BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
ĐINH THỊ DUNG
QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN
NỬA ĐẦU THẾ KỈ 19
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2001
MỤC LỤC
108TMỤC LỤC108T ..................................................................................................................... 1
108TLỜI CAM ĐOAN108T ......................................................................................................... 3
108TMỞ ĐẦU108T ........................................................................................................................ 4
108T1. Mục đích – ý nghĩa nghiên cứu:108T .................................................................................... 4
108T2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:108T ............................................................................................ 6
108T3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:108T ................................................................................ 9
108T4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu:108T ............................................................................. 9
108T5. Những đóng góp của luận án:108T ...................................................................................... 11
108TCHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T .................................................................................................................. 12
108T1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỷ 19:108T ................................................. 12
108T1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19:108T .................................................................. 17
108TCHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T .............................................................................................. 29
108T2.1. Những đặc điểm dẫn đến việc hình thành đường lối ngoại giao của triều Nguyễn với Trung Quốc nửa đầu thế kỷ 19:108T ................................................................................ 29
108T2.1.1. Đặc điểm lịch sử:108T ................................................................................................... 29
108T2.1.2. Đặc điểm địa lý:108T .................................................................................................... 30
108T2.1.3. Đặc điểm chính trị - xã hội:108T ................................................................................... 30
108T2.1.4. Đặc điểm tư tưởng:108T ................................................................................................ 34
108T2.2. Đường lối, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .................................................................................................................... 35
108T2.2.1. Vấn đề: “Sách phong” và “Triều Cống”:108T .............................................................. 37
108T2.2.2. Các họat động ngoại giao khác giữa triều Nguyễn và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ............................................................................................................................... 51
108T2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ............................................................................................................ 56
108T2.3.1. Xét về phía triều Nguyễn:108T ..................................................................................... 56
108T2.3.2. Xét về phía nhà Thanh (Trung Quốc).108T .................................................................. 60
108TCHƯƠNG 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI NƯỚC PHÁP NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T .............................................................................................. 62
108T3.1. Việt Nam và Pháp - Những cuộc tiếp xúc đầu tiên cho đến cuối thế kỷ 18:108T ........ 62
108T3.1.1. Việt Nam và Pháp (thế kỷ 16 - thế kỷ 18):108T ........................................................... 62
1
108T3.1.2. Quan hệ giữa Nguyễn Ánh - Gia Long và người Pháp vào cuối thế kỷ 18:108T ......... 65
108T3.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Pháp nửa đầu thế kỷ 19:108T ..................... 72
108T3.2.1. Việt Nam trong tầm nhìn của Pháp:108T ...................................................................... 72
108T3.2.2. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Gia Long (1802 - 1819):108T ............. 74
108T3.2.3. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Minh Mạng (1820 - 1840)108T .......... 80
108T3.2.4. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và đầu thời Tự Đức (1847 - 1883):108T .................................................................................................... 91
108T3.3. Những nhận xét về quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ....................................................................................................................................... 95
108TCHƯƠNG 4: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC XIÊM LA, CHÂN LẠP, VẠN TƯỢNG TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19108T ........ 101
108T4.1. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .. 101
108T4.1.1. Quan hệ Việt Nam - Xiêm La từ đầu cho đến cuối thế kỷ 18:108T ............................ 101
108T4.1.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ... 104
108T4.1.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ....................................................................................................................... 116
108T4.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với nước Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ 19:108T ..................................................................................................................................... 119
108T4.2.1. Quan hệ Việt Nam và Chân Lạp cho đến năm 1807:108T .......................................... 119
108T4.2.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .. 122
108T4.2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nữa đầu thế kỷ 19:108T ................................................................................................................ 128
108T4.3. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với tiểu vương quốc Lào - Vạn Tượng trong nửa đầu thế kỷ 19:108T .......................................................................................................... 132
108T4.3.1. Những bước đầu tiên trong quan hệ của Việt Nam với các tiểu quốc Lào:108T ........ 132
108T4.3.2. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Vạn Tượng cho đến 1831:108T ..................... 134
108T4.3.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với tiểu vương quốc Lào - Vạn Tượng trong nửa đầu thế kỷ :108T ................................................................................ 141
108TKẾT LUẬN108T ............................................................................................................... 144
108TTÀI LIỆU THAM KHẢO108T ....................................................................................... 153
108TPHỤ LUC108T .................................................................................................................. 164
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, nếu có gì gian dối tôi xin
42TTP. HCM ngày 20 tháng 4 năm 2001
37TNghiên cứu sinh
37TĐinh Thị Dung
chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
3
MỞ ĐẦU
1. Mục đích – ý nghĩa nghiên cứu:
37TTriều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
37TNhững đóng 11T37Tgóp 11T37Tvà hạn 11T37Tchế của triều 11T37TNguyễn, 11T37Tđặc biệt 11T37Ttrên lĩnh vực ngoại giao trong
tiến trình xây dựng phát triển đất nước trong nửa đầu thế kỷ 19, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề
thời sự và khoa học trong nghiên cứu lịch sử nói chung và nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại
giao nói riêng. Ví dụ như vấn đề: Tại sao tuy đã tận tâm nỗ lực để xây dựng một quốc gia
phong kiến độc lập, thống nhất, tự chủ, khẳng định tư thế của Việt Nam trong khu vực, triều
Nguyễn cuối cùng lại không có một đối sách hợp lý để “giữ nước” có hiệu quả? Qua quan hệ
ngoại giao của triều Nguyễn, những bài học kinh nghiệm lịch sử nào cho đến nay vẫn còn
nguyên tính thời sự nóng bỏng, trong quan hệ ngoại giao Việt Nam hiện đại với xu thế “mở
cửa”, “hội nhập”?... Nếu triều Nguyễn của thế kỷ 19 đã “đóng cửa”, thì tại sao, nguyên nhân
nào đưa tới đường lối “đóng cửa” ấy? Thực chất và hậu quả của ngoại giao “đóng cửa” ? v.v...
Đó là những vấn đề mà khi thực hiện đề tài “ Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn trong nửa
37TUÝ nghĩa khoa họcU :
37TNhững năm 80 của thế kỷ 20 trở lại 6T37Tđây, 6T37Tnhững vấn 6T37Tđề 6T37Ttrong lịch sử Việt Nam cận đại và
đầu thế kỷ 19” chúng tôi mong muốn và cố gắng tìm ra câu trả lời.
lịch sử triều Nguyễn đang thu hút sự chú ý của đông đảo giới nghiên cứu, trong đó vấn đề
ngoại giao của triều Nguyễn là vấn đề được sự quan tâm37T42T 37T42Tđặc biệt. Nghiên cứu quan hệ ngoại
giao của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 nhằm khôi phục bức tranh lịch sử ngoại giao
của Việt Nam trong nửa thế kỷ là cần thiết để tăng cường sự hiểu biết về vị trí của Việt Nam
trên trường quốc tế thế kỷ 19. Nghiên cứu quan hệ ngoại giao của Việt Nam dưới triều Nguyễn
còn để biết phạm vi quốc tế chủ yếu, ảnh hưởng đến các vấn đề ngoại giao, nội trị và tiến trình
lịch sử đất nước. Đồng thời thực hiện đề tài quan hệ ngoại giao còn nhằm mục đích là sáng tỏ
hơn những nhân tố chủ quan và khách quan góp phần hình thành nên đường lối ngoại giao
37TQuan hệ ngoại giao của Việt Nam với nhà Thanh (Trung Quốc) là mối quan hệ chủ yếu
phong kiến Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 19.
trong các mối quan hệ ngoại giao từ trước cho đến nửa đầu thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, nó chi
4
phối và có tác động đến tất cả các mối quan hệ của Việt Nam với các nước khác. Đây37T42T 37T42Tlà vấn đề
37TVề quan hệ ngoại giao của Việt Nam với phương Tây, điển hình là nước Pháp, cũng là
nhạy cảm và quan trọng trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam.
mối quan hệ cần được xem xét dưới nhiều góc độ. Khi nghiên cứu quan hệ này, chúng tôi cố
gắng lý giải đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Pháp. Trên cơ sở lý giải đó, luận án
rút ra những tiền đề đưa đến việc hoạch định đường lối ngoại giao của triều đình Huế, và góp
37TQuan hệ của triều Nguyễn với các nước láng 11T37Tgiềng 11T37Tnhư Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng
một đánh giá thỏa đáng hơn về những đóng góp và hạn chế của vương triều này.
cũng là vấn đề lý thú và 6T37Tcần 6T37Tđược nghiên cứu một cách nghiêm 11T37Ttúc, 11T37Tkhách quan trong đó nếu
như quan hệ của triều Nguyễn với nước Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19 là mối quan hệ về cơ
bản là hòa hiếu, bình thường thì với Vạn Tượng và Chân Lạp là hai quốc gia luôn có những
biến động chính trị trong 6T37Tnửa đầu6T37T thế kỷ 19, quan hệ của triều Nguyễn với hai nước này là một
loại hình quan hệ trong quan hệ khu vực lúc bấy giờ. Trên cơ sở 11T37Tnguồn 11T37Tthư 11T37Ttịch cổ, 11T37Tnhững tư
liệu thành văn ghi chép về quan hệ giữa ba nước, chúng tôi cố gắng tái hiện lịch sử quan hệ
ngoại giao Việt Nam - Vạn Tượng, Việt Nam - Chân Lạp trong 6T37T50 6T37Tnăm đầu của 6T37Tthể 6T37Tkỷ 19. Đây
là những mối quan hệ lịch sử ít nhiều không mang tính 6T37Tchất 6T37Tbình đẳng. Qua quan hệ của Việt
Nam với ba nước này cũng 6T37Tnhư 6T37Tvới Trung Quốc, chúng tôi sẽ góp phần xác định kiểu quan hệ
37TNghiên cứu đề tài này, luận án cũng mong được góp phần tìm hiểu thêm các đường lối,
ngoại giao có tính phổ biến giữa các quốc gia phương Đông.
chính sách đối ngoại của các nước là đối tượng ngoại giao của Việt Nam như: Trung Quốc,
Pháp, Xiêm La,...trong nửa đầu thế kỷ 19, thời điểm mà chủ nghĩa tư bản phương Tây tăng
37TCuối cùng đề tài còn nhằm mục đích phục vụ cho việc giảng dạy chuyên đề ở đại học và
cường sự xâm nhập Châu Á.
tập hợp một hệ thống tư liệu về lịch sử ngoại giao Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho người
37TUÝ nghĩa thực tiễn:
37THiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi. Việt Nam đang bước vào thời
nghiên cứu về lịch sử và lịch sử ngoại giao.
kỳ “mở cửa”, tăng cường hội nhập với thế giới, thực hiện đa phương, đa dạng hóa ngoại giao.
Do vậy, việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam 11T37Tcó ý 11T37Tnghĩa thực tiễn sâu sắc. Qua việc
nghiên cứu này, chúng 11T37Tta 11T37Tcó điều kiện nhìn lại những trang sử ngoại giao đầy biến động của
5
dân tộc. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử từ thành công hay thất bại trên lĩnh
vực ngoại giao của triều Nguyễn. Triều Nguyễn là quá khứ rất gần với hiện tại nên những bài
37TNghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19 nhằm rút ra bài học về quan
học này có ý nghĩa thực tiễn cao đối với quan hệ ngoại giao trong thời đại của chúng ta.
hệ biện chứng giữa nội trị và ngoại giao. Từ bài học của quá khứ chúng ta có thể xây dựng nên
những luận cứ khoa học cho đường lối ngoại giao hiện đại của Việt Nam trước yêu cầu hội
nhập, mở cửa và tăng cường mở rộng các mối quan hệ với khu vực và các mối quan hệ quốc tế
rộng lớn hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
37TVề quan hệ ngoại giao và những họat động ngoại giao của triều Nguyễn từ trước cho đến
nay, có nhiều sử gia trong và ngoài nước đề cập đến, nhưng tất 11T37Tcả 11T37Tđều chưa thành một công
trình nghiên cứu chuyên biệt và chuyên sâu. Các tác phẩm của Quốc sử quán triều Nguyễn
như “ Đại Nam thực lục” “Quốc triều chính biên” đã cung cấp những hoạt động ngoại giao của
các vua Nguyễn theo hình thức biên niên. Đây là nguồn tư liệu có độ tin cậy cao, song bộ sử
37TCác tác phẩm khác như “Việt sử thông giám cương mục” được viết vào cuối thế kỷ 19
này được viết ra theo quan điểm của Triều Nguyễn.
37TNguồn thư tịch cổ quan trọng còn lại cho đến nay là những 11T37Ttập 11T37TChâu bản 11T37Tcủa 11T37TTriều
cũng có nhiều thông tin 11T37Tvề 11T37Tngoại giao Triều Nguyễn.
Nguyễn. Đó là những giấy 11T37Ttờ 11T37Tđược vua xem qua hoặc chấm vào một dấu son, hoặc cho ý kiến.
Những tờ Châu bản được đóng theo từng Bộ, đã cho chúng ta biết toàn bộ sinh hoạt của đất
37TMột cuốn sử quan trọng khác là “Hoàng triều bang giao đại điển” 11T37Tgồm 16 11T37Tquyển, gom
nước ta kể cả lĩnh vực ngoại giao.
góp công văn giao thiệp của Việt Nam với Trung Quốc 11T37Ttừ 11T37T1789 - 1815. Cuốn “Lịch sử
hiến 11T37Tchương 11T37Tloại chí” được viết từ 1809 - 1821 của Phan Huy Chú cũng có đề cập đến quan hệ
37TTiếp đến còn có sách “Đại Nam liệt truyện” ghi chép về một số nước lân cận, tạo điều
Việt Nam - Trung Quốc cuối thế kỷ 18.
37TNgoài ra, một số tác phẩm mang tính tổng quát như “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”
kiện cho chúng ta hiểu hơn các đối tượng mà triều Nguyễn có quan hệ ngoại giao.
đã nêu những điển chế về bộ Lễ và ngoại giao. “Minh Mạng chính yếu” cũng có đề cập đến
6
nhiều 11T37Tsự 11T37Tkiện 11T37Tngoại 11T37Tgiao thời Minh Mạng11T37T. “Quốc 11T37TTriều sử 11T37Ttrí 11T37TVạn Tượng nghi lục” của tác
giả Ngô Xuân Lãng cũng có đề 11T37Tcập 11T37Tđến quan hệ Việt Nam - Vạn Tượng trong một giai đoạn
37TTừ thời Pháp thuộc đến trước năm 1975,các37T42T 37T42Thoại động ngoại giao 11T37Tthời các 11T37Tvua đầu triều
ngắn (1827 - 1828).
Nguyễn cũng được giới thiệu trong các tác phẩm như “Sơ thảo lược sử” của Minh Tranh (xuất
bản năm 1955), “Coup d' oeil sur histoire d37T42T' 37T42TAnnam” của Đỗ Đình Nghiêm, “Quốc 11T37Tsử 11T37Tđi biên”
của Phan Thúc Trực, “Việt Nam sử 11T37Tlược” 11T37Tcủa Trần Trọng Kim, “Việt Nam ngoại giao sử” của
Ưng Trình, “Chống xâm lăng” của Trần Văn Giàu, “Việt sử tân biên” của Phạm Văn Sơn,
“Lịch sử Việt Nam sơ 11T37Tgiảng” của Văn Tân v.v... nhưng tất cả chỉ được viết dưới dạng
sách giáo khoa hay 11T37Tnhững biên khảo, chưa trình bày một cách toàn diện và chuyên khảo về
lĩnh vực ngoại giao Triều Nguyễn. Các tác giả Lê Hữu Thu, Nguyễn Thế Anh, Dương Quảng
Hàm, Đào Duy Anh... đều có viết về triều Nguyễn nói chung nhưng không đi sâu37T42T 37T42Tvào quan hệ
37TMột số giáo trình lịch sử Việt Nam cận đại cũng 6T37Tđã 6T37Tviết về triều Nguyễn và tình hình xã
ngoại giao.
hội Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Gần đây có các nhà “Huế học” như Phan Thuận An, Mai
Khắc Ứng, Nguyễn Đắc Xuân... đều có những công trình nghiên cứu về triều Nguyễn, giúp
chúng ta phần nào hình dung cuộc đời của vua và chúa Nguyễn trong từng bối cảnh lịch sử cụ
37TCác Luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ nghiên cứu về triều Nguyễn trên từng khía cạnh cụ thể cũng
thể.
được thực hiện thành công khá nhiều 6T37Tnhư 6T37Tluận án Tiến sĩ Nguyễn Minh Tường về pháp luật
Triều Nguyễn, luận án của Thạc sĩ Phan Kim Dung về đường lối ngoại giao của Nguyễn Ánh
Gia Long... cung cấp cho giới nghiên cứu những thông tin và cách tiếp cận mới về triều
37TNhững công trình chuyên về lĩnh vực ngoại giao giữa Việt Nam và một số nước như
Nguyễn.
“Lịch sử quan hệ Trung - Việt” của Tatsuroo Yamamoto (Nhật Bản) nghiên cứu quan hệ Việt
- Trung từ khi Khúc Thừa Dụ giành được quyền tự chủ đến 11T37Tnăm 11T37T1884. Đây là một công trình
37TCác nhà nghiên cứu phương Tây, chủ yếu là các tác giả 6T37Tngười 6T37TPháp 6T37Tnhư 6T37TM. Gaultier,P.
nặng về trình bày sự kiện.
Cultru, Georges Taboulet, Maybon, A. Launay v.v...đều có những công trình về lịch sử Việt
7
Nam nói chung và về triều Nguyễn nói riêng. Đó là những sách giáo khoa và mang tính tổng
37TCông trình nghiên cứu quan hệ giữa triều Nguyễn với nước ngoài không nhiều lắm và
quát chung, hoặc về từng vị vua Nguyễn riêng biệt.
mang tính chất phổ thông như: “Histoire du Vietnam” của Masson André (Pháp), “The
smaller dragon a political history of Vietnam” của Buttinger Joseph (Anh), Jean Cheneaux có
37TVào những năm 60 của thế kỷ 20 có một tác giả Việt Nam hoàn thành luận án Tiến
tác phẩm: “Contribution à l’histoire de la nation Vietnamienne”...
sĩ 1T37Ttại 1T37TPháp với đề tài “ Thiên 1T37Tch 1T37Túa giáo và chủ nghĩa thực 6T37Tdân 6T37Ttại Việt Nam 1857 - 1914”
cũng 6T37Tđã 6T37Tcó nhiều 6T37Tlý 6T37Tgiải về mối quan hệ Việt Nam - Pháp. Mội tác phẩm gây sự chú ý trong
giới nghiên cứu 6T37Tlà 6T37Tcuốn “ Đại Nam đối điện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885” của Tsuboi
- một giáo sư Nhật Bản. Tsuboi đã đề cập đến một vài mối quan hệ của triều Nguyễn với các
37TSách chuyên khảo, chuyên sâu37T42T 37T42Tvề ngoại giao triều Nguyễn không nhiều. 6T37TNăm 6T37T1948,
nước nhưng sơ lược và khái quát.
Phan Khoang có xuất bản cuốn “ 6T37TViệt 6T37T- Pháp bang giao sử lược” chỉ 6T37Tphân tích 6T37Tquan hệ của
37TTừ năm 1985 đến 1998, tuy giới nghiên cứu trong và ngoài nước đã công bố nhiều công
Triều Nguyễn với nước Pháp.
trình có giá trị, phản ánh nhận thức mới về triều Nguyễn, nhưng vấn đề quan hệ ngoại giao của
triều Nguyễn với một số nước vào nửa đầu thế kỷ 19 vẫn chưa được nghiên cứu hệ thống và cụ
37TNhận thức được tầm quan trọng những vấn đề trong lịch sử cận đại, và những 11T37Ttác động
thể.
sâu sắc của thời kỳ lịch sử này đối với tiến trình 11T37Tlịch 11T37Tsử cận đại, chúng 11T37Ttôi đã chọn đề tài
về lĩnh vực quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn. Kế thừa tất cỏ các công trình trên, luận án cố
gắng nghiên cứu có 11T37Thệ 11T37Tthống hơn, sâu sắc hơn về quan hệ ngoại giao dưới các triều vua đầu
37TNgoài các 6T37Ttư liệu 6T37Tnói trên, luận 6T37Tán 6T37Tcòn tham khảo các bài viết có liên quan đến đề
thời Nguyễn.
tài 6T37Ttrên 6T37Tcác 6T37Ttạp 6T37Tchí chuyên ngành trong nước 6T37Tnhư: 6T37TNghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Đông Nam
Á... và các tạp chí nước ngoài như: B.E.F.E.O, B.S.E.I, R.I, F.A...Những nguồn tư liệu đều
được kiểm tra, đối chiếu, xử lý, phân loại theo yêu cầu của luận án. Mặc dù rất cố gắng, chúng
tôi vẫn chưa đủ khả năng và không có điều kiện để tham khảo trực tiếp nhiều tài liệu hiện nay
đang nằm trong kho lưu trữ của Pháp và một số nước khác trên thế giới.
8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
37TNghiên cứu quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn là một vấn đề rất 6T37Trộng, 6T37Tdo khả năng có
hạn và để bảo đảm độ sâu của đề tài, luận án tập trung nghiên cứu các mối quan hệ ngoại giao
37T- Quan hệ ngoại giao với Thanh triều (Trung Quốc). 6T37TĐây 6T37Tlà nước láng 6T37Tgiềng 6T37Tcó mối quan
của triều Nguyễn với một vài nước tiêu biểu như:
hệ lâu đời với Việt Nam, có cùng chung với Việt Nam một biên giới khá dài.
- 37TQuan hệ ngoại giao với Pháp, một đại diện của phương Tây và là nước trong nửa sau
thế kỉ 19 xâm lược và đô hộ Việt Nam.
- 37TQuan hệ ngoại giao giữa Triều Nguyễn với Xiêm La, 6T37TChân 6T37TLạp và Vạn Tượng. Đây37T42T 37T42Tlà
ba nước trong cùng khu vực cũng có quan hệ lâu đời với Việt Nam. Tính chất, nội dung của
quan hệ giữa Việt Nam và ba nước trên có liên quan chặt chẽ đến sự nghiệp bảo vệ và phát
37TNhìn chung, quan hệ ngoại giao của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 19 có rất nhiều đối
triển đất nước Việt Nam.
tượng để nghiên cứu. Song không gian chính vẫn là Việt Nam với các quốc gia láng giềng phía
Bắc như Trung Quốc, phía Nam và Tây Nam như: Xiêm La, Vạn Tượng, Chân Lạp và mở
37TThời gian nghiên cứu được xác định trong nửa đầu thế kỷ 19, từ thời Gia Long cho đến
rộng sang nước Pháp.
37TĐể có cơ sở phân tích, lí giải vấn đề, luận án sẽ mở rộng thời gian ngược về trước thời
đầu thời Tự Đức (1802 - 1858).
Gia Long để có thể trình bày vấn đề một cách hệ thống hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu:
42TUPhương pháp nghiên cứưU.
37TTrong quá trình thực hiện đề tài, tác giả dựa trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học để trình bày
phân tích, nhận định các mối quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn, từ đó rút ra bản chất, quy
luật, khuynh hướng chủ đạo của sự vận động, phát triển các sự kiện hiện tượng lịch sử. Hơn
đâu hết, với một vương triều có thể nói là hết sức phức tạp 6T37Tlâu 6T37Tnay vẫn tồn tại nhiều quan điểm
đánh giá khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau, việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể để
nghiên cứu càng là yêu cầu cần đặt lên hàng dầu.
9
37TKhi thực hiện đề tài, tác giả dùng phương pháp hệ thống và so sánh, đối chiếu lịch sử để
nghiên cứu. Tác giả không tách rời quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với toàn bộ những
hoạt động khác của vương triều này đồng thời cũng không tách rời việc nghiên cứu quan hệ
ngoại giao triều Nguyễn với truyền thống quan hệ ngoại giao của nước ta trong lịch sử, với bối
cảnh chung của các 6T37Tnước 6T37Ttrong khu vực. Việc nhìn nhận đối lượng trong tính hệ thống và
trong các mối quan hệ có tính so sánh đó sẽ góp phần làm nổi bật thực chất, đặc điểm và
37T42Tnhững đánh giá khách quan hơn, khoa học hơn về những đóng góp và
có37T42T
hạn 6T37Tchế 6T37Tcủa 6T37Ttriều 6T37TNguyễn nên lĩnh vực ngoại giao cũng như về vai trò, trách nhiệm lịch sử của
42TUNguồn tư liêu
37TLuận án được thực hiện dựa trên nhiều nguồn tư liệu khác 6T37Tnhau:
triều Nguyễn nói chung.
- 37TThư tịch cổ về các nước Đông Nam Á.
- 37TTư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn như bộ “ Đại Nam thực lục”, “Khám Định Đại
Nam hội điển sự lệ “, “Đại Nam liệt truyện”,”Minh Mệnh chính yếu”, “Mục lục Châu bản
triều Nguyễn”, “Quốc triều chánh biên toát yếu”... Những sử liệu này được viết bằng chữ Hán,
tác giả luận án dựa vào bản dịch của Viện sử học.
- 37TCác giáo trình lịch sử Việt Nam, các chuyên đề, luận văn, luận án được viết bằng tiếng
Việt, Pháp, Anh, Nga. Những tài liệu sử học thế giới và Đông Nam Á như: “Lịch sử Trung
Quốc” của Nguyễn Hiến Lê, “Trung Quốc sử lược” của Phan Khoang, “Lịch sử quan hệ Hoa
- Việt” của Quách Đình Dĩ, “Thanh Số 6T37Tcảo”...6T37T”Lịch sử Thái Lan”,” Lịch sử vương quốc Thái
Lan” của Lê Văn Quang, “Lịch sử Đông Nam Á thời cổ”,”Chân Lạp phong thổ ký” của Châu
Đạt Quan, “Lịch sử Lào”, “Lịch sử Lào - Viên Chăn” của Vi-ra-vông (Nguyễn Thế Vĩnh
dịch), “Lịch sử Cam-pu-chia”... Những tài liệu này được sử dụng để thực hiện các nội dung
quan hệ giữa triều Nguyễn với các nước trên.
- 37TCác tư liệu liên quan đến đề thi, từ các tạp chí, báo tiếng Việt và37T42T 37T42Ttiếng Pháp cũng là
nguồn tham khảo quan trọng.
- 37TNgoài ra những tư liệu từ các hội nghị khoa học về triều Nguyễn 6T37Tđược 6T37Ttổ chức
trong 6T37Tnước, 6T37Ttư liệu từ các hội nghị khu vực Đông Nam Á... cũng được 6T37Ttác 6T37Tgiả tham khảo khi
thực hiện đề tài.
10
5. Những đóng góp của luận án:
37TQua sưu tầm, xử lý, nghiên cứu nhiều nguồn tư liệu khác nhau, tác giả nêu lên được các
vấn đề sau:
- 37TKhôi phục một cách hệ thống, hoàn chỉnh về cơ bản lịch sử ngoại giao Việt Nam nửa
đầu thế kỷ 19. Nội dung - thực chất - tính chất của các mối quan hệ ngoại giao trên.
- 37TLuận án xác lập những tiền đề văn hóa, chính trị, lịch sử để làm sáng tỏ những đặc điểm
có tính quy luật trong việc hoạch định những 6T37Tđường 6T37Tlối, chính sách ngoại giao của triều
Nguyễn. Trên cơ sở đó, luận án nêu lên những đóng góp và hạn chế của quan hệ ngoại giao
triều Nguyễn, tác động của nó đối với tiến trình lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19.
- 37TTrên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nhận định, đánh giá đã có về ngoại giao triều
Nguyễn, tác giả mong muốn đưa ra vài kết luận theo nhận thức mới về triều Nguyễn, về giai
cấp phong kiến và chế độ phong kiến trong lịch sử dân tộc.
