng

37TCông trình nghiên cứu quan hệ giữa triều Nguyễn với nước ngoài không nhiều lắm và

quát chung, hoặc về từng vị vua Nguyễn riêng biệt.

mang tính chất phổ thông như: “Histoire du Vietnam” của Masson André (Pháp), “The

smaller dragon a political history of Vietnam” của Buttinger Joseph (Anh), Jean Cheneaux có

37TVào những năm 60 của thế kỷ 20 có một tác giả Việt Nam hoàn thành luận án Tiến

tác phẩm: “Contribution à l’histoire de la nation Vietnamienne”...

sĩ 1T37Ttại 1T37TPháp với đề tài “ Thiên 1T37Tch 1T37Túa giáo và chủ nghĩa thực 6T37Tdân 6T37Ttại Việt Nam 1857 - 1914”

cũng 6T37Tđã 6T37Tcó nhiều 6T37Tlý 6T37Tgiải về mối quan hệ Việt Nam - Pháp. Mội tác phẩm gây sự chú ý trong

giới nghiên cứu 6T37Tlà 6T37Tcuốn “ Đại Nam đối điện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885” của Tsuboi

- một giáo sư Nhật Bản. Tsuboi đã đề cập đến một vài mối quan hệ của triều Nguyễn với các

37TSách chuyên khảo, chuyên sâu37T42T 37T42Tvề ngoại giao triều Nguyễn không nhiều. 6T37TNăm 6T37T1948,

nước nhưng sơ lược và khái quát.

Phan Khoang có xuất bản cuốn “ 6T37TViệt 6T37T- Pháp bang giao sử lược” chỉ 6T37Tphân tích 6T37Tquan hệ của

37TTừ năm 1985 đến 1998, tuy giới nghiên cứu trong và ngoài nước đã công bố nhiều công

Triều Nguyễn với nước Pháp.

trình có giá trị, phản ánh nhận thức mới về triều Nguyễn, nhưng vấn đề quan hệ ngoại giao của

triều Nguyễn với một số nước vào nửa đầu thế kỷ 19 vẫn chưa được nghiên cứu hệ thống và cụ

37TNhận thức được tầm quan trọng những vấn đề trong lịch sử cận đại, và những 11T37Ttác động

thể.

sâu sắc của thời kỳ lịch sử này đối với tiến trình 11T37Tlịch 11T37Tsử cận đại, chúng 11T37Ttôi đã chọn đề tài

về lĩnh vực quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn. Kế thừa tất cỏ các công trình trên, luận án cố

gắng nghiên cứu có 11T37Thệ 11T37Tthống hơn, sâu sắc hơn về quan hệ ngoại giao dưới các triều vua đầu

37TNgoài các 6T37Ttư liệu 6T37Tnói trên, luận 6T37Tán 6T37Tcòn tham khảo các bài viết có liên quan đến đề

thời Nguyễn.

tài 6T37Ttrên 6T37Tcác 6T37Ttạp 6T37Tchí chuyên ngành trong nước 6T37Tnhư: 6T37TNghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Đông Nam

Á... và các tạp chí nước ngoài như: B.E.F.E.O, B.S.E.I, R.I, F.A...Những nguồn tư liệu đều

được kiểm tra, đối chiếu, xử lý, phân loại theo yêu cầu của luận án. Mặc dù rất cố gắng, chúng

tôi vẫn chưa đủ khả năng và không có điều kiện để tham khảo trực tiếp nhiều tài liệu hiện nay

đang nằm trong kho lưu trữ của Pháp và một số nước khác trên thế giới.

8

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

37TNghiên cứu quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn là một vấn đề rất 6T37Trộng, 6T37Tdo khả năng có

hạn và để bảo đảm độ sâu của đề tài, luận án tập trung nghiên cứu các mối quan hệ ngoại giao

37T- Quan hệ ngoại giao với Thanh triều (Trung Quốc). 6T37TĐây 6T37Tlà nước láng 6T37Tgiềng 6T37Tcó mối quan

của triều Nguyễn với một vài nước tiêu biểu như:

hệ lâu đời với Việt Nam, có cùng chung với Việt Nam một biên giới khá dài.

- 37TQuan hệ ngoại giao với Pháp, một đại diện của phương Tây và là nước trong nửa sau

thế kỉ 19 xâm lược và đô hộ Việt Nam.

- 37TQuan hệ ngoại giao giữa Triều Nguyễn với Xiêm La, 6T37TChân 6T37TLạp và Vạn Tượng. Đây37T42T 37T42Tlà

ba nước trong cùng khu vực cũng có quan hệ lâu đời với Việt Nam. Tính chất, nội dung của

quan hệ giữa Việt Nam và ba nước trên có liên quan chặt chẽ đến sự nghiệp bảo vệ và phát

37TNhìn chung, quan hệ ngoại giao của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 19 có rất nhiều đối

triển đất nước Việt Nam.

tượng để nghiên cứu. Song không gian chính vẫn là Việt Nam với các quốc gia láng giềng phía

Bắc như Trung Quốc, phía Nam và Tây Nam như: Xiêm La, Vạn Tượng, Chân Lạp và mở

37TThời gian nghiên cứu được xác định trong nửa đầu thế kỷ 19, từ thời Gia Long cho đến

rộng sang nước Pháp.

37TĐể có cơ sở phân tích, lí giải vấn đề, luận án sẽ mở rộng thời gian ngược về trước thời

đầu thời Tự Đức (1802 - 1858).

Gia Long để có thể trình bày vấn đề một cách hệ thống hơn.

4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu:

42TUPhương pháp nghiên cứưU.

37TTrong quá trình thực hiện đề tài, tác giả dựa trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học để trình bày

phân tích, nhận định các mối quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn, từ đó rút ra bản chất, quy

luật, khuynh hướng chủ đạo của sự vận động, phát triển các sự kiện hiện tượng lịch sử. Hơn

đâu hết, với một vương triều có thể nói là hết sức phức tạp 6T37Tlâu 6T37Tnay vẫn tồn tại nhiều quan điểm

đánh giá khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau, việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể để

nghiên cứu càng là yêu cầu cần đặt lên hàng dầu.

9

37TKhi thực hiện đề tài, tác giả dùng phương pháp hệ thống và so sánh, đối chiếu lịch sử để

nghiên cứu. Tác giả không tách rời quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với toàn bộ những

hoạt động khác của vương triều này đồng thời cũng không tách rời việc nghiên cứu quan hệ

ngoại giao triều Nguyễn với truyền thống quan hệ ngoại giao của nước ta trong lịch sử, với bối

cảnh chung của các 6T37Tnước 6T37Ttrong khu vực. Việc nhìn nhận đối lượng trong tính hệ thống và

trong các mối quan hệ có tính so sánh đó sẽ góp phần làm nổi bật thực chất, đặc điểm và

37T42Tnhững đánh giá khách quan hơn, khoa học hơn về những đóng góp và

có37T42T

hạn 6T37Tchế 6T37Tcủa 6T37Ttriều 6T37TNguyễn nên lĩnh vực ngoại giao cũng như về vai trò, trách nhiệm lịch sử của

42TUNguồn tư liêu

37TLuận án được thực hiện dựa trên nhiều nguồn tư liệu khác 6T37Tnhau:

triều Nguyễn nói chung.

- 37TThư tịch cổ về các nước Đông Nam Á.

- 37TTư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn như bộ “ Đại Nam thực lục”, “Khám Định Đại

Nam hội điển sự lệ “, “Đại Nam liệt truyện”,”Minh Mệnh chính yếu”, “Mục lục Châu bản

triều Nguyễn”, “Quốc triều chánh biên toát yếu”... Những sử liệu này được viết bằng chữ Hán,

tác giả luận án dựa vào bản dịch của Viện sử học.

- 37TCác giáo trình lịch sử Việt Nam, các chuyên đề, luận văn, luận án được viết bằng tiếng

Việt, Pháp, Anh, Nga. Những tài liệu sử học thế giới và Đông Nam Á như: “Lịch sử Trung

Quốc” của Nguyễn Hiến Lê, “Trung Quốc sử lược” của Phan Khoang, “Lịch sử quan hệ Hoa

- Việt” của Quách Đình Dĩ, “Thanh Số 6T37Tcảo”...6T37T”Lịch sử Thái Lan”,” Lịch sử vương quốc Thái

Lan” của Lê Văn Quang, “Lịch sử Đông Nam Á thời cổ”,”Chân Lạp phong thổ ký” của Châu

Đạt Quan, “Lịch sử Lào”, “Lịch sử Lào - Viên Chăn” của Vi-ra-vông (Nguyễn Thế Vĩnh

dịch), “Lịch sử Cam-pu-chia”... Những tài liệu này được sử dụng để thực hiện các nội dung

quan hệ giữa triều Nguyễn với các nước trên.

- 37TCác tư liệu liên quan đến đề thi, từ các tạp chí, báo tiếng Việt và37T42T 37T42Ttiếng Pháp cũng là

nguồn tham khảo quan trọng.

- 37TNgoài ra những tư liệu từ các hội nghị khoa học về triều Nguyễn 6T37Tđược 6T37Ttổ chức

trong 6T37Tnước, 6T37Ttư liệu từ các hội nghị khu vực Đông Nam Á... cũng được 6T37Ttác 6T37Tgiả tham khảo khi

thực hiện đề tài.

10

5. Những đóng góp của luận án:

37TQua sưu tầm, xử lý, nghiên cứu nhiều nguồn tư liệu khác nhau, tác giả nêu lên được các

vấn đề sau:

- 37TKhôi phục một cách hệ thống, hoàn chỉnh về cơ bản lịch sử ngoại giao Việt Nam nửa

đầu thế kỷ 19. Nội dung - thực chất - tính chất của các mối quan hệ ngoại giao trên.

- 37TLuận án xác lập những tiền đề văn hóa, chính trị, lịch sử để làm sáng tỏ những đặc điểm

có tính quy luật trong việc hoạch định những 6T37Tđường 6T37Tlối, chính sách ngoại giao của triều

Nguyễn. Trên cơ sở đó, luận án nêu lên những đóng góp và hạn chế của quan hệ ngoại giao

triều Nguyễn, tác động của nó đối với tiến trình lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19.

- 37TTrên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nhận định, đánh giá đã có về ngoại giao triều

Nguyễn, tác giả mong muốn đưa ra vài kết luận theo nhận thức mới về triều Nguyễn, về giai

cấp phong kiến và chế độ phong kiến trong lịch sử dân tộc.

- 37TTừ 6T37Tnhững kinh nghiệm ngoại giao của triều Nguyễn cũng như của lịch 6T37Tsử ngoại giao

thời phong kiến, luân án góp37T42T 37T42Tphần rút ra những bài học có tính thực tiễn đối với ngoại giao thời

hiện đại.

11

CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM

NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19

1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỷ 19:

37TMột nội dung quan trọng của lịch sử thế giới thời cận đại vào đầu thế kỷ 19 là sự phát

triển và toàn thắng của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Châu Âu và Bắc

Mỹ 6T37Tđã 6T37Ttiến hành Cách mạng tư sản từ thế kỷ 16 và đến những năm 6T37T50 6T37Tcủa thế kỷ 19 thì hoàn

thành cách mạng tư sản. Chủ nghĩa tư bản37T42T 37T42Ttrở thành hệ thống thế giới và giai cấp tư sản trở

thành giai cấp thống trị - có quyền lực vô hạn về kinh tế. Để phát triển và tăng cường lợi nhuận

về kinh tế, giai cấp tư sản đã cách mạng hóa công nghiệp, cải tiến kỹ thuật thực hiện cuộc cách

mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 cho đến giữa thế kỷ 6T37T19, 6T37Tđể đưa lại một nước thay đổi lớn lao

trong kinh tế. Lao động bằng máy móc ra đời, thay thế cho lao động thủ công chân tay

37TTrong nửa đầu thế kỷ 6T37T19, 6T37Tdo 6T37Tnhững 6T37Ttiến bộ vượt bậc về kinh tế của khoa học kỹ thuật thời

đã 6T37Tđưa 6T37Tnăng suất lao động lên cao chưa từng có.

cận đại, giai cấp 6T37Ttư 6T37Tsản ở các cường quốc phương Tây đã có thể tiến xa hơn trong hành trình

tìm kiếm và khám phá ra những vùng đất xa xôi mà trước khi họ chưa có khả năng, điều kiện

để đặt chân đến. Lợi dụng 6T37Tnhững 6T37Tphát kiến về địa lý, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, giai

cấp tư sản phương Tây tăng cường tìm kiếm xâm lược thuộc địa nhằm đáp ứng cho sự phát

triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở chính quốc. Một trong những nhân tố tạo điều kiện thuận

lợi cho việc tìm kiếm và37T42T 37T42Txâm lược thuộc địa của tư bản Âu - Mỹ là sự tiến bộ của 6T37Tngành 6T37Tgiao

thông vận tải. Năm 1830, trên 6T37Tthế 6T37Tgiới có không quá trên 332 km đường sắt, đến năm 1870 con

số trên trở thành 200.000 km. 6T37TNăm 6T37T1807, chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước đầu tiên xuất hiện

trên thế giới, đến 6T37Tnăm 6T37T1836 ở Anh - một trong những 6T37Tnước 6T37Tđầu tiên làm cách mạng 6T37Ttư 6T37Tsản

37TNgoài sự phát triển của đường sắt, đường thủy, đường hàng không cũng đạt những thành

thành công - đã có 500 tàu thủy hoạt động.

tựu đáng kể. Ngành viễn thông cũng đã phát triển nhanh chóng và tạo điều kiện thuận lợi tăng

cường sự hiểu biết của phương Tây đối với phương Đông hoang sơ và giàu có. Cuộc cách

mạng công nghiệp đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ 18, 19 đã tạo điều kiện cho việc

mở mang đất của thực 6T37Tdân 6T37Tđược tăng cường. Những đế quốc dần hình thành với nhiều vùng

đất, nhiều dân tộc khác nhau.

12

37TNhư vậy, vào đầu thế kỷ 19 cùng với sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản trên thế giới là sự

tăng cường xâm nhập và 22T37Tnô 22T37Tdịch thuộc địa của phương Tây. Quá trình phát sinh, phát37T42T 37T42Ttriển của

chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự xâm lược thuộc địa. Ngay trong buổi bình minh của chủ nghĩa

tư bản, vào thế kỷ 16 thì đại bộ phận của châu Mỹ - Latinh đã trở thành thuộc địa của đế quốc

Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nhiều vùng duyên hải châu Á, châu Phi cũng không 11T37Tthoát 11T37Tkhỏi số

phận trở thành thuộc địa của tư bản phương Tây. Từ cuối thế kỷ 18 vì những lý đo kinh tế 22T37T-

chính 22T37Ttrị như đã trình bày, việc xâm chiếm thuộc địa được 11T37Tgiai 11T37Tcấp tư sản thống trị các nước

đẩy mạnh. Nói một cách khác, chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển thì nguy 11T37Tcơ 11T37Tđe đọa độc

37TGiai cấp tư sản phương Tây đã đi khắp nơi trên thế giới để tìm đến mọi mục tiêu có thể

lập của các nước phương Đông càng trở nên nghiêm trọng.

thâm nhập. Họ không từ bất cứ một thủ đoạn nào từ mua chuộc, lừa bịp đến dùng vũ lực, đàn

áp quân sự và núp dưới chiêu bài đi truyền giáo, thương mại... để che đậy âm mưu xâm lược

37THầu hết các nước tư bản phương Tây đều có những lý do xác đáng để biện minh cho việc

của mình.

đi tìm và xâm chiếm thuộc địa của mình. Chính sách bành trướng thuộc địa là động cơ chung

lôi cuốn các37T42T 37T42Tnước châu Âu, và nội dung chủ yếu trong đường lối đối ngoại của tư bản phương

Tây là xâm lược thuộc địa. Thuộc địa là nơi có ý nghĩa quan trọng đặc biệt với chính quốc: nơi

cung cấp lương thực, nguyên liệu, nhiên liệu, nhân công; nơi tiêu thụ hàng hóa của chính quốc

và đem lại nguồn lợi 11T37Tnhuận 11T37Tkếch xù cho nhà tư bản. Do tầm quan trọng của thuộc địa như vậy,

nên giai cấp tư sản phương Tây đã bất chấp mọi luật lệ, quyền lợi của các dân 11T37Ttộc 11T37Tphương

37TVào thế kỷ 19, hầu hết các quốc gia châu Á, Phi, Mỹ - Latinh đang ở trong giai đoạn phát

Đông để tìm cách xâm nhập vào châu Á, Phi, Mỹ - Latinh.

triển của chế độ phong kiến. Ở một số 22T37Tnước 22T37Tthuộc châu Phi 22T37Tcòn 22T37Tở trong tình trạng bộ lạc và

thậm chí đang còn tồn tại chế độ cộng sản nguyên thủy. Đầu thế kỷ 19 châu Phi đã tự làm suy

yếu mình bởi những cuộc xung đột và nội chiến liên miên và trở thành đối tượng cho tham

37TCùng số phận với châu Phi là khu vực châu Mỹ - Latinh, nhiều đất đai ở37T42T 37T42Tchâu Mỹ -

vọng của các quốc gia tư bản Tây phương.

Latinh bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm chiếm. Đến đầu thế kỷ 19 thì toàn bộ châu Mỹ -

Latinh đã mất độc lập. Thực dân phương Tây đã tìm mọi cách thiết lập trật tự của chúng trên

13

khu vực châu Mỹ - Latinh nhằm kìm hãm các dân tộc châu Mỹ - Latinh trong yếu kém, lạc hậu

37TBước vào thế kỷ 19, châu Á đang ở trong giai đoạn phát37T42T 37T42Ttriển của chế độ phong kiến.

để dễ bề thống trị và nô dịch.

Nhìn riêng lẻ từng quốc gia thì chúng ta thấy vẫn có sự phát triển 6T37Tnhất 6T37Tđịnh nhưng so sánh với

phương Tây37T42T 37T42Tđã tiến hành cách mạng công nghiệp thì châu Á có trình độ phát triển chậm chạp

và kém hơn. Đa số các vương quốc phong kiến châu Á đều có nền kinh tế nông nghiệp, kỹ

thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp, chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến phần nào

triệt tiêu động lực sản xuất của người lao động, đời sống nông dân, nhân dân lao động nói

chung lâm vào cảnh bần cùng. Công - thương nghiệp cũng chẳng khá hơn, mọi hoạt động của

thương mại đều bị trở ngại lớn, đó là chính sách “bế quan” , một chính sách mà hầu như nước

37TTrung Quốc, Nhật Bản, Xiêm La, Việt Nam... đều từ chối mở cửa thông thương với bên

châu Á nào cũng áp dụng như một cách tự vệ trước nguy cơ xâm nhập của phương Tây.

ngoài. Tại Trung Quốc chính sách này được tăng cường từ giữa đời Thanh. Cuối thế kỷ 18 đến

đầu thế kỷ 19, nhà Thanh chỉ mở một cửa biển Quảng Châu để thông thương với nước ngoài.

Nhật Bản dưới sự trị vì của Xô-gun cũng đóng cửa không chịu thông thương với nước ngoài

và chỉ mở cửa bể Nagasaki. Xiêm, Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á cũng khước từ

mọi đề nghị thông thương của phương Tây, trong khi “điều quan trọng là chủ nghĩa tư bản

không thể tổn tại và phát triển rộng nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của

nó, không khai thác những xứ sở mới và không lôi cuốn các xứ sở cũ không phải tư bản chủ

nghĩa vào cơn lốc kinh tế thế giới” [35,766]. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nhu cầu

thuộc 6T37Tđịa 6T37Tcàng gia tăng, giai cấp tư sản tìm mọi cách mở cửa vào thị trường châu Á, trong

khi 6T37Txã 6T37Thội châu Á vẫn tiếp tục ở trong “giấc mộng của sự bế quan”. Các nước châu Á từ chối

quan hệ với phương Tây, cố thủ trong một đường lối đối ngoại “tự cô lập”. Tất cả điều đó

khiến cho châu Âu ý thức được ưu thế của mình, người phương Tây thực tế hơn, khoa học hơn

và vật chất hơn trong công cuộc đi chinh phục đất đai. Họ đã lợi dụng sự lạc hậu, yếu kém về

kinh tế, chính trị, xã hội của các nước châu Á để bắt ép hoặc dùng ưu thế về sức mạnh quân sự,

buộc giai cấp cầm quyền các nước này “mở cửa”, mở đường cho công cuộc đi “khai hóa” một

cách có hệ thống vào đầu thế kỷ 19. Lịch sử của phong trào đấu tranh chống thực dân đầu thế

kỷ 19 ở phương Đông cho thấy một điều là giáo, mác, gươm, đao không thể nào đương đầu nổi

với vũ khí kỹ thuật tối tân của phương Tây. Tuy nhiêu tinh thần và ý chí bất khuất của

các 6T37Tdân 6T37Ttộc châu Á buộc kẻ đi xâm lược phải kính phục. Sự thất bại của các37T42T 37T42Tcuộc kháng chiến

14

chống xâm lược ở một số nước phương Đông sau này do nhiều nguyên nhân: Đó là sự yếu

kém về tiềm lực đất nước, sự cô lập với thế giới bên ngoài dẫn tới sự kém nhạy bén với tình

hình phương Tây, sự lạc hậu về kỹ thuật tác chiến v.v...Và quan trọng hơn đó là tình trạng chia

cắt, biệt lập trong đa phần các nước châu Á, điều này tạo điều kiện cho thực dân dễ dàng thực

hiện chính sách “chia để trị”. Thực tế lịch sử ở Ấn Độ cho thấy, khi Anh chiếm Ấn Độ, đất

nước này đang bị chia cắt thành 560 lãnh địa (gọi là công xã nông thôn), các lãnh chúa của các

công xã lại luôn gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Các Mác đã tả về sự tồn tại của các công

xã trên như một bằng chứng sinh động và chân thực về xã hội của phần lớn các vương quốc

châu Á trước lúc người da trắng đến: “ Những công xã ấy đã hạn chế lý trí con người trong

những khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói

buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của các quy tắc cổ truyền, làm cho nó mất hết mọi sự vĩ

đại, mọi tính chủ động lịch sử” [46,559]. Không riêng gì Ấn Độ, Nhật Bản thời kỳ này tình

trạng cát cứ giữa các phiên cũng là nguyên nhân hạn chế rất lớn đến sự phát triển của đất nước

này. Nước Lào từ năm 1700 cũng bị chia cắt thành hai xứ: Luang - Phabang và Vientiane, gần

37TVề phía giai cấp cầm quyền phong kiến châu Á, đứng trước nguy cơ đe dọa độc lập quốc

100 năm sau mới thống nhất, nhưng sau đó luôn bị các nước lớn xâm lấn, chia cắt...

gia, họ lại thi hành một chính sách đối nội không đáp ứng yêu cầu và quyền lợi của đất nước,

của dân tộc. Nhà nước phong kiến sử dụng ngân sách quốc gia vào những việc không cần

thiết: xây lâu đài, lăng mộ v.v...Trong lĩnh vực ăn chơi phung phí thì vua quan nhà Thanh

(Trung Quốc) là ví dụ tiêu biểu nhất. Đặc biệt khi thuốc phiện được đưa vào Trung Quốc, thì

phần lớn quan lại, quân lính Trung Quốc đâm ra nghiện ngập tạo nên sự tha hóa trong bộ máy

chính quyền nhà nước. Ở Việt Nam các vua Nguyễn trước nguy cơ mất nước vẫn thực hiện

37TĐa số giai cấp thống trị châu Á về cơ bản thiếu một sự chuẩn bị đối phó với nguy cơ

việc xây lăng mộ quy mô và tốn kém (việc xây dựng Vạn niên cơ của vua Tự Đức).

ngoại xâm, không tích cực xây dựng, củng cố quốc phòng, chấn hưng và phát triển kinh tế,

thực hiện việc đổi mới vế các mặt chính trị, kinh tế, quân37T42T 37T42Tsự, văn hóa, tự mình làm suy yếu

mình. Trong tình thế đó, nhân dân dù có tinh thần chống xâm lược rất ngoan cường, cuối cùng

giai cấp phong kiến cũng phải nhượng bộ thực dân. Như vậy, sự phát triển mạnh mẽ của chủ

nghĩa tư bản thế giới trong đầu thế kỷ 19 là tiền đề dẫn đến việc tăng cường chính sách bành

trướng thuộc địa của các cường quốc tư bản. Châu Á là một trong những mục tiêu mà tư sản

15

phương Tây chú ý và tìm cách xâm37T42T 37T42Tnhập. Phần lớn các quốc gia phong kiến ở đây đã không tự

37TTrong cuộc chạy đua vào châu Á , tư bản Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan... là những nước chiếm

bảo vệ nổi mình và trở thành miếng mồi của chủ nghĩa thực dân.

được nhiều thuộc địa hơn cả. Riêng khu vực Đông Nam Á, Anh và Pháp đã khống chế nhiều

vùng kinh tế - chính trị quan trọng của con đường biển từ Âu sang Á. Tây Ban Nha và Bồ Đào

Nha chiếm khu vực đảo (Indonesia, Philippin). Anh, Mỹ khống chế các vùng Đông Bắc Á,

37TTại Đông Nam Á (South East Asia), một khu vực địa lý, lịch sử quan trọng, từ thế kỷ 16

Nam và Tây Nam Á...

đến đầu thế kỷ 19 cũng bắt đầu quá trình suy thoái. Đối diện với văn minh phương Tây và với

nguy cơ xâm37T42T 37T42Tnhập của tư bản nước ngoài, giai cấp phong kiến cầm quyền các vương quốc

ở37T42T 37T42Tkhu vực Đông Nam Á đều lúng túng, bế tắc. Sự trì trệ của chế độ phong kiến đa

góp 6T37Tphần 6T37Tlàm cho giới thống trị luẩn quẩn không tìm thấy đối sách thích hợp để thay đổi vận

37TTrong suốt ba thế kỷ (thế kỷ 16 đến thế kỷ 19) các nước Đông Nam Á 6T37Tđã 6T37Tkhông có một

mệnh đất nước và bắt kịp được vận hội mới của thời đại.

cải cách, canh tân gì 6T37Tnhằm thúc 6T37Tđẩy kinh tế 6T37T- xã 6T37Thội phát37T42T 37T42Ttriển theo kiểu của nước Nhật: “Các

xã hội truyền thống 6T37Tđã 6T37Tbóp chết tư tưởng cách 6T37Ttân 6T37Tliên kinh tế ngày càng đi vào suy vi,

tính 6T37Tphân 6T37Tliệt ngày càng lớn. Sức mạnh của nền thống nhất để duy trì độc lập trong những giai

đoan trước không còn nữa. Cuối thế kỷ 19 lần lượt các nước đều trờ thành thuộc địa hoặc vùng

ảnh hưởng của thực dân phương Tây” [13,31]. Sau khi tìm ra đường biển sang phương Đông,

người châu Âu lần lượt đến Đông Nam Á. Năm 1511 đánh dấu một mốc quan trọng trong việc

chinh phục vùng Đông Nam Á của thực 6T37Tdân 6T37Tphương Tây. Bồ Đào Nha chiếm Malacca. Năm

1790, Anh chiếm đảo Penang mở đầu việc xâm chiếm Malaysia, một năm sau Malaysia lần

lượt bị Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh xâm chiếm. Philippin cũng bị Tây Ban Nha dần dần thôn

tính từ giữa thế kỷ 16. Indonesia cũng bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan xâu xé và vào

năm 1811, Hà Lan độc chiếm được nước này. Singapo thì bị Anh chiếm vào năm 1824, Anh

thành lập “đất thuộc địa 11T37Teo 11T37Tbiển” , sáp nhập Singapo vào lãnh thổ của Anh. Tại Miến Điện,

thực dân Anh 6T37Tđã 6T37Ttiến hành ba cuộc chiến tranh vào các năm 1824 - 1826, 1826 -1853 và

37TThực dân Pháp thì tìm cách vào Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia).

1885 6T37Tđể 6T37Tthôn tính đất nước này. Sau khi chiếm Miến, Anh tiếp lục thôn tính Brunei.

16

37TNhư vậy vào37T42T 37T42Tthế kỷ 19 các nước tư bản 6T37TÂu 6T37T- Mỹ đã kỹ nghệ hóa và37T42T 37T42Tthị trường châu Mỹ,

châu Âu đã được phân chia ổn định nên các nước tư bản chỉ còn cách tìm đường sang các đại

lục khác. Đầu tiên tư bản tìm cách bành trướng vế kinh tế (expansion fínancière), rồi tiến đến

đô hộ chính trị, chiếm thuộc địa và lập khu vực 6T37Tảnh 6T37Thưởng 6T37Tkinh tế (zone 6T37Td' 6T37Tinfluence

économique...). 6T37TĐể 6T37Tđạt được mục đích đó, giai 6T37Tcấp tư sản đã quét sạch mọi trở ngại, mở con

37TTrong thế kỷ 19, Đông Nam Á 13T37Tđã 13T37Ttrở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương

đường khai thông từ Ân sang Á bằng những cuộc chiến tranh đẫm 6T37Tmáu.

Tây. Tại khu vực này chỉ có nước37T42T 37T42TXiêm La vẫn giữ được độc lập về chính trị. Thực chất Xiêm

chỉ độc lập về mặt hình thức, bởi bị ràng buộc hàng một loạt các hiệp ước bất bình đẳng được

37TTrong bối cảnh của cả khu vực như vậy, Việt Nam không thể đứng ngoài những biến

ký với Anh, Pháp, Hà Lan, Hoa Kỳ, Nhật, Đức...

động chính trị 6T37Tmà tư 6T37Tbản phương Tây tạo nên trong quá trình tìm kiếm thuộc địa và khu vực

37TViệt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực mà thực dân Pháp ráo riết tìm cách

ảnh hưởng.

đặt ách thống trị, đặc biệt là sau khi Pháp thất bại với Anh trong việc tranh giành quyền lợi trên

37TCũng 6T37Tnhư 6T37Tcác quốc gia khác ở Đông Nam Á, Việt Nam không có điều kiện, khả năng đi

bán đảo Ấn Độ từ cuối thế kỷ 18.

theo con đường của Nhật Bản, hoặc ở37T42T 37T42Ttrong hoàn cảnh như Xiêm La. Giai cấp thống trị phong

kiến Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 được lịch sử đặt ra những thử thách và chọn lựa vô cùng

nghiệt ngã: giữ vững độc lập nước nhà hay để mất nước vào tay thực dân đế quốc. Trong bối

cảnh lịch sử đó, các vua đầu triều Nguyễn đã có 6T37Tnhững 6T37Tcống hiến cũng như đã để lại những di

hại cho Tổ quốc.

1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19:

37TViệt Nam vào đầu thế kỷ 6T37T19 6T37Tnằm dưới sự trị vì của vương triều Nguyễn. Lịch sử đã ghi

nhận dưới triều Nguyễn Việt Nam là một nước thống nhất sau mấy trăm năm phân tranh, loạn

lạc. Triều Nguyễn đã xây dựng Việt Nam thành một nước có quy mô và gây được uy thế trong

vùng. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi, tái lập chế độ chuyên chế, từng bước xây dựng và

củng cố hệ thống cai trị. Triều Nguyễn được kiến thiết trong những 6T37Thoàn 6T37Tcảnh hết sức khó

khăn, gian khổ, nên Gia Long khi lập đế nghiệp đã tận tâm, nổ lực, kiên trì và khôn khéo để ổn

định chính sự, vỗ yên lòng dân, khôi phục kinh tế. Tuy nền quân chủ Việt Nam được phục hồi

17

trong cái xu thế tan rã chung của chế độ phong kiến trên thế giới từ đầu thế kỷ 17, nhưng bước

6TVề chính 6T37Ttrị - 6T37Txã hội, Gia 6T37TLong 6T37Tđã 6T37Tthiết 6T37Tlập lại 6T37Tbộ 6T37Tmáy 6T11Tchính 6T11Ttrị quân 6T11Tchủ, 11T37TVua là người

đầu Gia Long cũng đã ổn định lại được tình hình đất nước ta sau gần 30 năm chiến tranh.

đứng đầu nhà nước, có quyền lực vô hạn không một thứ quyền nào khống chế được. Mệnh

lệnh nhà vua ban ra phải được thi hành triệt để như điều 60 bộ luật Gia Long tin quy định “ai

nhận chế thư mà không thi hành sẽ bị tội đánh 13T37T100 13T37Ttrượng, nếu chậm thi hành thì bị tội xuy

đánh mỗi ngày 50 roi”. Dưới nhà vua, có 6 Bộ: bộ Lại, bộ Hình, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ

Công. Đứng đầu mỗi bộ là một vị quan chức thượng thư rồi đến các chức Tả, Hữu tham tri, Tả,

Hữu thị Lang. Ngoài ra có các cơ quan chuyên môn như: Đô sái viện, Hàn lâm viện, Thái y

viện... Nhưng để tập trung quyền lực Gia Long đặt ra lệ “Tứ bất” (không đặt chức Tể tướng,

không lấy Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu, không phong tước vương cho người khác).

Đến thời Minh Mạng, ông đặt thêm Cơ mật viện lấy 4 đại thần ở các bộ để cùng vua bàn bạc

việc quân quốc quan trọng. Minh Mạng còn đặt Tôn Nhân Phủ để quản lý việc của Hoàng gia.

Quyền hành quốc gia tập trung vào vua một cách tuyệt đối, phản ánh quá trình tập trung quân

chủ cao độ ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 19. Vua là thiên tử thay trời trị dân37T42T 37T42Tvà trong hoàn cảnh

rối ren, mong manh của thời hậu chiến, việc tập trung quyền lực như là biện pháp nhằm thúc

đẩy nhanh sự ổn định trong cả nước tuy nhiên sự tập trung quyền lực một cách tuyệt đối cũng

đã tạo ra mội khoảng cách lớn giữa vua với dân chúng, khiến cho vua khó tiếp cận với dân

21TVề 21T37Tquản lý hành chánh, Gia Long sắp đặt cơ cấu hành chính căn bản. Đây là lần đầu tiên

tình.

ở nước ta các tổ chức hành chính được xếp đặt rất qui củ theo nguyên tắc tập trung. Cả nước

được chia thành 23 trấn 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc Thành, từ Bình Thuận trở vào

gọi là Gia Định Thành. Cai quản Bắc Thành và Gia Định Thành là tổng trấn và phó tổng trấn.

Miền Trung có kinh đô Huế chịu sự cai trị trực tiếp của Triều đình Huế. Từ thời Minh Mạng

trở đi, chế độ trung ương tập quyền được tăng cường, Bắc Thành và Gia Định Thành bị bãi bỏ,

cả nước được chia thành 29 tỉnh, đồng thời vua còn đặt thêm chức quan ở37T42T 37T42Tmiền núi nhằm ổn

định trật tự trong cả nước theo nguyên tắc chung, và điều này tạo nên sức mạnh cho hệ thống

37TTheo tác giả của bộ “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” [95] thì hệ thống chính trị của

chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 19.

Việt Nam dưới thời Nguyễn là quan liêu, độc đoán .v.v...Thực ra trong bối cảnh lịch sử Việt

Nam từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, để thiết lập lại trật tự kỷ cương từ lâu bị xao lãng bởi

18

chiến tranh liên miên, cần phải có sự tập trung chuyên chính cao độ của nhà nước trung ương

tập quyền. Điều cơ bản là những ông vua đầu triều Nguyễn đều chăm lo việc nước, có trách

nhiệm với nước với dân. Theo John Barrow trong cuốn “Voyage à la Cohinchine” thì Gia

Long là một vị vua chăm chỉ và mẫu mực về cần chính “sáng 6 giờ ông đã thức dậy và tắm

nước lạnh, 7 giờ tiếp kiến các quan lại.. Đến trưa có khi một giờ ông mới ăn trưa và ăn tại hải

xưởng. Hai giờ chiều ông mới về Cung ngủ đến 5 giờ...Sau đó ông lại tiếp các võ quan thủy

bộ, các quan ký lục cai bạ, chấp thuận hay sửa chữa các dự án đề nghị. Các việc nước này làm

ông bận rộn tới nửa đêm...Tóm lại, vua Gia Long trong 24 giờ một ngày chỉ nghỉ chừng 6 giờ”

[140, 269]. Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng là những ông vua cần mẫn, chịu khó trong

công việc trị nước. Minh Mạng tự mình xem và phê duyệt tất cả những chương sở37T42T. “ 37T42TQuốc

triều chính biên toát yếu” viết: “Ngài minh thận việc chính trị: phàm những chương sớ trong

ngoài dâng lên, Ngài đều xem hết, việc thường, thời điện dụ cho các Nha, nghị chỉ phê phát,

còn việc quan trọng thời phần nhiều Ngài nghị soạn lời chỉ, hoặc giao bản thảo, hoặc châu phê.

37TNhìn chung, các vua Nguyễn 13T37Tđã 13T37Tcó những đóng góp nhất định trong các chính sách đối

Những tờ chỉ dụ triều đình mới có châu37T42T 37T42Tbản từ đây là đầu” [69, 108].

nội, nhằm thiết lập lại kỷ cương trật tự trong nước, ổn định chính sự và lòng người. Gia Long

khi mới đến Bắc hà đã ủy lạo, kêu gọi quan lại triều cũ, cùng nhân sĩ ra cống hiến tài năng cho

việc xây dựng tổ quốc. Dụ của Gia Long viết: “ Buổi này là buổi dấy điều giao hảo và sửa việc

chính trị, nhân tài ở đời, lẽ nào trọn đời bạn cùng cây cỏ. Vậy nên chuyển báo với nhau đến nơi

hành tại trình tiền quân Nguyễn Văn Thành... đem vào yết kiến. Trẫm sẽ xét lời nói, thử công

việc, tùy tài bổ dụng, để cho người hiền kẻ tài có chức vị, hiệp ý bày mưu, giúp nên chánh đạo”

[69, 49]. Để lấy lòng dân và tránh các vụ biến chính trị lấy danh nghĩa “phò Lê”, Gia Long

phong cho con cháu nhà Lê là Lê Duy Hoán làm Diên Tự Công “cấp 1.016 tên 6T37Ttừ 6T37Tphu, 100.000

mẫu tự điền, lại tha binh và thuế thân cho con cháu nhà Lê, cấp 500 mẫu tư điền cho họ Trịnh,

37TCho con cháu mấy ông khai quốc Công thần và trung hưng, Công thần nhà Lê đều được

khiến Trịnh Tư coi việc tế tự, lại tha binh diêu thuế thân cho 240 người con37T 37Tcháu họ Trịnh.

37TNgoài ra, để giảm bớt khó khăn cho 6T37Tdân, 6T37TGia Long miễn thuế trong mấy năm đầu và cấp

dự vào hàng Nhiêu ấm tức là hạng tha việc quan và đi lính”[69. 51]

vốn cho dân cày cấy, lập kho cứu tế... đây là những biện pháp nhân đạo, tiến bộ, dù trên thực tế

những chính sách an 6T37Tdân 6T37Tđó khó đến được với dân chúng một cách đồng đều, do tầng lớp quan

lại địa phương tham ô, bớt xén.

19

37TGần 20 năm trị vì đất nước, những việc mà Gia Long đã làm cũng cần được lịch sử ghi

nhận một cách công bằng. Ông đã khôi phục trật tự xã hội - đưa một 6T37Txã 6T37Thội “chính sự loạn lạc”

vào khuôn phép nề nếp, vận hành ổn định, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi về cơ bản

an ninh trật tự trong nước (trừ những vùng xa xôi, hẻo lánh). Toàn bộ sinh hoạt đất nước được

chỉnh trang, đường sá trạm dịch được đặt lại. Đoạn văn miêu tả sau đây sẽ giúp chúng ta hình

dung quang cảnh giao thông được cải thiện thời 6T37Tấy: 6T37T“Đầu thế kỷ 19, vua Gia Long tu bổ con

đường thiên lý ấy lại (con đường cái quan to nhất) để làm đường liên lạc 6T37T3 6T37Txứ Bắc – Trung -

Nam, cứ cách 15 km lại đặt một nhà trạm, có phu trạm” 6T37T[2, 87] 6T37Tđường bộ chủ yếu là đường

quan báo (Route mandarine) phu được nhà nước trả tiền. “cứ 6T37T1.000 6T37Ttrượng đường thì phát

10.000 phương thóc” [87, 9]. Sinh hoạt xã hội trở lại thời bình, pháp luật chính lệnh thống

nhất 6T37Ttừ 6T37TNam ra Bắc 6T37Tdưới một 6T37Tchế 6T37Tđộ 6T37T(cho đến cuối 6T37T1815 6T37Tnước ta vẫn22T37T 6T22Táp 6T37Tdụng luật pháp nhà Lê,

năm 1811 Gia Long đã cho biên soạn bộ luật mới cho phù hợp với quốc gia thống nhất và

37TTừ tình hình chính trị - xã hội nêu trên, có thể nói Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 đã trở

1815 bộ luật Gia Long được ấn hành)

thành một vương quốc phong kiến lớn mạnh, đặc biệt vào thời Minh Mạng Việt Nam xứng

đáng là Đại Nam, uy tín của nước ta được lân bang thừa nhận, thanh thế Việt Nam được

khuyếch trương trong khu vực. Một điều không thể phủ nhận là đời sống xã hội Việt Nam

thỉnh thoảng lại bị xáo động bởi những cuộc nổi 11T37Tdậy 11T37Tchống đối lại triều đình, quan lại hà khắc,

có những vụ nổi dậy lớn như của Phan 11T37TBá 11T37TVành, Nông Văn Vân, Cao Bá Quát... Nhưng không

thể cho rằng đây là nội dung chủ yếu của thời kỳ lịch 6T37Tsử 6T37Tnày hoặc từ đó cho rằng tình hình xã

hội Việt 6T37TNam 6T37Tkhông khi nào ổn định. Nếu xét nội dung của tiến trình lịch sử Việt Nam đầu thế

kỷ 19 thì những cuộc nổi dậy 6T37Tmang 6T37Txu hướng chống đối triều Nguyễn chỉ là một trong những

nguyên nhân tạo nên cục diện chính trị bất ổn, trong khi nội dung quan trọng của tiến trình lịch

sử đầu thế kỷ 19 chính là sự tăng cường vững mạnh của chế độ chính trị Việt Nam so với các

nước trong khu vực. Vương triều Nguyễn đã được công nhận là bộ máy chính quyền chủ động

điều khiển vận mệnh tình thế quốc gia, mở mang bờ cõi (đặc biệt vào thời vua Minh Mạng), an

ninh quốc phòng được giữ vững và hiệu quả hơn trước. Sức mạnh của chính quyền phong kiến

trung ương tập quyền đầu thời Nguyễn còn được thể hiện ở tổ37T42T 37T42Tchức quân đội có quy mô và

thích ứng với sinh hoạt kinh tế nông nghiệp. Việc duy trì số quân lớn nhưng không 6T37Tgây 6T37Txáo

trộn trong sinh hoạt xã hội 6T37Tbởi 6T37Ttriều Nguyễn sử dụng phương pháp tuyển binh khéo léo, linh

hoạt theo phép gian 6T37Tbinh 6T37Tvà lệ biền binh. Phép giãn binh được áp dụng từ Quảng Bình vào

20

Bình Thuận cứ 6T37T3 6T37Tsuất đinh lấy một lính; từ Biên Hòa trở vào năm suất đinh lấy một 6T37Tlính; 6T37Ttừ

Bắc sông Gianh trở ra 7 suất đinh lấy một lính. Triều đình cấp thêm một suất ruộng cho người

đi lính để người nhà cày cấy (hương điền). Lệ biền binh nhằm thực hiện chính sách “ngụ binh

ư nông” binh lính chia thành 3 phiên, cứ 2 phiên về quê, 1 phiên tại ngũ, cứ thế luân phiên

nhau. Việc tổ chức phòng vệ quốc gia được thể hiện qua những hệ thống phòng thủ ở những

nơi quan yếu. Các ông vua đầu thời Nguyễn tiêu biểu như Minh Mạng, luôn theo dõi diễn biến

tình hình chính trị trên thế giới để có biện pháp phòng thủ đất nước kịp thời. Khi chiến tranh

Nha phiến bùng nổ ở Trung Quốc, Minh Mạng lập tức tăng cường việc phòng thủ Đà Nẵng và

dọc biển Quảng Nam, vua dụ: “Nay nghe nước Anh Cát Lợi gây hấn với nước Thanh có thể

xảy ra chinh chiến. Nước ta giáp với nước Thanh mà vùng Trà Sơn ở cửa bể Đà Nẵng trước

đây tàu thuyền nước ngoài thường tạm đóng nay cần phải dò xét tuần phòng để vững cửa bể “

37TTừ thời Gia Long quân đội đã được trang bị chu đáo, vào thời điểm quân Nguyễn chiến

[72, III, 275].

thắng Tây Sơn thì quân đội đã lên tới con số “130.000 người: 15 pháo binh, 800 tượng binh

với 200 con, 12.000 ngự lâm quân, 200 tàu thuyền lớn có từ 16 đến 22 đại bác, 500 thuyền nhỏ

có độ 40 đến 44 lay chèo vũ trang, súng bắn đá và một đại bác ở mũi, 100 thuyền lớn từ 50 đến

70 tay chèo và có bố trí nhiều đại bác. Tổng số thủy quân có 17.600 người, trong đó có 1.200

người phục vụ cho 3 chiến hạm mua của người Âu” [ 14, 119 ]. Như vậy một điều thấy rõ là

tuy không có điều kiện được trang bị theo kiểu một đội quân hiện đại, song quân Nguyễn

không hoàn toàn xa lạ với súng ống và chiến hạm châu Âu. Quân đội Triều Nguyễn cũng

không thiếu tinh thần và quyết tâm chiến đấu. Những trường hợp như Võ Văn Tình 70 tuổi,

Nguyễn Công Trứ khi đã về trí sĩ... vẫn xin đi đánh Pháp không phải là cá37T42T 37T42Tbiệt 30T37Tđã 30T37Tphản ánh tinh

thần chiến đấu của quan quân Việt Nam. Nửa sau thế kỷ 19 Việt Nam thất bại trước đội quân

xâm lược nhà nghề của Pháp, như 30T37Tđã 30T37Tnói là do nhiều nguyên nhân, song một điều chắc chắn

rằng 6T37Tquân 6T37Tlính Việt Nam đã chiến đấu dũng cảm và cũng buộc kẻ thù phải kính nể, họ không

37THiện nay giới nghiên cứu đang có những kết luận mới về tình hình 6T37TViệt 6T37TNam dưới thời

nhu nhược sợ hãi và không phải không có khả năng chiến đấu.

Nguyễn vào đầu thế kỷ 19. Những đánh giá nhìn nhận lại đó là thiết thực, nhưng cũng cần thấy

các vua đầu thời Nguyễn đã xây dựng, ổn định hệ thống cai trị trên 6T37Ttoàn 6T37Tlãnh thổ Việt Nam

trên một nền tầng chính trị 30T37Tđa 30T37Tcũ. Từ Gia Long cho đến Minh Mạng chế độ quân chủ được tập

trung cao độ. Việc tập trung quyền binh vào một người sau nội chiến, nhằm điều khiển một đất

21

nước vừa qua gần 30 năm chiến tranh loạn lạc phân ly là hợp lý. Tuy nhiên, chính việc tập

trung đó đã sinh ra chuyên chế, chuyên chế phát sinh ra bảo thủ, vua là duy nhất đúng. Mặt

khác, xét về xu thế phát triển tất yếu khách quan của lịch sử thế giới, thì đến thế kỷ 19 chế độ

phong kiến nói chung đang bước vào giai đoạn tan rã. Sự tan rã của nó là một quá trình hợp

quy luật. Ở Tây Ấu quá trình này bắt đầu từ thế kỷ 16, phương Đông tuy muộn hơn song đến

thế kỷ 18 quá trình này cũng xuất hiện mạnh mẽ. Rõ ràng khi Gia Long tái lập chế độ phong

kiến thì so với tiến trình lịch sử nhân loại, ông dã không bắt kịp xu thế phát triển của thế giới,

điều này tạo nên sự cách biệt trong trình độ phát triển của Việt Nam trong tương quan với

37TSau khi lên ngôi, vua Gia Long đã đối diện với một thực trạng kinh tế tiêu điều sau chiến

phương Tây.

tranh. Để tăng gia sản xuất và mở rộng diện tích canh tác37T42T, 37T42Tông đã khuyến khích 6T37Tdân 6T37Tchúng khai

khẩn những ruộng đồi bỏ hoang. Các trung tâm dinh điền, đồn điền được thành lập nhằm khẩn

hoang đất mới. Công cuộc khai hoang đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Nhà nước bỏ

tiền đào kênh thoát nước Thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai hoang

vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên. Nhờ vào những năm tháng hòa bình đầu thời Nguyễn

mà 6T37Tlãnh 6T37Tthổ, diện tích canh tác Việt Nam được mở mang rộng lớn chưa từng có. Trong thế kỷ

19 nhiều vùng đất được khẩn hoang như miền Bình Hòa, Tam Đốc (Ba Ngòi), Trấn Ninh,

Ninh Cường, Hải Các, Quảng Yên, Hải Dương, Thừa Thiên, Quảng Trị, Bình Thuận... Đặc

biệt là vùng Kim Sơn Tiền Hải được khẩn hoang với công sức của Nguyễn Công Trứ và một

số vùng khác 6T37Tcũng 6T37Tđược khai khẩn tốt 6T37Tnhư ở 6T37TAn Giang, Hà Tiên. Dù chính sách và biện pháp

tổ chức khẩn hoang có lợi trước hết cho bọn địa chủ và người giàu có, song khách quan nó

cũng thể37T44T 37T44Thiện sự cố gắng của nhà Nguyễn trong việc đẩy mạnh các hoạt động nông nghiệp,

nhằm phục hồi tình trạng suy sụp của nền kinh 6T37Ttế 6T37Tnông nghiệp Việt Nam. Để đáp ứng các nhu

cầu sản xuất, các vua đầu thời Nguyễn chú yếu xây dựng các công trình thủy nông “Thời Gia

Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước” [16, 308]. Đắp 6T37Tđê 6T37Ttrị

thủy là công việc thường xuyên được 6T37Ttiến 6T37Thành. Năm 1804 Gia Long ban chiếu cho phép

quân 6T37Tdân 6T37Tnêu ý kiến về việc hộ đê, đồng thời phái Bộ Hộ đi khám đê và lấy các ý kiến của quan

lại, dân chúng về việc hộ đê, sau đó xem xét để định lệ thi hành vào 1809. Năm 1811, Gia

Long lại cho đắp đô An Lãng ( Sơn Tây ). Các đời vua từ Minh Mạng tới Tự Đức đều chú ý

đến công tác đê điều, nạo vét sông, ngăn nước mặn...

22

37TMột điểm tích cực trong chính sách kinh tế của triều Nguyễn là việc phân phối lại ruộng

đất, hạn chế nạn kiêm tính ruộng đất công. Năm 1803, Gia Long ra lệnh cấm bán mua ruộng

đất công. Năm 1805, định lại lệ quân cấp các loại ruộng này theo phẩm trật quan lợi và tình

trạng dân chúng, nâng đỡ cô nhi quả phụ ...Đó là những chính sách tiến bộ dưới triều Nguyễn

có tính chất khuyến nông và thực hiện nâng đỡ xã hội. Các vua Nguyễn còn động viên đốc

thúc nhân dân làm ruộng bằng cách cho vay vốn, giúp giống, nếu năm nào tỉnh nào gặp phải

thiên tai vua đều giảm hay miễn thuế cho dân “Thời Gia Long ít ra có 25 trường hợp, thời

Minh Mạng có 31 trường hợp giảm hay miễn thuế” [14-68]. Việc giảm hay miễn thuế dưới các

triều Nguyễn được phản ánh khá rõ trong bài chiếu của Gia Long năm 1816: “Mấy năm nay

dân làm việc khó nhọc, lại gặp mất mùa, ta rất thương lắm, nên khoan miễn cho dân. Kể từ

năm Gia Long Nhâm Tuất trở lên, từ Quảng Bình đến Gia Định còn thiếu tiền, thiếu lúa, thiếu

thuế sản vật bao nhiêu; và năm Quý Dậu, năm Giáp Tuất còn thiếu thuế chánh cung bao nhiêu

đều tha cả; Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Hoa thời

thuế thân và thuế điều năm nay 13T37T10 13T37Tphần giảm 5 6T37Tphần; 6T37TQuảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên,

Bình 6T37TThuận, 6T37Ttrong 1013T37T 6T13Tphần 6T37Tgiảm 2 phần, thuế thân thời 13T37T10 13T37Tphần giảm 4 phần” [69,9l]. Trong

” “chính 11T37Tphủ 11T37Tthiết 11T37Tlập những loại kho dự trữ lúa để dùng trong việc cứu tếP

P [4,139 ]. Nhìn

những tình huống cấp bách, triều Nguyễn cũng có biện 11T37Tpháp 11T37Tcứu trợ kịp thời 11T37Tnhư:

chung, các vua Nguyễn đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực và thúc đẩy kinh tế phục hồi và

37TSo sánh với số đầu đinh và số ruộng của 2 năm 1840 và 1847, chúng ta thấy có một sự

đi 22T37Tlên.

6TSố ruộng/mẫu

6TSố đầu đinh

37TNăm Minh Mạng thứ 6T37T2

6T4.063.892

6T950.561

6TNăm 6T37TThiệu Trị thứ 6T37T7

6T4.278.013

6T1.029.501 [28,86]

37T[146T37T,86]

37TBên cạnh việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, 11T37Thoạt 11T37Tđộng 22T37Tcông 22T37Tthương nghiệp

phát triển đáng kể:

37TĐầu thế kỷ 19, ở Việt Nam đã hình thành một số vùng chuyên hoạt động thủ công như

cũng được chú ý, dù quan điểm “trọng nông ức thương” vẫn còn 11T37Tnặng nề .

làng Phương Dung (Hà Đông) chuyên làm nón, làng Đại Bái (Bắc Ninh) chuyên làm đồ

đồng... ở những làng 22T37Tthủ 22T37T công nghiệp này nghề 22T37Tnông 22T37Tlà hoạt động phụ. Các vùng duyên hải

23

thì người dân sống băng nghề chài lưới, làm muối. Giới công nghệ cũng được vua giúp đỡ.

Năm 1821, vua Minh Mạng tha thuế thân cho thợ mộc, thợ cưa, thợ đóng thuyền ở các làng

thuộc Bắc Thành và Nghệ An. Vun thưởng cho thợ khéo và cấp vốn cho một số ngành, ví dụ

như ngành nấu đường ở Quảng Ngãi, Quảng Nam. “Chính phủ còn can thiệp vào các hoạt

động công nghệ bằng cách đôi khi khuyến khích một vài ngành sản xuất: Năm 1836 vì mua

được từ Trung Quốc loại kén trắng, có chất tơ tốt hơn tầm nuôi tại Việt Nam, vua Minh Mạng

cho các giống tằm trắng đó ra các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Sơn Tây,

Bắc Ninh để thuê người chăn nuôi và thưởng trước cho mỗi tính 20 quân tiền nuôi tằm”

[14,182]. Nhờ vào các biện pháp khuyến khích tích cực như trên, nghề dệt trong thế kỷ 19 có

những tiến triển rõ rệt: “Đời Minh Mạng, Trần Quý phổ biến ngành dệt lụa, đời Tự Đức, Đỗ

37THoạt động công thương được chú ý. “Năm 1837 vua Minh Mạng còn sai chế máy cưa do

Vân Sửu sản xuất gấm ở37T42T 37T42THà Đông” [131,153].

trâu kéo thay chạy bằng hơi nước. Năm 1839 Hoàng Văn Lịch và 11T37TVõ 11T37THuy Chinh đã chỉ huy

thành công việc đóng tàu máy...” [14,58]. Triều Nguyễn còn37T 37Tthành lập ở kinh đô Huế và các

trấn nhiều xưởng chế tạo lớn (gọi là tượng 22T37Tcục). 22T37TDưới thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19 các ngành

37TGia Long khi mới lên ngôi đã cho mở các mỏ vàng, bạc... ở Tuyên Quang, Hưng Hóa và

công nghiệp luyện kim, khai mỏ, 22T37Tchế 22T37Ttạo vũ khí đã có những hoạt động sôi nổi.

giao cho các thổ mục trông coi. Năm 1810 vua lại cho khai mỏ ở37T42T 37T42THải Dương. Thời Minh Mạng

có tới 34 mỏ vàng, 29 mỏ sắt, 14 mỏ bạc, 9 mỏ đồng, 7 mỏ kẽm, 3 mỏ chì, 1 mỏ thiếc được

khai thác. Đời Thiệu Trị, Tự Đức các vua đều quan tâm đặc biệt tới ngành công nghiệp khai

mỏ. Tuy nhiên sự 22T37Tđộc 22T37Tquyền thu mua của chính phủ theo giá quy định cũng gây khó khăn cho

sự mở mang của ngành công nghiệp khai mỏ Việt Nam, đến cuối triều vua Minh Mạng thì

ngành này sa sút dần. Những chính sách, luật lệ phong kiến làm cho những yếu tố kinh 22T37Ttế 22T37Tmới

phát triển khó khăn, chậm chạp.

Về thương nghiệp, đầu thế kỷ 19, việc mua bán trao đổi cũng có những biểu hiện tăng

trưởng. Sản lượng lúa gạo tăng và đây là mặt hàng quan trọng buôn bán trong nước và xuất

khẩu. Theo Nguyễn Thế Anh: “gạo mà các tỉnh Nam kỳ sản xuất có thừa đã gởi tới các tỉnh

miền Bắc và miền Trung với những số lượng quan trọng... riêng đối với các thợ thuyền chở

gạo về kinh, có thể chở gạo tới bán những hạt giáp giới...” [4, 238 - 232]. Căn cứ trên số phát

hành bạc thỏi và vàng dưới triều Gia Long, Minh Mạng lớn hơn nhiều so với thời Trịnh,

Nguyễn, chúng ta có thể đánh giá được hoạt động thương mại của Việt Nam đầu thế kỷ 19.

24

“Xưa kia dưới thời Trịnh - Nguyễn thứ tiền duy nhất được lưu hành là tiền kẽm, tiền này vì ít

giá mà lại nặng nề nên rất bất tiện trong việc sử dụng. Nó chỉ thích hợp với một nền kinh tế tự

túc, ít trao đổi. Trong thế kỷ 19, các vua Gia Long - Minh Mạng đã cho đúc các kim loại quí,

bạc hay vàng làm tiền. Biện pháp này có lợi cho thương mại và có lẽ nó phát sinh từ nhu cầu

mới của thời bấy giờ” [14,61]. Sự cải cách tiền tệ trên trong đầu thế kỷ 19 cũng là một biểu

37TTrong vấn đề thuế khóa, triều Nguyễn cũng có cố gắng đơn giản hơn việc miễn thuế.

hiện tích cực của tài chính thương nghiệp.

“Năm Gia Long thứ 10 (1811), thể theo lời tâu của quan Bắc thành, nhà vua đã giảm bớt số sở

thuế ở Cao Bằng, Thái Nguyên để giúp đỡ giới buôn bán ở đây” [87,61]. Nhà nước còn can

thiệp vào thị trường để điều hòa và giữ giá gạo ổn định cho dân bằng cách: mở kho gạo cho

dân mượn, hoặc bán rẻ cho dân trong trường hợp giá gạo lên cao. Thời Minh Mạng, vua còn

sắc cho các địa phương lấy giá gạo nơi lỵ sở mỗi tháng tâu lên vua một lần v.v...đầu thế kỷ 19

đã có những trung tâm mua bán sầm uất như Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội, Gia Định... thu

37TĐể củng cố triều đại vừa mới kiến lập, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, Gia Long đã đối

hút nhiều người đến buôn bán, trao đổi.

xử tốt với mọi thương gia châu Âu khi họ tới Việt Nam. Có trường hợp quá đáng như trường

hợp hãng buôn Abott and Maitland đã từng cung cấp khí giới cho Nguyễn Ánh - Gia Long, đòi

tăng giá tiền số đạn dược đã bán trước đây cho Gia Định. Gia Long vẫn thỏa mãn yêu cầu trên

của chiếc tàu buôn Pháp. Chủ trương cỏn Gia Long là ưu đãi thương nhân ngoại quốc, đặc biệt

là với người Pháp. Sau đó có nhiều tàu buôn của Pháp tới việt Nam (tàu La Paix đến năm

1817, tàu Henry và tàu La Rose đến năm 1819), tất cả đều được Gia Long đối xử rất tối: Gia

Long đã cấp giấy phép cho các thuyền trưởng, dành cho họ nhiều dễ dãi trong công việc buôn

bán của họ. Hai thuyền Henry và La Rose đã có thể bán hết hàng hóa đưa tới và chở về Pháp tơ

sống, đường và trà.” Năm Kỷ Mão (1819) có chiếc tàu buôn 3 cột tên là “ La Rose” và “ Le

37TTuy tàu thuyền buôn ngoại quốc vẫn đến Việt Nam trao đổi muốn bán nhưng Việt Nam

Henry” vào cửa Đà Nẵng....” [29, 182].

dưới triều Nguyễn cũng như một số nước trong vùng, trước sự bành trướng về mọi mặt của

phương Tây tại châu Á đã thực hiện đối sách “đóng cửa” (bế quan tỏa cảng), không biệt đãi

bất kỳ một nước nào khi tới Việt Nam đề nghị thông thương, để tránh phải dành cho các nước

đó những đặc quyền chính trị, thương mại. Đây là sự cẩn trọng trong quan hệ với phương Tây

25

và không hẳn là sự thể hiện một cách “mù quáng” trong đối ngoại nói chung, và ngoại thương

37TViệt Nam là một nước nông nghiệp nên những chính sách kiểm soát ngặt nghèo mọi hoạt

nói riêng.

động buôn bán với bên ngoài còn nhằm để bảo đảm lợi tức thuế má cho triều đình. Đây là biện

pháp bảo vệ tiền tệ của đất nước. Nhà nước độc quyền về ngoại thương nhưng hoạt động của

tư nhân vẫn tồn tại. Từ năm 1835 đến 1840, có 21 chiếc thuyền được triều đình phái tới các

trung tâm mậu dịch của người Châu Âu đặt ở Đông Nam Á với mục đích mua bán. Sản phẩm

mua bán thường là: tiêu, cau, bông, tơ tằm, đường, cá khô, da voi, quế, xương trâu... Hàng

nhập là: trà, giấy, đồ chơi trẻ em, trái cây khô. Để khuyến khích ngoại quốc tới buôn bán, triều

đình Huế thậm chí có trường hợp miễn thuế cho họ: Năm 1840 nhà buôn người Anh tên là Yết

- Giã đến Đà Nẵng mua đường cát, tỉnh thần đề nghị đánh thuế 1/10 giá trị các hóa vật nhưng

Minh Mạng đã cho miễn thuế. Nhìn riêng lẽ thì mậu dịch giữa Việt Nam với một số nước37T 37Tkhá

phát triển, Theo Nguyễn Thế Anh: “mậu dịch với Tân Gia Ba phát triển: năm 1829 đến 1830

37TThực tế, nhà vua không e ngại xa lánh hàng hóa văn minh Âu - Mỹ mà lo sợ các phần tử

chúng trị giá 383. 273 dollars; năm 1845 là 467. 521 dollars.” [ 4, 274. ]

hoạt động chính trị đi kèm theo các hàng hóa phương Tây ấy. Nhận định sau đây của giáo sư

Trần Văn Giàu về ngoại thương từ nửa đầu thế kỷ 19 là thỏa đáng: “thời Gia Long đến thời

Minh Mạng nền thương mại trong nước và bên ngoài có phục hồi; thương chính thu được là 3

trên 40 triệu, tức 1 phần 13 của ngân sách nói chung” [ 22, 90 ]. Tàu thuyền Việt Nam còn đưa

thổ sản sang bán tại Quảng Châu, Trung Quốc, Tân Gia Ba rồi mua hàng về lại v.v... Những

biến động chính trị bùng nổ dồn dập trên thế giới và trong nước chính là nguyên 6T37Tnhân 6T37Ttrực tiếp

37TVua Thiệu Trị và Tự Đức càng lo ngại hơn khi phải tiếp xúc với các nước Phương Tây,

khiến cho các hoạt động buôn bán này ngừng lại.

37THoạt động ngoại thương chủ yếu tập trung vào việc buôn bán của Hoa Kiều tại Việt

tờ năm 1850, các thuyền buôn không được vua phái ra nước ngoài nữa.

Nam. Hoàn cảnh công thương nghiệp Việt Nam đầu thế kỷ 19 không gặp điều kiện thuận lợi

để phát37T42T 37T42Ttriển, nhưng không đến mức độ sa sút, yếu kém trầm trọng như một số đánh giá đã có

37TNhìn chung, triều Nguyễn thực hiện “đóng cửa” về thương mại với phương Tây, trước

từ trước đến nay.

hết là do yêu cầu phòng vệ. Nhưng hoạt động mua bán, trao đổi với thương nhân ngoại quốc

26

vẫn được duy trì, những đãi ngộ cho người Âu phần nào nói lên chính sách linh hoạt mềm dẻo

37TTheo Nguyễn Thế Anh, năm 1828 Minh Mạng còn gửi thư “hỏi vị kham sự Anh ở37T42T 37T42TTân

của Triều Nguyễn trên lĩnh vực ngoại thương.

Gia Ba tại sao các thương gia Anh đã lại không tới buôn bán tại các thương khẩu Việt Nam”

[4, 266]. Triều đình chỉ khước từ việc ký thương ước chính thức với phương Tây37T42T 37T42Tmà thôi. Đây

là chính sách chung của hầu hết các quốc gia phong kiến châu 30T37TÁ 30T37Tthời kỳ này. Điều đó 30T37Tđã 30T37Tđi

ngược lại chính sách mở rộng thị trường của phương Tây, và gây ra những khó khăn trong

6TVề văn 6T37Thóa, ngay sau 6T37Tkhi vương6T42T 37T42Tquyền được xác 6T37Tlập, 6T37Tcộng với những vấn đề về chính trị,

quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với phương Tây đặc biệt là với nước Pháp.

kinh tế - 6T37Txã 6T37Thội, Gia Long rất quan tâm đến văn hóa , biểu hiện rõ nét ở tinh thần cầu hiền tài,

tổ chức giáo dục, thi cử. Năm 1802, Gia Long đã ra chiếu kêu gọi các cựu thần nhà Lê ra mắt,

bổ dụng, ban chức tước và bổng 6T37Thậu; 6T37Tnăm 1803 cho dời Quốc tử giám vào Huế và năm 1814 ra

chỉ dụ nhấn mạnh đến vai trò của học vấn: “Học hiệu là nơi chứa nhân tài, tất phải giáo dục có

căn bản thì mới có thể thành tài. 6T37TTrẫm 6T37Tmuốn bắt chước người xưa, 6T37Tđãi 6T37Tnhà học, nuôi học trò,

ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nối để cho nhà nước dùng” [70, II, 212]. 6T37TNăm 6T37T1820

Minh Mạng vừa lên ngôi cũng ban chiếu cầu hiền, qua năm sau cho mở rộng thêm Quốc tử

giám, dựng Di luân đường, giảng đường; năm 1825 cho đặt các chức giáo quan ở địa

37TNhìn chung triều Nguyễn rất chú trọng đến việc học, lấy Nho học làm đạo lý trị nước,

phương....

làm phương tiện giáo hóa. Điều này thật ra cũng không khác với các triều đại trước. Tuy nhiên

theo nhiều nhà nghiên cứu xác định, triều Nguyễn do yêu cầu củng cố vương quyền đã khai

thác không ít những mặt bảo thủ của Tống nho để tăng cường cho thể chế chuyên chế của

mình, đặc biệt là các vua triều Nguyễn đều không muốn xã hội bị ảnh hưởng chi phối của các

tôn giáo, các hệ tư tưởng khác như: sự xâm nhập có phần mạnh mẽ của đạo Thiên chúa. Chính

sách cấm đạo của Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ngoài việc ngăn chặn các hoạt động gián

điệp đội lốt tôn giáo còn có nguyên nhân sợ ảnh hưởng đến chủ trương thuần nhất hóa tư

tưởng của triều đại này và do vậy cũng tác động không ít đến hoạt động đối ngoại của triều

Nguyễn. Công bằng mà nói, trước thực tiễn củng cố vương quyền và xây đựng đất nước, triều

Nguyễn, đặc biệt các vua đầu triều, cũng đã chú trọng đến cái học ích dụng thể hiện rõ trong

các chiếu cầu hiền, cải cách chế độ giáo dục thi cử. Sau thời Gia Long, có thể nói Minh Mạng

đã thực sự là người xác lập “thiết chế tinh thần” cho triều Nguyễn, có ý thay đổi lối văn cử

27

nghiệp, phê phán cái học “ bỏ gần cầu xa”. Tuy nhiên, nhìn chung, nội dung thi cử, giáo dục

của triều Nguyên vẫn không thoát được tinh thần “pháp tiên vương”, “ thuật nhi bất tác”, coi

trọng lễ giáo, đạo đức theo tôn chỉ của thánh hiền hơn là cái học thực tiễn, không tránh được

tinh thần bảo thủ, lạc hậu. Trong thời Tự Đức, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta,

không ít nho sĩ có tiếng, không ít quan đầu triều đã phổ cho mệnh trời, thậm chí còn cho đó là

thời đại “gió Tây” , không thể cưỡng được ! Tính bảo thủ, lạc hậu của triều Nguyễn còn thể

hiện ở37T42T 37T42Ttư tưởng “ nội hạ ngoại di” , coi thường những thế lực bên ngoài, coi người phương Tây

37TNhìn một cách bao quát, thế kỷ XIX vẫn là thế kỷ lớn của văn hóa Việt Nam với sự phát

là “man di”, “ bạch quý” ... dẫn đến những ứng biến thiếu linh hoạt, chủ quan.

triển mạnh mẽ của văn học, sử học, nghệ thuật, và cả triết học, trong đó ảnh hưởng trực tiếp

đến những thái độ ứng xử, chiến lược và sách lược ngoại giao của triều Nguyễn trước hết vẫn

là vấn đề tư tưởng, là quan niệm và tính chất bảo thủ, lạc hậu của triều Nguyễn, trong lĩnh vực

này không tách rời với đặc 11T37Ttrưng 11T37Tcủa phong kiến phương Đông - trì chậm, lạc hậu trước

37TTrên đây là những tiền đề, những điều kiện lịch sử - xã hội căn bản để đánh giá triều

những chuyển 11T37Tbiến 11T37Tcủa 11T37Tthời đại xét trên tầm 11T37Tvĩ 11T37Tmô.

Nguyễn về nhiều phương diện. Đánh giá 11T37Tnhững 11T37Ttích cực và hạn chế của triều Nguyễn trên lĩnh

vực quan hệ ngoại giao cũng không tách rời với những “khuôn diện lịch sử” 22T37Tcơ bản đó.

28

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI

TRUNG QUỐC NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19

37TĐầu thế kỷ 19 Việt Nam chưa tham gia nhiều vào các hoạt động chính trị quốc tế. Nội

dung quan trọng trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam thời kỳ này chủ yếu tập trung vào các

nước láng giềng.

2.1. Những đặc điểm dẫn đến việc hình thành đường lối ngoại giao của triều

Nguyễn với Trung Quốc nửa đầu thế kỷ 19:

37TViệt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng có mối liên hệ từ thời cổ đại. Khi vua

2.1.1. Đặc điểm lịch sử:

Gia Long lên ngôi lập nên vương triều Nguyễn thì quan hệ Việt Nam - Trung Quốc lại được

37TLịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn để lại những bài học kinh

tiếp nối theo truyền thống trước đó.

nghiệm ngoại giao với Trung Quốc. Đó là bài học về kế 17T37Tsách giữ 17T37Tnước 17T37Tthời 17T37TLý - Trần với chính

sách ngoại giao khôn khéo, linh hoạt, nhún nhường 17T37Tnhưng kiên 17T37Tquyết. Khoan hòa nhưng có

điều kiện là một nguyên tắc ngoại giao của phong kiến Việt Nam. Việt Nam đã hai lần chiến

thắng quân Tống, ba lần chiến thắng Nguyên - Mông, nhưng sau chiến thắng luôn giảng hòa,

37TBài học ngoại giao “biết mình, biết người” trong quan hệ với Trung Quốc là 17T37Tcần 17T37Tthiết.

chịu cống nạp để tái lập hòa bình trong quan hệ với Trung Quốc.

Cuối 17T37Tt h ế k ỷ 17T37T18, Quang Trung - Nguyễn Huệ sau chiến thắng quân Thanh, đã 17T37Tthi 17T37Thành một

chính sách ngoại giao thời hậu chiến trên cơ 17T37Tsở 17T37Tnhận thức đúng đắn vị thế của Việt Nam: “về

phía Bắc thì nước ta hăng hái chống cự không để cho nước Tàu chinh phục, nhưng vẫn biết

phận mình nhỏ yếu nên đời vua nào cũng chịu 17T37Txưng 17T37Tthần” [2,37], Quang Trung dã dâng biểu tạ

tội xin giảng hòa với nhà Thanh, phản ánh một chiến lược ngoại giao mềm dẻo trong quan hệ

với Trung Quốc. Đường lối ngoại giao hòa bình đó được Triều Nguyễn kế thừa và phát huy,

nhằm duy trì 17T37Tsự 17T37Tgiao hảo giữa hai nước. Mặt khác Gia Long 19T37Tcòn 19T37Tmuốn qua việc nối lại quan hệ

với nhà Thanh, để giành được sự công nhận của Trung Quốc. Khi Trung Quốc công nhận Gia

Long cũng có nghĩa là trên thực tế nhà Lê không còn tồn tại, và Triều Nguyễn đã xác lập

quyền lợi và vị trí của mình một cách chính thức trong quan hệ quốc tế.

29

37TĐể bảo đảm sự bình yên trong nước, sự hòa hiếu với lân bang và để xác lập củng cố thế

đứng của dòng họ, vua Gia Long đã kiên trì thực hiện bình thường hóa quan hệ với Trung

Quốc, tiếp tục truyền thống ngoại giao mềm dẻo với nhà Thanh. Đây là đường lối ngoại giao,

kinh nghiệm ngoại giao được đúc kết từ trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc.

37TVị trí đặc biệt của Việt Nam là một nhân tố góp phần hình thành nên đường lối ngoại

2.1.2. Đặc điểm địa lý:

giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc. Đây là hai nước láng giềng có chung nhau một

biên giới khá dài - Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, nằm trên bán đảo Đông

Dương thuộc khu vực Đông Nam Á. Ưu thế của Việt Nam là nằm trên vị trí tiếp xúc đa dạng

và trên trục lộ giao thông quan trọng về thủy và bộ, tiện lợi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang

Tây. Việt Nam nối liền biển cả với đất liền, nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Vị trí đặc

biệt của Việt Nam biến Việt Nam trở thành một cửa ngõ quan trọng để giao lưu từ Á tới Phi

sang châu Mỹ xuống châu Đại Dương. Việt Nam lại nằm sát bên Trung Quốc, thực tế cho thấy

nếu Trung Quốc có ảnh hưởng ở Việt Nam thì vấn đề phát triển ra biển Đông của họ sẽ vô

cùng thuận lợi. Khi Trung Quốc phát triển thế lực xuống Nam sông Trường Giang, họ đã

muốn tiến xa hơn tới Nam Á, Địa Trung Hải “Từ Tần Thủy Hoàng đến vua Càn Long (nhà

Thanh) trong suốt lịch sử 2000 năm các vua chúa Trung Quốc liên liếp tiến hành những cuộc

chiến tranh xâm lược tàn bạo hòng khuất phục dân tộc Việt Nam, biến Việt Nam thành khu

37TDo tham vọng và mưu toan bành trướng của phong kiến Trung Quốc mà quan hệ hữu

đệm trên con đường 6T37Ttràn 6T37Txuống Đông Nam Á” [100, 150].

nghị 30T37Tlâu 30T37Tđời giữa hai dân tộc Việt Nam - Trung Quốc thỉnh thoảng lại bị phá vỡ, và quan hệ

láng giềng giữa hai nước có những thời kỳ căng thẳng chiến tranh. Chính vị trí gần kề nhau

của hai nước Viêt Nam - Trung Quốc là điều kiện quan trọng để triều Nguyễn định ra một

chiến lược ngoại giao thích hợp với Trung Quốc. Chiến lược ấy phản ánh mối quan hệ giữa

một nước nhỏ sống cạnh một nước lớn và cùng ở trong một khu vực địa lý - chính trị nhiều

biến động.

37TTình hình chính trị - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 19 là tiền đề quan trọng cho các vua

2.1.3. Đặc điểm chính trị - xã hội:

Nguyễn xây dựng một đối sách đúng đắn và hợp lý với Trung Quốc, nhằm giữ yên vùng biên

giới 21T37TViệt - 21T37TTrung, vùng biển được xác định là quan trọng nhất. Đường lối ngoại giao hiệu quả

30

nhất phải tính đến lợi ích quốc gia, và triều Nguyễn phải tính tới hoàn cảnh cụ thể ở trong nước

sau cuộc chiến với Tây Sơn. Những yêu cầu cấp bách nhằm ổn định xã hội Việt Nam trong

thời điểm đầu thế kỷ 19 đã đẫn đến việc hình thành kế hoạch khôi phục quan hệ ngoại giao với

nhà Thanh ngay khi cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với Tây Sơn còn chưa kết thúc. Nguyễn

Ánh sau khi chiếm được Gia Định năm 1788, đã phái một sứ bộ do Phan Chính Trọng cầm đầu

đem quốc thư sang Lưỡng Quảng, sau đó phái tiếp Ngô Nhân Tĩnh sang Quảng Đông hội

chiếu với vua Lê. Đến khi vào Phú Xuân ông lại bàn với đình thần việc viết 21T37Tthư 21T37Tsang Trung

37TLúc cử sứ bộ sang Trung Quốc, Gia Long đã xác định rõ mục đích là: “...chúng ta muốn

Quốc hỏi việc bang giao.

đàm phán về việc khôi phục mối bang giao trước đây, sau sự sụp đổ của Bắc Hà”

[70,III,29]37T42T. 37T42TTrước đó không lâu khi thuyền của quân Nguyễn được Trung Quốc giúp đỡ,

Nguyễn Ánh đã lạc quan về khả năng nối lại quan hệ với nhà37T42T 37T42TThanh: “cách đây không lâu, họ

(Trung Quốc) đã đón tiếp một chiến hạm của chúng ta bị bão đánh dạt vào biển Trung Hoa rất

chu đáo và còn cho phép nó quay về tổ quốc” [70,11, 29], ghi nhận sự thân tình của phía Trung

Quốc đành cho quân Nguyễn, Nguyễn Ánh đã tích cực chuẩn bị cho việc tái lập quan hệ ngoại

giao với Trung Quốc. Sau khi vào Thăng Long, Nguyên Ánh đưa thư cho Lưỡng Quảng Tổng

đốc hỏi việc bang giao đồng thời sai Thiêm sự Lê Chánh Lược, Trần Minh Nghĩa qua Nam

37TSau khi cuộc chiến với Tây Sơn kết thúc hoàn toàn, Nguyễn Ánh tận dụng mọi 22T37Tcơ 22T37Thội để

Quan chờ Trung Quốc trả lời.

ổn định quan hệ với nhà Thanh, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tạo ra môi trường

quốc tế hòa bình để ổn định đất nước, xây dựng và củng cố triều đại. Trong 3 năm liên liếp

(1802, 1803, 1804), Gia Long đã cử nhiều sứ bộ sang Trung Quốc, bày tỏ nguyện vọng với

vua Trung Quốc là Gia Khánh là ông muốn nối lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Gia Long

khiêm nhường bày tỏ là thiện chí “sẵn sàng chịu phận một chư hầu nhỏ bé ở phương Nam”,

rằng: “Thần chỉ là 22T37Tkẻ chúng 22T37Tthần 22T37Tláng 22T37Tgiềng 22T37Tbé 22T37Tnhỏ 22T37Tcủa đế quốc bệ hạ, và ước nguyện 22T37Tlớn

37TCông cuộc phục hưng đất nước và Triều đại đặt ra cho Gia Long yêu cầu cấp thiết: phải

nhất của Thần là được tưới bởi cơn mưa tâm hồn vĩ đại của bệ hạ” [ 16T37T33,375].

bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Khéo léo và khiêm tốn, Gia Long tranh

thủ thiện cảm của Gia Khánh để xác lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đang bị gián đoạn

nhằm giải quyết các vấn đề khẩn cấp đang đặt ra trong nước về chính trị, kinh tế.v.v... Điều

quan trọng mà Gia Long cần khi lên ngôi là một sự bảo đảm không xăm37T42T 37T42Tlược trước mắt của

31

Trung Quốc dưới danh nghĩa “phù Lê”. Ông cần được Trung Quốc công nhận để xác 22T37Tlập 22T37Tđịa

vị của vương triều Nguyễn một cách hợp pháp, thay thế triều Lê trong lịch sử. Hoàn cảnh lịch

sử Việt Nam đầu thế kỷ 19 buộc Gia Long đi theo đường lối chiến lược hòa hoãn thần phục

với Nhà Thanh, đuờng lối chiến lược này gần như mang tính chất bắt buộc, nhưng theo

nguyên tắc không làm gì tổn hại đến độc lập, chủ quyền của đất nước. Gia Long đã tuân thủ

nguyên tắc ngoại giao đó trong suốt những năm tháng trị vì của ông và trước khi qua đời ông

cẩn thận dặn dò con trai kế nghiệp là “Ngày sau chớ nên gây hấn với ngoại biên”. Những việc

làm đó chứng tỏ Gia Long ý thức sâu sắc mối quan hệ hòa bình với láng giềng, đặc biệt là với

37TSau khi lên ngôi, vào tháng 5 năm 1802, Gia Long cử Trịnh Hoài Đức dẫn đầu sứ bộ

nước lớn Trung Quốc có vị trí trọng yếu đối với vận mệnh và hưng khởi của quốc gia.

sang Trung Quốc làm nhiệm vụ ngoại giao nộp ấn triện mà Quang Toản bỏ lại ở Phú Xuân khi

tháo chạy, cùng với việc giao trả cho nhà Thanh số hải tặc và37T42T 37T42Tngười bỏ trốn khỏi Trung Quốc.

Gia Long gửi quốc thư xin thần phục, dù mềm mỏng khéo léo nhưng ông cũng khẳng định với

nhà Thanh ông là vua nước Việt: “Thần, Nguyễn Ánh - vua nước Nam Việt xin cúi lạy trước

bệ rồng, với niềm kính trọng sâu xa, xin được gửi báo cáo này và Thần hy vọng rằng, lòng biết

ơn của chúng thần được lượng thứ mà chấp nhận...Thần xin cúi đầu chờ đợi đầy hy vọng”

37TMôi trường quốc tế hòa bình, ổn định là điều kiện khách quan cần thiết để Gia Long kiến

[133,375].

thiết triều đại. Sau cùng, lý do thúc đẩy Gia Long nhanh chóng nối lại quan hệ ngoại giao

truyền thống với nhà Thanh chính là những hoạt động của tư bản phương Tây ở châu Á vào

đầu thế kỷ 19. Những hoạt động của tư bản phương Tây tuy chưa đe dọa trực tiếp Việt Nam

nhưng âm mưu của Pháp thì Gia Long phần nào hiểu được và ông tỏ ý lo ngại. Điều này có thể

lý giải vì sao Gia Long lại cần đến một sự “bảo vệ”, một chỗ dựa về mặt tâm lý, dù cho trong

quá khứ Việt Nam chưa lần nào nhận được sự “chở che bảo vệ” đó của Trung Quốc. Theo một

nhà nghiên cứu người Nga Murasheva thì: “Còn về hy vọng mà Nhà Nguyễn vẫn ấp ủ dưới sự

che chở của quan hệ với Trung Quốc thì cũng hoàn toàn tự nhiên, nếu như ta xét đến nguy cơ

37TGia Long cũng đã từng tin (hay cố gắng tin) rằng: “Thần phục tùng chính quyền của đế

châu Âu đang đe đọa xâm lược cả hai nước” [52, 15].

chế vì thần tin vào nó và hy vọng được đế chế giúp đỡ” [133, 376]

32

37TVề phía nhà Thanh, Trung Quốc, cho đến đầu thế kỷ 19, họ vẫn37T 37Ttiếp tục đường lối đối

ngoại với các lần bang theo nguyên tắc chủ yếu: Trung Quốc là trung lâm thiên hạ, vua Trung

Quốc thay trời chăn dắt muôn dân, Trung Quốc phải đứng trên các nước khác, các dân tộc

khác. Tuy vậy, hoàn cảnh thực tế của đất nước Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 19 đã tạo ra

37TLà một nước rộng lớn nhưng đầu thế kỷ 19, Trung Quốc cũng đối diện với cuộc khủng

cái thế buộc phải hòa hoãn , 6T37Tthân 6T37Tthiện trong quan hệ với các nước láng giềng.

hoảng kính tế, chính trị, xã hội đang ngày càng diễn ra một cách 17T37Ttrầm 17T37Ttrọng. Chính trị Trung

Quốc đầy bất ổn, các xu hướng chống đối triền đình 17T37Tnhà17T37TThanh ngày càng gia tăng. Từ thời vua

Càn Long đến vua Gia Khánh, nhiều cuộc đấu tranh của các37T42T 37T42Tdân tộc ở trong nước liên tiếp

bùng nổ (khởi nghĩa của dân tộc Mèo, của những người theo giáo phái Bạch Liên, Thiên Chúa

37TTrong hoàn cảnh khó khăn như vậy, Thanh triều không muốn tạo thêm tình huống bất lợi

giáo...), bên ngoài thì nguy cơ xâm nhập của tư bản phương Tây đe dọa...

khi không có mối quan hệ 6T37Tthân 6T37Ttình với nước láng 6T37Tgiềng 6T37TViệt Nam. Gia Khánh chủ trương

không can thiệp vào Việt Nam, lập trường của ông là không ủng hộ chính

quyền 6T37TTây 6T37TSơn 6T37Tđã 6T37Tmất chỗ dựa trong nước. Khi Quang Toản bỏ 11T37TPhú 11T37TXuân chạy ra Bắc,

Gia 6T37TKhánh 6T37Txuống chiếu khẳng định sự diệt vong của Tây Sơn và xác định dứt khoát thái độ

ủng hộ Nguyễn Ánh. Ông ta 6T37Tđã 6T37Tsai Tổng đốc Lưỡng Quảng Cát 6T37TKhánh 6T37Ttới trấn Nam Quan,

thúc binh giữ biên giới. Đợi khi nào Nguyễn Ánh lấy được toàn cõi An Nam thì sẽ 6T37Ttâu 6T37Tlên cho

37TNhư vậy, vào đầu thế kỷ 19 cả Gia Long và Gia Khánh đều muốn có một sự tái lập quan

ông biết...

hệ chính thức giữa hai nhà nước Việt Nam - Trung Quốc. Mong muốn đó xuất phát từ lợi ích

của cả hai bên và do tình thế khách quan quy định. Sự kiện vua Gia Long tự lên ngôi xưng đế,

không ảnh hưởng gì đến sự kiện sau đó một năm Gia Khánh ban lệnh cho phép Gia

Long 6T37Tnhận 6T37Tsách phong và ấn triện, ông ta tuyên bố: “Ta phong ngươi chức Quốc vương Việt

Nam và ấn tín mới. Hãy tiếp tục truyền thống vĩ đại và cao cả, hãy trung thành và tin tưởng...

Hãy thi hành những nguyên tắc cơ bản của ngai vàng chúng ta. Sắc lệnh của ta là vậy” [118,

243] (Quốc vương là danh hiệu cao nhất trong các tước phong của Trung Quốc phong cho các

37TNăm 1804, Gia Long làm lễ thụ phong và quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc

chư hầu của mình).

được tái lập. Sự uyển chuyển, mềm dẻo hòa hiếu với nước láng giềng phương Bắc có mối liên

33

hệ chặt chẽ với công cuộc tái thiết đất nước và củng cố địa vị của một triều đại mới. Đường lối

đối ngoại của Gia Long phản ánh ước muốn được chung sống hòa bình với các nước xung

quanh, vì thế nó phù hợp với lợi ích quốc gia và dân tộc. Đầu thế kỷ 19 yêu cầu lịch sử của hai

nước Việt Nam và Trung Quốc đòi hỏi phải có một môi trường hòa bình ổn định, đòi hỏi phải

có một sự cùng tồn tại hòa bình. Đường lối đối ngoại mà Gia Long định hướng và thực hiện đã

đáp ứng được yêu cầu trước mắt của đất nước trong giai đoan lịch sử này.

37TĐường lối ngoại giao của các vua triều Nguyễn còn ít nhiều chịu sự chi phối và tác động

2.1.4. Đặc điểm tư tưởng:

của ý thức hệ phong kiến. Những quan niệm về thế giới, về quan hệ với các nước chung

quanh 22T37T.v.v.. 22T37Tcủa ý thức hệ này đã góp một phần trong việc hình thành nên đường lối ngoại

37TXét về mặt tư tưởng, trên lĩnh vực đối ngoại của Nhà nước phong kiến 6T37Ttriều 6T37TNguyễn có

giao của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19.

thể thấy sự hiện diện của ảnh hưởng “nhân tố Trung Hoa”. Tư tưởng Nho giáo một mặt có

đóng góp đáng kể vào việc ổn định trật tự xã hội phong kiến Việt Nam, nhưng mặt khác vẫn có

sự chi phối nặng nề tư duy đối ngoại của triều đình Huế, dẫn dắt các hoạt động ngoại giao theo

xu thế kém linh hoạt, chậm đổi mới so với thời đại. Triều Nguyễn vẫn đi theo 6T37Thướng 6T37Tngoại

giao cổ truyền, trong lúc nội dung, tính chất thời đại đã thay đổi. Đây là một hạn chế trong tư

duy đối ngoại của triều Nguyễn khiến cho đất nước ta càng ngày càng trở nên tự cô lập so với

37TKhi chủ nghĩa tư bản xác lập địa vị thống trị của mình trên phạm vi thế giới với một nền

thế giới bên ngoài.

khoa học kỹ thuật tiên tiến và đang tìm cách mở rộng phạm vi quyền lực của mình, thì Việt

Nam như nhiều quốc gia phương Đông khác đang tự làm suy yếu mình bằng phương cách

37TTrong quan hệ với Trung Quốc, Gia Long và con cháu của ông ngoài những nguyên

ngoại giao “tự thủ”.

nhân do hoàn cảnh lịch sử chi phối, có thể còn có nguyên nhân khác, đó là triều Nguyễn coi

quan hệ đó là sự tuân theo “lễ” và thuận theo “lẽ trời”. Có nghĩa là chư hầu thì phục tùng

Thiên 6T37Ttử 6T37Tvà sự phục tùng này là bất biến, bất dịch. Triều Nguyễn khi phục tùng nhà Thanh ít

nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng tôn vinh Trung Hoa, mặc nhiên thừa nhận vua Trung Quốc

là “Thiên tử” thay trời trị 6T37Tdân. 6T37TTrong quốc thư gởi nhà Thanh, Gia Long đã viết: “Mặc dù dân

chúng thiếu thần phục, song Thần chưa biết ý Trời ra sao. Thần cử Lê Quang Định và Trịnh

34

Hoài Đức mang sang lễ vật để thể hiện lòng trung thực của chúng thần được đứng vào hàng

37TNhìn 6T37Tnhận 6T37Tảnh hưởng Nho giáo trên lĩnh vực ngoại giao của triều Nguyễn là một vấn đề

ngũ các chư hầu” [89,19].

cần tiếp tục nghiên cứu nhưng chúng tôi cho rằng, dù muốn hay không thì những tư tưởng cơ

bản của Nho giáo cũng có ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của các vua Nguyễn. Tư

tưởng “Thiên mệnh” phần nào góp phẩn hình thành tư tưởng “phục tùng” nước lớn, và tuân

theo trật tự trong quan hệ với các37T42T 37T42Tnước xung quanh theo qui định bất thành văn của Triều

37TTự hào với nền văn minh cổ Á Đông, các vua Nguyễn không phải không biết đến thế giới

Thanh - Trung Quốc.

biến đổi mau chóng nhưng họ không muốn có một sự xáo động nào vào trật tự mà Gia Long

khi còn là Nguyễn Ánh đã “kinh dịch qui hoạch, sửa quan chế, định quan chế, nêu phép cấm,

chính triều nghi, qui mô mở nước, đại lược đã định” [70, 24T37TIII, 24T37T132]. Ngay khi Trung Quốc phải

mở cửa trước áp lực của phương Tây thì Việt Nam vẫn tiếp tục khước từ mọi tiếp xúc với

phương Tây. Đối với người Việt Nam, người Trung Quốc là “chú”, “anh”... Còn người

phương Tây là “Tây dương”, “Bạch quỉ”...Phải chăng tư tưởng trên còn xuất phát từ cội nguồn

sâu xa của nó là quan niệm “nội hạ, ngoại di”? Đề phòng, nghi ngờ đối với tư bản phương Tây

tất nhiên là còn đó những âm mưu và hoạt động thâm nhập của tư bản nước ngoài đối với nước

ta vào thời điểm cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nhưng có lẽ nó còn bắt nguồn từ quan niệm:

“không để người Hạ lẫn với người Di” “người Hồng Mao thì gian giảo trí trá” [4, 259]. Nhìn

chung, khi hoạch định đường lối - chính sách đối nội, đối ngoại các vua Nguyễn đều căn cứ

theo luân lý của Nho giáo”chỉ cần theo cái luân lý của Nho giáo, để giữ lấy các hiếu nghĩa,

trung tín, cốt cho xã hội được yên trị thì thôi” [28 ,12].

2.2. Đường lối, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc trong

nửa đầu thế kỷ 19:

37TDo yêu cầu đặc biệt của tình 11T37Thình 11T37Tđầu thế kỷ 19, với những điều kiện đặc thù của hoàn

cảnh lịch sử - chính trị - xã hội - địa lý của cả hai nước Việt Nam - Trung Quốc, Trung Quốc

được xác định là đối tượng ngoại giao trọng yếu của triều Nguyễn. Gia Long khi lên ngôi đã

tiếp tục thực hiện đường lối ngoại giao truyền thống là “thần phục” nhà Thanh nhằm bình

thường hóa quan hệ hai nước, ổn định tình hình khu vực.

35

37TĐi theo chiến lược ngoại giao truyền thống với Trung Quốc, các vua Nguyễn đều chịu

nhận sách phong, và triều cống...Đây là một chiến lược khéo léo nhằm xoa dịu và làm thỏa

37TTrong 6T37Tbối cảnh lịch sử cuối thế kỷ 6T37T18 6T37Tđến thế kỷ 19, phương hướng ngoại 6T37Tgiao của Gia

mãn tự ái của một nước lớn đã không thể khuất phục được một nước bé nhỏ ở bên cạnh.

Long còn nhằm duy trì sự không can thiệp của nhà Thanh vào nội tình nước ta, ngăn chặn các

hoạt động quân sự của quân Thanh núp dưới chiêu bài “Diệt Nguyễn phò Lê” thời Tây Sơn

như Trung Quốc 30T37Tđã làm30T37T.

Về đường lối ngoại giao theo kiểu “thần phục” của triều Nguyễn, hiện nay vẫn còn nhiều

kiến giải chưa thống nhất, song có thể thấy dù có nhiều cố gắng hay còn mắc phải hạn chế, sai

lầm thì khi xây đựng mối quan hệ với Trung Quốc, triều Nguyễn cũng xuất phát từ lợi ích của

đất nước, từ nhu cầu củng cố ổn định đất nước sau chiến tranh và tạo dựng vị trí của vương

triều Nguyễn trong lịch sử Việt nam.

Những người kế vị Gia Long 6Ttuân 6Tthủ một cách nhất quán đường lối ngoại giao mà Gia

Long hoạch định. Vua Tự Đức trong “Bang giao chiếu” cũng khẳng định lại mục tiêu: “muốn

dân chúng yên ổn, nước nhà hòa mục” và cho rằng: “việc bang giao nếu không được thiết lập

thì không những không được giúp đỡ, mà những vùng đất xa kinh đô như biên giới và thành

Thăng Long sẽ bị quấy nhiễu và dẫn tới tai họa chiến tranh” [90, 75]. Các vua đầu triều

Nguyễn đều tuân thủ theo đúng các hoạt động ngoại giao với Trung Quốc như: xin sách

phong, chịu triều cống... Ngoài ra, việc tuân theo các nghi thức trên còn được các vua Nguyễn

xem như là một bổn phận của Tân vương đối với 6Ttruyền thống 6Tngoại giao của ông cha mình.

Từ thời vua Minh Mạng đến Thiệu 6TTrị, 6Tcác nghi lễ trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc

không có sự thay đổi gì. Điều này tạo cho đường lối chính sách ngoại giao của triều đình Huế

đối với Trung Quốc mang tính chất “bất dịch” và “tĩnh” so với những biến động không ngừng

của lịch sử đầu thế kỷ 19. Cho đến nửa sau thế kỷ 19, triều Nguyễn vẫn không có những thích

ứng linh hoạt với hoàn cảnh. Trong điều ước 1874 triều Nguyễn ký với Pháp, ở điều 3, chúng

ta thấy có quy định: “Vua nước Nam cam đoan thích ứng đường lối ngoại giao với chính sách

ngoại giao của Pháp và không thay đổi gì cả những quan hệ ngoại giao của mình”. Như vậy,

với triều Nguyễn danh nghĩa vương quyền “Thiên tử” của Trung Quốc đối với Việt Nam còn

chưa bị xóa bỏ chính thức trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam. Việt Nam vẫn tự cho mình

còn “thần phục” nhà Thanh Trung Quốc. Tự Đức vẫn tiếp tục cống nạp theo nghĩa vụ của chư

36

hầu vào năm 1878 và 1880. Vua Tự Đức còn cử hai phái bộ sang Trung Quốc cầu viện để

chống Pháp.

Trong các hoạt động ngoại giao 21Tgiữa 21TViệt Nam và Trung Quốc cho đến thời vua Tự Đức,

chúng ta chỉ thấy có một ngoại lệ, đó là việc Tự Đức tiếp xứ Trung Quốc sang sách phong tại

Huế thay vì Tự Đức phải thân hành ra Hà Nội.

Đặc điểm mang tính đặc trưng trong đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với

Trung Quốc là 6Txuất 6Tphát từ mục đích giữ yên vùng biên giới quan trọng nhất của đất nước để

ổn định và phát triển quốc gia. Đường lối ngoại giao mang tính chất “thần phục” song Việt

Nam luôn khẳng định tư thế độc lập của mình.

Suốt gần nửa đầu thế kỷ 16T9, 6Tquan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc về cơ bản không

có những căng thẳng dẫn tới chiến tranh, nhưng thỉnh thoảng sự hữu hảo không được duy trì,

bởi lẽ nhà nước phong kiến Trung Quốc luôn luôn có những mưu toan đen tối đối với Việt

Nam. Liên tiếp trong hai năm 1805 và 1806 nhiều vụ xâm lấn biên giới xãy ra. Năm 1831, vua

Minh Mạng đã điều quân đội tới biên giới để đối phó với Trung Quốc... Cuối cùng thì tất cả

những va chạm biên giới cũng được thu xếp ổn thỏa và không gây ảnh hưởng lớn đến quan hệ

hai nước.

Đường lối, chính sách ngoại giao “thần phục” của triều Nguyễn Việt Nam cũng giống

như một vài nước trong khu vực. Đó là đường lối ngoại giao của các nước Cao Ly, Miến Điện,

Xiêm La đối với Trung Quốc từ đến nửa đầu thế kỷ 19, trên thực tế, hệ thống chư hầu này

không còn tồn tại, khi mà các vua Trung Quốc từ bỏ các xưng hiệu của Thiên triều, đứng vào

hàng ngũ bình đẳng với các nước láng giềng, cúi mình xuống ký điều ước Nam Kinh năm

1842 với nước Anh tư bản. Điều ước này đã mở đầu cho một quá trình xâu xé Trung Quốc của

Tư bản Âu - Mỹ và biến Trung Quốc từ một quốc gia phong kiến độc lập thành một nước lệ

thuộc

42TSách phong và triều cống 42Thai nội dung quan trọng trong lịch sử quan hệ ngoại giao Việt

2.2.1. Vấn đề: “Sách phong” và “Triều Cống”:

Nam và Trung Quốc và đến triều Nguyễn thì 42Tsách phong, triều 35T42Tcống 35Tkhống phải là hai nội dung

mới lạ. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc được thiết lập trên cơ sở hai nội

dung này. “Đây là một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm trên thế giới chỉ có trong quan hệ

37

giữa các nước Trung Quốc và các nước láng giềng mà Việt Nam thường được xem là một ví

dụ điển hình” [92,49]

Khái niệm 42Tsách phong và triều cống 42Tđều xuất hiện từ thời cổ đại. Sách phong là việc

phong tước cho các “chư hầu” của Trung Quốc. Việt Nam từ thời Gia Long trở đi thì “Quốc

vương” là tước cao nhất của nhà Thanh phong cho vua Việt Nam. Sách phong thường đi kèm

theo với việc ban ấn tín của Trung Quốc. Quá trình tiến đến việc Gia Long nhận 42Tsách

phong 42Tcủa vua Thanh diễn ra như sau:

Pvào năm 1804 là thời kỳ vận động để tái lập quan hệ ngoại giao giữa Triều Nguyễn và

Thời kỳ từ Nguyễn Ánh xưng vương năm 1802 cho đến khi nhận 42Tsách phong 42Tcủa Trung QuốcP

Trung Quốc.

Thời kỳ từ 1804 đến 1819 là thời kỳ quan hệ Việt Nam Trung Quốc được tái lập dưới

triều Gia Long.

Thời kỳ từ 1820 đến những năm 50 của thế kỷ 19 là thời kỳ quan hệ Việt Nam - Trung

Quốc diễn tiến bình thường theo đường lối mà Gia Long hoạch định, Việt Nam nhận 42Tsách

phong, 42Tchịu thần phục, giữ lệ 42Ttriều cống. 42TĐây là thời kỳ chế độ quân chủ được củng cố và tăng

cường ở Việt Nam và là thời kỳ quan hệ Việt - Trung có những vấn đề về biên giới nhưng cơ

42T+ Sách phong:

bản không gây nên bất ổn trong quan hệ hai nước.

Vua Việt Nam nhận 42Tsách phong 42Ttừ 16TTrung 16TQuốc gọi là thụ phong, khi mỗi tân vương lên

ngôi đều phải cử một sứ bộ sang Trung Quốc xin phong (gọi là cầu phong) và vua Trung Quốc

cử sứ sang Việt Nam 42Tsách phong 42T(gọi là tuyên phong).

Lễ nhận 42Tsách phong 42Tcủa vua Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn được gọi là đại lễ thụ

phong. Lễ này biểu hiện nội dung - hình thức quan hệ ngoại giao Việt - Trung, và đây là hoạt

42TSách phong 42Tvừa là quyền lợi của nước chư hầu vừa là nghĩa vụ, khi nhận sách phong vua

động ngoại giao cao nhất cấp nhà nước của hai quốc gia 6Tnày.

Việt Nam chính thức hóa địa vị của mình trong quan hệ với Trung Quốc, và do vậy phải thực

hiện “nghĩa vụ” 42Ttriều cống và 42Tcác “nghĩa vụ” thăm viếng qua lại khác... Trong một ý nghĩa nào

đó, 42Tsách phong 42Tlà quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ quốc tế thời kỳ này. Xét về mặt pháp

lý khu vực và quốc tế thế kỷ 19, 6Tnếu 6TViệt Nam được sách phong cũng giống 6Tnhư 6Tlà một sự

38

công nhận của quốc tế, do vậy uy tín vị trí của Việt 27TNam 27Tđược xác định và nâng cao hơn trong

khu vực.

Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực, được coi là đại diện của quốc 11Ttế, 11Tcông nhận

sự tồn tại hợp pháp của một triều đại phong kiến Việt Nam, một nhà nước mới ở Việt Nam.

Theo khía cạnh này thì “nếu không có sự xác nhận này thì người ngoại quốc không công nhận

và ngay thực 6Tdân 6Tcũng có thể không thần 11Tphục” 11T[34,129]. Nhận định trên tuy có phần nhấn

mạnh thái quá vị trí, tầm quan trọng của vấn đề 42Tsách phong, 42Tquá đề cao giá trị, ý nghĩa của

việc 42Tsách phong, nhưng 6T42Tdù 6Tsao đây vẫn là một nghi thức ngoại giao quan trọng trong đời sống

chính trị xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn.

Những ông vua của triều Nguyễn khi lên ngôi đều nhận sách phong mới hợp thức hóa địa

vị của mình. Danh hiệu” Quốc vương” mà vua Trung Quốc phong cho Lý Anh Tông (Việt

Nam) thế kỷ 12 và Gia Long nhận từ 1804 là danh hiệu cao nhất mà Trung Quốc phong cho

nước “chư hầu”.

Đối với Trung Quốc, 42Tsách phong có 42Tnghĩa là Trung Quốc khẳng định sự công nhận của

mình đối với một nước “chư hầu”. 42TSách phong 42Tcó nhiều khả năng bắt nguồn từ quan điểm vốn

có từ thời cổ đại, cho rằng Trung Quốc là “trung tâm thế giới”. Người Trung Quốc cho 6Tdân 6Ttộc

mình “áo mũ đẹp đẽ gọi là Hoa, nước lớn gọi là Hạ, thường khu biệt Hoa Hạ 42Tở 42Tgiữa là trung

tâm thiên hạ, còn bốn phía nam, 42Ttây, 42Tđông, bắc là Nhung, là Dịch, là Man, là Di” [100,222].

Trung Quốc tự cho mình là chủ vũ trụ, và thể hiện uy quyền “Thiên tử” của mình đối với các

nước nhỏ chung quanh, 42Tsách phong 42Tlà một biểu hiện khẳng định tư thế cao hơn của Trung Quốc

đối với các nước khác. Tuy nhiên, quyền lực của Trung Quốc có thực hay chỉ là hình thức tùy

theo tương quan lực lượng của Trung Quốc và các chư hầu trong từng thời kỳ lịch sử nhất

định.

Việt Nam dưới thời các vua Nguyễn, thường là các vua lên ngôi trong nước rồi mới dâng

42TSách phong 42Tlà một truyền thống ngoại giao nên triều Nguyễn chuẩn bị khá chu đáo nhằm

biểu, cử sứ sang Trung Quốc xin phong.

phản ánh thiện chí của nhà nước Việt Nam. Công việc chuẩn bị trước 6Thết ở khâu giấy tờ công

văn như: văn thư, quốc thư xin phong. Loại này do đình thần 6Tsoạn thảo rất cẩn trọng để tránh

các từ tên húy phía nhà Thanh. Đến thời Minh Mạng công việc trên được giao

cho 6TBộ 6TLễ. 6TBộ 6TLễ soạn xong trình lên cho vua duyệt, vua duyệt rồi lại giao cho Nội các hoặc

39

đình thần hội đồng xét lại. Theo “Đại Nam hội điển sử lệ”: “Những ngày sứ thần từ Hà Nội ra

đi, ngày tới cửa quan đều phải điệp tấu về. Khi đến các tỉnh Hồ Bắc, Quảng Tây bên nước

Thanh, cũng phải làm điệp tấu nói rõ sự thể đi đường” [62,306].

Sứ bộ đi xin phong gồm có một Chánh Sứ, hai Phó Sứ cấp quan nhị 44Tphẩm 44T(hệ thống cấp

bậc quan gồm có 9 bậc tính lừ 1 đến 9). Nếu đi sứ Trung Quốc với những nội dung khác thì

Triều đình Huế chỉ cần cử quan cấp tam phẩm trở xuống. Sứ bộ Việt Nam lúc đến kinh đô

Trung Quốc phải đợi để vào yết kiến Hoàng đế Trung Quốc. Khi vua Trung Quốc chấp nhận

nội dung yêu cầu của sứ Việt Nam, thì về cơ bản nhiệm vụ của sứ đoàn coi như đã hoàn thành.

Khi sứ bộ Việt Nam về nước, nhà Thanh sẽ cử một sứ đoàn đứng đầu là một Khâm sứ

sang mang theo sắc chỉ tấn phong. Lễ tiếp nhận sắc chỉ này là đại lễ Tuyên phong và được Việt

Nam tổ chức tại Hà Nội. Từ thời vua Gia Long đến thời Tự Đức, nước ta có 4 lần diễn ra đại lễ

sách phong vào các năm 1804, 1821, 1842 và 1849.

Năm 1804 sự kiện 35Tsách 35T42Tphong 42Tcho Gia Long đã đánh đấu kết quả quá trình vận động tái

lập quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đã bị gián đoạn từ cuối đời Tây Sơn. Trong lễ sách

phong này, vua Mãn Thanh là Gia Khánh ban sắc chỉ và ấn tín mới cho Gia Long. 6TSắc 6Tthư của

vua Trung Quốc đã phản ánh sự quan tâm của nước này đối với Việt Nam với tư cách là một

nước chư hầu gần kề Trung Quốc. Gia Khánh tuyên bố: “Lập sự kế tục tước vị và 6Tphân 6Tchia

lãnh địa giữa các chư 6Thầu 6Tlà mối quan tâm thường xuyên của Hoàng dế, Người luôn lo lắng

suy nghĩ về tất cả các chư hầu gần xa ...Ta phong ngươi (tức Gia Long - TG) chức Quốc vương

Việt Nam và ấn triện mới” [120, 243].

Trong năm 1804, án sát tỉnh Quảng Tây Tề Bố Sâm vâng lệnh vua Gia Khánh mang 6TCáo

- 6TSắc - Quốc ấn sang Việt Nam đến Hà Nội tiến hành lễ Tuyên phong cho vua Gia 6TLong.

Chuẩn bị cho sự kiện này, Triều đình Huế 30Tđã 30Tbỏ ra một khoản chi phí khá lớn. Chính

quyền 30Ttừ 30Ttrung ương đến địa phương và nhân dân 11Tcả 11Tnước đều được huy động, lôi cuốn vào

việc đón tiếp sứ Trung Quốc. Riêng vua Gia Long phải rời kinh đô ra Hà Nội trước 42Tngày 42Tsứ

Trung Quốc đến, công việc được tiến hành tại điện Kính Thiên 30T(thành cũ 30T42Tở 42Ttrong Thành Hà

Nội - Thời Lê), ở 30Tđây, 30Tngười ta dựng một hành lang dài từ điện Kính Thiên tới cổng Chu Tước

và “trước ngày làm lễ, thuộc ty bộ Lễ đã trưng bày long đỉnh ở chính giữa điện Kính Thiên,

hương 42Tán ở 42Tphía 11Tnam 11Tlong đình, chổ vua bái ở đằng trước hương án ...” [62, 332].

40

Theo “Đại Nam hội điển sự lệ: “sứ Thanh đến cửa quan bắn 3 phát pháo lệnh rồi mở

khóa cửa, bên ta (Việt Nam) cũng bắn 3 phát pháo lệnh trả lời, quan 22Tsĩ 22Tmở cửa đồng thanh dạ

rang hưởng ứng. Tiếp đó súng điểu sang đều bắn 3 phát” [62,325]. Tiếp đến hai bên Việt Nam

và Trung Quốc làm lễ triều bái, sắc thư của vua Trung Quốc đặt vào một long đình cùa Trung

Quốc, dụ văn đặt vào một long đình khác do Việt Nam mang tới. Sau thủ tục đó hai bên lại chờ

pháo lệnh 11Tmới 11Tcùng bước sang cửa quan phía lãnh thổ Việt Nam và cùng đi về kinh đô Hà

Nội. Dọc đường đi của hai sứ, dân chúng hai bên đường phải kết hoa, dán giấy, những cửa

hiệu phải lập hương án để cung nghinh khi đoàn rước long đình đi ngang qua. Quá trình đón

rước sứ Trong Quốc diễn ra rườm rà, phô trương và tốn kém. Tuy nhiên “Nghi lễ 42Tsách phong

được 42Tsử dụng không chỉ để tỏ lòng kính 22Ttr 22Tọng với hoàng đế Mãn Thanh mà còn thể hiện sức

mạnh của đất nước mình” [109,100]. “Khi ra Hà Nội nhận sách phong Minh Mạng đã cùng

mội đoàn tùy lùng gồm 1.782 người và 22Tsố 22Tbinh sĩ là 5.150 người” [60, IV, 13Tl01]. 13TĐây là một

phái đoàn ngoại giao rất đông đảo gồm cả quan văn, võ và binh lính, là một đoàn ngự giá

“chưa từng có”.

Từ thời Gia Long đến thời Tự Đức lễ 42Tsách phong diễn 42Tra khi các vua Nguyễn đã lên ngôi.

Từ Gia Long đến Thiệu Trị địa điểm cử hành lễ này là tại Hà Nội. Nhiều nhà nghiên cứu cho

đây là biểu hiện của sự thần phục thái quá, nhưng theo chúng tôi đây cũng là một trong những

biểu hiện của chính sách mềm dẻo của triều Nguyễn và trong lễ nhận 42Tsách phong, 42Ttriều

Nguyễn cũng đã tổ chức lớn với đội 30Tngũ 30Ttùy tùng đông đảo nhằm phổ 30Ttrương 30Tlực lượng của

mình. Riêng thời Tự Đức lễ được tổ chức tại Huế (điện Thái Hòa), sứ Trung Quốc đến kinh đô

Huế để tuyên phong. Có lẽ do tình hình có nhiều biến dộng vua không thể rời kinh đô và Trung

Quốc đồng ý làm lễ 42Tsách phong 42Ttại kinh đô Huế do tình hình Trung Quốc 6Tbấy giờ cũng hết

sức biến động nên không muốn tạo căng thẳng với Việt 6TNam.

Sứ đoàn Việt Nam khi sang Trung Quốc xin phong còn làm thêm việc báo tang vị vua

trước cho nhà Thanh biết.

Số lượng đoàn Việt Nam đi Trung Quốc xin phong không được ghi cụ thể trong sử sách

nhưng qua thể thức sai sứ chúng ta ước tính khoảng 20 người (không kể lính, người phục vụ và

140 phu đài tải) “xin chỉ trước giao cho đình thần chọn cử 3 viên sứ thần: 1 6Tchánh 6Tsứ, 2 phó sứ

và chọn lấy 8 người hành nhân, 9 người tùy tùng, 2 viên giáp ất phổ sứ dùng tam quan, tứ

phẩm” [62, 306]. Ngược lại, sứ bộ sang Việt Nam làm lễ 42Tsách phong 42Tsố lượng đông hơn. Trên

cơ sở tặng vật của vua Nguyễn ban cho thành phần sứ Trung Quốc thì chúng ta có thể biết

41

được số người cụ thể: “Gia Long năm thứ 3 ...ngày tuyên phong đã xong đưa tặng khâm sứ

...tặng tri phủ Thái Bình..., 2 viên sứ giả ..., 5 viên tham quân..., 2 viên thông sự ..., nội ty của

sứ bộ 32T10 32Tngười... phu kiệu và người đi theo của sứ Thanh 72 người, nội ty của viên phủ Thái

Bình 5 người... phu kiệu và người đi theo các viên, đi theo sứ giả 15 người” [62,536]. Ước tính

khoảng chừng 155 người Trung Quốc sang Việt Nam trong sứ đoàn đến 42Tsách phong 42Tcho Gia

Long. Đây là lễ 42Tsách phong 42Tđầu tiên dưới Triều Nguyễn đạt nền móng cho quan hệ ngoại giao

Việt Trung thế kỷ 19. Do ý nghĩa quan trọng của nó mà có lẽ số người trong sứ bộ Trung Quốc

đông hơn trong các lễ 42Tsách phong 42Tcho Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (Thời Minh Mạng căn

cứ trên số tặng phẩm vua Nguyễn ban cho người của sứ bộ Trung Quốc, ước tính có chừng

118 người).

Thời gian đi và về của sứ bộ Trung Quốc chúng ta thấy kéo dài hàng tháng. Sự tiếp rước

xa xỉ long trọng ở lượt đi cũng như lượt về gây nhiều tốn 42Tkém cho 42Ttriều đình và dân chúng.

Trên đường đi và về của sứ Trung Quốc, triều đình đặt nhiều công quán để sứ nghỉ ngơi.

Từ Lạng Sơn đến Bắc Ninh có cả thảy 8 công quán. Đến thời Tự Đức, số công quán được dựng

thêm vì sứ Trung Quốc phải đến tận Huế, ngoài ra 6Tcó 6Tnhững quãng hành trình sứ Trung Quốc

phải dùng thuyền nên 6Ttriều 6Tđình 6THuế phải 6Tchuẩn bị thuyền rồng, thuyền vàng cho việc tiếp

rước sứ Trung Quốc.

Thời gian lưu lại Việt Nam của sứ Trung Quốc khoảng 30 ngày, và với số lượng người

khá đông như đã nói nên sự cung đón thiết tiệc rất tốn kém. Theo “Đại Nam hội điển sự lệ”:

“phàm sứ Thanh mới đến, ngày làm lễ, ngày trở về, mỗi ngày đều có đãi yến 1 lần, mỗi lần

một mâm cỗ yến hạng nhất: 1 mâm 50 bát, 7 mâm hạng nhì: mỗi mâm 40 bát, 25 mâm hạng

ba: mỗi 44Tmâm 44T30 bát ..v.v...” [62, 351].

Nghi thức 42Tsách phong được 42Tdiễn ra thiêng liêng, trang trọng còn nói lên sự ràng buộc gắn

bó quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Sự ràng buộc hữu hảo đó chỉ có thể không còn

duy trì khi Trung Quốc phá bỏ luật lệ để tiến hành chiến tranh hòng thống trị Việt Nam.

Quá trình chuẩn bị tiếp đón, tiễn đưa sứ bộ Trung Quốc diễn ra 6Tkhá 6Tdài, nhưng lễ vừa

xong thường là sứ bộ Trung Quốc về ngay. Sau lễ 42Tsách phong 42Tcho Gia Long, viên chánh sứ

Trung Quốc là Tề Bố Sâm không được mời lưu lại: “Lễ rồi, đãi sứ uống trà, Sâm trở về, Ngài

(Gia Long) sai quan hậu mang hộ tống ra cửa ải” [69, 59]. Sau lễ 42Tsách phong 42Tcho vua Minh

42

Mạng thì sứ Trung quốc là “Phan Cung Thần chỉ xin nhận quế thanh mà thôi, liền ngày ấy về

nước” [69, 118].

Khi sứ bộ Trung Quốc về rồi, Triều đình Huế phải cử tiếp một đoàn sứ khác sang Trung

Quốc để tạ ơn vua Trung Quốc. Năm 1804, sau lễ 42Tsách phong vua 42TGia Long cử sứ mang lễ vật

sang Trung Quốc để tạ ơn. Sứ bộ này do Tham tri bộ Hình Lê Bá Khảm làm chánh sứ, Thiêm

sự Trần Minh Nghĩa, Nguyễn Đăng Đệ làm giáp ất phó sứ. Cùng với lễ tạ ơn, sứ Việt Nam còn

mang theo lễ cống định kỳ, lệ này duy trì suốt trong nửa đầu thế kỷ 19.

Lễ vật tạ ơn 42Tsách phong 42Tcũng khá lớn gốm sản vật và khoáng quí: “vàng 13T10 13Ttuổi, hạng

đĩnh 13T10 13Tlạng; 20 đĩnh bạc hạng đĩnh 13T10 13Tlạng: 100 đĩnh; 100 cân ngà voi, 2 cổ tê giác hoa, 100

cân nhục quế, lụa nõn, lụa mộc đều 100 tấm” [62,311].

Từ thời Minh Mạng đến Tự 42TĐức 42Tsau lễ 42Tsách phong 42Tlà lễ 42TDụ tế. 42TĐây là nghi lễ truyền thống

phản ánh quan hệ bình 6Tthường 6Tgiữa hai nước. Các vua Nguyễn chịu nhận 42Tsách phong 42Ttừ Trung

Quốc nhưng hoàn toàn độc lập trong các hoạt động đối nội, đối ngoại của mình. Vua Gia Long

cũng như các vua Nguyễn trong đầu thế 6Tkỷ 6T19 lên ngôi rồi mới xin 42Tsách phong, 42Tđã phá vỡ

những giới hạn, trật tự khuôn mẫu mà phong kiến Trung Quốc qui định từ thời cổ đại và áp

dụng trong hệ thống các chư hầu của mình.

Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19 cho thấy hai

quốc gia này thực sự đối diện với những thách thức của thời đại, đồng thời chịu tác động của

môi trường quan hệ quốc tế lúc bấy giờ. Những thuộc tính ngoại giao phong kiến phương

Đông đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoạch định đường lối ngoại giao của Triều

Nguyễn 42Tvà 42Tlàm đường lối ấy 45Tlưu 45Tgiữ những nét lạc hậu trước những biến đổi của thời đại.

Về phía Trung Quốc, việc 42Tsách phong 42Tcho một chư hầu trong thời điểm mà cuộc khủng

hoảng trong nước đang ngày càng trầm trọng là biện pháp nhằm nâng cao uy tín của Trung

Quốc trong khu vực, ổn định tình hình biên giới, bình thường hóa quan hệ với Việt Nam v.v...

Vua Gia Khánh Trung Quốc nêu rõ: “Hoàng đế Mãn Thanh sẵn sàng ủng hộ bất kỳ một người

đứng đầu chính quyền thực tế nào, người thúc đẩy việc bảo đảm tình hình chính trị trong nước

và sự yên tĩnh trên biên giới, cũng như đồng ý duy trì các mối quan hệ truyền thống với Trung

Quốc, trong khi tiếp tục công nhận tình trạng phụ thuộc của mình” [71, 108]. Trên đây là lý

giải phần nào thuyết phục cho tình huống mà nhà Thanh đồng ý công nhận Gia

Long 45Tn h ư 45Tmột 45TSự 45Tthay thế hợp pháp 45Tnhà 45TLê đã sụp đổ và Tây Sơn 42Tđã 42Tthất bại trong hoàn cảnh

43

Trung Quốc không thể đưa quân vào Việt Nam để can thiệp một lần nữa sau đại bại của Tôn Sĩ

42TSách phong 42Ttheo lệ có kèm theo sắc chỉ và ấn tín của nhà Thanh. Năm 1804 vua Gia Long

Nghị.

nhận ấn tín “An Nam Quốc Vương”, “ấn bằng bạc mạ vàng trên mặt khắc nổi hình con lạc đà”

42TSách phong là 42Tvấn đề còn tồn tại nhiều đánh giá khác biệt nhưng trên thực tế đó vẫn là

[75,279].

hoạt động ngoại giao ghi nhận 45Tsự 45Tbình thường hóa mối quan hệ Việt - Trung có từ lâu đời

42TSách phong 42Tđối với Gia Long đánh dấu mốc khởi đầu của một triều đại phong kiến mới.

trong tiến trình lịch sử quan hệ hai nước.

Đó là Triều Nguyễn. Họ Nguyễn vốn là bề tôi của họ Lê, cho nên nhận sách 34Tphong 34Tcủa Trung

Quốc, ngoài mục đích vì lợi ích quốc gia, Gia Long còn vì quyền lợi và uy tín của họ Nguyễn.

Trong thư gởi cho Hoàng đế Trung Quốc, ông 6Tđã 6Tnói rõ sự nghiệp của mình là kế tục nhà Lê:

“Nguyễn Huệ sau khi đoạt quyền của nhà Lê đã trở thành Hoàng đế, nhờ lòng khoan dung của

bệ hạ mà tạm thời thành chư hầu của bệ hạ. Khi mà Quang Toản lên ngôi, dân chúng đã đoạn

tuyệt với y... bắt đầu đề nghị Thần tiếp tục sự nghiệp cùa triều Lê” [111, 112]. Với việc

nhận 42Tsách 35T42Tphong 35Ttừ Trung Quốc, Gia Long muốn khẳng định một triều đại mới ra đời thay thế

cho triền Lê chính thống, và nhằm ổn định lòng dân, sâu xa hơn Gia Long hẳn mong muốn

người 42Tdân 42Tdần dần quên triều Lê cũ và triều Tây Sơn với Nguyễn Huệ Quang Trung anh hùng.

Gia Long tự cho rằng, việc lên ngôi báu của ông là “hợp lời xin của mọi người” [70, III, 285].

Khi Minh Mạng 6Tkế 6Tvị ngai vàng, 6Ttân 6Thoàng 6Tđế 6Tban chiếu ở Đại Nội nói rõ mình lên là tuân theo

di chiếu của vua cha: 42T“Trẫm 42Ttheo di chiếu ngày 27 tháng 12 năm Gia Long thứ 18 kính Cáo

Giao Miếu. Ngày 1 tháng giêng năm nay lên ngôi hoàng đế, lấy năm Canh Thìn làm Minh

Mạng năm đầu” [49, II, 55]. Một năm sau khi lên ngôi, Minh Mạng cử sứ bộ sang Trung Quốc

xin phong. Trường hợp vua Thiệu Trị, ông cũng lên ngôi rồi mới báo cho nhà Thanh biết là

ngai vàng ở Việt Nam đã được thừa kế. Vua Tự Đức lên ngôi 2 năm mới nhận 35Tsách phong 35Tcủa

nhà Thanh.

Về vấn 6Tđề 6T42Tsách phong 42Ttrong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, có 42Tý 42Tkiến cho 6Tđây 6Tlà “nghi

thức ngoại giao nhục nhã và đè nặng lên những người đứng đầu nhà nước phong kiến Việt

Nam” (ý kiến của nhà nghiên cứu người Nga Murashêva).

44

Ý kiến của phần lớn sử gia phương Tây (đa số là người Pháp) thì cho rằng: 42TSách phong 42Tlà

một hình thức ngoại giao của một nước nhỏ đối với một nước lớn. Nhà Nguyễn nhận 42Tsách

phong 42Tnhưng vẫn độc lập trong đường lối đối nội, đối ngoại, và không hề bị chi phối bởi đường

lối chính trị từ Bắc Kinh. Theo Pellerin - một giáo sĩ người Pháp thì “theo tập quán hay một

luật lệ xác lập từ xa xưa của các vua nước Nam phải nhận sách phong của hoàng đế, và mặc dù

đó chỉ đơn thuần là thủ tục bởi vương quốc An Nam độc lập với Trung Hoa” [120, 180].

Đối với giới nghiên cứu Việt Nam, ý nghĩa 42Tsách phong có 42Tthể khái quát như Phan Huy

Chú đã nhận dịnh: “xét lý thế, thực phải thế”. Triều Nguyễn nhận sách phong, chịu thần phục

là tiếp tục truyền thống ngoại giao “lấy nhu thắng cương” của cha ông, không chỉ Lê Lợi,

Quang Trung mà bất kỳ triều đại phong kiến nào của Việt Nam cũng áp dụng trong ứng xử

với 42Tnước 42Tláng giềng Trung Quốc .