- 37TTừ 6T37Tnhững kinh nghiệm ngoại giao của triều Nguyễn cũng như của lịch 6T37Tsử ngoại giao
thời phong kiến, luân án góp37T42T 37T42Tphần rút ra những bài học có tính thực tiễn đối với ngoại giao thời
hiện đại.
11
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19
1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỷ 19:
37TMột nội dung quan trọng của lịch sử thế giới thời cận đại vào đầu thế kỷ 19 là sự phát
triển và toàn thắng của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Châu Âu và Bắc
Mỹ 6T37Tđã 6T37Ttiến hành Cách mạng tư sản từ thế kỷ 16 và đến những năm 6T37T50 6T37Tcủa thế kỷ 19 thì hoàn
thành cách mạng tư sản. Chủ nghĩa tư bản37T42T 37T42Ttrở thành hệ thống thế giới và giai cấp tư sản trở
thành giai cấp thống trị - có quyền lực vô hạn về kinh tế. Để phát triển và tăng cường lợi nhuận
về kinh tế, giai cấp tư sản đã cách mạng hóa công nghiệp, cải tiến kỹ thuật thực hiện cuộc cách
mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 cho đến giữa thế kỷ 6T37T19, 6T37Tđể đưa lại một nước thay đổi lớn lao
trong kinh tế. Lao động bằng máy móc ra đời, thay thế cho lao động thủ công chân tay
37TTrong nửa đầu thế kỷ 6T37T19, 6T37Tdo 6T37Tnhững 6T37Ttiến bộ vượt bậc về kinh tế của khoa học kỹ thuật thời
đã 6T37Tđưa 6T37Tnăng suất lao động lên cao chưa từng có.
cận đại, giai cấp 6T37Ttư 6T37Tsản ở các cường quốc phương Tây đã có thể tiến xa hơn trong hành trình
tìm kiếm và khám phá ra những vùng đất xa xôi mà trước khi họ chưa có khả năng, điều kiện
để đặt chân đến. Lợi dụng 6T37Tnhững 6T37Tphát kiến về địa lý, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, giai
cấp tư sản phương Tây tăng cường tìm kiếm xâm lược thuộc địa nhằm đáp ứng cho sự phát
triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở chính quốc. Một trong những nhân tố tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tìm kiếm và37T42T 37T42Txâm lược thuộc địa của tư bản Âu - Mỹ là sự tiến bộ của 6T37Tngành 6T37Tgiao
thông vận tải. Năm 1830, trên 6T37Tthế 6T37Tgiới có không quá trên 332 km đường sắt, đến năm 1870 con
số trên trở thành 200.000 km. 6T37TNăm 6T37T1807, chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước đầu tiên xuất hiện
trên thế giới, đến 6T37Tnăm 6T37T1836 ở Anh - một trong những 6T37Tnước 6T37Tđầu tiên làm cách mạng 6T37Ttư 6T37Tsản
37TNgoài sự phát triển của đường sắt, đường thủy, đường hàng không cũng đạt những thành
thành công - đã có 500 tàu thủy hoạt động.
tựu đáng kể. Ngành viễn thông cũng đã phát triển nhanh chóng và tạo điều kiện thuận lợi tăng
cường sự hiểu biết của phương Tây đối với phương Đông hoang sơ và giàu có. Cuộc cách
mạng công nghiệp đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ 18, 19 đã tạo điều kiện cho việc
mở mang đất của thực 6T37Tdân 6T37Tđược tăng cường. Những đế quốc dần hình thành với nhiều vùng
đất, nhiều dân tộc khác nhau.
12
37TNhư vậy, vào đầu thế kỷ 19 cùng với sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản trên thế giới là sự
tăng cường xâm nhập và 22T37Tnô 22T37Tdịch thuộc địa của phương Tây. Quá trình phát sinh, phát37T42T 37T42Ttriển của
chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự xâm lược thuộc địa. Ngay trong buổi bình minh của chủ nghĩa
tư bản, vào thế kỷ 16 thì đại bộ phận của châu Mỹ - Latinh đã trở thành thuộc địa của đế quốc
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nhiều vùng duyên hải châu Á, châu Phi cũng không 11T37Tthoát 11T37Tkhỏi số
phận trở thành thuộc địa của tư bản phương Tây. Từ cuối thế kỷ 18 vì những lý đo kinh tế 22T37T-
chính 22T37Ttrị như đã trình bày, việc xâm chiếm thuộc địa được 11T37Tgiai 11T37Tcấp tư sản thống trị các nước
đẩy mạnh. Nói một cách khác, chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển thì nguy 11T37Tcơ 11T37Tđe đọa độc
37TGiai cấp tư sản phương Tây đã đi khắp nơi trên thế giới để tìm đến mọi mục tiêu có thể
lập của các nước phương Đông càng trở nên nghiêm trọng.
thâm nhập. Họ không từ bất cứ một thủ đoạn nào từ mua chuộc, lừa bịp đến dùng vũ lực, đàn
áp quân sự và núp dưới chiêu bài đi truyền giáo, thương mại... để che đậy âm mưu xâm lược
37THầu hết các nước tư bản phương Tây đều có những lý do xác đáng để biện minh cho việc
của mình.
đi tìm và xâm chiếm thuộc địa của mình. Chính sách bành trướng thuộc địa là động cơ chung
lôi cuốn các37T42T 37T42Tnước châu Âu, và nội dung chủ yếu trong đường lối đối ngoại của tư bản phương
Tây là xâm lược thuộc địa. Thuộc địa là nơi có ý nghĩa quan trọng đặc biệt với chính quốc: nơi
cung cấp lương thực, nguyên liệu, nhiên liệu, nhân công; nơi tiêu thụ hàng hóa của chính quốc
và đem lại nguồn lợi 11T37Tnhuận 11T37Tkếch xù cho nhà tư bản. Do tầm quan trọng của thuộc địa như vậy,
nên giai cấp tư sản phương Tây đã bất chấp mọi luật lệ, quyền lợi của các dân 11T37Ttộc 11T37Tphương
37TVào thế kỷ 19, hầu hết các quốc gia châu Á, Phi, Mỹ - Latinh đang ở trong giai đoạn phát
Đông để tìm cách xâm nhập vào châu Á, Phi, Mỹ - Latinh.
triển của chế độ phong kiến. Ở một số 22T37Tnước 22T37Tthuộc châu Phi 22T37Tcòn 22T37Tở trong tình trạng bộ lạc và
thậm chí đang còn tồn tại chế độ cộng sản nguyên thủy. Đầu thế kỷ 19 châu Phi đã tự làm suy
yếu mình bởi những cuộc xung đột và nội chiến liên miên và trở thành đối tượng cho tham
37TCùng số phận với châu Phi là khu vực châu Mỹ - Latinh, nhiều đất đai ở37T42T 37T42Tchâu Mỹ -
vọng của các quốc gia tư bản Tây phương.
Latinh bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm chiếm. Đến đầu thế kỷ 19 thì toàn bộ châu Mỹ -
Latinh đã mất độc lập. Thực dân phương Tây đã tìm mọi cách thiết lập trật tự của chúng trên
13
khu vực châu Mỹ - Latinh nhằm kìm hãm các dân tộc châu Mỹ - Latinh trong yếu kém, lạc hậu
37TBước vào thế kỷ 19, châu Á đang ở trong giai đoạn phát37T42T 37T42Ttriển của chế độ phong kiến.
để dễ bề thống trị và nô dịch.
Nhìn riêng lẻ từng quốc gia thì chúng ta thấy vẫn có sự phát triển 6T37Tnhất 6T37Tđịnh nhưng so sánh với
phương Tây37T42T 37T42Tđã tiến hành cách mạng công nghiệp thì châu Á có trình độ phát triển chậm chạp
và kém hơn. Đa số các vương quốc phong kiến châu Á đều có nền kinh tế nông nghiệp, kỹ
thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp, chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến phần nào
triệt tiêu động lực sản xuất của người lao động, đời sống nông dân, nhân dân lao động nói
chung lâm vào cảnh bần cùng. Công - thương nghiệp cũng chẳng khá hơn, mọi hoạt động của
thương mại đều bị trở ngại lớn, đó là chính sách “bế quan” , một chính sách mà hầu như nước
37TTrung Quốc, Nhật Bản, Xiêm La, Việt Nam... đều từ chối mở cửa thông thương với bên
châu Á nào cũng áp dụng như một cách tự vệ trước nguy cơ xâm nhập của phương Tây.
ngoài. Tại Trung Quốc chính sách này được tăng cường từ giữa đời Thanh. Cuối thế kỷ 18 đến
đầu thế kỷ 19, nhà Thanh chỉ mở một cửa biển Quảng Châu để thông thương với nước ngoài.
Nhật Bản dưới sự trị vì của Xô-gun cũng đóng cửa không chịu thông thương với nước ngoài
và chỉ mở cửa bể Nagasaki. Xiêm, Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á cũng khước từ
mọi đề nghị thông thương của phương Tây, trong khi “điều quan trọng là chủ nghĩa tư bản
không thể tổn tại và phát triển rộng nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của
nó, không khai thác những xứ sở mới và không lôi cuốn các xứ sở cũ không phải tư bản chủ
nghĩa vào cơn lốc kinh tế thế giới” [35,766]. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nhu cầu
thuộc 6T37Tđịa 6T37Tcàng gia tăng, giai cấp tư sản tìm mọi cách mở cửa vào thị trường châu Á, trong
khi 6T37Txã 6T37Thội châu Á vẫn tiếp tục ở trong “giấc mộng của sự bế quan”. Các nước châu Á từ chối
quan hệ với phương Tây, cố thủ trong một đường lối đối ngoại “tự cô lập”. Tất cả điều đó
khiến cho châu Âu ý thức được ưu thế của mình, người phương Tây thực tế hơn, khoa học hơn
và vật chất hơn trong công cuộc đi chinh phục đất đai. Họ đã lợi dụng sự lạc hậu, yếu kém về
kinh tế, chính trị, xã hội của các nước châu Á để bắt ép hoặc dùng ưu thế về sức mạnh quân sự,
buộc giai cấp cầm quyền các nước này “mở cửa”, mở đường cho công cuộc đi “khai hóa” một
cách có hệ thống vào đầu thế kỷ 19. Lịch sử của phong trào đấu tranh chống thực dân đầu thế
kỷ 19 ở phương Đông cho thấy một điều là giáo, mác, gươm, đao không thể nào đương đầu nổi
với vũ khí kỹ thuật tối tân của phương Tây. Tuy nhiêu tinh thần và ý chí bất khuất của
các 6T37Tdân 6T37Ttộc châu Á buộc kẻ đi xâm lược phải kính phục. Sự thất bại của các37T42T 37T42Tcuộc kháng chiến
14
chống xâm lược ở một số nước phương Đông sau này do nhiều nguyên nhân: Đó là sự yếu
kém về tiềm lực đất nước, sự cô lập với thế giới bên ngoài dẫn tới sự kém nhạy bén với tình
hình phương Tây, sự lạc hậu về kỹ thuật tác chiến v.v...Và quan trọng hơn đó là tình trạng chia
cắt, biệt lập trong đa phần các nước châu Á, điều này tạo điều kiện cho thực dân dễ dàng thực
hiện chính sách “chia để trị”. Thực tế lịch sử ở Ấn Độ cho thấy, khi Anh chiếm Ấn Độ, đất
nước này đang bị chia cắt thành 560 lãnh địa (gọi là công xã nông thôn), các lãnh chúa của các
công xã lại luôn gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Các Mác đã tả về sự tồn tại của các công
xã trên như một bằng chứng sinh động và chân thực về xã hội của phần lớn các vương quốc
châu Á trước lúc người da trắng đến: “ Những công xã ấy đã hạn chế lý trí con người trong
những khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói
buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của các quy tắc cổ truyền, làm cho nó mất hết mọi sự vĩ
đại, mọi tính chủ động lịch sử” [46,559]. Không riêng gì Ấn Độ, Nhật Bản thời kỳ này tình
trạng cát cứ giữa các phiên cũng là nguyên nhân hạn chế rất lớn đến sự phát triển của đất nước
này. Nước Lào từ năm 1700 cũng bị chia cắt thành hai xứ: Luang - Phabang và Vientiane, gần
37TVề phía giai cấp cầm quyền phong kiến châu Á, đứng trước nguy cơ đe dọa độc lập quốc
100 năm sau mới thống nhất, nhưng sau đó luôn bị các nước lớn xâm lấn, chia cắt...
gia, họ lại thi hành một chính sách đối nội không đáp ứng yêu cầu và quyền lợi của đất nước,
của dân tộc. Nhà nước phong kiến sử dụng ngân sách quốc gia vào những việc không cần
thiết: xây lâu đài, lăng mộ v.v...Trong lĩnh vực ăn chơi phung phí thì vua quan nhà Thanh
(Trung Quốc) là ví dụ tiêu biểu nhất. Đặc biệt khi thuốc phiện được đưa vào Trung Quốc, thì
phần lớn quan lại, quân lính Trung Quốc đâm ra nghiện ngập tạo nên sự tha hóa trong bộ máy
chính quyền nhà nước. Ở Việt Nam các vua Nguyễn trước nguy cơ mất nước vẫn thực hiện
37TĐa số giai cấp thống trị châu Á về cơ bản thiếu một sự chuẩn bị đối phó với nguy cơ
việc xây lăng mộ quy mô và tốn kém (việc xây dựng Vạn niên cơ của vua Tự Đức).
ngoại xâm, không tích cực xây dựng, củng cố quốc phòng, chấn hưng và phát triển kinh tế,
thực hiện việc đổi mới vế các mặt chính trị, kinh tế, quân37T42T 37T42Tsự, văn hóa, tự mình làm suy yếu
mình. Trong tình thế đó, nhân dân dù có tinh thần chống xâm lược rất ngoan cường, cuối cùng
giai cấp phong kiến cũng phải nhượng bộ thực dân. Như vậy, sự phát triển mạnh mẽ của chủ
nghĩa tư bản thế giới trong đầu thế kỷ 19 là tiền đề dẫn đến việc tăng cường chính sách bành
trướng thuộc địa của các cường quốc tư bản. Châu Á là một trong những mục tiêu mà tư sản
15
phương Tây chú ý và tìm cách xâm37T42T 37T42Tnhập. Phần lớn các quốc gia phong kiến ở đây đã không tự
37TTrong cuộc chạy đua vào châu Á , tư bản Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan... là những nước chiếm
bảo vệ nổi mình và trở thành miếng mồi của chủ nghĩa thực dân.
được nhiều thuộc địa hơn cả. Riêng khu vực Đông Nam Á, Anh và Pháp đã khống chế nhiều
vùng kinh tế - chính trị quan trọng của con đường biển từ Âu sang Á. Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha chiếm khu vực đảo (Indonesia, Philippin). Anh, Mỹ khống chế các vùng Đông Bắc Á,
37TTại Đông Nam Á (South East Asia), một khu vực địa lý, lịch sử quan trọng, từ thế kỷ 16
Nam và Tây Nam Á...
đến đầu thế kỷ 19 cũng bắt đầu quá trình suy thoái. Đối diện với văn minh phương Tây và với
nguy cơ xâm37T42T 37T42Tnhập của tư bản nước ngoài, giai cấp phong kiến cầm quyền các vương quốc
ở37T42T 37T42Tkhu vực Đông Nam Á đều lúng túng, bế tắc. Sự trì trệ của chế độ phong kiến đa
góp 6T37Tphần 6T37Tlàm cho giới thống trị luẩn quẩn không tìm thấy đối sách thích hợp để thay đổi vận
37TTrong suốt ba thế kỷ (thế kỷ 16 đến thế kỷ 19) các nước Đông Nam Á 6T37Tđã 6T37Tkhông có một
mệnh đất nước và bắt kịp được vận hội mới của thời đại.
cải cách, canh tân gì 6T37Tnhằm thúc 6T37Tđẩy kinh tế 6T37T- xã 6T37Thội phát37T42T 37T42Ttriển theo kiểu của nước Nhật: “Các
xã hội truyền thống 6T37Tđã 6T37Tbóp chết tư tưởng cách 6T37Ttân 6T37Tliên kinh tế ngày càng đi vào suy vi,
tính 6T37Tphân 6T37Tliệt ngày càng lớn. Sức mạnh của nền thống nhất để duy trì độc lập trong những giai
đoan trước không còn nữa. Cuối thế kỷ 19 lần lượt các nước đều trờ thành thuộc địa hoặc vùng
ảnh hưởng của thực dân phương Tây” [13,31]. Sau khi tìm ra đường biển sang phương Đông,
người châu Âu lần lượt đến Đông Nam Á. Năm 1511 đánh dấu một mốc quan trọng trong việc
chinh phục vùng Đông Nam Á của thực 6T37Tdân 6T37Tphương Tây. Bồ Đào Nha chiếm Malacca. Năm
1790, Anh chiếm đảo Penang mở đầu việc xâm chiếm Malaysia, một năm sau Malaysia lần
lượt bị Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh xâm chiếm. Philippin cũng bị Tây Ban Nha dần dần thôn
tính từ giữa thế kỷ 16. Indonesia cũng bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan xâu xé và vào
năm 1811, Hà Lan độc chiếm được nước này. Singapo thì bị Anh chiếm vào năm 1824, Anh
thành lập “đất thuộc địa 11T37Teo 11T37Tbiển” , sáp nhập Singapo vào lãnh thổ của Anh. Tại Miến Điện,
thực dân Anh 6T37Tđã 6T37Ttiến hành ba cuộc chiến tranh vào các năm 1824 - 1826, 1826 -1853 và
37TThực dân Pháp thì tìm cách vào Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia).
1885 6T37Tđể 6T37Tthôn tính đất nước này. Sau khi chiếm Miến, Anh tiếp lục thôn tính Brunei.
16
37TNhư vậy vào37T42T 37T42Tthế kỷ 19 các nước tư bản 6T37TÂu 6T37T- Mỹ đã kỹ nghệ hóa và37T42T 37T42Tthị trường châu Mỹ,
châu Âu đã được phân chia ổn định nên các nước tư bản chỉ còn cách tìm đường sang các đại
lục khác. Đầu tiên tư bản tìm cách bành trướng vế kinh tế (expansion fínancière), rồi tiến đến
đô hộ chính trị, chiếm thuộc địa và lập khu vực 6T37Tảnh 6T37Thưởng 6T37Tkinh tế (zone 6T37Td' 6T37Tinfluence
économique...). 6T37TĐể 6T37Tđạt được mục đích đó, giai 6T37Tcấp tư sản đã quét sạch mọi trở ngại, mở con
37TTrong thế kỷ 19, Đông Nam Á 13T37Tđã 13T37Ttrở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương
đường khai thông từ Ân sang Á bằng những cuộc chiến tranh đẫm 6T37Tmáu.
Tây. Tại khu vực này chỉ có nước37T42T 37T42TXiêm La vẫn giữ được độc lập về chính trị. Thực chất Xiêm
chỉ độc lập về mặt hình thức, bởi bị ràng buộc hàng một loạt các hiệp ước bất bình đẳng được
37TTrong bối cảnh của cả khu vực như vậy, Việt Nam không thể đứng ngoài những biến
ký với Anh, Pháp, Hà Lan, Hoa Kỳ, Nhật, Đức...
động chính trị 6T37Tmà tư 6T37Tbản phương Tây tạo nên trong quá trình tìm kiếm thuộc địa và khu vực
37TViệt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực mà thực dân Pháp ráo riết tìm cách
ảnh hưởng.
đặt ách thống trị, đặc biệt là sau khi Pháp thất bại với Anh trong việc tranh giành quyền lợi trên
37TCũng 6T37Tnhư 6T37Tcác quốc gia khác ở Đông Nam Á, Việt Nam không có điều kiện, khả năng đi
bán đảo Ấn Độ từ cuối thế kỷ 18.
theo con đường của Nhật Bản, hoặc ở37T42T 37T42Ttrong hoàn cảnh như Xiêm La. Giai cấp thống trị phong
kiến Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 được lịch sử đặt ra những thử thách và chọn lựa vô cùng
nghiệt ngã: giữ vững độc lập nước nhà hay để mất nước vào tay thực dân đế quốc. Trong bối
cảnh lịch sử đó, các vua đầu triều Nguyễn đã có 6T37Tnhững 6T37Tcống hiến cũng như đã để lại những di
hại cho Tổ quốc.
1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19:
37TViệt Nam vào đầu thế kỷ 6T37T19 6T37Tnằm dưới sự trị vì của vương triều Nguyễn. Lịch sử đã ghi
nhận dưới triều Nguyễn Việt Nam là một nước thống nhất sau mấy trăm năm phân tranh, loạn
lạc. Triều Nguyễn đã xây dựng Việt Nam thành một nước có quy mô và gây được uy thế trong
vùng. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi, tái lập chế độ chuyên chế, từng bước xây dựng và
củng cố hệ thống cai trị. Triều Nguyễn được kiến thiết trong những 6T37Thoàn 6T37Tcảnh hết sức khó
khăn, gian khổ, nên Gia Long khi lập đế nghiệp đã tận tâm, nổ lực, kiên trì và khôn khéo để ổn
định chính sự, vỗ yên lòng dân, khôi phục kinh tế. Tuy nền quân chủ Việt Nam được phục hồi
17
trong cái xu thế tan rã chung của chế độ phong kiến trên thế giới từ đầu thế kỷ 17, nhưng bước
6TVề chính 6T37Ttrị - 6T37Txã hội, Gia 6T37TLong 6T37Tđã 6T37Tthiết 6T37Tlập lại 6T37Tbộ 6T37Tmáy 6T11Tchính 6T11Ttrị quân 6T11Tchủ, 11T37TVua là người
đầu Gia Long cũng đã ổn định lại được tình hình đất nước ta sau gần 30 năm chiến tranh.
đứng đầu nhà nước, có quyền lực vô hạn không một thứ quyền nào khống chế được. Mệnh
lệnh nhà vua ban ra phải được thi hành triệt để như điều 60 bộ luật Gia Long tin quy định “ai
nhận chế thư mà không thi hành sẽ bị tội đánh 13T37T100 13T37Ttrượng, nếu chậm thi hành thì bị tội xuy
đánh mỗi ngày 50 roi”. Dưới nhà vua, có 6 Bộ: bộ Lại, bộ Hình, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ
Công. Đứng đầu mỗi bộ là một vị quan chức thượng thư rồi đến các chức Tả, Hữu tham tri, Tả,
Hữu thị Lang. Ngoài ra có các cơ quan chuyên môn như: Đô sái viện, Hàn lâm viện, Thái y
viện... Nhưng để tập trung quyền lực Gia Long đặt ra lệ “Tứ bất” (không đặt chức Tể tướng,
không lấy Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu, không phong tước vương cho người khác).
Đến thời Minh Mạng, ông đặt thêm Cơ mật viện lấy 4 đại thần ở các bộ để cùng vua bàn bạc
việc quân quốc quan trọng. Minh Mạng còn đặt Tôn Nhân Phủ để quản lý việc của Hoàng gia.
Quyền hành quốc gia tập trung vào vua một cách tuyệt đối, phản ánh quá trình tập trung quân
chủ cao độ ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 19. Vua là thiên tử thay trời trị dân37T42T 37T42Tvà trong hoàn cảnh
rối ren, mong manh của thời hậu chiến, việc tập trung quyền lực như là biện pháp nhằm thúc
đẩy nhanh sự ổn định trong cả nước tuy nhiên sự tập trung quyền lực một cách tuyệt đối cũng
đã tạo ra mội khoảng cách lớn giữa vua với dân chúng, khiến cho vua khó tiếp cận với dân
21TVề 21T37Tquản lý hành chánh, Gia Long sắp đặt cơ cấu hành chính căn bản. Đây là lần đầu tiên
tình.
ở nước ta các tổ chức hành chính được xếp đặt rất qui củ theo nguyên tắc tập trung. Cả nước
được chia thành 23 trấn 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc Thành, từ Bình Thuận trở vào
gọi là Gia Định Thành. Cai quản Bắc Thành và Gia Định Thành là tổng trấn và phó tổng trấn.
Miền Trung có kinh đô Huế chịu sự cai trị trực tiếp của Triều đình Huế. Từ thời Minh Mạng
trở đi, chế độ trung ương tập quyền được tăng cường, Bắc Thành và Gia Định Thành bị bãi bỏ,
cả nước được chia thành 29 tỉnh, đồng thời vua còn đặt thêm chức quan ở37T42T 37T42Tmiền núi nhằm ổn
định trật tự trong cả nước theo nguyên tắc chung, và điều này tạo nên sức mạnh cho hệ thống
37TTheo tác giả của bộ “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” [95] thì hệ thống chính trị của
chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 19.
Việt Nam dưới thời Nguyễn là quan liêu, độc đoán .v.v...Thực ra trong bối cảnh lịch sử Việt
Nam từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, để thiết lập lại trật tự kỷ cương từ lâu bị xao lãng bởi
18
chiến tranh liên miên, cần phải có sự tập trung chuyên chính cao độ của nhà nước trung ương
tập quyền. Điều cơ bản là những ông vua đầu triều Nguyễn đều chăm lo việc nước, có trách
nhiệm với nước với dân. Theo John Barrow trong cuốn “Voyage à la Cohinchine” thì Gia
Long là một vị vua chăm chỉ và mẫu mực về cần chính “sáng 6 giờ ông đã thức dậy và tắm
nước lạnh, 7 giờ tiếp kiến các quan lại.. Đến trưa có khi một giờ ông mới ăn trưa và ăn tại hải
xưởng. Hai giờ chiều ông mới về Cung ngủ đến 5 giờ...Sau đó ông lại tiếp các võ quan thủy
bộ, các quan ký lục cai bạ, chấp thuận hay sửa chữa các dự án đề nghị. Các việc nước này làm
ông bận rộn tới nửa đêm...Tóm lại, vua Gia Long trong 24 giờ một ngày chỉ nghỉ chừng 6 giờ”
[140, 269]. Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng là những ông vua cần mẫn, chịu khó trong
công việc trị nước. Minh Mạng tự mình xem và phê duyệt tất cả những chương sở37T42T. “ 37T42TQuốc
triều chính biên toát yếu” viết: “Ngài minh thận việc chính trị: phàm những chương sớ trong
ngoài dâng lên, Ngài đều xem hết, việc thường, thời điện dụ cho các Nha, nghị chỉ phê phát,
còn việc quan trọng thời phần nhiều Ngài nghị soạn lời chỉ, hoặc giao bản thảo, hoặc châu phê.
37TNhìn chung, các vua Nguyễn 13T37Tđã 13T37Tcó những đóng góp nhất định trong các chính sách đối
Những tờ chỉ dụ triều đình mới có châu37T42T 37T42Tbản từ đây là đầu” [69, 108].
nội, nhằm thiết lập lại kỷ cương trật tự trong nước, ổn định chính sự và lòng người. Gia Long
khi mới đến Bắc hà đã ủy lạo, kêu gọi quan lại triều cũ, cùng nhân sĩ ra cống hiến tài năng cho
việc xây dựng tổ quốc. Dụ của Gia Long viết: “ Buổi này là buổi dấy điều giao hảo và sửa việc
chính trị, nhân tài ở đời, lẽ nào trọn đời bạn cùng cây cỏ. Vậy nên chuyển báo với nhau đến nơi
hành tại trình tiền quân Nguyễn Văn Thành... đem vào yết kiến. Trẫm sẽ xét lời nói, thử công
việc, tùy tài bổ dụng, để cho người hiền kẻ tài có chức vị, hiệp ý bày mưu, giúp nên chánh đạo”
[69, 49]. Để lấy lòng dân và tránh các vụ biến chính trị lấy danh nghĩa “phò Lê”, Gia Long
phong cho con cháu nhà Lê là Lê Duy Hoán làm Diên Tự Công “cấp 1.016 tên 6T37Ttừ 6T37Tphu, 100.000
mẫu tự điền, lại tha binh và thuế thân cho con cháu nhà Lê, cấp 500 mẫu tư điền cho họ Trịnh,
37TCho con cháu mấy ông khai quốc Công thần và trung hưng, Công thần nhà Lê đều được
khiến Trịnh Tư coi việc tế tự, lại tha binh diêu thuế thân cho 240 người con37T 37Tcháu họ Trịnh.