Tuy nhận phận làm “chư hầu bé nhỏ ở phương Nam” song Triều Nguyễn thật sự là chủ

nhân với thực quyền trên đất nước mình trong nửa đầu thế kỷ 19.

Điều đáng lưu 42Tý ở đây, 42Tlà qua vấn đề 42Tsách phong, 42Tchúng ta thấy ít nhiều sự tồn tại của ý

thức xã hội lạc hậu so với tồn tại xã hội thế kỷ 19. Đó là những tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu

bám rễ chặt trong ý thức triều thần nhà Nguyễn, để khi đối điện với những biến chuyển của

thời đại, cần có những quyết định kiên quyết mang tính đả phá các trật tự quan hệ cổ (như thực

hiện các mối quan hệ với phương Tây), duy tân đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại thì

Triều đình lại do dự, lo sợ và cuối cùng không thể vượt qua chính mình để có hành động mang

tính chất bùng nổ trong nhận thức.

Nhìn nhận một cách công bằng, khách quan và không lệ thuộc vào tư duy hiện đại về vấn

đề 42Tsách phong 42Ttrong quan hệ Việt - Trung nửa đầu thế kỷ 19, chúng ta thấy là các vua đầu triều

Nguyễn đã cố gắng xem đây là biện pháp ngoại giao mang tính chất tình thế qui định chứ

không hẳn đây là mục đích cần đạt được trong quan hệ với nhà Thanh Trung Quốc.

Các vua Nguyễn đã lên ngôi và có đầy đủ mọi biểu hiện của một vị hoàng đế của đất

nước mình, sau đó mới xin thụ phong. Điều ấy phần nào chứng tỏ triều Nguyễn nhận thức 42Tsách

phong 42Tlà một nội dung quan trọng trong ứng xử ngoại giao đặc thù bản sắc Việt Nam. Đồng

thời, 42Tsách phong 42Tcũng phản ánh đặc trưng đường lối đối ngoại hòa bình, nhún nhường của Việt

Nam 45Tnhằm 45Thạn chế các mưu toan của Trung Quốc đối với nước ta. Sách phong là dấu hiệu của

sự ổn định tình hình trong khu vực. Khi Trung Quốc sách phong cho vua Việt Nam thì cũng

45

bao hàm ý nghĩa “Trung Hoa cam kết không tấn công Việt Nam trừ khi có thay đổi nghiêm

trọng” [120, 180]. Tuy nhiên, sách phong không đóng vai trò quyết định trong quan hệ Việt -

Trung. Gia Long đã từng tuyên bố không thụ phong nếu Trung Quốc không đồng ý việc đổi

quốc hiệu do Gia Long đề nghị.

Các vua Nguyễn nhận 42Tsách phong 42Tnhưng giao tiếp thẳng với vua Trung Quốc một cách

ngang hàng, bình đẳng. Đối với sứ giả của nhà Thanh, triều Nguyễn cử quan tiếp sứ làm nhiệm

vụ đón rước, đưa tiễn. Ý thức độc lập cùa Triều Nguyễn được phản ánh trong mội số vấn đề về

nghi thức ngoại giao với Trung Quốc, trường hợp bàn về trang phục trong nghi lễ Dụ Tế, vua

Minh Mạng nói với triều thần “lễ phải tùy tục nước ta... Ta tự theo lễ nước la” [71, V, 260].

Các vua như Thiệu Trị cũng tâm niệm là “phải từ bỏ những hủ tục”...

Trong lễ sách phong còn có những biển hiện như: quì gối khi Long đình đi ngang qua,

quì gối khi nghe đọc sắc thư v.v...tạo cho chúng ta cảm giác “thần phục” hay tôn kính thái quá

nhà Thanh. Thực ra, 42Tđây 42Tlà những nghi thức cổ và khó có thể loại bỏ được trong đời sống

42T• Triều cống:

chính trị, ngoại giao phong kiến cổ truyền Á Đông vào thời điểm ấy.

Khái niệm về lệ này cũng có từ thời cổ, vào khoảng năm 19 TCN, và đặt thành chế độ

theo định kỳ từ thế kỷ 13 (3 năm / 1 lần). Thành phần lễ cống mỗi thời kỳ một khác tùy theo

tình hình và tương quan lực lượng giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ

19 42Ttriều cống 42Tlà một hoạt động quan trọng trong quan hệ hai nước. Thời cổ 42Tcống 42Txuất hiện trong

quan hệ Việt - Trung như là biểu tượng sự kính trọng của một nước nhỏ đối với nước lớn.

Theo thời gian tính chất 42Tcống 42Tcũng thay đổi, có thời điểm 42Tcống 42Tnhư là một dạng thuế của Việt

Nam nộp cho Trung Quốc, nhằm mua lấy sự yên ổn trong quan hệ đối với một nước láng

giềng hùng mạnh. Đầu thế kỷ 19 42Tcống là 42Tmột phương tiện, là công cụ để triếu Nguyễn thể hiện

quan điểm ngoại giao thân hữu láng giềng của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với Trung

Quốc.

Theo quan niệm của Trung quốc, 42Tcống 42Tlà mội loại nghĩa vụ của nước chư hầu sau khi

được 42Tsách phong. 42TĐó là phẩm vật dâng lên cho thiên triều theo nghĩa dưới dâng lên trên (hạ

phụng thượng viết cống). Đến đầu triều Nguyễn thì “ nhà Thanh 6Thoàn 6Ttoàn giữ nguyên mức độ

thuế cống nạp đối với các nước lệ thuộc được đề ra từ nhà Minh” [112, 303]. Vua Gia Khánh

Trung Quốc khi 42Tsách phong cho 42Tvua Gia Long cũng theo lệ cũ qui định 3 năm triều cống một

46

lần: “ đến năm Gia Long thứ 3 mọi việc ngã ngũ, vua Gia Khánh mới hạ lệnh cho tổng đốc

Lưỡng Quảng cấp cho Gia Long ấn và sắc cùng ra một đạo dụ đổi tên cho nước Nam, cũng qui

định thể lệ nạp cống 3 năm một lần và tới kinh đô triều kính 4 năm một lần” [75, 279].

Sự cống nạp của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 được tiến hành đều đặn. Thời Gia

Long trị vì, Việt Nam có 3 lần sang Trung Quốc làm nhiệm vụ 42Tcống 42Tvào những năm 1805,

1809, 1813 (lần 42Tcống vào 42Tnăm 1805 được kết hợp với lễ Tạ ơn trong năm 1804). Thời Minh

Mạng, có một lệ cống định kỳ vào 1821 nhưng Trung Quốc cho để đến kỳ nộp lần sau vào năm

1825. Trong thời gian ở ngôi, Minh Mạng đã cử sứ bộ đi triều cống các năm 1829, 1833, 1837.

Dưới thời Thiệu Trị, phía nhà Thanh Trung Quốc miễn cho ta lần nộp cống vào năm 1841 và

1845, do vậy mà thời Thiệu Trị Việt Nam không phải nộp cống cho Trung Quốc. Năm 1847

Tự Đức lên ngôi, lấy năm 1848 làm năm Tự Đức thứ nhất, và cử sứ đi làm nhiệm vụ triều

cống, năm 1852 Tự Đức lại cử một sứ bộ sang Trung Quốc làm nhiệm vụ 42Tcống 42Tnhư lệ thường,

nhưng lúc này Trung Quốc đang có cuộc khởi nghĩa “Thái Bình Thiên Quốc” lan tràn khắp 17

tỉnh thành, cho nên đến 1856 đoàn sứ đi 42Tcống của 42TViệt Nam mới về tới Việt Nam. Sau 1852

Việt Nam không cử tiếp đoàn sứ nào đi làm nhiệm vụ cống nạp nữa, và Trung Quốc cũng cho

hoãn việc cống lại cho đến khi họ dẹp yên các cuộc nổi dậy ở trong nước họ.

Triều cống đầu thời Nguyễn thực ra cũng là một dạng thuế tự nguyện không có quy định

nghiêm ngặt. Việc giảm lễ cống hay dồn lễ cống lại thường xảy ra với sự đồng ý của Trung

Quốc, và điều này phần nào cũng giảm bớt những chi phí đi lại và phẩm vật của nhà nước Việt

Nam.

Phẩm vật cống cũng không theo một qui định bắt buộc, lễ cống tạ ơn đầu tiên duới thời

Gia Long gồm: “200 lạng vàng, 100 lạng bạc, 100 cây lụa, 100 cây cấp, 6T2 6Tbộ sừng tê, 100 cân

ngà voi, 100 cân ngọc quế” [29, 179]. Đến thời Tự Đức theo lài liệu của Rheinart thì số lượng

và thành phần cống đã rất khiêm tốn và không 11Tcó 11Tgiá trị kinh tế lớn (so với tình hình lúc đó)

bao gồm: “30 thanh quế, 3 cân gỗ trám, 1 sừng tê, 1 cặp ngà voi, 200 xếp lụa” [10, 147]. Sứ

của Triều Nguyễn có ghi lại lễ phẩm cống như sau: “lễ phẩm cống một năm một lần, mỗi

lần: 6T2 6Tngà voi, 6T2 6T11Tcỗ 11Tlê giác, 300 lạng trầm hương, 600 lạng tốc hương, cau và hạt sa nhân mỗi

thứ 45 cân, trừu lụa nõn, lụa mộc, vải mỗi thứ 100 tấm” [62, VIII, 311]. Trong thành phần

cống phẩm cho Trung Quốc, chúng ta không thấy có khoáng sản kim loại quí (trong lễ tạ ơn

thì có). Thời hạn nộp cống cũng không cố định, xu hướng giản đơn ngày càng tăng. Năm Gia

Long thứ 2 nhà Thanh đa định lệ lại “lễ phẩm tuế cống và mừng thọ thời 2 năm nộp lệ cống 1

47

lần, 4 năm sai sứ sang chầu một lần” [62, VIII, 311], 35Tthời 35Thạn nộp sau này còn thay đổi thêm

nhiều lần nữa.

Sứ bộ đi cống phải đến tận kinh đô Trung Quốc, lễ phẩm trước khi mang đi được kiểm

tra cẩn thận. Sứ Việt Nam còn phải đem nhiều quà để biếu xén cho các quan địa phương trên

đường đến Trung Quốc. Số lượng người đi cống khoảng 30 người không kể số lính, phu...

Căn cứ vào số lượng cống phẩm, kỳ hạn cống chúng ta có thể thấy 42Tcống 42Tkhông phải một

tai họa cho Việt Nam như ở các thời trước. Đặc biệt khi vua Quang Trung, vào cuối thế kỷ 18,

kiên quyết không theo lệ nộp cống người vàng, thì thực tế cống không còn nặng về giá trị kinh

tế.

Nửa đẩu thế kỷ 19, 42Ttriều cống vẫn 42Tcòn tồn tại trong quan hệ hai nước Việt 42T- 42TTrung như

một lệ cổ nhằm bảo đảm tình hòa hiếu láng giềng giữa hai nước. Cũng như 42Tsách phong, triều

cống 42Tmang ý nghĩa tượng trưng cho sự bình yên, ổn định trong quan hệ Việt Nam và Trung

Quốc. Nhưng đối với nhà Thanh đó là cách thể hiện uy quyền nước lớn của họ. Đối với Triều

Nguyễn, 42Ttriều cống 42Tlà sự tuân thủ các nguyên tắc ngoại giao truyền thống, 42Tcống 42Tlà biểu hiện

thần phục, ngoài ra nó còn là sự bày tỏ thiện chí của Việt Nam, thường khi sứ Việt Nam

sang 42Ttriều cống 42Tthì phía Trung Quốc bao giờ cũng có sự ban tặng trở lại.

Bên cạnh nhiệm vụ đi cống theo lệ, sứ bộ Việt Nam khi sang nước bạn còn phải thực

hiện các loại lễ cống khác:

+ Lễ cống tạ ơn sách phong và Dụ tế, mỗi 1Tlễ 1Tgồm có: “vàng 1T1 0 1Ttuổi hạng đĩnh 1T1 0 1Tlạng:

20 đĩnh; bạc hạng đĩnh 1T10 1Tlạng: 100 đĩnh; 100 cân ngà voi, 2 cỗ tê giác hoa, 100 cân nhục quế,

lụa nõn, lụa mộc đều 100 tấm” [ 62,311].

+ Lễ phẩm chúc mừng thì có “2 đôi ngà voi, 4 cỗ lê giác, trầm hương 50 cân, tốc hương

100 cân, trừu, lụa nõn, lụa mộc, vải mỗi thứ 100 tấm” [62, 311].

+ Lễ phẩm cầu phong quan trọng hơn nên số lượng có nhiều hơn: “2 đôi ngà voi, 4 cỗ tê

giác, trầm hương 50 cân, tốc hương 100 cân, trừu, lụa nõn, lụa 11Tmộc, 11Tvải, mỗi thứ đều 100 tấm

(Lời cẩn án: Năm đầu Gia Long, lễ xin phong là 39T2 39Tcân kỳ nam, 2 đôi ngà voi, 4 cỗ tê giác, 100

cân trầm hương, trừu, lụa nõn, lụa mộc vải mỗi thứ đều 200 tấm. Đến năm đầu Minh Mạng đổi

lệ này” [62, 311].

48

Các dịp báo tang, mừng thọ của nhà Thanh, triều Nguyễn đều có lễ vật sang tỏ tình hòa

42TTriều cống 42Tlà dịp triều Nguyễn thể hiện thiện chí láng giềng, xác nhận tính chất hợp pháp

hiếu giữa hai nước.

của việc 42Tsách phong, 42Tđồng thời 42Tcống 42Tcái giá mà triều Nguyễn cũng như bất cứ một triều đại

phong kiến nào cũng phải trả cho Trung Quốc để có được 11Tsự 11Tyên ổn trong quan hệ với nước

láng giềng này.

Xét nội dung và thực chất của 42Tcống 42Tdưới thời Nguyễn, có thể 38Tnói 38Tđây là một hoạt động

nhằm duy trì quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong đầu thế kỷ 19. 42TCống 42Tkhông hoàn toàn chỉ

mang ý nghĩa là nghĩa vụ của “chư hầu” đối với Thiên tử. So sánh với thời Lê, thì 42Tcống lúc 42Tđó

là thuế mà Việt Nam phải đóng cho Trung Quốc. Còn ở thời Nguyễn 42Tcống 42Ttà một nghi thức

ngoại giao với giá trị kinh tế rất nhỏ. Ngoài Lễ Tạ ơn và Dụ tế, trong thành phần các loại lễ

phẩm khác không có vàng, bạc..., trong khi thời hậu Lê 11Ttrong 11Tlễ cống 11Tchúng 11Tta nhận thấy có

nhiều vàng bạc quí: “Năm thứ 21 niên hiệu Càn Long nhà Thanh 1756, triều Hậu Lê cống 4

chiếc lư hương và bình bằng hoa vàng tất cả nặng 209 lạng, 13 chậu bằng bạc nặng 641 lạng”

[18, 45]. Dưới các triều 38Tvua 38TNguyễn, vàng bạc chỉ có trong quà tặng do vua ban. Thời vua

Minh Mạng lệ cống cho Trung Quốc còn được bớt giảm “Nay 4 năm một lần cống, và 39T2 39Tlễ

cống cùng nộp ấy nên giảm đi một nửa, mỗi lễ còn phải nộp: 1 đôi ngà voi, 39T2 39Tcỗ tê giác, trừu,

lụa nõn, lụa mộc vải, mỗi thứ 39T100 39Ttấm, trầm hương 300 cân, 600 cân tốc hương, sa 38Tnhân, 38Tcau

mỗi thứ 45 cân” [62, 312]. Nhà Thanh - Trung Quốc ngoài việc ban tặng lại cho sứ bộ Việt

Nam, mỗi khi phía Việt Nam có việc vui hay buồn (tang lễ trong cung đình) thì Trung Quốc

đều cử sứ mang lễ 11Tvật 11Tsang. Trong lễ Dụ tế vua Gia Long, án sát Quảng Tây Phan Cung Thần

mang lễ sang 11Tgồm: 11T39T“50 11T39Ttấm lụa tế, 11T39T100 11T39Tlạng 11T39Tbạc 11T39Ttế đến điện thi trước triều bắc thành làm

lễ 11T39TDụ 11T39Ttế” 11T[62, 342].

Cống phẩm, lễ vật qua lại giữa hai nước là dấu hiệu thể hiện quan hệ ngoại 6Tgiao hai nước

tiến triển bình thường tốt đẹp. 6T35TCống 6T35Tdưới triều Nguyễn là một sự tiếp 6Tnối truyền thống quan hệ

“nước nhỏ” đối với “ nước lớn” và mang ý nghĩa tượng trưng. Khi sứ bộ Việt Nam đi sang

Trung Quốc 42Ttriều cống 42Tthì họ còn kiêm thêm những nhiệm vụ khác:

- Tường trình mọi mặt về đất nước Trung Quốc. Các vua Nguyễn rất quan tâm đến tình

hình Trung quốc nói chung nên sứ bộ đi cống thường xuyên phải điệp tấu về cả lượt đi lẫn lượt

về để báo cáo tình hình, sứ bộ phải “làm điệp tấu nối rõ sự thể đi đường...” [62, 306].

49

- Tìm mua sách cổ, tranh cổ của Trung Quốc, vua thường căn dặn sứ đi cống Trung

Quốc rằng: “bọn ngươi nên để lòng tìm mua (sách, họa) đem về 42Tđây... 42Tnếu thấy những loại

sách ấy dẫu còn là bản thảo cũng không kể đắt cứ mua” [70, X, 165].

- Thông báo về nước những biến động chính trị ở Trung Quốc (nếu có).

Như vậy, 42Ttriều cống 42Tcòn là dịp Việt Nam tranh thủ đi thực tế tìm hiểu nội tình Trung

Quốc, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nhà nước. Mặt khác, cống còn là dịp Việt

Nam và Trung Quốc trao đổi, giới thiệu sản vật quý với nhau. Theo một nhà nghiên cứu người

Nhật thì cống là “dịp hai bên trao đổi tặng vật, mặc dù tặng vật ngày càng giảm. Triều đình

Huế có cơ hội nhận được nhiều “phẩm vật quý giá kể cả thương phẩm và sản vật “tinh thần”:

Lụa, thuốc bắc, 38Tnhân 38Tsâm và cả sách kinh điển... với giá rẻ, bởi vì tặng vật của Trung Quốc có

giá trị lớn hơn cống phẩm của Việt Nam” [110,138]. Nhận 38Tđịnh 38Ttrên đây cũng không hoàn

toàn đúng như với triều vua Gia Long. Gia Long năm thứ ba khi sứ Trung Quốc sang tuyên

phong, chúng ta thấy nếu gọi 1Tlà 1Ttrao đổi sản vật giữa hai nước thì sự trao đổi đó như sau: Sứ

nhà Thanh: “cung tiến đồ như ý, đoan , nhiễu, lĩnh, sa, trà búp, hương châu, bao hương, bút

mực cộng 1T1 0 1Tthứ. Phụng chi nhận 4 thứ: trà, hương, bút, mực”. Vua Gia Long ban tặng lại

như sau: “lễ tặng khâm sứ: một sừng tê giác lớn, sừng tê hoa đều một 22Tcỗ, 22Tkỳ nam một cân,

gươm vàng một đôi” [62, 358]. Lễ vật tặng này được duy trì đến đời vua Thiệu Trị. Đến đời

Tự Đức thành phần lễ vật bớt đi một cân kỳ nam. Như vậy, xét theo nghĩa trao đổi đơn thuần

thì trong một số trường hợp bang giao, tặng phẩm của triển Nguyễn vẫn 42Tcó 42Tgiá trị kinh tế đáng

42TSách phong 42Tvà 42Ttriều cống 42Tlà hai nội dung quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc

kể và chỉ nhận lại 4/10 thứ quà tặng của nhà Thanh - Trung Quốc mà thôi.

nửa đầu thế kỷ 19. Đây là hình thức thể hiện của mối quan hệ “nước nhỏ - nước lớn” trong thời

phong kiến. Nước nhỏ được thừa nhận qua 42Tsách phong 42Tvà phải có nghĩa vụ 42Ttriều cống, 42Tnhư vậy,

cống chỉ 42Tlà 42Tmột sự xác nhận giá trị của sách phong. Một ví dụ trong thời Quang Trung cho

thấy rõ hơn điều này, khi Quang Trung dâng biểu cầu hòa và mang phẩm vật sang Trung

Quốc, thì vua nhà Thanh đã cho là “ngươi chưa được liệt vào hạng phiên bang, thì những

phẩm vật đem cống chưa tiện thu nhận” [73, 11, 523].

Nhìn lại lịch sử cho đến đầu thế kỷ 19, mỗi ông vua Việt Nam sau khi Trung Quốc 42Tsách

phong về 42Tdanh nghĩa là nước phiên thuộc hay thần thuộc Trung Quốc và phải chịu thực hiện

nghĩa vụ 42Ttriều cống. 42TDưới thời các vua Nguyễn, Việt Nam là một nước phong kiến thống nhất

50

có nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, còn Trung Quốc lúc này đang lún sâu

vào 44Tmột 44Tcuộc khủng hoảng toàn diện và ngày càng trầm trọng, đồng thời đối diện với nguy cơ

xâm lược của phương Tây, nhà Thanh không muốn và không thể làm xấu đi mối quan hệ với

các nước xung quanh, đặc biệt là Việt Nam. Chính tình hình trên đã mang lại một sắc thái mới,

ý nghĩa mới trong 42T“sáchphong - triều cống”. 42TĐây chỉ là hai hoạt động ngoại giao của một truyền

thống giao hiếu từ lâu đời, phản ánh sự bình thường hóa quan hệ Việt - Trung và thể hiện thiện

chí “cùng tồn tại hòa bình” giữa hai nước trong đầu thế kỷ 19. Thông qua hoạt động 42Tsách

phong 42Tvà 42Ttriều cống, 42Thai nước Việt Nam - Trung Quốc còn nhân cơ hội này để trao đổi giao lưu

văn hóa vật chất - tinh thần. Nhưng qua 42T“sách phong, triều cống” 42Ttrật tự quan hệ ngoại giao

được Trung Quốc quy định từ thời cổ đại cũng được lưu dấu rõ nét trong quan hệ giữa triều

Nguyễn và nhà Thanh. Đó là trật tự phản ánh mối quan hệ “nước nhỏ - nước lớn” đặc trưng

trong ngoại giao phong kiến phương Đông thời cận đại.

2.2.2. Các họat động ngoại giao khác giữa triều Nguyễn và Trung Quốc trong nửa

đầu thế kỷ 19:

Để thực hiện có hiệu quả công cuộc xây dựng và củng cố vương triều Nguyễn, Gia

6TDưới triều Nguyễn, vua là nhân vật6T đứng 6Tđầu đất nước và có toàn 6Tquyền 6Tvề 6Tmọi mặt kể

Long 13Tđã 13Tkhôn khéo và thận trọng trong các hoạt động đối ngoại với Thanh triều.

cả đối ngoại, vua chịu trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo các 42Thoạt 42Tđộng ngoại giao. Thực tế vua

chỉ đạo Bộ Lễ là cơ quan điều hành công việc đối ngoại, nhiệm vụ của Bộ Lễ rất giới hạn, chỉ

bao hàm chức vụ có tính lễ nghi, cũng có trường hợp Bộ Lễ giữ việc phủ dụ thuộc quốc hay

một số nước nhỏ lân cận.

Nguyên tắc ngoại giao với Trung Quốc dưới triều Nguyễn cũng giống các triều đại

phong kiến trước đó là: Mềm dẻo 6Tnhân 6Tnhượng có nguyên tắc và cứng rắn khi cần thiết, về vấn

đề đổi tên nước, theo những sử liệu dã cổ thì đây là một cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng

giữa vua Gia Long với nhà Thanh. Đầu tiên vua Gia Long đề nghị đổi tên 44Tnước 44Ttừ An Nam

thành Nam Việt - biểu hiện sự thống nhất Bắc Nam do vua Gia Long thực hiện. Vua Gia

Khánh nhà Thanh đã từ chối lời đề nghị này. Theo “Đại Nam thực lục” thì Gia Khánh cho rằng

đề nghị của Gia Long là không thể chấp nhận được bởi tên gọi Nam Việt hàm nghĩa rất rộng

lớn, bao gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây Trung Quốc. Gia Long nhiều lần kiên trì nhắc lại

yêu cầu của mình, thậm chí ông đe dọa rằng trong trường hợp bị lừ chối ông sẽ không nhận

51

sách phong nữa. Năm 1803 vua Mãn Thanh đồng ý đề nghị của Gia Long nhưng theo ông ta

để không nhầm lẫn với những lãnh thổ trước đây gọi là Nam Việt nên An Nam nên đổi thành

Việt Nam. Gia Long cũng nhất trí. Đến năm 1804 Quốc 6Thiệu 6TViệt Nam 42Tđược 42Ttuyên cáo, đây

có thể xem là một thắng lợi ngoại giao bước đầu của Việt Nam trên con 6Tđường 6Tkhẳng định tư

thế của một “nước nhỏ” nhưng là một quốc gia độc lập có chủ quyền, và vua Nguyễn có quyền

lực thực tế.

Các hoạt động đấu tranh ngoại giao để bảo vệ biên cương của tổ quốc cũng được triều

Nguyễn tiến hành khéo léo, thận trọng nhằm tránh mọi xung đột với “Thiên triều” Trung

Quốc.

Biên giới phía Bắc của tổ quốc ta luôn là mối quan tâm đặc biệt của Triều Nguyễn. Mục

đích được đặt lên hàng đầu của triều đình Huế là củng cố về phòng vệ chặt chẽ vùng biên ải

này. Đầu thế kỷ 19, giữa các quốc gia thường chưa có đường biên giới mà chỉ có vùng biên

giới nên những tranh chấp ở khu vực biên giới cũng thường xảy ra.

Triều Nguyễn luôn chú 42Tý 6T42Tđến 6Tvùng địa đầu của tổ quốc, luôn luôn đề phòng những thành

phần chống đối nhà Thanh trốn sang gây rối ở nước ta. Gia Long luôn bày tỏ thiện chí hợp tác

với Trung Quốc trong vấn đề bắt và nộp lại cho phía Trung Quốc những “kẻ thù hung dữ

của 6Tnhà 6TThanh”. Đời Gia Long chưa có những vụ việc về xâm chiếm vùng biên giới, vua Gia

Long chỉ phải giải quyết 42Tcác 42Tvụ giặc “Tàu ô” vượt biên sang Việt Nam, thường là vua hạ chiếu

cho Tổng trấn Bắc Thành bắt giao cho trấn Lạng Sơn giải đưa về Trung Quốc. Năm Gia Long

thứ 5, vua hạ chiếu “Nay bắt được bọn giặc Tàu ô và súng ống khí giới, vậy phải giao cho Trấn

Lạng Sơn để đưa về phủ Thái Bình Trung Quốc” [49, 1, 118 ]. Tiếp đó, Gia Long cho sứ giả đệ

công văn sang Trung Quốc theo đúng thể lệ bang giao. Trường hợp tên giặc Tàu ô là Tổng

Vinh Thông xin đầu hàng, Triều Nguyễn đã xử trí hợp lý bằng biện pháp “cáo dụ” chứ không

dùng biện pháp cứng rắn, và đồng ý cho người này cư trú.

Năm 181013T, 13TTrung Quốc đã nhờ triều đình Huế phối hợp giúp họ đón đánh giặc Ô, Gia

Long nhận thức đúng đắn việc giữ gìn bờ cõi là quan trộng “nên đề phòng trước, để đón giữ

Trấn Hưng Hóa và các chỗ yếu hại như Thủy 11TVỹ 11Tvà Lai Châu” [49, 1, 159], triều Nguyễn khi

được tin phía Trung Quốc báo, đã cho tăng cường phòng bị vùng biên giới Việt Trung. Nhà

nước phong kiến Trung Quốc cũng thường gởi công văn sang nước ta để thông báo các tin cần

52

thiết. Năm 1817 quan nhà Thanh gởi công văn cho đồn Châu Thủy Vỹ “về việc đề phòng bọn

giặc mọi sẽ trốn sang biên giới Việt Nam” [49, I, 189].

Thời Gia Long, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 42Tở 42Tvùng biên giới là mối quan hệ hợp tác

tốt đẹp, không có những trường hợp căng thẳng phải dùng đến biện pháp quân sự. Tình hình

biên giới hai nước khá yên ổn, phần nhiều những lần mà triều Nguyễn phải làm việc với chính

quyền địa phương Trung Quốc, là chuyển giải phạm nhân Trung Quốc trốn sang Việt Nam,

thường thì triều đình Huế phái người chuyển giải về tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) xét xử.

Ngoài ra, Gia Long luôn quan tâm theo dõi tình hình của Trung Quốc để có ứng xử hay đối

6TNam 1818 khi Trần Chấn, Nguyễn Hữu Nhân đi Quảng Đồng về, Gia Long 6T30Tđã 6T30Ttriệu 6Ttới

phó kịp thời.

hỏi nhiều về tình hình 44Tở 44TTrung Quốc.

Nhìn toàn cảnh Việt Nam thời Gia Long, có thể nói Gia Long 30Tđã 30Tcó định hướng một

đường lối đối ngoại hòa bình tích cực, và 30Tđã 30Tthực thi đường lối đó có hiệu quả trong những

năm tháng trị vì đất nước. Minh Mạng lên ngôi vẫn tiếp tục đường lối ngoại giao với nhà

Thanh như cha mình. Ông cũng nhận sách phong và triều cống. Ngoài đại lễ sách phong, triều

đình Huế cũng chuẩn bị cho đại lễ Dụ tế diễn ra ngay sau lễ sách phong. Năm Minh Mạng thứ

2, án sát tỉnh Quảng 30TTây 30T(Trung Quốc 30T) 30Tmang 30Tdụ 30Tvăn và vật phẩm tế đến Bắc Thành làm lễ Dụ

tế. Đây cũng là một hoạt động ngoại giao vừa thể hiện và thắt chặt mối quan hệ giữa hai nước

với nhau, vừa là biểu hiện của tình cảm, của nhà Thanh Trung Quốc đối với nước láng giềng

Việt Nam.

Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời Minh Mạng gặp nhiều khó khăn,

rắc rối ở biên giới mà nguyên nhân thường do phía Trung Quốc 43Tgây 43T ra. Năm 1831, Trung

Quốc đem một đạo quân hơn 600 người vượt qua biên giới Việt Nam đòi giao vùng Phong

Thu (Hưng Hóa) cho Trung Quốc. Minh Mạng đã phải tiến hành một cuộc đấu tranh trên cả

hai mặt trận ngoại giao và quân sự. Để bảo vệ mối quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh nhưng kiên

quyết trước hành động sai trái của Trung Quốc, Minh Mạng khẳng định “Tỉnh Hưng Hóa giáp

liần với nhà Thanh, nhưng bờ cõi riêng biệt, quan ngoài biên của nước Thanh lại bày việc như

thế, thời ta phải có đường lối xử trí” [72, 111, 243 - 244]. Một mặt, Minh Mạng cho tăng

cường quân lực đến Hưng Hóa (chuyển thêm cho Hưng Hóa 1000 quân, 13T10 13Tvoi chiến... ). Mặt

khác Minh Mạng “ sai quan tỉnh ấy là bọn Nguyễn Văn Tín, Ngô Huy Tuấn đi án ngự, một mặt

53

tư sang quan tỉnh Vân Nam lấy nghĩa lý trách bảo” [72, HI, 244 ]. Minh Mạng khẳng định

“đồn Phong Thu nguyên lệ thuộc bản triều ... bất tất phải bàn” [62, 376], ông khuyến cáo phía

nhà Thanh không nên nghe những lời xúi giục bởi lẽ “... bờ cõi đã rõ ràng, không nên nghe lời

tên Điêu Doãn An mà sanh việc ngoài biên” [69,150 ]. Sau đó, triều Thanh Trung Quốc đã cử

sứ giả đem thư hỏa tốc sang Việt Nam đề nghị giải quyết vụ việc trên bằng thương lượng hòa

bình.

Trên cơ sở tăng cường thực lực quân sự, Minh Mạng tiến hành các hoạt động ngoại giao,

thương thuyết và ông đã bước đầu thành công trong việc buộc quân Trung Quốc rút quân về,

trả lại sự yên ổn cho vừng biên giới. “Người nước Thanh hối hận là đã nghe 42Tnhầm 42Tngười Điêu

Doãn An mà đem quân trở về” [72, 111, 244 ]. Như vậy, đấu tranh ngoại giao vẫn luôn là mặt

trận mà triều Nguyễn chú trọng trong quan hệ với nhà Thanh để bảo đảm cho hòa bình lâu bền

giữa hai quốc gia Việt - Trung vào nửa đầu thế kỷ 19. Tiếp đó, để phòng sự rắc rối có thể xảy

ra, triều Nguyễn đã cho tu sửa những thành trì giáp giới với Trung Quốc, đắp lại bia, cột mốc

ở vùng biên giới v.v... Tuy vậy, dưới thời Minh Mạng những rắc rối biền giới vẫn tiếp diễn.

Năm Minh Mạng thứ 9, một võ quan Trung Quốc lại tự tiện vượt biên trái phép để bắt phạm

nhân. Năm Minh Mạng thứ 1 1 và 12, đều có người vượt biên để làm điều trái quấy và Minh

Mạng đã phải cho Bộ Lễ làm công văn gởi sang tỉnh Vân Nam - Trung Quốc để báo những vụ

việc đó. Trong quan hệ Việt - Trung 42Tở 42Tbiên giới, triều Nguyễn đã có chủ trương rất đúng đắn:

“Ta tùy việc châm chước hành động hợp với lẽ phải, không để gây thành hấn khích 42Tở 42Tbiên giới

cũng là việc tốt” [62, 375 ]. Phía Trung Quốc còn hay gây ra những vụ xâm phạm trên hải

phận Việt Nam, năm Minh Mạng thứ 15 thuyền của người Trung Quốc tự tiện đến Hải Dương,

vua chỉ cho ban “hiểu dụ” để họ về, nếu họ chống lại mới dùng biện pháp cứng rắn, Minh

Mạng cẩn thận dặn các quan địa phương “việc quan hệ đến bờ cõi đất nước láng giềng, ngươi

nên làm thế nào sức rõ cho phái viên hiểu, bảo thật khéo, cần khiến cho người nước Thanh tự

khuất phục, chớ nên mượn cớ sinh sự mới được” [62, 378]. Cho đến thời Tự Đức, từ 1851

vừng biên giới Việt - Trung thường có những rối loạn do những người Trung Quốc vượt biên

sang hoặc những toán phỉ Trung Quốc gây nên. Triều Nguyễn đã phải đối phó rất vất vả. Năm

1852 viên 6Tphủ Khai Hoá Trung Quốc vu cáo dân ta vượt biên để 6T21Tg â y 6T21Tra vụ xâm lấn 6Tvùng biên

giới Tuyên Quang (địa phận xã Bình Di), tháng 6 năm 1852 vua 6TTự 6TĐức phái Nguy Khắc

Tuấn đi kinh lý Tuyên Quang để định lại địa giới.

54

Ngoài việc thường xuyên thăm hỏi qua lại giữa hai nước, triều Nguyễn và nhà Thanh

cũng thông báo cho nhau những sự kiện chính trị nổi bật trong mỗi nước.

Vào năm Minh Mạng thứ nhất “Bắc Thành Tổng Trấn tâu đệ một ống long đồng của

Trung Quốc trong ấy có 1 đạo chiếu thư về việc truy tôn thụy hiệu của Gia Khánh hoàng đế,

cùng tờ trát của phủ Thái Bình và chiếu hội của Tuần vũ Quảng 43TTây 22T43Tvề 22Tviệc chuyển phát

chiếu thư nói trên” [50, 11, 18]. Cũng trong năm Minh Mạng đầu tiên, Trung Quốc cũng gởi

sách Thời Hiến thư cho triều Nguyễn, hai bên đã có sự trao đổi, giao lưu sách báo chính trị, tài

liệu cho nhau, quan hệ Việt - Trung gần gũi và 43Tthâ n 43T thiện hơn... chính sử triều Nguyễn đã ghi

lại là Triều Nguyễn có “nhận 1T101 1Tquyển Thời Hiến Thư năm Đạo Quang thứ nhất...”

[50,11,22]

Nhìn chung, từ thời vua Gia Long đến thời vua Minh Mạng hoạt động ngoại giao giữa

nước ta và Trung Quốc diễn ra thường xuyên và đa dạng. Thời vua Minh Mạng quan hệ biên

giới Việt - Trung tuy có những lúc căng thẳng, có xảy ra xung đột nhưng nhà Nguyễn đã khéo

léo dùng lý lẽ giải bày, thương thuyết nên 30Tđã 30Tdàn xếp được bất đồng và giữ yên được vùng

biên cương phía Bắc của tổ quốc. Trong những trường hợp đặc biệt như trường hợp vùng châu

Vĩnh An 42Tở 42Tngoài bể, thì Minh Mạng lại có cách xử trí khác nhưng cũng không gây mâu thuẫn

với Trung Quốc. Ông cho rằng: “việc đó không quan hệ về bờ cõi nước nọ tới nước kia, phải

qua bao nhiêu sự triết lý không gì bằng dân ở chỗ giáp giới cho chuyển dần về nước ta, thời

không phải hành động mà tỉnh Quảng Đông bên nước Thanh tự nhiên phải nghe theo”

[72,111, 271 ]. Sau khi Minh Mạng băng hà, vua Thiệu Trị lên nối ngôi, ông cũng đặt vấn đề

quan hệ với Trung Quốc lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế của triều Nguyễn. Những người

được cử đi sứ Trung Quốc phải là người thi cao học rộng, giỏi lý lẽ. Khi lên ngôi Thiệu Trị

cũng xin sách phong từ nhà Thanh và tuân theo các nghi lễ ngoại giao vốn có từ thời Minh

Mạng.

Để không tự gieo bất hòa hay tạo nguyên cớ làm cho quan hệ giữa hai nước xấu đi, vua

Thiệu Trị cũng rất thận trọng trong những vấn đề liên quan tới biên giới phía Bắc. Ví dụ sau

đây sẽ chứng minh hùng hồn nhận định trên. Số là giáp biên giới Trung Quốc, ở Tụ Long (Việt

Nam) có một bia đá làm mốc, lâu ngày nên gãy đổ. Tỉnh Thần đề nghị làm lại bia mới thì

Thiệu Trị không ưng chuẩn, theo ông “dựng bia là tỏ rõ sự tin cậy mà làm rõ biên giới, một khi

thành rồi không thể thay đổi, Vả lại bia ấy là hội đồng với nước Thanh dựng lên, sự thể lại

càng quan trọng, lâu ngày hoặc có nghiêng đổ, thì tùy nghi sửa chữa lại” [62, 388].

55

Dưới triều Thiệu Trị, việc hợp tác để giữ gìn sự bình yên trong quan hệ hai nước về vấn

để biên giới 6Tcàng 6Tđược tăng cường. Nhà Thanh cũng nhiều lần giải phạm nhân Việt Nam sang

trả lại cho triều đình Huế xét xử và ngược lại. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước cho đến thời

Thiệu Trị về cơ bản vẫn bình yên, ổn định. 43TVào 43Tnăm 1846 vua Thiệu Trị 6Tđả 6Tphản ánh tình hình

chung qua nhận xét: “Trong ngoài yên lặng, chánh sự hơi giản...” 6TNăm 6T1847, Tự Đức lên ngôi,

trong “Bang giao chiếu”, ông đã nêu mục đích, tầm quan trọng của vấn đề ngoại giao. Đó là:

Muốn dân chúng yên ổn, nước nhà hòa mục 43Tvà 43Tphát triển, theo ông: “Việc bang giao nếu

không được thiết lập thì không những không giúp đỡ mà những vùng đất xa kinh đô như biên

giới, thành Thăng Long sẽ bị quấy nhiễu và dẫn đến tai họa chiến tranh” [90, 75]. Sau khi lên

ngôi, Tự Đức cầu phong và năm 1849 sứ Trung Quốc sang Việt Nam để làm lễ sách phong và

lễ Dụ tế tại kinh đô Huế. Đến thời Tự Đức, triều Nguyễn ngoài việc 6Tđối 6Tphó với nhiều khó

khăn trong nước còn phải đối phó với nạn tàn quân của phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở

Trung Quốc tràn sang như 6Tquân 6TCờ đen, Cờ 6Tvàng, 6TCờ trắng... ngày 43Tcàng 43Tnhiều. Việc dẹp loạn

tàn quân này có sự phối hợp của hai nhà 22Tnước 22TTrung Quốc và Việt Nam. Triều Nguyễn phải

cử quân đi dẹp và thường xuyên có những tiếp xúc ngoại giao với 11Tchính 11Tquyền Quảng Đông,

Quảng Tây để giải quyết các vụ việc phía Trung Quốc vi phạm lãnh thổ vùng biên giới của

Việt Nam.

Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục trao đổi sứ cho đến năm 1853 thì con đường đi sứ

Việt Nam - Trung Quốc bị quân khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc cắt đứt. Tháng 5 năm 1856

chính quyền Mãn Thanh 43Tbáo 43Tcho triều đình Huế biết “họ đã quyết định hoãn việc triều cống

cho đến khi dẹp yên cuộc nổi dậy 44Tở 44Tcác tỉnh phía nam” [132, 566]

Khi thực 6Tdân 6TPháp nổ súng xâm lược Việt Nam (1858) thì những liên hệ ngoại giao với

nhà Thanh (Trung Quốc) cũng trở nên khó khăn và thực chất quan hệ ngoại giao giữa triều

Nguyễn và triều Thanh đã chuyển sang một khúc quanh khác trong lịch sử quan hệ hai nước.

2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Trung Quốc

trong nửa đầu thế kỷ 19:

2.3.1. Xét về phía triều Nguyễn:

Gia Long khi lên ngôi, một triều đại phong kiến mới trong lịch sử vào 45Tnăm 45T1802,

đã nối lại quan hệ với 45Tnhà 45TThanh (Trung Quốc), về cơ bản đường lối ngoại giao mà Gia

Long hoạch định không có gì khác biệt lớn so với nhà Lê hoặc với các triều đại phong

56

kiến truớc đó. Nhằm đạt mục đích 45Tlà 45Tgiữ yên vùng địa đầu của Tổ Quốc, vua Gia Long

duy trì mối quan hệ “thần phục” Trung Quốc, đề nghị được đứng vào đội ngũ chư hầu

của nhà Thanh. Như vậy, về hình thức và nội dung phương pháp biểu hiện, mối quan hệ

Việt Nam - Trung Quốc vẫn không có gì thay đổi. Nhưng xét thực chất mối quan hệ này

thì đã không còn như ở thời kỳ lịch sử trước. Hoàn cảnh lịch sử vào đầu thế kỷ 19 đặt ra

những yêu cầu để Gia Long hoạ ch định nên chiến lược ngoại giao với Trung Quốc như

đã 45Ttrình 45Tbày. Nhưng cũng chính hoàn cảnh lịch sử đã làm biến đổi về thực chất mối quan

hệ này. Quan hệ ngoại giao mang hình thái “Chư hầu và Thiên tử” giữa hai nước Việt -

Trung suốt nửa đầu thế kỷ 19 tiến triển bình yên nhưng không thể khẳng định như

Maybon (một sử gia người Pháp): “mối quan hệ giữa hai nước đều 45Ttốt 45Tđẹp cả”

[144,376]. Nhiều nhân tố thiếu tin cậy và nổi lo lắng về sự can thiệp của Trung Quốc

luôn thường 45Ttrực 45Tở biên ải Việt - Trung và điều này có khả năng phá vỡ sự hòa hiếu do

đường lối ngoại giao mềm mỏng, khéo léo của triều Nguyễn đem lại.

Trong 45Tnửa đầu 45Tthế kỷ 19 do 45Thoàn 45Tcảnh lịch sử chi phối liên cả triều Nguyễn lẫn nhà

Thanh đều có yêu cầu “cùng tồn tại hòa bình”, quan hệ hai nước khá ổn định đã tạo nên

nhân tố khách quan 45Tthuận 45Tlợi cho triều Nguyễn xây dựng củng cố triều đại và đất nước.

Đây là môi trường quốc tế bình yên, ổn định nhằm góp phần giúp Gia Long tranh thủ

thời cơ chấn chỉnh phục hồi đất nước sau nội chiến. Kinh nghiệm của cuộc đời gian nan

chiến trận đã tạo cho Gia Long nhãn quan chiến lược đối ngoại thận trọng 45Tvà 45Tnhạy cảm,

đặc biệt trong quan hệ với Trung Quốc - đối tượng ngoại giao quan trọng hàng đầu.

Ngay khi cuộc chiến với Tây Sơn chưa chấm dứt, Nguyễn Ánh - Gia Long đã vạch ra

một chiến lược ngoại giao với Trung Quốc, tận dụng 6Ttranh 6Tthủ mọi thời cơ để gặp gỡ,

bàn bạc, thương thuyết với nhà Thanh để cuối cùng 6Tgiành 6Tđược sự công nhận của Trung

Quốc vào 6Tnăm 6T1804.

Thực chất của quan hệ ngoại giao là quan hệ Lợi - Hại. Nếu đánh giá những cố

gắng của Gia Long trong đường lối đối ngoại, nhất là đối với Trung Quốc xét theo

mối 6Tquan 6Thệ Lợi - Hại, chúng ta dễ thông cảm với Gia Long hơn. Lấy “Lợi” làm trọng sẽ

hiểu rõ vì sao Gia Long khẩn thiết xin được sách phong đến thế, vì sao ông sẵn sàng

chấp nhận phận một chư hầu, chịu thần phục và triều cống. Đường lối ngoại giao của

Gia Long hoạch định mang nội dung, tính chất truyền thống, 22Tvà 22Ttrong mối quan hệ với

Trung Quốc nó còn mang tính bắt buộc. Hoạt động “sách phong” và “triều cống”

57

còn 43Tphản 43Tánh bản chất mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và thiện chí của triều

Nguyễn mong muốn tránh họa binh đao. Là một nước nhỏ Việt Nam luôn ý thức về sự

bất lợi của chiến tranh, do vậy “thần phục” để mang lại hòa bình là cần thiết hơn bao

giờ hết. Đây chưa hẳn là thành tựu của đường lối ngoại giao hòa bình của vương triều

Nguyễn nhưng chắc chắn là một đóng góp tích cực để củng cố quan hệ hòa hiếu giữa hai

dân tộc, hai đất nước vốn có quan hệ từ lâu đời nay.

Dưới hình thức phụ thuộc trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, triều Nguyễn

đã thể hiện một nghệ thuật ngoại giao ứng xử mang bản sắc Việt Nam tiêu biểu. Đó là

kiểu quan hệ “Thần phục giả danh - Độc lập thực tế” (Vassalité fictive - Indépendence

réelle). Đây là nhận định ngắn gọn và khá chính xác vế thực chất quan hệ Việt -Trung

dưới thời Nguyễn của hai nhà Vi ệt Nam học người 6TPháp P6T. Huart và M.Durant.

Hầu như không có một sự kiện lịch sử nào chứng tỏ vào nửa đầu thế kỷ 19, với

việc tuân thủ những nguyên tắc ngoại giao cổ truyền với Trung Quốc, các vua Nguyễn

đã làm mất thể diện quốc gia, hoặc làm tổn hại và hạn chế chủ quyền của đất nước. Do

vậy, những đánh giá thực chất về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ

19 đã có từ trước đến nay là 43Tkhá 43Tthống nhất. Phần lớn đều cho rằng Việt Nam nửa đầu

thế kỷ là một quốc gia phong kiến độc lập có chủ quyền trong các chính sách đối nội,

đối ngoại của mình. Triều Nguyễn tuy có thần phục, chịu sách phong và cống nạp

nhưng thực chất quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không phải là mối quan hệ phụ thuộc,

của Việt Nam vào Trung Quốc. Theo Stepanov (một nhà nghiên cứu người Nga), chủ

quyền bảo hộ của hoàng đế Trung Quốc thực chất chỉ giới hạn trong phạm vi vua chúa

Việt Nam phải gởi quan sứ đến Bắc Kinh. J. Butlinger thì khẳng định “vào đầu thế kỷ

19, Việt Nam là quốc gia độc lập, tự chủ” [111, 128]. Cùng quan điểm với Buttinger có

Deviller, ông này cho rằng Việt Nam là “một quốc gia độc lập tự chủ. Nếu vua An Nam

xin được triều cống cho Trung Quốc thì đơn giản đó là một điều kiện không ngoài sự

biểu hiện tôn trọng một nền văn minh, bộ phận không thể thiếu được của Việt Nam như

là Triều Tiên đã có” [125, 11].

Ngược lại với loại quan điểm trên, Maybon, Taboulet ( người Pháp) cho là “Nước

đã lấy tên là Việt Nam nửa 42Tđầu 42Tthế kỷ 19 là một chư hầu trung 17Tthành 17Tcủa Trung Quốc”

[133, 378]. Đây 17Tlà 17Tnhững đánh giá theo biểu hiện bề mặt của vấn đề, thực tế lịch sử đã

chứng minh, Trung Quốc không hề can thiệp hay không thể can thiệp hoặc đầu tư chính

58

trị vào Việt Nam được, “vai trò chư hầu của Việt Nam chỉ được xác định ở cống vật,

thuần túy về danh nghĩa, bởi vì trong các vấn đề của chính sách đối nội, đối ngoại cho

tới nữa sau thế kỷ 19, Việt Nam hoàn toàn độc lập” [21,100].

Những đánh giá của giới sử học Việt Nam về thực chất quan hệ ngoại giao giữa

Triều Nguyễn với Trung Quốc có thể xếp thành hai khuynh hướng: Các tác giả bộ sử

“Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” và các giáo trình lịch sử Việt Nam thì cho rằng:

“Việt Nam hoàn toàn là nước chư hầu trong mối quan hệ với triều đại Mãn Thanh” [95,

475, 476] còn một số tác giả khác dường như lúng lúng khi nhận định thực chất quan hệ

Việt Nam - Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19, cho là vừa độc lập vừa phụ thuộc.

Theo chúng tôi, Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19 là một vương quốc độc lập, tự chủ.

Ngai vàng phong kiến Việt Nam luôn được thừa kế theo kiểu cha truyền con nối, không

phụ thuộc vào ý đồ (nếu có) của nhà Thanh (Trung Quốc). Mọi mưu toan xâm lược,

bành trướng của “Thiên triều” Trung Quốc đều bị Việt Nam chống trả quyết liệt và Việt

Nam trong đầu thời Nguyễn đã bảo vệ có hiệu quả tổ quốc mình. Nhận thức sâu sắc giá

trị bình yên trong quan hệ với Trung Quốc, triều Nguyễn thực thi chiến lược ngoại giao

“thần phục” Trung Quốc nhưng luôn tích cực phòng bị và chủ động chống trả phía

Trung Quốc nếu bên này xâm lấn. Triều Nguyễn đặt vấn đề cũng cố xây dựng quốc

phòng lên hàng đầu, đặc biệt là khu vực biên giới giáp Trung Quốc. Vua Minh Mạng

thường lưu ý với triều thần “khu vực này tiếp giáp với Trung Quốc ... chúng ta chỉ có

thể củng cố mạnh hơn vùng biên giới nhưng không thể tự mình gieo bất hòa, để tạo ra

sự thù địch ở biên giới” [70, III, 170]. Triều Nguyễn cẩn trọng gìn giữ quan hệ hòa bình

với Trung Quốc, nhưng Triề u Nguyễn không hề lệ thuộc nhà Thanh. Thần phục vừa là

chiến lược vừa là sách lược ngoại giao, tiêu biểu cho đường lối đối ngoại “Bạch ngọc

dại can qua” (ngọc lụa thay giáo mộc). Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam thời phong

kiến, quan h ệ Việt Nam - Trung Quố c chi phối sâu sắc quan hệ Việt Nam với các nước

khác quan hệ Việt Nam - 1TChân 1TLạp, Việt Nam - Vạn Tượng, Triều Nguyễn cũng thể

hiện tư thế “nước lớn” của mình như Trung Quốc đã làm đối với ta.

Đó có những ý kiến không đồng nhất khi đánh giá thực chất quan hệ ngoại giao

Việt Nam - Trung Quốc trong nửa đầu thể kỷ 19, nhưng chúng ta cũng phải công bằng

nhìn 45Tnhận 45Trằng: Trung Quốc tuy danh xưng là “Thượng Quốc”, vẫn chẳng thể dùng

mệnh lệnh của mình để buộc chư hầu Việt Nam làm theo ý họ được. Qua vấn đề đổi

59

quốc hiệu chúng ta biết Gia Khánh đã kiên quyết trả lời Gia Long “đề nghị

đó 45Tnhất 45Tquyết không thể chấp nhận được...” [114, 17], 45Tnhưng 45Tcuối cùng Gia Long vẫn có

quốc hiệu mới và cũng nhận sách phong. Đ ến năm 1838, Minh Mạng tự ý đổi tên nước

thành “Đại Nam” mà cũng không cần thông qua ý kiến của Trung Quốc mà Trung Quốc

cũng chẳng thắc mắc hay có vấn đề gì. Các vua Nguyễn bằng cách này hay cách khác đã

vượt qua những chuẩn mực giới hạn về nguyên tắc ngoại giao “nước nhỏ - nước lớn” để

cai trị đất nước của mình với đầy đủ quyền lực thực tế của một vị hoàng đế. Không

những Việt Nam không lệ thuộc vào Trung Quốc mà khi cần thiết vẫn sẵn 45Tsàng 45Tdùng

những biện pháp, cứng rắn kể cả vũ lực để giải quyết bất đồng với Trung Quốc, trong

trường hợp mọi cố gắng để thương lượng đều bế tắc trường hợp tranh chấp vùng Phong

Thu, Minh Mạng 30Tđã 30Tphải điều 45Tquân 45Tđội đến buộc Trung Quốc 45Tphải 45Tlui binh vào năm

1831). Thậm chí nước “chư hầu” này cũng không dấu diếm quan điểm coi thường

“Thượng quốc” qua sự thất bại của nước này trong cuộc chiến tranh thuốc phiện (1840

- 1842) Minh Mạng 6Tđã 6Tmỉa mai nhận xét : “chưa bao giờ đế chế Mãn Thanh to lớn với

một quân đội tám đạo quân đi xâm chiếm các nước chư hầu của mình, mà bấy giờ huy

động tất cả các quân lính ở cả những vùng xa xôi hẻo lánh vẫn không thắng nổi một vài

chiếc tàu” [IU, 124].

Nhìn chung, v ề lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn vào nửa đầu thế kỷ 19 còn có

nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, nhưng sự thực lịch sử đã chứng minh rằng:

Việt Nam là một quốc gia phong kiến hoàn toàn độc lập, thống nhất, có chính quyền

quân chủ trung ương vững mạnh, có uy tín trong quan hệ với các lân bang... Cho đến

đầu thời Tự Đức, Việt Nam tuy có 43Txáo 43Tđộng bởi một số phong nào đấu tranh của nhân

dân nhưng về cơ bản phong kiến triều Nguyễn vẫn còn ở giai đoạn thịnh trị. Tuy vậy, để

đối phó với những biến cố chính trị dồn dập xảy ra trên thế giới và trong khu vực thì

triều Nguyễn lại tỏ ra chậm thích ứng với tình thế, không mạnh dạn có những bước

đột 43Tphá 43Ttrong quan hệ quốc tế, khiến cho ngoại giao Việt Nam thiếu vắng nét linh ho ạt

đổi mới, phù hợp với những thay đổi trong tính chất và nội dung của thời đại. .

2.3.2. Xét về phía nhà Thanh (Trung Quốc).

Nhìn quan hệ Việt - Trung từ phía nhà Thanh có thể thấy rằng cho tới đầu thế kỷ

19, giai cấp thống trị Trung Quốc vẫn duy trì quan niệm cổ xưa cho Trung Quốc 43Tlà 43Tmột

“nước lớn”, coi Việt 27TNam 27Tvà 43Tcác 43Tnước trong khu vực là “nước nhỏ”. Trung Quốc tự

60

cho nước mình đứng ở vị trí trung tâm, và dùng danh xưng “Thiên triều” trong quan hệ

với 43Tcác 43Tnước khác, ngay cả với 43Tcác 22T43Tnước 22Ttư bản phương Tây. Đối với Việt Nam, nước

có vị trí quan trọng đối với Trung Quốc thì Trung Quốc cũng áp dụng các qui tắc ngoại

giao theo trật tự “nước nhỏ” Việt Nam phải thần phục “nước lớn” Trung Quốc. Sau

những mưu toan nhằm khuất phục nước chư hầu Việt Nam không thành công từ cuối

thế kỷ 18 thì ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam ngày càng yếu đi. Cùng thời

này, vấn đề thương mại và bành trướng thuộc địa của tư bản Âu - Mỹ trở thành một

nguy cơ thực tế. Giai cấp thống trị Mãn Thanh thấy cần thiết tiếp tục chính sách bảo vệ

“củng cố vật chắn Việt Nam”, “hàng rào bảo vệ” cho Trung Quốc nên việc tái lập quan

hệ Việt Nam - Trung Quốc từ đầu thế kỷ 19 tiến triển dễ dàng và nhanh chóng.

Dưới thời Gia Long cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai sứ đoàn diễn ra trong không khí

thận hữu đặc biệt: “cuộc tiếp kiến đặc biệt thân ái được tổ chức theo lệnh Hoàng đế

nghênh tiế p sứ bộ của Trịnh Hoài Đức” [70, 111, 30]. Vua Gia Khánh Trung Quốc cần

củng cố ảnh hưởng và gây uy tín với Việt Nam nên đầu thời Nguyễn quan hệ hai nước

suôn sẻ, hòa bình. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc đầu thời Nguyễn được đảm bảo dù

cho nhà Thanh không bao giờ từ bỏ đường lối, chính sách đối ngoại bành trướng đối với

các lân bang trong đó có Việt Nam.

Những điều kiện lịch sử đầu 6Tthế 6Tkỷ 19 là 6Tnhân tố 6Tquan trọng quyết định đối sách

“không can thiệp” đối với Việt Nam. Và nước chư hầu trên danh nghĩa này của Trung

Quốc đã tồn tại hòa bình, trong tư thế luôn khẳng định sự độc lập của mình 6Tđối 6Tvới thiên

triều Trung Quốc.

Nhìn chung, đối với Trung Quốc, Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19 vẫn là một quốc gia

láng giềng có độc lập, chủ quyền 43Tvà 43Tkhông phụ thuộc vào Bắc Kinh trên 11Ttất 11Tcả các

phương điện. Thực chất quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là mối quan hệ bình đẳng của

hai nước phong kiến, tính chất bình đẳng độc lập này do các nhân tố lịch sử khách quan

chi phối, và do tương quan lực lượng hai nước trong thời điểm lịch sử cụ thể qui định.

61

CHƯƠNG 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI NƯỚC

PHÁP NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19

Trong nửa đầu thế kỷ 19 đường lối chính sách ngoại giao đối với phương Tây của

triều Nguyễn được phản ánh khá tiêu biểu trong mối quan hệ với Pháp.

Quan hệ giữa triều Nguyễn và nước Pháp đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm

trong tiến trình lịch sử dân tộc. Trong bối cảnh lịch sử hiện nay, với xu thế hội nhập đa

phương hóa, đa dạng hóa của ngoại giao Việt Nam hiện đại, việc tìm hiểu quan hệ Việt-

Pháp trong nửa đầu thế kỷ 19 là cần thiết nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa

hai đất nước. Từ kinh nghiệm của quá khứ chúng ta có thể rút ra được những bài học

ngoại giao trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay.

3.1. Việt Nam và Pháp - Những cuộc tiếp xúc đầu tiên cho đến cuối thế kỷ 18:

3.1.1. Việt Nam và Pháp (thế kỷ 16 - thế kỷ 18):

Đầu thời cận đại, những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là trên lĩnh vực

giao thông vận tải, đã giúp con người chinh phục được các khoảng cách. Giai cấp tư sản

Âu - Mỹ đã có điều kiện thuận lợi hơn trên con đường đi sang châu Á. Trong quá trình

bôn ba tìm kiếm thuộc địa để đáp ứng nhu cầu phát triển nội tại của chủ nghĩa tư bản,

gia cấp tư sản thực 43Tdân 43TÂu - Mỹ đã chú ý tới châu Á và vùng Đông Nam Á.

Tây Ban Nha là nước đầu tiên thiết lập được hành lang từ Đông sang Tây trên con

đường đến châu Á. Riêng Việt Nam với một vị trí chiến lược thuận lợi, có bờ biển dài

1.200 km nối liền Trung Quốc với vịnh Thái Lan, n ằm xen giữa hại nước lớn của châu

Á là Trung Quốc và Ấn Độ là vị trí lý tưởng cho các nhà hàng hải, thương nhân, với các

hải cảng và đảo quan trọng (Phú Quốc, Hoàng Sa, Côn Lôn...).

Như vậy, trong tầm nhìn của 47Tcác 47Tnước tư bản phương Tây, Việt Nam có một vị trí

quan trọng về chiến lược kinh tế - chính trị.

Quan hệ đầu tiên giữa Việt Nam và các nước phương Tây chỉ là quan hệ buôn bán.

Từ thế kỷ 16, sự mua bán đã được thiết lập giữa chúa Trịnh, chúa Nguyễn với các nước

phương Tây. Đến thế kỷ 17 người Pháp mới xuất hiện tại Việt Nam lúc chiến tranh

Trịnh - Nguyễn đang diễn tiến.

62

Nhìn chung, trong quan hệ buôn bán với người châu Âu, Việt Nam không hề bị lấn

ép, thiệt thòi. Ở Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, chính quyền phong kiế n Việt Nam

“cho phép họ đến buôn 38Tbán 38Tlập thương 38Tquán 38Tmà thôi, ngoài ra họ không được hưởng

điều gì có thiệt hại đến quyền lợi của mình, có khi hứa điều này điều nọ, cũng là hứa

một cách ngoại giao mà thôi” [26, 14].

Trong buổi đầu tiếp xúc với người Âu châu, chúa Trịnh và chúa Nguyễn tuy chưa

định ra một đường lối ngoại giao cụ thể, nhất quán nhưng Việt Nam chưa hề nghi kỵ,

thù ghét phương Tây. 43TCác 43Tchúa 43Tsẵn 43Tsàng mở cửa, hợp 43Ttác, 43Tgiúp đỡ công việc mua bán

của họ. Trái lại, người phương Tây thì tỏ rõ tham vọng của họ “họ đã từng can thiệp vào

những cuộc nội chiến... không những thế, họ lại còn cho tàu vào cướp phá và chiếm đất

đai của ta nữa.Năm 1585 có người Âu ...đem 5 chiếc thuyền cướp phá ở cửa Việt... Năm

1702 một người Anh tên là Danicl Doughty do công ty Đông Ấn Độ sai đem 200 người

cùng thuyền bè đến chiếm đảo Côn Lôn...” [96, 132].

Tư bản Âu - Mỹ tìm đường đến châu Á, ngoài sự thôi thúc cấp bách của nhu cầu

mở rộng thị trường, còn vì nhu cầu mở mang phạm vi truyền giáo, bành trướng thuộc

địa. Với Pháp thì “những việc mua bán thăm dò đầu tiên chỉ được thực hiện sau khi

thành lập các giáo đường Gia tô” [96, 45]. Những hoạt động truyền giáo của người

Pháp ít nhiều đe dọa sự tồn tại của các nguyên lý đạo đức - chính trị Nho giáo, cơ sở

vững chắc của xã hội cổ truyền Việt Nam. Do vậy, vào năm 1630 chúa Trịnh đã trục

xuất giáo sĩ Alecxandre de Rhodes, và thực hiện cấm đạo.

Cuối thế kỷ 17, Pháp lại tiếp tục sang Việt Nam và kiên trì tìm kiếm một thỏa

thuận thông thương. Năm 1669, công ty Đông Ấn của Pháp phái một chiếc tàu tới Đàng

Ngoài xin thông thương và chúa Trịnh đã cho phép họ mở cửa hàng ở phố Hiến. Năm

1682, tàu Saint - Josept của Pháp từ Xiêm cũng đến Việt Nam thông thương... Sang thế

kỷ 18, Pháp vẫn tiếp tục sang Việt Nam với những đề nghị thương mại, như đề nghị của

nhân viên Đông Ấn Pháp, Jacques O' Friell. Jacques O' Friell lúc 43Ttừ 43THuế trở về đã gặp

Dupleix toàn quyền Pháp 43Tở 43TPondichery để đề xuất ý kiến làm ăn với Việt Nam. Sau đó,

O' Friell trở lại Đàng Trong, chúa Nguyễn lúc ấy là Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã

chấp nhận đề nghị buôn bán v ới Pháp, chúa còn cấp sắc văn cho người Pháp.

63

Vào giữa thế kỷ 18, trên thực tế Pháp chú ý nhiều tới Ấn Độ hơn là Việt Nam.

Quan hệ Việt - Pháp chưa gắn bó mật thiết dù Võ Vương Nguyễn Phúc Khoái và Pháp

hoàng cũng có trao đổi thư từ và quà tặng cho nhau. Năm 1749, một thương gia Pháp là

Pierre de Poivre mang thư 43Tvà 43Tquà của vua Pháp tặng Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát,

chúa Nguyễn đã trả lời rất trân trọng: “Tôi kính gửi hoàng thượng cái thư này để tỏ lòng

tôi kính mến quý quốc, thấy hoàng thượng sai một chiếc tàu sang nước tôi thì tôi lấy

làm vui lòng và cảm ơn hoàng thượng lắm. Ước gì từ rày trở đi quý quốc với nước tôi

hai bên được thân cận với nhau như là một nước, thì tôi lấy làm thỏa lòng lắm”

[133,94].

Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể đó, chúng ta có thể thấy rằng trong buổi đầu gặp

gỡ với nước Pháp, Việt Nam không hề quay lưng khước từ quan hệ với phương Tây.

Chúa Nguyễn cũng như chúa Trịnh đều mong muốn có mối quan hệ hòa hiếu với Pháp,

và bình đ ẳng về lợi ích.

Năm 1763, Pháp thất bại trong chiến tranh với Anh phải ký hòa ước Paris nhường

vùng thuộc địa của Pháp tại Ấn cho Anh. Công ty Đông Ấn giải thể, do đó việc bành

trướng của tư bản Pháp tại khu vực Á châu khó khăn hơn, chính vì thế tư bản Pháp phải

tìm một hướng khác để có thể phát triể n phạm vi thế lực của mình. Việt Nam trở thành

vị trí chọn lựa của tư bản Pháp, là đối tượng để Pháp 42Ttìm 42Tmọi cách xâm nhập. Lợi ích

thương mại, tôn giáo và chính trị là yếu tố thúc đẩy Pháp can thiệp vào Việt Nam, đặc

biệt sau khi để mất một phần Ấn Độ vào tay Anh. Chúng ta có thể ít nhiều đồng ý với

nhận xét rằng “âm mưu xâm lược của thực dân Pháp là trường kỳ và liên tục...”

[95,516].

Chính 6Tnhững 6Ttham vọng và âm 6Tmưu 6Tđen 30Ttối 30Tcủa Pháp 30Tđã 30Ttạo nên những khó khăn

ban đầu trong quan hệ Việt - Pháp. Năm 1750, Poivre, thương gia Pháp 30Tđã 30Tcó những

hành động ngang ngược, coi thường luật pháp Việt Nam: Trước khi rời Đà Nẵng,

Poivre còn cho bắt một thông ngôn người Việt khiến chúa Nguyễn và dân chúng rất bất

bình, phẫn nộ. Đó chính là lý do Võ Vương ra lệnh trục xuất hết giáo sĩ ra khỏi nước ta.

Cuối cùng viên toàn quyền Pháp 42Tở 42TẤn phải thương lượng và đồng thời với việc xin lỗi,

Pháp đã phải trả lại viên thông ngôn kia, v ụ việc trên mới được dàn xếp.

64

Đến thế kỷ 18, Pháp vẫn chưa có một vị trí đáng kể trên lĩnh vực thương mại với

Việt Nam: “thực tế, các việc của công ty Đông Ấn thu gọn trong vài chuyến đi có tính

cách buôn bán, còn kế hoạch xây dựng cơ sở thì chẳng bao giờ được thực hiện cả.

Chúng ta có thể nói rằng cho đến cuối thế kỷ 18 thương mại của Pháp không có đại diện

nào ở Việt Nam ngoài các nhà truyền đạo” [97, 49]. Hoàn cảnh lịch sử nước Pháp vào

thời điểm này đã có tác động sâu sắc đến công cuộc chinh phục “những miền đất lạ”

của 6Ttư 6Tbản Pháp. Cuộc đại cách mạng 1789 đã gây nên những rung chuyển chính trị

không những ở nước Pháp, và cả châu Âu, châu 6TMỹ.

Khi nước Pháp đang chiến tranh và cách mạng, thì tại Việt Nam cuộc chiến giữa

Tây Sơn và Nguyễn Ánh kết thúc, chúa Trịnh không còn, giang sơn Việt Nam được

thống nhất. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua hiệu là Gia Long. Hai năm sau

Napoleon 6TI 6Tcũng lên ngôi hoàng đế nước Pháp. Napoleon 6TI 6Tđã củng cố và tăng cường

quyền lực của mình bằng các cuộc chiến tranh xâm lược, biến Pháp thành một đế chế

thật sự phục vụ cho quyền lợi của đại tư sản. Hoàng đế Pháp đã cử tướng Decaen chỉ

huy quân đội viễn chinh, chiếm đóng những vùng thuộc Pháp ở Ấn Độ Dương. Đồng

thời Napoleon 6TI 6Tcòn lưu ý việc đặt những cơ sở quân sự 43Tở 43Tvùng bể Trung Hoa.

Như vậy, từ thế kỷ 16, Việt Nam đã tiếp xúc và có những quan hệ bước đầu với thế

giới Âu - Mỹ. Trong buổ i đầu tiếp xúc, Việt Nam đã mở rộng cửa tiếp đón người ngoại

quốc, với tình cảm mến khách và thân thiện, chính quyền hai miền ở Việt Nam dễ dãi

tạo điều kiện cho người phương Tây đến làm ăn, sinh sống. Người Pháp cũng hiện diện

trên đất nước ta để 1Tbuôn 1Tbán, và họ luôn gặp phải sự cạnh tranh của các nước khác, nhất

là Anh. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18, những hiểu biết về nhau giữa hai nước Việt Nam và

Pháp còn chưa nhiều. Phương Đông và phương 16TTây 16Tvẫn còn xa lạ với nhau, chưa có

nhiều những quan hệ tương giao và phát triển. Tuy vậy, những cuộc tiếp xúc đầu tiên đã

có giữa Việt Nam và 22Tnước 22TPháp sẽ là tiền đề quan trọng cho quan hệ Việt - Pháp sau

này.

3.1.2. Quan hệ giữa Nguyễn Ánh - Gia Long và người Pháp vào cuối thế kỷ 18:

Nguyễn Ánh là người lập nên triều Nguyễn, là vị vua đầu tiên của triều đại này

tiếp xúc và có quan hệ mật thiết với Pháp. Từ 1784-1802, Nguyễn Ánh phải lao vào một

cuộc chiến liên tục sống còn chống lại Tây Sơn, ông bị đặt vào tình thế phải chiến thắng

65

Tây Sơn hoặc bị tiêu diệt. Vì vậy, vị chúa Nguyễn này 13Tdù 13Tcầu trợ thế lực bên ngoài

không chỉ bằng tinh thần mà còn vật chất. Trong tình thế hiểm nguy, Nguyễn Ánh đã

gặp cái phao “cứu hộ” là Giám mục Pigneau de Behaine - Bá Đa Lộc, những hứa hẹn

giúp đỡ của Bá Đa Lộc đáp ứng được nguyện vọng khẩn thiết của vị vương thất thế, và

tạo ra những liên hệ ràng buộc giữa cá nhân Nguyên Ánh với Bá Đa Lộc.

Khi tạo lập quan hệ với người Pháp, Nguyễn Ánh nhằm vào mục đích trước mắt,

ông chỉ muốn lợi dụng thực lực và kỹ thuật 6Tquân 6Tsự phương Tây để phục hồi quyền binh

cho họ Nguyễn. Vì quyền lợi tối cao của dòng họ mà Nguyễn Ánh đã xem nhẹ hậu quả

của những ràng buộc với 43TPháp 43Tsau này. Để thoát ra khỏi thế bế tắc mà ông đang gặp

phải, Nguyễn Ánh đã từng cầu viện quân Xiêm La, đã định cậy nhờ một số nước khác,

rồi cuối cùng là nước Pháp. Mối liên hệ với Pháp 58Tcủa 58TNguyễn vương đã khởi đầu một bi

kịch cho dòng họ Nguyễn trong suốt lịch sử thời cận đại.

Các sách chính sử, thông sử đã chưa thấy có sự khẳng định thời điểm cụ thể mà

Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc gặp nhau, tất cả đều áng chừng “có thể Ánh đã li ếp xúc với

giám mục vào kỳ đánh chiếm lần hai (đánh chiếm Gia Định), vì hồi tháng 9, 13T10 13Tnăm

1777 Nguyễn Ánh 13Tđã 13Ttỵ nạn tại khu rừng gần chủng viện (trường đào tạo các giáo sĩ và

thầy giảng của Công giáo) của giám mục, rồi giám mục đã giúp Ánh gạo, nước, lương

thực qua sự trung gian của linh mục Paul Nghị. Giám mục còn tìm đường cho Ánh tẩu

thoát ra Cù lao Poulo PanJang nữa” [75, 158]

Nguyễn Ánh với ý đồ lợi dụng Bá Đa Lộc 22Tvà 22TPháp để đạt chiến thắng, còn Bá Đa

Lộc thì muốn phát triển ảnh hưởng Thiên chúa giáo, ảnh hưởng chính trị

cho 43Tnước 43TPháp tại xứ sở châu Á này.

Năm 1778, khi Nguyễn Ánh đang 42Tở 42TGia Định, cơ sở truyền đạo của Bá Đa

Lộc 42Tở 42THà Tiên bị phỉ Miên cướp phá phải dời về Biên Hòa tạo điều kiện cho quan hệ

Nguyễn Ánh - Bá Đa Lộc thân thiết, gần gũi hơn. Tuy nuôi dưỡng những ý đồ chính trị

khác nhau, nhưng Nguyễn Ánh và 43TBá 43TĐa Lộc có chung một điểm là giành chiến thắng

cho Nguyễn Ánh. Bá Đa Lộc ngày càng tích cực “can dự 22Tvào 22Tviệc Nam Kỳ, cùng Ngài

(tức Nguyễn Ánh) bàn tính về binh bị, chính trị” [26, 55]. Từ tháng 3 năm 1782 đến

giữa năm 1783, Nguyễn Ánh đã có một cuộc gặp gỡ quan trọng với Bá Đa Lộc tại Chan

- bôn (Xiêm - lúc này Nguyễn Ánh đang chạy trốn tại Xiêm). Trong cuộc gặp gỡ này,

66

Nguyễn Ánh đã đề nghị với Bá Đa Lộc rằng: “Ngươi có thể về Đại Pháp nhờ quí quốc

đem quân sang giúp ta được không?” [68, 12]. Theo thư của vị giám mục này viết lại (lá

thư ngày 20-3-1785) thì “Từ đầu tháng giêng 1784 đến tháng chạp năm ấy, giám mục

và Nguyễn Ánh hai lần họp mặt ở Poulo-Panjang...” [13, 163]. Kết quả những lần gặp

gỡ đó là quyết định của Nguyễn Ánh : “Các nước giao hiếu với nhau, đem con làm tin,

con ta là Cảnh mới 4 tuổi, vừa rời tay mẹ, ta giao Cảnh cho ngươi, nhờ ngươi trông nom

cho” [69, 12]. Như vậy, Nguyễn Ánh đã giao con trai mình và đặt vận mệnh nước nhà

vào tay Bá Đa Lộc. Để cầu viện từ Pháp, Nguyễn Ánh cùng cận thần của ông thảo một

văn bản 13 điều, trong điều 8, 9, 13T10 13Tquy định cụ thể. Pháp giúp Nguyễn Ánh thì đổi lại

Nguyễn 48TÁnh 48Tnhường Cù Lao Hàn (quyền sở hữu cửa bể Hàn thuộc Pháp), đảo Côn Lôn

cũng nhường cho Pháp. Điều 12 quy định Pháp được tự do buôn bán ở Việt Nam.

Nguyễn Ánh còn giao cho giám mục Bá Đa Lộc quyển xem xét những điều mà nước

Pháp có thể nêu ra, nhưng không có trong văn 42Tbản 42T(nếu điều ấy không thiệt hại đến

quyền lợi Việt Nam). Ngoài 48Tvăn bản giao kèo trên, 48TNguyễn 48TÁnh cũng viết lá thư đầu

tiên 48Tcho hoàng đế Pháp “Mặc dù bản quốc và quí quốc cách xa nhau vạn dặm, nhưng tôi

chắc rằng Hoàng đế sẽ vui lòng tin tưởng ở lòng thành thực của tôi nên tôi mới quyết

định, sau khi đã thảo luận với giám mục 42TBá 42TĐa Lộc, để đệ lời yêu cầu lên hoàng đế. Tôi

gởi giám mục con tôi để hoàng đế có thể tin ở 48Tgiám 48Tmục, và để giám mục giúp tôi trở lại

bản quốc” [75, 164]. Ngày 19-11-1784, đoàn 42Tcầu 42Tviện lên đường. Tin tức về chuyến đi

đã lan sang Pháp, gây nên những cuộc thảo luận về lợi ích mà nước Pháp đạt được.

Người Pháp đánh giá cao về vị trí chiến lược của Việt Nam: “Nam Hà là một nước

phong phú có nhiều quí vật, xứ này lại gần Phi Luật Tân, nếu thành căn cứ thương mại,

thì căn cứ này sẽ phát đạt bậc nhất ở đây.

Hải cảng Tourane sẽ được coi là một trung tâm điểm giữa Trung Quốc và Phi Luật

Tân cùng eo biển Malacca. Về phương diện quân sự, Tourane đo vị trí quân sự của nó sẽ

giúp ta ngăn chặn ngành thương mại quan trọng nhất của địch quốc” [75, 165]. Tháng 6

năm 1786, một chiếc tàu Pháp được giao nhiệm vụ đi dò la xem xét tình hình Việt Nam,

vẽ bản đồ các vịnh, cảng, bãi biển... Nước 42TPháp 42Tđã dự 42Ttính 42Tkỹ những lợi ích mà họ sẽ

có 42Tở 42TViệt Nam nên xúc tiến việc thăm dò, tìm hiểu. Ngày 24-7-1787, Pháp cử một đoàn

điều tra tiếp tục sang Việt Nam. Lúc này phái đoàn của Bá Đa Lộc đi cầu viện đã tới

Paris, triều đình Louis 16 đang lúng túng trong nhiều vấn đề cần giải quyết như:

67

vấn 13Tđề 13Ttài chính ki ệt quệ, kinh tế sa sút và nội bộ đang lao đao do tham gia cuộc chiến

tranh giành độc lập 42Tở 42TBắc Mỹ. Nhưng khi 42TBá 42TĐa Lộc đưa vấn đề Việt Nam ra thì cũng đã

thu hút được sự quan tâm của Pháp đình, Louis 16 đã tiếp vị giám mục này và chuẩn y

một bản hiệp ước với Nguyễn Ánh. Đây 13Tlà 13T49Tbản 49Thiệp ước đầu tiên giữa 42TPháp 42Tvà Việt Nam

được trình vào ngày 25-11-1787, ngày 28- 42T142T1-1787, bản hiệp ước này được ký chính

thức lại Versailles, giữa Thượng thư Bộ ngoại giao Pháp là Mont Morin đại diện vua

Pháp và Bá Đa Lộc đại diện cho Nguyễn Ánh.

Hiệp ước Versailles ghi một mốc quan trọng đầu tiên trong lịch sử quan hệ ngoại

giao Việt Nam và Pháp. Nội dung hiệp ước gồm 13T10 13Tkhoản, chủ yếu là vua Pháp cam kết

sẽ phái 6Tquân 6Tđội và thu thuyền đến giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền lực họ

Nguyễn. Đổi lại, “Vua Nam kỳ sẽ nhường cho Pháp 43Tcác 43Tđảo gần Đà Nẵng và Côn Lôn

để buôn bán, không cho bất cứ nước nào 43Tkhác 43Tthuộc 6Tchâu 6TÂu nữa” [97, 50]. Đây là văn

kiện ngoại giao đầu tiên được hai hước ký kết và dù được nhiều quyền lợi nếu can thiệp

vào Việ t Nam, 6Tnhưng 6Tnước Pháp đang đối phó với nhũng vấn đề cấp bách nên Louis 6T16T6

giao vấn đề Việt Nam cho viên Toàn quyền kiêm Tổng tư lệnh Pháp ở Ấn Độ De

Conway xem xét nếu “không lợi thì cứ việc bải bỏ hay trì hoãn cũng được”. Theo

những nhận định đã có, thì De Conway một phần sợ trách nhiệm, một phần có những

mâu thuẫn với cá nhân 43TBá 43TĐa Lộc nên anh ta tâu trình về Pháp rằng: “đem binh đao

sang cứu viện Nguyễn vương là việc rất khó và không có lợi gì” [29, 152]. Với lời kết

luận của De Conway cùng với những khó khăn tại Pháp nên cuối cùng hiệp ước

Versailles đã không được thực hiện. Công cuộc can thiệp nhằm tiến tới bảo hộ đã

không được chính phủ Pháp tiến hành đối với Việt Nam vào cuối thế kỷ 18. Và Bá Đa

Lộc đã quyết định hành động với tư cách cá nhân. Ông ta vận động quyên góp tiền giúp

cho Nguyễn Ánh, cùng với tiền túi của mình, ông mua vũ khí, quân trang, quân dụng và

về lại Việt Nam “, đến tháng 6 năm Kỷ Dậu (1789), ông Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh đi

chiếc tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu buôn chở súng ống, đạn dược cũng

lục đục sang sau” [29,52]. Ngoài ra, Bá Đa Lộc còn vận động nhiều người Pháp sang

Việt Nam giúp Nguyễn Ánh. Theo những tính toán đã có thì có khoảng 160 người Pháp

tới giúp việc cho Nguyễn Ánh trong thời kỳ này. Đó tà những người bỏ tàu của mình mà

đi sau đó tới miền Nam và giúp Nguyên Ánh. Theo tài liệu của Nguyễn Thế Anh thì

68

“tàu La résolution: 4 người, La vénus: 4 người... La Méduse: 100 - Tổng cộng 160

người” [138, 176].

Số người Pháp này khi về giúp Nguyễn Ánh đã có một vai trò quan trọng trong

cuộc nội chiến ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 18. “Nhóm người Pháp này đã giúp Nguyễn

Ánh huấn luyện một phần quân đội theo cách thức 42Tờ 42Tchâu Âu, lập một đội pháo binh

cùng thủy quân hiện đại [97,50], những người Pháp đó “sẽ đắc lực giúp Nguyễn Ánh

6TĐa 6Tsố người Pháp đi theo Nguyễn Ánh đều thông thạo về hàng hải và được ông

làm cho ông thay đổi cán cân lực lượng” [110,61]

giao giữ những vị trí quan trọng trong hải, 6Tlục 6Tquân và 43Tcác nhiệm 43Tvụ khác như “hộ

thành”, hoặc hậu cần. Tiêu biểu như ông Olivier de Puymanel thì giữ vững được những

tỉnh mà Đức Nguyễn Ánh lấy được, ông Dayot thì mua đạn ở Ma-ní và mua tàu bè ở Áo

môn [132, 106]. Ngoài ra, một vài người khác như Barisy thì được giao phụ trách việc

ngoại thương, Despiaux là bác sĩ...

Lợi dụng phương tiện kỹ thuật quân sự của phương Tây, sự thành thạo của người

Pháp, Nguyễn Ánh đã xây dựng được mối quan hệ 6Tthân 6Tthiện với người Pháp vào buổi

bình minh của cuộc hội ngộ Đông - Tây. Nhưng khi thiết lập quan hệ với người Pháp,

trước tiên chúng ta th ấy Nguyễn Ánh cũng đã phải “trả giá” cho mối quan hệ này. Ông

phải chấp nhận một thực tế không dễ dàng với bản 6Tthân 6T- một ông vua Nho giáo, đó là sự

du nhập mạnh mẽ của Thiên Chúa giáo. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn thì

“trong quân đội Nguyễn Ánh có đến 100 sĩ quan Pháp theo đạo Thiên Chúa” [77, 43].

Như vậy, cùng với sự hiện diện của người Pháp trong quân đội và chính quyền họ

Nguyễn là đạo Thiên Chúa. Trong tác phẩm “Nho giáo ở Gia Định”, Cao Tự Thanh có

viết: Nguyễn Ánh giao cho những giáo sĩ đảm nhiệm các trọng trách như: “Jacquésliot

đóng vai trò “trưởng ban hậu cần” chỉ huy giáo dân mua gạo và chở tới cho quân đội

Nguyễn Ánh, năm 1783, có một Pigneau được phong là: Đi ều chế thuyền thủy bộ viện

binh giám mục thượng sư...” [93, 78].

Nhìn chung phần lớn những người Pháp theo Nguyễn Ánh đều có những vai trò

nhất định trong cuộc nội chiến ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 18. Đặc biệt nổi bật là vai trò

của Giám mục Bá Đa Lộc và quan hệ giữa Giám mục với Nguyễn Ánh. Mối quan hệ này

khá thân thiết: “trong suốt 1T1 0 1Tnăm Giám mục sống 42Tở 42TNam Hà, người đã đóng vai một

69

Bộ trưởng chiến tranh của Nguyễn vương kiêm cả nhiệm vụ ngoại giao nữa... Giám

mục đã giữ cả việc từ dịch với các toàn quyền Phi-luật-tân, Ma-cao, Bengale và với đại

diện cả Anh hoàng và của vua Đan Mạch” [75, 191]. Nhờ vào thế lực của Nguyễn Ánh,

người Pháp đã có mặt khắp nơi 42Tở 42TViệt Nam và hoạt động trên nhiều lĩnh vực: quân sự,

tôn giáo, thương mại..., họ đã có gắng thiết lâp vị trí của Pháp tại đất nước này “từ năm

1788 có việc tàu Dryade và tàu Panduor thả neo tại Côn đảo cho Linh mục Phan Nghị

và vài người Việt xuống, đồng thời trút xuống đây 1000 khẩu súng cho họ Nguyễn”

[75, 158]. Người Pháp ngày càng tham gia nhiều vào nội tình nước Việt và qua quan hệ

với Nguyễn Ánh, họ đã “trở thành những sứ giả trung gian và tích cực trong 42Tcác 42Thoạt

động mượn quân và mua súng của tập đoàn Nguyễn Ánh, những điệp viên và cố vấn đắc

lực trong 42Tcác 42Thoạt động do thám và tác chiến” [93, 79]. Người Pháp trên thực tế đã giúp

đỡ Nguyễn Ánh về quân sự, chính trị và “cung cấp tình hình Việt Nam về Pháp” [14, 8].

Thực chất hoạt động này của người Pháp là bước khởi đầu cho quá trình xâm lược thuộc

địa của Pháp lại vùng Đông Nam Á.

Khi Nguyễn Ánh chiến thắng hoàn toàn Tây Sơn, thì người Pháp được họ Nguyễn

trả ơn bằng cách dành cho họ nhiều ưu đãi :

- Gia Long ban quốc tính họ Nguyễn cho những người Pháp tiêu biểu như trường

hợp Đa vật, Va-nê-e, Lê Văn Lăng và Olyvi, 4 người ấy theo Bá Đa L ộc từ Tây Dương

tới Gia Định, xin 42Tở 42Tlại làm thân bộc, đều bổ lại làm cai đội. Đa vật cho tên là Chấn,

Va-nê-e cho tên là Thắng, đều cho là họ Nguyễn...” [73, II, 477].

- Ban chức tước

- Miễn cho một số nghi lễ.

Những người Pháp giúp Gia Long sau năm 1802 còn ở lại phục vụ triều Nguyễn

đều được cấp 50 lính hầu, đến buổi chầu thì miễn lạy.

Cho đến 1791 số người Pháp còn lại trong chính quyền họ Nguyễn rất ít, theo thư

của viên khâm sứ Pháp ở Quảng Đông gởi về Bộ ngoại giao thì 42T“ở 42TNam Kỳ chỉ còn ông

Olivier (de Puymanel) mà giám mục Bá Đa Lộc rất khen ngợi” [138, 178]. Thực tế là

người Pháp còn 42Tở 42Tlại Việt Nam lúc đó không đáng kể nhưng họ biết về Việt Nam nhiều

hơn trước. Năm 1790, Nguyễn Ánh đã thông báo cho nước Pháp biết là ông không cần

cứu viện nữa, không cần Pháp giúp nhưng Nguyễn Ánh Gia Long không thể quay lưng

70

với những người bạn Pháp với những tư cách cá nhân đã giúp mình trong hoạn nạn.

Quan hệ Nguyễn Ánh - Gia Long với Pháp bước sang một giai đoạn mới, phù hợp với

tình hình nội dung lịch sử mới.

Thế kỷ 19 mở đầu bằng sự kiện Gia Long xưng đế, vị vua đầu tiên của triều

Nguyễn đối với Pháp “gìn giữ không thắt chặt mối liên lạc chính thức có vẻ là các cam

kết 38Tchính 38Ttrị với chính phủ phương Tây, để khỏi sa vào những lỗi lầm trên đến số phận

của Ân” [97, 50 - 51]. Gia Long là người tiếp xúc, liên hệ với 38Tngười 38T42TPháp, và 42Thơn ai hết,

chắc chắn Gia Long hiểu ý đồ, động cơ của họ đối với đất nước của ông. Do vậy, sau khi

42Tcầu

42Tviện

đã tranh thủ sự giúp đỡ của một số người Pháp và khi

nước 38TPháp 38Tkhông 38Tthành, 38TGia Long cố không gắn bó hơn nữa với người Pháp và

không 13Tđể 13Thọ có ảnh hưởng trong triề u thần của mình. Giải 42Tpháp 42Ttốt nhất mang tính tạm

thời của gia Long được thể hiện rõ qua thái độ của ông với người Pháp và

nước 42TPháp. 42TVới người Pháp ông vẫn đối xử tốt. Tuy nhiên không có mội sự kiện lịch

sử 42Tnào 42Tchứng tỏ ông tin cậy vào 38Thọ, 38Tthực tế Gia Long rất đa nghi, và không cho họ có

những vị trí quan trọng trong chính quyền của ông. Với nước Pháp, Gia Long 13Tđã 13Tcông

khai không 38Tcần 38Tđến sự viện trợ của Pháp nữa.

Tóm lại, cho đến đầu thế kỷ 19, quan hệ Việt - Pháp về cơ bản được phản ánh qua

mối quan hệ giữa cá 38Tnhân 38TNguyễn Ánh - Gia Long, và những người Pháp đã tới Việt

Nam giúp họ Nguyễn. Hiệp ước Versailles thỏa thuận cam kết chính trị - quân sự đầu

tiên gắn Nguyễn Ánh và nước Pháp đã không được thực hiện. Khi liên hệ cầu viện

Pháp, Nguyễn Ánh đã nhận thức được sức mạnh của văn minh vật chất phương Tây,

nhưng qua đó sự yếu ớt của phương Đông cũng được phơi bày một cách rõ rằng nhất.

Đó chính là nguyên 6Tnhân 6Tsâu xa dẫn tới thái độ dè chừng trong quan hệ với Pháp của Gia

Long sau khi lên ngôi. Nguyễn Ánh và người 38TPháp 38Tđều theo đuổi và che dấu những mục

đích riêng của cá nhân, trong khi vẫn liên hệ với nhau từ cuối thế kỷ 18 cho đến đầu thế

kỷ 19. M. Gaultier đã nêu lên thực chất của quan hệ Nguyễn Ánh - Bá Đa Lộc như sau:

“Nguyễn Ánh và giám mục Bá Đa Lộc mỗi người đeo đuổi dự kế riêng của mình trong

khi vẫn lừa phỉnh 38Tlẫn 38Tnhau” [126, 87], trong mối quan hệ mang tính “lừa phỉnh” nhau

này, xét về 38Tlâu 38Tdài, thì Nguyễn Ánh - Gia Long đã thua cuộc.

71

3.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Pháp nửa đầu thế kỷ 19:

3.2.1. Việt Nam trong tầm nhìn của Pháp:

Hoàn cảnh lịch sử của nước Pháp vào đầu thế kỷ 19 là một trong những nhân tố

khách quan chi phối mạnh mẽ quan hệ đối ngoại của nước này nói chung và quan hệ với

triều Nguyễn Việt Nam nói riêng.

Từ cuối thế kỷ 18 cho đến những năm đầu thế kỷ 19, nước Pháp luôn có chiến

tranh và cách mạng nhưng tư sản Pháp vẫn không thôi nhòm ngó Việt Nam với khát

vọng đặt được ảnh hưởng trên vùng đất có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng này.

Năm 1813, Napoléon I giao cho Quốc vụ khanh Hauterive sưu tầm, tập hợp các tư

liệu đã có về Việt Nam. Đó là nhũng thư từ trao đổi giữa Conway và Bộ trưởng ngoại

giao Pháp Luzerne về tình hình Việt Nam. Nhưng Napoléon I không thực hiện được

ý 22Tđồ 22Tbành trướng đế quốc của ông ta. Trong thời kỳ phục hưng công tư ớc Richelieu đã

rất lo lắng đến lợi ích của nước Pháp tại hải phận Trung Quốc, ông 43Tta 43Tviết thư cho

Chaigneau; 43Tlá 43Tthư viết ngày 17-9-1817 có đoạn “một vài chủ tàu buôn của chúng tôi xin

được hay đề nghị làm cuộc viễn chinh lên miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Chính

quyền rất ủng hộ việc làm này...” [123, 141]. Triều đại Louis 18 lên nắm quyền cho đến

năm 1830 và cuộc cách mạng 1830 đã vĩnh viễn chấm dứt sự thống trị của dòng họ

Bourbon, đưa giai cấp tư sản lên nắm chính quyền. Nước Pháp 22Ttừ 22T1830 - 1848 nằm dưới

sự thống trị của bọn đại tài phiệt đứng đầu là Orléans Louis Philippe, chính phủ này

tiếp tục đi theo chính sách đối 49Tngoại 49Txâm lược bành trướng. Chúng ta có thể thống nhất

với nhận định rằng: “Những nguyên nhân kinh tế - chính trị trước kia đã thúc đẩy nước

22Tgiờ đây

22Tdưới chính quyền tư

Pháp quân chủ muốn xâm lược Việt Nam,

sản 22Tchẳng 22Tnhững 22Tvẫn tồn tại 22Tmà 22Tcòn 22Tphát triển 22Tthêm 22Tlên” [95, 517].

Nước Phàp đầu thế kỷ 19 bắt đầu tiến hành cách mạng công nghiệp, nền kinh tế tư

bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này kinh tế Pháp xếp hàng thứ nhì trên thế

giới chỉ sau nước Anh. Công nghiệp Pháp phát triển đòi hỏi nhân công, khoáng chất,

nguyên liệu sản phẩm nhiệt đới. Điều này thôi thúc tư bản Pháp cấp thiết vươn mình tới

những “vùng đất mới”. Nhu 25Tcầu 25Tcủa nền kinh tế trong thời kỳ 6Thoàn 6Tthành cách mạng

công nghiệp, là yếu tố quyết định đường lối chính sách đối ngoại thực 42Tdân 42Txâm lược

của 6Tnhư 6TPháp. Trong quá trình 42Tmở 42Tmang thuộc địa, 6TPháp 6Tđã đặt chính sách thống trị của

72

mình ở một số vùng thuộc châu Phi, châu Á. Tại châu Á Pháp đã có một số thuộc địa

quan trọng như: Pondichéry, Yanaon, Mahé, Karicol (Ân)... Việt Nam là vùng đất mà

từ lâu Pháp có sự quan tâm đặc biệt. Một trong những lý do là vị trí quan trọng của Việt

Nam như: “một căn cứ hệ trọng mà người Anh chưa ch ăm chú đến” [26, 31].

Qua những lần thăm dò và điều tra của Pháp thì Việt Nam trong tương lai sẽ đem

lại lợi nhuận đặc biệt cho tư bản Pháp. Việt Nam còn là cửa ngỏ đi vào miền Hoa Nam

Trung Quốc, các xứ Lào, 42TChân 42TLạp, Xiêm. Việt Nam như là trạm nghỉ để tiếp lương,

nhiên liệu, nhân công cho thu thuyền Pháp trên con đường từ Ấn Độ sang Trung Quốc.

Pháp đã không xây dựng được cơ sở ở Trung Quốc, nên Việt Nam nghiễm nhiên trở

thành tiêu điểm để Pháp chọn mở đường vào thị trường lộng lớn Trung Quốc. Trong

một báo cáo gởi về Pháp năm 1787, giám mục Bá Đa Lộc trình bày rõ vị trí quan trọ ng

của Việt Nam như sau: “Một căn cứ Pháp ở Nam kỳ chắc chắn sẽ tạo ra một phương tiện

đối lập lại ảnh hưởng lớn lao của người Anh... Với những tài nguyên chắc chắn hơn, và

những viện trợ ở xa hơn là trông chờ ở châu Âu, để có thể khống chế trên tất cả những

biển Trung Quốc, những quần đảo, cuối cùng là để làm chủ tất cả thương mại ở phần đất

này trên thế giới.” [130, 36].

Lợi ích kinh tế tất yếu dẫn đến quyền lợi chính trị, có vị trí trên đất Việt Nam Pháp

sẽ làm chủ được một địa điểm mà 42Tở 42Tđó theo Cao Huy Thuần sẽ là: “mội chướng ngại nào

đó để làm một điểm trọng tài cho kẻ thua trận, nếu muốn nói thế, một điểm giám sát cho

kẻ thắng trận quá tham lam, một điểm trú ẩn và nương náu cho tàu bè chúng ta, dường

như đang phiêu bạt trong cả phần Đông Á này, về cuối cùng là một điểm tiếp nhiên liệu

về buôn bán cho các người, cung cấp hương liệu của chúng ta vốn chỉ biết dựa vào lá cờ

của các nước ngoài, ở đây để bảo đảm 42Tvà 42Tche chở họ 42Tở 42Tmột đời quá xa tổ quốc” [ 97, 62].

Vào năm 1817, phòng thương mại Pháp đã nhận định: Việt Nam là một nước, nơi Pháp

đạt cùng một lúc 2 nhiệm 50Tvụ, 50Tnếu đặt được cơ sở ở đây:

1. Là nơi có tiềm năng thương mại .

2. Là thị trường tiêu th ụ hàng hóa qu an trọng

Như vậy, Việt Nam là bàn đạp lý tưởng để Pháp mở rộng thế lực của họ, và để

cạnh tranh với Anh 38Tvà 38Tthắng lớn trong cuộc chạy đua vào vùng Hoa Nam Trung Quốc.

Theo thực dân Pháp thì Việt Nam sẽ là “thuộc địa đẹp nhất, quí nhất (này) trong các

73

thuộc địa cũ và mới của Pháp” [97, 63]. Một kế hoạch xâm chiếm Việt Nam đã định

hình, thu hút sự quan tâm của cả chính khách, thực dân, nhà truyền giáo lẫn thương

nhân. Giám mục Retord tuyên bố: “Nước Pháp sẽ tìm thấy ở xứ sở đẹp đẽ này nhiều mỏ

vàng, bạc, đồng, sắt, than, nhiều gỗ để đóng tàu, nó có một hải cảng kiên cố cho 42Tcác 42Thạm

đội và thự c phẩm cho lính thủy của họ. Tại đây còn là nơi buôn bán quan trọng về gạo,

bông, muối, vải, lụa và nhiều hàng khác “Giám mục Pellerin thì nói về “khả năng phát

triển trồng cà-phê , khai mỏ vàng, mỏ than, mỏ đồng, mỏ sắt” [97, 68]. Về lợi ích quâ n

sự thì Napoleon 6TI 6Tđã nhắm Việt Nam bởi theo ông ta “sự thành lập một căn cứ của Pháp

trong vùng bể Trung Hoa, đứng về mặt quân sự mà thôi, là một điều kiện rất lợi trong

trường hợp giao chiến với Anh. Nhất là vào lúc này người Anh đang tăng cường sục sạo

trên mặt bể” [68, 518].

Như vậy, chính hoàn cảnh kinh tế - chính trị của bản thân nước Pháp từ cuối thế kỷ

18 đến đầu thế kỷ 19, nhu cầu bức thiết của sự phát triển nội tại đất nước này là nguyên

nhân sâu xa thúc giục Pháp tăng cường tìm kiếm thị trường 42Tở 42Tvùng 42Tchâu 42TÁ cụ thể là

Đông Nam Á. Tiếp đó sự phái triển thế lực của Thiên Chúa giáo sang Việt Nam cũng là

mục tiêu của thực dân Pháp, vua Pháp cho rằng làm như vậy là để “cứu giúp đạo Thiên

Chúa...” [97, 43]. Chúng ta đã biết Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp (société des

Missions étrangrères) thành lập 1664 để lo việc truyền giảng ở các thuộc địa ngày càng

có một địa vị vững chắc và các mối liên hệ giữa Pháp với Việt Nam phần lớn do hội

truyền giao 42Tcác 42Tgiáo sĩ (Missionnaire) đảm trách. Nhưng ngoại trưởng Pháp là Guizot

cho đến 1848 đã xác định mục đích của đường lối đối ngoại Pháp đã khôi phục địa vị

của Pháp 42Tở 42Tchâu Âu và liên minh với nước Anh, nên không nên làm mất lòng nước Anh

bằng cách bành trướng thế lực ở Á 42Tchâu 42T“Guizol chỉ thị cho Cécille là không được động

tới Việt Nam” [3, 16].

43TĐầu 43Tthế kỷ 19, Việt Nam không có nhiều những mối quan hệ rộng rãi với

3.2.2. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Gia Long (1802 - 1819):

phương 43TTây. Dưới 43Ttriều vua Gia Long, đề phòng sự bành trướng của “Tây dương”,

Việt Nam hạn chế tối đa những cuộc tiếp xúc ngoại giao với các nước tư 6Tbản 6TÂu Mỹ.

Đối với nước Pháp, do những ràng buộc tình cảm giữa cá nhân nhà vua Việt Nam với

giám mục Bá Đa Lộc và 6Tnhững 6Tngười Pháp đã từng giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn,

74

nên Gia Long phải hoạch định một đường lối ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo. Ông

phân biệt rạch ròi 6Tquan 6Thệ với nước Pháp và người Pháp.

Đối với nước Pháp, Gia Long vô cùng thận trọng trong giao tiếp. Ông mềm mỏng,

linh hoạt trong mọi tiếp xúc, 6Tnhưng 6Tnguyên tắc cứng rắn, kiên quyết từ chối mọi yêu cầu

phi lý của Pháp (nhờ 43Tyêu 43Tcầu của Pháp đòi thực hiện hiệp 22Tước 22TVersailles, mà phía Pháp

đã không thi hành ngay từ khi ký).

Đối với người Pháp đã từng liên hệ với ông, Gia Long luôn biệt đãi, nhưng thật

6TTrước sự tăng cường xâm nhập của tư bản Âu Mỹ vào phương Đông, Việt Nam 6Tcũng

tâm ông vua này cũng chẳng quý trọng gì cả người Âu lẫn đạo Thiên Chúa.

như các nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên đều thực hiện đường lối

ngoại giao “không phương 6TTây”. 6TĐường lối ngoại giao này được hoạch định và thực thi

từ thực tế bị sự uy hiếp của tư bản Âu Mỹ.

Gia Long không có ý định thiết lập quan hệ chính thức với phương Tây, nhưng với

những liên hệ đã có với nước Pháp, Gia Long 6Tkhông 6Tthể cự tuyệt thẳng thừng quan hệ

với nước này. Ông đã cố gắng thể hiện một sách lược ngoại giao mang tính “lưỡng xử”,

dung hòa và cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa Việt Nam và những người Pháp hiện

diện trên đất nước ta. Đường lối trị 22Tnước 22Tcủa ông hoàn toàn độc lập không hề bị chi phối

và chịu ảnh hưởng bởi người Pháp tại triều. Toàn cảnh chính trị - ngoại giao thời Gia

Long đã toát lên một tinh thần ứng xử tinh tế nhẹ nhàng đầy cẩn trọng, ông cảnh báo với

người kế vị “Hãy biết ơn người Pháp, nhưng đừng 6Tbao 6Tgiờ để họ đặt chân vào triều đình

của con” [117, 60]. Gia Long suy nghĩ và thực sự lo lắng trước hiểm họa đến từ phương

Tây, nhưng Gia Long không có và không thể có được một chính sách thích ứng với tình

hình mới, việc mà ông làm được với một sự cố gắng chỉ là: duy trì quan hệ bình thường

với người Pháp, nước Pháp. Trong 20 năm trị vì Gia Long đối đãi ôn hòa, tử tế và kìm

chế với người Pháp từ nhà buôn, giáo sĩ hay người đại diện cho vua Pháp đến Việt Nam.

Nhưng dù Gia Long có khéo léo che đậy thái độ nghi ngờ của ông, thì người Pháp

cũng nhận thấy: “nhà vua không nói cái mà nhà vua nghĩ, nhà vua rất khôn khéo và luôn

có những lối thoát” [121, 73]. Gia Long bằng mọi cách đã né tránh được những cam kết

thắt chặt ngoại giao chính trị với Pháp. Vannier, một người Pháp được Gia Long phong

sắc Nhất phẩm vĩnh viễn cũng nhận xét “Thật là vô ơn cái vị chúa ấy đã chịu ơn người

75

Âu bao nhiêu và nhấ t là người Pháp... Ông Chaigneau và tôi đã chán Nam kỳ lắm rồi...

[60, IV, 198].

Đường lối ngoại giao “không phương Tây” của triều Nguyễn thời Gia Long tuy

bảo thủ, nhưng cũng có những yếu tố tích cực. Triều Gia Long giao thiệp bình thường

với Pháp, nhưng tránh được những ký kết chính thức giữa hai nhà nước, mà theo Gia

Long, từ những ký kết đó có thể gây nguy hại cho an ninh quốc gia.

Ông ưu đãi những người Pháp từng cộng tác giúp ông, nhưng sau 1802 số người

này chỉ còn 4 người. Trừ Despinux là thầy thuốc, còn Chaigneau, 54TVannier, 54TForsant

được phong chức Chưởng.. , cơ (võ quan 34Tcao 34Tcấp, hàm nhị phẩm, có 50 lính hầu). Năm

1809, Forsant qua đời, số lượng người 42TPháp 42Thiện diện trong guồng máy chính trị nhà

Nguyễn rất không đáng k ể, và không thể tạo ra một ảnh hưởng nào.

Dưới triều Gia Long quan hệ Việt - Pháp chưa có gì khó khăn, mâu thuẫn để dẫn

đến xung đột, nhưng mối quan hệ này cũng bị vấn đề thương mại và tôn giáo chi phố i.

Về thương mại, so với yêu 42Tcầu 42Tvà xu thế của thời kỳ đầu thế kỷ 19 là mở cửa để

giao thương trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ nước nhà, thì chúng ta nhận thấy Gia

Long đã không “ức thương” một 42Tcách 42Tnghiệt ngã. Dưới triều Gia Long, thương nhân các

nước, kể cả thương nhân Pháp có thể tới mọi hải cảng để thông thương, nhưng họ phải

tới Hội An hoặc Đà Nẵng để làm thủ tục nhập cảng.

Để phòng ngừa không cho Pháp có lý do xâm nhập và bành trướng thế lực vào

nước ta qua việc ký kết những thương ước, Gia Long chủ trương không ký

thương 22Tước 22Tvới bất kỳ một nước phương Tây nào. Ông cũng từ chối không nhận tặng

vật của các thương gia 43TPháp, 43Tkhông tiếp các sứ giả Pháp, cũng như khước từ tặng phẩm

và tiế p sứ của các nước tư bản khác như Anh chẳng hạn.

Từ năm 1802 đến 1812, do bận chiến tranh châu Âu của Napoléon I nên Pháp

không có hoạt động buôn bán gì đáng kể 42Tở 42TViệt Nam. Cho đến năm 1817 những chiếc

tàu mang cờ Pháp mới xuất hiện ở nước ta. Năm Gia Long thứ 17 có tàu Pháp đến Cần

Giờ xin buôn bán. Theo “Mục lục châu bản triều Nguyên”: “Tàu trưởng tàu Ba-Lăng-

Sa, tên là Đa-nhét-xích-lâu cùng An-Tôn- 54TBôn- 54TLiên tới Cần Giờ 54Ttừ 54Tngày 12-6 xin lên

thành Sài Gòn ứng hiệu và xin ra cửa Hàn buôn bán”, tiếp đó “... tàu Phi Giác, hiệu Xuy

Ba Lê đến cửa Hàn ngày 6-1-1818, có đem lại những lễ vật: 1 các đồng hồ, khẩu súng

76

hẹp.... do vua Ba-Lang-Sa tặng vua 22Tnước 22TViệt Nam để tỏ tình bang giao nghĩa như anh

em” [49, 1, 196]...

Những chuyến đi của thương nhân Pháp đến Việt Nam đều được Gia Long hoan

nghênh, giúp đỡ. Trường hợp tàu Henry và tàu Lapaix khi đến Đà Nẵng và Sài Gòn đều

được vua Gia Long phái 2 người Pháp trong triều là Vannier và Chaigeau đ ến giúp đỡ,

vua còn cho các quan địa phương giúp thủ y thủ đoàn mua bán, cho họ tới Huế. Gia

Long lại miễn thuế 6Thoàn 6Ttoàn cho thu buôn Pháp, con trai của Chaigeau cũng thừa nhận

thiện chí của vua Gia Long “Ngài thấy buổi đầu 43Tmà 43Tviệc buôn bán không được may

mắn thì Ngài lấy làm tiếc lắm, vậy Ngài xá thuế cho hai chiếc tàu ấy, vả lại Ngài cũng

không nhận những đồ đã đem dâng Ngài.... Rồi Ngài hứa rằng Ngài lại thu tiếp tử tế cho

xứng là dân một nước giao hiếu với nước Nam” [133, 129]. Gia Long từng đích thân chỉ

ra những thứ hàng gì liền đem sang Việt Nam bán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua

bán của thương nhân Pháp. Các chuyến tàu sau, hàng 43TPháp 43Tmang sang Việt Nam bán

rất chạy. Ngay người Pháp cũng thừa nhận quan hệ thương nhân Pháp với triều Nguyễn

Gia Long là rất tốt đẹp “Thái độ Gia Long niềm nở đón tiếp, hàng hóa mang sang bán

hết và được thanh toán sòng phẳng, đến lúc 6Tra 6Tvề còn cho nhiều hàng quí như: đường ,

trà, bạc nén...”[95, 519].

Nhìn chung trong thời Gia Long trị vì, có nhiều tàu buôn Pháp sang Việt Nam mua

bán, việc giao thương tiến triển khá dễ dàng và chính phía Pháp khuyến khích các thu

buôn sang Việt Nam. Trong lúc buôn bán đang thuận lợi thì có một sự kiện khiến Gia

Long không thể không đề phòng ý đồ của Pháp. Năm 1817, tàu Pháp La Cybele đến cửa

Hàn, viên thuyền trưởng là Kergnriou xin đến Huế dâng quà tặng của vua Pháp và nhắc

lại hòa ước 1787. Gia Long sai quan tiếp đãi tàu La Cybele tử tế, nhưng ông không cho

thuyền trưởng triều kiến và không nhận tặng phẩm với lý do Kergariou không có quốc

thư. Cuộc vận động ngoại giao này của Pháp đã không gặt hái một kết quả nào,

“Kergnriou đổ thừa sự thất bại của ông ta là do 2 nguyên nhân : Sự ghen tức của quan

Bộ Lễ đối với những quan Pháp, và việc những tàu buôn tới trước ông ta đã cho biết sự

lên ngôi của Louis XVIII. Nhiệ m vụ của ông 42Tta 42Tđã mất hết toàn bộ ý nghĩa” [132, 116].

Thủ tướng Pháp là Richelieu tìm cách liên hệ với Chaigneau và Vanniet trước mắt

nhằm mục đích thiết lập mối quan hệ buôn bán thường xuyên với Việt Nam. Các hoạt

động ráo riết của tư bản Pháp không thể không gia tăng sự nghi ngờ 42Tở 42Ttriều đình Huế.

77

Năm 1819, tàu Henry của Pháp đến Việt Nam, vua Gia Long cũng cho phép họ đến Huế

mở cửa hàng cạnh nhà của Vannier, vua có đến thăm và đặt hàng. Khi tàu Henry về

Pháp, Chaigneau xin phép về nước 3 năm. Gia Long đã ưu tiên cho Chaigneau chờ hàng

về và miễn thuế khi ông này chở hàng trở lại Việt Nam.

Dưới triều Gia Long quan hệ Việt - Pháp còn chưa bị vấn đề thương mại gây khó

khăn. Việ c buôn bán v ới Pháp 43Tkhá 43Tthuận lợi, Gia Long t ạo điều kiện cho thương nhân,

ưu tiên cho họ nhưng không cho họ một đặc quyền nào. Mọi đề nghị ký kết thương ước

từ Pháp, đều bị Gia Long tìm mọi lý do để khước từ.

Vấn đề truyền đạo: Đây là vấn đề tạo ra những trở ngại trong quan hệ giữa nhà

nước phong kiến Việt Nam với Pháp.

Do quan hệ gần gũi với Bá Đa Lộc và chịu ơn giúp đỡ của những người Pháp trong

cuộc chiến với Tây Sơn, Gia Long khi lên ngôi vẫn để cho việc truyền đạo Thiên Chúa

được tồn tại, và phát triển tương đối thuận lợi. Thực ra, đối với đạo Thiên Chúa, Gia

Long chủ trương dung hòa. Ông không thể chống đạo một cách công khai, cũng không

thể “cải đạo”. Gia Long đã nhìn thấy trong tôn giáo mới một quyền lực có thể tranh

chấp với vương quyền. Ông cũng nhìn thấy trong sự phát triển của đạo Thiên Chúa mối

liên hệ dẫn tới sự nguy hại của độc lập quốc gia, và quyền lợi của họ Nguyễn bị đe dọa

trực liếp. Sự dính líu và mối quan hệ biện chứng giữa công việc truyền đạo và giai c ấp

tư sản thực dân là một sự hiển nhiên : “không một ai chối cải sự liên quan đó, trừ những

người có thiên kiến” [97, 5]. Năm 1804, Hoàng đế nước Pháp Napoléon 6TI 6Tkhẳng định

“Hội truyền giáo 42Tở 42Tnước 22Tngòai 22Tsẽ rất có ích cho tôi ở châu Á... Tấm áo của họ sẽ che chở

cho họ và sẽ dùng để che giấu những mưu đồ chính trị và thương nghiệp” [138,120].

Bản thân Gia Long là người nhận thức sớm và sâu sắc vấn đề đó, ông đã có thời gian

khá dài cộng tác với một 11Tgiám mục người 11TPháp, 11Tnên chắc chắn ông 11Thiểu 11Trõ hơn ai sự

nguy hiểm đến 11T35Ttừ 35Tnhững người đi truyền đạo, ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo đối với

con ông (Hoàng tử Cảnh) và các thần dân của mình. Trong tình thế vừa mới nhờ cậy

người Pháp xong, Gia Long chưa thể cấm 42Tđạo 42Tvà làm mất lòng người Pháp ngay lập tức

được, nhưng qua điều lệ Hương Đảng cho các xã dân ở Bắc Hà, ông cũng tỏ rõ được

thái độ của mình đối với đạo Thiên Chúa :” Từ rày về sau, dân các tỉnh, xã nào có nhà

thờ Gia Tô đổ nát thì phải đưa trình quan trấn mới được tu bổ lại, còn việc dựng nhà thờ

mới đều cấm chỉ”[70, III, 6T168]. 6TTuy nhiên, để bảo đảm mối quan hệ bình yên với nước

78

Pháp, Gia Long cố gắng đứng ngoài việc chống đối đạo, ông muốn “làm người trọng tài

không thiên vị để lấy lòng cả giáo sĩ lẫn nho sĩ” [93, 93].

Gia Long có thái độ và cách xử sự mang tính dung hòa trong quan hệ với Pháp,

nhưng cương quyết và cứng rắn từ chối mọi yêu cầu từ phía nhà nước Pháp... Hướng

giải quyết của Gia Long 11Ttrong 11Tnhững năm 11Tở 11Tngôi 11Tbáu 11T43Tlà 43Tdàn 11Txếp 11Tổn thỏa quan hệ với

người Pháp, dễ dãi tạo điều kiện cho thương nhân Pháp làm ăn, 11Tvới đạo 11TThiên Chúa ông

đề nghị theo hướng “đạo này nên dung nạp thêm lễ tục thờ cúng tổ 11Ttiên...” 11T[26,82]. Ông

yêu cầu các tín đồ Thiên Chúa giáo nên g ần gũi với dân chúng bên lương hơn nữa, Gia

Long nói với giám mục Pháp “lưu ý điều đó 11Tvà 11Tcho phép các tín đồ Thiên Chúa giáo 43Tgần

gũi 43Tthần 6Tdân 6Tcủa tôi hơn nữa” 6T[121, 21]. 6TNhư vậy, Gia Long không h ề chống lại các giá

trị 11Tvật 11Tchất - tinh thần phương Tây, nhưng 43Tông 43Tcần 11Tthi 11Tết phải bảo vệ các truyền thống

dân tộc Việt Nam, và so với Trung Quốc cùng một số nước lân cận, Gia Long đã thể

hiện một đối sách ngoại giao nhu hòa, uyển chuyển hơn, đặc biệt qua hai vấn đề tôn

giáo và thương mại. Chính sách ngoại giao mềm dẻo với Pháp đã giúp Gia Long rất

nhiều trong việc ổn định đất nước sau mội thời gian dài nội chiến.

Thực chất 45Tđường 45Tlối chính sách ngoại giao của vua Gia Long là “không phương

Tây”, không dính líu tới Pháp dưới bất kỳ hình thức nào. Chính vì vậy, dù biểu hiện ứng

xử của ông có mềm dẻo, khôn khéo đến bao nhiêu, Gia Long vẫn không che giấu được

những 45Tmâu 45Tthuẫn trong thái độ và suy nghĩ của ông đối với Pháp, ông “nói cái điều

không nghĩ”. Những hành động của ông cũng mang tính đối phó tạm thời, và người

Pháp không thể không nhận thấy “Mặc dầu Ngài vẫn đối xử luôn luôn như bạn, nhưng

tôi không vừa ý về cách phát biểu của Ngài về thánh đạo của chúng ta...” [60, 45TIV, 45T204].

Chí hướng của Gia Long được biểu hiện rõ ràng nhất là vào năm 1820, trước khi

qua đời, Gia Long đã chọn Hoàng tử Đảm làm người kế vị. Chọn lựa vị Hoàng tử đã

trưởng 45Tthành 45Tchín chắn để làm người tiếp tục thực hiện đường lối chính trị của mình,

Gia Long tin tưởng hoàn toàn vào hoàng tử Đàm, người rất tinh thông, tôn sùng Nho

học, và nhìn chung, không có mấy thiện cảm với người Pháp. Quyết định của Gia Long

đã 45Tlàm 45Tsụp đổ mọi hy vọng của phần lớn giáo sĩ Pháp có từ thời Bá Đa Lộc. Gia Long đã

có một sự lựa chọn giữa Hoàng tử Đảm và các con của Hoàng tử Cảnh. Đây chính là sự

lựa chọn người có khả năng thực hiện đường lối chính trị cơ bản của ông, thực tế thì con

của Hoàng tử Cảnh ít nhiều cũng đều chịu ảnh hưởng của người Pháp.

79

Bằng những biện pháp ôn hòa, khéo léo, Gia Long khéo tạo ra môi trường quốc tế

ổn định để củng cố, xây đựng, phát triển đất nước và quyền lực của dòng họ. Khi vua

Minh Mạng thừa kế ngôi vàng, cỗ máy chính trị mang đặc tính của nền quân chủ

phương Đông đã vận hành tốt và đi vào nề nếp. Trước khi Gia Long qua đời, vấn đề mà

ông còn mang nặng ưu tư là quan hệ với nước Pháp và phương hướng giải quyết mối

quan hệ với nước này. Ông căn dặn Minh Mạng phải hết sức đề phòng, cảnh giác với

nước 43TPháp, 43Tnhưng không được làm mất lòng người Pháp.

3.2.3. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Minh Mạng (1820 - 1840)

Đi theo đường lối đối ngoại mà vua Gia Long hoạch định, vua Minh Mạng sau khi

lên ngôi 43Tvẫn 43Tđối xử nhã nhặn, hòa hoãn với người Pháp. Vannier, một người Pháp còn

lại, trong thư 43Tgởi 43Tcho giám mục Baroudel (Hội truyền giáo Macao) cũng khách quan

thừa nhận rằng ông ta “không than phiền điều gì về nhà vua, nhà vua luôn tiếp đãi tôi

nồng hậu và rất thường trò chuyện 57Tthân 57Tmật với tôi” [121,64]. Trong những năm đầu trị

vì, Minh Mạng về cơ bản trung thành với đường lối chính trị của cha mình. Nhưng dưới

triều Minh Mạng hoàn cảnh quốc tế và trong nước tin thay đổi, các áp lực từ phương

Tây gia tăng, trong nước có nhiều biến động... Đó là nguyên nhân lý giải phần nào sự

điều chỉnh mang tính bắt buộc của Minh Mạng trong đường lối nội trị và ngoại giao.

Trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta thấy là cho đến đầu thế kỷ 19, nền kinh tế Việt Nam

vẫn là nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên, tự cung, tự cấp. Sản xuất hàng hóa Việt Nam

còn thấp và hầu 57Tnhư 57Tkhông có hàng xuất khẩu. 57TMột 57Tnghịch lý hiển nhiên là Việt Nam

cần mua 57Tnhiều 57Thàng hóa ở nước ngoài, nhưng nếu tăng cường việc mua ngoại hóa thì có

thể 57Tdẫn 57Tđến hiện tượng “chảy máu” 43Tvàng, 43Tbạc nước ta. Đó là một trong nhiều lý do triều

Nguyễn định ra việc hạn chế thông thương với phương Tây. 43TĐây 43Tcũng là chính sách

chung của các 57Tnước 57Tchâu Á thời đó. Trung Quốc thời Trung Thanh (1757) cũng chủ

trương “đóng cửa” về kinh tế với phương Tây, Trung Quốc chỉ mở cửa bể Quảng Châu.

Nhật Bản từ thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, chính phủ Mạc Phủ 22Tvẫn 22Tduy trì chính sách

“đóng cửa” về thương mại v.v...

Việt Nam dưới thời Minh Mạng, vấn đề hạn chế thông thương được áp dụng với

hạn định chỉ mở một cửa khẩu (cửa Hàn), hạn chế thuyền buôn ra nước ngoài, thuyền

buôn phương Tây chỉ được vào bến cảng Đà Nẵng. Năm 1821 Chaigneau

80

được 22Tvua 22TPháp cử sang Việt Nam làm lãnh 22Tsự dâng 22Tthư 22Tvà phẩm vật của 22TL 22Touis 22T18 đồng

thời xin 6Tlập thương 6Tước, vua Minh Mạng đã từ chối. Năm 1822 một chiến thuyền Pháp là

Cléoptre đến Đà Nẵng xin được tiếp kiến vua Việt Nam, Minh Mạng cũng từ chối. Năm

1824 Louis 18 lại phái hai chiến thuyền là Thétis và Espérauce đến Việt Nam dâng

quốc 21Tthư 21Tvà phẩm vật xin giao hiếu và thông thương nhưng Minh Mạng cũng từ chối

đồng thời không nhận thư, phẩm vật của vua Pháp.

Về chính trị, trong thời gian từ 1825 trở đi, sự lấn lướt của các nước tư bản Âu -

Mỹ ở châu Á ngày càng gia tăng. Nước Anh đã kiểm soát cả vùng eo bể Sumatra, đường

vòng tới bán đảo Đông Dương, Malaca, Pê-nang... Tàu thuyền của Pháp thì xuất hiện

nhiều và thường xuyên ở vùng bể Trung Hoa. Tất cả các hoạt động của tư bản châu Âu

nhắc nhở thường xuyên cho Minh Mạng về sự an nguy của đất nước. Ông cố gắng đứng

ngoài những tiếp xúc với Pháp, tiếp tục củng cố triều đại và đất nước trên nền tảng của

ý thức hệ Nho giáo để chống đỡ các tư tưởng mới lạ của phương Tây, chủ yếu là đạo

Thiên Chúa. Đư ờng lối chính trị của Minh Mạng cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi vấn đề

tôn giáo. Theo người Pháp thì ngay từ lúc còn là một vị hoàng tử, Minh Mạng đã luôn

cảnh giác và “Vị Thái tử tuy còn thơ ấu, đã nói đến diệt đạo Thánh Chúa của chúng ta”

[60, N, 198].

Trong những năm đầu lên ngôi, đường lối chính trị của Minh Mạng so với Gia

Long không có thay đổi lớn.Với người Pháp, nước Pháp ông vẫn thể hiện thiện chí,

lòng biết ơn của mình nhưng tình hình quan hệ quốc tế ngày một thay đổi, nước Pháp

sau khi ổn định tình hình trong nước tìm cách nối lại những liên lạc với Việt Nam nhầm

đạt được những cam kết với nước ta trên lĩnh vực thương mại, chính trị. Pháp mong

muốn xác định đặc quyền của Pháp đối với Việt Nam, trong phạm vi cạnh tranh với các

nước tư bản khác. Tình thế đó khiến Minh Mạng sau khoảng 5 năm đi theo đ ối sách ôn

hòa của Gia Long, đã chuyển dần từ chính sách mềm dẻo, hòa hoãn sang chính sách

cứng rắn trong quan hệ với Pháp. Có thể “Ông tỏ ra hơi vội vã, thậm chí cứng rắn,

không theo đúng lời căn dặn của cha mình là phải hết sức thận trọng trong việc xa lánh

tuyệt giao với người Pháp và các Thừa sai” [66, 118], nhưng Minh Mạng đã không làm

khác được. 58TQuan 58Thệ ngoại giao của Minh Mạng đối với Pháp ngày càng tiến triển một

cách khó khăn hơn.

81

“Từ năm 1820 đến khoảng năm 1825, 6Tđây 6Tlà thời gian Minh Mạng mới kế vị ngai

vàng, ông cần củng cố quyền lực cá nhân, ổn định triều chính... nên chưa thể có điều

chỉnh lớn trong chính sách ngoại giao đối với Pháp. Minh Mạng vẫn đi theo chính sách

ôn hòa c ủa tiền triều, đối xử bình thường với người Pháp nhưng tìm cách xa lánh họ.