37TNgoài ra, để giảm bớt khó khăn cho 6T37Tdân, 6T37TGia Long miễn thuế trong mấy năm đầu và cấp
dự vào hàng Nhiêu ấm tức là hạng tha việc quan và đi lính”[69. 51]
vốn cho dân cày cấy, lập kho cứu tế... đây là những biện pháp nhân đạo, tiến bộ, dù trên thực tế
những chính sách an 6T37Tdân 6T37Tđó khó đến được với dân chúng một cách đồng đều, do tầng lớp quan
lại địa phương tham ô, bớt xén.
19
37TGần 20 năm trị vì đất nước, những việc mà Gia Long đã làm cũng cần được lịch sử ghi
nhận một cách công bằng. Ông đã khôi phục trật tự xã hội - đưa một 6T37Txã 6T37Thội “chính sự loạn lạc”
vào khuôn phép nề nếp, vận hành ổn định, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi về cơ bản
an ninh trật tự trong nước (trừ những vùng xa xôi, hẻo lánh). Toàn bộ sinh hoạt đất nước được
chỉnh trang, đường sá trạm dịch được đặt lại. Đoạn văn miêu tả sau đây sẽ giúp chúng ta hình
dung quang cảnh giao thông được cải thiện thời 6T37Tấy: 6T37T“Đầu thế kỷ 19, vua Gia Long tu bổ con
đường thiên lý ấy lại (con đường cái quan to nhất) để làm đường liên lạc 6T37T3 6T37Txứ Bắc – Trung -
Nam, cứ cách 15 km lại đặt một nhà trạm, có phu trạm” 6T37T[2, 87] 6T37Tđường bộ chủ yếu là đường
quan báo (Route mandarine) phu được nhà nước trả tiền. “cứ 6T37T1.000 6T37Ttrượng đường thì phát
10.000 phương thóc” [87, 9]. Sinh hoạt xã hội trở lại thời bình, pháp luật chính lệnh thống
nhất 6T37Ttừ 6T37TNam ra Bắc 6T37Tdưới một 6T37Tchế 6T37Tđộ 6T37T(cho đến cuối 6T37T1815 6T37Tnước ta vẫn22T37T 6T22Táp 6T37Tdụng luật pháp nhà Lê,
năm 1811 Gia Long đã cho biên soạn bộ luật mới cho phù hợp với quốc gia thống nhất và
37TTừ tình hình chính trị - xã hội nêu trên, có thể nói Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 đã trở
1815 bộ luật Gia Long được ấn hành)
thành một vương quốc phong kiến lớn mạnh, đặc biệt vào thời Minh Mạng Việt Nam xứng
đáng là Đại Nam, uy tín của nước ta được lân bang thừa nhận, thanh thế Việt Nam được
khuyếch trương trong khu vực. Một điều không thể phủ nhận là đời sống xã hội Việt Nam
thỉnh thoảng lại bị xáo động bởi những cuộc nổi 11T37Tdậy 11T37Tchống đối lại triều đình, quan lại hà khắc,
có những vụ nổi dậy lớn như của Phan 11T37TBá 11T37TVành, Nông Văn Vân, Cao Bá Quát... Nhưng không
thể cho rằng đây là nội dung chủ yếu của thời kỳ lịch 6T37Tsử 6T37Tnày hoặc từ đó cho rằng tình hình xã
hội Việt 6T37TNam 6T37Tkhông khi nào ổn định. Nếu xét nội dung của tiến trình lịch sử Việt Nam đầu thế
kỷ 19 thì những cuộc nổi dậy 6T37Tmang 6T37Txu hướng chống đối triều Nguyễn chỉ là một trong những
nguyên nhân tạo nên cục diện chính trị bất ổn, trong khi nội dung quan trọng của tiến trình lịch
sử đầu thế kỷ 19 chính là sự tăng cường vững mạnh của chế độ chính trị Việt Nam so với các
nước trong khu vực. Vương triều Nguyễn đã được công nhận là bộ máy chính quyền chủ động
điều khiển vận mệnh tình thế quốc gia, mở mang bờ cõi (đặc biệt vào thời vua Minh Mạng), an
ninh quốc phòng được giữ vững và hiệu quả hơn trước. Sức mạnh của chính quyền phong kiến
trung ương tập quyền đầu thời Nguyễn còn được thể hiện ở tổ37T42T 37T42Tchức quân đội có quy mô và
thích ứng với sinh hoạt kinh tế nông nghiệp. Việc duy trì số quân lớn nhưng không 6T37Tgây 6T37Txáo
trộn trong sinh hoạt xã hội 6T37Tbởi 6T37Ttriều Nguyễn sử dụng phương pháp tuyển binh khéo léo, linh
hoạt theo phép gian 6T37Tbinh 6T37Tvà lệ biền binh. Phép giãn binh được áp dụng từ Quảng Bình vào
20
Bình Thuận cứ 6T37T3 6T37Tsuất đinh lấy một lính; từ Biên Hòa trở vào năm suất đinh lấy một 6T37Tlính; 6T37Ttừ
Bắc sông Gianh trở ra 7 suất đinh lấy một lính. Triều đình cấp thêm một suất ruộng cho người
đi lính để người nhà cày cấy (hương điền). Lệ biền binh nhằm thực hiện chính sách “ngụ binh
ư nông” binh lính chia thành 3 phiên, cứ 2 phiên về quê, 1 phiên tại ngũ, cứ thế luân phiên
nhau. Việc tổ chức phòng vệ quốc gia được thể hiện qua những hệ thống phòng thủ ở những
nơi quan yếu. Các ông vua đầu thời Nguyễn tiêu biểu như Minh Mạng, luôn theo dõi diễn biến
tình hình chính trị trên thế giới để có biện pháp phòng thủ đất nước kịp thời. Khi chiến tranh
Nha phiến bùng nổ ở Trung Quốc, Minh Mạng lập tức tăng cường việc phòng thủ Đà Nẵng và
dọc biển Quảng Nam, vua dụ: “Nay nghe nước Anh Cát Lợi gây hấn với nước Thanh có thể
xảy ra chinh chiến. Nước ta giáp với nước Thanh mà vùng Trà Sơn ở cửa bể Đà Nẵng trước
đây tàu thuyền nước ngoài thường tạm đóng nay cần phải dò xét tuần phòng để vững cửa bể “
37TTừ thời Gia Long quân đội đã được trang bị chu đáo, vào thời điểm quân Nguyễn chiến
[72, III, 275].
thắng Tây Sơn thì quân đội đã lên tới con số “130.000 người: 15 pháo binh, 800 tượng binh
với 200 con, 12.000 ngự lâm quân, 200 tàu thuyền lớn có từ 16 đến 22 đại bác, 500 thuyền nhỏ
có độ 40 đến 44 lay chèo vũ trang, súng bắn đá và một đại bác ở mũi, 100 thuyền lớn từ 50 đến
70 tay chèo và có bố trí nhiều đại bác. Tổng số thủy quân có 17.600 người, trong đó có 1.200
người phục vụ cho 3 chiến hạm mua của người Âu” [ 14, 119 ]. Như vậy một điều thấy rõ là
tuy không có điều kiện được trang bị theo kiểu một đội quân hiện đại, song quân Nguyễn
không hoàn toàn xa lạ với súng ống và chiến hạm châu Âu. Quân đội Triều Nguyễn cũng
không thiếu tinh thần và quyết tâm chiến đấu. Những trường hợp như Võ Văn Tình 70 tuổi,
Nguyễn Công Trứ khi đã về trí sĩ... vẫn xin đi đánh Pháp không phải là cá37T42T 37T42Tbiệt 30T37Tđã 30T37Tphản ánh tinh
thần chiến đấu của quan quân Việt Nam. Nửa sau thế kỷ 19 Việt Nam thất bại trước đội quân
xâm lược nhà nghề của Pháp, như 30T37Tđã 30T37Tnói là do nhiều nguyên nhân, song một điều chắc chắn
rằng 6T37Tquân 6T37Tlính Việt Nam đã chiến đấu dũng cảm và cũng buộc kẻ thù phải kính nể, họ không
37THiện nay giới nghiên cứu đang có những kết luận mới về tình hình 6T37TViệt 6T37TNam dưới thời
nhu nhược sợ hãi và không phải không có khả năng chiến đấu.
Nguyễn vào đầu thế kỷ 19. Những đánh giá nhìn nhận lại đó là thiết thực, nhưng cũng cần thấy
các vua đầu thời Nguyễn đã xây dựng, ổn định hệ thống cai trị trên 6T37Ttoàn 6T37Tlãnh thổ Việt Nam
trên một nền tầng chính trị 30T37Tđa 30T37Tcũ. Từ Gia Long cho đến Minh Mạng chế độ quân chủ được tập
trung cao độ. Việc tập trung quyền binh vào một người sau nội chiến, nhằm điều khiển một đất
21
nước vừa qua gần 30 năm chiến tranh loạn lạc phân ly là hợp lý. Tuy nhiên, chính việc tập
trung đó đã sinh ra chuyên chế, chuyên chế phát sinh ra bảo thủ, vua là duy nhất đúng. Mặt
khác, xét về xu thế phát triển tất yếu khách quan của lịch sử thế giới, thì đến thế kỷ 19 chế độ
phong kiến nói chung đang bước vào giai đoạn tan rã. Sự tan rã của nó là một quá trình hợp
quy luật. Ở Tây Ấu quá trình này bắt đầu từ thế kỷ 16, phương Đông tuy muộn hơn song đến
thế kỷ 18 quá trình này cũng xuất hiện mạnh mẽ. Rõ ràng khi Gia Long tái lập chế độ phong
kiến thì so với tiến trình lịch sử nhân loại, ông dã không bắt kịp xu thế phát triển của thế giới,
điều này tạo nên sự cách biệt trong trình độ phát triển của Việt Nam trong tương quan với
37TSau khi lên ngôi, vua Gia Long đã đối diện với một thực trạng kinh tế tiêu điều sau chiến
phương Tây.
tranh. Để tăng gia sản xuất và mở rộng diện tích canh tác37T42T, 37T42Tông đã khuyến khích 6T37Tdân 6T37Tchúng khai
khẩn những ruộng đồi bỏ hoang. Các trung tâm dinh điền, đồn điền được thành lập nhằm khẩn
hoang đất mới. Công cuộc khai hoang đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Nhà nước bỏ
tiền đào kênh thoát nước Thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai hoang
vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên. Nhờ vào những năm tháng hòa bình đầu thời Nguyễn
mà 6T37Tlãnh 6T37Tthổ, diện tích canh tác Việt Nam được mở mang rộng lớn chưa từng có. Trong thế kỷ
19 nhiều vùng đất được khẩn hoang như miền Bình Hòa, Tam Đốc (Ba Ngòi), Trấn Ninh,
Ninh Cường, Hải Các, Quảng Yên, Hải Dương, Thừa Thiên, Quảng Trị, Bình Thuận... Đặc
biệt là vùng Kim Sơn Tiền Hải được khẩn hoang với công sức của Nguyễn Công Trứ và một
số vùng khác 6T37Tcũng 6T37Tđược khai khẩn tốt 6T37Tnhư ở 6T37TAn Giang, Hà Tiên. Dù chính sách và biện pháp
tổ chức khẩn hoang có lợi trước hết cho bọn địa chủ và người giàu có, song khách quan nó
cũng thể37T44T 37T44Thiện sự cố gắng của nhà Nguyễn trong việc đẩy mạnh các hoạt động nông nghiệp,
nhằm phục hồi tình trạng suy sụp của nền kinh 6T37Ttế 6T37Tnông nghiệp Việt Nam. Để đáp ứng các nhu
cầu sản xuất, các vua đầu thời Nguyễn chú yếu xây dựng các công trình thủy nông “Thời Gia
Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước” [16, 308]. Đắp 6T37Tđê 6T37Ttrị
thủy là công việc thường xuyên được 6T37Ttiến 6T37Thành. Năm 1804 Gia Long ban chiếu cho phép
quân 6T37Tdân 6T37Tnêu ý kiến về việc hộ đê, đồng thời phái Bộ Hộ đi khám đê và lấy các ý kiến của quan
lại, dân chúng về việc hộ đê, sau đó xem xét để định lệ thi hành vào 1809. Năm 1811, Gia
Long lại cho đắp đô An Lãng ( Sơn Tây ). Các đời vua từ Minh Mạng tới Tự Đức đều chú ý
đến công tác đê điều, nạo vét sông, ngăn nước mặn...
22
37TMột điểm tích cực trong chính sách kinh tế của triều Nguyễn là việc phân phối lại ruộng
đất, hạn chế nạn kiêm tính ruộng đất công. Năm 1803, Gia Long ra lệnh cấm bán mua ruộng
đất công. Năm 1805, định lại lệ quân cấp các loại ruộng này theo phẩm trật quan lợi và tình
trạng dân chúng, nâng đỡ cô nhi quả phụ ...Đó là những chính sách tiến bộ dưới triều Nguyễn
có tính chất khuyến nông và thực hiện nâng đỡ xã hội. Các vua Nguyễn còn động viên đốc
thúc nhân dân làm ruộng bằng cách cho vay vốn, giúp giống, nếu năm nào tỉnh nào gặp phải
thiên tai vua đều giảm hay miễn thuế cho dân “Thời Gia Long ít ra có 25 trường hợp, thời
Minh Mạng có 31 trường hợp giảm hay miễn thuế” [14-68]. Việc giảm hay miễn thuế dưới các
triều Nguyễn được phản ánh khá rõ trong bài chiếu của Gia Long năm 1816: “Mấy năm nay
dân làm việc khó nhọc, lại gặp mất mùa, ta rất thương lắm, nên khoan miễn cho dân. Kể từ
năm Gia Long Nhâm Tuất trở lên, từ Quảng Bình đến Gia Định còn thiếu tiền, thiếu lúa, thiếu
thuế sản vật bao nhiêu; và năm Quý Dậu, năm Giáp Tuất còn thiếu thuế chánh cung bao nhiêu
đều tha cả; Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Hoa thời
thuế thân và thuế điều năm nay 13T37T10 13T37Tphần giảm 5 6T37Tphần; 6T37TQuảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên,
Bình 6T37TThuận, 6T37Ttrong 1013T37T 6T13Tphần 6T37Tgiảm 2 phần, thuế thân thời 13T37T10 13T37Tphần giảm 4 phần” [69,9l]. Trong
” “chính 11T37Tphủ 11T37Tthiết 11T37Tlập những loại kho dự trữ lúa để dùng trong việc cứu tếP
P [4,139 ]. Nhìn
những tình huống cấp bách, triều Nguyễn cũng có biện 11T37Tpháp 11T37Tcứu trợ kịp thời 11T37Tnhư:
chung, các vua Nguyễn đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực và thúc đẩy kinh tế phục hồi và
37TSo sánh với số đầu đinh và số ruộng của 2 năm 1840 và 1847, chúng ta thấy có một sự
đi 22T37Tlên.
6TSố ruộng/mẫu
6TSố đầu đinh
37TNăm Minh Mạng thứ 6T37T2
6T4.063.892
6T950.561
6TNăm 6T37TThiệu Trị thứ 6T37T7
6T4.278.013
6T1.029.501 [28,86]
37T[146T37T,86]
37TBên cạnh việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, 11T37Thoạt 11T37Tđộng 22T37Tcông 22T37Tthương nghiệp
phát triển đáng kể:
37TĐầu thế kỷ 19, ở Việt Nam đã hình thành một số vùng chuyên hoạt động thủ công như
cũng được chú ý, dù quan điểm “trọng nông ức thương” vẫn còn 11T37Tnặng nề .
làng Phương Dung (Hà Đông) chuyên làm nón, làng Đại Bái (Bắc Ninh) chuyên làm đồ
đồng... ở những làng 22T37Tthủ 22T37T công nghiệp này nghề 22T37Tnông 22T37Tlà hoạt động phụ. Các vùng duyên hải
23
thì người dân sống băng nghề chài lưới, làm muối. Giới công nghệ cũng được vua giúp đỡ.
Năm 1821, vua Minh Mạng tha thuế thân cho thợ mộc, thợ cưa, thợ đóng thuyền ở các làng
thuộc Bắc Thành và Nghệ An. Vun thưởng cho thợ khéo và cấp vốn cho một số ngành, ví dụ
như ngành nấu đường ở Quảng Ngãi, Quảng Nam. “Chính phủ còn can thiệp vào các hoạt
động công nghệ bằng cách đôi khi khuyến khích một vài ngành sản xuất: Năm 1836 vì mua
được từ Trung Quốc loại kén trắng, có chất tơ tốt hơn tầm nuôi tại Việt Nam, vua Minh Mạng
cho các giống tằm trắng đó ra các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Sơn Tây,
Bắc Ninh để thuê người chăn nuôi và thưởng trước cho mỗi tính 20 quân tiền nuôi tằm”
[14,182]. Nhờ vào các biện pháp khuyến khích tích cực như trên, nghề dệt trong thế kỷ 19 có
những tiến triển rõ rệt: “Đời Minh Mạng, Trần Quý phổ biến ngành dệt lụa, đời Tự Đức, Đỗ
37THoạt động công thương được chú ý. “Năm 1837 vua Minh Mạng còn sai chế máy cưa do
Vân Sửu sản xuất gấm ở37T42T 37T42THà Đông” [131,153].
trâu kéo thay chạy bằng hơi nước. Năm 1839 Hoàng Văn Lịch và 11T37TVõ 11T37THuy Chinh đã chỉ huy
thành công việc đóng tàu máy...” [14,58]. Triều Nguyễn còn37T 37Tthành lập ở kinh đô Huế và các
trấn nhiều xưởng chế tạo lớn (gọi là tượng 22T37Tcục). 22T37TDưới thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19 các ngành
37TGia Long khi mới lên ngôi đã cho mở các mỏ vàng, bạc... ở Tuyên Quang, Hưng Hóa và
công nghiệp luyện kim, khai mỏ, 22T37Tchế 22T37Ttạo vũ khí đã có những hoạt động sôi nổi.
giao cho các thổ mục trông coi. Năm 1810 vua lại cho khai mỏ ở37T42T 37T42THải Dương. Thời Minh Mạng
có tới 34 mỏ vàng, 29 mỏ sắt, 14 mỏ bạc, 9 mỏ đồng, 7 mỏ kẽm, 3 mỏ chì, 1 mỏ thiếc được
khai thác. Đời Thiệu Trị, Tự Đức các vua đều quan tâm đặc biệt tới ngành công nghiệp khai
mỏ. Tuy nhiên sự 22T37Tđộc 22T37Tquyền thu mua của chính phủ theo giá quy định cũng gây khó khăn cho
sự mở mang của ngành công nghiệp khai mỏ Việt Nam, đến cuối triều vua Minh Mạng thì
ngành này sa sút dần. Những chính sách, luật lệ phong kiến làm cho những yếu tố kinh 22T37Ttế 22T37Tmới
phát triển khó khăn, chậm chạp.
Về thương nghiệp, đầu thế kỷ 19, việc mua bán trao đổi cũng có những biểu hiện tăng
trưởng. Sản lượng lúa gạo tăng và đây là mặt hàng quan trọng buôn bán trong nước và xuất
khẩu. Theo Nguyễn Thế Anh: “gạo mà các tỉnh Nam kỳ sản xuất có thừa đã gởi tới các tỉnh
miền Bắc và miền Trung với những số lượng quan trọng... riêng đối với các thợ thuyền chở
gạo về kinh, có thể chở gạo tới bán những hạt giáp giới...” [4, 238 - 232]. Căn cứ trên số phát
hành bạc thỏi và vàng dưới triều Gia Long, Minh Mạng lớn hơn nhiều so với thời Trịnh,
Nguyễn, chúng ta có thể đánh giá được hoạt động thương mại của Việt Nam đầu thế kỷ 19.
24
“Xưa kia dưới thời Trịnh - Nguyễn thứ tiền duy nhất được lưu hành là tiền kẽm, tiền này vì ít
giá mà lại nặng nề nên rất bất tiện trong việc sử dụng. Nó chỉ thích hợp với một nền kinh tế tự
túc, ít trao đổi. Trong thế kỷ 19, các vua Gia Long - Minh Mạng đã cho đúc các kim loại quí,
bạc hay vàng làm tiền. Biện pháp này có lợi cho thương mại và có lẽ nó phát sinh từ nhu cầu
mới của thời bấy giờ” [14,61]. Sự cải cách tiền tệ trên trong đầu thế kỷ 19 cũng là một biểu
37TTrong vấn đề thuế khóa, triều Nguyễn cũng có cố gắng đơn giản hơn việc miễn thuế.
hiện tích cực của tài chính thương nghiệp.
“Năm Gia Long thứ 10 (1811), thể theo lời tâu của quan Bắc thành, nhà vua đã giảm bớt số sở
thuế ở Cao Bằng, Thái Nguyên để giúp đỡ giới buôn bán ở đây” [87,61]. Nhà nước còn can
thiệp vào thị trường để điều hòa và giữ giá gạo ổn định cho dân bằng cách: mở kho gạo cho
dân mượn, hoặc bán rẻ cho dân trong trường hợp giá gạo lên cao. Thời Minh Mạng, vua còn
sắc cho các địa phương lấy giá gạo nơi lỵ sở mỗi tháng tâu lên vua một lần v.v...đầu thế kỷ 19
đã có những trung tâm mua bán sầm uất như Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội, Gia Định... thu
37TĐể củng cố triều đại vừa mới kiến lập, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, Gia Long đã đối
hút nhiều người đến buôn bán, trao đổi.
xử tốt với mọi thương gia châu Âu khi họ tới Việt Nam. Có trường hợp quá đáng như trường
hợp hãng buôn Abott and Maitland đã từng cung cấp khí giới cho Nguyễn Ánh - Gia Long, đòi
tăng giá tiền số đạn dược đã bán trước đây cho Gia Định. Gia Long vẫn thỏa mãn yêu cầu trên
của chiếc tàu buôn Pháp. Chủ trương cỏn Gia Long là ưu đãi thương nhân ngoại quốc, đặc biệt
là với người Pháp. Sau đó có nhiều tàu buôn của Pháp tới việt Nam (tàu La Paix đến năm
1817, tàu Henry và tàu La Rose đến năm 1819), tất cả đều được Gia Long đối xử rất tối: Gia
Long đã cấp giấy phép cho các thuyền trưởng, dành cho họ nhiều dễ dãi trong công việc buôn
bán của họ. Hai thuyền Henry và La Rose đã có thể bán hết hàng hóa đưa tới và chở về Pháp tơ
sống, đường và trà.” Năm Kỷ Mão (1819) có chiếc tàu buôn 3 cột tên là “ La Rose” và “ Le
37TTuy tàu thuyền buôn ngoại quốc vẫn đến Việt Nam trao đổi muốn bán nhưng Việt Nam
Henry” vào cửa Đà Nẵng....” [29, 182].
dưới triều Nguyễn cũng như một số nước trong vùng, trước sự bành trướng về mọi mặt của
phương Tây tại châu Á đã thực hiện đối sách “đóng cửa” (bế quan tỏa cảng), không biệt đãi
bất kỳ một nước nào khi tới Việt Nam đề nghị thông thương, để tránh phải dành cho các nước
đó những đặc quyền chính trị, thương mại. Đây là sự cẩn trọng trong quan hệ với phương Tây
25
và không hẳn là sự thể hiện một cách “mù quáng” trong đối ngoại nói chung, và ngoại thương
37TViệt Nam là một nước nông nghiệp nên những chính sách kiểm soát ngặt nghèo mọi hoạt
nói riêng.
động buôn bán với bên ngoài còn nhằm để bảo đảm lợi tức thuế má cho triều đình. Đây là biện
pháp bảo vệ tiền tệ của đất nước. Nhà nước độc quyền về ngoại thương nhưng hoạt động của
tư nhân vẫn tồn tại. Từ năm 1835 đến 1840, có 21 chiếc thuyền được triều đình phái tới các
trung tâm mậu dịch của người Châu Âu đặt ở Đông Nam Á với mục đích mua bán. Sản phẩm
mua bán thường là: tiêu, cau, bông, tơ tằm, đường, cá khô, da voi, quế, xương trâu... Hàng
nhập là: trà, giấy, đồ chơi trẻ em, trái cây khô. Để khuyến khích ngoại quốc tới buôn bán, triều
đình Huế thậm chí có trường hợp miễn thuế cho họ: Năm 1840 nhà buôn người Anh tên là Yết
- Giã đến Đà Nẵng mua đường cát, tỉnh thần đề nghị đánh thuế 1/10 giá trị các hóa vật nhưng
Minh Mạng đã cho miễn thuế. Nhìn riêng lẽ thì mậu dịch giữa Việt Nam với một số nước37T 37Tkhá
phát triển, Theo Nguyễn Thế Anh: “mậu dịch với Tân Gia Ba phát triển: năm 1829 đến 1830
37TThực tế, nhà vua không e ngại xa lánh hàng hóa văn minh Âu - Mỹ mà lo sợ các phần tử
chúng trị giá 383. 273 dollars; năm 1845 là 467. 521 dollars.” [ 4, 274. ]
hoạt động chính trị đi kèm theo các hàng hóa phương Tây ấy. Nhận định sau đây của giáo sư
Trần Văn Giàu về ngoại thương từ nửa đầu thế kỷ 19 là thỏa đáng: “thời Gia Long đến thời
Minh Mạng nền thương mại trong nước và bên ngoài có phục hồi; thương chính thu được là 3
trên 40 triệu, tức 1 phần 13 của ngân sách nói chung” [ 22, 90 ]. Tàu thuyền Việt Nam còn đưa
thổ sản sang bán tại Quảng Châu, Trung Quốc, Tân Gia Ba rồi mua hàng về lại v.v... Những
biến động chính trị bùng nổ dồn dập trên thế giới và trong nước chính là nguyên 6T37Tnhân 6T37Ttrực tiếp
37TVua Thiệu Trị và Tự Đức càng lo ngại hơn khi phải tiếp xúc với các nước Phương Tây,
khiến cho các hoạt động buôn bán này ngừng lại.
37THoạt động ngoại thương chủ yếu tập trung vào việc buôn bán của Hoa Kiều tại Việt
tờ năm 1850, các thuyền buôn không được vua phái ra nước ngoài nữa.
Nam. Hoàn cảnh công thương nghiệp Việt Nam đầu thế kỷ 19 không gặp điều kiện thuận lợi
để phát37T42T 37T42Ttriển, nhưng không đến mức độ sa sút, yếu kém trầm trọng như một số đánh giá đã có
37TNhìn chung, triều Nguyễn thực hiện “đóng cửa” về thương mại với phương Tây, trước
từ trước đến nay.
hết là do yêu cầu phòng vệ. Nhưng hoạt động mua bán, trao đổi với thương nhân ngoại quốc
26
vẫn được duy trì, những đãi ngộ cho người Âu phần nào nói lên chính sách linh hoạt mềm dẻo
37TTheo Nguyễn Thế Anh, năm 1828 Minh Mạng còn gửi thư “hỏi vị kham sự Anh ở37T42T 37T42TTân
của Triều Nguyễn trên lĩnh vực ngoại thương.