Năm 1825, J.B Chaigneau trở lại Việt Nam với tư cách là đặc sứ của hoàng đế

Pháp, ông ta cũng được triều Nguyễn đón tiếp long trọng. Vua Pháp nhân cơ hội này có

quốc thư giới thiệu Chaigneau và đề nghị được ký kết một hiệp ước thương mại với

Việt Nam, quốc thư có đoạn viết “Nhân lúc tại ngôi, tôi hằng ao ước vấn đề thông

thương và bang giao giữa hai nước đạt kết quả tốt đẹp.”

Trong quan điểm này, tôi thấy rất thích đáng ủy nhiệm lên Ngài quý ông J. B.

Chaigneau, sĩ quan thủy quân của bản quốc, là vị quan của xứ đàng Trong. Sở dĩ tôi cử

J. 6TB. 6TChaigneau vì ông ấy hiểu biết quý quốc, nhận được lòng tín nhiệm và ưu ái của

quý Ngài. Tôi luôn luôn tin tưởng vào đức công bằng và quảng đại của Ngài, có thể

giúp ông Chaigneau trình bày lên Ngài điều kiện lợi ích cho công cuộc chung của

chúng ta như việc giao thương...” [169, 110].

Triều đình Huế đón tiếp vị đặc sứ trên rất chu đáo, chính bản thân Chaigneau và

Michel Đức Chaigneau trong hồi ký đã tả lại cuộc tiếp sứ này rất trang trọ ng. Kèm với

thư gởi cho Minh Mạng, vua Pháp gởi theo nhiều tặng vật như: đồng hồ, đèn, các bức

vẽ, gương và nhiề u chế phẩm của Pháp. Vua Nguyễn nhận thư và cũng gở i tặng vật lại

cho Louis 18 như: da voi, da hổ, the lụa... nhưng trong thư trả lời Minh Mạng tỏ ý lạnh

nhạt, ông viện dẫn lý do hai nước quá xa nhau và bất đồng về ngôn ngữ, thông dịch

tiếng Pháp tại Việt Nam hiếm hoi, ngay thư của Hoàng đế Pháp ông cũng tuyên bố: hiểu

lờ mờ không dám tự cho là có hiểu. 21TVề 21Tviệc ký kết một 57Tt57Thương ước Việt - Pháp, Minh

Mạng trả lời dứt khoát: “Nước Đại Nam đã có lệ định rõ ràng, các nước ngoài vẫn đã áp

dụng xưa nay, nếu muốn khỏi phiền phức cho cả hai bên, thì Quả nhân tưởng không nên

lập thêm, hay là lập riêng một thương ước khác...” [89, 32]. Cũng với một lập luận như

thế vua Minh Mạng từ chối sứ giả của tất cả các nước khác đến Việt Nam xin thông

thương, thực chất của 39Tvấn đề 39T“hạn thương” là “Nhà vua sợ rằng các trao đổi với phương

Tây, kẻ đang nắm những kỹ thuật tiến bộ sẽ làm nguy hại đến nền độc lập và trật tự

quốc gia” [97, 52].

82

Minh Mạng từ chối ký các thương ước, nhưng ông không cấm đoán tàu bè và

thương nhân Pháp và các nước đến Việt Nam mua bán. Năm 1822 chiếc tàu Pháp mang

tên Cléopâtre đến Việt Nam mua bán và trong 22Tnăm 22Tnày còn có một vị đặc sứ Pháp tên là

Vill - Helio đến Việt Nam. Tất cả các chuyến đi này cùa Pháp đều không thành công

trong việ c thương thuyết về một cam kết với triều Nguyễn.

Đối với những cuộc tiếp xúc phi chính trị, vua Mình Mạng không hề ngăn cản một

cách phi lý, trường hợp của nhà khoa học trẻ người Pháp đã minh chứng cho nhận định

này. Diard là một nhà nghiên cứu Pháp, ông đến Việt Nam và được triều Nguyễn cho

phép tự do đi tham quan các trấn ở miền Nam để nghiên cứu.

Đối với tàu thuyền ngoại quốc bị thiên tai, vua có chủ trương giúp đỡ tận tình, tạo

điều kiện cho họ sớm hoạt động trở lại (ví dụ như trường hợp tàu Neptune vào năm

1822).

Vua Minh Mạng không ký kết những văn bản trên các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao

với Pháp nhưng t ừ năm 1820 đến khoảng 1825, vi ệc buôn bán và truyền đạo của người

Pháp tại Việt Nam chưa hề bị ngăn cấm. Dù dè chừng và thận trọng trong quan hệ với

Pháp, nhưng Minh Mạng vẫn định hướng theo đường lối ngoại giao mà Gia Long đề ra

trong nhữ ng năm đầu trị vì của ông.

Từ năm 1825 cho đến năm 1831, tình 6Thình 6Tnước ta có nhiều khó khăn như: thiên

tai, dịch bệnh lan tràn, những vùng bị nặng là Thanh Hoa, Ninh Bình...Tình trạng đói

kém xảy ra làm cho xã hội rối loạn. Năm 1825 có vụ nổi dậy tại trấn Nghệ An, qua năm

1826, 6Tngười 6TThổ nổi lên ở Nam Định... Cũng năm 1826, ở trấn Thanh Hoa và Nghệ An

vụ nổi dậy do Minh Đặng Tạo cát cứ. Phong 6Ttrào 6Tnổi dậy ở miền Bắc rất mạnh đến năm

1827 triều đình mới ổn định được. Trong nước thì khó khăn như vậy, bên ngoài lại

nhiều biến cố dồn dập xảy đến cho các quốc gia lân cận: Anh gây chiến với

Miến 38TĐiện 38Tvà ngày 24-2-1826, Miến Điện thất bại phải ký hàng ước Yanbado nhường

cho Anh những vùng đất Assam, Tavoy và Mergui. Minh Mạng không thể không lo

ngại đến các thế lực Tây phương, ông dè dặt hơn đối với người Pháp. Ngay với hai

người Pháp còn lại ở triều là Vannier và Chaigneau cũng bị 6Tmột 6Tsố 38Tquan 38Tlại

xa 38Tlánh. 38TThấy thái độ ngày càng lạnh nhạt của triều Nguyễn đối với mình, trong năm

1825 hai ông này xin trở về Pháp vĩnh viễn. Thực tế, ngay từ năm 1819 cả Chaigneau

83

lẫn Vannier đều đã rất muốn ra đi, trong một bức thư gởi đến Ô. Baroudel, chủ quản

ngoại vụ ở Macao, Vannier viết: “ Tôi đã chán Nam Kỳ và chúng tôi muốn có phương

tiện để ra khỏi nơi này...” [60, IV, 205]. Đến năm 1823, trong thư gởi cho Bộ trưởng

ngoại giao Chaigneau đã viết “...dự định mà tôi mong muốn là được trở về 6TPháp 6T...” [60,

IV, 207].

Trong năm 1825, có mội chiếc tàu Pháp là Thélis tới cập bến cửa Hàn, mang theo

quốc thư và tặng phẩm của hoàng đế nước Pháp tặng vua Minh Mạng, lần này Minh

Mạng từ chối không nhận thư và tặng phẩm. Tháng 2 - 1825, Eugène Chau of

Chaigneau tới Đà Nẵng mang theo thư của bộ trưởng ngoại giao Pháp đề nghị với triều

đình Huế giúp Eugène hoàn thành nhiệm vụ, đến lúc đó Eugène mới được thông báo:

“...từ nay không ai được phép đến Huế... không ai đủ khả năng dịch và hiểu thư của

nước Pháp, vì vậy không thể công nhận chức vụ viên chức Pháp tại Việt Nam” [12,

167]. Tuy bị từ chối, nhưng Eugène cũng cố gắng 22Tvận 22Tđộng mong đạt được một hiệp

ước với triều đình Huế. Cuối cùng ông ta đã thất bại và lên đường về Pháp. Sau đó

Eugène được cử sang Việt Nam làm lãnh sự nhưng vua Minh Mạng không chấp nhận.

Năm 1829 Eugène lại sang Việt Nam và cũng không thành công trong 6Tnhiệm 6Tvụ ngoại

giao của mình. Năm 1829 là năm ghi nhận sự cố gắng cuối cùng của Pháp với sự kiện

đại tá Laplace được cử 6Tđến 6TViệt Nam xin thông thương. Viên đại tá này đã có những

hành động sai trái, sử triều Nguyễn ghi lại hành động của ông ta là: “Người Pháp lại

thiện tiện lên núi Tam Thai đứng trông; nhơn nói muốn có một người hướng đạo dẫn

qua các hạt Bắc thành vẽ đồ; rồi chạy tàu đi.” [69, 149]. Đến tháng 1 - 1831, triều

Nguyễn hạ lệnh trục xuất chiếc tàu của Laplace.

Như vậy, trong khoả ng thời gian từ 1825 - 1831, tất cả các nhân viên mà Pháp cử

sang làm công tác ngoại giao với triều Minh Mạng đều không thể thuyết phục được

triều Nguyên ký kết những hiệp ước mà họ mong muốn. Nguyên nhân 11Tcủa sự 11Tthất bại

này không chỉ thuộc về sự bảo thủ hay cứng rắn trong đường lối, chính sách đối ngoại

của triều Nguyễn, mà còn do 6Tnhững âm mưu 6Tchính trị của 11Tnước 11TPháp. Những sứ giả

người Pháp sang Việt Nam thường với ý đồ phô trương thanh thế, lực lượng và có

những yêu cầu vô lý khó chấp nhận, thậm chí có những 11Tsứ 11Tđoàn đi mang theo nhiều giáo

sĩ xâm nhập trái phép lãnh thổ Việt Nam. Đến năm 1832 thì Pháp hoàn toàn không tìm

cơ hội giao thương và tiếp xúc chính trị với Việt Nam nữa. Tại thời điểm này ở Pháp

84

cuộc cách mạng tháng 7 - 1830 đã đưa Louis Philippe lên 34Tcầm 34Tquyền, mở đầu thời kỳ

thống trị của giai cấp đại tư sản. Louis Philippe thực hiện chính sách đối ngoại nhượng

bộ nước Anh và Nga, để củng cố quyền lực trong nước và đối phó với phong trào công

nhân đang phát triể n mạnh mẽ. Do vậy, chính phủ Pháp tạm gác lại vấn đề quan hệ với

Việt Nam.

Từ năm 1825 cho đến 1831 chính sách của Minh Mạng đã giới hạn dần dần hoạt

động của Pháp, trên lĩnh vực thương mại lẫn truyền giáo. Chính sách đối ngoại này

cũng nằm trong khuôn khổ của đường lối ngoại giao “không phương Tây” của triều

Nguyễn. Từ chối ký kết các thương ước và các tiếp xúc chính trị không có nghĩa là

Minh Mạng “bế quan, tự thủ”, và quay lưng hoàn toàn với phương Tây. Năm 1831,

Eugène Chaignea u khi viết thư báo cáo với bộ trưởng ngoạ i giao Pháp, ông thừa nhận:

“sản phẩm của Pháp được ưa chuộng hơn là sản phẩm của Anh, cho nên bán được

nhiều, thêm vào đó tại Việt Nam dư luận quần chúng và triều đình vẫn còn quý mến

người Pháp” [140, 319]. Đây là một nhận xét khách quan, và cũng phần nào minh

chứng rằng đến thời điểm này, triều Nguyễn còn chưa đóng chặt cửa và bài ngoại một

cách mù quáng.

Từ 1832 trở đi lịch sử biến chuyển nhanh chóng, tại nước Pháp dưới sự thống trị

của nền quân chủ tư sản do Louis Philippe đứng đầu, cuộc cách mạng công nghiệp đã

được tiến hành, nền kinh tế Pháp trải qua một giai đoạn phát triển quan trọng và đòi hỏi

thêm thị trường. Trong nước, triều Nguyên tăng cường và củng cố nền chuyên chính

trung ương, đặc biệt là sau cái chết của Tổng trấn Lê Văn Duyệt 4T(8 -1832), 4Ttriều đình

bãi bỏ chức Tổng trấn Gia Định Thành, chia Gia Định thành 6 tỉnh trực thuộc trung

ương. Năm 1832, lấy lý do tàu thuyền đến Việt Nam ít hẳn đi, công việc của Ty thương

bạc không còn nhiều, vua Minh Mạng ra lệnh bãi b ỏ Ty thương bạc.

Năm 1833, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khô i khởi binh dấy loạn, chiếm

cả 6 tỉnh miền Nam. Triều Nguyễn phải tập trung sức lực dẹp suốt 4T2 4Tnăm mới yên. Vụ

biến Lê Văn Khôi đã đặt vấn đề ngoại xâm một cách cụ thể cho triều Nguyễn suy ngẫm.

Chúng ta biết Lê Văn Khôi đã cầu cứu Xiêm La và trong cuộc nổi loạn này còn có sự

tham gia của các giáo sĩ người Pháp. Có nhiều nguyên nhân để Minh Mạng tăng cường

đường lối đối ngoại biệt lập với Pháp, nhưng nguyên nhân chính yếu vẫn là độc lập an

ninh của quốc gia có nguy cơ bị xâm phạm. Ngoài ra, vấn đề an ninh chính trị, vấn đề

85

tôn giáo, vấn đề tập quyền... cũng là những nhâ n tố ngăn cản quan hệ Việt Nam - Pháp

tiến triển thuận lợi. Từ năm 1832 đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Pháp,

hoàn toàn không mang tính ch ất ôn hòa nữa .

Cho đến năm 1839 cả châu Á bị rung chuyển bởi những loạt đại bác của thực dân

Anh, mở đầu cho việc can thiệp quân sự vào Trung Hoa. Cu ộc chiến tranh thuốc phiện

là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho các 22Tnước 22Tphong kiến Á châu còn đang “đóng kín

cửa”. Trung Hoa, quốc gia tiêu biểu cho Á Đông đang bị các cường quốc tư bản xâu xé.

Có thể nói “Minh Mạng đã được đánh thức do những biến động ở Trung Quốc” [66,

118]. Nhà vua ý thức nguy cơ trước mắt đang đe dọa độc lập tự chủ của đất nước. Đó là

lý do sâu xa khiến ông quyết định điều chỉnh đường lối ngoại giao cổ truyền tự thủ thụ

động sang đường lối ngoại giao cởi 6Tmở 6Thợp tác với phương Tây trong những năm tháng

cuối đời mình.

Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất ở Trung Quốc cùng với việc “bài đạo”

kéo dài ở trong nước gây rối ren và mất nhân tâm xã hội là hai nguyên nhân lay động cái

tư tưởng “bất biến”, “bất dịch” trong ý thức vua quan nhà Nguyễn. Minh Mạng hiểu rõ,

nếu tiếp tục khư khư 6Tđường 6Tlối đối ngoại như cũ, một cuộc xung đột Việt - Pháp có thể

xảy ra giống như ở Trung Quốc. Ông cho rằng: “nên thăm dò ý đồ các nước châu Âu

hầu đi đến một thỏa hiệp về đạo Thiên Chúa, cũng như về buôn bán” [97-53].

Đối với các nước phương Tây, sau khi chiến tranh thuốc phiện kết thúc với phần

thắng thuộc về Anh quốc, đã gây nên một sự phấn khích cho các nước Âu - Mỹ, giấc

mộng bành trướng tại châu lục rộng lớn này trở thành một hiện thực gần gũi hơn đối với

các nước phương Tây. Triều đình Huế nhận thức nhanh chóng vấn đề trên, tiếp theo đó

là sự bất thành của việc “cấm đạo”, “bài đạo” ở trong nước, có thể nhận thấy, dù có

ngăn cản, hạn chế, việc truyền đạo vẫn cứ được tiến hành. Việ c “bài đạo” và phát triển

lên thành “sát đạo” trong nước kéo dài cho đến tận năm 1838 vẫn chẳng đem lại một kết

quả thiết thực nào. Càng ngăn cấm thì lòng tin của giáo dân càng gia tăng, có

nhiều 6Ttrường 6Thợp “tử vì đạo” xảy ra.

Vua Minh Mạng nhận thức rõ đường lối đối ngoại của mình sẽ không có hiệu quả

thực tế trong hoàn cảnh này. Tình hình mới đã đặt triều đình Huế đứng trước sự lựa

86

chọn: Tiếp tục đi theo con đường ngoại giao kiểu phương Đông, hoặc mở cửa tiếp xúc

với phương Tây. Minh Mạng đã chọn con đường thăm dò để “mở cửa”.

Cuối năm 1839, để đối phó với tình hình đang biến động dồn dập xảy ra xung

quanh, Minh Mạng cho tăng cường củng cố phòng bị những nơi quan yếu, hải cảng (cửa

Hàn, An Hải...), tăng số lượng thuyền chiến... Điều này cho thấy Minh Mạng khi bắt

đầu thăm dò để đổi mới đường lối đối ngoại, ông vẫn có ý thức tăng cường sức mạnh

phòng bị đất nước, đề cao cảnh giác với bên ngoài. Sau đó ông bắt đầu tiến hành các

bước thăm dò để đi đến một chính sách hợp tác với phương Tây:

- Bước đầu tiên, Minh Mạng nghiên cứu tình hình hoạt động của những nước tư

bản Âu - Mỹ tại châu Á. Để nghiên cứu hoạt động của Anh tại Xiêm La, 6Ttriều 6Tđình phái

2 điệp vụ thạo tiếng Xiêm La, có dấu ấn của chính quyền Xiêm La đóng trên người,

sang Xiêm La làm nhiệm 22Tvụ 22T(“Hà Tiên phái thám tử là Nguyễn Văn Nhũ, Lâm Văn

Thành sang trinh thám nước Xiêm... khi trở về báo cáo tình hình... vua đặc thưởng cho

100 quan tiền, lại sai sang lần nữa để thăm dò sau” [71, XXI, 235]). Tháng 11 năm

1839, vua phái 5 sứ đoàn đi theo đường biển chia thành 4 khu vực: -Batavia (một quần

đảo nhỏ ở42T Tây 42TBắc đảo Bornéo thuộc khu vực quần đảo Nam Dương), -Tambelan,

-Calcutta- và Singapo. Phái đoàn đến Batavia do Tham tri Đào Tri Phú làm chính biện,

ngoại lang 42TTrần Tú 42TDĩnh làm phó biện, đến Batavin tìm cách tiếp xúc với người Hà Lan,

người Pháp, dò hỏi tin lức. đến năm 1840, triều đình Huế còn cử thêm một phái đoàn

đến Batavia nữa để tìm hiể u tình hình và gặp gỡ buôn bán với người Âu.

- Phái đoàn thứ hai do ngự lang Trần Văn 6TBửu 6Tvà quan 6Tthư 6Tviên ngoại lang Cao

Hữu Tán làm chánh, phó biện đến Tambelan với mục đích chính là tìm hiểu chính sách

thống trị của Anh lại nơi đây.

- Phái đoàn thứ ba đi vòng vịnh Xiêm La, theo eo hiển Malacca đến đảo Pinang

(một đảo nhỏ nằm sát Mã Lai, chịu sự thống trị của Anh), rồi vượt vịnh Bengal tới

Calcutta (Ấn Độ), cũng nh ằm tìm hiểu chính sách thuộc địa của Anh và mua sản phẩm

của phương Tây đem về nước.

- Phái đoàn thứ tư và thứ năm đều đi Singapo, một thuộc địa của Anh. Nhìn chung,

cả năm đoàn đi sứ đều nhận lãnh những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với nước nhà.

Đó là theo dõi, nghiên cứu tình hình khu vực, các chính sách của Anh, Hà Lan... đối với

87

các nước trong khu vực Đông Nam Á và kiêm luôn nhiệ m vụ mua hàng hóa v ật dụng ở

châu Âu về phục vụ cho việc quân nhu ở triều đình.

- Bước tiếp theo, Minh Mạng cử sứ đoàn sang Anh và Pháp nhằm mục đích

thương thuyết và thiết lập quan hệ chính thứ c với hai nước này. Các sứ đoàn có nhiệm

vụ làm việc để đi tới ký kết một hiệp ước liên minh 11Tchính trị 11T- kinh tế với Anh, Pháp và

mua hàng hóa. S ứ đoàn sang Pháp do quan tư vụ Trần Viết Xương dẫn đầu, quan tư lại

Tôn Thất Thường làm phó đoàn, cùng đi còn có hai thông ngôn (một tiếng Anh và một

tiếng Pháp).

-Tháng 11 năm 1840, sứ đoàn Việt Nam đến Pháp, Trần Viết Xương vận động xin

gặp hoàng đế Pháp, nhưng Louis Philippe đã từ chối, 42T“các 42Tphái bộ truyền giáo nước

ngoài, để ngăn chặn việc ký kết một hiệp ước mà 42Thọ 42Tsợ phải gánh chịu phần thua thiệt,

đã mưu mô vận động ở triều đình, đã nói về vua Minh Mạng như một kẻ thù quyết liệt

của tôn giáo và Giáo Hoàng cũng phản đối” [97, 53]. Vài tháng trước khi phái đoàn

Việt Nam sang Paris, Giáo Hoàng Grégoire XVI đã viết mội lá thư cho các giáo sĩ ở

Việt Nam nói về cảnh khổ cực của giáo sĩ Pháp tại Việt Nam và cảnh báo cho thế giới

đang có sự “diệt đạo” ở Việt Nam. Bức thư đã 42Tgây 42Tnên sự căm hờn trong giới Thiên

Chúa giáo tại Pháp. Cha cố Affre, giám đốc Chủng viện Paris cũng viết thư lên vua

Pháp “cuối bức thư là lời khẩn thiết xin vua ra uy quyền đối kháng triều đình Huế” [12,

237]. Tất cả sự chống đối đó, cộng thêm việc Pháp bắt bẻ sứ thần ta không mang quốc

thư và thành phần sứ không thuộc phẩm hàm đúng hàng sứ giả (Trần Viết Xương thuộc

hạng Chính L ục 42TPhẩm 42Tmà nguyên tắc Chánh sứ phải là quan Nhị phẩm). Phía Pháp cho

rằng chánh sứ của ta không 11Tthể 11Tđại diện chính thức của vua Nguyễn. Có thể nói đây là

cơ hội sau cùng cho mối quan hệ Việt - 6TPháp 6Tnhưng đã bị bỏ lỡ. Theo một vài ý kiến đã

có 6Ttừ 6Tphía Pháp thì “ việc ngoại giao này thất bại do tính cố chấp của chính quyền Pháp

qua sự xúi giục của bè phái Thiên chúa hiềm tị mù 6Tquáng” 6T[128,240]. Thực ra, đây chỉ là

một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của phái đoàn Việt Nam tại Pháp và

Anh. Triều đình Huế không tạo ra được một dư luận tốt cho sứ đoàn, công việc chuẩn bị

cho sứ thần còn có sơ suất mặc dù chúng ta biết là Minh Mạng chi phí cho sứ đoàn này

một số tiền khá lớn (20000 quan Pháp) [12,239].

Sau thất bại ngoại giao tại Pháp, sứ đoàn của Việt Nam lên đường sang nước Anh.

Tại đây, “dựa vào lời cùa Crawfurd, Palmerston lừ chối liên giao với Việt Nam... với

88

lời khước từ của Bộ trưởng ngoại giao nước Anh, sứ ta mục đích lại bất thành”

[128,239] - Không 6Tthành 6Tcông trong sứ mệnh ngoại giao ở cả hai nơi - chủ yếu là ở

Pháp, đoàn Việt Nam lên đường trở về nước. Khi đoàn vế 6Ttới 6THuế, vua Minh Mạng đã

băng hà vào ngày 21 tháng 1 năm 1841.

Trong 20 năm trị vì vua Minh Mạng đã thực hiện một đường lối ngoại giao rõ ràng

có định hướng, có điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Dưới thời Minh

Mạng, Việt Nam trở thành Đại Nam có uy tín và thể hiện được sự tự cường trong khu

vực. Đi theo đường lối ngoại giao đối với phương 43TTây 43Tđược định ra từ thời Gia Long,

đường lối ngoại giao biệt lập khép kín, mà hầu như phần lớn các quốc gia Châu Á đều

áp dụng trước sức ép của tư 43Tbản 43TÂu Mỹ, Minh Mạng đã mong muốn duy trì, bảo vệ

nghiêm ngặt trật tự xã hội của Việt Nam. Vừa lên ngôi Minh Mạng đã tránh tiếp xúc

với 43TPháp, 43Ttránh né và tiến tới việc không quan hệ với Pháp. Tuy vậy, trong vòng 10

năm đầu, dù có hạn chế tiếp xúc với Pháp nhưng triều Nguyễn không thực sự “đóng

cửa”, người phương Tây đến thì theo lời Minh Mạng, ông “không cự”.

Trên lĩnh vực thương mại, trong những năm đầu 60Td ư ớ i 60Ttriều Minh Mạng, vẫn được

tiến hành bình 6Tthường 6Tvới người Âu. Việc truyền đạo cho đến năm 1825 vẫn được tiến

1TQuan 1Thệ Việt - Pháp vào 78Tđầu 78Tthế kỷ 19 không g ặp nhiều thuận lợi còn do nhữ ng ý

triển dễ dàng, chưa hề bị cấm đoán khắc nghiệt

đồ đen tối của Pháp. Nhiều phái đoàn Pháp đã sang Việt Nam và chở theo nhiều giáo sĩ,

xâm nhập trái phép vào nước ta. Trường hợp tàu Favorite của La Place (1830) là một ví

dụ điển hình, ông này cho người lên dò xét và vẽ địa thế núi Non Nước 42Tở

Đà 42TNẵng... 57TTất 57Tcả những sự kiện xảy ra 39Ttrong 39Tvà ngoài nước làm cho triều đình Huế gia

tăng sự nghi ngờ Pháp, và dần dần tiến tới chỗ không quan hệ với Pháp, không quan hệ

để tự thủ và phòng vệ đất nước.

Đường lối, chính sách ngoại giao trên của Minh Mạng nằm trong phạm vi ngoại

giao phong kiến Á Đông. Triều Nguyễn không có quan hệ ngoại giao chính thức với

Pháp và các nước phương Tây dù có lý do biện minh, nhưng phần nào cũng tự tách rời

ra khỏi hiện thực quốc tế. Điều đó góp phần nào tạo nên ý thức bảo thủ và kém linh hoạt

đổi mới trong đường lối đối ngoại của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19.

89

Dưới triều Minh Mạng, cơ quan giao t hiệp với nước ngoài là Thương bạc bị đóng

cửa, trong bộ máy nhà nước phong kiến Nguyễn thiếu hẳn một bộ phận, một cơ quan

chuyên trách về phương Tây. Các quan lại cao cấp của triều đình được cử ra tiếp sứ, hay

đi công vụ nước ngoài đều là những người học giỏi, đỗ đạt và được đào tạo trên nền

tảng nho giáo và ngoại giao theo kiểu nho giáo nên khi đi đến các nước tư bản không

thể phù hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ ngoại giao được.

Một vấn đề mà chúng ta không thể né tránh hay phủ nhận là chính sách “bài đạo”

dưới triều Minh Mạng. Đây là nhân tố tạo nên một cản trở, khó khăn lớn trong quan hệ

Việt Nam - Pháp thời kỳ này. Chính sách này bắt nguồn từ nhu cầu tự vệ và ý thức của

giai cấp phong kiến cầm quyền trong vấn đề bảo vệ toàn vẹn độc lập 6Tdân 6Ttộc và thống

nhất văn hóa truyền thống, bởi lẽ vào “thời điểm lịch sử xảy ra cấm đạo gay gắt nhất

của nhà Nguyễn cũng chính là thời điểm chủ nghĩa thực dân phương Tây đang ở vào

giai đoạn triển khai mạnh mẽ nhất, cũng như sự truyền bá đạo Thiên Chúa 30Tđã 30Tbiến chất”

[31, 26]. Truyền đạo trong thời điểm này không chỉ là truyền bá tôn giáo mà có cơ sở để

chúng ta nghi ngờ về sự gắn với âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Dưới thời vua

Minh Mạng, nhiều cha xứ người Pháp đã báo nhiều tin quan trọng cho chính ph ủ Pháp

và cũng 42Tcó 42Tnhiều giáo sĩ, như Taberd, Gagelin 57Ttheo 57Ttàu La Rose vào Việt Nam năm 182,

Régereau theo tàu Thélis vào Việt Nam năm 1825. Triều Nguyễn đã không thể làm gì

khác hơn là ngăn chặn mối nguy hại đến với đất nước từ việc truyền đạo, dù cho qua

chính sách “cấm đạo”, nét lạc hậu trong tư duy Nho giáo được phản ánh khá rõ so với

hiện thực khách quan đang tồn tại. Và với việc “cấm đạo”, triều Nguyễn 30Tđã 30Ttỏ rõ một

cách ứng xử lúng lúng, vụng về đối với nước Pháp.

Chính sách cấm đạo dưới triều Minh Mạng được phản ánh qua các chỉ dụ cấm đạo

sau 42Tđây:

- Năm 1825, khi Vannier và Chaigneau rời Việt Nam thì sự việc các giáo sĩ lén

trốn ở lại cửa Hàn 30Tđã 30Tdẫn đến việc ra chỉ dụ tháng 2 -1825. Mục đích chính của chỉ dụ

này là ngăn ngừa giáo sĩ ngoại quốc 42Txâm 42Tnhập trái phép vào Việt Nam (chính sử triều

Nguyễn không ghi l ại chỉ dụ này)..

90

- Chỉ dụ cấm đạo năm 1827 chủ yếu kêu gọi các giáo sĩ tập trung về Huế làm

nhiệm vụ dịch thuật. Các cha cố và người Pháp đến Huế như: Taberd, Gagelin...đều

được cấp tiền gạo. Chỉ dụ này thực ra nhằm kiểm soát hoạt động của giáo sĩ Pháp.

- Cuối năm 1830, việc cấm đạo được tiến hành nghiêm ngặt hơn, nhiều chỉ dụ

được ban hành. Chỉ dụ năm 1833 có nội dung cấm đạo đối với dân chúng trong cả nước.

Chỉ dụ năm 1836 mang tính chất sát đạo. Lần đầu tiên triề u Nguyễn xác định mục đích

cấm đạo là bởi giáo sĩ ngoại quốc phạm tội do thám. Tiếp đó, triều Nguyễn còn ban ra 3

chỉ dụ nữa vào năm 1835 (dành cho các 42Ttỉnh 42TThanh - Nghệ - Tĩnh), và 2 chỉ dụ vào năm

1839 (đây là 2 chỉ dụ mật).

- Như vậy, dưới triều Minh Mạng có 5 chỉ dụ liên quan đến vấn đề “cấm đạo”,

nhưng Minh Mạng và triều thần đã không thể “cấm đạo” có hiệu quả mà còn tạo ra một

dư luận quốc tế không đồng tình với Việt Nam, bất lợi cho việc thiết lập các mối quan

hệ ngoại giao với phương Tây vào cuối đời Minh Mạng. Tháng 1 năm 1841, Minh

Mạng băng hà trong khi toan tính dự định “mở cửa” trong những năm cuối đời của ông,

và nhữ ng cố gắng ngoại giao đã không thành hiện thực.

3.2.4. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và đầu

thời Tự Đức (1847 - 1883):

Ngày 12 – 2 - 1841, Thiệu Trị trở thành vua lúc ông 34 tuổi. Thiệu Trị chỉ ở ngôi 7

năm, ông không đủ lực cũng như thời gian để thay đổi nội dung, tính chất mối quan

hệ 43Tvới Pháp.

Mới lên ngôi, Thiệu Trị đã phải đối phó với rất nhiều cuộc khởi nghĩa 42Tở 42Ttrong nước

như khởi nghĩa ở Tây Ninh, Hà Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long... Nhiều cuộc nổi dậy

liên miên đã tạo nên sự bất ổn, rối ren ở trong nước. Bên ngoài thì tình hình tại Chân

Lạp có nhiều biến động, nhân dân Chân Lạp nổi dậy phản kháng sự độc đoán, chuyên

quyền, nhũng nhiễu của quan lại Việt Nam. Vì thế vừa lên ngôi Thiệu Trị đã phải xuống

chiếu rút hết binh về nước. Toàn cảnh chính trị thời Thiệu Trị gây nhiều khó khăn cho

ông. “Thiệu Trị ở ngai 7 năm đã phải đối phó hơn 50 cuộc khởi nghĩa lớn, nhỏ trong cả

nước” [65, 61].

Ngoài ra, vào thời Thiệu Trị, áp lực của phương Tây tiếp tục gia tăng 42Tở 42Tvùng Viễn

Đông. Tại Trung Quốc, các nước tư bản đã hoàn toàn lấn át được triều Mãn Thanh. Thất

91

bại trong cuộc chiến tranh thuốc phiện, triều Mãn Thanh phải ký điều ước Nam Kinh

vào năm 1842 nhường Hồng Kông cho Anh và phải mở 5 cửa bể cho tàu thuyền ngoại

quốc vào mua bán. Theo gót chân của nước Anh, Pháp cũng đòi quyền lợi của mình ở

Trung Quốc và họ còn đạt được một yêu cầu khác là được tự do truyền đạo 42Tở 42TTrung

Quốc. Đó là những quyền lợi mà Pháp đạt được thông qua hiệp ước Hoàng Phố ký với

nhà Thanh vào n ăm 1844.

Thắng lợi của Pháp tại Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp can thiệp

vào Việt Nam với ý đồ đạt được những quyền lợi tương tự như ở Trung Quốc. “Theo lời

kêu gọi của các nhà truyền giáo nền quân chủ tháng 7 lúc đó nghĩ là cần can thiệp vào

Việt Nam để có những sự đặc nhượng tương tự” [97, 54]. Từ năm 1835, Pháp đã có

Lãnh sự quán ở Manille và đến năm 1839 thì đổi thành Tổng Lãnh sự quán. Từ năm

1840 đến năm 1841, Pháp đã 43Tgầy 43Tdựng được cơ sở ở vùng biển Trung Hoa, hải quan

Pháp đã hiện diện ở các Hải cảng thuộc Manille, Macao, Batavia, Singapo, Hồng

Kông... và Pháp bắt đầu nhắm đến Việt Nam.

Đường lối chính sách đối với phương Tây, đặc biệt đối với nước Pháp thời Thiệu

Trị không có gì thay đổi so với thời Minh Mạng. Nhưng Thiệu Trị tỏ ra ôn hòa hơn

trong vấn đề truyền đạo. Ông đã ra lệnh phóng thích 5 giáo sĩ Pháp đang chịu án tử hình

(các giáo sĩ đ ó là: Miche, Duclos, Galy, Berneux, Charrier). Trong năm 1845 và 1846,

Thiệu Trị ân xá 2 lần cho vị giáo sĩ ngoan cố bất chấp luật lệ Việt Nam là Lefèbre và trả

ông này về lại Singapo. Nhìn chung Thiệ u Trị có những nhân nhượng trong v ấn đề tôn

giáo, theo ông “phải tìm nhiều cách để giảng dụ, khai hóa, khiến cho đổi lỗi làm lành,

chứ nếu đều gia hình pháp cả thì e có quá đáng” [26, 100]. Triều Nguyễn bắt đầu hòa

hoãn nhân nhượng thì lúc này Pháp đã xúc tiến công việc gây hấn can thiệp vào nước ta.

Năm 1843 một chiếc tàu Pháp là Erigone đến Đà Nẵng, viên thuyền trưởng là

Cécille lập một bản báo cáo gởi về chính phủ Pháp. Trong bản 43Tbáo cáo 43Tcủa mình

Cécille đề nghị chính phủ Pháp nên can thiệp vào Việt Nam để đổi lại vấn đề tự do buôn

bán và truyền đạo. Đề nghị của Cécille đã không được chấp thuận, nhưng một năm sau,

khi ở Huế không còn giáo sĩ Pháp nào bị giam cầm nữa, Pháp cử 2 chiến thuyền là

Victorieuse và La Gloire dưới sự chỉ huy của La Pièrre và Rigaull de Genouilly đến Đà

Nẵng. Hai viên chỉ huy trên khi đến Đà Nẵng đã đệ quốc thư lên vua Thiệu Trị phản đối

sự cấm đạo, và yêu cầu “vua theo gương Trung Quốc đã không ngăn cản việc này” [75,

92

405]. Đây chỉ là cái cớ để Pháp khiêu khích gây sự với triều Nguyễn. “Trong mục đích

đó Pháp đã phái đ ến hai tàu chi ến do Rigault de Genouilly điều khiển, y đưa ra tối hậu

thư đòi rút lệnh trục xuất và đạo Thiên Chúa phải được tự do truyền giáo tại Việt Nam

như tại Trung Quốc. Trong cuộc thương thuyết tại Đà Nẵng, Pháp thấy các thuyền

buồm Việt Nam đến gần, chúng liền tấn công mà không một lời báo trước và đánh đắm

toàn thể đoàn thuyền.” [97, 54]. Do sự khiêu khích của Pháp mà quan hệ Việt Nam với

Pháp trở nên căng thẳng. Vua Thiệu Trị đã bàn với triều thần việc chiến tranh, vua cho

tăng cường đồn lũy, đúc thêm súng... Trư ớc đó, Thiệ u Trị đã thực hiện một chính sách

hòa dịu với Pháp, điều đó gây nên một sự lạc quan trong nước, 43Tcác 43Tgiáo sĩ và giám mục

cũng tin là “sắp đến ngày hòa bình rồi” [26, 100]. Nhưng Pháp đã phá hoại không khí

hòa bình đó, gây nổi bất bình trong triều thần nhà Nguyễn. Trước 43Tsự gây 43Thấn của Pháp,

Thiệu Trị giận dữ và ban dụ “cấm đạo” trở lại. Trong lúc tình hình đang căng thẳng,

triều đình Huế còn chưa có đối sách thích hợp để giải quyết mối quan hệ với Pháp thì

6TTừ năm 1843 - 1847, Pháp đã phái thuyền tới Đà Nẵng 3 lần để thị uy Triều 6TNguyễn

Thiệu Trị qua đời.

đang đối diện với thách thức lớn của thời đại, trách nhiệm đối với đất nước của triều đại

phong kiến này càng nặng nề hơn trước gấp bội.

Cuối năm 1847, Tự Đức lên ngôi. Chính sách không quan hệ với Pháp vẫn đang

được triều Nguyễn thực hiện. Vào những năm 1848 -1849, cuộc cách mạng tư sản đã và

đang bùng n ổ trên khắ p lục địa châu Âu. Tại nước Pháp, cuộc cách mạng 6Ttư 6Tsản này đã

lật đổ sự thống trị suốt 18 6Tnăm (6T1830 -1848) của nền quân chủ 6Ttháng 6T7. Mội thời gian

ngắn sau đó, nền đế chế II được thiết lập với sự kiện Napoléon III lên ngôi. Nước Pháp

tiếp tục cuộc cách mạng công nghiệp, kinh tế Pháp đạt những thành tựu nhất định và

Napoléon III quyết định đẩy mạnh chính sách bành trướng thuộc địa. Theo 43Ttài 43Tliệu của

Tiến sĩ Cao Huy Thuần thì: “Đệ nhị đế chính cũng quyết tiếp tục và mở rộng chính sách

bành trướng thuộc địa mà vua Louis Philippe đã bắt đầu...” [26, 112]. Khi Napoléon III

quyết định can thiệp quân sự vào Đà Nẵng, ông ta đã hành động bởi sự chi phối sâu sắc

của tình hình trong nước Pháp “là một chế độ muốn thành độc tài, đế chế mới sinh cần

có những thành công quân sự mà nó có thể hy vọng 43Tở các 43Tcuộc viễn chinh xa xôi để

vuốt ve tự ái dân tộc ..” [97, 58]. Tham vọng lớn lao 6Tnhư 6Tthế, nhưng cho đến 1852 thì

tình hình nước Pháp chưa cho phép Pháp can thiệp mạnh vào Việt Nam.

93

Tự Đức kế vị ngai vàng trong hoàn cảnh nước ta khó khăn hơn bao giờ hết. Trong

nước thì tài chính của triều đình cạn kiệt, Thị tả tham tri bộ Công là Trương Quốc Dụng

dâng sớ tâu “thi lực trong dân, so với năm trước mười 43Tphần 43Tkém đến năm sáu” [69,

282]. Tự Đức vốn là ông vua chuộng văn thơ, tính tình nho nhã hiền lành, khi lên cầm

quyền cũng tự nhận trong “Khiêm cung ký” về tình hình đất nước như sau : thương mại

bế tắc, dân chúng đói kém. Tình hình càng thêm phức tạp bởi việc Tự Đức lên ngôi đã

gây nên một sự phản ứng mạnh mẽ của người anh cùng cha khác mẹ. Đương đầu với

những phức tạp trong nước, đối diện với đại họa “bạch quỷ”, những tham vọng của

phương 42TTây, 42Tvua Tự Đức không hề có một sự đổi mới nào trong nội trị và ngoại giao.

Thực tế chứng mình rằng, cuối thời Minh Mạng, ông vua này đã có ý thức đổi mới trên

lĩnh vực đối ngoại nhưng ông không thành công. Việt Nam vẫn tiếp tục đóng cửa trong

quan hệ với các nước tư bản phương Tây cho đến thời Tự Đức. Như vậy, quan hệ Việt

Nam và Pháp cho đến thời Tự Đức vẫn gặp khó khăn, đặc biệt là qua vấn đề “cấm đạo”.

Năm 1848, vua ban chỉ dụ cấm đạo, theo 6Tlời 6Tông 6Tthì để 6Tchống 6Tlại 6T“những 6Tkẻ 6Tcả gan

đến 6Tđộ 6Tquyến rũ một hoàng 6Tthân 6Tvà hơn lúc nào hết đang bắt đầu có chỗ đứng trong đời

sống chính trị trong nước” [97, 55]. Tiếp đó trong năm 1851, 1855, vua l ại ban ra 2 dụ

khác, đuổi các giáo sĩ ngoại quốc vẫn lén lút vào Việt Nam. Những nghi ngờ

của 6TTự 6TĐức là có cơ sở. Theo tài liệu của Nguyễn Thế Anh thì: “Tự Đức nghi ngờ các

nhà truyền đạo lại nhúng tay vào đời sống chính trị Việt Nam và bắt đầu một chính sách

chống Thiên Chúa rất gắt gao” [4, 302 - 303]. Đây là nguyên cớ mà Pháp tr ông chờ để

can thiệp vào Việt Nam .

Lúc này Pháp đã kết thúc cuộc chiến tranh Crimê, và bắt đầu quan tâm đến Việt

Nam hơn, các sứ giả lại được cử đến nước ta. Năm 1855, sứ thần nước Pháp là

Montigny, khi sang công vụ ở Xiêm La, cũng nhận lệnh sang Việt Nam, song khi ông

này tới Việt Nam thì Le Lieu de ville 22Tsur 22TAce đã gây sự ở Đà Nẵng rồi. Trước yêu cầu

giao hội của Montigny, Đào Trí, quan khâm sai trấn Dương tâu lên vua Tự Đức: “Tàu

Đại Pháp đến, xin ta phái quan giao hội hòa hảo, mà quan tàu tự xưng là quan nhất

phẩm nước Pháp, chỉ muốn tới kinh cùng quan nhất phẩm mình hội nghi. Vậy xin lựa

phái quan đại thần tới hội” [68, 302]. Trước một vấn đề quan trọng như thế, nhưng vua

Nguyễn lại tỏ ra thờ ơ, không chú tâm lắm, ông bày tỏ sự lãnh đạm của mình bằng việ c

94

phó thác hết cho Đào Trí “hết lòng lo liệu ... phải mượn người nhắc làm gì nữa” [69,

302].

Cuộc hội đàm giữa Đào 6TTrí 6Tvà Montigny kéo dài tới 15 ngày nhưng chẳng được

một kết quả cụ thể nào. Ngày 7 – 2 - 1857 Montigny rời Việt Nam mà không được Tự

Đức tiếp kiến. Viên sứ Pháp này ngang nhiên để lại bản hiệp ước “theo đó hai nước giao

hiếu, người Pháp được đến buôn bán, đặt lãnh sự và đạo Thiên Chúa được tự do truyền

bá” [26, 109]. Những yêu cầu này tất 6Tnhiên 6Tkhông được 6Ttriều 6Tđình Huế chấp nhận, sau

đó đại diện hai nước không còn dịp nào thương lượng nữa. Pháp chuẩn bị can thiệp

quân sự vào Việt Nam sau khi ký hòa ước Thiên 42TTân 42Tvới nhà 6TThanh 6T(Trung Quốc).

Ngày 27 - 6 - 1858, ven bờ biển nước ta, tàu chiến của Pháp đã xuất hiện.

Nhìn chung, trước nguy cơ độc lập dân tộc, an ninh đất nước bị đe dọa nghiêm

trọng, Tự Đức 43Tvẫn 43Tlúng túng đối phó với những khó khăn trong nước, 43Tvà 43Tbế tắc trong

đối sách với nước Pháp. Bộ máy chính quyền Nguyễn thiếu vắng hẳn một cơ quan trông

coi việc ngoại giao với phương Tây, chỉ sau khi mất Gia Định vào tay Pháp, triều

Nguyễn mới đặt lại Thương Bạc viện để coi việc giao thiệp với ngoại quốc.

Thực tế, từ năm 1847, khi thương thuyền Pháp đến bể Đà Nẵng, vua Thiệu Trị đã

nhận thức tình thế nguy hiểm của đất nước, ông đã cho chuẩn bị phòng thủ Đà Nẵng.

Nhưng cho đến 1858, chín năm đã trôi qua, vua Tự Đức vẫn không đủ mạnh dạn để có

một giải pháp đổi thay thích hợp đối phó với Pháp. Ông vẫn tiếp tục chính sách cự tuyệt

giao thiệp với Pháp và chuẩn bị chống ngoại xâm “nếu sau này có những thương thuyền

hoặc chiến hạm của họ đi lại trong bờ bể của ta thì phải đuổi chúng nó ngay và không

được phép cho chúng nó cập bến. Phải luôn luôn canh phòng thật ráo riết...” [13, 32].

Năm 1858, Pháp tấn công Việt Nam, quan hệ Việt-Pháp bước qua một giai đoạn khác.

22Tnước đi

22Txâm

Quan hệ giữa hai nước trở thành quan hệ đối kháng, giữa

lược 22Tvà 22Tnước 22Tbị 22T42Txâm 42Tlược.

3.3. Những nhận xét về quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp trong nửa đầu

thế kỷ 19:

Quan hệ Việt - Pháp trong nửa 43Tđầu 43Tthế kỷ 19 phản ảnh trung thực và tiêu biểu nhất

quan hệ giữa một nước phong kiế n châu Á với mội nước tư bản phương Tây trong thời

kỳ chủ nghĩa tư bản toàn thắng trên phạm vi thế giới. Vấn đề quan hệ Việt - Pháp là một

95

trong những vấn đề phức tạp nhất, do vậy từ trước đến nay trong giới nghiên cứu đã có

nhiều nhận định, đánh giá khác nhau. Chúng ta có thể điểm qua một vài hướng nhận

định tiêu biểu:

+ Hướng nhận định mang tính biện minh đơn thuần cho đường lối chính sách

ngoại giao “khép kín” (đóng cửa) để tự thủ, tự cô lập của triều Nguyễn trước 1858.

Hướng nhận định này tìm trong các nguyên nhân khách quan, chủ quan 43Tdẫn 43Ttới sự can

thiệp quân sự của thực dân Pháp để đi tới một kết luận chung là: triều Nguyễn phải chịu

một phần trách nhiệm về việc để cho quan hệ Việt Nam và Pháp ngày càng xấu đi, căng

thẳng và cuối cùng là Pháp gây chiến với ta. Có thể nói đây là những kết luận mang tính

dung hòa, khi lý giải đường lối “đóng cửa” của triều đình Huế là do sự bắt buộc của tình

thế, và do sự thiếu chuẩn bị của giai cấp phong kiến cầm quyền. Đó là sự thách thức yếu

ớt của nội tại xã hội Việt Nam, là sự duy trì một cách bền vững xã hội truyền thống,

không chịu cách 43Ttân 43Tvới nền tảng ý thức hệ nho giáo cổ... Ngoài ra, có ý kiến cho rằng

không thể “mở cửa”, bởi 43Tâm 43Tmưu của Pháp quá rõ ràng; “mở cửa” là mất nước ngay.

+ Hướng phê phán đường lối ngoại giao, quan hệ ngoại giao (đối với

phương 11TTây) 11Tcủa triều đình Huế, nhưng vẫn nhìn nhận nét cố gắng trong nội trị, cũng

như ngoại giao của triều Nguyễn. Tác giả Đỗ Bang (TS Sử học), trong nhiều công trình

nghiên cứu của mình đã cho rằng: “việc bang giao với nước ngoài tuy có giới hạn, tôn

giáo có bị cấm, nhưng triều Nguyễn đã mở tất cả các cánh cửa cho 11Tthuyền 11Tbuôn các

nước...” [8, 21T41], 21Tdù vây, tác giả trên vẫn nhận định triều đình Huế cần thích ứng với thế

giới đang Âu hóa trên các lĩnh vực như ngoại giao và kinh tế, nhưng về mặt này triều

Nguyễn lại “thiếu sáng suốt trong chủ trương, hoặc có những biện 11Tpháp 11Tsai lầm trong

ứng xử, đối phó với các nước phương 21TTây...” 21T[8, 50]. Một số tác giả khác thì đánh giá

triều Nguyễn “chỉ để lại mội xu hướng biệt lập với nước ngoài, làm phương hướng

phòng thủ tốt nhất mà thôi” 21T[59, 21TII, 21T22]. 21TTsuboi một học gia Nhật Bản, cũng có ý kiến

khá uyển chuyển, khi cho rằng: về lý thuyết thì triều Nguyễn “đóng cửa” nhưng thực tế

thì có quan hệ với nước ngoài và Pháp. Theo ông “ Việt Nam thời đó đâu cô lập về mặt

truyền thông và tri thứ c” [110 21T, 49]. 21Tv.v...

Bên cạnh các ý kiến đánh giá dung hòa hai mặt tích cực và hạn chế của đối sách

với phương Tây của triều Nguyễn, còn có nhiều nhận định nặng về lên án vương triều

này.

96

Khá nhiều ý kiến cho rằng triều Nguyễn đã xây dựng một “mô hình kinh tế - chính

trị - xã hội có tính chất bảo thủ” 21T[59, 21TII, 21T22] 21Thay “trung thành mội cách ngu xuẩn với

những trí tuệ của thế giới cũ” [59, II, 16]. Có đánh giá cho là triều Nguyễn ngay trong

thời kỳ thịnh trị nhất (nửa đầu thế kỷ 19) “vai trò của vương triều Nguyễn nói chung

vẫn là tiêu cực xét theo xu hướng tiến bộ của lịch sử” 21T[59,11,121]

Đánh giá của PGS.TS Sử học Nguyễn Phan Quang trong những 22Tcông 22Ttrình nghiên

cứu 43Tgần 43Tđây khá thỏa đáng và hợp lý. PGS. Nguyễn Phan Quang đã nhận định sự tận

tâm, tận lực của các vua đầu thời Nguyễn trong khả năng cho phép của các vua này,

nhưng các vua Nguyễn đã “lựa chọn đường lối cơ bản không phù hợp với những yêu

cầu của xã hội việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ 19...” [53, 15].

Thực tế cho thấy, trong những năm cuối thế kỷ 20, vấn đề triều Nguyễn đã được

đưa ra nghiên cứu, nhìn nhận theo một xu hướng gợi mở hơn, đa dạng hơn. Nhiều công

trình cấp nhà nước đã cung cấp thêm tư liệu mới, những cách tiếp cận, nhận thức mới

khi đánh giá về triều Nguyễn trên lĩnh vực ngoại giao. Đây cũng là vấn đề có liên quan

đến vận mệnh của Việt Nam nửa sau thế kỷ 19. Để có kết luận bước đầu về vấn đề quan

hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn với Pháp trong đầu thế kỷ 19, chúng ta có thể nhìn lại

tiến trình quan h ệ Việt - 43TPháp 43Tqua 2 thời kỳ sau:

+ Thời Gia Long trị vì đất nước 1802 - 1819. Ông định hướng đường lối chiến

lược ngoại giao “không phương Tây”, nhưng mềm dẻo, ôn hòa với Pháp và các nước tư

bản Âu - Mỹ. Gia Long chủ trương không quan hệ chính thức với Pháp trê n bất kỳ lĩnh

vực nào (kinh tế và chính trị), nhưng vẫn tỏ ra thân thiện với người Pháp. Từ 1817 qua

sự kiện Kergariou, Gia Long đã dứt khoát cắt bỏ mọi dự định mà Pháp toan tính đặt ra

với Việt Nam. Đường lối chính sách này xuất phát từ yêu cầu phòng vệ đất nước và bảo

vệ vương quyền họ Nguyễn. Đối sách này được Minh Mạng thực thi dù có điều chỉnh

tùy thời điểm cụ thể, nhưng về cơ bản đây là đường lối chính trị xuyên suốt trong nửa

đầu thế kỷ 19, không có những thay đổi lớn.

+ Quan hệ Việt - Pháp thời Minh Mạng trở đi do vấn đề thương mại và tôn giáo cản

trở, 42Tvà 42Ttrở nên gay gắt căng thẳng vào cuối thời Thiệu Trị.

Nhìn chung, quan hệ giữa 43Tcác 43Tnước phong kiế n Á Đông với các 43Tnước 43Ttư bản Âu -

Mỹ không tiến triển một cách tốt đẹp, chủ yếu là do những lý do kinh tế - chính trị

97

- 6Tquân 6Tsự của các nước phương Tây. Chúng ta có thể nhìn qua một số nước tiêu biểu đi

theo đường lối chính sách như triều Nguyễn (Việt Nam) trong thời điểm này:

Trung Quốc: Vào thời cận đại đây là một thị trường rộng lớn lý tưởng của tư bản

phương Tây đang khao khát thuộc địa. Sự mênh mông của đất nước này, khiến cho

Trung Quốc không trở thành thuộc địa độc quyền của riêng một cường quốc tư bản nào

cả. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 Anh, Hà Lan, Bồ luôn tranh chấp về Trung Quốc. Nhà

Thanh để đối phó với nguy cơ xâm lược của tư bản Âu - Mỹ, cũng đã thực hiện chính

sách “đóng cửa” tuyệt giao với phương Tây để tự vệ. Chính quyền phong kiến Mãn

Thanh ra lệnh phong tỏa các miền duyên hải, cấm trong nước buôn bán với người ngoại

quốc. Năm 1758, chính phủ ban hành đạo dụ hạn chế người Âu buôn bán với Trung

Quốc qua công hành, và ra sức bài đạo Thiên Chúa. Chính sách “đóng cửa” của Trung

Quốc đã đi ngược lại quyền lợi của các nước tư bản, các nước này tìm cách can thiệp

vào Trung Qu ốc. Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần I đã mở đường cho các nước tư bản

vào xâu xé Trung Quốc. Hòa ước Nam Kinh buộc Trung Quốc mở 5 cửa khẩu cho ngoại

quốc vào buôn bán và chứng thực lời của Khang Hy trước lúc băng hà: “trẫm ngại rằng,

trong các thế kỷ sau, Trung Hoa sẽ lâm nguy vì xung đột với các dân tộc phương Tây

vượt biển để tới 43Ttận 43Tđây” [20, 225]. Tất cả các phái đoàn ngoại giao của Anh, Pháp...

tới Bắc Kinh xin thông thương và ký hiệp ước, đều bị nhà Thanh kiêu căng chối từ vì

“lời xin đó trái với tục nhà Thanh...” [20, 226]. Như vậy, cùng với Việt Nam, Trung

Quốc cũng “đóng cửa” đất nước để phòng vệ hiểm họa ngoại xâm đến từ phương Tây.

Đối với Nhật Bản, do hoàn cảnh lịch sử 43Tkhác 43Tbiệt, nên Nhật là nước phong kiến

châu Á tạo nên một kỳ tích trong lịch sử các nước phương Đông: Giữ được độc lập và

trở thành nước đế quốc tư bản duy nhất ở châu Á.

Đầu thế kỷ, Nhật cũng chủ trương “đóng cửa”. Năm 1853 những chiến thuyền Mỹ

đã xuất hiện ven bờ biển xứ mặt trời mọc. Trước áp lực của Mỹ, năm 1854 21TNhật 21Tbuộc

phải ký hiệp ước Kanagawa mở cửa Shimôda và Hakôđatê. Tiế p sau đó, Nhật còn phải

ký một loạt điều ước khác với Anh, Pháp, Nga, nhượng cho châu Âu nhiều quyền lợi.

Năm 1868, sau cuộc “đảo Mạc” thắng lợi, Nhật Hoàng tập trung được quyền lực, và

thực hiện công cuộc cải cách Mê-Di mang tính chất tư sản trên toàn bộ các lĩnh vực để

canh tân đất nước. Chính tại thời điểm Nhật duy tân, thì các nước tư bản đang tranh

nhau quyền lợi ở Trung Quốc. Nước Mỹ thì đang bận khai phá vùng Nam Mỹ, không có

98

điều kiện thuận lợi can thiệp vào nội tình Nhật Bản. Hoàn cảnh đó là nhân tố khách

quan cực kỳ thuận lợi cho Nhật “mở cửa” canh tân đất nước và đuổi kịp phương 42TTây.

Với Xiêm La, nước gần Việt Nam và có quan hệ mật thiết với triều Nguyễn, chúng

ta nhìn ngược dòng lịch sử và thấy rằng từ thế kỷ 15 trở đi, thương 43Tnhân châu 43TÂu đã

đến Xiêm La để buôn bán, và tìm cách gây dựng ảnh hưởng ở Xiêm La. Trước những

chấn động xã hội mạnh mẽ cuối thế kỷ 17, đặc biệt 43Tlà 39T43Tphong 39Ttrào chống sự lũng đoạn

của tư bản nước ngoài ở Xiêm La, trên thực tế, Xiêm La đã thi hành chính sách “đóng

cửa”, mặc dù không có một lệnh cấm nào đối với người châu Âu tới Xiêm La. Cho đến

trước năm 1815 (tức là trước trận Oa-Téc-Lo diễn ra), các nước châu Âu vẫn dành ưu

tiên cho những 43Tcông 43Tviệc 43Tở 43Tchâu Âu. Sau 1818, tình hình đã khác đi, khi quân

đội 38Txiêm 38TLa tiến hành chinh phạt thành công tiểu vương Kêđác trên đ ảo Malacca. Việc

Xiêm La có thể chiếm cả Xê-lango đã dẫn đến việc va chạm quyền lợi của Anh ở phía

Nam, vì năm 1819 Anh đã biến Singapo thành thuộc địa của mình. Năm 1822, Anh b ắt

đầu uy hiếp Xiêm La. Năm 1824, RaMa IV lên ngôi vua Xiêm La và ông hết sức năng

động trong chính sách đối nội, đối ngoại. Chính sách ngoại giao “lựa chiều” của RaMa

III tỏ ra hữu hiệu, từ 1826 - 1839, ông sáu lần tiếp sứ thần phương 43TTây, 43Tđồng thời ông

cũng chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng của đất nước. Năm 38T1 8 5 1 38TRaMa IV lên

kế vị. Ông là người biết tiếng Anh, tiếng Latinh và có quan hệ chặt chẽ với các giáo sĩ ở

châu Mỹ - châu Âu. Lên câm quyền, ông đi theo con đường “mở cửa”, kiên quyết đoạn

tuyệt với những truyền thống cũ không hợp lý của nền ngoại giao Xiêm La. Dù tình thế

lúc đó buộc RaMa IV phải ký những hiệp ước bất bình đẳng với phương Tây, nhưng

RaMa IV biết tìm cách tháo gỡ những ràng buộc thông qua các hiệp ước trên. Ông sáng

suốt nhận định “một quốc gia bé nhỏ như nước ta có thể làm gì, khi mà từ hai mặt hoặc

từ ba phía bị bao vây bởi các quốc gia hùng mạnh?” [66,139]. Từ thực tế lịch sử khách

quan đó, Xiêm La đã tìm cách khai thác mâu thuẫn giữa 43Tcác 43Tnước đế quốc trên đất

Xiêm La để giữ vững độc lập cho tổ quốc.

Nhìn chung, trong lịch sử cận đại vào thế kỷ 19 hiện tượng “chênh lệch” giữa sự

phát triển của phương Tây và phương Đông là một thực tế lịch sử. Đối điện với sự uy

hiếp của tư bản Âu Mỹ, Nhật Hoàng và Xiêm Vương đã có sự điều chỉnh trong đường

lối đối ngoại, để tìm mọi cách giữ được độc lập và phát triển đất nước. Còn Việt Nam,

Trung Quốc và một số nước khác thì rơi vào tình cảnh thuộc địa, phụ thuộc của phương

99

Tây. Như vậy, 11Tdù 11Tđã cố gắng để bảo vệ quyền lực của họ Nguyễn, độc lập chủ quyền của

đất nước bằng đường lối ngoại giao mang tính phòng vệ, xa lánh phương Tây, các vua

Nguyễn cũng 6Tđã 6Ttự làm suy yếu tiềm lực đất nước, không huy động cổ vũ được lực

lượng toàn dân để bảo vệ đất nước hữu hiệu hơn. 43TCác 43Tvua đầu triều Nguyễn vì mục đích

tối cao là độc lập chủ quyền của đất 22Tnước, 22Tđã thực thi một chính sách không giao thiệ p

với Pháp cũng như các n22Tước 22Ttư bản khác. Đây là nguyên nhân có thể biện giải

cho 43Tcác 43Thạn chế dẫn tới sai lầm trong ngoại giao Triều Nguyễn, và cũng là một trong

những yếu tố để có thể kết luận: Triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm trong việc để mất

nước. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng Triều Nguyễn dù “đóng

cửa”, 6Tnhưng 6Tkhông hề ảo tưởng vào vấn đề 11T“bế 11Tquan” này. Tự Đức cũng đã nhận thức

“... nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến là thoái vậy” [16, 325]. Tình thế bắt

buộc các vua Nguyễn không thể làm cách nào khác hơn cách các ông đã làm. Đó là tự

thủ, một kiểu phòng vệ thụ động. Đường lối ngoại giao của các vua đầu triều Nguyễn

không mang tính cô lập một cách tuyệt đối, vì trên thực tế Việt Nam có học tập kinh

nghiệm văn minh phương 42TTây, 42Tcó quan 6Thệ 6Tdù không chính thức với một số nước tư bản,

không xa lánh người Pháp một cách cực đoan cứng nhắc. Nhưng nhìn chung, triều

Nguyễn về cơ bản là một lực lượng 11Tchính trị bảo thủ, nệ cổ và phải gánh chịu trách

nhiệm trước lịch sử về việc 11Tthất 11T bại 11Ttrong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và chủ

quyền của đất nước vào giữa thế kỷ 1 21T9.

100

CHƯƠNG 4: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC

NƯỚC XIÊM LA, CHÂN LẠP, VẠN TƯỢNG TRONG NỬA ĐẦU

THẾ KỶ 19

4.1. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:

4.1.1. Quan hệ Việt Nam - Xiêm La từ đầu cho đến cuối thế kỷ 18:

Việt Nam có nền văn hiế n lâu đời, còn Xiêm La tuy mới xuất hiện như một quốc

gia độc lập vào thế kỷ 14, nhưng là láng giềng, hai vương quốc này có mối quan hệ với

nhau từ khá sớm.