Gia Ba tại sao các thương gia Anh đã lại không tới buôn bán tại các thương khẩu Việt Nam”
[4, 266]. Triều đình chỉ khước từ việc ký thương ước chính thức với phương Tây37T42T 37T42Tmà thôi. Đây
là chính sách chung của hầu hết các quốc gia phong kiến châu 30T37TÁ 30T37Tthời kỳ này. Điều đó 30T37Tđã 30T37Tđi
ngược lại chính sách mở rộng thị trường của phương Tây, và gây ra những khó khăn trong
6TVề văn 6T37Thóa, ngay sau 6T37Tkhi vương6T42T 37T42Tquyền được xác 6T37Tlập, 6T37Tcộng với những vấn đề về chính trị,
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với phương Tây đặc biệt là với nước Pháp.
kinh tế - 6T37Txã 6T37Thội, Gia Long rất quan tâm đến văn hóa , biểu hiện rõ nét ở tinh thần cầu hiền tài,
tổ chức giáo dục, thi cử. Năm 1802, Gia Long đã ra chiếu kêu gọi các cựu thần nhà Lê ra mắt,
bổ dụng, ban chức tước và bổng 6T37Thậu; 6T37Tnăm 1803 cho dời Quốc tử giám vào Huế và năm 1814 ra
chỉ dụ nhấn mạnh đến vai trò của học vấn: “Học hiệu là nơi chứa nhân tài, tất phải giáo dục có
căn bản thì mới có thể thành tài. 6T37TTrẫm 6T37Tmuốn bắt chước người xưa, 6T37Tđãi 6T37Tnhà học, nuôi học trò,
ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nối để cho nhà nước dùng” [70, II, 212]. 6T37TNăm 6T37T1820
Minh Mạng vừa lên ngôi cũng ban chiếu cầu hiền, qua năm sau cho mở rộng thêm Quốc tử
giám, dựng Di luân đường, giảng đường; năm 1825 cho đặt các chức giáo quan ở địa
37TNhìn chung triều Nguyễn rất chú trọng đến việc học, lấy Nho học làm đạo lý trị nước,
phương....
làm phương tiện giáo hóa. Điều này thật ra cũng không khác với các triều đại trước. Tuy nhiên
theo nhiều nhà nghiên cứu xác định, triều Nguyễn do yêu cầu củng cố vương quyền đã khai
thác không ít những mặt bảo thủ của Tống nho để tăng cường cho thể chế chuyên chế của
mình, đặc biệt là các vua triều Nguyễn đều không muốn xã hội bị ảnh hưởng chi phối của các
tôn giáo, các hệ tư tưởng khác như: sự xâm nhập có phần mạnh mẽ của đạo Thiên chúa. Chính
sách cấm đạo của Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ngoài việc ngăn chặn các hoạt động gián
điệp đội lốt tôn giáo còn có nguyên nhân sợ ảnh hưởng đến chủ trương thuần nhất hóa tư
tưởng của triều đại này và do vậy cũng tác động không ít đến hoạt động đối ngoại của triều
Nguyễn. Công bằng mà nói, trước thực tiễn củng cố vương quyền và xây đựng đất nước, triều
Nguyễn, đặc biệt các vua đầu triều, cũng đã chú trọng đến cái học ích dụng thể hiện rõ trong
các chiếu cầu hiền, cải cách chế độ giáo dục thi cử. Sau thời Gia Long, có thể nói Minh Mạng
đã thực sự là người xác lập “thiết chế tinh thần” cho triều Nguyễn, có ý thay đổi lối văn cử
27
nghiệp, phê phán cái học “ bỏ gần cầu xa”. Tuy nhiên, nhìn chung, nội dung thi cử, giáo dục
của triều Nguyên vẫn không thoát được tinh thần “pháp tiên vương”, “ thuật nhi bất tác”, coi
trọng lễ giáo, đạo đức theo tôn chỉ của thánh hiền hơn là cái học thực tiễn, không tránh được
tinh thần bảo thủ, lạc hậu. Trong thời Tự Đức, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta,
không ít nho sĩ có tiếng, không ít quan đầu triều đã phổ cho mệnh trời, thậm chí còn cho đó là
thời đại “gió Tây” , không thể cưỡng được ! Tính bảo thủ, lạc hậu của triều Nguyễn còn thể
hiện ở37T42T 37T42Ttư tưởng “ nội hạ ngoại di” , coi thường những thế lực bên ngoài, coi người phương Tây
37TNhìn một cách bao quát, thế kỷ XIX vẫn là thế kỷ lớn của văn hóa Việt Nam với sự phát
là “man di”, “ bạch quý” ... dẫn đến những ứng biến thiếu linh hoạt, chủ quan.
triển mạnh mẽ của văn học, sử học, nghệ thuật, và cả triết học, trong đó ảnh hưởng trực tiếp
đến những thái độ ứng xử, chiến lược và sách lược ngoại giao của triều Nguyễn trước hết vẫn
là vấn đề tư tưởng, là quan niệm và tính chất bảo thủ, lạc hậu của triều Nguyễn, trong lĩnh vực
này không tách rời với đặc 11T37Ttrưng 11T37Tcủa phong kiến phương Đông - trì chậm, lạc hậu trước
37TTrên đây là những tiền đề, những điều kiện lịch sử - xã hội căn bản để đánh giá triều
những chuyển 11T37Tbiến 11T37Tcủa 11T37Tthời đại xét trên tầm 11T37Tvĩ 11T37Tmô.
Nguyễn về nhiều phương diện. Đánh giá 11T37Tnhững 11T37Ttích cực và hạn chế của triều Nguyễn trên lĩnh
vực quan hệ ngoại giao cũng không tách rời với những “khuôn diện lịch sử” 22T37Tcơ bản đó.
28
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI
TRUNG QUỐC NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19
37TĐầu thế kỷ 19 Việt Nam chưa tham gia nhiều vào các hoạt động chính trị quốc tế. Nội
dung quan trọng trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam thời kỳ này chủ yếu tập trung vào các
nước láng giềng.
2.1. Những đặc điểm dẫn đến việc hình thành đường lối ngoại giao của triều
Nguyễn với Trung Quốc nửa đầu thế kỷ 19:
37TViệt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng có mối liên hệ từ thời cổ đại. Khi vua
2.1.1. Đặc điểm lịch sử:
Gia Long lên ngôi lập nên vương triều Nguyễn thì quan hệ Việt Nam - Trung Quốc lại được
37TLịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn để lại những bài học kinh
tiếp nối theo truyền thống trước đó.
nghiệm ngoại giao với Trung Quốc. Đó là bài học về kế 17T37Tsách giữ 17T37Tnước 17T37Tthời 17T37TLý - Trần với chính
sách ngoại giao khôn khéo, linh hoạt, nhún nhường 17T37Tnhưng kiên 17T37Tquyết. Khoan hòa nhưng có
điều kiện là một nguyên tắc ngoại giao của phong kiến Việt Nam. Việt Nam đã hai lần chiến
thắng quân Tống, ba lần chiến thắng Nguyên - Mông, nhưng sau chiến thắng luôn giảng hòa,
37TBài học ngoại giao “biết mình, biết người” trong quan hệ với Trung Quốc là 17T37Tcần 17T37Tthiết.
chịu cống nạp để tái lập hòa bình trong quan hệ với Trung Quốc.
Cuối 17T37Tt h ế k ỷ 17T37T18, Quang Trung - Nguyễn Huệ sau chiến thắng quân Thanh, đã 17T37Tthi 17T37Thành một
chính sách ngoại giao thời hậu chiến trên cơ 17T37Tsở 17T37Tnhận thức đúng đắn vị thế của Việt Nam: “về
phía Bắc thì nước ta hăng hái chống cự không để cho nước Tàu chinh phục, nhưng vẫn biết
phận mình nhỏ yếu nên đời vua nào cũng chịu 17T37Txưng 17T37Tthần” [2,37], Quang Trung dã dâng biểu tạ
tội xin giảng hòa với nhà Thanh, phản ánh một chiến lược ngoại giao mềm dẻo trong quan hệ
với Trung Quốc. Đường lối ngoại giao hòa bình đó được Triều Nguyễn kế thừa và phát huy,
nhằm duy trì 17T37Tsự 17T37Tgiao hảo giữa hai nước. Mặt khác Gia Long 19T37Tcòn 19T37Tmuốn qua việc nối lại quan hệ
với nhà Thanh, để giành được sự công nhận của Trung Quốc. Khi Trung Quốc công nhận Gia
Long cũng có nghĩa là trên thực tế nhà Lê không còn tồn tại, và Triều Nguyễn đã xác lập
quyền lợi và vị trí của mình một cách chính thức trong quan hệ quốc tế.
29
37TĐể bảo đảm sự bình yên trong nước, sự hòa hiếu với lân bang và để xác lập củng cố thế
đứng của dòng họ, vua Gia Long đã kiên trì thực hiện bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, tiếp tục truyền thống ngoại giao mềm dẻo với nhà Thanh. Đây là đường lối ngoại giao,
kinh nghiệm ngoại giao được đúc kết từ trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc.
37TVị trí đặc biệt của Việt Nam là một nhân tố góp phần hình thành nên đường lối ngoại
2.1.2. Đặc điểm địa lý:
giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc. Đây là hai nước láng giềng có chung nhau một
biên giới khá dài - Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, nằm trên bán đảo Đông
Dương thuộc khu vực Đông Nam Á. Ưu thế của Việt Nam là nằm trên vị trí tiếp xúc đa dạng
và trên trục lộ giao thông quan trọng về thủy và bộ, tiện lợi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang
Tây. Việt Nam nối liền biển cả với đất liền, nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Vị trí đặc
biệt của Việt Nam biến Việt Nam trở thành một cửa ngõ quan trọng để giao lưu từ Á tới Phi
sang châu Mỹ xuống châu Đại Dương. Việt Nam lại nằm sát bên Trung Quốc, thực tế cho thấy
nếu Trung Quốc có ảnh hưởng ở Việt Nam thì vấn đề phát triển ra biển Đông của họ sẽ vô
cùng thuận lợi. Khi Trung Quốc phát triển thế lực xuống Nam sông Trường Giang, họ đã
muốn tiến xa hơn tới Nam Á, Địa Trung Hải “Từ Tần Thủy Hoàng đến vua Càn Long (nhà
Thanh) trong suốt lịch sử 2000 năm các vua chúa Trung Quốc liên liếp tiến hành những cuộc
chiến tranh xâm lược tàn bạo hòng khuất phục dân tộc Việt Nam, biến Việt Nam thành khu
37TDo tham vọng và mưu toan bành trướng của phong kiến Trung Quốc mà quan hệ hữu
đệm trên con đường 6T37Ttràn 6T37Txuống Đông Nam Á” [100, 150].
nghị 30T37Tlâu 30T37Tđời giữa hai dân tộc Việt Nam - Trung Quốc thỉnh thoảng lại bị phá vỡ, và quan hệ
láng giềng giữa hai nước có những thời kỳ căng thẳng chiến tranh. Chính vị trí gần kề nhau
của hai nước Viêt Nam - Trung Quốc là điều kiện quan trọng để triều Nguyễn định ra một
chiến lược ngoại giao thích hợp với Trung Quốc. Chiến lược ấy phản ánh mối quan hệ giữa
một nước nhỏ sống cạnh một nước lớn và cùng ở trong một khu vực địa lý - chính trị nhiều
biến động.
37TTình hình chính trị - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 19 là tiền đề quan trọng cho các vua
2.1.3. Đặc điểm chính trị - xã hội:
Nguyễn xây dựng một đối sách đúng đắn và hợp lý với Trung Quốc, nhằm giữ yên vùng biên
giới 21T37TViệt - 21T37TTrung, vùng biển được xác định là quan trọng nhất. Đường lối ngoại giao hiệu quả
30
nhất phải tính đến lợi ích quốc gia, và triều Nguyễn phải tính tới hoàn cảnh cụ thể ở trong nước
sau cuộc chiến với Tây Sơn. Những yêu cầu cấp bách nhằm ổn định xã hội Việt Nam trong
thời điểm đầu thế kỷ 19 đã đẫn đến việc hình thành kế hoạch khôi phục quan hệ ngoại giao với
nhà Thanh ngay khi cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với Tây Sơn còn chưa kết thúc. Nguyễn
Ánh sau khi chiếm được Gia Định năm 1788, đã phái một sứ bộ do Phan Chính Trọng cầm đầu
đem quốc thư sang Lưỡng Quảng, sau đó phái tiếp Ngô Nhân Tĩnh sang Quảng Đông hội
chiếu với vua Lê. Đến khi vào Phú Xuân ông lại bàn với đình thần việc viết 21T37Tthư 21T37Tsang Trung
37TLúc cử sứ bộ sang Trung Quốc, Gia Long đã xác định rõ mục đích là: “...chúng ta muốn
Quốc hỏi việc bang giao.
đàm phán về việc khôi phục mối bang giao trước đây, sau sự sụp đổ của Bắc Hà”
[70,III,29]37T42T. 37T42TTrước đó không lâu khi thuyền của quân Nguyễn được Trung Quốc giúp đỡ,
Nguyễn Ánh đã lạc quan về khả năng nối lại quan hệ với nhà37T42T 37T42TThanh: “cách đây không lâu, họ
(Trung Quốc) đã đón tiếp một chiến hạm của chúng ta bị bão đánh dạt vào biển Trung Hoa rất
chu đáo và còn cho phép nó quay về tổ quốc” [70,11, 29], ghi nhận sự thân tình của phía Trung
Quốc đành cho quân Nguyễn, Nguyễn Ánh đã tích cực chuẩn bị cho việc tái lập quan hệ ngoại
giao với Trung Quốc. Sau khi vào Thăng Long, Nguyên Ánh đưa thư cho Lưỡng Quảng Tổng
đốc hỏi việc bang giao đồng thời sai Thiêm sự Lê Chánh Lược, Trần Minh Nghĩa qua Nam
37TSau khi cuộc chiến với Tây Sơn kết thúc hoàn toàn, Nguyễn Ánh tận dụng mọi 22T37Tcơ 22T37Thội để
Quan chờ Trung Quốc trả lời.
ổn định quan hệ với nhà Thanh, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tạo ra môi trường
quốc tế hòa bình để ổn định đất nước, xây dựng và củng cố triều đại. Trong 3 năm liên liếp
(1802, 1803, 1804), Gia Long đã cử nhiều sứ bộ sang Trung Quốc, bày tỏ nguyện vọng với
vua Trung Quốc là Gia Khánh là ông muốn nối lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Gia Long
khiêm nhường bày tỏ là thiện chí “sẵn sàng chịu phận một chư hầu nhỏ bé ở phương Nam”,
rằng: “Thần chỉ là 22T37Tkẻ chúng 22T37Tthần 22T37Tláng 22T37Tgiềng 22T37Tbé 22T37Tnhỏ 22T37Tcủa đế quốc bệ hạ, và ước nguyện 22T37Tlớn
37TCông cuộc phục hưng đất nước và Triều đại đặt ra cho Gia Long yêu cầu cấp thiết: phải
nhất của Thần là được tưới bởi cơn mưa tâm hồn vĩ đại của bệ hạ” [ 16T37T33,375].
bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Khéo léo và khiêm tốn, Gia Long tranh
thủ thiện cảm của Gia Khánh để xác lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đang bị gián đoạn
nhằm giải quyết các vấn đề khẩn cấp đang đặt ra trong nước về chính trị, kinh tế.v.v... Điều
quan trọng mà Gia Long cần khi lên ngôi là một sự bảo đảm không xăm37T42T 37T42Tlược trước mắt của
31
Trung Quốc dưới danh nghĩa “phù Lê”. Ông cần được Trung Quốc công nhận để xác 22T37Tlập 22T37Tđịa
vị của vương triều Nguyễn một cách hợp pháp, thay thế triều Lê trong lịch sử. Hoàn cảnh lịch
sử Việt Nam đầu thế kỷ 19 buộc Gia Long đi theo đường lối chiến lược hòa hoãn thần phục
với Nhà Thanh, đuờng lối chiến lược này gần như mang tính chất bắt buộc, nhưng theo
nguyên tắc không làm gì tổn hại đến độc lập, chủ quyền của đất nước. Gia Long đã tuân thủ
nguyên tắc ngoại giao đó trong suốt những năm tháng trị vì của ông và trước khi qua đời ông
cẩn thận dặn dò con trai kế nghiệp là “Ngày sau chớ nên gây hấn với ngoại biên”. Những việc
làm đó chứng tỏ Gia Long ý thức sâu sắc mối quan hệ hòa bình với láng giềng, đặc biệt là với
37TSau khi lên ngôi, vào tháng 5 năm 1802, Gia Long cử Trịnh Hoài Đức dẫn đầu sứ bộ
nước lớn Trung Quốc có vị trí trọng yếu đối với vận mệnh và hưng khởi của quốc gia.
sang Trung Quốc làm nhiệm vụ ngoại giao nộp ấn triện mà Quang Toản bỏ lại ở Phú Xuân khi
tháo chạy, cùng với việc giao trả cho nhà Thanh số hải tặc và37T42T 37T42Tngười bỏ trốn khỏi Trung Quốc.
Gia Long gửi quốc thư xin thần phục, dù mềm mỏng khéo léo nhưng ông cũng khẳng định với
nhà Thanh ông là vua nước Việt: “Thần, Nguyễn Ánh - vua nước Nam Việt xin cúi lạy trước
bệ rồng, với niềm kính trọng sâu xa, xin được gửi báo cáo này và Thần hy vọng rằng, lòng biết
ơn của chúng thần được lượng thứ mà chấp nhận...Thần xin cúi đầu chờ đợi đầy hy vọng”
37TMôi trường quốc tế hòa bình, ổn định là điều kiện khách quan cần thiết để Gia Long kiến
[133,375].
thiết triều đại. Sau cùng, lý do thúc đẩy Gia Long nhanh chóng nối lại quan hệ ngoại giao
truyền thống với nhà Thanh chính là những hoạt động của tư bản phương Tây ở châu Á vào
đầu thế kỷ 19. Những hoạt động của tư bản phương Tây tuy chưa đe dọa trực tiếp Việt Nam
nhưng âm mưu của Pháp thì Gia Long phần nào hiểu được và ông tỏ ý lo ngại. Điều này có thể
lý giải vì sao Gia Long lại cần đến một sự “bảo vệ”, một chỗ dựa về mặt tâm lý, dù cho trong
quá khứ Việt Nam chưa lần nào nhận được sự “chở che bảo vệ” đó của Trung Quốc. Theo một
nhà nghiên cứu người Nga Murasheva thì: “Còn về hy vọng mà Nhà Nguyễn vẫn ấp ủ dưới sự
che chở của quan hệ với Trung Quốc thì cũng hoàn toàn tự nhiên, nếu như ta xét đến nguy cơ
37TGia Long cũng đã từng tin (hay cố gắng tin) rằng: “Thần phục tùng chính quyền của đế
châu Âu đang đe đọa xâm lược cả hai nước” [52, 15].
chế vì thần tin vào nó và hy vọng được đế chế giúp đỡ” [133, 376]
32
37TVề phía nhà Thanh, Trung Quốc, cho đến đầu thế kỷ 19, họ vẫn37T 37Ttiếp tục đường lối đối
ngoại với các lần bang theo nguyên tắc chủ yếu: Trung Quốc là trung lâm thiên hạ, vua Trung
Quốc thay trời chăn dắt muôn dân, Trung Quốc phải đứng trên các nước khác, các dân tộc
khác. Tuy vậy, hoàn cảnh thực tế của đất nước Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 19 đã tạo ra
37TLà một nước rộng lớn nhưng đầu thế kỷ 19, Trung Quốc cũng đối diện với cuộc khủng
cái thế buộc phải hòa hoãn , 6T37Tthân 6T37Tthiện trong quan hệ với các nước láng giềng.
hoảng kính tế, chính trị, xã hội đang ngày càng diễn ra một cách 17T37Ttrầm 17T37Ttrọng. Chính trị Trung
Quốc đầy bất ổn, các xu hướng chống đối triền đình 17T37Tnhà17T37TThanh ngày càng gia tăng. Từ thời vua
Càn Long đến vua Gia Khánh, nhiều cuộc đấu tranh của các37T42T 37T42Tdân tộc ở trong nước liên tiếp
bùng nổ (khởi nghĩa của dân tộc Mèo, của những người theo giáo phái Bạch Liên, Thiên Chúa
37TTrong hoàn cảnh khó khăn như vậy, Thanh triều không muốn tạo thêm tình huống bất lợi
giáo...), bên ngoài thì nguy cơ xâm nhập của tư bản phương Tây đe dọa...
khi không có mối quan hệ 6T37Tthân 6T37Ttình với nước láng 6T37Tgiềng 6T37TViệt Nam. Gia Khánh chủ trương
không can thiệp vào Việt Nam, lập trường của ông là không ủng hộ chính
quyền 6T37TTây 6T37TSơn 6T37Tđã 6T37Tmất chỗ dựa trong nước. Khi Quang Toản bỏ 11T37TPhú 11T37TXuân chạy ra Bắc,
Gia 6T37TKhánh 6T37Txuống chiếu khẳng định sự diệt vong của Tây Sơn và xác định dứt khoát thái độ
ủng hộ Nguyễn Ánh. Ông ta 6T37Tđã 6T37Tsai Tổng đốc Lưỡng Quảng Cát 6T37TKhánh 6T37Ttới trấn Nam Quan,
thúc binh giữ biên giới. Đợi khi nào Nguyễn Ánh lấy được toàn cõi An Nam thì sẽ 6T37Ttâu 6T37Tlên cho
37TNhư vậy, vào đầu thế kỷ 19 cả Gia Long và Gia Khánh đều muốn có một sự tái lập quan
ông biết...
hệ chính thức giữa hai nhà nước Việt Nam - Trung Quốc. Mong muốn đó xuất phát từ lợi ích
của cả hai bên và do tình thế khách quan quy định. Sự kiện vua Gia Long tự lên ngôi xưng đế,
không ảnh hưởng gì đến sự kiện sau đó một năm Gia Khánh ban lệnh cho phép Gia
Long 6T37Tnhận 6T37Tsách phong và ấn triện, ông ta tuyên bố: “Ta phong ngươi chức Quốc vương Việt
Nam và ấn tín mới. Hãy tiếp tục truyền thống vĩ đại và cao cả, hãy trung thành và tin tưởng...
Hãy thi hành những nguyên tắc cơ bản của ngai vàng chúng ta. Sắc lệnh của ta là vậy” [118,
243] (Quốc vương là danh hiệu cao nhất trong các tước phong của Trung Quốc phong cho các
37TNăm 1804, Gia Long làm lễ thụ phong và quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc
chư hầu của mình).
được tái lập. Sự uyển chuyển, mềm dẻo hòa hiếu với nước láng giềng phương Bắc có mối liên
33
hệ chặt chẽ với công cuộc tái thiết đất nước và củng cố địa vị của một triều đại mới. Đường lối
đối ngoại của Gia Long phản ánh ước muốn được chung sống hòa bình với các nước xung
quanh, vì thế nó phù hợp với lợi ích quốc gia và dân tộc. Đầu thế kỷ 19 yêu cầu lịch sử của hai
nước Việt Nam và Trung Quốc đòi hỏi phải có một môi trường hòa bình ổn định, đòi hỏi phải
có một sự cùng tồn tại hòa bình. Đường lối đối ngoại mà Gia Long định hướng và thực hiện đã
đáp ứng được yêu cầu trước mắt của đất nước trong giai đoan lịch sử này.
37TĐường lối ngoại giao của các vua triều Nguyễn còn ít nhiều chịu sự chi phối và tác động
2.1.4. Đặc điểm tư tưởng:
của ý thức hệ phong kiến. Những quan niệm về thế giới, về quan hệ với các nước chung
quanh 22T37T.v.v.. 22T37Tcủa ý thức hệ này đã góp một phần trong việc hình thành nên đường lối ngoại
37TXét về mặt tư tưởng, trên lĩnh vực đối ngoại của Nhà nước phong kiến 6T37Ttriều 6T37TNguyễn có
giao của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19.
thể thấy sự hiện diện của ảnh hưởng “nhân tố Trung Hoa”. Tư tưởng Nho giáo một mặt có
đóng góp đáng kể vào việc ổn định trật tự xã hội phong kiến Việt Nam, nhưng mặt khác vẫn có
sự chi phối nặng nề tư duy đối ngoại của triều đình Huế, dẫn dắt các hoạt động ngoại giao theo
xu thế kém linh hoạt, chậm đổi mới so với thời đại. Triều Nguyễn vẫn đi theo 6T37Thướng 6T37Tngoại
giao cổ truyền, trong lúc nội dung, tính chất thời đại đã thay đổi. Đây là một hạn chế trong tư
duy đối ngoại của triều Nguyễn khiến cho đất nước ta càng ngày càng trở nên tự cô lập so với
37TKhi chủ nghĩa tư bản xác lập địa vị thống trị của mình trên phạm vi thế giới với một nền
thế giới bên ngoài.
khoa học kỹ thuật tiên tiến và đang tìm cách mở rộng phạm vi quyền lực của mình, thì Việt
Nam như nhiều quốc gia phương Đông khác đang tự làm suy yếu mình bằng phương cách
37TTrong quan hệ với Trung Quốc, Gia Long và con cháu của ông ngoài những nguyên
ngoại giao “tự thủ”.
nhân do hoàn cảnh lịch sử chi phối, có thể còn có nguyên nhân khác, đó là triều Nguyễn coi
quan hệ đó là sự tuân theo “lễ” và thuận theo “lẽ trời”. Có nghĩa là chư hầu thì phục tùng
Thiên 6T37Ttử 6T37Tvà sự phục tùng này là bất biến, bất dịch. Triều Nguyễn khi phục tùng nhà Thanh ít
nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng tôn vinh Trung Hoa, mặc nhiên thừa nhận vua Trung Quốc
là “Thiên tử” thay trời trị 6T37Tdân. 6T37TTrong quốc thư gởi nhà Thanh, Gia Long đã viết: “Mặc dù dân
chúng thiếu thần phục, song Thần chưa biết ý Trời ra sao. Thần cử Lê Quang Định và Trịnh
34
Hoài Đức mang sang lễ vật để thể hiện lòng trung thực của chúng thần được đứng vào hàng
37TNhìn 6T37Tnhận 6T37Tảnh hưởng Nho giáo trên lĩnh vực ngoại giao của triều Nguyễn là một vấn đề
ngũ các chư hầu” [89,19].
cần tiếp tục nghiên cứu nhưng chúng tôi cho rằng, dù muốn hay không thì những tư tưởng cơ
bản của Nho giáo cũng có ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của các vua Nguyễn. Tư
tưởng “Thiên mệnh” phần nào góp phẩn hình thành tư tưởng “phục tùng” nước lớn, và tuân
theo trật tự trong quan hệ với các37T42T 37T42Tnước xung quanh theo qui định bất thành văn của Triều
37TTự hào với nền văn minh cổ Á Đông, các vua Nguyễn không phải không biết đến thế giới
Thanh - Trung Quốc.
biến đổi mau chóng nhưng họ không muốn có một sự xáo động nào vào trật tự mà Gia Long
khi còn là Nguyễn Ánh đã “kinh dịch qui hoạch, sửa quan chế, định quan chế, nêu phép cấm,
chính triều nghi, qui mô mở nước, đại lược đã định” [70, 24T37TIII, 24T37T132]. Ngay khi Trung Quốc phải
mở cửa trước áp lực của phương Tây thì Việt Nam vẫn tiếp tục khước từ mọi tiếp xúc với
phương Tây. Đối với người Việt Nam, người Trung Quốc là “chú”, “anh”... Còn người
phương Tây là “Tây dương”, “Bạch quỉ”...Phải chăng tư tưởng trên còn xuất phát từ cội nguồn
sâu xa của nó là quan niệm “nội hạ, ngoại di”? Đề phòng, nghi ngờ đối với tư bản phương Tây
tất nhiên là còn đó những âm mưu và hoạt động thâm nhập của tư bản nước ngoài đối với nước
ta vào thời điểm cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nhưng có lẽ nó còn bắt nguồn từ quan niệm:
“không để người Hạ lẫn với người Di” “người Hồng Mao thì gian giảo trí trá” [4, 259]. Nhìn
chung, khi hoạch định đường lối - chính sách đối nội, đối ngoại các vua Nguyễn đều căn cứ
theo luân lý của Nho giáo”chỉ cần theo cái luân lý của Nho giáo, để giữ lấy các hiếu nghĩa,
trung tín, cốt cho xã hội được yên trị thì thôi” [28 ,12].