Theo nguồn thư tịch cổ ghi lại lừ thế kỷ 12 người Xiêm La đã có mặt tại

Việt 58TNam 58Tđể buôn bán và sinh sống và đón nhận những ưu ái mà Triều đình phong kiến

Việt Nam dành cho họ. Từ thế kỷ 12 giữa hai nước cũng đã có quan hệ bang giao chính

thức “Nhâm Dần năm thứ 7 (1182) (Tống, Thuần Hy năm thứ 9) nước Xiêm La sang

cống” [99, 5]. Theo tiến sĩ sử học Phan Lạc Tuyên bang giao Việt - Xiêm La được thiết

lập quá muộn “năm 1750 chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) cử phái bộ ngoại giao

mang 58Tthư 58Tsang trách cứ Triều đình Thái Lan nhúng tay can thiệp vào nội bộ Chân Lạp.

Đây là lần đầu tiên có sự bàng giao chính thức giữa Việt Nam và Thái Lan “ [88, 62 -

63].

Từ năm 1750 trở đi, quan hệ hai nước cũng không có gì đặc biệt, cho đến tháng

6-1778 khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm được Gia Định, Ông đã phái cai cơ Lưu Phúc

Trung cầm đầu sứ bộ sang Xiêm La để giao hảo. Năm 1780, Nguyễn Phúc Ánh lại cử

hai viên võ quan của mình sang Xiêm La, đáng tiếc là do có sự hiểu nhầm (có tin đồn

những sứ giả Việt 58TNam 58Tlà gián điệp) nên những viên quan Việt Nam đi sứ đã bị phía

Xiêm La giết hại. Suốt trong thời Nguyễn, quan hệ Việt Nam - Xiêm La đã trải qua

nhiều thăng trầm, lúc hòa hiếu, lúc khó khăn... Năm 1780 Nguyễn Phúc Ánh xưng

vương ở Gia Định và hai năm sau, khi Xiêm La chiếm Chân Lạp, Nguyễn Phúc Ánh đã

cử Nguyễn Văn Thoại, Hồ Văn Tâm sang giúp Chân Lạp, lúc này hai viên tướng Xiêm

La là Chất Tri, Sô Tri đã thương lượng với Nguyễn Văn Thụy, hai bên dàn hòa chiến

trận, cam kết giao hiếu với nhau. Xiêm La còn 6Tlà 6Tnơi trú ngụ của Nguyễn Phúc Ánh

trong những ngày thất thế: 6Tlần 6Tthứ nhất vào tháng 2 năm 1784, ông đã ở lại Xiêm La bốn

101

tháng, lần thứ hai hai mươi sáu tháng (4-1785 - 7-1787). Trong những ngày Nguyễn

Phúc Ánh ở 6TXiêm 6TLa, ông được vua Xiêm La 6Tlà 6TRa Ma 6TI 6Ttrọng đãi giúp đỡ, điều này

cũng khiến vua Gia Long, sau này trong quan hệ với Xiêm La, luôn định hướng mềm

dẻo, khéo léo...

Về phía Xiêm La, từ năm 1782 - 1809 6Tdưới 6Tsự trị vị của vua 69TRa Ma I 6T69T, 6Tông đã tiến

hành một loạt các cuộc chiến tranh xâm lấn những quốc gia nhỏ lân cận như: Chiềng

Xen, Chiềng Rai, Viên Chăn, các quốc gia ở 43Tbán 43Tđảo Malacca. Kết quả những cuộc

chiến tranh xâm lấn đó là các quốc gia như: Pa-ta-nhi, Kê-đát, Kê-lan-tan,

Tơ-ren-ga-nu đều trở thành những nước phụ thuộc Xiêm La. Phong kiến Xiêm La cũng

chờ có cơ hội là nhòm ngó xâm nhập vào Việt Nam. Năm 1783 khi thế cùng, Nguyễn

Phúc Ánh đã cầu cứu Xiêm La, nhân dịp này hai viên tướng Xiêm La là Chiêu Tăng và

Chiêu Sương đem hơn hai vạn quân và ba trăm chiến thuyền sang nước ta can thiệp.

Chiến thắng Rạch Gầm - Soài Mút của Quang Trung Nguyễn Huệ đã làm tiêu tan ảo

mộng xâm chiếm Việt Nam cùa giai cấp phong kiến thống trị Xiêm La. “Người Xiêm

sau cuộc bại trận năm Giáp Thìn, miệng tuy nói khoác, mà lòng thì sợ Tây Sơn như

cọp” [70, 11, 65].

Sau thất bại của Xiêm La trước Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh không còn ý định

nhờ Xiêm La giúp đỡ nữa. Ngược lại, trong những ngày Nguyễn Phúc Ánh lưu 43Tở 43Tđất

Xiêm La, ông đã gíup Xiêm La đánh Miến Điện vào 6Tnăm 6T1786 “Ngài đem quân giúp

Xiêm, sai Lê Văn Duân, Nguyễn Văn Thành đi trước, lấy ống hỏa xô lửa ra đánh. Binh

Diến Điện sợ chạy chết nhiều lắm, bắt sống đến 800 người. Khi trở về vua Xiêm lễ tạ...”

[34, 150].

Dù dư âm thất bại của trận Rạch 42TGầm 42Tcòn đang ám ảnh, song Xiêm La lúc này đang

đi theo đường lối đối ngoại bành trướng xâm lược, nên vẫn tìm mọi cách xâm nhập vào

Việt Nam “vào năm Nhâm Tý (1792). Sau khi sứ giả Việt từ Xiêm La về, Xiêm La lại

đưa thư xin giúp binh nhà Nguyễn để đánh lại Tây Sơn” và “nhà Nguyễn từ chối khéo

quân Xiêm mới rút về” [70, 11, 178].

Nguyễn Phúc Ánh luôn giữ thái độ mềm mỏng, hòa hảo với Xiêm La, nhưng triều

thần nhà Nguyễn đều đã có một bài học kinh nghiệm, là nhờ Xiêm thì có thể đồng nghĩa

với “ đem giặc vào trong nước” [69, 15]. Mặc dù như vậy, hai nước cố giữ quan hệ bình

102

thường và thường qua lại giúp đỡ nhau. Năm 1798, Xiêm La cũng sang cầu cứu Nguyễn

Phúc Ánh. Theo Quốc triều chánh biên toát yếu: “ Năm Mậu Ngọ thứ 19 (1798) Diến

Điện đánh Xiêm, Xiêm sai sứ sang xin quân cứu viện...” [69, 32]. Sự tương trợ giữa hai

nước thời này là nền tảng cho chi ến lược ngoại giao của triều Nguyễn về sau trong đ ối

sách với Xiêm La. Từ năm 1780 đến 1800 chúng ta thấy có nhiều sứ giả Việt Nam được

cử sang 22Tnước 22TXiêm làm nhiệm vụ bang giao:

+ Năm 1750: Chúa Nguyễn Phúc Ánh cử một sứ bộ ngoại giao sang Xiêm La

với nội dung là trách cứ triều đình nước này can thiệp vào nội tình Chân Lạp.

+ Năm 1776: Tổng binh Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ sang Xiêm La cầu viện (ông này

đã bị Xiêm giữ lại).

+Tháng 6 - 1778: Sau khi chiếm Gia Định, Nguyễn Ánh đã phái cai cơ Lưu Phúc

Trung dẫn đầu một phái bộ sang Xiêm La giao hảo và hỏi tin Mạc Thiên Tứ.

+ Năm 1780: Nguyễn Phúc Ánh cử hai võ quan cao cấp sang Xiêm La giao hảo.

+ 1782: Nguyễn Phúc Ánh lại sai Lê Phúc Diễn đi sứ, mang lễ vật sang tặng vua

Xiêm tỏ tình giao hiếu.

+ Tháng 2 - 1784: Nguyễn Phúc Ánh lại sai Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) và

chánh cơ Trung sang nước Xiêm La báo tin thất bại của Chiêu Tăng - Chiêu Sương (2

tướng Xiêm).

+ Tháng 1 - 1796: Nguyễn Phúc Ánh cử Nguyễn Tấn Lượng và Nguyễn Văn Thụy

làm chánh, phó s ứ sang Xiêm La.

+ Tháng 9 - 1797: Nguyễn Phúc Ánh cử Trần Phúc Chất đem quốc thư sang Xiêm

để báo việc binh.

+ Tháng 53T2 - 53T1799: Nguyễn Phúc Ánh cử Nguyễn Văn Thụy, Lưu Phước Tường làm

chánh, phó sứ sang Xiêm, mang quốc thư đến trình vua Xiêm nhờ hỗ trợ thanh thế cho

quân Nguyễn.

Những năm cuối thế kỷ 18, nội tình hai nước Việt - Xiêm La có nhiều biến động

khá phức tạp. Tại Việt Nam, cuộc 22Tnội 22Tchiến giữa Nguyễn 43Tvà 43TTây Sơn đi vào giai đoạn

kết thúc. Ở Xiêm La thì viên lương Chất -Tri 6Tđã 6Tlàm một cuộc lật đổ thành công, 43Tvà 43Tlên

103

ngôi vua, lấy hiệu là RaMa I43T. 43TViệt Nam và Xiêm La vẫn thường qua lại giúp đỡ thăm

hỏi nhau, tuy quan hệ hai nước có lúc xảy ra bất đồng căng thẳ ng, nhưng nhìn t ổng thể

vẫn khá suông sẻ. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất

nước, sáng lập ra triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam,

thì quan hệ Việt Nam - Xiêm La 87Tvẫn 87Ttiếp tục phát triển bình thường.

4.1.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:

4.1.2.1. Triều Nguyễn và đường lối ngoại giao với Xiêm La:

Khi Nguyễn vương xưng đế, lập ra triều Nguyễn vào đầu thế kỷ 19, thì quan hệ

Việt Nam - Xiêm La bước vào một giai đoạn phát triển mới mới. Ở Xiêm La từ năm

1809, RaMa II lên kế vị ngai vàng, dần dần phát triển thành một cường quốc trong

vùng. Từ đó, đường lối đối ngoại của nước này là mưu toan bành trư ớng về phía đông.

“Trong những năm đầu thế kỷ 19, các triều vua RaMa hướng về phía Đông nhằm chiếm

lĩnh vùng lãnh thổ rộng lớn thuộc Việt Nam, Lào, Campuchia” [55, 78]. Có thể nói đây

là một trong nhiều nguyên nhân gây nên những xáo trộn lớn trong quan hệ Việt Nam

- 38TXiêm 38TLa trong nửa đầu thế kỷ 19. 38TBối 38Tcảnh quốc tế thời cận đại, cũng góp phần tác

động tới quan hệ hai quốc gia châu Á này. Trước sự tăng cường uy hiếp của tư bản

phương Tây, Việt Nam cũng như Xiêm La đều phải có những điều chỉnh trong đường

lối ngoại giao của mình, cố gắng duy trì mối quan hệ láng giềng bình yên để tập trung

đối phó với nguy cơ bị xâm lược.

Phía Việt Nam, Gia Long khi mới lên ngôi 71Tđang 71Tthực thi một đường lối ngoại giao

khá hợp lý, tỏ thiện chí với nước Xiêm, nước đã từng giúp đỡ ông trong những

năm 45Ttháng 45Ttrước đó. Hơn nữa, Việt Nam và Xiêm La trong nửa đầu 45TIhế 45Tkỷ 19 là hai

vương quốc phong kiến có tương quan thực lực 43Tkhá 43Tquân bình.

Ngay sau 71Tkhi 71Tthắng 71Tlợi 71Ttrước 71TTây 71TSơn, 45Tnăm 45T71T1801 71TGia Long 71Tđã 71Tcho sứ 71Tgiả 71Tsang

Xiêm để báo tin mừng. Xiêm vương nhận tin vui, liền cử sứ sang tận Thăng Long để

chúc mừng Gia Long. Năm 71T1 71T803, Gia Long lại cho sứ sang Xiêm La tặng quà và sản

vật... Từ 1802 đến 1807 nhận thấy quan hệ hai quốc gia tiến triển thuận lợi, Gia Long

đã bàn với đình thần chính thức đặt quan hệ ngoại giao giữa hai nhà nước Việt Nam -

Xiêm La. Theo “Đại Nam thực lục” thì: “ vua thấy nước Xiêm cùng ta giữ hậu việc giao

hảo, hành lý đi lại, đường 43Tsá 43Tthông nhau, bèn sai quan Lễ Bộ bàn định trình thức của sứ

104

bộ để gởi sang Xiêm” [ 70, 111, 322]. Trong năm 1807 Gia Long cũng định lệ đi sứ

sang Xiêm La. 71TVề 71Tsố lượng sứ bộ đi Xiêm La, theo Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ

thì: “Từ nay về sau sai sứ đến nước Xiêm, đi đường 45Tthủy 45Tliền chuẩn cho lấy 50 người

làm hạn, đi đường bộ thì lấy 12 người làm hạn...

Nếu nước Xiêm có sai sứ thần đệ quốc thư đi đường biển đến Gia Định, lại đi

đường thủy tiến đến kinh thì số người ở chuyến đi ấy cũng lấy 50 người làm hạn. Nếu từ

trấn Gia Định đi đường bộ tiến đến kinh chỉ chuẩn cho 14 người...” [62, 503].

Những quy định về nguyên tắc ngoại giao của triều Nguyễn đối với nước Xiêm La

thể hiệu tinh thần đối ngoại thân trọng nhưng linh hoạt mềm dẻo. Có một vài trường

hợp phía Xiêm La phạm những sai sót trong triều nghi thì các vua Nguyễn vẫn nể tình

giao hảo từ trước mà bỏ qua. Như năm Minh Mạng thứ 7, sứ Xiêm sang báo tang bà nội

của Xiêm vương, vua Nguyễn cho là việc báo tang này bất hợp lệ, trách cứ nhưng vẫn

uyển chuyển. Theo “Minh Mạng chính yếu” : “Trẫm lấy tình lân bang hòa hiếu với

nhau, không muốn nói trắng ra tất cả...” [72, 111, 372].

Đặc trưng của đường lối ngoại giao đầu triều Nguyễn thể hiện dưới thời Gia Long

là tính hòa hoãn mềm dẻo hợp lý với các lân bang, một sự mềm dẻo có điều kiện và có

nguyên tắc.

Với nước Xiêm La, triều đình Huế hết sức cẩn trọng duy trì tình trạng hòa bình

trong giao hiếu, sử dụng mọi phương cách để duy trì quan hệ ổn định giữa hai nước.

Các vua Nguyễn đã tận dụng mọi khả năng và phương tiện, kể cả mua chuộ c bằng tiền

bạc, vật chất để đạt mục đích trên. Vào năm 1806, vua Gia Long 6Tđã 6Tcấp tiền gạo cho

quân Xiêm La đang đóng quân 43Tở 43Tbiên giới vùng Hưng Hóa của ta cốt “để yên việc biên”

[70,111,273]. Để ứng phó v ới những vấn đề phức tạp trong qua n hệ khu vực như “ vấn

đề 6Tnước 6TVạn Tượng”, “vấn đề nước Chân Lạp”, Triều đình Huế cũng khéo léo tránh

đụng chạm tới Xiêm La, cố gắng giữ thái độ trung lập cho tới giới hạn cuối cùng. Khi

Xiêm La 43Tvà 43TVạn Tượng mâu thuẫn với nhau, Minh Mạng đã bày tỏ ý kiến rằng: Đối với

hai nước đó, không nên đứng hẳn về phía bên này mà tuyệt giao với bên kia. Đó là một

cách ứng xử ngoại giao sáng suốt không thiên kiến, rất ít có một nhà nước nào vào thời

điểm đó lại giữ được mội thái độ ngoại giao trung lập khôn khéo như vậy. Cách ứng xử

105

với triều Nguyễn còn thể hiện tinh thần đối ngoại hòa bình, hòa hợp vô cùng thông

minh và bản lĩnh.

4.1.2.2. Những hoạt động ngoại giao chủ yếu trong quan hệ của triền Nguyễn với

Xiêm La:

Trong 57Tsuốt 57Tthời Gia Long trị vì, có tất cả 16 sứ bộ Việt Nam, Xiêm La qua lại với

nhau. Thời gian này không phải không có những bất đồng trong quan hệ Việt - Xiêm,

nhưng Gia Long đã khéo giữ quan hệ với Xiêm được êm đẹp, bình 57Tthường 43T57Ttheo 43Tphương

châm “không 22Tbỏ 22Tbạn tìm 22Tthù”. 22TVới triều Nguyễn, Xiêm La 22Tlà nước luôn 22T “bằng hàng”

với mình, “cùng chung một dải biển rộng, liên hợp chung trời” [27, 6]. Đó là lý do quan

trọng để triều Nguyễn luôn thể hiện thiện chí trong giao hảo với Xiêm La.

Hoạt động ngoại giao đầu thời Nguyễn với Xiêm La tiến triển thường xuyên, đặc

biệt là khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức 43Tvào 43Tnăm 1807.

Hai 6Tnước 6Ttrao đổi sứ để thông báo tình hình tin tức giữa hai nước: Theo lộ định từ thời

Gia Long, mỗi khi nước Xiêm La có quốc tang và có sự kiện vua mới đăng quang, Việt

Nam sẽ cử 21T2 21Tsứ bộ cùng sang Xiêm La cùng một lúc: Một đoàn sứ sang 6Tphúng 6Tđiếu vua

trước và một đoàn sứ sang mừng vua mới đăng quang.

Năm Gia Long thứ 8 (1809), khi sứ giả nước Xiêm La đến Huế báo tin buồn vua

Ra Ma 6TI 6Tqua đời thì đến 1810 Gia Long liền “sai hai sứ bộ đến nước Xiêm phúng Phật

vương trước và mừng Phật 92Tvương 92Tmới” [62, 504].

Khi Minh Mạng lên ngôi đã sai sứ sang báo tin cho nước Xiêm biết, 42Tvà 42Tsứ Xiêm La

cũng sang Việt Nam phúng điếu vua Gia Long mừng vua Minh Mạng đăng quang.

Đến thời Minh Mạng, ông nhận thấy việc cử hai sứ đoàn sang Xiêm một lần không

hợp lý lắm, nên chỉ quyết định chỉ cử một sứ đoàn đi cùng một lúc làm hai nhiệm vụ

(vừa phúng điế u, vừa chúc mừng).

Ngoài việc trao đổi sứ để thông báo tin tức cho nhau, việc trao đổi sứ còn có ý

nghĩa giao lưu kinh tế - văn hóa, trao đ ổi sản vật địa phương, đặc sản quý hiếm...

Trong những lần trao đổi sứ giữa hai nước, Việt Nam và Xiêm La thường cổ lệ ban

tăng phẩm vật, quà cáp cho nhau. Năm 1803, tặng vật chính thức của Triều đình Huế

gởi đến Xiêm Vương, chúng ta thấy rất hậu 13T“10 13Tđỉnh 43Tvàng, 43Tmỗi đỉnh 13T10 13Tlạng, 100 đỉnh

106

bạc mỗi đỉnh 10 lạng, 1 chiếc đao thanh long, 600 cân sáp ong, 6000 cân đường cát, the

màu 250 tấn. Nhị Vương ở nước ấy: 5 đỉnh vàng mỗi đỉnh 13T10 13Tlạng, 50 đỉnh bạc mỗi

đỉnh 13T10 13Tlạng, 4000 cân đường cát” [62,501].

Thành phần lễ phẩm cho nước Xiêm La nhân các dịp ngoại giao thường là đặc sản

hiếm như: quế, kỳ nam... Lễ phúng điếu thì vật phẩm 95Tít 95Thơn các 13Tlễ 13Tkhác gồm: sáp ong,

đường phèn, đường phổi..

Tặng vật của triều đình Vọng - Các thì gồm: ngọc thạch, áo Mãn châu, thiếc, băng

phiến.

Mỗi dịp sứ Xiêm La sang Việt Nam, Triều Nguyễn luôn có sự chuẩn bị rất chu đáo

và phổ trương thực lực của quốc gia nhằm làm cho nước bạn ý thức 92Tvề 92Tsự giàu mạnh của

mình. Tại những địa điểm mà sứ Xiêm La 92Tngang 92Tqua, triề u Nguyễn đều chỉ thị cho các

địa phương đó cung đón rất chu tất. Lúc sứ 92Tgiả 92Tnước Xiêm đến bên ngoài cửa đông nam

kinh thành, triều đình Huế đã đón tiếp trọng thể (“một viên quan ở đinh ấy mặc triều

phục, viên chức, quan lính 100 người cắm súng, 20 người cầm gươm, có đủ long đình,

tán lọng đón liếp quốc thư sứ bộ vào cổng quán yên nghỉ...” [62, 503]). Từ thời vua

Minh Mạng, khi sứ Xiêm La tới kinh đô Huế, triều đình Việt Nam luôn cử một viên cai

đội dẫn 100 lính tới đầu địa giới Vân Quan đón, đến lúc về cũng bắt biền binh hộ tống

về, mục đích để bày tỏ tình hữu nghị lâu bền của phía Việt Nam.

Trong Châu bản Triều Nguyễn thời Gia Long, chúng ta thấy có một bản kê số

lương, tiền cung đốn 42Tvà 42Tthưởng sứ thần nước Xiêm cùng các khoản khác khi sứ Xiêm La

từ Gia Định đến Huế: “cộng tiề n 1.419 quan, gạo 283 vuông” [49, 1, 191]. Tổng số chi

phí như trên là không nhỏ, điều đó nói lên rất rõ tàng là trong quan hệ ngoại giao với

Xiêm La, Triển Nguyễn rất chu đáo.

Trong thời Nguyễn cũng có những sứ bộ được vua cử đi Xiêm La với những nội

dung đặc biệt: bàn bạc các vấn đề có liên quan đến Việt Nam và Xiêm La, hoặc trao đổi

những thông tin quan trọng khác, liên quan đến an ninh chính trị hai nước. Thời Gia

Long trị vì, vua Xiêm La thường cử sứ sang thông báo cho vua Nguyễn biết những tin

tức liên quan đến sự thông hảo giữa Miến Điện và Tây Sơn, hoặc trong “Mục lục châu

bản” cho biết: “vua nước Xiêm La gởi thơ Bộ Lễ nước Việt Nam nhờ tấu đạt lên vua về

việc Nam Vang đem binh vào ba ngả qua giới hạn đồn trú, rồi cướp trâu bò cùng gia tài,

107

rồi cử binh khiêu chiến, bảo lui binh cũng không lui..” [49, 1, 190]. Cũng trong thời vua

Gia Long vào năm 1810 khi triều đình Xiêm La đem quân chiếm Battambang,

vua 6TChân 6TLạp cầu cứu triều Nguyễn, từ đó nảy sinh ra những bất đồng trong quan hệ

Việt - Xiêm La. Vua RaMa II và Gia long tại thời điểm này đã có những 6Tnhân 6Tnhượng,

dàn xếp với nhau để tránh một cuộc chiến có thể xảy ra do vấn đề Chân Lạp đưa đến.

Đến Triều Minh Mạng, ông thực hiện một đường lối ngoại giao 95Tít 95Tmềm dẻo hơn

cha mình, đặc biệt trong quan hệ với một số nước. Đối với Xiêm La, những bất đồng

vốn có từ trước trong quan hệ hai 22Tnước 22Tđến thời Minh Mạng không thể thương lượng

được, và chiến tranh Việt - Xiêm đã bùng nổ vào 1833. Cuộc chiến Việt Nam - Xiêm La

kéo đài cho đến đời Thiệu Trị. Tuy nhiên, trong thời vua Minh Mạng quan hệ Đại Nam

và 38TXiêm 38TLa không chỉ có bất đồng, tranh chấp mà trái lại, thực tế lịch sử chứng minh

rằng: Minh Mạng 38Tcũng 38Tmềm mỏng, hòa hoãn trong cách xử lý tùy theo trường hợp đối

với nước Xiêm. Điển hình cho thiện chí của vua Minh Mạng đối với Xiêm La là vào

năm 1823 lúc quan hệ Xiêm - Miến xấu đi, vua Miến Điện Ià Bátgiđô đã “đề nghị Minh

Mạng ký kết một liên minh chống Xiêm La. Nhưng Hoàng đế Minh Mạng đã thông báo

bức thư này của Bátgiđô cho triều đình Xiêm biết” [67,59]. Về vụ việc này Quốc sử

triều Nguyễn có ghi 6Tlại 6T“vua nước Diến Điện khiến sứ qua thông hảo... xin ta đừng giao

hiếu với Xiêm nữa. Nghi nghĩ rằng không nên bỏ tình giao hiếu mà gây sự cừu thù,

không cho...lại đem việc ấy báo cho Xiêm biết, Xiêm đưa thư qua tạ” “[69, 124 - 125].

Mục đích trên hết của các vua Nguyễn là “không bỏ bạn gây thù”. Từ năm 1820

cho đến lúc chiến tranh Xiêm - Việt xảy ra vào năm 1833 chúng ta thấy có tất cả 7 phái

bộ chính thức của Việt Nam đi sứ sang Xiêm La:

- Tháng 9 năm 1820 sứ Việt Nam sang Xiêm La báo ta ng vua Gia Long.

- Năm 1822 sứ sang Xiêm La với nhiệm vụ giao hiếu.

- Năm 1824 có 2 sứ bộ sang Xiêm La giao hiếu và 43Tbáo 43Ttin Miến Điện ý muốn gây

chiến với Xiêm La.

Trong năm 1828, 1829 và 1832 Minh Mạng đều cử sứ đi Xiêm La thông hiếu và

bàn bạc những vấn để liên quan đến 2 nước nhằm đi đến giải quyết bằng hòa bình

những vướng mắc tồn tại trong quan hệ 2 nước. Như vậy đến năm 21T121T832 Việt Nam đã cố

108

gắng thể hiện thiện chí của mình trong quan hệ với nước Xiêm La bằng nhữ ng tiếp xúc

ngoại giao hòa bình.

Một điểm son trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La đẩu thế kỷ 19 là vấn đề cứu giúp

người bị thiên tai, hoạn 6Tnạn. 6TBiên niên sử triều Nguyễn còn ghi lại rất nhiều trường hợp

Việt Nam giúp đỡ quân dân Xiêm La ngay trong thời điểm quan hệ hai nước đang khó

khăn. Lúc Nguyễn Ánh chưa lên ngôi vào năm 1789 Xiêm La mất mùa, đói kém đã cho

sứ sang xin Nguyễn Ánh giúp đỡ, Nguyễn Ánh cũng đã gửi tặng một số gạo lớn. Những

sự việc cứu giúp tương tự thường xuyên xảy ra trong quan hệ hai nước. Năm Gia Long

thứ nhất “Thuyền bị nạn nước Xiêm dạt vào phần biển Quảng Ngãi, vua sai

Trấn 6Tthành 6Tcấp tiển gạo cho về” [73, 11, 571]. Các vua Nguyễn có một quan niệm đối

ngoại độ lượng và tiến bộ: “coi dân nào cũng thế, sao nỡ điềm nhiên ngồi nhìn mà

không cứu ư” [70, 11. 752]. Năm Gia Long thứ ba lại có đợt cấp phát gạo cho thuyền bị

nạn của Xiêm ở Gia Định. Năm Gia Long thứ sáu, triều đình Huế lại cấp tiền và 1000

phương gạo và sửa chữa tàu thuyền giúp sứ Xiêm La trên đường đi Trung Quốc bị

bão 43Tở 43TBình Định. Năm Gia Long thứ mười bốn, thứ mười sáu... triều Nguyễn đều có

những hoạt động giúp phía X iêm bị tai nạn, thiên tai 22TV.V..

Việc giúp đỡ, cứu trợ người nước Xiêm được tiếp lục duy trì trong các triều đại

sau. Dưới triều vua Minh Mạng, lúc quan hệ hai quốc gia căng thẳng thì thuyền sứ

Xiêm đi Trung Quốc lạc vào nước ta, Minh Mạng đã tỏ rõ đức độ của một vị vua. Trong

“Đại Nam thực lục” ghi lại lời vua Minh Mạng như sau: “Ta đối với nước Xiêm vốn giữ

tình hữu nghị, tuy gần đây có điều không được 6Tnhã, 6Tnhưng việc chưa rõ, mà việc cứu

giúp kẻ bị nạn, quốc thể phải nên như thế” [71,4 ,133].

Trên đây là nét đẹp đạo lý truyền thống trong quan hệ với các nước láng giềng của

nhà nước phong kiến Việt Nam dù dưới triều đại nào. Đây là một truyền thống tốt đẹp

trong quan h ệ đối ngoại luôn được kế thừa và phát huy trong lịch sử Việt Nam.

Về cơ bản, quan hệ ngoại giao Việt Nam và Xiêm La trong đầu thế kỷ 19 được các

vua Nguyễn cố gắng giữ gìn và phát triển truyền thống hòa hiếu vốn có từ trong lịch sử

quan hệ hai nước. Cuối cùng, những vấn đề bất đồng về vấn đề nước Vạn Tượng và

nước Chân Lạp luôn là trở ngại cho quan hệ Việt - Xiêm, giống như vua Minh Mạng đã

109

từng thừa nhận, trong quan hệ ngoại giao với Xiêm La thì “chỉ có việc Vạn Tượng thiệt

khó xử mà thôi” [69, 136].

4.1.2.3. Vấn đề nước Chân Lạp trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Xiêm La nửa

đầu thế kỷ 19:

Chân Lạp là một nước nằm giữa Việt Nam và Xiêm La. Vào đầu thế kỷ 19 nội bộ

nước này lục đục, mâu thuẫn và tranh chấp quyền lực bùng nổ giữa các phe nhóm chính

trị đối lập ở Chân Lạp đã lôi kéo Việt Nam và Xiêm La vào chiến sự. Chính vì vậy,

trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La, vấn đề nước Chân Lạp đã được đặt ra và gây nên

những trở ngại trong lịch sử ngoại giao giữa hai nước.

Trước đây, trong thế kỷ 18 Chân Lạp xin thần phục các chúa Nguyễn, lúc Tây Sơn

thắng thế, chúa Nguyễn bỏ chạy khỏi Gia Định thì Chân Lạp quay sang thần phục nước

Xiêm La và bị Xiêm La khống chế. Trong cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ

hoàng gia Chân L ạp luôn có sự hiện diện của Việt Nam và Xiêm La.

Năm 1802, triều Nguyễn được sáng lập, 43TChần 43TLạp quay lại xin thán phục Gia

Long. Năm 1807, triều Nguyễn cử sứ đoàn sang Chân Lạp sách phong cho vua Chân

Lạp. Như vậy, từ năm 1807 Chân Lạp thán phục cả hai nước Việt Nam và Xiêm La.

Mục đích của việc thần phục cả Việt Nam lẫn Xiêm La, theo triều Nguyễn đó là “ Nặc

Chăn đem thần dân trong nước để thờ hai nước lớn, cũng chỉ là mong nhờ uy đức để giữ

gìn bờ cõi toàn vẹn” [70, 4, 113]. Đây là biện pháp lốt nhất để dung hòa mâu thuẫn Việt

- Xiêm.

Năm 30T1811, 30Tvua Gia Long dụ cho vua 30Tchân 30TLạp là Nặc Ông Chân sai sứ sang Xiêm

phúng điếu để thể hiện lòng thành với Xiêm La. Chính trong năm này, nội bộ cầm

quyền Châu Lạp lại mâu thuẫn, các em của Nặc Ông 30Tchân 30Tmuốn tranh giành quyền bính

nên cầu cứu Xiêm La. Đây là một cơ hội để Xiêm La đem quân vào Chân Lạp can thiệp,

Nặc Ông Chân bỏ nước chạy sang Việt Nam cầu cứu Gia Long. Đứng trước tình thế

phức tạp ấy, triển Nguyễn đã có cách xử trí hợp lý 30Tnhất là 30Tthương lượng, giảng hòa bằng

lý lẽ. Trong “Đại Nam thực lục” có ghi lại Gia Long đã đùng lời lẽ ngoại giao trách phía

Xiêm La: “Nước ngươi vô cớ dấy quân để cho Nặc Chân phải chạy, nay là thác để cho

cớ giải hòa là thế nào! Chân Lạp đời đời làm tôi của ta, ta tất phải vì họ mà kinh lý” [70,

4, 155]. Kiên quyết mà linh hoạt, mềm dẻo nhưng vẫn giữ nguyên tắc đối ngoại cơ bản

110

là: đứng về lẽ phải. Theo “Đại Nam thực lục”, Gia Long đã buộc Xiêm La phải đồng ý

“mọi việc chỉ nhờ triều đình xếp đặt, vua Xiêm không dám không vâng mệnh” [70, 4,

164].

Sau một cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng, năm 1813 Gia Long phái Tổng trấn

Gia Định thành là Lê Văn Duyệt đem 10.000 quân, cùng quan Xiêm hộ tống Nặc Ông

Chân về nước. Theo sử Chân Lạp ghi lại “ Ngày 14 – 5 - 1813 quốc vương Ang Chăn 2

trở về U Đông với một đạo binh Việt và Xiêm” [78 73T, 1 2 3 | . 73TSau khi đưa Nặc Chăn

về 6Tnước 6Tvào năm 1813, triều Nguyễn chính thức “bảo hộ” 6TChân Lạp. Xiêm chấp nhận hiện

trạng trên, bằng cách buộc vua Chân Lạp phải 6T“giao hết cho mình vùng dài giữa dãy núi

Danggrek và vùng Prohmtep, các tỉnh Mloupiei và Tonlércpou

cùng 6TStungtreng” 6T[78,123]. 6TNhư 6Tvậy, trong thời Gia Long, quan hệ Việt Nam - Chân Lạp

- Xiêm La tạm thời ổn thỏa sau khi Chân Lạp chấp nhận cả hai nước Việt Nam và Xiêm

La đều có quyền lợi chính trị trên đất Chân Lạp.

Thực tế lịch sử cho thấ y rằng, cả triều Nguyễn lẫn vương triều RaMa II đều muốn

có ảnh hưởng trên đất 6TChân 6TLạp, nhưng với cách xử trí khéo léo của Gia Long khiến

Xiêm La bước đầu không thể có những hành động cứng rắn được. Nhìn chung, cả hai

bên Việt Nam và 6TXiêm 6TLa đều cố tránh va chạm với nhau, cố gắng duy trì mối quan hệ

thân tình vốn có từ trước.

Năm 1814, Xiêm La đưa thư phản đối việc Việt Nam đóng quân 43Tở 43TChân Lạp và

việc vua Chân Lạp không “chầu nước Xiêm”. Lê Văn Duyệt thấy quan hệ Việt - Xiêm

La lại trở nên khó khăn, nên tỏ ý đánh Xiêm La trước, vua Gia Long không thuận cho là

“giọng nói Xiêm man khổng nên để ý, ta cùng Phật vương trước có tình giao hảo, kết

nghĩa với cha mẹ mà đánh con thì các nước láng giềng sẽ bảo ta ra sao? Vả lại, việc can

qua mới yên, dân đương vui được nghỉ ngơi, Trẫm không 6Tmuốn 6Tlàm mệt tướng sĩ ở dưới

giáo mác. Được một nước Chân Lạp 6Tmà 6Tđể lo cho đời sau thì trẫm không làm...”[70, 4,

226]. Rõ ràng là căn cứ vào hiện tình đất nước và do ân nghĩa từ khi kết giao với Ra

Ma 11TI, 11Tvua Gia Long đã không thực hiện đường lối ngoại giao cứng rắn. Sự mềm mỏng,

ôn hòa của Gia Long là tinh thần ngoại giao 11Tchủ đạo xuyên suốt trong thời kỳ ông 11Ttrị 11Tvì.

Đường lối giải quyết mâu thuẫn Xiêm La - Chân Lạp trong quan hệ tay ba (Việt

Nam - Chân Lạp - Xiêm La) của Gia Long là đường lối hòa bình, nhân nhượng khi cần

111

thiết song trên cơ sở tăng cường phòng bị đất nước, bởi lẽ theo Gia Long, thực chất vấn

đề “nước 6TChân 6TLạp” trong quan hệ với Xiêm La là “mối lo về phía Nam” của triều đình

Huế”.

Dù thế nào chăng nữa, trong thời Gia Long trị vì, 11Tông 11Tcũng đã cố gắng để gìn giữ

mối quan hệ Việt - Xiêm không bị phá vỡ bởi các vấn để tế nhị trong khu vực (như vấn

đề 30TChân 30TLạp). Năm 1816, vua Gia Long hạ chiếu cho Nặc Ông Chân thông sứ với nước

Xiêm La. Dụ của vua Gia Long viết “Nước ngươi đối với nước Xiêm lấy nước nhỏ thờ

nước lớn đã lâu lắm rồi. Nay vương tuy không thâu hành sang thăm, cũng nên sai sứ đi

như xưa, không nên trước hậu mà sau bạc” [70, 4, 282], sau đó sử ghi lại nước Chân

Lạp lại cùng nước Xiêm La giao hiếu. Thời kỳ này, Việt Nam đóng quân ở Chân Lạp

với đanh nghĩa “bảo hộ” nhưng mọi công việc của nước này, thì quan quân Việt Nam

“không được can thiệp...”[95, 478]. Thời vua Gia Long, Chân Lạp chịu ảnh hưởng của

Việt Nam nhiều hơn là Xiêm La, để quan hệ với Xiêm được bình yên, Chân Lạp đã để

một số tỉnh thuộc quyền cai quản của Xiêm như Stung-treng, Tonlé Repou và Mluprey

từ 1814.

Đến thời vua Minh Mạng quan hệ Việt Nam - Xiêm La lại nổi sóng vì vấn đề

“nước Chân Lạp” và thường thì “gây mối xích mích là tự Xiêm khởi đầu” [71, 9, 187].

Vào năm 1833, Xiêm La uy hiếp Chân Lạp, vua Minh Mạng đã chỉ thị nếu Xiêm “xâm

phạm đến địa hạt Chân Lạp thì chuẩn cho quan quân lập tức liệu cơ mà đánh đẹp” [7l,

13, 293]. Năm 1834, Lê Văn Khôi cầu cứu Xiêm La, quân Xiêm La nhân cơ hội kéo vào

nước ta. Chiến tranh Xiêm - Việt bùng nổ và đến tháng 6T5 6Tnăm 1834, Xiêm La phải rút

quân. Minh Mạng sau sự kiện này đã không thể thực hiện chính sách ngoại giao trung

lập được nữa, theo ông “người Xiêm thấy lợi làm càn, bỏ nghĩa gây cừu thù, thực vượt

ra ngoài tình lý, không cần lại lấy điều nghĩa hiể u dụ nó nữa” 32T[71,14 ,39].

Như vậy, sau mấy đời hòa mục với nhau, quan hệ Việt - Xiêm trở nên xấu đi . Theo

“Đại Nam thực lục”, Minh Mạng đã nhận định tình hình: “Triều đình ta cùng vớ i nước

Xiêm mấy đời hòa mục đã hơn 40 năm... Ta nghĩ chỗ nước láng giềng lẽ đâu vô cớ trước

tự bỏ tình giao hiếu” [71, 14, 43]. Triều Nguyễn không tự mình cắt đứt tình thân với

Xiêm La nhưng quan hệ ngoại giao Việt - Xiêm cuối cùng cũng bị đứt đoạn. Năm 1841,

vua Thiệu Trị lên ngôi thì tình hình vùng biên phía Nam của Việt Nam thường hay bị

quân Xiêm La gây phiền hà. Phía Xiêm La tìm cách giúp những phần tử nổi loạn chống

112

triều đình Huế ở vùng An Giang, Vĩnh Long... của ta. Theo “Bản triều nghịch liệt

truyện” : “Tướng Xiêm là Chất Tri cũng trở lại theo tên Đôn tiến đến Hải Tây, thiết lập

đồn trại, mưu lập tên Đôn làm quốc trưởng Cao Mên, lại ngầm phân phái người đi các

nơi Hải Đông, Hải Tây... đóng đồn chiếm giữ Lạc Hóa, Trà Vinh, Vĩnh Long” [48, 85].

Những hoạt động gây rối của Xiêm La làm quan hệ giữa Xiêm 6TLa 6Tvà Việt Nam trở

nên căng thẳng. Đầu Xuân 1842, Xiêm lấy cớ giúp Hoàng Tôn (người tự xưng là con

Hoàng Tử Cảnh) đã tổ chức xâm 6Tlược 6Tnước ta, Việt - Xiêm cắt đứt quan hệ ngoại giao.

Chiến tranh với Xiêm La kéo dài cả năm, triều Nguyễn phải huy động một loại quan

binh như Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ ... đi đánh giặc.

Năm 1844, chiếu tranh Việt Nam - Xiêm La bùng nổ trên đất 30TChân 30TLạp. Quan hệ

Việt - Xiêm trong vấn đề “nước Chân Lạp” cuối cùng vần phải đùng chiến tranh để giải

quyết. Chiến tranh đem lại những bất lợi cho cả hai nước. Trong tác phẩm “Nguyễn Tri

Phương” của Phan Trần Chức và Lê Quế thì: Đại diện cho triều đình Huế là Nguyễn Tri

Phương đã nêu ra phương hướng giải quyết: “Tôi thiết nghĩ nên cho chúng hòa. Binh

lính của ta đã đánh Đông dẹp Bắc nhiều trận rồi, sức chiến thắng e cũng mòn mỏi” [13,

22]. Để chấm dứt chiến trận, triều Nguyễn và Xiêm La đồng ý giảng hòa “một hiệp ước

được đựng lên có chữ ký của Nguyễn Tri Phương và Chất Tri (viên 6Ttướng 6TXiêm - TG) để

kết thúc cuộc xung đột” [75, 402]. 6TChân 6TLạp được độc lập, cả Việt Nam 6Tlấn 6TXiêm La

đều giải binh, nhưng cho đến năm 1847 sau khi vua Thiệu Trị tuyên phong cho vua

Chân Lạp, triều đình Huế mới cho lệnh rút hết 6Tquân 6TViệt Nam về An Giang. 6TTừ 6Tnăm

1847 trở về sau, quan hệ Việt Nam - Xiêm La không có sự kiện gì gây khó khăn nữa,

cho đến lúc thực dân Pháp chiếm nước ta thì quan hệ hai nước Việt - Xiêm La chuyển

sang một thời kỳ lịch sử khác.

4.1.2.4. Vấn đề nước Vạn Tượng trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Xiêm

La nửa đầu thế kỷ 19:

Vạn Tượng là một nước láng giềng của Việt Nam và Xiêm La. Vấn đề nước Vạn

Tượng cũng 6Tlà 6Tmột nhân tố phức tạp trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La vào đầu thời

cận đại.

113

Từ cuối thế kỷ 18, Vạn Tượng thần phục Xiêm La, đến năm 1801, nước này cho sứ

giả sang Việt Nam mừng Gia Long chiến thắng và 42TChâu 42TA Nụ - quốc vương Vạn Tượng

cử sứ sang Việt Nam triều cống - triều kính.

Xiêm La từ khi không thể mở rộng phạm vi 6Tảnh 6Thưởng trên lãnh thổ 6TChân 6TLạp thì

quay sang khống chế chặt chẽ các xứ 42TLào. 42TDưới sự khống chế của Xiêm, các xứ Lào, đặc

biệt là Vạn Tượng tìm mọi cơ hội để chống lại Xiêm La. Năm 1824, khi thực dân

Anh 11Ttăng 11Tsức ép với 6TXiêm 6TLa, triều đình Xiêm La đang lúng túng chưa tìm ra cách giải

quyết tình thế thì Châu A Nụ lợi đụng cơ hội này nổi dậy mong thoát khỏi sự áp chế của

Xiêm La. Cuộc khởi nghĩa 6TChâu 6TA Nụ nhanh chóng thất bại, quốc vương Vạn Tượng

chạy sang Việt 6TNam 6Tcầu cứu vua Minh Mạng. Đứng trước tình hình đó, triều Nguyễn đã

có chủ trương sáng suốt, kịp thời là 6Ttăng 6Tcường phòng thủ vùng biên ải. “Quốc triều

chánh biên toát yếu” ghi lời vua Nguyễn cho rằng “Vạn Tượng với Xiêm La đánh nhau,

Ngài nghĩ thượng đạo Cam Lộ thông với Xiêm, bèn khiến quản đạo Tống Văn Uyển dò

xét việc ấy” [69, 134] và “khiến đem lính Thanh - Nghệ giữ bờ cõi nước mình” [69,

135]. Minh Mạng cũng như Gia Long, khi tìm phương cách để giải quyết vấn đề nước

Vạn Tượng và Xiêm La trong quan hệ khu vực ông chọn cách trung lập. Minh Mạng

muốn “đạo đối xử nước nhỏ, hòa mục láng giềng hai mặt đều được tốt cả” và để đạt

được mục đích đó chỉ có con đường thương lượng, thương thuyết ngoại giao.

Từ 11Ttrước 11Tcho đến nay, trong giới nghiên cứu thường có nhận định cho là vua Minh

Mạng né tránh va chạm với Xiêm La và “dù sau 11Tnày 11Tcó phải lao 11Tvào 11Tmột cuộc đụng độ

với Xiêm do cần bảo vệ Campuchia thì thái độ dè dặt của Minh Mạng vẫn là chủ yếu”

[56, 47]. Thực tế cho thấy, Minh Mạng và triều đình Huế không đứng hẳn về bên nào

trong cuộc xung đột Vạn Tượng và Xiêm La là thái độ ngoại giao khôn khéo nhất tại

thời điểm ấy để “hai mặt đều được tốt 11Tcả” 11T. Minh Mạng cho 11Tquân 11Tlính đưa vua Vạn

Tượng về nước, mặt khác cho sứ đưa thư sang trình bày vấn đề với Xiêm vương “khiến

họ bỏ hiềm khích cũ với Vạn Tượng” [71,9, 47]. Triều Nguyễn đã 6Trất 6Tcố gắng để hòa

giải mâu thuẫn Vạn Tượng - Xiêm La nhưng đến tháng 6 năm 1828 xung đột hai nước

này lại tiếp tục xảy ra. Trong “Quốc triền chánh biên toát yếu” thì: Vua Minh Mạng lần

này cho là “tại A Nô gây hiềm, liền sai Phan Văn Thông khiển trách nó và khiến nó tạ

lỗi với Xiêm” [69, 140]. Minh Mạng còn sai sứ sang Xiêm La để nói rõ sự tình. Với tất

cả 11Tnhững sư kiện nêu ra ở trên, chúng ta không thể không nhận thấy rằng trong 11Tquan hệ

114

với Xiêm La, triều Nguyễn đã vận dụng một đường lối ngoại giao mang tính hòa bình,

nhân nhượng và kìm chế đến mức vua Minh Mạng, trong “Minh Mệnh chính yếu” thừa

nhận rằng dù quan hệ hai nước Việt Nam - Xiêm La nếu có gì khó khăn, trắc trở “đối

với bản triều thì có gì là đáng trách 105Tđâu” 105T[72, 3, 402]

Đối lại thiện chí của triều đình Huế, nước Xiêm La 21Tđã 21Tcó những hoạt động làm

quan hệ hai nước xấu đi. Phía Xiêm La 21Tđã 21Tchặn bắt và giết hại phái bộ của Việt Nam do

Phan Văn Thông cầm đầu. Khi được tin này vua Minh Mạng vẫn bình tĩnh và thận trọng

hòa dịu “cử sứ thần sang Bangkok để hỏi nguyên do sự thể ra sao” [56, 107]. Tháng 2

năm 1829, triều đình Huế cử tiếp phái bộ do Lang Trung Bộ Hộ Bạch Xuân Nguyên làm

chánh sứ sang Xiêm để trách Xiêm trái lẽ, tự tiện bắt giết sứ giả Việt Nam. Chuyến đi

này là chuyến đi ngoại giao đặc biệt, nên triều Nguyễn tổ chức một cuộc sát hạch để

chọn người kỹ lưỡng, Bạch Xuân Nguyên đã hoàn thành nhiệm vụ được giao và trở về

nước năm đó. Sau khi sứ Việt Nam về nước, triều đình Xiêm La cử sứ giả sang Việt

Nam thông hiếu, song sứ bộ này cố tình lờ đi những yêu cầu của triều Nguyễn đòi phía

Xiêm La trả lời vụ bắt giết người của ta. Tháng 6 năm 1830 vua Xiêm La lại cho sứ sang

Việt Nam dâng quốc thư cùng phẩm vật cho Minh Mạng và để xin lỗi về những hành

động sai trái trước đó.

Thực chất quan hệ Việt Nam - Xiêm La qua vấn đề Van Tượng không có một sự

“đối đầu” nào xét về phía triều Nguyễn cả. Vua Minh Mạng đã nhân nhượng đầy thiện

chí, ngay cả lúc những yêu cầu chính đáng của Việt Nam, không được Xiêm La đáp

ứng, Minh Mạng cũng không có động thái cứng rắn bởi theo ông “nếu ta nghiêm cự thời

là đối với người không được rộng rãi...”[71, 9, 214]

Tuy nhiên, năm 1833 Xiêm La đã đem đại quân sang vi phạm lãnh thổ Việt Nam

đơn phương xóa bỏ quan hệ láng giềng truyền thống, tự chuốc cừu thù. Từ năm 1833 trở

đi, suốt cả một thời gian dài quan hệ hai nước căng thẳng và vùng biên giới Việt Nam -

Xiêm La chẳng hề yên ổn.

Nhìn chung, trong những năm 20 đến 40 của thế kỷ 19, vấn đề tranh giành quyền

lực và quyền lợi trên đất Chân Lạp và Vạn Tượng, giữ a nước Xiêm La và Vi ệt Nam đã

làm cho hòa bình trong khu vực không được gìn giữ 42Tvà42T phát triển.

115

Đường lối ngoại giao triều Nguyễn tuy có những hạn chế nhưng trong quan hệ

ngoại giao với Xiêm La các ông vua đầu triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng để duy trì

hòa bình ổn định trong khu vực và giữa hai vương quốc Việt Nam - Xiêm La.

Thực chất cuộc chiến Việt Nam - Xiêm La qua vấn đề nước Chân Lạp và Vạn

Tượng không hoàn toàn do triều Nguyễn gây chiến, cũng không hẳn do “nhu cầu mở

rộng biên cương”, 43Tmà 43Tthực ra việc giành ảnh hưởng 43Tở Chân 43TLạp và Vạn Tượng chủ yếu

là do yêu cầu bảo vệ, phòng thủ biên cương của nhà nước phong kiến vào thời điểm lịch

sử đó.

Từ năm 1834, nước ta tuyệt giao với Xiêm La, quan hệ ngoại giao được thay 6Tbằng

chiến tranh và quan hệ quân sự. Năm Tự Đức thứ 6T13T10 6T13T(1857) việc nối lại quan 6Thệ ngoại giao

với Xiêm La được đặt ra trong triều đình Huế. Vua Tự Đức hạ lệnh cho Nguyễn Tri

Phương xem xét kỹ để chuẩn bị cơ hội “nếu nước ấy quả thực tâm lại giao hiếu thì tự đề

nghị lên trước..”[71, 28, 320]. Theo bộ sử Đại Nam Thực lục do triều Nguyễn bên soạn

thì đến 11Tnăm 11T1866 việc thông sứ với Xiêm La 76Tv ẫ n 76Tchưa được tái lập.

4.1.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong

nửa đầu thế kỷ 19:

Triều Nguyễn trong quan hệ với nước Xiêm La vào nửa đầu thế kỷ 19 đã có định

hướng ngoại giao hòa hảo và thiện chí. Từ lúc Gia Long kiến lập nên triều đại, ông đã

thiết lập những mối quan hệ láng giềng hòa hiếu phản ánh tinh thần ngoại giao hòa

bình, mềm mỏng trong sách lư ợc và cứng rắn trong nguyên tắc đối ngoại. Ngay những

tác giả có phần khắt khe khi đánh giá về ngoại giao triều Nguyễn cũng phải công bằng

mà nhận định: “Lúc đầu thì đối với Xiêm, triều đình Nguyễn giữ một niềm hòa hảo”

[22, 100]

Xiêm La là đất nước mà Gia long trú ngụ khi chưa tạo đựng đế nghiệp. Xiêm

vương và Gia Long kết giao và thường qua lại giúp đỡ nhau, họ còn là đồng minh trong

một liên minh quân sự tự nguyện chống lại âm mưu của Miến Điện... Đó chính

là 6Tnhững 6Ttiền đề dẫn đến đường lối ngoại giao thân thiện với Xiêm La của triều Nguyễn.

Theo đuổi mục tiêu ngoại giao hòa bình, triều Nguyễn nhận thức sâu sắc rằng: “Nước ta

xưa nay vẫn giao hảo với Xiêm La, ví thử có xảy ra mối giao tranh thì s ự lợi hại chẳng

phải là nhỏ” [48, 17]. Như vậy, triều Nguyễn hiểu rằng giữ mối giao hảo với Xiêm là

116

cần thiết nhưng các vua Nguyễn cũng biết rằng quan hệ hòa hiế u với Xiêm La cũng rất

mỏng manh, nguyên nhân xuất phát từ vấn đề Vạn Tượng, Chân Lạp. Theo “Minh

Mệnh chính yếu”, Minh Mạng cũng biết rõ là: 6T“Chân 6TLạp từ khi nội thuộc bản triều cho

tới nay, người Xiêm la không thể không cay cú thắc mắc...Bởi vậy, mọi 6Tkế 6Thoạch biên

phòng 42Tcác 42Tngươi cần phải trù liệu cho hết sức chu đáo” [72, 3, 277].

Đi theo đường lối đối ngoại hòa bình tích cực cho nên triều Nguyễn không bị mất

cảnh giác trong khi phòng bị biên giới. Năm 1809, Gia Long đã từ chối không cho Xiêm

La mượn đường Lào đi sứ, năm 1815 vua cũng kiên quyết không cho sứ Xiêm La đi

theo đường Châu Đốc, Hậu Giang về nước... Triều Nguyễn tuy hết sức nhân nhượng

Xiêm La, về tình thì chu đáo, vẹn toàn, về lý thì luôn luô n thể hiện tinh thần độc lập tự

chủ toàn vẹn cương thổ quốc gia. Khi Vạn Tượng và Xiêm La đánh nhau, triều Nguyễn

xác định thái độ dứt khoát: “Họ đánh với Vạn Tượng thì mặc họ, không được xâm phạm

tới biên thùy thuộc vùng mường mán của ta, nếu họ không nghe lời thì chiến sự sẽ bùng

nổ” [72 39T,3, 39T290]. Tuy vậy, xuất phát từ định hướng ngoại giao hòa bình, hòa mục với

láng giềng, triều Nguyễn chủ trương “liệu cơ mà làm, bất tất vội đánh nhau truớc để

mang tiếng tự mình 43Tgây 43Thấn” [73, 2, 584].

Vua Minh Mạng kiên trì tư tưởng “Trẫm nhất thiết không bao giờ nghe theo cái lý

luận bỏ bạn tìm thù” [72, 3, 369]. Khi quân Xiêm đã vượt biên giới vào địa phận nước

ta, tinh thần chống xâm lăng nhưng không hiếu chiến của triều Nguyễn được thể hiện

rất rõ. Minh Mạng phái sứ giả đi dò xét và chuẩn bị thương thuyết, dụ rằng: “Nếu quả

thực có 43Tquân 43TXiêm đến đất ta, thì phải trước phái người đưa thư đến vặn hỏi Xiêm đến

đây vì ý gì. Xem chúng đáp lại thế nào? Nếu chúng trả lời bằng giọng hòa hảo thì tùy

nghi biện bác khiến chúng đuối lý phải tự rút lui, ấy là kế hay nhất” [71, 13, 312]. Đến

lúc không còn đấu tranh ngoại giao được nữa, triều Nguyễn phải thực hiện biện pháp

quân sự song vẫn theo đuổi mục tiêu hòa bình trong quan hệ với Xiêm La. Triều

Nguyễn chủ trương đuổi quân Xiêm La ra khỏi đất nước và không truy để diệt đến cùng

“quân ta cũng đi kiểm soát bờ cõi...không nên vượt qua biên giới mà đuổi theo đến

cùng” [71, 23, 66].

Không thể kết luận vội vã và thiếu công bằng về đường lối ngoại giao của triều

đình Huế trong quan hệ với Xiêm La. Trên thực tế, từ cuối thời Gia Long cho đến thời

Minh Mạng, Việt Nam là chủ của miền Đông bán đảo Đông Dương, đến năm 1828,

117

Chân Lạp thuộc quyền bảo hộ của triều Nguyễn, Trấn Ninh, Hạ Lào đều quy thuận nhà

Nguyễn. Nếu vua Minh Mạng không thận trọng trong quan hệ bên ngoài đối với các

vùng biên cương, đặc biệt trong quan hệ với Xiêm, không sớm thi muộn Xiêm cũng sẽ

tiến vào Chân Lạp hoặc Hạ Lào (Xiêm giáp giới với cả hai nước này), khi đó miền Nam

của Việt Nam sẽ gặp khó khăn và an ninh của đất nước sẽ bị đe đọa.

Triều Nguyễn hết sức 38Tnhân 38Tnhượng với Xiêm La. Theo “Đại Nam thực lục” thì đến

khi Xiêm “bỏ láng giềng”, “Người Xiêm bỏ bạn chuốc thù, manh tâm gây chiến”

[71,13,336] Việt Nam mới buộc lòng từ bỏ sách lược hòa hoãn bởi Minh Mạng nhận

thấy “một cuộc hòa đàm, khó lòng nói được, nay chúng đã đi sâu vào nội địa” [72, 3,

146]. Như vậy, triều Nguyễn luôn ý thức sâu sắc về sự yên ổn hòa bình của mối quan hệ

Việt Nam - Xiêm La, tìm mọi cách duy trì quan hệ ngoại giao với Xiêm La cho tới lúc

Xiêm La khởi binh gây chiến.

Vấn đề ngoại giao giữa triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đâu thế kỷ 19 chứa

đựng nhiều nội đung khá phức tạp và do những mối quan hệ khác trong khu vực chi

phối (vấn đề Chân Lạp và Vạn Tượng là ví dụ điển hình). Chính đo điều kiện khách

quan ấy mà quan hệ Việt - Xiêm cuối cùng xấu đi và dẫn tới chiến tranh, 21Tvề 21Tcuộc chiến

mà nhà Nguyễn tiến hành với Xiêm La, chúng ta không thể lên án một chiều chính sách

đối ngoại xâm lược của phong kiế n Việt Nam được. Đối với Xiêm La, triều Nguyễn có

tranh chấp, có mâu thuẫn, song 42Tcác 42Tvua Nguyễn vẫn không tự mình gây chiến tranh và

hận thù với Xiêm La.

Suốt cả chiều dài lịch sử gần 50 năm đầu của thế kỷ 19, trong quan hệ với Xiêm

La, triều Nguyễn vẫn tuân theo đường lối ngoại giao mềm mỏng nhún nhường. Minh

Mạng từng dụ quan quân: Nếu Xiêm La sang xâm phạm lãnh thổ Việt Nam thì lỗi tự họ,

phải chống lại, nhưng giữ chặt biên giới không đuổi theo nếu Xiêm thua chạy. Như thế,

triều Nguyễn chống xâm lược nhưng nêu cao khí phách anh hùng, không hung hăng,

hiếu chiến.

Qua quan hệ với nước Xiêm La, chúng ta hiểu thêm phần nào ngoại giao của triều

Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19. Đó là chiến lược ngoại giao hòa bình tích cực của

phong kiến Việt Nam.

118

4.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với nước Chân Lạp trong nửa đầu thế

kỷ 19:

Chân Lạp hay còn gọi là Cao Miên (Cao Man) đến đời vua Thiệu Trị tránh tên húy

mới gọi là Chân Lạp. Theo ông Châu Đạt Quan trong cuốn “Chân Lạp phong thổ ký”,

nước Chân Lạp (Tchen-la) còn gọi là Chiêm Lạp (Tchan-lap) và còn gọi là Cam Bội Trí

(Cam-po-Tche). Theo “Đại Việt Địa 6Tdư 6Ttoàn biên”, 6TChân 6TLạp vốn là thuộc quốc của

nước Phù Nam xưa.

4.2.1. Quan hệ Việt Nam và Chân Lạp cho đến năm 1807:

Quan hệ giữa triều Nguyễn và Chân Lạp là một loại hình quan hệ đặc biệt, nó phản

ánh một kiểu đối ngoại của phong kiến Việt Nam đối với các nước lân cận nhỏ hơn

mình trong thời phong kiế n.

Thời cổ đại cho đến thế kỷ thứ 6, Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam, đến

thời hậu Ăng-co Chân Lạp bước vào giai đoạn suy tàn. Nước Xiêm - La 42Tở 42Tphiá Tây

Chân Lạp nhiều lần 42Tgây 42Tchiến tranh xâm lấn, nội bộ 42Tcầm 42Tquyền của Chân Lạp luôn lục

đục, xâu xé nhau tranh quyền bính. Trong cuộc đấu tranh đó các phe nhóm ở Chân Lạp

đều cầu ngoại viện, lôi kéo Việt Nam và Xiêm La vào cuộc nội chiến của Chân Lạp làm

cho nội dung quan hệ Việt Nam - Chân Lạp biến dạng bởi chiến tranh tương tàn.

Cho đến trước thế kỷ 1T10, 1Tsử sách không ghi lại quan hệ giữa hai nước Việt Nam -

Chân Lạp, theo một giả định thì “có thể lúc đó Việt Nam còn đang bị Trung Quốc đô hộ

sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại năm 43” [88, 67]. Từ thời Lý trở đi, Đại Việt

và Chân Lạp bắt đầu có quan hệ ngoại giao chính thức. Mối quan hộ này được phản ánh

qua việc trao đổi sứ liên tục giữa hai nước vào 22Tnhững 22Tnăm : “1014, 1020, 1025, 1026,

1033, 1039, 1056, 1072, 1086, 1088, 1095, 1118, 1120, 1123, 1134, 1135, 1153, 1191,

1194, 1195 và 1197...” [85, 65].

Đến thế kỷ 15, Hoàng gia Chân Lạp lại xảy ra nội chiến, các phe đối lập tìm cách

cẩu cứu Xiêm và Việt Nam, đặt hai nước này vào thế đối trọng. Điều này gây nên những

khó khăn nhất định trong quan hệ Việt Nam - Chân Lạp. Nói cách khác, quan hệ Việt

Nam - Chân Lạp luôn bị chi phối bởi những xung đội chính trị ở Chân 6TLạp. Triều Nguyễn

đã khái quát 6Ttình 6Thình 6T43Tở Chân 6T43TLạp như sau: “ hễ anh 6Tem 6Ttranh 6Tgiành nhau, không nhờ

119

được 42Tở 42Tta thì chạy đến nước Xiêm, không nhờ 6Tđược ở 6Tnước Xiêm thì chạy đến với ta”

[73, 11, 545].

Trong thế kỷ 17, khi họ Nguyễn vào Nam xây dựng cơ đồ đã giúp vua Chân Lạp

đẩy lùi nhiề u cuộc tiến công của phong kiến Xiêm La, giữ yên bờ cõi [136, 57]. Trong

bài “Lịch sử cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam” của Phù Lang Trương Bá Phát, ông

khẳng định năm Việt Nam tiếp xúc với Chân Lạp là “năm Canh thìn 1623” [83, 107].

Nhờ vậy, trong 42Tđầu 42Tthế kỷ 17, Việt Nam và Chân Lạp đã có mối quan hệ khắng khít

tương trợ giúp đỡ nhau, điều này còn được minh chứng qua sự kiện vua Chey-Chetta II

(1618 - 1628) vừa lên ngôi đã tìm cách liên lạc với chúa Nguyễn, người Việt bấy giờ đã

trở thành thân hữu và đồng minh của người Chân Lạp. Sự gắn bó Việt Nam - Chân Lạp

còn được tăng cường trong nhiều thế kỷ sau. Vào cuối thế kỷ 18, nhà Nguyễn tiếp tục

giúp Chân Lạp chống đỡ một cách tích cực và hiệu quả đối với xâm lược Xiêm La, ơn

nghĩa đó khiến vua Chân Lạp xin thần phục Việt Nam. Thần phục Việt Nam, Chân Lạp

còn theo đuổi mục đích khác tạo nên thế đối trọng răn đe đối với Xiêm La. Theo Phan

Lạc Tuyên trong “Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á: “Để có thể đối trọng với

Thái Lan, vun Chân Lạp đã chọn con đường thần phục Việt Nam...” [88, 69].