2.2. Đường lối, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc trong
nửa đầu thế kỷ 19:
37TDo yêu cầu đặc biệt của tình 11T37Thình 11T37Tđầu thế kỷ 19, với những điều kiện đặc thù của hoàn
cảnh lịch sử - chính trị - xã hội - địa lý của cả hai nước Việt Nam - Trung Quốc, Trung Quốc
được xác định là đối tượng ngoại giao trọng yếu của triều Nguyễn. Gia Long khi lên ngôi đã
tiếp tục thực hiện đường lối ngoại giao truyền thống là “thần phục” nhà Thanh nhằm bình
thường hóa quan hệ hai nước, ổn định tình hình khu vực.
35
37TĐi theo chiến lược ngoại giao truyền thống với Trung Quốc, các vua Nguyễn đều chịu
nhận sách phong, và triều cống...Đây là một chiến lược khéo léo nhằm xoa dịu và làm thỏa
37TTrong 6T37Tbối cảnh lịch sử cuối thế kỷ 6T37T18 6T37Tđến thế kỷ 19, phương hướng ngoại 6T37Tgiao của Gia
mãn tự ái của một nước lớn đã không thể khuất phục được một nước bé nhỏ ở bên cạnh.
Long còn nhằm duy trì sự không can thiệp của nhà Thanh vào nội tình nước ta, ngăn chặn các
hoạt động quân sự của quân Thanh núp dưới chiêu bài “Diệt Nguyễn phò Lê” thời Tây Sơn
như Trung Quốc 30T37Tđã làm30T37T.
Về đường lối ngoại giao theo kiểu “thần phục” của triều Nguyễn, hiện nay vẫn còn nhiều
kiến giải chưa thống nhất, song có thể thấy dù có nhiều cố gắng hay còn mắc phải hạn chế, sai
lầm thì khi xây đựng mối quan hệ với Trung Quốc, triều Nguyễn cũng xuất phát từ lợi ích của
đất nước, từ nhu cầu củng cố ổn định đất nước sau chiến tranh và tạo dựng vị trí của vương
triều Nguyễn trong lịch sử Việt nam.
Những người kế vị Gia Long 6Ttuân 6Tthủ một cách nhất quán đường lối ngoại giao mà Gia
Long hoạch định. Vua Tự Đức trong “Bang giao chiếu” cũng khẳng định lại mục tiêu: “muốn
dân chúng yên ổn, nước nhà hòa mục” và cho rằng: “việc bang giao nếu không được thiết lập
thì không những không được giúp đỡ, mà những vùng đất xa kinh đô như biên giới và thành
Thăng Long sẽ bị quấy nhiễu và dẫn tới tai họa chiến tranh” [90, 75]. Các vua đầu triều
Nguyễn đều tuân thủ theo đúng các hoạt động ngoại giao với Trung Quốc như: xin sách
phong, chịu triều cống... Ngoài ra, việc tuân theo các nghi thức trên còn được các vua Nguyễn
xem như là một bổn phận của Tân vương đối với 6Ttruyền thống 6Tngoại giao của ông cha mình.
Từ thời vua Minh Mạng đến Thiệu 6TTrị, 6Tcác nghi lễ trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc
không có sự thay đổi gì. Điều này tạo cho đường lối chính sách ngoại giao của triều đình Huế
đối với Trung Quốc mang tính chất “bất dịch” và “tĩnh” so với những biến động không ngừng
của lịch sử đầu thế kỷ 19. Cho đến nửa sau thế kỷ 19, triều Nguyễn vẫn không có những thích
ứng linh hoạt với hoàn cảnh. Trong điều ước 1874 triều Nguyễn ký với Pháp, ở điều 3, chúng
ta thấy có quy định: “Vua nước Nam cam đoan thích ứng đường lối ngoại giao với chính sách
ngoại giao của Pháp và không thay đổi gì cả những quan hệ ngoại giao của mình”. Như vậy,
với triều Nguyễn danh nghĩa vương quyền “Thiên tử” của Trung Quốc đối với Việt Nam còn
chưa bị xóa bỏ chính thức trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam. Việt Nam vẫn tự cho mình
còn “thần phục” nhà Thanh Trung Quốc. Tự Đức vẫn tiếp tục cống nạp theo nghĩa vụ của chư
36
hầu vào năm 1878 và 1880. Vua Tự Đức còn cử hai phái bộ sang Trung Quốc cầu viện để
chống Pháp.
Trong các hoạt động ngoại giao 21Tgiữa 21TViệt Nam và Trung Quốc cho đến thời vua Tự Đức,
chúng ta chỉ thấy có một ngoại lệ, đó là việc Tự Đức tiếp xứ Trung Quốc sang sách phong tại
Huế thay vì Tự Đức phải thân hành ra Hà Nội.
Đặc điểm mang tính đặc trưng trong đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với
Trung Quốc là 6Txuất 6Tphát từ mục đích giữ yên vùng biên giới quan trọng nhất của đất nước để
ổn định và phát triển quốc gia. Đường lối ngoại giao mang tính chất “thần phục” song Việt
Nam luôn khẳng định tư thế độc lập của mình.
Suốt gần nửa đầu thế kỷ 16T9, 6Tquan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc về cơ bản không
có những căng thẳng dẫn tới chiến tranh, nhưng thỉnh thoảng sự hữu hảo không được duy trì,
bởi lẽ nhà nước phong kiến Trung Quốc luôn luôn có những mưu toan đen tối đối với Việt
Nam. Liên tiếp trong hai năm 1805 và 1806 nhiều vụ xâm lấn biên giới xãy ra. Năm 1831, vua
Minh Mạng đã điều quân đội tới biên giới để đối phó với Trung Quốc... Cuối cùng thì tất cả
những va chạm biên giới cũng được thu xếp ổn thỏa và không gây ảnh hưởng lớn đến quan hệ
hai nước.
Đường lối, chính sách ngoại giao “thần phục” của triều Nguyễn Việt Nam cũng giống
như một vài nước trong khu vực. Đó là đường lối ngoại giao của các nước Cao Ly, Miến Điện,
Xiêm La đối với Trung Quốc từ đến nửa đầu thế kỷ 19, trên thực tế, hệ thống chư hầu này
không còn tồn tại, khi mà các vua Trung Quốc từ bỏ các xưng hiệu của Thiên triều, đứng vào
hàng ngũ bình đẳng với các nước láng giềng, cúi mình xuống ký điều ước Nam Kinh năm
1842 với nước Anh tư bản. Điều ước này đã mở đầu cho một quá trình xâu xé Trung Quốc của
Tư bản Âu - Mỹ và biến Trung Quốc từ một quốc gia phong kiến độc lập thành một nước lệ
thuộc
42TSách phong và triều cống 42Thai nội dung quan trọng trong lịch sử quan hệ ngoại giao Việt
2.2.1. Vấn đề: “Sách phong” và “Triều Cống”:
Nam và Trung Quốc và đến triều Nguyễn thì 42Tsách phong, triều 35T42Tcống 35Tkhống phải là hai nội dung
mới lạ. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc được thiết lập trên cơ sở hai nội
dung này. “Đây là một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm trên thế giới chỉ có trong quan hệ
37
giữa các nước Trung Quốc và các nước láng giềng mà Việt Nam thường được xem là một ví
dụ điển hình” [92,49]
Khái niệm 42Tsách phong và triều cống 42Tđều xuất hiện từ thời cổ đại. Sách phong là việc
phong tước cho các “chư hầu” của Trung Quốc. Việt Nam từ thời Gia Long trở đi thì “Quốc
vương” là tước cao nhất của nhà Thanh phong cho vua Việt Nam. Sách phong thường đi kèm
theo với việc ban ấn tín của Trung Quốc. Quá trình tiến đến việc Gia Long nhận 42Tsách
phong 42Tcủa vua Thanh diễn ra như sau:
Pvào năm 1804 là thời kỳ vận động để tái lập quan hệ ngoại giao giữa Triều Nguyễn và
Thời kỳ từ Nguyễn Ánh xưng vương năm 1802 cho đến khi nhận 42Tsách phong 42Tcủa Trung QuốcP
Trung Quốc.
Thời kỳ từ 1804 đến 1819 là thời kỳ quan hệ Việt Nam Trung Quốc được tái lập dưới
triều Gia Long.
Thời kỳ từ 1820 đến những năm 50 của thế kỷ 19 là thời kỳ quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc diễn tiến bình thường theo đường lối mà Gia Long hoạch định, Việt Nam nhận 42Tsách
phong, 42Tchịu thần phục, giữ lệ 42Ttriều cống. 42TĐây là thời kỳ chế độ quân chủ được củng cố và tăng
cường ở Việt Nam và là thời kỳ quan hệ Việt - Trung có những vấn đề về biên giới nhưng cơ
42T+ Sách phong:
bản không gây nên bất ổn trong quan hệ hai nước.
Vua Việt Nam nhận 42Tsách phong 42Ttừ 16TTrung 16TQuốc gọi là thụ phong, khi mỗi tân vương lên
ngôi đều phải cử một sứ bộ sang Trung Quốc xin phong (gọi là cầu phong) và vua Trung Quốc
cử sứ sang Việt Nam 42Tsách phong 42T(gọi là tuyên phong).
Lễ nhận 42Tsách phong 42Tcủa vua Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn được gọi là đại lễ thụ
phong. Lễ này biểu hiện nội dung - hình thức quan hệ ngoại giao Việt - Trung, và đây là hoạt
42TSách phong 42Tvừa là quyền lợi của nước chư hầu vừa là nghĩa vụ, khi nhận sách phong vua
động ngoại giao cao nhất cấp nhà nước của hai quốc gia 6Tnày.
Việt Nam chính thức hóa địa vị của mình trong quan hệ với Trung Quốc, và do vậy phải thực
hiện “nghĩa vụ” 42Ttriều cống và 42Tcác “nghĩa vụ” thăm viếng qua lại khác... Trong một ý nghĩa nào
đó, 42Tsách phong 42Tlà quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ quốc tế thời kỳ này. Xét về mặt pháp
lý khu vực và quốc tế thế kỷ 19, 6Tnếu 6TViệt Nam được sách phong cũng giống 6Tnhư 6Tlà một sự
38
công nhận của quốc tế, do vậy uy tín vị trí của Việt 27TNam 27Tđược xác định và nâng cao hơn trong
khu vực.
Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực, được coi là đại diện của quốc 11Ttế, 11Tcông nhận
sự tồn tại hợp pháp của một triều đại phong kiến Việt Nam, một nhà nước mới ở Việt Nam.
Theo khía cạnh này thì “nếu không có sự xác nhận này thì người ngoại quốc không công nhận
và ngay thực 6Tdân 6Tcũng có thể không thần 11Tphục” 11T[34,129]. Nhận định trên tuy có phần nhấn
mạnh thái quá vị trí, tầm quan trọng của vấn đề 42Tsách phong, 42Tquá đề cao giá trị, ý nghĩa của
việc 42Tsách phong, nhưng 6T42Tdù 6Tsao đây vẫn là một nghi thức ngoại giao quan trọng trong đời sống
chính trị xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn.
Những ông vua của triều Nguyễn khi lên ngôi đều nhận sách phong mới hợp thức hóa địa
vị của mình. Danh hiệu” Quốc vương” mà vua Trung Quốc phong cho Lý Anh Tông (Việt
Nam) thế kỷ 12 và Gia Long nhận từ 1804 là danh hiệu cao nhất mà Trung Quốc phong cho
nước “chư hầu”.
Đối với Trung Quốc, 42Tsách phong có 42Tnghĩa là Trung Quốc khẳng định sự công nhận của
mình đối với một nước “chư hầu”. 42TSách phong 42Tcó nhiều khả năng bắt nguồn từ quan điểm vốn
có từ thời cổ đại, cho rằng Trung Quốc là “trung tâm thế giới”. Người Trung Quốc cho 6Tdân 6Ttộc
mình “áo mũ đẹp đẽ gọi là Hoa, nước lớn gọi là Hạ, thường khu biệt Hoa Hạ 42Tở 42Tgiữa là trung
tâm thiên hạ, còn bốn phía nam, 42Ttây, 42Tđông, bắc là Nhung, là Dịch, là Man, là Di” [100,222].
Trung Quốc tự cho mình là chủ vũ trụ, và thể hiện uy quyền “Thiên tử” của mình đối với các
nước nhỏ chung quanh, 42Tsách phong 42Tlà một biểu hiện khẳng định tư thế cao hơn của Trung Quốc
đối với các nước khác. Tuy nhiên, quyền lực của Trung Quốc có thực hay chỉ là hình thức tùy
theo tương quan lực lượng của Trung Quốc và các chư hầu trong từng thời kỳ lịch sử nhất
định.
Việt Nam dưới thời các vua Nguyễn, thường là các vua lên ngôi trong nước rồi mới dâng
42TSách phong 42Tlà một truyền thống ngoại giao nên triều Nguyễn chuẩn bị khá chu đáo nhằm
biểu, cử sứ sang Trung Quốc xin phong.
phản ánh thiện chí của nhà nước Việt Nam. Công việc chuẩn bị trước 6Thết ở khâu giấy tờ công
văn như: văn thư, quốc thư xin phong. Loại này do đình thần 6Tsoạn thảo rất cẩn trọng để tránh
các từ tên húy phía nhà Thanh. Đến thời Minh Mạng công việc trên được giao
cho 6TBộ 6TLễ. 6TBộ 6TLễ soạn xong trình lên cho vua duyệt, vua duyệt rồi lại giao cho Nội các hoặc
39
đình thần hội đồng xét lại. Theo “Đại Nam hội điển sử lệ”: “Những ngày sứ thần từ Hà Nội ra
đi, ngày tới cửa quan đều phải điệp tấu về. Khi đến các tỉnh Hồ Bắc, Quảng Tây bên nước
Thanh, cũng phải làm điệp tấu nói rõ sự thể đi đường” [62,306].
Sứ bộ đi xin phong gồm có một Chánh Sứ, hai Phó Sứ cấp quan nhị 44Tphẩm 44T(hệ thống cấp
bậc quan gồm có 9 bậc tính lừ 1 đến 9). Nếu đi sứ Trung Quốc với những nội dung khác thì
Triều đình Huế chỉ cần cử quan cấp tam phẩm trở xuống. Sứ bộ Việt Nam lúc đến kinh đô
Trung Quốc phải đợi để vào yết kiến Hoàng đế Trung Quốc. Khi vua Trung Quốc chấp nhận
nội dung yêu cầu của sứ Việt Nam, thì về cơ bản nhiệm vụ của sứ đoàn coi như đã hoàn thành.
Khi sứ bộ Việt Nam về nước, nhà Thanh sẽ cử một sứ đoàn đứng đầu là một Khâm sứ
sang mang theo sắc chỉ tấn phong. Lễ tiếp nhận sắc chỉ này là đại lễ Tuyên phong và được Việt
Nam tổ chức tại Hà Nội. Từ thời vua Gia Long đến thời Tự Đức, nước ta có 4 lần diễn ra đại lễ
sách phong vào các năm 1804, 1821, 1842 và 1849.
Năm 1804 sự kiện 35Tsách 35T42Tphong 42Tcho Gia Long đã đánh đấu kết quả quá trình vận động tái
lập quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đã bị gián đoạn từ cuối đời Tây Sơn. Trong lễ sách
phong này, vua Mãn Thanh là Gia Khánh ban sắc chỉ và ấn tín mới cho Gia Long. 6TSắc 6Tthư của
vua Trung Quốc đã phản ánh sự quan tâm của nước này đối với Việt Nam với tư cách là một
nước chư hầu gần kề Trung Quốc. Gia Khánh tuyên bố: “Lập sự kế tục tước vị và 6Tphân 6Tchia
lãnh địa giữa các chư 6Thầu 6Tlà mối quan tâm thường xuyên của Hoàng dế, Người luôn lo lắng
suy nghĩ về tất cả các chư hầu gần xa ...Ta phong ngươi (tức Gia Long - TG) chức Quốc vương
Việt Nam và ấn triện mới” [120, 243].
Trong năm 1804, án sát tỉnh Quảng Tây Tề Bố Sâm vâng lệnh vua Gia Khánh mang 6TCáo
- 6TSắc - Quốc ấn sang Việt Nam đến Hà Nội tiến hành lễ Tuyên phong cho vua Gia 6TLong.
Chuẩn bị cho sự kiện này, Triều đình Huế 30Tđã 30Tbỏ ra một khoản chi phí khá lớn. Chính
quyền 30Ttừ 30Ttrung ương đến địa phương và nhân dân 11Tcả 11Tnước đều được huy động, lôi cuốn vào
việc đón tiếp sứ Trung Quốc. Riêng vua Gia Long phải rời kinh đô ra Hà Nội trước 42Tngày 42Tsứ
Trung Quốc đến, công việc được tiến hành tại điện Kính Thiên 30T(thành cũ 30T42Tở 42Ttrong Thành Hà
Nội - Thời Lê), ở 30Tđây, 30Tngười ta dựng một hành lang dài từ điện Kính Thiên tới cổng Chu Tước
và “trước ngày làm lễ, thuộc ty bộ Lễ đã trưng bày long đỉnh ở chính giữa điện Kính Thiên,
hương 42Tán ở 42Tphía 11Tnam 11Tlong đình, chổ vua bái ở đằng trước hương án ...” [62, 332].
40
Theo “Đại Nam hội điển sự lệ: “sứ Thanh đến cửa quan bắn 3 phát pháo lệnh rồi mở
khóa cửa, bên ta (Việt Nam) cũng bắn 3 phát pháo lệnh trả lời, quan 22Tsĩ 22Tmở cửa đồng thanh dạ
rang hưởng ứng. Tiếp đó súng điểu sang đều bắn 3 phát” [62,325]. Tiếp đến hai bên Việt Nam
và Trung Quốc làm lễ triều bái, sắc thư của vua Trung Quốc đặt vào một long đình cùa Trung
Quốc, dụ văn đặt vào một long đình khác do Việt Nam mang tới. Sau thủ tục đó hai bên lại chờ
pháo lệnh 11Tmới 11Tcùng bước sang cửa quan phía lãnh thổ Việt Nam và cùng đi về kinh đô Hà
Nội. Dọc đường đi của hai sứ, dân chúng hai bên đường phải kết hoa, dán giấy, những cửa
hiệu phải lập hương án để cung nghinh khi đoàn rước long đình đi ngang qua. Quá trình đón
rước sứ Trong Quốc diễn ra rườm rà, phô trương và tốn kém. Tuy nhiên “Nghi lễ 42Tsách phong
được 42Tsử dụng không chỉ để tỏ lòng kính 22Ttr 22Tọng với hoàng đế Mãn Thanh mà còn thể hiện sức
mạnh của đất nước mình” [109,100]. “Khi ra Hà Nội nhận sách phong Minh Mạng đã cùng
mội đoàn tùy lùng gồm 1.782 người và 22Tsố 22Tbinh sĩ là 5.150 người” [60, IV, 13Tl01]. 13TĐây là một
phái đoàn ngoại giao rất đông đảo gồm cả quan văn, võ và binh lính, là một đoàn ngự giá
“chưa từng có”.
Từ thời Gia Long đến thời Tự Đức lễ 42Tsách phong diễn 42Tra khi các vua Nguyễn đã lên ngôi.
Từ Gia Long đến Thiệu Trị địa điểm cử hành lễ này là tại Hà Nội. Nhiều nhà nghiên cứu cho
đây là biểu hiện của sự thần phục thái quá, nhưng theo chúng tôi đây cũng là một trong những
biểu hiện của chính sách mềm dẻo của triều Nguyễn và trong lễ nhận 42Tsách phong, 42Ttriều
Nguyễn cũng đã tổ chức lớn với đội 30Tngũ 30Ttùy tùng đông đảo nhằm phổ 30Ttrương 30Tlực lượng của
mình. Riêng thời Tự Đức lễ được tổ chức tại Huế (điện Thái Hòa), sứ Trung Quốc đến kinh đô
Huế để tuyên phong. Có lẽ do tình hình có nhiều biến dộng vua không thể rời kinh đô và Trung
Quốc đồng ý làm lễ 42Tsách phong 42Ttại kinh đô Huế do tình hình Trung Quốc 6Tbấy giờ cũng hết
sức biến động nên không muốn tạo căng thẳng với Việt 6TNam.
Sứ đoàn Việt Nam khi sang Trung Quốc xin phong còn làm thêm việc báo tang vị vua
trước cho nhà Thanh biết.
Số lượng đoàn Việt Nam đi Trung Quốc xin phong không được ghi cụ thể trong sử sách
nhưng qua thể thức sai sứ chúng ta ước tính khoảng 20 người (không kể lính, người phục vụ và
140 phu đài tải) “xin chỉ trước giao cho đình thần chọn cử 3 viên sứ thần: 1 6Tchánh 6Tsứ, 2 phó sứ
và chọn lấy 8 người hành nhân, 9 người tùy tùng, 2 viên giáp ất phổ sứ dùng tam quan, tứ
phẩm” [62, 306]. Ngược lại, sứ bộ sang Việt Nam làm lễ 42Tsách phong 42Tsố lượng đông hơn. Trên
cơ sở tặng vật của vua Nguyễn ban cho thành phần sứ Trung Quốc thì chúng ta có thể biết
41
được số người cụ thể: “Gia Long năm thứ 3 ...ngày tuyên phong đã xong đưa tặng khâm sứ
...tặng tri phủ Thái Bình..., 2 viên sứ giả ..., 5 viên tham quân..., 2 viên thông sự ..., nội ty của
sứ bộ 32T10 32Tngười... phu kiệu và người đi theo của sứ Thanh 72 người, nội ty của viên phủ Thái
Bình 5 người... phu kiệu và người đi theo các viên, đi theo sứ giả 15 người” [62,536]. Ước tính
khoảng chừng 155 người Trung Quốc sang Việt Nam trong sứ đoàn đến 42Tsách phong 42Tcho Gia
Long. Đây là lễ 42Tsách phong 42Tđầu tiên dưới Triều Nguyễn đạt nền móng cho quan hệ ngoại giao
Việt Trung thế kỷ 19. Do ý nghĩa quan trọng của nó mà có lẽ số người trong sứ bộ Trung Quốc
đông hơn trong các lễ 42Tsách phong 42Tcho Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (Thời Minh Mạng căn
cứ trên số tặng phẩm vua Nguyễn ban cho người của sứ bộ Trung Quốc, ước tính có chừng
118 người).
Thời gian đi và về của sứ bộ Trung Quốc chúng ta thấy kéo dài hàng tháng. Sự tiếp rước
xa xỉ long trọng ở lượt đi cũng như lượt về gây nhiều tốn 42Tkém cho 42Ttriều đình và dân chúng.
Trên đường đi và về của sứ Trung Quốc, triều đình đặt nhiều công quán để sứ nghỉ ngơi.
Từ Lạng Sơn đến Bắc Ninh có cả thảy 8 công quán. Đến thời Tự Đức, số công quán được dựng
thêm vì sứ Trung Quốc phải đến tận Huế, ngoài ra 6Tcó 6Tnhững quãng hành trình sứ Trung Quốc
phải dùng thuyền nên 6Ttriều 6Tđình 6THuế phải 6Tchuẩn bị thuyền rồng, thuyền vàng cho việc tiếp
rước sứ Trung Quốc.
Thời gian lưu lại Việt Nam của sứ Trung Quốc khoảng 30 ngày, và với số lượng người
khá đông như đã nói nên sự cung đón thiết tiệc rất tốn kém. Theo “Đại Nam hội điển sự lệ”:
“phàm sứ Thanh mới đến, ngày làm lễ, ngày trở về, mỗi ngày đều có đãi yến 1 lần, mỗi lần
một mâm cỗ yến hạng nhất: 1 mâm 50 bát, 7 mâm hạng nhì: mỗi mâm 40 bát, 25 mâm hạng
ba: mỗi 44Tmâm 44T30 bát ..v.v...” [62, 351].
Nghi thức 42Tsách phong được 42Tdiễn ra thiêng liêng, trang trọng còn nói lên sự ràng buộc gắn
bó quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Sự ràng buộc hữu hảo đó chỉ có thể không còn
duy trì khi Trung Quốc phá bỏ luật lệ để tiến hành chiến tranh hòng thống trị Việt Nam.
Quá trình chuẩn bị tiếp đón, tiễn đưa sứ bộ Trung Quốc diễn ra 6Tkhá 6Tdài, nhưng lễ vừa
xong thường là sứ bộ Trung Quốc về ngay. Sau lễ 42Tsách phong 42Tcho Gia Long, viên chánh sứ
Trung Quốc là Tề Bố Sâm không được mời lưu lại: “Lễ rồi, đãi sứ uống trà, Sâm trở về, Ngài
(Gia Long) sai quan hậu mang hộ tống ra cửa ải” [69, 59]. Sau lễ 42Tsách phong 42Tcho vua Minh
42
Mạng thì sứ Trung quốc là “Phan Cung Thần chỉ xin nhận quế thanh mà thôi, liền ngày ấy về
nước” [69, 118].
Khi sứ bộ Trung Quốc về rồi, Triều đình Huế phải cử tiếp một đoàn sứ khác sang Trung
Quốc để tạ ơn vua Trung Quốc. Năm 1804, sau lễ 42Tsách phong vua 42TGia Long cử sứ mang lễ vật
sang Trung Quốc để tạ ơn. Sứ bộ này do Tham tri bộ Hình Lê Bá Khảm làm chánh sứ, Thiêm
sự Trần Minh Nghĩa, Nguyễn Đăng Đệ làm giáp ất phó sứ. Cùng với lễ tạ ơn, sứ Việt Nam còn
mang theo lễ cống định kỳ, lệ này duy trì suốt trong nửa đầu thế kỷ 19.
Lễ vật tạ ơn 42Tsách phong 42Tcũng khá lớn gốm sản vật và khoáng quí: “vàng 13T10 13Ttuổi, hạng
đĩnh 13T10 13Tlạng; 20 đĩnh bạc hạng đĩnh 13T10 13Tlạng: 100 đĩnh; 100 cân ngà voi, 2 cổ tê giác hoa, 100
cân nhục quế, lụa nõn, lụa mộc đều 100 tấm” [62,311].
Từ thời Minh Mạng đến Tự 42TĐức 42Tsau lễ 42Tsách phong 42Tlà lễ 42TDụ tế. 42TĐây là nghi lễ truyền thống
phản ánh quan hệ bình 6Tthường 6Tgiữa hai nước. Các vua Nguyễn chịu nhận 42Tsách phong 42Ttừ Trung
Quốc nhưng hoàn toàn độc lập trong các hoạt động đối nội, đối ngoại của mình. Vua Gia Long
cũng như các vua Nguyễn trong đầu thế 6Tkỷ 6T19 lên ngôi rồi mới xin 42Tsách phong, 42Tđã phá vỡ
những giới hạn, trật tự khuôn mẫu mà phong kiến Trung Quốc qui định từ thời cổ đại và áp
dụng trong hệ thống các chư hầu của mình.
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19 cho thấy hai
quốc gia này thực sự đối diện với những thách thức của thời đại, đồng thời chịu tác động của
môi trường quan hệ quốc tế lúc bấy giờ. Những thuộc tính ngoại giao phong kiến phương
Đông đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoạch định đường lối ngoại giao của Triều
Nguyễn 42Tvà 42Tlàm đường lối ấy 45Tlưu 45Tgiữ những nét lạc hậu trước những biến đổi của thời đại.
Về phía Trung Quốc, việc 42Tsách phong 42Tcho một chư hầu trong thời điểm mà cuộc khủng
hoảng trong nước đang ngày càng trầm trọng là biện pháp nhằm nâng cao uy tín của Trung
Quốc trong khu vực, ổn định tình hình biên giới, bình thường hóa quan hệ với Việt Nam v.v...