Chân Lạp thần phục nhà Nguyễn và nhờ sự bảo 19Ttrợ 19Tcủa Việt Nam để chống Xiêm,

năm 1758, vua Chân Lạp mới lên ngôi là Ontey 19TII 19Tcũng xin thần phục nhà Nguyễn.

Theo Lê Hương: “quốc vương Outey (đệ nhị) (758-1775) vừa tức vị đã lập tức nhờ chúa

Nguyễn bảo hộ” [78,118]. Cùng thời điểm này, Xiêm La yêu cầu Outey II thần phục và

cống lễ nhưng vị vua này đã từ chối. Chính sự khước từ của vua Chân Lạp đã là một

trong nhiều lý đo đưa đến cuộc xung đội trên đất Chân Lạp có cả hai thế lực Việt - Xiêm

La tham gia. Cuộc xung đội này kết thúc với thắng lợi của Outey II, ngai vàng c ủa vua

Chân Lạp được tái lập. Để đảm bảo chắc chắn cho kết quả này, một vị quan Việt Nam

được cử đến ở bên cạnh vua Chân Lạp để giúp ông ta trị nước. Sử Chân Lạp ghi về sự

kiện này như sau: “Để trả ơn sự can thiệp này, thay vì nộp lễ cống như thường lệ, Quốc

vương Outey 19TII 19Tphải nhận một viên quan Việt Nam lại triều coi sóc trị dân” [78, 119].

Quan hệ giữa Việl Nam và Chân Lạp trong thời kỳ này cũng hạn chế bở Chân Lạp phải

đối phó với nội loạn liên miên. Riêng ở Việt Nam đang diễn ra nội chiến giữa họ

Nguyễn và Nguyễn Tây Sơn nên hai nước không có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc ngoại

giao gì. Sau một thời gian nội chiến, năm 1779 con của Outey II là Ang-Eng lên ngôi,

120

đến 1794, Chân L ạp thần phục thần phục Xiêm La, luôn có một phụ chính người Xiêm

La 42Tở 42Tbên cạnh vua Chân Lạp để “bảo hộ” Chân Lạp. Viên phụ chính này thường gọi là

Poc. Năm 1796 con Ang-Eng là Ang Chan lên ngồi tuy vẫn thần phục Xiêm La, nhưng

ông vẫn tìm cách nối lại quan hệ với Việt Nam. Theo tác giả Lê Hương: “năm 1800 theo

lệnh vua xiêm, Poc gởi một đạo quân giúp Nguyễn đánh Tây Sơn... Thắng trận này,

Nguyễn Ánh lên ngôi tức là vua Gia Long, gởi trả lại Cao Miên hai khẩu súng đồng để

cảm ơn” [78,112].

Từ năm 1800, Chân Lạp thường xuyên gởi tặng vật đến mừng tặng cho Gia Long,

tháng 6 năm 1802 38T“Chân 38TLạp sai Oc-Nha 38T-Thư38T-Triệu-Bồn-Nha-Diệt đến hiến sản vật địa

phương” [70, 3, 45]. Tháng 7 năm 1803, Chân Lạp lại sai sứ sang cống 11Tcho

triều 11TNguyễn. Theo “Khâm Định Đại Nam Hội 11Tđiển 11Tsự 11Tlệ” 11T:Gia Long 11Tnăm thứ 11Thai Thánh

giá đi tuần miền Bắc, nước Cao Miên sai sứ theo đến Bắc thành triều cống” [62,418]

Theo “ Mục lục châu bản triều Nguyễn “, năm Gia Long thứ tư (1805), vua định lệ

các dinh từ Quảng Đức vào Bình Thuận “ mỗi dinh phái mội cai đội và l0 quân, đem đủ

khí giới, đệ tặng phẩm vào Gia Định để đưa qua Cao Miên ban tứ” [49, 1, 100]. Trong

năm này, Gia Long cử sứ bộ sang Chân Lạp mang “ 2 đạo dụ chỉ và phẩm vật để ban tứ

nước Cao Miên” [49, 38T1, 38T100]. Trong những năm đầu thế kỷ 19 vua Chân Lạp “thẩn

phục” cả hai nước Việt Nam và Xiêm La. Năm 1806, vua Xiêm La làm lễ đăng quang

cho Ang-Chang tại Vọng Các (Thủ đô của Xiêm). Và tháng 21T9 21Tnăm 1807,Chân Lạp xưng

thần với triều Nguyễn, Theo “Quốc triều chánh biên toát yếu”: “Tháng 21T9 21Tnước Chân

Lạp tới xin thọ phong Ngài phong cho Nặc Chân làm Cao Man quốc vương” [69, 68].

Sử Chân Lạp ghi nhận sự kiện này như sau: “Nước Việt Nam nhìn nhận tân vương khi

Cao Miên chịu xưng thần với triều đình Huế, 3 năm cống tiến một lần [78, 112]. Cầm

đầu sứ bộ sang xin phong của Chân Lạp là Oc-nha-vi Bôn-lạch. Việc triều đình Huế tấn

phong cho quốc vương Chân Lạp 27Tđã 27Tđánh đấu một quan hệ mới trong quan hệ hai nước

Việt Nam - Chân Lạp. Giai đoạn mà nhà nước phong kiến Việt Nam vì những mục đích

chính trị và quyền lợi quốc gia đã “bảo hộ” Chân Lạp mô phỏng theo nguyên tắc đối

ngoại “nước lớn - nước nhỏ”. Điều đó làm cho quan hệ hai nước trải qua biết bao thăng

trầm trong lịch sử tồn lại và phát triể n của hai quốc gia láng giềng này.

121

4.2.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ 19:

4.2.2.1. Vấn đề Việt Nam sách phong cho vua Chân Lạp :

Đây là nội dung khá quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước, vào

tháng 9 năm 1807, sau khi sứ Chân Lạp sang xin phong và được Gia Long chuẩn y thì

triều Nguyễn đã cho đúc ấn “Cao Miên quốc vương” để chuẩn bị việc 42Tsách phong. 42TTheo

“Đại Nam hội 22Tđiển 22Tsự 22Tlệ” thì 22T“ấn 22Tbằng bạc 22Tmạ 22Tvàng có nuốm con 22Tsư 22Ttử, 22T42Tmột cái 22T42Thộp

để 22Tđóng 22Tsơn 22Tson bằng đồng...” [62, 542]. Theo “Đại nam thực lục” thì “ấn bạc mạ vàng,

núm làm hình lạc đà” [70, 3, 347]. “Đại Nam liệt truyện” chỉ ghi lại khi Chân Lạp sai sứ

sang Việt Nam xin phong “Thế tổ y cho, mới đúc ấn”Cao Miên quốc vương” phong cho

Nặc Chân làm vua nước Cao Miên” [73,11, 545]. Theo “ Đại Việt địa dư toàn biên” thì

“Năm Gia Long thứ 6, vua sai sứ đem sắc đến Tuyên phong ban cho quốc ấn, ấn khắc

chữ: Cao Miên quốc vương chi ấn” [74, 319].

Chiếc ấn “Cao Miên quốc vương” đó được sứ bộ Việt Nam mang sang Chân Lạp

tuyên phong cho quốc vương Chân Lạp tại thành La Bích. Thành phần sứ bộ Việt Nam

sang Chân Lạp phong lân đầu tiên này là: Ngô Nhân Tĩnh làm chánh sứ, Trần Công Đàn

làm phó sứ. Đây là sự kiện ngoại giao quan trọng, do vậy triều Nguyễn thông báo cho

phía nhà nước Chân Lạp biết thời gian sứ Việt Nam sang để Chân Lạp chuẩn bị đón

rước. Số lượng sứ bộ Việt Nam khá đông, riêng quân lính là 150 người, kèm theo một

long đình, 4 tán vàng, 1 thuyền lê, 2 thuyền hậu, 5 thuyền sai... Lúc sứ bộ Việt Nam đến

ngang địa giới đã có quan Chân Lạp đón đợi sẵn để rước sứ giả Việt Nam vào thành La

Bích nghỉ ngơi, chờ Việt Nam định 43Tngày tuyên 43T phong.

Lễ tuyên phong 42T(sách phong) 42Tcủa Việt Nam cho vua Chân Lạp cũng diễn ra theo các

nghi thức gần giống như lễ sách phong trong quan h ệ Việt Nam - Trung Quốc.

Tại chính đường cử hành lễ, vua Chân Lạp cũng bày 11Thương 11Tán, và tất 11Tcả 11Tngười

tham dự lễ đều hướng mặt vào Long đình, nơi có để sẵn thế cáo, sắc thư...

Bắt đầu lễ 42Tsách phong 42T“viên hành nhân dẫn quốc trưởng ấy đến chỗ lạy quỳ xuống.

Viên chánh sứ bưng chế thơ giao viên hành nhân đứng tuyên đọc xong, bưng để trên

hương án, viên chánh sứ bưng chế thư đứng trao cho quốc trưởng ấy bưng lấy giơ lên

trán, rồi trao cho quan phiên tiếp lĩnh, cúi đầu xuống đứng dậy. Quốc trưởng quỳ

xuống, phó s ứ bưng hòm ấn trao cho...” [62, 453].

122

Trong lễ 42Tsách phong 42Tnày, còn một nội dung khác là việc Gia Long đồng ý cho Chân

Lạp đổi quốc hiệu thành “Cao Miên”. Năm 6T1 8 1 1 , Chân 6TLạp lại xin đổi quốc hiệu “Cao

Miên” thành Ân – Di - Bắc – Phú - Lài, nhung vua Gia Long không chuẩn y với lý đo

“Quốc hiệu cũ đã đẹp rồi, cần gì phải đổi” và “Quốc hiệu cũ của vương tự tổ phụ vương

dựng nước đã định danh rồi, không c ần thay đổi làm gì” [70, 4, 131].

Thời Minh Mạng 16 (1835), vua Cao Miên là Nặc Chân đau kiết lỵ băng hà. Sự

kiện này cũng đánh đấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt - Chân Lạp. Nhân dịp vua

Chân Lạp mất, Minh Mạng dụ bộ lễ “ấn triện của vun Phiên, chuẩn giao cho quan Phiên

là lũ Chưởng cơ Trà Long và vệ úy Trà Kiên theo (sự điểu khiển) của Trương Minh

Giảng và Lê Đại Cương quyền làm việc nước Chân Lạp” [71, 15, 244]. Sau khi giao

quyền cho các quan Chân Lạp, Minh Mạng y tấu cho con gái Nặc Chăn là công chúa

Ngọc Vân lên nhiếp chính việc nước. Triều Nguyễn cũng sách phong cho nàng công

chúa Chân Lạp này, vua Minh Mạng “chuẩn cho Thứ bố chính tỉnh An Giang là Trương

Phúc Cương sung chức khâm sứ, tuyên phong Ngọc Vân là con gái thứ hai cố vương

Chăn làm quận chúa Cao Miên quyền nhiếp công việc” [62, 454].

Lễ 11Ttuyên phong cho Ngọc Vân được tiến hành như lễ tuyên phong cho 11TNặc Chăn.

Năm 1840, Minh Mạng cử Huỳnh 78TMẫn 78TĐạt làm 6Tkhâm 6Tsứ sang Chân 11TLạp 11T“đổi phong”

quận chúa Ngọc Vân thành quận chúa Mỹ 6TLâm. 6T“Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”

ghi lại: “Mùa hạ tháng 5 đổi phong quận chúa Ngọc Vân làm Mỹ Vân quận chúa, huyện

quân Ngọc Biện thành Lư an huyện quân, Ngọc Thu làm 43TThâu 43TTrung huyện quân, Ngọc

Nguyên làm Tập Ninh huyện 6Tquân” 6T[62, 456].

Với sự kiện “đổi phong” này, quan hệ việt Nam – Chân Lạp đã bước sang một thời

kỳ mới. Theo vua Minh Mạng, việc “Chân Lạp” cần phải “xử trí” để đối phó với Xiêm

La, trên đất Chân Lạp phải “chia đặt huyện, đặt lưu quan để cai trị đất ấy, khiến cho

người Xiêm sợ hãi không đám đến xâm lấn” [71, 22, 145]. Thực tế, vua Minh Mạng đã

sáp nhập Chân Lạp vào lãnh thổ Việt Nam. Lịch sử 6TChân 6TLạp cũng xác nhận là “từ năm

1841 đến 1845, ngôi vua Cao Miên không có người, nước Cao Miên sáp nhập vào Việt

Nam, việc triều chính hoàn toàn do tướng Trương Minh Giả ng quyết đoán” [78, 125]

Cho đến cuối năm 1846 Sá - Ông - Giun (em Nặc - Ông - Chân còn gọi 13Tlà 13TNạo Ông

- Run hay Nặc – Ông - Đôn), mới đến triều đình Việt Nam ở Trấn Tây xin xưng thần.

123

Nặc – Ông - Đôn “sai 43Tbầy 43Ttôi đem bài biểu đồ và đồ phẩm nghi tới quân thứ Trấn Tây

xin dâng biểu về kinh xưng thần, nộp cống” [69, 274]. Vun Thiệ u Trị 13Tđã 13Tchấp nhận và

tháng 7 năm 1847 triều Nguyễn cử một sứ hộ Việt Nam sang Chân Lạp gồm: 1 viên

chánh sứ, 1 phó sứ, 2 người tuyên đọc, 2 người hộ cáo ấn, quản vệ quản ơn 2 người, suất

đội 13T10 13Tngười, binh đinh 500 người đến tuyên phong cho Nặc Ông Đôn tại

thành 13TU 13TĐông, tước hiệu mà Nặc Ông Đôn nhận từ triều đình Huế 13Tlà 13T“Cao Miên Quốc

Vương”. Vun Thiệu Trị cũng phong Ngọc Vân công chúa làm “Cao Miên Quận Chúa”,

để cùng với “Cao Miên Quốc Vương” trông coi việc nước Chân Lạp.

Trong lễ 42Tsách phong cho 42TNặc Ông Đôn, vua Thiệ u Trị cũng ban cho ông này một ấn

bằng bạc trên khắc 6 chữ “Cao Miên Quốc Vương Chi Ấn”, hình thức giống như ấn cũ:

“ấn bằng bạc, cái núm hình lạc đà mạ vàng, đường kính, bề mặt và cao đầy phân tấc đều

y như ấn cũ” [71,26,201]. Cùng với ấn triều Nguyễn ban thêm cho vua Chân Lạp một

cái dấu kiềm bằng ngà voi, mặt khắc hai chữ Cao Miên”.

Trong năm 1847, triều Nguyễn cử hai sứ bộ ngoại giao đi Chân Lạp. Một sứ bộ

sang sách phong cho Nặc Ông Đôn gốm Lê Khắc Nhượng và Nguyễn Tiến Hội. Sứ bộ

kia sang sách phong cho Ngọc 54TVân 54Tcông chúa làm Cao Miên quận chúa, theo “Đại Nam

Hội điển Sự lệ” thì có: “một khâm sứ (Hoàng thư), 1 bộ sắc, 1 tuyên đọc đi theo sứ giả,

quản vệ 1 người, suất đội 4 người, binh đinh 200 người” [62, 458]

Sau 1847 cho đ ến 1858, khi thự c dân Pháp nổ súng xâm lược 3 nước trên bán đả o

Đông Dương thì trong nội dung quan hệ triền Nguyễn và Chân Lạp không diễn ra lần

sách phong nào nữa.

4.2.2.2 Triều cống trong quan hệ giữa triều Nguyễn và Chân Lạp:

Chân Lạp là “nước nhỏ” nhận chịu sự “bảo hộ” của Việt Nam 42Tvà 42Tphải thực hiện

một nghĩa vụ trong quan hệ với Việt Nam là 42Ttriều cống, 42Tđể hợp với danh xưng và hình

thức “phụng thờ nước lớn”.

Khi 42Tsách phong 42Tcho vua Chân Lạp, Gia Long đã chuẩn y lời nghị về lệ tiến cống của

nước này, cứ 3 năm một lần tiến cống “Lấy năm Tỵ, năm Thân, năm Hợi, năm Dần làm

hạn” [62, 464]. Năm 1833, Minh Mạng lại đổi thời hạn tiến cống “nay chẩn cho đổi

định... cứ đến thượng tuần tháng hai đến tỉnh An Giang, thượng tuần tháng 4 hiện dã

cho đến kinh làm lễ tiến cống để kịp lễ mừng thọ” [62, 466]

124

42TTriều cống của 42TChân Lạp đối với triều Nguyễn gồm có hai lễ. Lễ cống chính, cứ ba

năm cống một lần. Lễ “thường cống” thì một năm một lần cống. Ngoài ra nước Chân

Lạp cũng dâng các lễ cống khác như: Lễ tạ ơn sách phong, lễ mừng các sự kiện trong

đời sống chính trị 6T- xã 6Thội Việt Nam, lễ tiến hương v.v...

Con đường tiến cống của sứ Chân Lạp phải qua Gia Định thành, chờ Tổng trấn Gia

Định thành bẩm báo về kinh đô Huế, có lệnh từ Huế cho phép tiến cống thì sứ bộ đi

cống mới lên đường về kinh. Một tờ trình của Tổng trấn Gia Định thành cho chúng ta

hình dung cụ thể quá trình đó “...Quốc vương Cao Miên sai sứ bộ đem các sản vật tuế

cống đến thành trình nạp, tôi liền sức lựa thuyền kiên cố chở các phẩm vật ấy cùng than

140 tạ trước còn thiếu về kinh phụng nạp” [50, l1, 32]

Số lượng người trong sứ bộ Chân Lạp sang ta thời vua Gia Long ngoài m ột chánh

sứ, một phó sứ nếu đi đường bộ cho 13Tl0 13Tngười, đường biển thì 20 người” [74, 319]. Năm

1808, vua Gia Long cho tăng số lượng sứ đi đường bộ lên 15 người. Toàn bộ số lượng

sứ đoàn không được về kinh đô Huế. Thời Minh Mạng vua chỉ chuẩn cho chánh, phó sứ,

một thông ngôn, 4 lính hầu, tổng cộng là 7 người cùng với mội viên quan Việt

Nam 42Tở 42Ttỉnh đi ban tống, số người còn lại phải đợi 42T ở 42Tbiên giới. Năm Thiệu Trị thứ 7, khi

quan hệ ngoại giao hai nước được nối lại, vua cũng chuẩn y cho 15 người trong sứ bộ

Chân Lạp tiến kinh, số còn lại thì chờ 42Tở 42TAn Giang đợi Thiệu Trị ban thưởng.

Về số lượng 43Tphẩm 43Tvật trong lỗ cống chính gồm có đặc sản của nước 6TChân Lạp

như: 6T“2 6Tthớt 6Tvoi đực, 2 tòa sừng 6Ttê, 6T2 chiếc ngà voi, 20 bình sơn đen, đậu 6Tkhấu, 6Tsa nhân,

sáp ong, cánh kiến, trần hoàng, mỗi thứ đều 50 6Tcân” 6T[70, 6T111, 6T347]. 6TPhẩm 6Tvật

của 6Tlễ 6T“thường cống” so với 6Tlễ 6T“chính cống” 6Tthì 6T“giảm 6Tbớt đi l 0 6Tthùng sơn đen, 4T2 4Tcon voi

đực” [62, 743]. Minh Mạng 34Tnăm 34Tthứ hai chuẩn cho Chân Lạp, nếu năm nào gặp 2 lễ

cống cùng một lúc thì cho miễn lễ thường cống chỉ phải dâng một lễ thôi, lệ miễn giảm

này được duy trì mãi cho đến các đời vua sau.

Trong tất cả các lễ phẩm mà Chân Lạp tiến kinh, lễ phẩm tạ ơn là lớn hơn cả. Lễ

phẩm tạ ơn vào năm 1811 gồm “5 cỗ tê giác, 19 cái ngà voi, sáp ong, 92Tcánh 92Tkiến, đậu

khấu, sa nhân, trần hoàng mỗi thứ 400 cân, sơn đen 100 thùng...” [62,472]

Kỳ hạn tiến cống của Chân Lạp đối với Việl Nam không 81Ttuân 81Ttheo 81Tmột 81Tquy định

nghiêm ngặt nào cả mà tùy theo 92Ttình 92Thình hoàn cảnh cụ thể của nước Chân Lạp. Vào

125

thời Gia Long năm 1809 vua cũng miễn giảm lễ tạ ơn cho Chân Lạp “Về lễ tạ 81Tơn 81Tđược

chuẩn giảm đi 2 con voi đực” [62, 471]. Năm 1811 Gia Long ra lệnh trả lại lễ vật tạ ơn

cho sứ bộ nước ấy nhận lãnh để đem về nước lại. Tháng 9 năm 1812, Gia Long lại miễn

lễ cống cho 43TChân 43TLạp. Minh Mạng lên trị vì, ông cũng theo 6Tlệ 6Tthời Gia Long vào năm

1823 miễn cống cho Chân Lạp “lễ mừng bát tuần hồi loan đã có chỉ để 6Ttrừ 6Tvào lệ cống

năm nay” [71, 6, 193]. Minh Mạng năm thứ 16, vua thấy nội tình Chân Lạp rối ren nên

đã cho đình chỉ tất cà các lệ cống lại, Chân Lạp không phải nộp một lễ phẩm nào từ thời

Thiệu Trị đến Tự Đức lệ 3 năm một 81Tlần 81Tcống lại được tiếp tục trong quan hệ hai nước

Việt Nam - Chân Lạp nhưng kỳ hạn tiến cống của sứ Chân Lạp cũng linh hoạ t. Tự Đức

từng xuống dụ: nếu sứ Cao Miên đến 92Tcống không y 92Thạn 92Tthì 92T“cũng 92Tkhông hại gì gia hạn,

cho hạ tuần hàng tháng, để bảo là 92T thể tất đến nước dưới không liên ấn định làm gì” [62,

469]. Có những trường hợp khi sứ Chân Lạp 81Tdâng 81Tphương vật thì triều Nguyễn lại xuất

tiền trả “Tháng 6 năm 1812 Chân Lạp dâng 39 thớt voi đực, sai thành thần Gia Định

xuất tiền kho trả đúng giá” [71, 51, 514].

Không chỉ nhận 83Ttriều cống 83Ttừ Chân Lạp, triều Nguyễn cũng nhiều lần viện trợ cứu

giúp nước này, khi Chân Lạp gặp khó khăn. Gia Long năm thứ 12 “vua thấy

nước 6TPhiên 6Tmới yên kho tàng trống rỗng, cho Nặc Chăn 3500 lạng bạc, 5000 quan tiền

và 10.000 h ộc thóc...” [70,4, I89J.

Ngoài việc 42Ttriều cống, 42Tmỗi khi triều đình Huế có những hoạt động chính trị quan

trọng, như sách lập Hoàng tử chẳng hạn, thì Chân Lạp luôn sai sứ sang mừng kèm theo

lễ mừng. Khi Gia Long làm lễ sách lập Hoàng tử, sứ Chân Lạp đến mừng nhưng Gia

Long đã từ chối lễ vật. Ông giải thích “quý quốc sai sứ đệ phương vật đến mừng lễ sách

lập Hoàng tử, Hoàng thượng ban khen, nhưng vì nước Cao Miên mới định quốc, tài lực

chưa dồi dào, nay nhơn lễ khánh hạ làm cho phiền phí, nếu trả về hết thì phụ lòng quốc

vương, nên đã sức thâu 2 tòa tê giác, còn bao nhiên vật khác, đều giao sứ thần mang về

cho đỡ tốn” [49, 6T1 , 6T160].

Để định vị tư cách “nước lớn” của Việt Nam, Chân Lạp phải chịu nhận sự 42Tsách

phong 42Ttừ triều Nguyễn, thực hiện nghĩa vụ 42Ttriều cống, 42Tphải hàng năm sang Việt Nam chầu

như Gia Long từng tuyên 42Tbố về 42Tnghĩa vụ của các nước “phiên thuộc”: “Nước phiên

thuộc hàng năm đến chầu là chức phận của tôi con” [70,4,325].

126

Việc sang Việt Nam chầu của các sứ Chân Lạp, Vạ27Tn 27TTượng... cũng chỉ mang ý

nghĩa tượng trưng, bởi lẽ chúng ta thấy có nhiều trường hợp sứ Chân Lạp đến chầu, các

42TSách phong, triều cống 42Ttrong quan hộ ngoại giao triều Nguyễn và Chân Lạp cũng là

vua Nguyễn miễn cho tới Huế lại còn cấp phát bạc, lụa thưởng rồi cho về.

hai nội dung quan trọng. Đầu tiên nó nhằm khẳng định tư thế của Việt Nam trong khu

vực, kế tiếp nó tăng cường sự hiểu biết, giao lưu giữa nhà nước phong kiến Việt Nam

- 6TChân 6TLạp. Ngoài ra qua m ỗi lần trao đổi sứ hai nước đều có ban tặng quà và phẩm vật

cho nhau. Đối với triều Nguyễn việc ban thưởng, ban t ặng cho sứ giả Chân Lạp là một

trong những nguyên tắc của chính sách ngoại giao với tinh thần “nhu viễn”. Sự cung

đốn cho các sứ bộ nước ngoài, trong đó có Chân Lạp, chiếm một kinh phí khá lớn trong

ngân sách triều đình Huế, không chỉ cung đốn lương thực, thực phẩm...Triều Nguyễn

còn cấp liền cho các thành viên trong sứ bộ ngoại giao của các nước. Theo “Đại Nam

hội điển sự lệ” lệ cấp tiền này được đặt ra từ thời Gia Long năm thứ 2 cho đến thời

Thiêu Trị chánh sứ 8 quan tiền, 3 phương gạo trắng, phó sứ 5 quan tiền). Thời vua Tự

Đức thi chánh sứ được thưởng 13 quan tiền, phó sứ 1Tl 0 1Tquan ...

Nhìn chung, quan hệ giữa triều Nguyễn và Chân Lạp, tuy về hình thức triều

Nguyễn “bảo hộ” Chân Lạp, song chủ yếu đây là mối quan hệ láng giềng bình thường,

trừ một vài thời kỳ triều Nguyễn đã thể hiện vai trò “nước lớn”, để minh chứng cho

quan hệ vai trò “nước lớn - nước nhỏ” tồn tại khá phổ biến trong khu vực thời đó.

Từ thời Minh Mạng 42Ttrở 42Tđi quan hệ ngoại giao Việt Nam - Chân Lạp thường gặp khó

khăn. Tình hình chính trị của Chân Lạp không ổn định. Tháng 9 năm 1820, Chân Lạp có

vụ nổi dậy của “sư Kế” triều Nguyễn phải phái quan quân sang dẹp và Nặc Chăn xin

triều Nguyễn “đặt quan bảo hộ như trước” [69, 114]. Năm 1821, Minh Mạng khiến

Nguyễn Văn Thụy đem quân qua “bảo hộ” Chân Lạp 39Ttheo 39Ttinh thần bảo hộ cho họ tồn

lại phát triể n, chứ không phải giám sát họ “Công việc 19Ttrong 19Tnước nó đều giao cho vua

và quan phiên cứ theo tục nước nó mà làm, lại nên nghiêm trị quân sĩ không được mưu

lợi riêng, để cho trọng thể thống nước mình” [69,114]. Năm 1822, Minh Mạng lại ban

sắc thư dụ vua Chân Lạp phải gắng mà tu tỉnh tự cường...Trong suốt thời gian Nguyễn

Văn Thụy làm quan bảo hộ ở Chân Lạp, không có vấn đề gì căng thẳng giữa đại diện

triều Nguyễn và nhà nước Chân Lạp. Đến năm 1829, Nguyễn Văn Thụy qua đời, Minh

Mạng cử một viên quan khác là Nguyễn Văn Tuyên lãnh ấn bảo hộ Chân Lạp (6-1829).

127

Năm 1833, vụ nổi dậy 43Tở 43TPhiên An có quân Xiêm La can dự khiến triều Nguyễn

phải dùng binh và thông 43Tbáo 43Tcho phía Chân Lạp yên tâm. Sách “Quốc triều chánh biên

toát yếu” phản ánh lại tinh thần đoàn kết liên minh giữa Việt Nam - Chân Lạp trong

việc đánh đuổi Xiêm La can thiệp như sau: “Các tướng Chân Lạp đánh phá binh Xiêm,

chạy cờ đỏ báo tiệp” [69,170] cho vua Minh Mạng biết. Đến năm 1834, Minh Mạng sai

quân hộ tống vua 6TChân 6TLạp về nước và quyết định đình chỉ việc 6TChân 6TLạp sai sứ sang

Xiêm La khống chế Xiêm La can thiệp vào nội tình Chân Lạp nữa, “Trước đây nước

Chân Lạp mỗi năm một lần sai sứ sang Xiêm... Nay Xiêm càn rỡ đem quân vào cướp

của cải và 6Tđồ vật6T cùa Phiên. 6TChân 6TLạp cùng Xiêm La đã trở thành thù địch, vậy việc

thông sứ xin do quan tổng đốc An - Hà chuyển sức, đình chỉ mãi mãi” [71,14,59].

Trong thời Minh Mạng trị vì, triều Nguyễn gây dựng được ảnh hưởng lớn lao

trên 6TChân 6TLạp, nhưng quan hệ giữa triền Nguyễn và 6TChân 6TLạp cũng có lúc căng thẳng.

Một trong những nguyên nhân là do triều Nguyễn có những sai lầm trong phương pháp

“bảo hộ”. Năm 1840, triều Nguyễn đổi phong cho các quận chúa Chân Lạp, bắt các

công chúa này sang Gia Định ở, bắt 2 viên quan trụ cột của Hoàng gia Chân Lạp

...Những việc làm ấy đã gây nên bất bình trong lòng người Chân Lạp. Cộng thêm vào

đó là cuộc chiến tranh Việt Xiêm trên đất 6TChân 6TLạp đã làm cho tình cảnh đất nước Chân

Lạp khốn khó hơn. Cho tới năm 1846 khi Việt Nam giảng hòa với Xiêm La và cả hai

cùng rút quân ra khỏi 43TChân 43TLạp, tình hình Chân Lạp mới yên ổn. Từ tháng 2 năm 1847,

quan hệ 3 nước Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm La đi vào ổn định. Một trật tự mới được

lập lại trong quan hệ khu vực, lễ đăng quang của vua Chân Lạp có cả đại diện hai nước

Việt Nam - Xiêm La chứng kiến “quốc vương Ang Dương (còn gọi là Nặc Ông Đun,

Nặc Ông 6TDon 6T- TG) mới làm lễ đăng quang trước các tướng lĩnh đại diện vua Việt Nam

và vua Xiêm ” [78,127].

4.2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong

nữa đầu thế kỷ 19:

Về vấn đề quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và một số nước lân cận dưới triều

Nguyễn, từ trước đến nay tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Phần lớn giới nghiên cứu cho

rằng: với Chân Lạp, triều Nguyễn đã thi hành một chính sách ngo ại giao “phản động”,

“xâm lược”. Theo GS. Trần Văn Giàu: “đối với các nước láng giềng nhỏ thì triều đình

Huế lại thực hiện một chính sách xâm lược” [22, 100], và với chính sách ngoại giao đó

128

triều Nguyễn chỉ làm cho “sự xích mích càng sâu sắc giữa các nước láng giềng Việt –

Miên - Xiêm...” [22, 118]. Một nhận định khác cho rằng, triều Nguyễn “đối với các

láng giếng khác như Xiêm, Lào, Miên thì tỏ thái độ đe dọa, khinh miệt hoặc tranh chấp”

[64, 193].

Nhìn lại lịch sử những năm tháng từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, chúng ta có

thể nhận thấy trong quan hệ ngoại giao với Chân Lạp triều Nguyễn đã thực thi một

đường lối ngoại giao khá hợp lý:

- Nếu triều Nguyễn phải sử dụng phương pháp “bảo hộ” Chân Lạp, thì trước hết

điểm xuất phát của phương pháp này là do yêu cầu phòng thủ của đất nước. Để có thể

bảo vệ hữu hiệu thành Gia Định cần có ảnh hưởng nhấ t định tại Nam Vang, “nếu thành

Nam Vang mất, như làm hư hại rào giậu ta, thời thành Gia Định e có sự nguy hiểm”

[69,111], “muốn giữ vững Gia Định ta đã phải bào hộ Cao Miên, bao 43Tlần 43Tđánh nhau với

Xiêm, vì Xiêm bao gi ờ cũng dòm ngó Cao Miên” [34,144].

- Việc gây ảnh hưởng trên đất Chân Lạp là nằm trong hệ thống chiến lược phòng

thủ vùng biên giới Tây Nam của đất nước. Thực tế chứng tỏ “Ta muốn che chở Gia

Định phải cho Nặc Chăn làm tôi” [69, 83]. Biên giới Tây Nam, ngay từ thời vua Gia

Long đã có những biến động, việc canh phòng và gìn giữ an ninh ở đây luôn được triều

Nguyễn chú ý. Khi vua Chân Lạp đề nghị tới kinh đô để chầu, vua Minh Mạng cũng t ỏ

ý lo ngại 42T“Chân 42TLạp tiếp giáp Thái Lan, nay nước họ vào chầu, vấn đề bảo vệ biên thùy

không thể không phải cẩn mật” [72, 111, 358]. Xuất phát từ nhận thức trên, triều

Nguyễn đã cố gắng xây dựng ảnh hưởng trên đất Chân Lạp, 42Tvà 42Ttrong quá trình đó, tất

yếu nảy sinh những hậu quả đáng tiếc trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa hai nước

Việt Nam Chân Lạp.

- Chính nội bộ Chân Lạp thường xuyên chia rẽ và chiến tranh lôi kéo Việt Nam và

Xiêm La vào cuộc chiến là một trong nhiều nhân tố chi phối sâu sắc quan hệ giữa triều

Nguyễn và Châu Lạp. Theo Lê Hương trong” Việc bang giao giữa Cao Miên và Việt

Nam..”, : “Nước Cao Miên bấy giờ có 4 vị quốc vương cấu kết và xâu xé lẫn nhau. Vị

thì nhờ người Xiêm, vị nhờ người Việt giúp đỡ...” [78,114]. Từ thời Gia Long trở đi,

mỗi khi phía Chân Lạp yêu cầu giúp đỡ, thì triều Nguyễn mới đem quân đến giúp theo

tinh thần “Nặc Chăn là phên giậu của ta, nếu có sự hoãn cấp thì không lẽ ngồi nhìn,

129

nhưng việc binh cũng không thể kinh động” [70, 4, 140]. Chính sử của Chân Lạp cũng

ghi nhận điều đó. Năm 1810, khi Nặc Chăn cầu viện Việt Nam, Gia Long đã cho quân

sang giúp, khi đuổi Xiêm La rút quân về, thì triều Nguyễn cũng “chiếu cho Nguyễn Văn

Nhân rút quân về. Nặc Chăn lấy cớ nước mới yên định, tình dân chưa yên, xin lưu quân

lại bảo vệ...” [70, IV, 104]. Đến tháng 3 - 1811, Gia Long ban chiếu dụ vua Chân Lạp:

“Nay nước Phiên yên tĩnh, không cần để quân lại nữa, nếu có sự cần kíp phát quân cũng

chưa muộ n” [70, IV,114]. Vua Gia Long đã thể hiện thiện chí cố gắng khô ng can thiệp

sâu vào nội tình Chân Lạp. Trong một vài 81Ttình 81Thuống bắt buộc để thực hiện chiến lược

“cố phòng thủ” thì Việt Nam mới đem quân sang Chân Lạp. Thời Minh Mạng, Chân

Lạp cũng nhiều lần sang cầu cứu triều đình Huế... Năm 1841, Thiệu Trị đã bãi binh, rút

hết lực lượng quân Nguyễn về An Giang, nhưng 4 năm sau, Chân Lạp dưới ách thống trị

của Xiêm La, lại sang cầu cứu triều Nguyễn...

Như vậy, thực chất quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và Chân Lạp trong nửa

đầu thế kỷ nói lên lên vấn đề gì? Khách quan nhìn nhận thì thời Gia Long, triều Huế đã

có được ảnh hưởng uy thế của mình trên đ ất Chân Lạp. Dưới thời Gia Long, Chân L ạp

là nước “phiên thuộc” của Việt Nam nhưng Gia Long chủ trương không can thiệp vào

việc nước Chân Lạp. Các quan “bảo hộ” như Nguyễn Văn Thụy, rồi Nguyễn

Văn 81TNhân 81Tđều được ông rút về nước. Việc Chân Lạp để cho Chân Lạp tự giải quyết.

Trường hợp khi vua 81TChân 81TLạp xin vua Gia Long xét định trường hợp một bề tôi của

mình, Gia Long đã trả lời “Đấy là việc của nước phiên, đã có chính lệnh của nước

phiên, sao phải xin chỉ” [70,4,3I3]. Năm 1819, Gia Long bãi chức bảo hộ quan, theo

ông “nước Chân Lạp có bảo hộ là vì vua phiên 11Tmà 11Tđặt... sau này nếu họ 11Tcó cần thì sẽ cho

lại. Như thế thì thể thống triều đình được tôn mà ân uy đều rõ cả” 11T[70,4,390].

Thời Gia Long, triều Nguyễn không trực tiếp “bảo hộ” Chân Lạp, tuy vậy 11Tchúng ta

nhận thấy 6T11TChân 6TLạp 11Tít 6T11Tnhiều 6T11Tphụ thuộc vào ý kiến “chỉ đạo” t ừ 11THuế. Ví 11Tdụ 11Tđiển hình

nhất là việc Chân Lạp xin đổi quốc hiệu vào năm 1811, Gia Long không đồng ý, cho

rằng: “không cần thay đổi làm gì” và vua Chân Lạp phải nghe theo.

Từ năm 1821, đây là thời kỳ lực lượng 6T“thân 6TViệt Nam” nắm quyền lãnh đạo đất

nước Chân Lạp, do vậy 81Tmà 81Tquan hệ hai nước tiến triển thuận lợi. Lúc đầu Minh Mạng

cũng thực hiện chính sách đối ngoại như Gia Long “công việc nước ấy thì nhất thiết ủy

cho bọn vua phiên, quan phiên theo quốc tục mà làm” 21T[ 7 I 21T,5 21T,204]. Về 21Tsau, triều đình

130

Huế dần dần điều hành công việc 42Tở Chân 42TLạp. Quan quân Chân Lạp có tội, vua 81TChân 81TLạp

cũng phải 81Ttâu 81Tbáo lên triều đình Huế chứ không được xử tội,... Từ năm 1834 trở đi, sau

cuộc chiến tranh Việt - Xiêm La, triều Nguyễn tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam

trên đất Chân Lạp, Minh Mạng cử Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương sang Chân Lạp

làm quan “bảo hộ”.

Năm 1834, vua Chân Lạp là Nặc 6TChăn 6Tqua đời, do ông không có con trai nối dõi

nên triều Nguyễn 6Tđã 6Tđưa một nàng công chúa lên làm quận chúa “vua Việt Nam cử công

chúa Anh Mey [1834-1841) là con giòng thứ lên ngôi, quyết định này không được

thông báo cho vua Xiêm biết” [78, 124]. Minh Mạng đã mật dụ hai quan bảo hộ “vua

Chân Lạp chết, ta đã hạ dụ cho lũ chưởng cơ Trà Long và vệ úy La Kiên quyền giữ quốc

ấn làm việc dưới quyền 43Tcác 43Tkhanh” [71 30T,1530T,392]. Năm 1835, triều Nguyễn cho đổi đồn

An Nam ở Nam Vang thành Trấn Tây Thành, “Chân Lạp quốc ấn” cũng được niêm lại,

mọi công văn giấy tờ Minh Mạng cho phép Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương

“chuyển bảo ký thay cũng không sao” [71,16,110]. Sử Chân Lạp chép lại tình hình đất

nước thời này cũng thừa nhận “Việc triều chính đều đo các tướng lãnh, quan lại Việt

Nam điều khiển và thay đổi tất cả hệ thống hành chính Cao Miên...” [78,125].

Từ quan hệ mang tính “bảo hộ” hình thức, triều Nguyễn đã trực tiếp bảo hộ và

tham gia công việc nội chính của 30TChân 30TLạp. Coi 43TChân 43TLạp nội thuộc vào bản đồ Việt

Nam: “Chân Lạp dẫu là dân man nhưng cũng thuộc vào bản đồ và dân tịch của triều

đình” [71 30T,15,30T244]. Mỗi tỉnh của 30TChân 30TLạp có một viên quan Việt Nam cùng với quan

Chân Lạp cai trị. Vua Minh Mạng còn chia đặt lại hệ thống hành chính của Chân Lạp:

“Nay 6TChân 6TLạp đã 30Tvào 30Tbản đồ, Trẫm muốn chia đặt phủ huyện” [71,11,88] Kết quả sự

tham dự vào nội chính 30TChân 30TLạp của triều Nguyễn là “Tổng số tỉnh trong nước là 56 bị

giảm xuống còn 32 và mang tên Việt” [87,125].

Nhìn chung, từ năm 1841 - 1845, Chân L ạp không có vua trị vì, lúc này thực chất

quan hệ Việt Nam - 6TChân 6TLạp là quan hệ giữa nước “bảo hộ” và nước bị “bảo hộ”. Bản

chất của mối quan hệ của hai nước thay đổi, triều Nguyễn đã trực tiếp cai trị Chân Lạp.

Vua Minh Mạng đã khuyến dụ các quan lại Việt Nam phải khéo léo vỗ về 6Tdân 6TChân Lạp,

nhưng các quan quân triều Nguyễn đã phạm phải nhiều sai lầm gây nên bất mãn trong

lòng dân 43TChân 43TLạp. Hậu quả những sai lầm của quan quân nhà Nguyễn là người Chân

Lạp “coi ta 6Tnhư 6Tthù địch... 1Tl 0 1Tphủ, 23 huyện đều phản ta” [71, 23, 131]. Cuối cùng, vua

131

Thiệu Trị phải “bỏ 6Tđất Chân 6TLạp”, trên thực 6Ttế, 6Tphần lớn nội bộ cầm quyền Chân Lạp đã

ngã về phía Xiêm La, họ theo Xiêm La “không phải là họ thích nước Xiêm đâu, h ọ chỉ

mong khôi phục được Chân Lạp của họ mà thôi” [71, 23, 290]. Khi triều Nguyễn rút

quân, trả lại độc lập cho Chân Lạp, quan hệ hai nước Việt Nam - Chân Lạp trở lại bình

thường, Chân Lạp chịu 42Tsách phong 42Tvà thần phục triều Nguyễn như trước.

Có thể tạm thời chia quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và 30TChân 30TLạp nửa đầu

thế kỷ 19 thành hai thời kỳ:

- Từ thời vua Gia Long đến đầu triều vua Minh Mạng, đây là thời triều Nguyễn

thực thi đường lối ngoại giao hòa hoãn, thận trọng theo lời dụ của Gia Long: “phàm

việc ngoài biên phải bình lĩnh 42Tmà 42Ttrấn giữ, thong thả mà xem biến chuyển, cẩn thận chớ

nên gây hấn trước” [70,4,140]. Đó là đường lối đối ngoại hòa bình “không cần đánh mà

người ta phải khuất phục, đó mới là kế sách hay” [17, 409]. Thời kỳ này, quan hệ Việl

Nam - Chân Lạp là quan hệ kiểu “bảo hộ”, nhưng thực chất mọi công việc nội, ngoại trị

của Chân Lạp triều Nguyễn đều không can thiệp vào.

Từ giữa triều Minh Mạng trở đi, quan hệ láng giềng hòa bình bị xóa bỏ, triều

Nguyễn trực tiếp cai trị Chân Lạp và các quan lại Việt Nam phạm nhiều sai lầm, làm tổn

thương đến mối quan hệ truyền thống Việt Nam - Chân Lạp. Vua Thiệu Trị lên ngôi

phải ra lệnh rút hết quân Việt Nam về nước, chấm dứt một thời kỳ ngắn Việt Nam cai trị

Chân Lạp, trả lại sự bình thường trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam Chân Lạp.

4.3. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với tiểu vương quốc Lào - Vạn Tượng

trong nửa đầu thế kỷ 19:

4.3.1. Những bước đầu tiên trong quan hệ của Việt Nam với các tiểu quốc Lào:

Việt Nam và Vạn Tượng là hai nước cùng nằm trong một khu vực địa lý. Vạn

Tượng là một tiểu quốc trong xứ Lào. Theo sách “Đại Việt Địa dư toàn biên”, đời Lý,

Trần, Lê đều gọi là nước Ai Lao 42Tvà 42Tcòn gọi là nước Chiêu Viên Chăn. Giáp Việt

Nam 42Tở 42Tphía đông, giáp Chân Lạp ở phía nam, giáp Xiêm La 42Tở 42Tphía tây, và phía bắc

giáp Trung Quốc. Việt Nam và Vạn Tượng ở gần kề nhau và có chung ranh giới tự

nhiên 43Tlà các 43Tdãy núi chạy dài theo hướng tây bắc, đông nam, và bắc nam, dãy Pu-Đen-

Đinh, Pu Sam Sao và dải Trường Sơn 43T“các 43Ttỉnh Hưng Hóa, Thanh Hóa, Nghệ An,

Quảng Trị xưa của Việt Nam là những vùng có các châu, huyện giáp liền với Lào...”

132

[102, 4]. Do vị trí gần gũi như vậy, nên từ xa xưa hai nước đã có quan hệ, qua lại với

nhau.

Theo nghiên cứu của các nhà Đông Nam103T Á 103Thọc, trong giai đoạn 71Ttừ 71Tthế kỷ 71Tl 0 71Tđến

thế kỷ 15 ở Đông Nam Á ngoài những quốc gia đã được hình thành, phái triển, xuất

hiện thêm 2 quốc gia mới là Ayuthaya của người Thái và Lanxang của

người 42TLào 42T(khoảng thế kỷ X-XIV). Đến thế kỷ 17 thì vương quốc Lanxang khủng hoảng

suy vong. Sau năm 1694, vương quốc Lanxang phân hóa thành 3 tiểu quốc: Viên Chăn

(Vạn Tượng), Luông Pha Bang 54T(Nam 54TChưởng), và Chămpaxắc (Nam Lào). Đất nước

rơi vào tình trạng phân liệt trầm trọng và vương quốc Lanxang thực tế không còn tồn

tại. Từ đó, chính sử Việt Nam ghi chép về quan hệ những nước láng giềng phía Tây

nhưng là những tiểu quốc riêng biệí khác nhau. Từ năm 1795, Lào bị Xiêm La khống

chế, các xứ Lào tồn tại trong sự chia cắt biệt lập với nhau, trong 42Tđó 42TVạn Tượng là một

tiểu vương.

Với một biên giới chung khá dài, quan hệ hai nước được hình thành một cách tự

nhiên, các xứ Lào tuy bị chia cắt nhưng đều có “quan hệ ngoại giao riêng với nước

ngoài, chủ yếu là với Việt Nam, nhất từ năm 1802, khi triều Nguyễn được thiết lập”

[56, 101]. Thực tế, từ trước đó quan hệ ngoại giao Việt Nam và các tiểu quốc 42TLào 42Thình

thành trên nền tảng mối quan hệ tự nhiên của hai dân tộc sống gần gũi bên nhau. Theo

Thư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á phần Vạn Tượng: “Những vùng biên giới

Lào Việt là nơi đã diễn ra những mối quan hệ chồng chéo của nhân 42Tdân 42Thai nước

ở 6Tđây 6Tphổ biến tình trạng cư trú xen cài một dân tộc ở cả hai quốc gia” [102, 4].

Quan hệ ngoại giao ổn định bình 6Tthường 6Tgiữa triều Nguyễn và Vạn Tượng là sự kế

thừa, phát huy một truyền thống tốt đẹp trong bang giao với láng giềng từ xưa. Các vua

chúa phong kiến Việt Nam luôn tìm cách củng cố tình giao hảo với Lào.

Một biểu hiện cho tình đoàn kết thân ái Việt Nam - Lào là vào năm 1564, Trịnh

Kiểm đã gả con gái nuôi của mình cho vun Lan Xang Sethathirak. Lào và Việt Nam còn

là đồng minh của nhau khi hai nước tiến hành chiến tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền

của mỗi nước. Ví dụ như trong cuộc kháng chiến chống Xiêm La vào năm 1792, Lào đã

đề nghị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ trợ giúp, năm 1793 quân Việt đã tiến sang Lào

giúp bạn.

133

Vào cuối thể kỷ 18, khi Xiêm La tấn công 42Txâm 42Tlược các tiểu quốc Lào

(1778), 42Tcác 42Ttiểu quốc Lào 32Tđã 32Tnhờ Việt Nam giúp 32Tđỡ 32Tvà quân Việt Nam đã sang giúp,

theo GS. Lương Ninh thì Việt Nam giúp Lào: “cốt giúp người bạn láng giềng và giữ yên

biên giới phía tây của mình” [56,100]. Việc hỗ trợ nhau giữa các tiểu quốc Lào và Việt

Nam để đề phòng mọi mưu đồ của Xiêm La, đặc biệt là từ cuối thế kỷ 18 trở đi là

thường xuyên. Theo “Lịch 11Tsử 11Tbang giao Việt Nam - Đông Nam Á” của Phan Lạc

Tuyên: “sau khi đã trở nên cường thịnh, Thái Lan có ý muốn bành trướng đánh chiếm

Chân Lạp và Lào” [88, 75]. Lịch sử quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và các tiểu

quốc Lào chủ yếu là Vạn Tượng, cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, lúc êm ả, lúc

sóng gió trong suốt cả thời kỳ tồn tại và phát triển của lịch sử hai quốc gia này ở thời

cận đại.

4.3.2. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Vạn Tượng cho đến 1831:

Khi Gia Long còn là Nguyễn Ánh đã liên kết với Chiêu Ấn - quốc vương Vạn

Tượng để đánh Tây Sơn. Nguyễn Ánh sau khi thu Bắc Hà xong đã khen Chiêu Ấn “là có

công, lấy đất ở Trấn ninh ban cho” [73, 2, 620]. Liên minh Nguyễn Ánh Gia Long với

Vạn Tượng là tiền đề quan trọng hình thành nên nội dung, hình thức quan hệ ngoại giao

giữa triều Nguyễn và Vạn Tượng trong đầu thế kỷ 19. Từ năm 1786, khi Chiêu Ấn sang

chầu nước Xiêm La, nghe tin Gia Long đang lưu trú tại Vọng Các thì “Chiêu Ấn nhân

tới yết kiến, lòng kính mộ. Khi về nước nghe tin Vua đã lấy lại Gia Định, thường muốn

sai sứ” [73,2,618]. Cơ hội trao đổi sứ đã đến vào 1801, Vạn Tượng mừng thắng lợi của

Gia Long bằng cách gởi sứ sang cống 42Tvà 42Tđem dâng địa đồ Nghệ An và Phú Xuân. Theo

“Đại Nam thực lục”: “Nước Vạn Tượng sai sứ sang cống (chiêng đồng 32Tl0 32Tcái, sừng tê

trắng 1 tòa), dâng địa đổ Nghệ An, Phú Xuân” [70,11,385]. Tháng 12 năm 1801 “Vạn

Tượng sai sứ mang quốc thư đến hành tại Động Hải...” [70,11,454]. Năm 1802 nhân dịp

Gia Long xưng đế, quốc vương Vạn Tượng sai sứ mang lễ vật sang mừng và thực hiện

lễ cống. Sách “Chính biên liệt truyện” ghi lại: “Gia Long năm thứ I (1802) mùa thu,

Bắc Hà dẹp yên cả báo cáo trong ngoài, Chiêu Ấn sai sứ mang quốc thư đến mừng”

[73,11,620]. Trong năm này chính sử Việt Nam cũng ghi lại một số tiểu quốc Lào khác

như Nam 6TChưởng, 6TNam Lào cũng đến mừng Gia Long, tự nguyện triều cống và sau đó

xin nội thuộc.

134

Nhìn chung, khi Gia Long thắng lợi hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, uy

thế được khuếch trương, thì 43Tcác 43Ttiểu quốc Lào, đặc biệt là Vạn Tượng, tìm cách thiết

lập quan hệ ngoại giao dưới hình thức “xưng thần”, mong muốn có quan hệ hòa hiếu tốt

đẹp với triều Nguyễn, tranh thủ mối quan hệ này để xây dựng, phát triển lực lượng

trong nước nhằm thoát khỏi ảnh hưởng và sức ép của Xiêm La.

Theo Thư lịch cổ Việt Nam về Đông Nam Á thì Vạn Tượng “Do có ý đồ liên kết

với Việt Nam trong kháng chiếu chống Xiêm nên lừ năm 1805 đến năm 1824 đã 8 lần sứ

giả Vạn Tượng sang giao hiếu với nhà Nguyễn” [102, 10]. Còn triều Nguyễn như đã đề

cập ở trước vẫn có ý “coi 43Tcác 43Tmường ở Lanxang là thuộc quốc” [102, 10] nên mỗi khi

sứ giả Vạn Tượng đến mừng hay cống, hoặc ở Vạn Tượng có chuyện “hiếu hỉ”, triều

đình đều cử sứ đến chúc mừng, ban tặng hoặc chia buồn với Vạn Tượng.

Xu hướng dựa vào triều Nguyễn để chống Xiêm La phát triển dưới triều vua Châu

A Nụ. Năm 1804 Chiêu Ấn qua đời, em Chiêu Ấn lên ngôi, đó là A Nụ. Châu A Nụ sai

sứ sang Việt Nam báo tang và triều đình Huế cũng cử sứ bộ qua phúng điếu rất chu đáo.

Theo sách Liệt truyện, “Năm thứ 6T2 6TChiêu Ấn từ nước Xiêm trở về rồi ốm chết, người

Xiêm lập em là A Nỗ làm quốc vương. A Nỗ sai sứ sang ta báo tang, vua sai cai cơ là

Nguyên Văn 6TUẩn 6Tvà hàn lâm là Lê Văn Phú sang phúng (bạc 6T100 lạng, 6Tvải 6T100

tấm, 6Tsáp 6T200 can)” 6T[73 6T,11,620].

Hai nước Việt Nam và Vạn Tượng kể từ triều Gia Long đã có sự trao đổi sứ thường

xuyên, mối liên hệ được thiết lập một cách chặt chẽ, thân thiết. Năm 1819, Gia Long

băng hà, Vạn Tượng xin sang 6Tdâng 6Tlễ tiến hương, theo đúng nguyên tắc bang giao và

chức phận “phiên thuộc”. Theo nhận xét của Gia Long về mối quan hệ Việt Nam - Vạn

Tượng thì “nước Vạn Tượng không bỏ lễ thờ kính nước lớn. Kính thuận đáng khen”

[70,111,260]. Trong các tiểu quốc Lào, chỉ có Vạn Tượng là triều Nguyễn có quan hệ

khăng khít hơn cả. Ngoài ra, các tiểu quốc khác như: Trấn Ninh, Nam Chưởng, Luang

Phrabang cũng đều cố cống sứ đến 30TViệt 30TNam. Nhưng Gia Long cho là họ đến thần phục

“thực dối chưa rõ, sai trả lại đồ cống cho hậu đãi rồi bảo về” [70,111,317]. Triều

Nguyễn cũng không đặt ra các nguyên tắc nghiêm ngặt đối với các thuộc quốc, hay

thuộc Man. Khi Gia Long qua đời, Vạn Tượng không biết chính xác nên không kịp

đàng lễ. Năm 1821, lúc Vạn Tượng cử sứ đến Việt Nam cống theo 30Tlệ 30Tthường mới rõ.

135

Năm sau (1822) “nước Vạn Tượng sai sứ đến Nghệ An dâng biểu xin vào lễ tiến hương,

Vua cho là việc quốc tang đã xong, cho mi ễn” [71,6,15].

Từ thời Gia Long trở đi, quan hệ ngoại giao giữa Việl Nam và Vạn Tượng đang

tiến triển bình thường thì cuộc chiến tranh Vạn Tượng với Xiêm La bùng nổ, đã làm

thay đổi nội dung của mối quan hệ này và ảnh hưởng đến các mối quan hệ trong khu vực

lúc đó.

Châu A Nụ, vị quốc vương Vạn Tượng có tinh thần yêu nước muốn thoát khỏi ảnh

hưởng của Xiêm La, 30Tđã 30Tchuẩn bị cho một cuộc kháng chiến chống Xiêm. Năm 1821,

Châu A Nụ vận động vua Xiêm cho con trai mình làm quốc vương tiểu quốc

Chămpạxắc, và chờ cơ hội để liên kết các lực lượng chống Xiêm La. Năm 1825, khi

Châu A Nụ sang Xiêm La chầu và dâng lễ tiến hương cúng vua RaMa II, ông chứng

kiến tận mắt sự bối rối của triều đình Vọng Các trước sức ép của thực dân Anh, (1826

Anh tấn công tăng sức ép với Xiêm). Trở về nước, A Nụ quyết định chiến tranh với

Xiêm La. Năm 1827 “nước Vạn Tượng cùng nước Xiêm động binh đánh nhau”

[71,8,203]. Kết quả đến tháng 4 năm 1827, Vạn Tượng thất bại, vua Châu A Nụ thế

cùng phải chạy sang Việt Nam dâng lễ cống và cầu viện. Ngày 14 tháng 5 năm 1827

trấn thủ Nghệ An đã khẩn tấu về triều đình Huế về việc vua Lào bị Xiêm truy kích phải

đem gia quyến chạy sang Việt Nam cầu cứu. Minh Mạng triệu tập đình thần (gồm có 29

vị quan tham gia) bàn việc giúp Vạn Tượng. Vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc này là

làm sao giúp Vạn Tượng mà không đối lập với Xiêm La.Ý kiến của đình thần chia làm

hai xu hướng khác nhau: Một số chủ trương đứng về phía Vạn Tượng chống Xiêm La.

Mục đích của xu hướng này nhằm phòng vệ vùng địa đầu trọng yếu của Việt Nam. Tiêu

biểu cho xu hướng này là Tả quân Lê Văn Duyệt , ông cho rằng; “giúp Vạn Tượng mà

chống Xiêm La tưởng là hơn cả”; “Nước Vạn Tượng giữ cống đã lâu, làm phiên phụ

cho ta, thế cùng phải kêu oan, nghĩa láng giềng không thể cự tuyệt” [71,8,247]. Hơn

nữa bộ phận chống Xiêm La còn cho “Nghệ An là xương sống của nước ta, không nên

bỏ”. Xu hướng còn lại trong đó có vua Minh Mạng chọn giải pháp trung lập. Minh

Mạng nhận định Xiêm La là nước có thế lực 6Tngang 6Tta, 6Tnếu 6Tđối lập với Xiêm La, “chiến

tranh với họ là nguy”... Thái độ của triều đình Huế khiến cho phần đông giới nghiên

cứu nhận xét: Nhà Nguyễn “tránh né” Xiêm và “ bỏ rơi Vạn Tượng” v.v...

136

Thực tế lịch sử đã chứng minh vua Minh Mạng chọn giải pháp trung lập là hợp lý

và đúng đắn nhất. Minh Mạng đã khuyên đình thần “nên yên tĩnh để đợi”, không nên

đứng về phía này mà tuyệt giao với phía kia. Thái độ đối với Vạn Tượng của vua

Nguyễn hoàn toàn không có tính cách “kẻ cả”, “nước lớn”. Theo sách “Đại Nam thực

lục”: “Vạn Tượng là thuộc quốc của ta, khốn chạy về với ta, triều đình không nỡ ngồi

xem, vì họ mà ra quân là nghĩa giúp người có nạn” [71, 32T8, 32T274]. Và triều Nguyễn hành

động thận trọng, đã ra lệnh cho lính Việt Nam “đến gần biên giới đóng quân lại và đưa

thư cho nước Xiêm nói rằng họ cùng nước Vạn Tượng đánh nhau không được vượt sang

bờ cõi thuộ c Man của ta “ [71,8,247] đồng thời khẳng định nếu Xiêm La xâm phạm bờ

cõi lãnh thổ Việt Nam thì triều Nguyễn sẽ đem quân đưa vua Vạn Tượng về nước. Đây

là hành động rõ ràng đúng đắn để giải quyết mối quan hệ tay ba: Việt Nam - Vạn Tượng

- Xiêm La. Để thể hiện nghĩa cử của triều Nguyễn và làm yên lòng Xiêm La, Minh

Mạng dứt khoát lập trường “Vạn Tượng là bầy tôi của hai nước”. Minh Mạng liền đó

cho một đạo quân 3000 người, 20 thớt voi dưới sự chỉ huy của Thống chế Phan Văn

Thúy, cùng Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào đưa Châu A Nụ về Vạn Tượng. Sách

Đại Nam thục lục ghi lại: “quân ta đến biên giới nếu người Xiêm kháng cự, lấy nghĩa

lớn thì bảo cho họ thôi. Nếu họ còn dám gây sự thì ta có cớ” [71,10,47] . Tư tưởng nhân

nghĩa của Nho giáo chi phối sâu sắc đường lối trị nước và đối ngoại của triều Nguyễn.

Đứng trước mâu thuẫn của Vạn Tượng và Xiêm La, Minh Mạng tìm một cách giải quyết

khá thỏa đáng ngay chính tại thời điểm lịch sử ấy: Giúp Vạn Tượng, nhưng không gây

hiềm khích với Xiêm La. Đối với cuộc chiến tranh Vạn Tượng - Xiêm La, triều Nguyễn

đã giữ được thái độ trung lập. Đó là một thái độ ứng xử ngoại giao thích hợp, thông

minh và không muốn chiến tranh, nhưng sẵn sàng chiến đấu nếu lãnh thổ bị xâm phạm.

Không phải bất kỳ một nhà nước phong kiến đương thời nào cũng có cách giải quyết

sáng suốt và khôn khéo như vậy.

Khi Châu A Nụ tiếp tục chiến tranh chống Xiêm, và lại cầu cứu triều Nguyễn,

Minh Mạng cho rằng giúp Vạn Tượng vậy là “đủ nhân đủ nghĩa” rồi nên cự tuyệt không

giúp Vạn Tượng nữa. Tuy vậy, xét nguồn gốc, tính chất của cuộc xung đột Vạn Tượng

- Xiêm La, triều Nguyễn cũng phải thừa nhận “Dẫu là A Nỗ không khéo mềm mỏng

nhưng cũng bởi tướng 30TXiêm 30Tsinh sự trước” [71,19,76]. Do đó, Minh Mạng trả lời với A

Nụ là “Triều đình còn đương 11Txét 11Tkỹ tình hình động tĩnh mới có cách xử trí” và để cho

137

Vạn Tượng trị giữ lấy nước. Cuối cùng, triều Nguyễn tìm cách giảng hòa Vạn Tượng và

Xiêm La, Minh Mạng dụ cho A Nụ tạ lỗi và trả khí giới cho Xiêm nguôi giận. Theo “Đại

Nam thực lục”: “Việc 11Tnước 11TVạn Tượng đã sai A Nỗ tạ lỗi. Nên chuyển đạt lên vua Xiêm

tha tội cho nó, khiến nó làm phiên thuộc mãi mãi” [71,19,76] . Chủ trương giảng hòa,

nhưng Minh Mạng tích cực chuẩn bị đề phòng các ngã biên giới và không tự mình gây

sự trước. Có thể phê phán thái độ triều Nguyễn lúc này là giúp không ra giúp, lưng

chừng, tránh né, nhưng so với thời điểm lịch sử lúc đó, triều Nguyễn phải đối phó với

nhiều việc trong và ngoài nước, hơn nữa Minh Mạng lại ở vào thế khó

xử 30T“Cái 30Tnghĩa 11Ttriều 11Tđình đối với nước láng giềng sao lại có thể gây trước mối động

binh”. Hơn nữa, triền Nguyễn cũng không muốn lao vào một cuộc chiến tranh mà chắc

chắn sẽ gây phức tạp cho quan hệ khu vực lúc đó, và đem lại nhiều khó khăn cho đất

nước mình.

Cuối năm 1828 cuộc chiến tranh Vạn Tượng - Xiêm La kết thúc. Năm 1831 vua

Xiêm Ra Ma III bỏ hình thức bảo hộ chuyển sang thống trị trực liếp Vạn Tượng. Theo

“Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á” của GS Lương Ninh: “Viên 30TChăn 30Tbị chiếm lại cuối

năm 1828, một người trong hoàng tộc được đưa lên ngôi bù nhìn 42Tở 42TViên 30TChăn. 30TĐến năm

1831, tiến thêm một bước nữa, vua Xiêm Ra Ma III đã xóa bỏ hình thức bảo hộ mà

chuyển sang hình thức cai trị trực tiếp đối với các mường Lào” [56, 107]. Quan hệ Vạn

Tượng và triều Nguyễn do tình hình 42Tở 42TVạn Tượng nên bị gián đoạn một thời gian khá

dài trong lịch sử thời cận đại.

Trong quan hệ giữa Việt Nam và Vạn Tượng, triều Nguyễn đã đi theo đường lối

đối ngoại “nhu viễn” và thường sách phong hay ban sắc mệnh cho nước lệ thuộc. Trong

suốt chiều dài của lịch sử quan hệ Việt Nam - Vạn Tượng, chúng ta không thấy có ghi

lại sự kiện Vạn Tượng sai sứ đến Huế xin 43Tsách 43Tphong hoặc có ghi chép gì về lễ sách

phong của triều Nguyễn đối với quốc vương Vạn Tượng. Nội dung quan hệ ngoại giao

giữa Việt Nam và Vạn Tượng chỉ thấy thể hiện qua nghĩa vụ triều cống, triều kính của

nước này đối với Việt Nam và việc trao đổi sứ giữa hai nước để bàn bạc, thảo luận về

những vấn đề giữa hai nước trong khu vực.

Năm 1801, để 22Tnối 22Tlại tình thân giao, vua Vạn Tượng sai sứ sang cống để xin hội

quân.

138

Cuối năm 1802, nước Vạn Tượng lại dâng phẩm vật địa phương và dâng một lễ

cống.

Năm 1805, quốc vương Vạn Tượng là Châu A Nụ sai sứ đến triều cống, triều đình

Huế đã đặt triều nghi ở điện Thái Hòa. Trong lễ cống này, Vạn Tượng xin 60T3 60Tnăm chịu

cống một lần, chịu phận “phiên thần”. Vua Gia Long y theo lời tâu đó sai bộ lễ bàn định

lệ cống, lấy năm 1805 làm năm đầu, cứ 3 năm 1 lần. Theo “Đại Nam hội điển sư lệ”: “về

kỳ hạn tiến cống của nước Vạn Tượng cứ 3 năm 1lần, lấy năm Sửu, năm Thìn, năm Mùi,

năm Tuất làm hạn...” [62, 464].

Như vậy, có thể nói rằng trước năm 1805, tuy Vạn Tượng nhiều lần sai sứ dâng

cống phẩm nhưng không tuân theo mội luật lệ nào được ấn định từ triều đình Huế.

Theo “ Đại Nam thực lục”: thành phần cống phẩm của Vạn Tượng tiêu biểu như:

“voi đực 2 con, sừng tê 2 tòa, ngà voi 2 chiếc, vỏ quế 5 cân” [7l, 111, 260], như thế so

với lệ định có phần giảm [70,111,262]. Gia Long cũng quy định thành phần sứ bộ của

Vạn Tượng như sau: 1 chánh sứ, 1 phó sứ, 3 tù trưởng, 2 thông ngôn, 30 người đi theo.

Tổng cộng hạn định chừng 38 người. Cùng với quy định thành phần đi sứ là quy định lộ

trình của sứ Vạn Tượng, triều Nguyễn phái trạm Nghệ An có nhiệm vụ hướng dẫn sứ đi.

Dưới triều Gia Long, Vạn Tượng có những lần cống sau: Vào năm 1801, 1802 (2

lần), 1805, 1809, 1811 (2 lần), 1814, 1817. theo nghiên cứu của Tsuboi - một học giả

Nhật thì dưới thời Gia Long: “Triều đình Vạn Tượng cho sứ sang năm 1805 và 1809”

[110, 135]. Theo chúng tôi, số lần cống của Vạn Tượng nhiều hơn nếu tính từ năm 1805

thì ít nhất cũng 6 lần sứ Vạn Tượng sang cống Việt Nam để thực hiện nghĩa vụ “phiên

thuộc”.

Năm 1821, nước Vạn Tượng sang cống như lệ thường, lúc này Gia Long 6Tđã 6Tbăng

hà, do vậy năm 1822, Vạn Tượng lại sang dâng lễ tiến hương. Vua Minh Mạng đã miễn

cho sứ Vạn Tượng lễ này. Năm 1824, khi Vạn Tượng sai sứ đến cống, Minh Mạng

xuống chỉ “lần này sứ thần Vạn Tượng đến tiến cống, trừ ra l0 người đến kinh bái yết,

còn tù trưởng, man đinh cộng 27 người, hiện lưu ở trấn Nghệ An... gia ơn c ấp cho mỗi

người 21T1 21Tquan tiền, 1 phương gạo để chi dòng tỏ ý thể tối cứu giúp ngoại phiên” [62,

486-487]. Sau lễ cống này do tình hình V ạn Tượng có chiến tranh nên vua Minh M ạng

miễn cho lất cả 42Tcác 42Tlễ cống.

139

Khi sứ Vạn Tượng đến Việt Nam, triều đình Huế cũng khoản đãi, cung đốn, thiết

tiệc rất chu đáo. Lệ khoản đãi cho sứ Vạn Tượng được định từ thời Gia Long thứ 4 gồm:

trâu, gạo, trầu, rượu, tiề n ăn hàng ngày. Đến năm Gia Long thứ 8, lệ này được định lại,

khi sứ Vạn Tượng đi về ngang qua trấn Nghệ An, dinh Quảng Đức, Quảng Trị đều được

cung cấp gà, vịt, gạo, mắm, tiền... Lệ này được duy trì mãi về sau. Ngoài ra, triều

Nguyễn còn có lệ 30Tđãi 30Tyến, cho nghe hát, đối với sứ Vạn Tượng.

Sứ Vạn Tượng cũng như sứ các tiểu quốc khác, khi sang Việt Nam đến Huế, phải

chờ triều Nguyễn định ngày tốt để làm lễ. Trong khoảng thời gian chờ đợi, sứ bộ ấy

phải tập nghi thức. Khi về lại nước mình, sứ Vạn Tượng phải làm lễ trước sân cửa Ngọ

Môn kinh thành Huế; để nhận từ triều đình Huế sắc thư gởi cho quốc vương Vạn Tượng

và phẩm vật thưởng cấp của triều Nguyễn.

Trong quan hệ hai nước, ngoài lệ triều cống của phiêu thuộc, Việt Nam 42Tvà 42TVạn

Tượng luôn có sự trao đổi sứ bộ ngoại giao với những nội dung như: thăm hỏi, hiếu hỉ,

hội lễ. Chúng ta biết triều Nguyễn có đặt lệ Tuất điển, tức là điển lệ thường viếng và

giúp đỡ ... Gia Long năm thứ 3 vua Vạn Tượng mất, em là A Nỗ dâng biểu cáo tang, vua

Gia Long ra chiế u chỉ cho dụ tế và cử một đoàn sứ Việt Nam sang làm nhiệ m vụ dụ tế.

Việc trao đổi sứ giữa Việt Nam và Vạn Tượng giống như việc trao đổi sớ giữa Việt

Nam và một số nước 83Tkhác, 83Tcòn mang nội dung giao lưu trao đổi giới thiệu hàng hóa, đặc

sản của từng nước cho nhau. Sau khi nhận cống 6Tphẩm 6Tcủa Vạn Tượng, phía Việt Nam

bao giờ cũng “trao đổi” trở lại với hình thức ban tặng. Lệ ban tặng cũng định ra từ năm

1805. Theo “Đại Nam hội điển sự lệ”: “Năm thứ 4 chuẩn y lời đề nghị: theo lệ thưởng

quốc trưởng nước Vạn Tượng lụa sợi se đỏ 5 tấm, trừu trắng 20 tấm, lụa mỏng các màu,

và vải trắng đen mỗi thứ 50 tấm...” [62,418].

Ngoài Vạn Tượng, còn có một số tiểu quốc Lào khác như Nam Chưởng, Trấn

Ninh... thỉnh thoảng cũng có sứ bộ đến cống cho triều Nguyễn. Quan hệ giữa triều

Nguyễn và các tiểu quốc (Mường) này khá lạnh nhạt. Trường hợp Nam Chưởng chẳng

hạn, vào tháng 9 năm 1829 lúc sứ bộ Nam 6TChưởng 6Tđến cống, sách “Đại Nam thực lục”

ghi lại: Minh Mạng cho là “Nam 6TChưởng 6Tnăm xưa qui phục, rồi lại thôi, thực là mất cái

lễ nước nhỏ thờ nước lớn...” [71,20,116]. Đến năm 1838 Minh Mạng ra lệnh nếu sứ

Nam Chưởng lại đến: “chuẩn cho đuổi về ngay” [71,20,44] .

140

Sau đó, Nam 6TChưởng 6Tthường cho quân đến quấy nhiễu vùng biên giới của Việt

Nam. Thực tế, sau 1831 Vạn Tượng và một số tiểu quốc khác của Lào trở thành nước

phụ thuộc Xiêm La. Ảnh hưởng triều Nguyễn ở các Mường Lào (kể cả Vạn Tượng) trở

nên lỏng lẽo. Các tiểu quốc Lào như 6Tđã 6Tđề cập luôn lấn cướp, quấy nhiễu vùng biên Việt

N 27Tam 27Tcho mãi đến thời Tự Đức, Tự Đức phải khó khăn lắm mới dẹp yên vùng biên viễn

giáp với các Mường Lào.

4.3.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với tiểu vương quốc Lào

- Vạn Tượng trong nửa đầu thế kỷ :

Quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và Vạn Tượng trong đầu thế kỷ 19 có một

khởi đầu thuận lợi, êm đẹp. Nhìn về hình thức đây là mối quan hệ “nước lớn - nước

nhỏ”.

Trong thời Gia Long, tuy trong quan hệ Việt Nam - Vạn Tượng, Việt Nam là

“thượng quốc”, nhưng triều Nguyễn không 42T hề có 42Tmột sự can thiệp nào vào nội tình của

Vạn Tượng. Gia Long còn trả lại Trấn Ninh cho Vạn Tượng. Thực chất quan hệ giữa hai

nước này mang tình láng giềng tương trợ, giúp đỡ nhau không có sự “đe dọa, không

khinh miệt...”. Cũng không hẳn 42Tlà 42Tthời này, triều đình Huế luôn tìm cách “xâm lược”

Vạn Tượng. Việt Nam khẳng định tư thế một vương quốc phong kiến độc lập, vững

mạnh, nhưng không vì thế mà làm mất hòa khí với các nước láng giềng, đặc biệt là

trong quan hệ với Vạn Tượng. Theo tác phẩm “Việt Nam - Đông Nam Á quan hệ lịch sử

- văn hóa” thì: “Quan hệ giữa nhân dân hai nước rất mật thiết, nên trong lịch sử mỗi

nước, mỗi khi vận mệnh mỗi nước hưng hay suy, đều có ảnh hưởng nhất định đến nước

láng giềng của mình” [107,67].

Gia Long khi lên ngôi, xuất phát từ thực tiễn của đất nước và khu vực, từ yêu cầu

xây dựng triều đại v.v..., ông 6Tđã 6Tthực hiện một đường lối đối ngoại thật sự “nhu viễn”

đối với Vạn Tượng.

Minh Mạng kế vị ngai vàng lúc Việt Nam đang có uy tín 42Tvà 42Tảnh hưởng trên đất

Chân Lạp, nhưng chính lúc đó, quan hệ giữa Việt Nam - Xiêm La bắt đầu khó khăn. Khi

những khó khăn trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La tạm ổn, thì năm 1827 chiến tranh

Vạn Tượng - Xiêm La bùng nổ. Triều Nguyễn lúng túng trong mối quan hệ tay ba này,

cuối cùng Minh Mạng chọn giải pháp tình thế là “nhẫn nại hòa dịu”. Thái độ trên của

141

triều Nguyễn bị lên án là bỏ rơi Vạn Tượng, né tránh Xiêm La, “bảo thủ giữ mình” “tầm

thế nước lớn” v.v... Tất cả những ý kiến phê phán về thái độ của triều Nguyễn trong vấn

đề Vạn Tượng thời Minh Mạng đều có những khía cạnh hợp lý, song phần nào chưa thật

thỏa đáng. Tiêu bi ểu là nhận định của nhà nghiên Nguyễn Văn Sơn. 6TTừ trước 6T1975 ông

cho thái độ của Minh Mạng “trước giúp sau bỏ” đối với Vạn Tượng là “sự bất tín đối

với một nước nhỏ dưới quyền bảo hộ của mình, vừa là điều đáng buồn cho quốc sỉ”

[75,398]. Lý giải cho cách xử trí này, trước hết chúng ta phải nhận thấy rằng: triều

Nguyễn từ khi Gia Long lên ngai đã cố gắng thiết lập và duy trì quan hệ tốt đẹp với

Xiêm La 42Tvà 42TVạn Tượng... Song vấn đề gây ảnh hưởng trên đất chân Lạp 42Tvà 42T43TV ạ n 43TTượng

luôn cản trở trong bang giao Việt - Xiêm La 11Tsuốt 11Tcả thời cân đại. Chính vì thế, khi Vạn

Tượng xung đội với Xiêm La, cầu cứu triều Nguyễn, Minh Mạng 21Tđã 21Trơi vào một hoàn

cảnh khó xử. Làm sao để giúp đỡ Vạn Tượng mà không làm mất hòa khí với Xiêm La là

mội việc khó. Minh Mạng khuyên Vạn Tượng “làm tôi thờ cả hai nước” cũng với mục

đích giảng hòa mâu thuẫn Vạn Tượng - Xiêm La, đồng thời đây cũng là cách tốt nhất để

tránh chiến tranh, và dung hòa hai lực lượng bên ngoài mà Vạn Tượng nhờ can thiệp.

Bên cạnh việc cố gắng duy trì hòa bình trong quan hệ Việt Nam, Vạn Tượng, Xiêm La,

triều Nguyễn tích cực phòng bị đất nước. Chống xâm lăng nhưng không hiếu

chiến 42Tlà 42Tđặc trưng của đường lối đối ngoại triều Nguyễn. Tuy có những hạn chế trong

quan hệ với một số nước láng giềng, nhưng dù sao triều Nguyễn cũng đã “lấy nghìn lý”

để tiến hành một số cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì với Xiêm La, để dàn xếp những

vấn đề trong quan hệ quốc tế lúc đó, c ố tránh họa binh đao.

Trong quan hệ với Vạn Tượng, Việt Nam cũng không hẳn là “bất tín”, Vạn Tượng

nhờ giúp, triều Nguyễn đã giúp, dù rằng sự giúp đỡ đó có một giới hạn nhất định. Do

vậy, kết luận mang tính khẳng định là triều Nguyễn “bất tín” có phần chưa thật chính

xác.

Thực chất, trong đường lối ngoại giao của triều Nguyễn riêng đối với Vạn Tượng,

cũng không hoàn toàn mang tính chất “đối ngoại xâm lược”, hoặc “gây chiến”... bởi lẽ

trong biên niên lịch sử quan hệ giữa triều Nguyễn và Vạn Tượng nửa đầu thế kỷ 19, tất

cả các vụ việc gây căng thẳng trong quan hệ hai nước hầu như không phả i do phía V iệt

Nam tạo nên.

142

Đường lối đối ngoại của các vua đầu thời Nguyễn về cơ bản mang tính chất mềm

dẻo, thận trọng, phản ánh ý thức hảo vệ hòa bình, an ninh quốc gia và khu vực. Ông vua

Nguyễn dường như “cứng rắn” trong nội trị và ngoại giao 43Tlà 43TMinh Mạng, khi giải quyết

các vấn đề trong quan hệ khu vực vẫn được nhận định là “không muốn gây việc binh

đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc” [29,219]. Phương thức xử trí của

Minh Mạng không thiên kiến, không đứng hẳn về Vạn Tượng, cũng không nghiêng về

Xiêm La, nhất quán trong đối sách trung lập.

Đến nửa sau của thố kỷ 19, khi liên thực tế “nước Lào đã bị biến thành một tỉnh

của Xiêm, vua Lào thực tế chỉ là 43Tbù 43Tnhìn” [15,269], thì quan hệ ngoại giao giữa hai

nhà 22Tnước 22Tphong kiến Việt Nam - Vạn Tượng không còn tồn lại. Việt Nam, Vạn Tượng,

Xiêm La... từ giữa thế kỷ 19 đối diện với nhiều thực tế khó khăn, đặc biệt 43Tlà 43Tsự uy hiếp

của tư bản phương Tây ngày càng gia tăng, triều Nguyễn đã uyển chuyển khéo léo lách

qua những thác ghềnh trong các mối quan hệ khu vực, duy trì sự 43Tổn 43Tđịnh trong quan

hệ 43Tcác nước ở Đông 43TNam Á. Đây là đường lối hợp lý và có thể biện minh phần nào cho

những hạn chế trong khi thực hiện đường lối đó của triều thần nhà Nguyễn.

143

KẾT LUẬN

1. Những cố gắng của triều Nguyễn trên lĩnh vực ngoại giao trong nửa đầu thế kỷ 19:

Triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 là một vương triều phong kiến khá vững

mạnh, chính quyền phong kiến trung ương đã ý thức được tầm quan trọng của những

mối quan hệ với các quốc gia láng giềng và với phương 42TTây. 42TĐể bảo vệ an ninh chính trị

và độc lập chủ quyền của đất nước, các vua đầu triều Nguyễn đã hoạch định một đường

lối đối ngoại khá hợp lý, trong hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ 19.

Năm 1804, khi Gia Long xưng đế, tình hình trong nước và bên ngoài

không 22Tcho 22Tphép ông có một đường lối đối ngoại cứng rắn. Gia Long cần có một môi

trường quốc tế hòa bình, ổn định. Đó là lý đo Gia Long đặc biệt khéo léo, mềm dẻo khi

xử lý các vấn đề trong quan hệ với Trung Quốc. Đường lối đối ngoại của Gia Long

trong quan hệ với nước láng giềng hùng mạnh này thể hiện tinh thần “trong thì xưng đế,

ngoài thì xưng vương”. Việt Nam nhún nhường chịu phận “chư hầu”, tôn xưng Trung

Quốc là “Thiên triều” nhằm bảo đảm sự bình yên trong quan hệ Việt - Trung. Kế thừa

chính sách ngoại giao của tổ tiên xưa, triều Nguyễn đã trung thành 78Ttuân 78Ttheo phương

châm ngoại giao: cương nhu kết hợp đúng lúc, đúng chỗ, quốc thể bảo tồn, tôn trọng

nước lớn, nhưng giữ vững độc lập, xây đắp hòa hiếu lâu dài.

Giải quyết thỏa đáng mối quan hệ với Trung Quốc là mối bận tâm hàng đầu của

nhà nước phong kiến Việt Nam qua các thời đại.

Đầu thế kỷ 19, quan hệ Việt - Trung không sóng gió, một phần còn do hoàn cảnh

của Trung Quốc lúc đó không cho phép Trung Quốc can thiệp xâm lược các nước nhỏ

láng giềng. Mặt 43Tkhác, 43Tchính quyền phong kiến Việt Nam cũng luôn tuân thủ các luật lệ

ngoại giao trong quan hệ với Trung Quốc. Kiểu ứng xử ngoại giao uyển chuyển mềm

mỏng của triều Nguyễn đối với Trung Quốc còn do đặc điểm địa chính trị và địa lịch sử

quy định. Trong thời trung đại hoạt động ngoại giao của Việt Nam chủ yếu là với Trung

Quốc. Mục tiêu của triều đình Huế cũng giống như các triều đại trước. Đó là giữ được

quan hệ hòa bình với nước lớn Trung Quốc và trong nửa đầu thế kỷ 19 triều Nguyễn

làm được. Điều này đã đảm bảo sự yên ổn vùng biên giới phía Bắc. Trong quan hệ với

Trung Quốc, triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng để tạo nên sự ổn định trong khu vực.

Việt Nam nằm sát kề một nước lớn trong khu vực mà nước lớn ấy lại luôn thi hành một

144

chính sách đối ngoại xâm lấn bành trướng đối với các nước nhỏ láng giềng, cho nên

triều Nguyễn vào đầu thế kỷ 19 trước hết phải có một đối sách mềm dẻo để vượt qua

thách thức tự nhiên và chính trị này.

Đối với Vạn Tượng, Chân Lạp: Trong đầu thế kỷ 19 quan hệ giữa triều Nguyễn

với láng giềng có lúc căng thẳng dẫn tới chiến tranh. Trong quan hệ giữa các vương

quốc phong kiến xưa việc xung đột chiến tranh là chuyện bình thường. Quan hệ Việt

Nam với Chân Lạp và Vạn Tượng cũng nằm trong quy luật đó. Về cơ bản các vua

Nguyễn đã có một chiến lược ngoại giao nhằm bảo đảm an ninh cho vùng biên ải phía

tây và 43Ttây 43Tnam của tổ quốc. Triều Nguyễn đã thể hiện được vị thế của Việt Nam trong

khu vực, đã nâng cao thanh thế uy danh của đất nước trong quan hệ khu vực lúc đó.

Đối với Xiêm La: Xiêm La là quốc gia tương đồng với nước ta về nhiều mặt, nên

triều Nguyễn phải có một đường lối đối ngoại nhằm đảm bảo quan hệ ngoại giao hòa

hiếu lâu đài. Qua các sự kiện trong quan hệ ngoại giao Việt - Xiêm nửa 86Tđầu 86Tthế kỷ 19,

chúng ta thấy rằng triều Nguyễn đã biết 86Tá p 86Tdụng một cách khéo léo phương châm

ngoại giao “không bỏ bạn tìm thù”, trong cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình Băng

Cốc. Trong quan hệ với Xiêm , triều Nguyễn bao giờ cũng đặt vấn đề đấu tranh ngoại

giao lên hằng đầu. Có những tình huống buộc triều đình Huế phải áp dụng biện pháp

quân sự, nhưng về cơ bản triều Nguyễn đã thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình,

hữu nghị với Xiêm. Chủ yếu, trong suốt nửa đầu thế kỷ 19 tình hòa hi ếu giữa hai nước

đã được triều Nguyễn ra sức vun xới, duy trì cho đến ngày Pháp gây chiến ở Việt Nam.

Trong quan hệ với nước Pháp, tuy triều Nguyễn lúng túng trong phương sách đối

phó trước sự xâm nhập của phương Tây, song triều Nguyễn cũng có cách ứng xử của

riêng họ để có một “lối thoát”. So sánh với các nước phương Đông cùng cảnh ngộ, vua

Gia Long 6Tđã 6Thoạch định mội đối sách với nước Pháp mang tính nhu hòa, uyển chuyển

hơn. Điều này 6Tđã 6Tgiúp Gia Long rất nhiều trong việc ổn định đất nước sau một thời gian

dài nội chiến. Ông đã tranh thủ được môi trường quốc tế ổn định để củng cố và xây

dựng đất nước. 6TVề 6Tcơ bản đó là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân

tộc lúc đó.

Đến thời Minh Mạng, do tình thế bắt buộc nên ông đã có những điều chỉnh cần

thiết, mang tính bắt buộc trong nội trị 42Tvà 42Tngoại giao. Những chính sách đối ngoại trên

145

các lĩnh vực của Minh Mạng có tính chất cứng rắn hơn. Vấn đề “hạn thương” và “sát

đạo” dưới triều Minh Mạng đã ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ quốc tế, cũng như các

quan hệ trong nước (quan hệ Lương - Giáo). Tuy nhiên, đây cũng là tình hình chung cùa

nhiều nước Châu Á trong chủ trương “bế môn tỏa cảng” của mình.

Thiệu Trị, Tự Đức ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn, đặc biệt trong quan hệ với

Pháp, ý đổ “mở cửa” vào cuối đời Minh Mạng không th ể tiếp nối được.

Thiệu Trị rồi Tự Đức ra sức tăng 42Tcường 42Tđường lối “không phương Tây”. Thực tế,

thì vua Thiệu Trị có ôn hòa, 6Tnhân 6Tnhượng hơn trong vấn đề truyền giáo. Điều đó gây nên

một sự lạc quan trong nước. Tuy nhiên, với sức mạnh quân sự của mình và ưu thế sau

thắng lợi ở Trung Quốc, Pháp tăng cường khiêu khích ở Việt Nam. Cuộc chiến Pháp -

Việt đã bùng nổ vào năm 1858 đánh dấu thời kỳ khổ nhục nhưng vĩ đại của nhân dân ta.

Như vậy, quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nhìn chung là nhất quán ở đường lối

“không phương Tây”, những bế tắc, lúng lúng 42Tvà 42Tthất bại của triều Nguyễn có nguyên

nhân lịch sử của cuộc đụng đầu Đông - Tây, của hai phương thức sản xuất tư bản và

phong kiến Á Đông. Tuy vậy, qua so sánh với nhiều nước Đông Á khác như Nhật Bản,

Xiêm La cũng có thể thấy triều Nguyễn có những tận tâm, 6Ttận 6Tlực với vận mệnh quốc

gia. Những nghi kỵ, dè dặt của triều Nguyễn đối với Pháp là có cơ sở. Khi sức ép của

thực dân Pháp ngày càng gia tăng, thì triều đình Huế càng ra sức tự thủ, tự vệ. Gia Long

và con cháu của ông đã không thể làm khác được, ngoài việc quay lưng chối từ mọi

lời 6Tđề 6Tnghị xin quan hệ với Pháp

2. Những vấn đề tồn tại trong quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn:

Đối với phương Bắc, triều Nguyễn thực hiện chính sách “Hòa với phương Bắc”.

Đây là chính sách đối ngoại xuất phát vì mục liêu hòa bình, an ninh khu vực. Tuy nhiên,

trong các hoạt động ngoại giao đối với Trung Quốc, triều Nguyễn củng 43Tcố 43Tnhững hạn

chế đáng kể: Sự xa hoa, tốn kém trong đón tiếp, rước sứ nhà Thanh. Sự “thần phục”

Trung Quốc, dù là trên danh nghĩa, danh xưng, nhưng vua Nguyễn vẫn phải khấu đầu,

quì lạy trong lễ sách phong của sứ Trung Quốc phần lớn các hoạt động ngoại giao liên

quan đến Trung Quốc, triều Nguyễn đều tổ chức long trọng với nhiều chi tiết, nghi lễ

phức tạp kéo dài không cần thiết. Trong đường lối ngoại giao của Việt Nam thời kỳ

này, chúng ta vẫn nhận thấy triều Nguyễn ít nhiều chịu ảnh hưởng của những “dấu vết

146

Trung Hoa”, đặc biệt là trong quan hệ với các nước phương Tây (đóng cửa giao thương,

coi thường “Tây dương, Bạch quỉ”...).

- Đối với Xiêm La, đây là nước quân bình với Việt Nam về mọi mặt (thực lực kinh

tế, trình độ phát triển...), triều Nguyễn có lúc đã không duy trì được mối quan hệ láng

giềng hòa hiếu một cách trọn vẹn. Cuộc chiến giữa Việt Nam với Xiêm La dưới thời

Nguyễn 43Tlà 43T một bằng chứng về sự xung đột giữa những quốc gia phong kiến thời này.

Như chúng ta đã biết, cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng trên đất Chân Lạ p với Xiêm La

đã làm cho triều Nguyễn hao binh, t ổn lực rất nhiều, và dù sao chiến tranh cũng đã tổn

thương đến tình cảm gắn bó giữa 43Tcác 43Tdân tộc Việt, Xiêm La, Chân Lạp và gây nên

những hậu quả chiến tranh lâu dài trong lịch sử quan hệ đối với các 22Tnước 22Tnày.

- Đối với Vạn Tượng, 87TChân 87TLạp. Hai nước láng giềng có cùng chung biên giới,

triều Nguyễn đã thực hiện một chính sách đối ngoại ít nhiều mang tính chối “nước lớn”.

Đường lối chính sách đối ngoại đó đã làm cho biên giới lãnh thổ Việt Nam đầu thời

Nguyễn, đặc biệt là dưới triều vua Minh Mạng được mở rộng hơn cả. Giống như Trung

Quốc, Việt Nam thời Nguyễn cũng gây ảnh hưởng đối với các 87Tnước 87Tláng giềng (Vạn

Tượng, Chân Lạp), nhằm tạo dựng một hệ thống phiên thuộc cho Việt Nam. Triều

Nguyễn phong vương cho vua các nước này, và quy định kỳ hạn tiến cống trong điển lệ

ngoại giao đối với Vạn Tượng, Chân Lạp cũng như một 19Tsố 19Tnước nhỏ xung quanh Việt

Nam. Đường lối đối ngoại trên của triều đình Huế là một trong nhiều nguyên nhân gây

nên sóng gió trong quan hệ Việt Nam với 42Tcác 42Tlân bang. Tuy chiến tranh giữa 42Tcác 42Tquốc

gia phong kiến là hiện tượng bình thường nhưng những xung đột giữa Việt Nam - Xiêm

La; Việt Nam - Vạn Tượng; Việt Nam - Chân Lạp đã gây 19Tnên 19Tnhiều 42Ttổn 42Tthất về của và

người, dẫn đến tiềm lực của đất 42Tnước 42Tsuy thoái và góp phần làm quan hệ trong khu vực

thiếu sự ổn định. Đây là một hạn chế trong quan hệ ngoại giao của triển Nguyễn trong

nửa đầu thế kỷ 19 với các nước láng giềng.

Những hạn chế trong đường lối đối ngoại của triều Nguyễn đối với nước Pháp đã

đưa lại hậu quả tai hại nhất trong lịch sử nước ta.

Đẩu thế kỷ 19, khi yêu cầu tìm kiếm và mở rộng thị trường thuộc địa gia tăng,

nước Pháp đã xây dựng hệ thống thuộc địa của họ ở Bắc Phi, Trung Đông. Pháp bắt đầu

hướng sự chú ý vào châu Á - Thái Bình Dương.

147

Vua Gia Long lên ngôi trong hoàn cảnh lịch sử nhiều biến động. Đất nước ta bước

vào thời hậu chiến. Bên ngoài các áp lực phương Tây gia tăng. Pháp đã và đang tăng

cường tiếp xúc với Việt Nam, đầu tiên là thông qua con đư ờng buôn bán... Trong hoàn

cảnh đó, Gia Long đã tìm cách tránh né quan hệ chính thứ c với nước Pháp, thực tế ông

đã định một 6Tđường 6Tlối đối ngoại mang 6Tmàu 6Tsắc cổ Á đông. Đó chính là đường lối đối

ngoại “tự thủ”, “khép kín”, mang tính chất “không phương Tây”. Đường lối đối ngoại

trên tiếp tục được thực hiện ở các đời vua Nguyễn sau. Đường lối đối ngoại khép kín

“không phương 6TTây” 6Tấy dù có lý đo để biện minh, cũng đi ngược lại với chính sách mở

mang thị trường của các 89Tnước 89Ttư bản 89Tphương 89TTây. Đi đôi với việc không ký kết các văn

bản quan hệ chính thức với Pháp, triều Nguyễn còn thực thi chính sách “bài đạo”, có

thời điểm “sát đạo”, tạo ra cái cớ để Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta. Sự

kiện triều đình Huế cấm đạo đã được giới 6Ttruyền 6Tthông Pháp thổi phồng, xuyên tạc, tạo

ra nguồn dư luận quốc tế bất lợi cho Việt Nam. Hoàng đế Pháp Napoleon III lên ngôi

nhờ thế lực tôn giáo, ông ta lại đang chờ được giáo hội tuyên phong. Về lý mà xét, thì

vương quyền, thầ n quyền và tư bản Pháp là 3 thế lực cấu kết chặt chẽ với nhau. Đường

lối đối ngoại “không phương 43TTây” 43Tcủa triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 gây khó

khăn cho giáo hội và tư bản Pháp, 78Tvà 78TPháp đã mượn cớ đó can thiệp quân sự vào Việt

Nam. Tháng 7 năm 1857 Hội Đồng nội các của Hoàng đế Pháp thông qua kế hoạch can

thiệp 6Tquân 6Tsự vào Việt Nam, thực hiện ý đồ xâm lược 30Tđã 30Tđược nung nấu lừ lâu của tư bản

Pháp.

Đường lối đối ngoại “không phương 42TTây” 42Tcủa triều Nguyễn dù sao cũng không phù

hợp với xu thế phát triển tất yếu khách quan của lịch sử của nước ta đầu thế kỷ 19.

Đường lối ấy lại càng không thể tạo điều kiện cho những nhân tố mới du nhập và phát

triển thúc đẩy xã hội Việt Nam tiến lên. Mội điểm đáng lưu ý là trong nửa đầu thế kỷ 19,

cơ quan ngoại giao của việt Nam còn chưa có một bộ phận nghiên cứu về phương Tây.

Dưới triều vua Minh Mạng có cai đội Nguyễn Mẫn đứng đầu ban Tây Dương thuộc

trong hành 6Tnhân 6T(cơ quan chuyên thông ngôn ngoại giao). Tứ dịch quán của Triều

Nguyễn cũng chỉ dạy bốn thứ tiếng (Bồ Đào Nha, Vạn Tượng, Xiêm La, Mã Lai). Triều

đình Huế cũng cho lập các công quán, nhưng chủ yếu để tiếp sứ giả các nước phương

Đông còn sứ thuộc các nước phương Tây không được lưu ngụ.

148

Vị vua khai sáng ra Triều Nguyễn đã từ chối mối quan hệ chính thức với nước

Pháp, nước Anh...vì lo ngại ảnh hưởng và sự xâm lăng của phương 6TTây. 6TĐó cũng là lý

do ông định hướng chiến lược ngoại giao không dính dáng gì đến các nước tư bản Tây

Âu. Minh Mạng đã tiếp tục đường lối ngoại giao đó. Thực tế là từ Triều vua Minh Mạng

đến Triều vua Tự Đức các vua Nguyễn không có sự thay đổi lớn về chiến lược ngoại

giao đối với nước Pháp.

Đường lối ngoại giao của các vua Nguyễn đã tự tách rời với các nước tư bản Tây

Âu nói chung và nước Pháp nói riêng. Do vậy triều Nguyễn đã không tự bảo vệ được

quốc gia một cách hiệu quả, và làm cho đất nước ngày càng thiếu sự hiểu biết về thế

giới bên ngoài, dần dần không hòa nhịp để bắt kịp tiến trình phát triển của lịch sử.

Đường lối chính trị trên cùng với những hạn chế trong chính sách kinh tế đối ngoại,

chính sách tôn 43Tgiáo 43Tđã tạo ra dư luận quốc tế không thuận lợi cho những phái đoàn

ngoại giao dưới triều vua Minh Mạng.

Dưới Triều Nguyễn, vua là người chịu trách nhiệm về các chính sách đối ngoại

và 43Tcác 43Thoạt động với người nước ngoài. Quyền hành tuyệt đối của vua đã làm cho việ c

vua chịu lắng nghe, chấp nhận các đề nghị cải cách của triều thần trên lĩnh

vực 49Tngoại 49Tgiao vô cùng khó khăn.

Phan Thanh Giản khi đi sứ ở Pháp về đã tâu xin vua Tự Đức: thực tình hòa hảo với

Pháp, giao lưu mua bán với 43Tcác 43Tnước, cho dân mình du học, sửa đổi việc trong nước để

dân khôn sáng thì nư ớc nhà mới hùng cường. Vua Tự Đức đã không y tấu.

Có ý kiến cho rằng, không nên đơn thuần kết tội các vua Nguyễn, mà phải quy lỗi

cho cả một thời đại “chưa đủ thời gian tính” hay “như con nhộng còn nằm trong vỏ kén,

nó muốn chui ra khỏi kén nhưng chưa đủ năng lực để chọc thủng lưới bao” [105,

216-217]. Xét toàn cảnh chính trị của đất nước trong đầu thế kỷ 19 chúng ta có thể đồng

tình với ý kiến trên. Nhìn chung, trong đầu thế kỷ 19, trình độ nhận thức của phần lớn

tầng lớp phong kiế n thống trị Việt Nam còn bị hạn chế, chưa bắt kịp nhịp điệu của vận

hội mới. Triều Nguyễn đã loay hoay tìm phương cách bảo vệ vương quyền về đất nước.

Đường lối đó không 78Tđáp 78Tứng được các yêu cầu của lịch sử - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ

19. Chúng ta biết rằng, tiếng súng của cuộc chiến tranh thuốc phiện ở Trung Quốc tuy

có cảnh tỉnh vua Minh Mạng, song Triều Nguyễn lại không rút ra được điều gì từ biến

149

cố này, mà ngược lại, vua Minh Mạng chủ trương đề phòng “họa Tây dương” một cách

cứng rắn hơn trước.

“Đóng cửa” về chính trị - ngoại giao là một nội dung mang tính chất tương đồng ở

phần nhiều các quốc gia phong kiến Á châu thời này. Điều đó đã tạo nên một sự thụ

động trong ngoại giao và tình trạng trì trệ bảo thủ chung của phương Đông. Các vua đầu

triều Nguyễn đã không thể vượt qua những hạn chế do giai cấp và thời đại ràng buộc.

Giai cấp phong kiến thống trị 102TViệt 102TNam không thể tìm ra được một hướng đi mới trong

quan hệ quốc tế lúc đó nhằm bảo đảm độc lập dân tộc và lợi ích an ninh quốc gia. Chính

vì vậy, họ mãi mãi chịu sự phán 102Txét 102Tcủa lịch sử, về việc để cho đất nước chịu cảnh gần

100 năm rên xiết dưới ách đô hộ của thực 60Td â n 60TPháp.

3. Những bài học kinh nghiệm từ quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn trong nửa đầu

thế kỷ 19:

Nước Việt Nam phong kiến trước đây và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam hiện nay khác biệt cơ bản về thể chế chính trị, đối tượng và phương thức ngoại

giao. Hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ 19 cũng khác với hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ 21.

Tuy vậy những nhiệm vụ của đường lối chính sách ngoại giao của hai chế độ vẫn có

cùng chung một nội dung. Đó là : Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh

thổ.

Trong quan hệ giữa các 22Tnước 22Tphong kiến xưa thì chiến tranh là hiện tượng khá phổ

biến. Vì thế, triều Nguyễn cũng như các triều đại phong kiến Việt Nam trước đó, luôn

định hướng đường lối ngoại giao nhằm mục đích tối cao là bảo đảm độc lập dân tộc, lợi

ích quốc gia và quyền bính của dòng họ. Đường lối ngoại giao đó cũng phải tính đến

vấn đề môi trường quốc tế hòa bình, ổn định để các vua Nguyễn có thời gian phục hồi

đất nước sau nội chiến. Đây là bài học kinh nghiệm mà bất kỳ nhà nước nào trên thế

giới cũng phải lưu ý.

Một kinh nghiệm đối ngoại cần thiết mà lịch sử quan hệ ngoại giao của triều

Nguyễn để lại đó là khi thực hiện đường lối đối ngoại, những người nắm vận mệnh

nước nhà cần tính đến vấn đề nâng cao uy thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhũng mục tiêu mà nhà nước phong kiến Nguyễn định hướng trong các mối quan

hệ quốc tế của mình cũng giống mục tiêu mà nhà nước Việt Nam hiện tại hướng tới: Đó

150

là ưu tiên hàng đầu cho quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực theo

tinh thần “bán họ hàng xa mua láng giềng gần”.

Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc là mối quan hệ lâu đời kéo dài hàng mấy ngàn

năm đầy thăng trầm và phức tạp. Bài học lịch sử rút ra từ mối quan hệ này là kinh

nghiệm quan trọng cho quan hệ ngoại giao của Việt Nam hiện nay. Như chúng ta đã

biết, không ai có thể chọn được láng giềng. Việt Nam là một nước nằm sát nước lớn

Trung Quốc, 42Tmà 42TTrung Quốc phong kiến lại luôn thi hành chính sách bành trướng lãnh

thổ. Như vậy, hòa bình yên ổn, lợi ích của 6Tdân 6Tlộc của 6Thai nước6T gắn liền và có mối quan

hệ hữu cơ với quan hệ các nước láng giềng.

Trong quan hệ với Trung Quốc, triều Nguyễn đã để lại một bài học quan trọng

trong lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam. Đó là bài học biết Cương - Nhu đúng lúc.

biết kết hợp một cách khéo léo nguyên tắc với việc sử dụng linh hoạt sách lược nhún

nhường khi cần thiết, nhằm đảm bảo hòa bình ổn định khu vực. Đây là bài học mà cho

đến nay vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn.

Với phương châm ngoại giao “biết người biết ta”, triều Nguyễn luôn tỏ rõ thái độ

tôn trọng nước lớn láng giềng Trung Quốc, trên cơ sở giữ vững độc lập quốc gia, lợi ích

dân tộc. Đó chính là nguyên nhân trong suốt hơn nửa thế kỷ 19 quan hệ hữu nghị Việt -

Trung không 92Tcó 92Tnhững biến động lớn. Về 92Tcơ 92Tbản, tình đoàn kết giữa hai 42Tdân 42Ttộc Việt -

Trung được giữ gìn và phát triển.

Với các nước Chân Lạp, Vạn Tượng, Xiêm La, triều Nguyễn xem các nước này là

đối tượng quan trọng trong quan h ệ quốc tế của mình.

Thông qua các mối quan hệ với Xiêm La, Vạn Tượng, Chân Lạp, triều đình Huế đã

phát huy được truyền thống ngoại giao hòa bình, chính nghĩa, hòa hiếu, thủy chung,

độ 6Tlượng 6Tcủa dân tộc Việt Nam. Nhìn chung, đường lối ngoại giao 92Tcủa 92TViệt Nam trong

nửa đầu thế kỷ 19 phản ánh tinh thần yêu chuộng hòa bình, thể hiện mong muốn thêm

bạn bớt thù, và tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc 92Ttế. 92TĐường lối

ngoại giao của triều Nguyễn trong một chừng mực nhất định, đã 92Tthể 27T92Thiệ n 27T92Tđược chính

sách ngoại giao cân bằng giữa các nước trong khu vực, đặc biệt 92Ttrong quan hệ với nước

lớn Trung Quốc.

151

Những hạn chế trong đường lối ngoại giao với nước Pháp của triều Nguyên đã để

lại nhiều bài học kinh nghiệm lịch sử cho quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện đại. Đó là

bài học về việc phải kịp thời nắm bắt xu thế phát triển của tình hình thế giới, hiểu biết

sân sắc thế và lực của đất nước, của cục diện quốc tế, phải luôn theo sát hoàn cảnh thế

giới, nắm bắt cho được quy luật vận động để theo kịp vận hội 92Tmới và 92Tđổi mới 6Ttư 6Tduy đối

ngoại. Đầu thế 92Tkỷ 92T19 hoàn cảnh 92Ttrong nước và 92Tngoài nước đòi hỏi Việt Nam

phải 6Ttăng 6Tcường mở rộng các mối quan hệ quốc tế, thắt chặt hơn quan hệ với các nước

trên thế giới...nhất 92Tlà 92Tvới phương Tây để bảo vệ hữu hiệu lợi ích và an ninh đất nước.

Chúng ta sống trong thời hiên đại, nội dung, tính chất thời đại hoàn toàn khác biệt

so với hoàn cảnh lịch sử những năm đầu kỷ 19. Chính vì vậy, không thể yêu cầu các bậc

tiền nhân phải nhận thức, tư duy và hành động như con người hiện đại.

Chúng tôi đã cố gắng tái hiện trong chừng mực có thể bức tranh quan hệ ngoại

giao của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX để xác lập một cái nhìn có tính hệ thống - lịch sử

làm căn cứ cho những nhận định, đánh giá của mình. Chúng tôi quan niệm nhiều vấn đề

về vai trò lịch sử của nhà Nguyễn vẫn chưa khép lại, trong đó có vấn đề về quan hệ

ngoại giao. Những kết luận của chúng tôi về vai trò lịch sử triều Nguyễn thông qua việc

nghiên cứu quan hệ ngoại giao của vương triều này trong nửa đầu thế kỷ XIX cũng chỉ

dám xem là những kết luận có tính chất bước đầu để làm 83Tcơ sở 83Tcho những nghiên cứu

sau hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1 . Nguyễn Huyền Anh (1967), 42TViệt Nam danh nhân từ điển, 42TKhai Trí, Sài Gòn

2 . Đào Duy Anh (1992), 42TViệt Nam văn hóa sử cương, 42TNXB TP.HỒ Chí Minh, Khoa Sử

ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.

3 . Nguyễn Thế Anh (1970), 42TViệt Nam dưới thời Pháp đô hộ, 42TLửa Thiêng xuất bản SG

4 . Nguyễn Thế Anh (1971), 42TKinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn , 42TLửa

Thiêng xuất bản SG.

5 42T. 42TNguyễn Thế Anh (1995), 42TSứ bộ Miến Điện phái đến Đại Nam năm 1823: Vài nhận xét

về thế cờ ngoại giao trong bán đảo Đông dương đầu thế kỷ 19, 42TTạp chí Thông tin Khoa học và

Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ - Môi trường Thừa Thiên - Huế, số 2.

6 . Đặng Anh (1995), 42TThử nhìn lại vấn đề Gia Long một cách khách quan trong lịch sử dân

tộc - 42TChương trình nghiên cứu triều Nguyễn, số 4, Đại học Sư phạm Huế.

7 . Đỗ Bang (chủ biên) (1997), 42TTổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn

I802-1884, 42TNXB Thuậ n Hóa, Huế

8 . Đỗ Bang (1997), 42TKinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, 42TNXB Thuận

Hóa, Huế.

9 . Đỗ Bang, Nguyễn Minh Tường (1996), 42TChân dung các vua Nguyễn, 42TNXB Thuận

Hóa, Huế.

10 . 42TBiên Niên Lịch Sử cổ trung đại Việt Nam từ đầu đến giữa thế kỷ 19, 42T(1987) NXB KHXH,

Hà nội.

11 . C. Maybon (1931), Lịch sử Việt Nam, Paris

12 . Nguyễn Đức Chi (1973), 42TViệc bang giao giữa Đại Nam và các nước Tây dương dưới

triều vua Thánh Tổ - 42TTiểu luận Cao học lịch sử, S6.4.

13 . Phan Trần Chức, Lê Quế (1956), 42TNguyễn Tri Phương 42T58T,NXB 58TChính 58TKý, s6 .

14 . Phạm Cao Dương, Nguyễn Khắc Ngữ (1968), 42TSử học đệ nhị - 42TNam Sơn.

153

15 . Nguyễn Khắc Cần, Phạm Viết Thực(1994), 42TTừ Đà 42T93TNẵng đến 42T93TĐiện 42T93TBiên 42T93TPhủ, 42TNXB

QĐND, Hà Nội.

16 . Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (1995), 100TCác triều đại Việt Nam, 100TNXB Thanh Niên

17 . Ngô Giáp Đậu (1993), 42THoàng Việt Long Hưng Chí, 42TNXB Văn Học.

18 . Lê Quý Đôn, 42TBắc Sứ thông lục.

19 . Mạc Đường (6/1988), 42TNgười Việt Thiên Chúa giáo ở miền Nam nước ta từ thể kỷ 17 đến

thế kỷ 19, 42TTạp chí Nghiên Cứu Khoa Học số 8, 9, l0.

20 . Durant (1997) - 42TLịch sử văn minh Trung Quốc, 42TNXB Văn Hóa Thông Tin.

21 . Trần Văn Giàu (1993), 42TSự phát triển của tư tưởng của Việt Nam từ thế kỷ 19 đến Cách

mạng tháng 8, 42TT1, NXB Tp Hồ Chí Minh.

22 . Trần Văn Giàu (1958), 42TSự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước

1958, 42TNXB Văn Hóa Cục Xuất Bản Bộ Văn Hóa, Hu ế.

23. Thái Nhân Hòa ( chủ biên) ( 39T1 39T995), 42TPhạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân 42THội KHLS

TP. Hồ Chí Minh.

24 . Huy Vũ - Hữu Hợp (3/1988) - 42TCái gì của nhà Nguyễn hãy trả cho nhà Nguyễn, 42TKỷ

yếu Hội Nghị Khoa Học.

25. Bửu Kế (2/1963) - 42TLăng Tự Đức, 42TĐại Học số 3.

25 . Phan Khoang (1995), 42TViệt Nam Pháp thuộc sử, 42TNhà sách Khai Trí, Sài Gòn. 1971

27 39T.Phan Khoang (1970), 39T42TTrung Quốc sử lược, 39T42TViện 39T102Tsử 39T102Thọc xuất39T102T 39T102Tbản.

28 39T. Trần Trọng Kim 39T 4T(1992), 4T42TNho giáo, 42TNXB TP. Hồ Chí Minh.

29 . Trần Trọng Kim (1971), 42TViệt Nam sử lược, 42TQl, T.11, Bộ Giáo dục, Trung tâm

học liệu xuất bản.

30 .Nguyễn Văn Kiệm (10/1993), 42TChính sách tôn giáo của nhà Nguyễn trong nửa 42T93Tđầu 42T93Tthế

kỷ 19, 42TTạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5.

31 . Nguyễn Văn Kiệm (10/1992), 42TSự du nhập của đạo Thiên Chúa vào Việt Nam, thực

chất, hậu quả 42Tvà 42Thệ lụy, 42TTạp chí Nghiên c ứu lịch sử số5.

154

32. Nguyễn Văn Kiệm (6/1988), 42TSự truyền giáo ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử của sự

truyền giáo thế giới các thế kỷ từ 16 đến 19 “Vấn đề phong thánh, tử vì đạo và lịch sử dân tộc

Việt Nam” - 42TNghiên cứu khoa học số 8, 9, 32T10, 32Tủy ban Khoa Học 38Txã 38THội và Ban Tôn

giáo chính phủ.

33 . Hoàng Khôi (1995), 42TGóp một nhận thức để đánh giá nhân vật Gia Long, 42TChương

trình nghiên cứu triều Nguyễn, số4, Đại học Sư phạm Huế.

34 . Nguyễn Thiệu Lâu (1958) - 42TQuốc sử tạp lục, 42TNXB Sài Gòn.

35 . 42TLênin toàn tập - 42TT3 (1963), NXB Hà Nội.

36 . Nguyễn Hiến Lê (1993), 42TĐế Thiên Đế Thích, 42TNXB Văn Hóa thông Tin.

37 . Nguyễn Hiến Lê (1993), 42TSở Trung Quốc42T, T2, NXB Văn Hóa.

38 . Phan Ngọc Liên (chủ biên) (1997), 42TLược sử Đông Nam Á, 42TNXB Giáo

Dục, 43TH à 43TNội.

39 . Tạ Ngọc Liễn (1995), 42TQuan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ

16, NXB KHXH, Nà Nội.

40 . Tạ Ngọc Liễn (10/1993), 42TMấy nét về vai trò đặc điểm của Nho giáo thời Nguyễn nửa

đầu thế kỳ 19, 42TTạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 42T5 .

41 .Trần Huy Liệu (1964), 42THai nước Việt Nam - Trung Quốc trong lịch sử hiện đại, 42TTạp

chí Nghiên C ứu Lịch Sử số 67.

42 . 42TLịch sử Việt Nam, Tập 1 42T(1971), NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội.

43 . Phạm Nguyên Long (chủ biên) (1993), 42TĐông Nam Á trên dường, 42TNXB Khoa Học

Xã Hội, Hà Nội.

44 . Huỳnh Lứa (6/1988), 42TNói thêm về những nguyên nhân dẫn tới sự cấm đạo của nhà

Nguyễn, 42TNgiên Cứu Khoa học số 8, 9, 13Tl0, 13TTP. Hồ Chí Minh, UBKHXH Việt Nam,

Ban Tôn giáo của chính phủ.

45 . Huỳnh Lứa (3/1988), 42TDo đâu mà có việc cấm đạo Thiên Chúa trong thế

k ỷ 1 7 ,1 8 , 1 9, 42TKỷ yếu Hội nghị khoa học, TP. Hồ Chí Minh.

46 . Các Mác - Ăng-ghen (19), 42TTuyển tập, 42TTập 2, NXB S ự Thật, Hà Nội

155

47 . Đặng Thai Mai (1994), 42TXã hội sử Trung Quốc, 42TNXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

48 . Giá Sơn Kiều Oanh Mởu (1963), 42TBản triều nghịch liệt truyện 42T(Trần Khải Văn

dịch), 6TBộ 6TQuốc gia Giáo dục, Sài gòn.

49 . 42TMục lục châu bản triều Nguyễn (1960), 42TTập 1, Huế.

50 6T. 6T42TMục lục châu bản triều Nguyễn (1962), 6T42TTạp 2, Huế

51 . Nam Mộc (1955), 42TChế độ phong kiến ngăn cản bước tiến của xã hội Việt Nam, 42TSự 6TThật,

Hà N ộ i .

52 . Murashêva G. F (1973), 42TQuan hệ Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ 17, 19, 42TNXB Khoa

học, Hà Nội - Mát-xcơ-va, (phần dẫn luận - Bản dịch đánh máy, Viện Sử học, Hà Nội)

53 . Nguyễn Phong Nam (Chủ biên) (1997), 42TNhững vấn đề lịch sử văn chương triều

Nguyễn, 42TNXB Giáo đục, Hà Nội.

54 . Lương Ninh, Đặng Đức An (1978), 42TLịch sử thế giới trung đại, 42TNXB. Giáo dục, Hà

Nội.

55 . Vũ Dương Ninh (1994), 42TLịch sử Thái Lan, 42TNXB Giáo dục, Hà Nội.

56 . Lương Ninh (Chù biên) (1991), 42TLịch sử các quốc gia Đông Nam Á. Lịch sử Lào, 42TTập

2, ĐHSP 6T1 6THà nội.

57 . 42TNhững tác phẩm của Phan Bội Châu 42T(1982), Tập 1, NXB KHXH.Hà Nội.

58 . 42TNhững vấn đề lịch sử Đông Nam Á - về lịch sử Đông Nam Á thời cổ 42T(1983), Viện Đông

Nam 42TÁ. 42THà Nội.

59 . 42TNhững vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn, 42TTập 1 (1992), Tập 2 (1995), NXB Khoa

học Lịch sử, Viện Khoa học 21Txa 21Thội, Bảo Tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh.

60 . 42TNhững người bạn cố đô 42THuế (B.A.V.H) (1998), T 1 , T.2, T.3, T.4, T.5, T.6, T.7,

NXB Thuận Hóa, Huế.

61. 42TNguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước (42T1992), Viện Khoa học Xã hội và Sở

Văn hóa - Thông tin TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm.

62. Nội các triều Nguyễn, 42TKhâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, 42TT.8 (1993), NXB Thuận

Hóa, Huế.

156

63. Châu Đạt Quan (1973), 42TChân Lạp phong thổ ký, 42TSài Gòn, Việt Nam,(Bản dịch của

Lê Hương)

64. Nguyễn Phan Quang (1971), 42TLịch sử Việt Nam 42T(1427-1858), NXB Giáo

Dục, Hà Nội.

42Tkỷ 19, 42TNXB KHXH, 42THà 42TNội.

65. Nguyễn Phan Quang (1986), 42TPhong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế

66. Nguyễn Phan Quang (1995), 42TCó một nền đạo lý Việt Nam như thế, 42TNXB. TP Hồ Chí

Minh.

67. Lê Văn Quang (1905), 42TLịch sử vương quốc Thái Lan, 42TNXB TP. Hồ Chí Minh.

68. Trần Hữu Quảng - 42TLịch sử Việt Nam – 42TThế giới, Nguyễn Du xuất bản.

69. 42T Quốc triều chánh biên toát yếu 42T(1971), Nhóm nghiên cứu Sử Địa xuất bản, Sài

Gòn.

70. 42T Quốc sử quán triều Nguyền 42T(1963), Đại Nam thực lục chính biên, Tập 1

Tập 2, Tập 3, Tập 4, NXB Sử học, Hà Nội.

71. 42T Quốc sử quán triều Nguuyễn 42T(1973), Đ ại Nam thục lục chính biên, Tập 5

đến Tập 38, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

72. 42T Quốc sử quán triều Nguyễn 42T(1994), Minh Mệnh chính yếu, Tập 1, Tập 2,

Tập 3, NXB Thuậ n Hóa, Huế.

73. 42TQuốc sử quán triều Nguyễn (142T993), Đại Nam chính biên liệt truyện tập 1, Tập 2,

Tập 3, Tập 4, NXB Thuậ n Hóa, Huế.

74. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1997), 42TĐại Việt địa dư toàn biên, 42TViện Sử học và

NXB Văn hóa, Hà Nội.

75. Phạm Văn Sưu (1961), 42TViệt sử Ltân biên, 42TTủ sách Sử học Việt Nam.

76. Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt (1994), 42TKế sách giữ nước thời Lý - Trần, 42TNXB

Chính trị Quốc gia.

157

77. Phạm Văn Sơn (1971), 42TQuân dân Việt Nam chống Tây xâm lược 42T(1847 - 1945), Sài

Gòn.

78. Tập san Văn hóa, (1969), 42TViệc bàng giao giữa Cao 42T93TMiên 42T93Tvà Việt Nam từ ngày tiên

khởi đến ngày Pháp đô hộ 42T(Bài của Lê Hương) số 18.

79. 42TTạp chí Văn hóa nguyệt san (142T965), loại mới số 5.

80. 42TTạp chí Bách khoa (1 42T959), số 67.

81. Văn Tân (1967) - 42TChế độ phản động của nhà Nguyễn, 42TNghiên cứu Lịch sử số 95,

97 , HN.

82. 42TTập san Sử Địa ( 1 42T968) số 9, 10.

83. 42TTập san Sử Địa 42T(1970),số 19, 20.

84. Tìm 42Thiểu lịch sử - văn hóa Thái Lan 42T(1994), NXB Khoa học Xã hội, Hà 94TNội.

85. Tìm 42Thiểu lịch sử - văn hóa Cam-pu-chia 42T(1993), NXR Khoa học Xã hội, Hà Nội.

86. Nguyễn 6TKhánh Toàn (6T1954), 42TVài nhận xét về thời kỳ từ cuối nhà Lê đến nhà Nguyễn

Gia Long, 42THà Nội.

87.Bùi Quang Trung (1958), 42TNước Việt Nam trên con đường suy vong (1958 - 1884), 42THội

Nghiên cứu liên lạc văn hóa Á châu xuất bản.

88. Phan Lạc Tuyên (1993), 42TLịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á ( 42TTCN đến thế kỷ

19), Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Đào tạo mở rộng, Khoa Đông Nam Á học, TP.

Hồ Chí Minh.

89. Ưng Trình ( 1953), 42TViệt Nam ngoại giao sử cận đại, 42THà Nội.

90. 42TTriều Nguyễn - Những vấn đề lịch sử - tư tưởng – văn hóa (199442T94T), Đại 94Thọc Sư phạm Huế.

91. Nguyễn Anh Thái, Đặng Thanh Tịnh, Ngô Phương Bá (1991), 42TLịch sử Trung

Quốc, 42TNXB Giáo Dục, Hà Nội.

92. Hoàng Ngọc Thành (1969), 42TNhững quan hệ giữa Pháp và Trung Hoa về vấn đề Việt Nam

(1880-1851). 42TTrình bày, Tủ sách Nghiên c ứu Sử Địa, Sài Gòn.

93. Cao Tự Thanh (1996), 42TNho giáo ở Gia Định, 42TTP. Hồ Chí Minh.

158

94. Lễ Tần Nguyễn Nhược Thị (1950), 42THạnh thục ca (Trần 42TTrọng Kim d ịch), Tân Việt

xuất bản.

95. Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyền, Đinh Xuân Lâm (1960), 42TLịch sử chế độ phong kiến

Việt Nam, 42TTập 4, NXB Giáo dục, Hà Nội.

96. Lê Hữu Thu (1952), 42TSử Việt Nam đệ lục - Thế giới, 42THà Nội, Việt Nam.

97. Cao Huy Thuần (1996), 42TĐạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt 42T43TNam, 43TLuận án

Tiến sĩ Quốc gia, KHCT Đại học Paris - Christianismc et colonialisme au

Vietnam 1807-1914, Đại học Paris.

98. Nguyễn Khắc Thuần (1988), Vài suy nghĩ về sự truyền bá và tiếp nhận Thiên

chúa giáo ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị khoa học (3/1980), Tp.HCM.

99. 42TThư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á (phần Xiêm) 42T(1977), UB Khoa học Xã hội Việt

Nam, Ban Đông Nam Á (lưu hành nội bộ), Hà Nội.

100. 42TThư tịch cổ Việt Nam nói về chủ nghĩa bá quyền đại Hán (1 42T985), NXB Thông tin lý

luận, Hà Nội.

101. 42TThư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á (phần Chân Lạp) 42T(1977). UB Khoa học Xã

hội Việt Nam, Ban Đông Nam Á (lưu hành nội bộ).

102. 42TThư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á (phần Vạn Tượng) 42TUB Khoa học Xã hội Việl

Nam (1977), Ban Đông Nam Á (lưu hành nội bộ).

103. Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung (1982), 42TLịch sử Cam – pu -

chia42T95T, 95TNXB Đại học - Trung học chuyên nghiệp.

104. Mai Khắc Ứng (1966), 42TChính sách khuyến nông thời Minh Mạng, 42TNXB Văn Hóa

Thông tin, Hà Nội.

105. Nguyễn Triều Vân (1969), 42TViệt Nam 42T80Tvà Tây 42T80Tphương (cuộc tiếp xúc từ năm 1784 đến

năm 1820), 42TTiểu luận Cao học sử, Đại học Sài Gòn, Đai học Văn khoa.

106. Phạm Trung Việt (1973), 42TKhuôn mặt Quảng Ngãi 42T(1764- 1916), Nhà in Nam

Quang xuất bản.

107. 42TViệt Nam - Đông Nam Á quan hệ lịch 42Tsử (I993), 42Tvăn hóa, 42TNXH Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

159

108. 11TThành 11TThế Vỹ - 42TNgoại thương Việt Nam hồi thế kỷ 17 – 18 42Tvà nửa đầu 42Tthế kỷ 19

109. Hoàng Yến (dịch) (1917), 42TLệ thụ phong của vua Minh Mạng tại Hà Nội 42T(Minh Mạng

et recevoire 32TI’ 32Tinveslilure à Hanoi), B.A 39T.V 39T.H, Tập 39T4.

110. Yoshiharu Tsuboi (1992), 42TNước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa

1847-1885, 42THội Sử 11Thọc 11TViệt Nam, Hà Nội.

160

161

162

163

PHỤ LUC

164

165

166