Vua Gia Khánh Trung Quốc nêu rõ: “Hoàng đế Mãn Thanh sẵn sàng ủng hộ bất kỳ một người
đứng đầu chính quyền thực tế nào, người thúc đẩy việc bảo đảm tình hình chính trị trong nước
và sự yên tĩnh trên biên giới, cũng như đồng ý duy trì các mối quan hệ truyền thống với Trung
Quốc, trong khi tiếp tục công nhận tình trạng phụ thuộc của mình” [71, 108]. Trên đây là lý
giải phần nào thuyết phục cho tình huống mà nhà Thanh đồng ý công nhận Gia
Long 45Tn h ư 45Tmột 45TSự 45Tthay thế hợp pháp 45Tnhà 45TLê đã sụp đổ và Tây Sơn 42Tđã 42Tthất bại trong hoàn cảnh
43
Trung Quốc không thể đưa quân vào Việt Nam để can thiệp một lần nữa sau đại bại của Tôn Sĩ
42TSách phong 42Ttheo lệ có kèm theo sắc chỉ và ấn tín của nhà Thanh. Năm 1804 vua Gia Long
Nghị.
nhận ấn tín “An Nam Quốc Vương”, “ấn bằng bạc mạ vàng trên mặt khắc nổi hình con lạc đà”
42TSách phong là 42Tvấn đề còn tồn tại nhiều đánh giá khác biệt nhưng trên thực tế đó vẫn là
[75,279].
hoạt động ngoại giao ghi nhận 45Tsự 45Tbình thường hóa mối quan hệ Việt - Trung có từ lâu đời
42TSách phong 42Tđối với Gia Long đánh dấu mốc khởi đầu của một triều đại phong kiến mới.
trong tiến trình lịch sử quan hệ hai nước.
Đó là Triều Nguyễn. Họ Nguyễn vốn là bề tôi của họ Lê, cho nên nhận sách 34Tphong 34Tcủa Trung
Quốc, ngoài mục đích vì lợi ích quốc gia, Gia Long còn vì quyền lợi và uy tín của họ Nguyễn.
Trong thư gởi cho Hoàng đế Trung Quốc, ông 6Tđã 6Tnói rõ sự nghiệp của mình là kế tục nhà Lê:
“Nguyễn Huệ sau khi đoạt quyền của nhà Lê đã trở thành Hoàng đế, nhờ lòng khoan dung của
bệ hạ mà tạm thời thành chư hầu của bệ hạ. Khi mà Quang Toản lên ngôi, dân chúng đã đoạn
tuyệt với y... bắt đầu đề nghị Thần tiếp tục sự nghiệp cùa triều Lê” [111, 112]. Với việc
nhận 42Tsách 35T42Tphong 35Ttừ Trung Quốc, Gia Long muốn khẳng định một triều đại mới ra đời thay thế
cho triền Lê chính thống, và nhằm ổn định lòng dân, sâu xa hơn Gia Long hẳn mong muốn
người 42Tdân 42Tdần dần quên triều Lê cũ và triều Tây Sơn với Nguyễn Huệ Quang Trung anh hùng.
Gia Long tự cho rằng, việc lên ngôi báu của ông là “hợp lời xin của mọi người” [70, III, 285].
Khi Minh Mạng 6Tkế 6Tvị ngai vàng, 6Ttân 6Thoàng 6Tđế 6Tban chiếu ở Đại Nội nói rõ mình lên là tuân theo
di chiếu của vua cha: 42T“Trẫm 42Ttheo di chiếu ngày 27 tháng 12 năm Gia Long thứ 18 kính Cáo
Giao Miếu. Ngày 1 tháng giêng năm nay lên ngôi hoàng đế, lấy năm Canh Thìn làm Minh
Mạng năm đầu” [49, II, 55]. Một năm sau khi lên ngôi, Minh Mạng cử sứ bộ sang Trung Quốc
xin phong. Trường hợp vua Thiệu Trị, ông cũng lên ngôi rồi mới báo cho nhà Thanh biết là
ngai vàng ở Việt Nam đã được thừa kế. Vua Tự Đức lên ngôi 2 năm mới nhận 35Tsách phong 35Tcủa
nhà Thanh.
Về vấn 6Tđề 6T42Tsách phong 42Ttrong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, có 42Tý 42Tkiến cho 6Tđây 6Tlà “nghi
thức ngoại giao nhục nhã và đè nặng lên những người đứng đầu nhà nước phong kiến Việt
Nam” (ý kiến của nhà nghiên cứu người Nga Murashêva).
44
Ý kiến của phần lớn sử gia phương Tây (đa số là người Pháp) thì cho rằng: 42TSách phong 42Tlà
một hình thức ngoại giao của một nước nhỏ đối với một nước lớn. Nhà Nguyễn nhận 42Tsách
phong 42Tnhưng vẫn độc lập trong đường lối đối nội, đối ngoại, và không hề bị chi phối bởi đường
lối chính trị từ Bắc Kinh. Theo Pellerin - một giáo sĩ người Pháp thì “theo tập quán hay một
luật lệ xác lập từ xa xưa của các vua nước Nam phải nhận sách phong của hoàng đế, và mặc dù
đó chỉ đơn thuần là thủ tục bởi vương quốc An Nam độc lập với Trung Hoa” [120, 180].
Đối với giới nghiên cứu Việt Nam, ý nghĩa 42Tsách phong có 42Tthể khái quát như Phan Huy
Chú đã nhận dịnh: “xét lý thế, thực phải thế”. Triều Nguyễn nhận sách phong, chịu thần phục
là tiếp tục truyền thống ngoại giao “lấy nhu thắng cương” của cha ông, không chỉ Lê Lợi,
Quang Trung mà bất kỳ triều đại phong kiến nào của Việt Nam cũng áp dụng trong ứng xử
với 42Tnước 42Tláng giềng Trung Quốc .
Tuy nhận phận làm “chư hầu bé nhỏ ở phương Nam” song Triều Nguyễn thật sự là chủ
nhân với thực quyền trên đất nước mình trong nửa đầu thế kỷ 19.
Điều đáng lưu 42Tý ở đây, 42Tlà qua vấn đề 42Tsách phong, 42Tchúng ta thấy ít nhiều sự tồn tại của ý
thức xã hội lạc hậu so với tồn tại xã hội thế kỷ 19. Đó là những tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu
bám rễ chặt trong ý thức triều thần nhà Nguyễn, để khi đối điện với những biến chuyển của
thời đại, cần có những quyết định kiên quyết mang tính đả phá các trật tự quan hệ cổ (như thực
hiện các mối quan hệ với phương Tây), duy tân đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại thì
Triều đình lại do dự, lo sợ và cuối cùng không thể vượt qua chính mình để có hành động mang
tính chất bùng nổ trong nhận thức.
Nhìn nhận một cách công bằng, khách quan và không lệ thuộc vào tư duy hiện đại về vấn
đề 42Tsách phong 42Ttrong quan hệ Việt - Trung nửa đầu thế kỷ 19, chúng ta thấy là các vua đầu triều
Nguyễn đã cố gắng xem đây là biện pháp ngoại giao mang tính chất tình thế qui định chứ
không hẳn đây là mục đích cần đạt được trong quan hệ với nhà Thanh Trung Quốc.
Các vua Nguyễn đã lên ngôi và có đầy đủ mọi biểu hiện của một vị hoàng đế của đất
nước mình, sau đó mới xin thụ phong. Điều ấy phần nào chứng tỏ triều Nguyễn nhận thức 42Tsách
phong 42Tlà một nội dung quan trọng trong ứng xử ngoại giao đặc thù bản sắc Việt Nam. Đồng
thời, 42Tsách phong 42Tcũng phản ánh đặc trưng đường lối đối ngoại hòa bình, nhún nhường của Việt
Nam 45Tnhằm 45Thạn chế các mưu toan của Trung Quốc đối với nước ta. Sách phong là dấu hiệu của
sự ổn định tình hình trong khu vực. Khi Trung Quốc sách phong cho vua Việt Nam thì cũng
45
bao hàm ý nghĩa “Trung Hoa cam kết không tấn công Việt Nam trừ khi có thay đổi nghiêm
trọng” [120, 180]. Tuy nhiên, sách phong không đóng vai trò quyết định trong quan hệ Việt -
Trung. Gia Long đã từng tuyên bố không thụ phong nếu Trung Quốc không đồng ý việc đổi
quốc hiệu do Gia Long đề nghị.
Các vua Nguyễn nhận 42Tsách phong 42Tnhưng giao tiếp thẳng với vua Trung Quốc một cách
ngang hàng, bình đẳng. Đối với sứ giả của nhà Thanh, triều Nguyễn cử quan tiếp sứ làm nhiệm
vụ đón rước, đưa tiễn. Ý thức độc lập cùa Triều Nguyễn được phản ánh trong mội số vấn đề về
nghi thức ngoại giao với Trung Quốc, trường hợp bàn về trang phục trong nghi lễ Dụ Tế, vua
Minh Mạng nói với triều thần “lễ phải tùy tục nước ta... Ta tự theo lễ nước la” [71, V, 260].
Các vua như Thiệu Trị cũng tâm niệm là “phải từ bỏ những hủ tục”...
Trong lễ sách phong còn có những biển hiện như: quì gối khi Long đình đi ngang qua,
quì gối khi nghe đọc sắc thư v.v...tạo cho chúng ta cảm giác “thần phục” hay tôn kính thái quá
nhà Thanh. Thực ra, 42Tđây 42Tlà những nghi thức cổ và khó có thể loại bỏ được trong đời sống
42T• Triều cống:
chính trị, ngoại giao phong kiến cổ truyền Á Đông vào thời điểm ấy.
Khái niệm về lệ này cũng có từ thời cổ, vào khoảng năm 19 TCN, và đặt thành chế độ
theo định kỳ từ thế kỷ 13 (3 năm / 1 lần). Thành phần lễ cống mỗi thời kỳ một khác tùy theo
tình hình và tương quan lực lượng giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ
19 42Ttriều cống 42Tlà một hoạt động quan trọng trong quan hệ hai nước. Thời cổ 42Tcống 42Txuất hiện trong
quan hệ Việt - Trung như là biểu tượng sự kính trọng của một nước nhỏ đối với nước lớn.
Theo thời gian tính chất 42Tcống 42Tcũng thay đổi, có thời điểm 42Tcống 42Tnhư là một dạng thuế của Việt
Nam nộp cho Trung Quốc, nhằm mua lấy sự yên ổn trong quan hệ đối với một nước láng
giềng hùng mạnh. Đầu thế kỷ 19 42Tcống là 42Tmột phương tiện, là công cụ để triếu Nguyễn thể hiện
quan điểm ngoại giao thân hữu láng giềng của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với Trung
Quốc.
Theo quan niệm của Trung quốc, 42Tcống 42Tlà mội loại nghĩa vụ của nước chư hầu sau khi
được 42Tsách phong. 42TĐó là phẩm vật dâng lên cho thiên triều theo nghĩa dưới dâng lên trên (hạ
phụng thượng viết cống). Đến đầu triều Nguyễn thì “ nhà Thanh 6Thoàn 6Ttoàn giữ nguyên mức độ
thuế cống nạp đối với các nước lệ thuộc được đề ra từ nhà Minh” [112, 303]. Vua Gia Khánh
Trung Quốc khi 42Tsách phong cho 42Tvua Gia Long cũng theo lệ cũ qui định 3 năm triều cống một
46
lần: “ đến năm Gia Long thứ 3 mọi việc ngã ngũ, vua Gia Khánh mới hạ lệnh cho tổng đốc
Lưỡng Quảng cấp cho Gia Long ấn và sắc cùng ra một đạo dụ đổi tên cho nước Nam, cũng qui
định thể lệ nạp cống 3 năm một lần và tới kinh đô triều kính 4 năm một lần” [75, 279].
Sự cống nạp của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 được tiến hành đều đặn. Thời Gia
Long trị vì, Việt Nam có 3 lần sang Trung Quốc làm nhiệm vụ 42Tcống 42Tvào những năm 1805,
1809, 1813 (lần 42Tcống vào 42Tnăm 1805 được kết hợp với lễ Tạ ơn trong năm 1804). Thời Minh
Mạng, có một lệ cống định kỳ vào 1821 nhưng Trung Quốc cho để đến kỳ nộp lần sau vào năm
1825. Trong thời gian ở ngôi, Minh Mạng đã cử sứ bộ đi triều cống các năm 1829, 1833, 1837.
Dưới thời Thiệu Trị, phía nhà Thanh Trung Quốc miễn cho ta lần nộp cống vào năm 1841 và
1845, do vậy mà thời Thiệu Trị Việt Nam không phải nộp cống cho Trung Quốc. Năm 1847
Tự Đức lên ngôi, lấy năm 1848 làm năm Tự Đức thứ nhất, và cử sứ đi làm nhiệm vụ triều
cống, năm 1852 Tự Đức lại cử một sứ bộ sang Trung Quốc làm nhiệm vụ 42Tcống 42Tnhư lệ thường,
nhưng lúc này Trung Quốc đang có cuộc khởi nghĩa “Thái Bình Thiên Quốc” lan tràn khắp 17
tỉnh thành, cho nên đến 1856 đoàn sứ đi 42Tcống của 42TViệt Nam mới về tới Việt Nam. Sau 1852
Việt Nam không cử tiếp đoàn sứ nào đi làm nhiệm vụ cống nạp nữa, và Trung Quốc cũng cho
hoãn việc cống lại cho đến khi họ dẹp yên các cuộc nổi dậy ở trong nước họ.
Triều cống đầu thời Nguyễn thực ra cũng là một dạng thuế tự nguyện không có quy định
nghiêm ngặt. Việc giảm lễ cống hay dồn lễ cống lại thường xảy ra với sự đồng ý của Trung
Quốc, và điều này phần nào cũng giảm bớt những chi phí đi lại và phẩm vật của nhà nước Việt
Nam.
Phẩm vật cống cũng không theo một qui định bắt buộc, lễ cống tạ ơn đầu tiên duới thời
Gia Long gồm: “200 lạng vàng, 100 lạng bạc, 100 cây lụa, 100 cây cấp, 6T2 6Tbộ sừng tê, 100 cân
ngà voi, 100 cân ngọc quế” [29, 179]. Đến thời Tự Đức theo lài liệu của Rheinart thì số lượng
và thành phần cống đã rất khiêm tốn và không 11Tcó 11Tgiá trị kinh tế lớn (so với tình hình lúc đó)
bao gồm: “30 thanh quế, 3 cân gỗ trám, 1 sừng tê, 1 cặp ngà voi, 200 xếp lụa” [10, 147]. Sứ
của Triều Nguyễn có ghi lại lễ phẩm cống như sau: “lễ phẩm cống một năm một lần, mỗi
lần: 6T2 6Tngà voi, 6T2 6T11Tcỗ 11Tlê giác, 300 lạng trầm hương, 600 lạng tốc hương, cau và hạt sa nhân mỗi
thứ 45 cân, trừu lụa nõn, lụa mộc, vải mỗi thứ 100 tấm” [62, VIII, 311]. Trong thành phần
cống phẩm cho Trung Quốc, chúng ta không thấy có khoáng sản kim loại quí (trong lễ tạ ơn
thì có). Thời hạn nộp cống cũng không cố định, xu hướng giản đơn ngày càng tăng. Năm Gia
Long thứ 2 nhà Thanh đa định lệ lại “lễ phẩm tuế cống và mừng thọ thời 2 năm nộp lệ cống 1
47
lần, 4 năm sai sứ sang chầu một lần” [62, VIII, 311], 35Tthời 35Thạn nộp sau này còn thay đổi thêm
nhiều lần nữa.
Sứ bộ đi cống phải đến tận kinh đô Trung Quốc, lễ phẩm trước khi mang đi được kiểm
tra cẩn thận. Sứ Việt Nam còn phải đem nhiều quà để biếu xén cho các quan địa phương trên
đường đến Trung Quốc. Số lượng người đi cống khoảng 30 người không kể số lính, phu...
Căn cứ vào số lượng cống phẩm, kỳ hạn cống chúng ta có thể thấy 42Tcống 42Tkhông phải một
tai họa cho Việt Nam như ở các thời trước. Đặc biệt khi vua Quang Trung, vào cuối thế kỷ 18,
kiên quyết không theo lệ nộp cống người vàng, thì thực tế cống không còn nặng về giá trị kinh
tế.
Nửa đẩu thế kỷ 19, 42Ttriều cống vẫn 42Tcòn tồn tại trong quan hệ hai nước Việt 42T- 42TTrung như
một lệ cổ nhằm bảo đảm tình hòa hiếu láng giềng giữa hai nước. Cũng như 42Tsách phong, triều
cống 42Tmang ý nghĩa tượng trưng cho sự bình yên, ổn định trong quan hệ Việt Nam và Trung
Quốc. Nhưng đối với nhà Thanh đó là cách thể hiện uy quyền nước lớn của họ. Đối với Triều
Nguyễn, 42Ttriều cống 42Tlà sự tuân thủ các nguyên tắc ngoại giao truyền thống, 42Tcống 42Tlà biểu hiện
thần phục, ngoài ra nó còn là sự bày tỏ thiện chí của Việt Nam, thường khi sứ Việt Nam
sang 42Ttriều cống 42Tthì phía Trung Quốc bao giờ cũng có sự ban tặng trở lại.
Bên cạnh nhiệm vụ đi cống theo lệ, sứ bộ Việt Nam khi sang nước bạn còn phải thực
hiện các loại lễ cống khác:
+ Lễ cống tạ ơn sách phong và Dụ tế, mỗi 1Tlễ 1Tgồm có: “vàng 1T1 0 1Ttuổi hạng đĩnh 1T1 0 1Tlạng:
20 đĩnh; bạc hạng đĩnh 1T10 1Tlạng: 100 đĩnh; 100 cân ngà voi, 2 cỗ tê giác hoa, 100 cân nhục quế,
lụa nõn, lụa mộc đều 100 tấm” [ 62,311].
+ Lễ phẩm chúc mừng thì có “2 đôi ngà voi, 4 cỗ lê giác, trầm hương 50 cân, tốc hương
100 cân, trừu, lụa nõn, lụa mộc, vải mỗi thứ 100 tấm” [62, 311].
+ Lễ phẩm cầu phong quan trọng hơn nên số lượng có nhiều hơn: “2 đôi ngà voi, 4 cỗ tê
giác, trầm hương 50 cân, tốc hương 100 cân, trừu, lụa nõn, lụa 11Tmộc, 11Tvải, mỗi thứ đều 100 tấm
(Lời cẩn án: Năm đầu Gia Long, lễ xin phong là 39T2 39Tcân kỳ nam, 2 đôi ngà voi, 4 cỗ tê giác, 100
cân trầm hương, trừu, lụa nõn, lụa mộc vải mỗi thứ đều 200 tấm. Đến năm đầu Minh Mạng đổi
lệ này” [62, 311].
48
Các dịp báo tang, mừng thọ của nhà Thanh, triều Nguyễn đều có lễ vật sang tỏ tình hòa
42TTriều cống 42Tlà dịp triều Nguyễn thể hiện thiện chí láng giềng, xác nhận tính chất hợp pháp
hiếu giữa hai nước.
của việc 42Tsách phong, 42Tđồng thời 42Tcống 42Tcái giá mà triều Nguyễn cũng như bất cứ một triều đại
phong kiến nào cũng phải trả cho Trung Quốc để có được 11Tsự 11Tyên ổn trong quan hệ với nước
láng giềng này.
Xét nội dung và thực chất của 42Tcống 42Tdưới thời Nguyễn, có thể 38Tnói 38Tđây là một hoạt động
nhằm duy trì quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong đầu thế kỷ 19. 42TCống 42Tkhông hoàn toàn chỉ
mang ý nghĩa là nghĩa vụ của “chư hầu” đối với Thiên tử. So sánh với thời Lê, thì 42Tcống lúc 42Tđó
là thuế mà Việt Nam phải đóng cho Trung Quốc. Còn ở thời Nguyễn 42Tcống 42Ttà một nghi thức
ngoại giao với giá trị kinh tế rất nhỏ. Ngoài Lễ Tạ ơn và Dụ tế, trong thành phần các loại lễ
phẩm khác không có vàng, bạc..., trong khi thời hậu Lê 11Ttrong 11Tlễ cống 11Tchúng 11Tta nhận thấy có
nhiều vàng bạc quí: “Năm thứ 21 niên hiệu Càn Long nhà Thanh 1756, triều Hậu Lê cống 4
chiếc lư hương và bình bằng hoa vàng tất cả nặng 209 lạng, 13 chậu bằng bạc nặng 641 lạng”
[18, 45]. Dưới các triều 38Tvua 38TNguyễn, vàng bạc chỉ có trong quà tặng do vua ban. Thời vua
Minh Mạng lệ cống cho Trung Quốc còn được bớt giảm “Nay 4 năm một lần cống, và 39T2 39Tlễ
cống cùng nộp ấy nên giảm đi một nửa, mỗi lễ còn phải nộp: 1 đôi ngà voi, 39T2 39Tcỗ tê giác, trừu,
lụa nõn, lụa mộc vải, mỗi thứ 39T100 39Ttấm, trầm hương 300 cân, 600 cân tốc hương, sa 38Tnhân, 38Tcau
mỗi thứ 45 cân” [62, 312]. Nhà Thanh - Trung Quốc ngoài việc ban tặng lại cho sứ bộ Việt
Nam, mỗi khi phía Việt Nam có việc vui hay buồn (tang lễ trong cung đình) thì Trung Quốc
đều cử sứ mang lễ 11Tvật 11Tsang. Trong lễ Dụ tế vua Gia Long, án sát Quảng Tây Phan Cung Thần
mang lễ sang 11Tgồm: 11T39T“50 11T39Ttấm lụa tế, 11T39T100 11T39Tlạng 11T39Tbạc 11T39Ttế đến điện thi trước triều bắc thành làm
lễ 11T39TDụ 11T39Ttế” 11T[62, 342].
Cống phẩm, lễ vật qua lại giữa hai nước là dấu hiệu thể hiện quan hệ ngoại 6Tgiao hai nước
tiến triển bình thường tốt đẹp. 6T35TCống 6T35Tdưới triều Nguyễn là một sự tiếp 6Tnối truyền thống quan hệ
“nước nhỏ” đối với “ nước lớn” và mang ý nghĩa tượng trưng. Khi sứ bộ Việt Nam đi sang
Trung Quốc 42Ttriều cống 42Tthì họ còn kiêm thêm những nhiệm vụ khác:
- Tường trình mọi mặt về đất nước Trung Quốc. Các vua Nguyễn rất quan tâm đến tình
hình Trung quốc nói chung nên sứ bộ đi cống thường xuyên phải điệp tấu về cả lượt đi lẫn lượt
về để báo cáo tình hình, sứ bộ phải “làm điệp tấu nối rõ sự thể đi đường...” [62, 306].
49
- Tìm mua sách cổ, tranh cổ của Trung Quốc, vua thường căn dặn sứ đi cống Trung
Quốc rằng: “bọn ngươi nên để lòng tìm mua (sách, họa) đem về 42Tđây... 42Tnếu thấy những loại
sách ấy dẫu còn là bản thảo cũng không kể đắt cứ mua” [70, X, 165].
- Thông báo về nước những biến động chính trị ở Trung Quốc (nếu có).
Như vậy, 42Ttriều cống 42Tcòn là dịp Việt Nam tranh thủ đi thực tế tìm hiểu nội tình Trung
Quốc, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nhà nước. Mặt khác, cống còn là dịp Việt
Nam và Trung Quốc trao đổi, giới thiệu sản vật quý với nhau. Theo một nhà nghiên cứu người
Nhật thì cống là “dịp hai bên trao đổi tặng vật, mặc dù tặng vật ngày càng giảm. Triều đình
Huế có cơ hội nhận được nhiều “phẩm vật quý giá kể cả thương phẩm và sản vật “tinh thần”:
Lụa, thuốc bắc, 38Tnhân 38Tsâm và cả sách kinh điển... với giá rẻ, bởi vì tặng vật của Trung Quốc có
giá trị lớn hơn cống phẩm của Việt Nam” [110,138]. Nhận 38Tđịnh 38Ttrên đây cũng không hoàn
toàn đúng như với triều vua Gia Long. Gia Long năm thứ ba khi sứ Trung Quốc sang tuyên
phong, chúng ta thấy nếu gọi 1Tlà 1Ttrao đổi sản vật giữa hai nước thì sự trao đổi đó như sau: Sứ
nhà Thanh: “cung tiến đồ như ý, đoan , nhiễu, lĩnh, sa, trà búp, hương châu, bao hương, bút
mực cộng 1T1 0 1Tthứ. Phụng chi nhận 4 thứ: trà, hương, bút, mực”. Vua Gia Long ban tặng lại
như sau: “lễ tặng khâm sứ: một sừng tê giác lớn, sừng tê hoa đều một 22Tcỗ, 22Tkỳ nam một cân,
gươm vàng một đôi” [62, 358]. Lễ vật tặng này được duy trì đến đời vua Thiệu Trị. Đến đời
Tự Đức thành phần lễ vật bớt đi một cân kỳ nam. Như vậy, xét theo nghĩa trao đổi đơn thuần
thì trong một số trường hợp bang giao, tặng phẩm của triển Nguyễn vẫn 42Tcó 42Tgiá trị kinh tế đáng
42TSách phong 42Tvà 42Ttriều cống 42Tlà hai nội dung quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
kể và chỉ nhận lại 4/10 thứ quà tặng của nhà Thanh - Trung Quốc mà thôi.
nửa đầu thế kỷ 19. Đây là hình thức thể hiện của mối quan hệ “nước nhỏ - nước lớn” trong thời
phong kiến. Nước nhỏ được thừa nhận qua 42Tsách phong 42Tvà phải có nghĩa vụ 42Ttriều cống, 42Tnhư vậy,
cống chỉ 42Tlà 42Tmột sự xác nhận giá trị của sách phong. Một ví dụ trong thời Quang Trung cho
thấy rõ hơn điều này, khi Quang Trung dâng biểu cầu hòa và mang phẩm vật sang Trung
Quốc, thì vua nhà Thanh đã cho là “ngươi chưa được liệt vào hạng phiên bang, thì những
phẩm vật đem cống chưa tiện thu nhận” [73, 11, 523].
Nhìn lại lịch sử cho đến đầu thế kỷ 19, mỗi ông vua Việt Nam sau khi Trung Quốc 42Tsách
phong về 42Tdanh nghĩa là nước phiên thuộc hay thần thuộc Trung Quốc và phải chịu thực hiện
nghĩa vụ 42Ttriều cống. 42TDưới thời các vua Nguyễn, Việt Nam là một nước phong kiến thống nhất
50
có nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, còn Trung Quốc lúc này đang lún sâu
vào 44Tmột 44Tcuộc khủng hoảng toàn diện và ngày càng trầm trọng, đồng thời đối diện với nguy cơ
xâm lược của phương Tây, nhà Thanh không muốn và không thể làm xấu đi mối quan hệ với
các nước xung quanh, đặc biệt là Việt Nam. Chính tình hình trên đã mang lại một sắc thái mới,
ý nghĩa mới trong 42T“sáchphong - triều cống”. 42TĐây chỉ là hai hoạt động ngoại giao của một truyền
thống giao hiếu từ lâu đời, phản ánh sự bình thường hóa quan hệ Việt - Trung và thể hiện thiện
chí “cùng tồn tại hòa bình” giữa hai nước trong đầu thế kỷ 19. Thông qua hoạt động 42Tsách
phong 42Tvà 42Ttriều cống, 42Thai nước Việt Nam - Trung Quốc còn nhân cơ hội này để trao đổi giao lưu
văn hóa vật chất - tinh thần. Nhưng qua 42T“sách phong, triều cống” 42Ttrật tự quan hệ ngoại giao
được Trung Quốc quy định từ thời cổ đại cũng được lưu dấu rõ nét trong quan hệ giữa triều
Nguyễn và nhà Thanh. Đó là trật tự phản ánh mối quan hệ “nước nhỏ - nước lớn” đặc trưng
trong ngoại giao phong kiến phương Đông thời cận đại.
2.2.2. Các họat động ngoại giao khác giữa triều Nguyễn và Trung Quốc trong nửa
đầu thế kỷ 19:
Để thực hiện có hiệu quả công cuộc xây dựng và củng cố vương triều Nguyễn, Gia
6TDưới triều Nguyễn, vua là nhân vật6T đứng 6Tđầu đất nước và có toàn 6Tquyền 6Tvề 6Tmọi mặt kể
Long 13Tđã 13Tkhôn khéo và thận trọng trong các hoạt động đối ngoại với Thanh triều.
cả đối ngoại, vua chịu trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo các 42Thoạt 42Tđộng ngoại giao. Thực tế vua
chỉ đạo Bộ Lễ là cơ quan điều hành công việc đối ngoại, nhiệm vụ của Bộ Lễ rất giới hạn, chỉ
bao hàm chức vụ có tính lễ nghi, cũng có trường hợp Bộ Lễ giữ việc phủ dụ thuộc quốc hay
một số nước nhỏ lân cận.
Nguyên tắc ngoại giao với Trung Quốc dưới triều Nguyễn cũng giống các triều đại
phong kiến trước đó là: Mềm dẻo 6Tnhân 6Tnhượng có nguyên tắc và cứng rắn khi cần thiết, về vấn
đề đổi tên nước, theo những sử liệu dã cổ thì đây là một cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng
giữa vua Gia Long với nhà Thanh. Đầu tiên vua Gia Long đề nghị đổi tên 44Tnước 44Ttừ An Nam
thành Nam Việt - biểu hiện sự thống nhất Bắc Nam do vua Gia Long thực hiện. Vua Gia
Khánh nhà Thanh đã từ chối lời đề nghị này. Theo “Đại Nam thực lục” thì Gia Khánh cho rằng
đề nghị của Gia Long là không thể chấp nhận được bởi tên gọi Nam Việt hàm nghĩa rất rộng
lớn, bao gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây Trung Quốc. Gia Long nhiều lần kiên trì nhắc lại
yêu cầu của mình, thậm chí ông đe dọa rằng trong trường hợp bị lừ chối ông sẽ không nhận
51
sách phong nữa. Năm 1803 vua Mãn Thanh đồng ý đề nghị của Gia Long nhưng theo ông ta
để không nhầm lẫn với những lãnh thổ trước đây gọi là Nam Việt nên An Nam nên đổi thành
Việt Nam. Gia Long cũng nhất trí. Đến năm 1804 Quốc 6Thiệu 6TViệt Nam 42Tđược 42Ttuyên cáo, đây
có thể xem là một thắng lợi ngoại giao bước đầu của Việt Nam trên con 6Tđường 6Tkhẳng định tư
thế của một “nước nhỏ” nhưng là một quốc gia độc lập có chủ quyền, và vua Nguyễn có quyền
lực thực tế.
Các hoạt động đấu tranh ngoại giao để bảo vệ biên cương của tổ quốc cũng được triều
Nguyễn tiến hành khéo léo, thận trọng nhằm tránh mọi xung đột với “Thiên triều” Trung
Quốc.
Biên giới phía Bắc của tổ quốc ta luôn là mối quan tâm đặc biệt của Triều Nguyễn. Mục
đích được đặt lên hàng đầu của triều đình Huế là củng cố về phòng vệ chặt chẽ vùng biên ải
này. Đầu thế kỷ 19, giữa các quốc gia thường chưa có đường biên giới mà chỉ có vùng biên
giới nên những tranh chấp ở khu vực biên giới cũng thường xảy ra.
Triều Nguyễn luôn chú 42Tý 6T42Tđến 6Tvùng địa đầu của tổ quốc, luôn luôn đề phòng những thành
phần chống đối nhà Thanh trốn sang gây rối ở nước ta. Gia Long luôn bày tỏ thiện chí hợp tác
với Trung Quốc trong vấn đề bắt và nộp lại cho phía Trung Quốc những “kẻ thù hung dữ
của 6Tnhà 6TThanh”. Đời Gia Long chưa có những vụ việc về xâm chiếm vùng biên giới, vua Gia
Long chỉ phải giải quyết 42Tcác 42Tvụ giặc “Tàu ô” vượt biên sang Việt Nam, thường là vua hạ chiếu
cho Tổng trấn Bắc Thành bắt giao cho trấn Lạng Sơn giải đưa về Trung Quốc. Năm Gia Long
thứ 5, vua hạ chiếu “Nay bắt được bọn giặc Tàu ô và súng ống khí giới, vậy phải giao cho Trấn
Lạng Sơn để đưa về phủ Thái Bình Trung Quốc” [49, 1, 118 ]. Tiếp đó, Gia Long cho sứ giả đệ
công văn sang Trung Quốc theo đúng thể lệ bang giao. Trường hợp tên giặc Tàu ô là Tổng
Vinh Thông xin đầu hàng, Triều Nguyễn đã xử trí hợp lý bằng biện pháp “cáo dụ” chứ không
dùng biện pháp cứng rắn, và đồng ý cho người này cư trú.
Năm 181013T, 13TTrung Quốc đã nhờ triều đình Huế phối hợp giúp họ đón đánh giặc Ô, Gia
Long nhận thức đúng đắn việc giữ gìn bờ cõi là quan trộng “nên đề phòng trước, để đón giữ
Trấn Hưng Hóa và các chỗ yếu hại như Thủy 11TVỹ 11Tvà Lai Châu” [49, 1, 159], triều Nguyễn khi
được tin phía Trung Quốc báo, đã cho tăng cường phòng bị vùng biên giới Việt Trung. Nhà
nước phong kiến Trung Quốc cũng thường gởi công văn sang nước ta để thông báo các tin cần
52
thiết. Năm 1817 quan nhà Thanh gởi công văn cho đồn Châu Thủy Vỹ “về việc đề phòng bọn
giặc mọi sẽ trốn sang biên giới Việt Nam” [49, I, 189].
Thời Gia Long, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 42Tở 42Tvùng biên giới là mối quan hệ hợp tác
tốt đẹp, không có những trường hợp căng thẳng phải dùng đến biện pháp quân sự. Tình hình
biên giới hai nước khá yên ổn, phần nhiều những lần mà triều Nguyễn phải làm việc với chính
quyền địa phương Trung Quốc, là chuyển giải phạm nhân Trung Quốc trốn sang Việt Nam,
thường thì triều đình Huế phái người chuyển giải về tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) xét xử.
Ngoài ra, Gia Long luôn quan tâm theo dõi tình hình của Trung Quốc để có ứng xử hay đối
6TNam 1818 khi Trần Chấn, Nguyễn Hữu Nhân đi Quảng Đồng về, Gia Long 6T30Tđã 6T30Ttriệu 6Ttới
phó kịp thời.
hỏi nhiều về tình hình 44Tở 44TTrung Quốc.
Nhìn toàn cảnh Việt Nam thời Gia Long, có thể nói Gia Long 30Tđã 30Tcó định hướng một
đường lối đối ngoại hòa bình tích cực, và 30Tđã 30Tthực thi đường lối đó có hiệu quả trong những
năm tháng trị vì đất nước. Minh Mạng lên ngôi vẫn tiếp tục đường lối ngoại giao với nhà
Thanh như cha mình. Ông cũng nhận sách phong và triều cống. Ngoài đại lễ sách phong, triều
đình Huế cũng chuẩn bị cho đại lễ Dụ tế diễn ra ngay sau lễ sách phong. Năm Minh Mạng thứ
2, án sát tỉnh Quảng 30TTây 30T(Trung Quốc 30T) 30Tmang 30Tdụ 30Tvăn và vật phẩm tế đến Bắc Thành làm lễ Dụ
tế. Đây cũng là một hoạt động ngoại giao vừa thể hiện và thắt chặt mối quan hệ giữa hai nước
với nhau, vừa là biểu hiện của tình cảm, của nhà Thanh Trung Quốc đối với nước láng giềng
Việt Nam.
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời Minh Mạng gặp nhiều khó khăn,
rắc rối ở biên giới mà nguyên nhân thường do phía Trung Quốc 43Tgây 43T ra. Năm 1831, Trung
Quốc đem một đạo quân hơn 600 người vượt qua biên giới Việt Nam đòi giao vùng Phong
Thu (Hưng Hóa) cho Trung Quốc. Minh Mạng đã phải tiến hành một cuộc đấu tranh trên cả
hai mặt trận ngoại giao và quân sự. Để bảo vệ mối quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh nhưng kiên
quyết trước hành động sai trái của Trung Quốc, Minh Mạng khẳng định “Tỉnh Hưng Hóa giáp
liần với nhà Thanh, nhưng bờ cõi riêng biệt, quan ngoài biên của nước Thanh lại bày việc như
thế, thời ta phải có đường lối xử trí” [72, 111, 243 - 244]. Một mặt, Minh Mạng cho tăng
cường quân lực đến Hưng Hóa (chuyển thêm cho Hưng Hóa 1000 quân, 13T10 13Tvoi chiến... ). Mặt
khác Minh Mạng “ sai quan tỉnh ấy là bọn Nguyễn Văn Tín, Ngô Huy Tuấn đi án ngự, một mặt
53
tư sang quan tỉnh Vân Nam lấy nghĩa lý trách bảo” [72, HI, 244 ]. Minh Mạng khẳng định
“đồn Phong Thu nguyên lệ thuộc bản triều ... bất tất phải bàn” [62, 376], ông khuyến cáo phía
nhà Thanh không nên nghe những lời xúi giục bởi lẽ “... bờ cõi đã rõ ràng, không nên nghe lời
tên Điêu Doãn An mà sanh việc ngoài biên” [69,150 ]. Sau đó, triều Thanh Trung Quốc đã cử
sứ giả đem thư hỏa tốc sang Việt Nam đề nghị giải quyết vụ việc trên bằng thương lượng hòa
bình.
Trên cơ sở tăng cường thực lực quân sự, Minh Mạng tiến hành các hoạt động ngoại giao,
thương thuyết và ông đã bước đầu thành công trong việc buộc quân Trung Quốc rút quân về,
trả lại sự yên ổn cho vừng biên giới. “Người nước Thanh hối hận là đã nghe 42Tnhầm 42Tngười Điêu
Doãn An mà đem quân trở về” [72, 111, 244 ]. Như vậy, đấu tranh ngoại giao vẫn luôn là mặt
trận mà triều Nguyễn chú trọng trong quan hệ với nhà Thanh để bảo đảm cho hòa bình lâu bền
giữa hai quốc gia Việt - Trung vào nửa đầu thế kỷ 19. Tiếp đó, để phòng sự rắc rối có thể xảy
ra, triều Nguyễn đã cho tu sửa những thành trì giáp giới với Trung Quốc, đắp lại bia, cột mốc
ở vùng biên giới v.v... Tuy vậy, dưới thời Minh Mạng những rắc rối biền giới vẫn tiếp diễn.
Năm Minh Mạng thứ 9, một võ quan Trung Quốc lại tự tiện vượt biên trái phép để bắt phạm
nhân. Năm Minh Mạng thứ 1 1 và 12, đều có người vượt biên để làm điều trái quấy và Minh
Mạng đã phải cho Bộ Lễ làm công văn gởi sang tỉnh Vân Nam - Trung Quốc để báo những vụ
việc đó. Trong quan hệ Việt - Trung 42Tở 42Tbiên giới, triều Nguyễn đã có chủ trương rất đúng đắn:
“Ta tùy việc châm chước hành động hợp với lẽ phải, không để gây thành hấn khích 42Tở 42Tbiên giới
cũng là việc tốt” [62, 375 ]. Phía Trung Quốc còn hay gây ra những vụ xâm phạm trên hải
phận Việt Nam, năm Minh Mạng thứ 15 thuyền của người Trung Quốc tự tiện đến Hải Dương,
vua chỉ cho ban “hiểu dụ” để họ về, nếu họ chống lại mới dùng biện pháp cứng rắn, Minh
Mạng cẩn thận dặn các quan địa phương “việc quan hệ đến bờ cõi đất nước láng giềng, ngươi
nên làm thế nào sức rõ cho phái viên hiểu, bảo thật khéo, cần khiến cho người nước Thanh tự
khuất phục, chớ nên mượn cớ sinh sự mới được” [62, 378]. Cho đến thời Tự Đức, từ 1851
vừng biên giới Việt - Trung thường có những rối loạn do những người Trung Quốc vượt biên
sang hoặc những toán phỉ Trung Quốc gây nên. Triều Nguyễn đã phải đối phó rất vất vả. Năm
1852 viên 6Tphủ Khai Hoá Trung Quốc vu cáo dân ta vượt biên để 6T21Tg â y 6T21Tra vụ xâm lấn 6Tvùng biên
giới Tuyên Quang (địa phận xã Bình Di), tháng 6 năm 1852 vua 6TTự 6TĐức phái Nguy Khắc
Tuấn đi kinh lý Tuyên Quang để định lại địa giới.
54
Ngoài việc thường xuyên thăm hỏi qua lại giữa hai nước, triều Nguyễn và nhà Thanh
cũng thông báo cho nhau những sự kiện chính trị nổi bật trong mỗi nước.
Vào năm Minh Mạng thứ nhất “Bắc Thành Tổng Trấn tâu đệ một ống long đồng của
Trung Quốc trong ấy có 1 đạo chiếu thư về việc truy tôn thụy hiệu của Gia Khánh hoàng đế,
cùng tờ trát của phủ Thái Bình và chiếu hội của Tuần vũ Quảng 43TTây 22T43Tvề 22Tviệc chuyển phát
chiếu thư nói trên” [50, 11, 18]. Cũng trong năm Minh Mạng đầu tiên, Trung Quốc cũng gởi
sách Thời Hiến thư cho triều Nguyễn, hai bên đã có sự trao đổi, giao lưu sách báo chính trị, tài
liệu cho nhau, quan hệ Việt - Trung gần gũi và 43Tthâ n 43T thiện hơn... chính sử triều Nguyễn đã ghi
lại là Triều Nguyễn có “nhận 1T101 1Tquyển Thời Hiến Thư năm Đạo Quang thứ nhất...”
[50,11,22]
Nhìn chung, từ thời vua Gia Long đến thời vua Minh Mạng hoạt động ngoại giao giữa
nước ta và Trung Quốc diễn ra thường xuyên và đa dạng. Thời vua Minh Mạng quan hệ biên
giới Việt - Trung tuy có những lúc căng thẳng, có xảy ra xung đột nhưng nhà Nguyễn đã khéo
léo dùng lý lẽ giải bày, thương thuyết nên 30Tđã 30Tdàn xếp được bất đồng và giữ yên được vùng
biên cương phía Bắc của tổ quốc. Trong những trường hợp đặc biệt như trường hợp vùng châu
Vĩnh An 42Tở 42Tngoài bể, thì Minh Mạng lại có cách xử trí khác nhưng cũng không gây mâu thuẫn
với Trung Quốc. Ông cho rằng: “việc đó không quan hệ về bờ cõi nước nọ tới nước kia, phải
qua bao nhiêu sự triết lý không gì bằng dân ở chỗ giáp giới cho chuyển dần về nước ta, thời
không phải hành động mà tỉnh Quảng Đông bên nước Thanh tự nhiên phải nghe theo”
[72,111, 271 ]. Sau khi Minh Mạng băng hà, vua Thiệu Trị lên nối ngôi, ông cũng đặt vấn đề
quan hệ với Trung Quốc lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế của triều Nguyễn. Những người
được cử đi sứ Trung Quốc phải là người thi cao học rộng, giỏi lý lẽ. Khi lên ngôi Thiệu Trị
cũng xin sách phong từ nhà Thanh và tuân theo các nghi lễ ngoại giao vốn có từ thời Minh
Mạng.
Để không tự gieo bất hòa hay tạo nguyên cớ làm cho quan hệ giữa hai nước xấu đi, vua
Thiệu Trị cũng rất thận trọng trong những vấn đề liên quan tới biên giới phía Bắc. Ví dụ sau
đây sẽ chứng minh hùng hồn nhận định trên. Số là giáp biên giới Trung Quốc, ở Tụ Long (Việt
Nam) có một bia đá làm mốc, lâu ngày nên gãy đổ. Tỉnh Thần đề nghị làm lại bia mới thì
Thiệu Trị không ưng chuẩn, theo ông “dựng bia là tỏ rõ sự tin cậy mà làm rõ biên giới, một khi
thành rồi không thể thay đổi, Vả lại bia ấy là hội đồng với nước Thanh dựng lên, sự thể lại
càng quan trọng, lâu ngày hoặc có nghiêng đổ, thì tùy nghi sửa chữa lại” [62, 388].
55
Dưới triều Thiệu Trị, việc hợp tác để giữ gìn sự bình yên trong quan hệ hai nước về vấn
để biên giới 6Tcàng 6Tđược tăng cường. Nhà Thanh cũng nhiều lần giải phạm nhân Việt Nam sang
trả lại cho triều đình Huế xét xử và ngược lại. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước cho đến thời
Thiệu Trị về cơ bản vẫn bình yên, ổn định. 43TVào 43Tnăm 1846 vua Thiệu Trị 6Tđả 6Tphản ánh tình hình
chung qua nhận xét: “Trong ngoài yên lặng, chánh sự hơi giản...” 6TNăm 6T1847, Tự Đức lên ngôi,
trong “Bang giao chiếu”, ông đã nêu mục đích, tầm quan trọng của vấn đề ngoại giao. Đó là:
Muốn dân chúng yên ổn, nước nhà hòa mục 43Tvà 43Tphát triển, theo ông: “Việc bang giao nếu
không được thiết lập thì không những không giúp đỡ mà những vùng đất xa kinh đô như biên
giới, thành Thăng Long sẽ bị quấy nhiễu và dẫn đến tai họa chiến tranh” [90, 75]. Sau khi lên
ngôi, Tự Đức cầu phong và năm 1849 sứ Trung Quốc sang Việt Nam để làm lễ sách phong và
lễ Dụ tế tại kinh đô Huế. Đến thời Tự Đức, triều Nguyễn ngoài việc 6Tđối 6Tphó với nhiều khó
khăn trong nước còn phải đối phó với nạn tàn quân của phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở
Trung Quốc tràn sang như 6Tquân 6TCờ đen, Cờ 6Tvàng, 6TCờ trắng... ngày 43Tcàng 43Tnhiều. Việc dẹp loạn
tàn quân này có sự phối hợp của hai nhà 22Tnước 22TTrung Quốc và Việt Nam. Triều Nguyễn phải
cử quân đi dẹp và thường xuyên có những tiếp xúc ngoại giao với 11Tchính 11Tquyền Quảng Đông,
Quảng Tây để giải quyết các vụ việc phía Trung Quốc vi phạm lãnh thổ vùng biên giới của
Việt Nam.
Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục trao đổi sứ cho đến năm 1853 thì con đường đi sứ
Việt Nam - Trung Quốc bị quân khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc cắt đứt. Tháng 5 năm 1856
chính quyền Mãn Thanh 43Tbáo 43Tcho triều đình Huế biết “họ đã quyết định hoãn việc triều cống
cho đến khi dẹp yên cuộc nổi dậy 44Tở 44Tcác tỉnh phía nam” [132, 566]
Khi thực 6Tdân 6TPháp nổ súng xâm lược Việt Nam (1858) thì những liên hệ ngoại giao với
nhà Thanh (Trung Quốc) cũng trở nên khó khăn và thực chất quan hệ ngoại giao giữa triều
Nguyễn và triều Thanh đã chuyển sang một khúc quanh khác trong lịch sử quan hệ hai nước.
2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Trung Quốc
trong nửa đầu thế kỷ 19:
2.3.1. Xét về phía triều Nguyễn:
Gia Long khi lên ngôi, một triều đại phong kiến mới trong lịch sử vào 45Tnăm 45T1802,
đã nối lại quan hệ với 45Tnhà 45TThanh (Trung Quốc), về cơ bản đường lối ngoại giao mà Gia
Long hoạch định không có gì khác biệt lớn so với nhà Lê hoặc với các triều đại phong
56
kiến truớc đó. Nhằm đạt mục đích 45Tlà 45Tgiữ yên vùng địa đầu của Tổ Quốc, vua Gia Long
duy trì mối quan hệ “thần phục” Trung Quốc, đề nghị được đứng vào đội ngũ chư hầu
của nhà Thanh. Như vậy, về hình thức và nội dung phương pháp biểu hiện, mối quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc vẫn không có gì thay đổi. Nhưng xét thực chất mối quan hệ này
thì đã không còn như ở thời kỳ lịch sử trước. Hoàn cảnh lịch sử vào đầu thế kỷ 19 đặt ra
những yêu cầu để Gia Long hoạ ch định nên chiến lược ngoại giao với Trung Quốc như
đã 45Ttrình 45Tbày. Nhưng cũng chính hoàn cảnh lịch sử đã làm biến đổi về thực chất mối quan
hệ này. Quan hệ ngoại giao mang hình thái “Chư hầu và Thiên tử” giữa hai nước Việt -
Trung suốt nửa đầu thế kỷ 19 tiến triển bình yên nhưng không thể khẳng định như
Maybon (một sử gia người Pháp): “mối quan hệ giữa hai nước đều 45Ttốt 45Tđẹp cả”
[144,376]. Nhiều nhân tố thiếu tin cậy và nổi lo lắng về sự can thiệp của Trung Quốc
luôn thường 45Ttrực 45Tở biên ải Việt - Trung và điều này có khả năng phá vỡ sự hòa hiếu do
đường lối ngoại giao mềm mỏng, khéo léo của triều Nguyễn đem lại.
Trong 45Tnửa đầu 45Tthế kỷ 19 do 45Thoàn 45Tcảnh lịch sử chi phối liên cả triều Nguyễn lẫn nhà
Thanh đều có yêu cầu “cùng tồn tại hòa bình”, quan hệ hai nước khá ổn định đã tạo nên
nhân tố khách quan 45Tthuận 45Tlợi cho triều Nguyễn xây dựng củng cố triều đại và đất nước.
Đây là môi trường quốc tế bình yên, ổn định nhằm góp phần giúp Gia Long tranh thủ
thời cơ chấn chỉnh phục hồi đất nước sau nội chiến. Kinh nghiệm của cuộc đời gian nan
chiến trận đã tạo cho Gia Long nhãn quan chiến lược đối ngoại thận trọng 45Tvà 45Tnhạy cảm,
đặc biệt trong quan hệ với Trung Quốc - đối tượng ngoại giao quan trọng hàng đầu.
Ngay khi cuộc chiến với Tây Sơn chưa chấm dứt, Nguyễn Ánh - Gia Long đã vạch ra
một chiến lược ngoại giao với Trung Quốc, tận dụng 6Ttranh 6Tthủ mọi thời cơ để gặp gỡ,
bàn bạc, thương thuyết với nhà Thanh để cuối cùng 6Tgiành 6Tđược sự công nhận của Trung
Quốc vào 6Tnăm 6T1804.
Thực chất của quan hệ ngoại giao là quan hệ Lợi - Hại. Nếu đánh giá những cố
gắng của Gia Long trong đường lối đối ngoại, nhất là đối với Trung Quốc xét theo
mối 6Tquan 6Thệ Lợi - Hại, chúng ta dễ thông cảm với Gia Long hơn. Lấy “Lợi” làm trọng sẽ
hiểu rõ vì sao Gia Long khẩn thiết xin được sách phong đến thế, vì sao ông sẵn sàng
chấp nhận phận một chư hầu, chịu thần phục và triều cống. Đường lối ngoại giao của
Gia Long hoạch định mang nội dung, tính chất truyền thống, 22Tvà 22Ttrong mối quan hệ với
Trung Quốc nó còn mang tính bắt buộc. Hoạt động “sách phong” và “triều cống”
57
còn 43Tphản 43Tánh bản chất mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và thiện chí của triều
Nguyễn mong muốn tránh họa binh đao. Là một nước nhỏ Việt Nam luôn ý thức về sự
bất lợi của chiến tranh, do vậy “thần phục” để mang lại hòa bình là cần thiết hơn bao
giờ hết. Đây chưa hẳn là thành tựu của đường lối ngoại giao hòa bình của vương triều
Nguyễn nhưng chắc chắn là một đóng góp tích cực để củng cố quan hệ hòa hiếu giữa hai
dân tộc, hai đất nước vốn có quan hệ từ lâu đời nay.
Dưới hình thức phụ thuộc trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, triều Nguyễn
đã thể hiện một nghệ thuật ngoại giao ứng xử mang bản sắc Việt Nam tiêu biểu. Đó là
kiểu quan hệ “Thần phục giả danh - Độc lập thực tế” (Vassalité fictive - Indépendence
réelle). Đây là nhận định ngắn gọn và khá chính xác vế thực chất quan hệ Việt -Trung
dưới thời Nguyễn của hai nhà Vi ệt Nam học người 6TPháp P6T. Huart và M.Durant.
Hầu như không có một sự kiện lịch sử nào chứng tỏ vào nửa đầu thế kỷ 19, với
việc tuân thủ những nguyên tắc ngoại giao cổ truyền với Trung Quốc, các vua Nguyễn
đã làm mất thể diện quốc gia, hoặc làm tổn hại và hạn chế chủ quyền của đất nước. Do
vậy, những đánh giá thực chất về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ
19 đã có từ trước đến nay là 43Tkhá 43Tthống nhất. Phần lớn đều cho rằng Việt Nam nửa đầu
thế kỷ là một quốc gia phong kiến độc lập có chủ quyền trong các chính sách đối nội,
đối ngoại của mình. Triều Nguyễn tuy có thần phục, chịu sách phong và cống nạp
nhưng thực chất quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không phải là mối quan hệ phụ thuộc,
của Việt Nam vào Trung Quốc. Theo Stepanov (một nhà nghiên cứu người Nga), chủ
quyền bảo hộ của hoàng đế Trung Quốc thực chất chỉ giới hạn trong phạm vi vua chúa
Việt Nam phải gởi quan sứ đến Bắc Kinh. J. Butlinger thì khẳng định “vào đầu thế kỷ
19, Việt Nam là quốc gia độc lập, tự chủ” [111, 128]. Cùng quan điểm với Buttinger có
Deviller, ông này cho rằng Việt Nam là “một quốc gia độc lập tự chủ. Nếu vua An Nam
xin được triều cống cho Trung Quốc thì đơn giản đó là một điều kiện không ngoài sự
biểu hiện tôn trọng một nền văn minh, bộ phận không thể thiếu được của Việt Nam như
là Triều Tiên đã có” [125, 11].
Ngược lại với loại quan điểm trên, Maybon, Taboulet ( người Pháp) cho là “Nước
đã lấy tên là Việt Nam nửa 42Tđầu 42Tthế kỷ 19 là một chư hầu trung 17Tthành 17Tcủa Trung Quốc”
[133, 378]. Đây 17Tlà 17Tnhững đánh giá theo biểu hiện bề mặt của vấn đề, thực tế lịch sử đã
chứng minh, Trung Quốc không hề can thiệp hay không thể can thiệp hoặc đầu tư chính
58
trị vào Việt Nam được, “vai trò chư hầu của Việt Nam chỉ được xác định ở cống vật,
thuần túy về danh nghĩa, bởi vì trong các vấn đề của chính sách đối nội, đối ngoại cho
tới nữa sau thế kỷ 19, Việt Nam hoàn toàn độc lập” [21,100].
Những đánh giá của giới sử học Việt Nam về thực chất quan hệ ngoại giao giữa
Triều Nguyễn với Trung Quốc có thể xếp thành hai khuynh hướng: Các tác giả bộ sử
“Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” và các giáo trình lịch sử Việt Nam thì cho rằng:
“Việt Nam hoàn toàn là nước chư hầu trong mối quan hệ với triều đại Mãn Thanh” [95,
475, 476] còn một số tác giả khác dường như lúng lúng khi nhận định thực chất quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 19, cho là vừa độc lập vừa phụ thuộc.
Theo chúng tôi, Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19 là một vương quốc độc lập, tự chủ.
Ngai vàng phong kiến Việt Nam luôn được thừa kế theo kiểu cha truyền con nối, không
phụ thuộc vào ý đồ (nếu có) của nhà Thanh (Trung Quốc). Mọi mưu toan xâm lược,
bành trướng của “Thiên triều” Trung Quốc đều bị Việt Nam chống trả quyết liệt và Việt
Nam trong đầu thời Nguyễn đã bảo vệ có hiệu quả tổ quốc mình. Nhận thức sâu sắc giá
trị bình yên trong quan hệ với Trung Quốc, triều Nguyễn thực thi chiến lược ngoại giao
“thần phục” Trung Quốc nhưng luôn tích cực phòng bị và chủ động chống trả phía
Trung Quốc nếu bên này xâm lấn. Triều Nguyễn đặt vấn đề cũng cố xây dựng quốc
phòng lên hàng đầu, đặc biệt là khu vực biên giới giáp Trung Quốc. Vua Minh Mạng
thường lưu ý với triều thần “khu vực này tiếp giáp với Trung Quốc ... chúng ta chỉ có
thể củng cố mạnh hơn vùng biên giới nhưng không thể tự mình gieo bất hòa, để tạo ra
sự thù địch ở biên giới” [70, III, 170]. Triều Nguyễn cẩn trọng gìn giữ quan hệ hòa bình
với Trung Quốc, nhưng Triề u Nguyễn không hề lệ thuộc nhà Thanh. Thần phục vừa là
chiến lược vừa là sách lược ngoại giao, tiêu biểu cho đường lối đối ngoại “Bạch ngọc
dại can qua” (ngọc lụa thay giáo mộc). Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam thời phong
kiến, quan h ệ Việt Nam - Trung Quố c chi phối sâu sắc quan hệ Việt Nam với các nước
khác quan hệ Việt Nam - 1TChân 1TLạp, Việt Nam - Vạn Tượng, Triều Nguyễn cũng thể
hiện tư thế “nước lớn” của mình như Trung Quốc đã làm đối với ta.
Đó có những ý kiến không đồng nhất khi đánh giá thực chất quan hệ ngoại giao
Việt Nam - Trung Quốc trong nửa đầu thể kỷ 19, nhưng chúng ta cũng phải công bằng
nhìn 45Tnhận 45Trằng: Trung Quốc tuy danh xưng là “Thượng Quốc”, vẫn chẳng thể dùng
mệnh lệnh của mình để buộc chư hầu Việt Nam làm theo ý họ được. Qua vấn đề đổi
59
quốc hiệu chúng ta biết Gia Khánh đã kiên quyết trả lời Gia Long “đề nghị
đó 45Tnhất 45Tquyết không thể chấp nhận được...” [114, 17], 45Tnhưng 45Tcuối cùng Gia Long vẫn có
quốc hiệu mới và cũng nhận sách phong. Đ ến năm 1838, Minh Mạng tự ý đổi tên nước
thành “Đại Nam” mà cũng không cần thông qua ý kiến của Trung Quốc mà Trung Quốc
cũng chẳng thắc mắc hay có vấn đề gì. Các vua Nguyễn bằng cách này hay cách khác đã
vượt qua những chuẩn mực giới hạn về nguyên tắc ngoại giao “nước nhỏ - nước lớn” để
cai trị đất nước của mình với đầy đủ quyền lực thực tế của một vị hoàng đế. Không
những Việt Nam không lệ thuộc vào Trung Quốc mà khi cần thiết vẫn sẵn 45Tsàng 45Tdùng
những biện pháp, cứng rắn kể cả vũ lực để giải quyết bất đồng với Trung Quốc, trong
trường hợp mọi cố gắng để thương lượng đều bế tắc trường hợp tranh chấp vùng Phong
Thu, Minh Mạng 30Tđã 30Tphải điều 45Tquân 45Tđội đến buộc Trung Quốc 45Tphải 45Tlui binh vào năm
1831). Thậm chí nước “chư hầu” này cũng không dấu diếm quan điểm coi thường
“Thượng quốc” qua sự thất bại của nước này trong cuộc chiến tranh thuốc phiện (1840
- 1842) Minh Mạng 6Tđã 6Tmỉa mai nhận xét : “chưa bao giờ đế chế Mãn Thanh to lớn với
một quân đội tám đạo quân đi xâm chiếm các nước chư hầu của mình, mà bấy giờ huy
động tất cả các quân lính ở cả những vùng xa xôi hẻo lánh vẫn không thắng nổi một vài
chiếc tàu” [IU, 124].
Nhìn chung, v ề lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn vào nửa đầu thế kỷ 19 còn có
nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, nhưng sự thực lịch sử đã chứng minh rằng:
Việt Nam là một quốc gia phong kiến hoàn toàn độc lập, thống nhất, có chính quyền
quân chủ trung ương vững mạnh, có uy tín trong quan hệ với các lân bang... Cho đến
đầu thời Tự Đức, Việt Nam tuy có 43Txáo 43Tđộng bởi một số phong nào đấu tranh của nhân
dân nhưng về cơ bản phong kiến triều Nguyễn vẫn còn ở giai đoạn thịnh trị. Tuy vậy, để
đối phó với những biến cố chính trị dồn dập xảy ra trên thế giới và trong khu vực thì
triều Nguyễn lại tỏ ra chậm thích ứng với tình thế, không mạnh dạn có những bước
đột 43Tphá 43Ttrong quan hệ quốc tế, khiến cho ngoại giao Việt Nam thiếu vắng nét linh ho ạt
đổi mới, phù hợp với những thay đổi trong tính chất và nội dung của thời đại. .
2.3.2. Xét về phía nhà Thanh (Trung Quốc).
Nhìn quan hệ Việt - Trung từ phía nhà Thanh có thể thấy rằng cho tới đầu thế kỷ
19, giai cấp thống trị Trung Quốc vẫn duy trì quan niệm cổ xưa cho Trung Quốc 43Tlà 43Tmột
“nước lớn”, coi Việt 27TNam 27Tvà 43Tcác 43Tnước trong khu vực là “nước nhỏ”. Trung Quốc tự
60
cho nước mình đứng ở vị trí trung tâm, và dùng danh xưng “Thiên triều” trong quan hệ
với 43Tcác 43Tnước khác, ngay cả với 43Tcác 22T43Tnước 22Ttư bản phương Tây. Đối với Việt Nam, nước
có vị trí quan trọng đối với Trung Quốc thì Trung Quốc cũng áp dụng các qui tắc ngoại
giao theo trật tự “nước nhỏ” Việt Nam phải thần phục “nước lớn” Trung Quốc. Sau
những mưu toan nhằm khuất phục nước chư hầu Việt Nam không thành công từ cuối
thế kỷ 18 thì ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam ngày càng yếu đi. Cùng thời
này, vấn đề thương mại và bành trướng thuộc địa của tư bản Âu - Mỹ trở thành một
nguy cơ thực tế. Giai cấp thống trị Mãn Thanh thấy cần thiết tiếp tục chính sách bảo vệ
“củng cố vật chắn Việt Nam”, “hàng rào bảo vệ” cho Trung Quốc nên việc tái lập quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc từ đầu thế kỷ 19 tiến triển dễ dàng và nhanh chóng.
Dưới thời Gia Long cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai sứ đoàn diễn ra trong không khí
thận hữu đặc biệt: “cuộc tiếp kiến đặc biệt thân ái được tổ chức theo lệnh Hoàng đế
nghênh tiế p sứ bộ của Trịnh Hoài Đức” [70, 111, 30]. Vua Gia Khánh Trung Quốc cần
củng cố ảnh hưởng và gây uy tín với Việt Nam nên đầu thời Nguyễn quan hệ hai nước
suôn sẻ, hòa bình. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc đầu thời Nguyễn được đảm bảo dù
cho nhà Thanh không bao giờ từ bỏ đường lối, chính sách đối ngoại bành trướng đối với
các lân bang trong đó có Việt Nam.
Những điều kiện lịch sử đầu 6Tthế 6Tkỷ 19 là 6Tnhân tố 6Tquan trọng quyết định đối sách
“không can thiệp” đối với Việt Nam. Và nước chư hầu trên danh nghĩa này của Trung
Quốc đã tồn tại hòa bình, trong tư thế luôn khẳng định sự độc lập của mình 6Tđối 6Tvới thiên
triều Trung Quốc.
Nhìn chung, đối với Trung Quốc, Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19 vẫn là một quốc gia
láng giềng có độc lập, chủ quyền 43Tvà 43Tkhông phụ thuộc vào Bắc Kinh trên 11Ttất 11Tcả các
phương điện. Thực chất quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là mối quan hệ bình đẳng của
hai nước phong kiến, tính chất bình đẳng độc lập này do các nhân tố lịch sử khách quan
chi phối, và do tương quan lực lượng hai nước trong thời điểm lịch sử cụ thể qui định.
61
CHƯƠNG 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI NƯỚC
PHÁP NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19
Trong nửa đầu thế kỷ 19 đường lối chính sách ngoại giao đối với phương Tây của
triều Nguyễn được phản ánh khá tiêu biểu trong mối quan hệ với Pháp.
Quan hệ giữa triều Nguyễn và nước Pháp đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm
trong tiến trình lịch sử dân tộc. Trong bối cảnh lịch sử hiện nay, với xu thế hội nhập đa
phương hóa, đa dạng hóa của ngoại giao Việt Nam hiện đại, việc tìm hiểu quan hệ Việt-
Pháp trong nửa đầu thế kỷ 19 là cần thiết nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa
hai đất nước. Từ kinh nghiệm của quá khứ chúng ta có thể rút ra được những bài học
ngoại giao trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
3.1. Việt Nam và Pháp - Những cuộc tiếp xúc đầu tiên cho đến cuối thế kỷ 18:
3.1.1. Việt Nam và Pháp (thế kỷ 16 - thế kỷ 18):
Đầu thời cận đại, những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là trên lĩnh vực
giao thông vận tải, đã giúp con người chinh phục được các khoảng cách. Giai cấp tư sản
Âu - Mỹ đã có điều kiện thuận lợi hơn trên con đường đi sang châu Á. Trong quá trình
bôn ba tìm kiếm thuộc địa để đáp ứng nhu cầu phát triển nội tại của chủ nghĩa tư bản,
gia cấp tư sản thực 43Tdân 43TÂu - Mỹ đã chú ý tới châu Á và vùng Đông Nam Á.
Tây Ban Nha là nước đầu tiên thiết lập được hành lang từ Đông sang Tây trên con
đường đến châu Á. Riêng Việt Nam với một vị trí chiến lược thuận lợi, có bờ biển dài
1.200 km nối liền Trung Quốc với vịnh Thái Lan, n ằm xen giữa hại nước lớn của châu
Á là Trung Quốc và Ấn Độ là vị trí lý tưởng cho các nhà hàng hải, thương nhân, với các
hải cảng và đảo quan trọng (Phú Quốc, Hoàng Sa, Côn Lôn...).
Như vậy, trong tầm nhìn của 47Tcác 47Tnước tư bản phương Tây, Việt Nam có một vị trí
quan trọng về chiến lược kinh tế - chính trị.
Quan hệ đầu tiên giữa Việt Nam và các nước phương Tây chỉ là quan hệ buôn bán.
Từ thế kỷ 16, sự mua bán đã được thiết lập giữa chúa Trịnh, chúa Nguyễn với các nước
phương Tây. Đến thế kỷ 17 người Pháp mới xuất hiện tại Việt Nam lúc chiến tranh
Trịnh - Nguyễn đang diễn tiến.
62
Nhìn chung, trong quan hệ buôn bán với người châu Âu, Việt Nam không hề bị lấn
ép, thiệt thòi. Ở Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, chính quyền phong kiế n Việt Nam
“cho phép họ đến buôn 38Tbán 38Tlập thương 38Tquán 38Tmà thôi, ngoài ra họ không được hưởng
điều gì có thiệt hại đến quyền lợi của mình, có khi hứa điều này điều nọ, cũng là hứa
một cách ngoại giao mà thôi” [26, 14].
Trong buổi đầu tiếp xúc với người Âu châu, chúa Trịnh và chúa Nguyễn tuy chưa
định ra một đường lối ngoại giao cụ thể, nhất quán nhưng Việt Nam chưa hề nghi kỵ,
thù ghét phương Tây. 43TCác 43Tchúa 43Tsẵn 43Tsàng mở cửa, hợp 43Ttác, 43Tgiúp đỡ công việc mua bán
của họ. Trái lại, người phương Tây thì tỏ rõ tham vọng của họ “họ đã từng can thiệp vào
những cuộc nội chiến... không những thế, họ lại còn cho tàu vào cướp phá và chiếm đất
đai của ta nữa.Năm 1585 có người Âu ...đem 5 chiếc thuyền cướp phá ở cửa Việt... Năm
1702 một người Anh tên là Danicl Doughty do công ty Đông Ấn Độ sai đem 200 người
cùng thuyền bè đến chiếm đảo Côn Lôn...” [96, 132].
Tư bản Âu - Mỹ tìm đường đến châu Á, ngoài sự thôi thúc cấp bách của nhu cầu
mở rộng thị trường, còn vì nhu cầu mở mang phạm vi truyền giáo, bành trướng thuộc
địa. Với Pháp thì “những việc mua bán thăm dò đầu tiên chỉ được thực hiện sau khi
thành lập các giáo đường Gia tô” [96, 45]. Những hoạt động truyền giáo của người
Pháp ít nhiều đe dọa sự tồn tại của các nguyên lý đạo đức - chính trị Nho giáo, cơ sở
vững chắc của xã hội cổ truyền Việt Nam. Do vậy, vào năm 1630 chúa Trịnh đã trục
xuất giáo sĩ Alecxandre de Rhodes, và thực hiện cấm đạo.
Cuối thế kỷ 17, Pháp lại tiếp tục sang Việt Nam và kiên trì tìm kiếm một thỏa
thuận thông thương. Năm 1669, công ty Đông Ấn của Pháp phái một chiếc tàu tới Đàng
Ngoài xin thông thương và chúa Trịnh đã cho phép họ mở cửa hàng ở phố Hiến. Năm
1682, tàu Saint - Josept của Pháp từ Xiêm cũng đến Việt Nam thông thương... Sang thế
kỷ 18, Pháp vẫn tiếp tục sang Việt Nam với những đề nghị thương mại, như đề nghị của
nhân viên Đông Ấn Pháp, Jacques O' Friell. Jacques O' Friell lúc 43Ttừ 43THuế trở về đã gặp
Dupleix toàn quyền Pháp 43Tở 43TPondichery để đề xuất ý kiến làm ăn với Việt Nam. Sau đó,
O' Friell trở lại Đàng Trong, chúa Nguyễn lúc ấy là Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã
chấp nhận đề nghị buôn bán v ới Pháp, chúa còn cấp sắc văn cho người Pháp.
63
Vào giữa thế kỷ 18, trên thực tế Pháp chú ý nhiều tới Ấn Độ hơn là Việt Nam.
Quan hệ Việt - Pháp chưa gắn bó mật thiết dù Võ Vương Nguyễn Phúc Khoái và Pháp
hoàng cũng có trao đổi thư từ và quà tặng cho nhau. Năm 1749, một thương gia Pháp là
Pierre de Poivre mang thư 43Tvà 43Tquà của vua Pháp tặng Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát,
chúa Nguyễn đã trả lời rất trân trọng: “Tôi kính gửi hoàng thượng cái thư này để tỏ lòng
tôi kính mến quý quốc, thấy hoàng thượng sai một chiếc tàu sang nước tôi thì tôi lấy
làm vui lòng và cảm ơn hoàng thượng lắm. Ước gì từ rày trở đi quý quốc với nước tôi
hai bên được thân cận với nhau như là một nước, thì tôi lấy làm thỏa lòng lắm”
[133,94].
Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể đó, chúng ta có thể thấy rằng trong buổi đầu gặp
gỡ với nước Pháp, Việt Nam không hề quay lưng khước từ quan hệ với phương Tây.
Chúa Nguyễn cũng như chúa Trịnh đều mong muốn có mối quan hệ hòa hiếu với Pháp,
và bình đ ẳng về lợi ích.
Năm 1763, Pháp thất bại trong chiến tranh với Anh phải ký hòa ước Paris nhường
vùng thuộc địa của Pháp tại Ấn cho Anh. Công ty Đông Ấn giải thể, do đó việc bành
trướng của tư bản Pháp tại khu vực Á châu khó khăn hơn, chính vì thế tư bản Pháp phải
tìm một hướng khác để có thể phát triể n phạm vi thế lực của mình. Việt Nam trở thành
vị trí chọn lựa của tư bản Pháp, là đối tượng để Pháp 42Ttìm 42Tmọi cách xâm nhập. Lợi ích
thương mại, tôn giáo và chính trị là yếu tố thúc đẩy Pháp can thiệp vào Việt Nam, đặc
biệt sau khi để mất một phần Ấn Độ vào tay Anh. Chúng ta có thể ít nhiều đồng ý với
nhận xét rằng “âm mưu xâm lược của thực dân Pháp là trường kỳ và liên tục...”
[95,516].
Chính 6Tnhững 6Ttham vọng và âm 6Tmưu 6Tđen 30Ttối 30Tcủa Pháp 30Tđã 30Ttạo nên những khó khăn
ban đầu trong quan hệ Việt - Pháp. Năm 1750, Poivre, thương gia Pháp 30Tđã 30Tcó những
hành động ngang ngược, coi thường luật pháp Việt Nam: Trước khi rời Đà Nẵng,
Poivre còn cho bắt một thông ngôn người Việt khiến chúa Nguyễn và dân chúng rất bất
bình, phẫn nộ. Đó chính là lý do Võ Vương ra lệnh trục xuất hết giáo sĩ ra khỏi nước ta.
Cuối cùng viên toàn quyền Pháp 42Tở 42TẤn phải thương lượng và đồng thời với việc xin lỗi,
Pháp đã phải trả lại viên thông ngôn kia, v ụ việc trên mới được dàn xếp.
64
Đến thế kỷ 18, Pháp vẫn chưa có một vị trí đáng kể trên lĩnh vực thương mại với
Việt Nam: “thực tế, các việc của công ty Đông Ấn thu gọn trong vài chuyến đi có tính
cách buôn bán, còn kế hoạch xây dựng cơ sở thì chẳng bao giờ được thực hiện cả.
Chúng ta có thể nói rằng cho đến cuối thế kỷ 18 thương mại của Pháp không có đại diện
nào ở Việt Nam ngoài các nhà truyền đạo” [97, 49]. Hoàn cảnh lịch sử nước Pháp vào
thời điểm này đã có tác động sâu sắc đến công cuộc chinh phục “những miền đất lạ”
của 6Ttư 6Tbản Pháp. Cuộc đại cách mạng 1789 đã gây nên những rung chuyển chính trị
không những ở nước Pháp, và cả châu Âu, châu 6TMỹ.
Khi nước Pháp đang chiến tranh và cách mạng, thì tại Việt Nam cuộc chiến giữa
Tây Sơn và Nguyễn Ánh kết thúc, chúa Trịnh không còn, giang sơn Việt Nam được
thống nhất. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua hiệu là Gia Long. Hai năm sau
Napoleon 6TI 6Tcũng lên ngôi hoàng đế nước Pháp. Napoleon 6TI 6Tđã củng cố và tăng cường
quyền lực của mình bằng các cuộc chiến tranh xâm lược, biến Pháp thành một đế chế
thật sự phục vụ cho quyền lợi của đại tư sản. Hoàng đế Pháp đã cử tướng Decaen chỉ
huy quân đội viễn chinh, chiếm đóng những vùng thuộc Pháp ở Ấn Độ Dương. Đồng
thời Napoleon 6TI 6Tcòn lưu ý việc đặt những cơ sở quân sự 43Tở 43Tvùng bể Trung Hoa.
Như vậy, từ thế kỷ 16, Việt Nam đã tiếp xúc và có những quan hệ bước đầu với thế
giới Âu - Mỹ. Trong buổ i đầu tiếp xúc, Việt Nam đã mở rộng cửa tiếp đón người ngoại
quốc, với tình cảm mến khách và thân thiện, chính quyền hai miền ở Việt Nam dễ dãi
tạo điều kiện cho người phương Tây đến làm ăn, sinh sống. Người Pháp cũng hiện diện
trên đất nước ta để 1Tbuôn 1Tbán, và họ luôn gặp phải sự cạnh tranh của các nước khác, nhất
là Anh. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18, những hiểu biết về nhau giữa hai nước Việt Nam và
Pháp còn chưa nhiều. Phương Đông và phương 16TTây 16Tvẫn còn xa lạ với nhau, chưa có
nhiều những quan hệ tương giao và phát triển. Tuy vậy, những cuộc tiếp xúc đầu tiên đã
có giữa Việt Nam và 22Tnước 22TPháp sẽ là tiền đề quan trọng cho quan hệ Việt - Pháp sau
này.
3.1.2. Quan hệ giữa Nguyễn Ánh - Gia Long và người Pháp vào cuối thế kỷ 18:
Nguyễn Ánh là người lập nên triều Nguyễn, là vị vua đầu tiên của triều đại này
tiếp xúc và có quan hệ mật thiết với Pháp. Từ 1784-1802, Nguyễn Ánh phải lao vào một
cuộc chiến liên tục sống còn chống lại Tây Sơn, ông bị đặt vào tình thế phải chiến thắng
65
Tây Sơn hoặc bị tiêu diệt. Vì vậy, vị chúa Nguyễn này 13Tdù 13Tcầu trợ thế lực bên ngoài
không chỉ bằng tinh thần mà còn vật chất. Trong tình thế hiểm nguy, Nguyễn Ánh đã
gặp cái phao “cứu hộ” là Giám mục Pigneau de Behaine - Bá Đa Lộc, những hứa hẹn
giúp đỡ của Bá Đa Lộc đáp ứng được nguyện vọng khẩn thiết của vị vương thất thế, và
tạo ra những liên hệ ràng buộc giữa cá nhân Nguyên Ánh với Bá Đa Lộc.
Khi tạo lập quan hệ với người Pháp, Nguyễn Ánh nhằm vào mục đích trước mắt,
ông chỉ muốn lợi dụng thực lực và kỹ thuật 6Tquân 6Tsự phương Tây để phục hồi quyền binh
cho họ Nguyễn. Vì quyền lợi tối cao của dòng họ mà Nguyễn Ánh đã xem nhẹ hậu quả
của những ràng buộc với 43TPháp 43Tsau này. Để thoát ra khỏi thế bế tắc mà ông đang gặp
phải, Nguyễn Ánh đã từng cầu viện quân Xiêm La, đã định cậy nhờ một số nước khác,
rồi cuối cùng là nước Pháp. Mối liên hệ với Pháp 58Tcủa 58TNguyễn vương đã khởi đầu một bi
kịch cho dòng họ Nguyễn trong suốt lịch sử thời cận đại.
Các sách chính sử, thông sử đã chưa thấy có sự khẳng định thời điểm cụ thể mà
Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc gặp nhau, tất cả đều áng chừng “có thể Ánh đã li ếp xúc với
giám mục vào kỳ đánh chiếm lần hai (đánh chiếm Gia Định), vì hồi tháng 9, 13T10 13Tnăm
1777 Nguyễn Ánh 13Tđã 13Ttỵ nạn tại khu rừng gần chủng viện (trường đào tạo các giáo sĩ và
thầy giảng của Công giáo) của giám mục, rồi giám mục đã giúp Ánh gạo, nước, lương
thực qua sự trung gian của linh mục Paul Nghị. Giám mục còn tìm đường cho Ánh tẩu
thoát ra Cù lao Poulo PanJang nữa” [75, 158]
Nguyễn Ánh với ý đồ lợi dụng Bá Đa Lộc 22Tvà 22TPháp để đạt chiến thắng, còn Bá Đa
Lộc thì muốn phát triển ảnh hưởng Thiên chúa giáo, ảnh hưởng chính trị
cho 43Tnước 43TPháp tại xứ sở châu Á này.
Năm 1778, khi Nguyễn Ánh đang 42Tở 42TGia Định, cơ sở truyền đạo của Bá Đa
Lộc 42Tở 42THà Tiên bị phỉ Miên cướp phá phải dời về Biên Hòa tạo điều kiện cho quan hệ
Nguyễn Ánh - Bá Đa Lộc thân thiết, gần gũi hơn. Tuy nuôi dưỡng những ý đồ chính trị
khác nhau, nhưng Nguyễn Ánh và 43TBá 43TĐa Lộc có chung một điểm là giành chiến thắng
cho Nguyễn Ánh. Bá Đa Lộc ngày càng tích cực “can dự 22Tvào 22Tviệc Nam Kỳ, cùng Ngài
(tức Nguyễn Ánh) bàn tính về binh bị, chính trị” [26, 55]. Từ tháng 3 năm 1782 đến
giữa năm 1783, Nguyễn Ánh đã có một cuộc gặp gỡ quan trọng với Bá Đa Lộc tại Chan
- bôn (Xiêm - lúc này Nguyễn Ánh đang chạy trốn tại Xiêm). Trong cuộc gặp gỡ này,
66
Nguyễn Ánh đã đề nghị với Bá Đa Lộc rằng: “Ngươi có thể về Đại Pháp nhờ quí quốc
đem quân sang giúp ta được không?” [68, 12]. Theo thư của vị giám mục này viết lại (lá
thư ngày 20-3-1785) thì “Từ đầu tháng giêng 1784 đến tháng chạp năm ấy, giám mục
và Nguyễn Ánh hai lần họp mặt ở Poulo-Panjang...” [13, 163]. Kết quả những lần gặp
gỡ đó là quyết định của Nguyễn Ánh : “Các nước giao hiếu với nhau, đem con làm tin,
con ta là Cảnh mới 4 tuổi, vừa rời tay mẹ, ta giao Cảnh cho ngươi, nhờ ngươi trông nom
cho” [69, 12]. Như vậy, Nguyễn Ánh đã giao con trai mình và đặt vận mệnh nước nhà
vào tay Bá Đa Lộc. Để cầu viện từ Pháp, Nguyễn Ánh cùng cận thần của ông thảo một
văn bản 13 điều, trong điều 8, 9, 13T10 13Tquy định cụ thể. Pháp giúp Nguyễn Ánh thì đổi lại
Nguyễn 48TÁnh 48Tnhường Cù Lao Hàn (quyền sở hữu cửa bể Hàn thuộc Pháp), đảo Côn Lôn
cũng nhường cho Pháp. Điều 12 quy định Pháp được tự do buôn bán ở Việt Nam.
Nguyễn Ánh còn giao cho giám mục Bá Đa Lộc quyển xem xét những điều mà nước
Pháp có thể nêu ra, nhưng không có trong văn 42Tbản 42T(nếu điều ấy không thiệt hại đến
quyền lợi Việt Nam). Ngoài 48Tvăn bản giao kèo trên, 48TNguyễn 48TÁnh cũng viết lá thư đầu
tiên 48Tcho hoàng đế Pháp “Mặc dù bản quốc và quí quốc cách xa nhau vạn dặm, nhưng tôi
chắc rằng Hoàng đế sẽ vui lòng tin tưởng ở lòng thành thực của tôi nên tôi mới quyết
định, sau khi đã thảo luận với giám mục 42TBá 42TĐa Lộc, để đệ lời yêu cầu lên hoàng đế. Tôi
gởi giám mục con tôi để hoàng đế có thể tin ở 48Tgiám 48Tmục, và để giám mục giúp tôi trở lại
bản quốc” [75, 164]. Ngày 19-11-1784, đoàn 42Tcầu 42Tviện lên đường. Tin tức về chuyến đi
đã lan sang Pháp, gây nên những cuộc thảo luận về lợi ích mà nước Pháp đạt được.
Người Pháp đánh giá cao về vị trí chiến lược của Việt Nam: “Nam Hà là một nước
phong phú có nhiều quí vật, xứ này lại gần Phi Luật Tân, nếu thành căn cứ thương mại,
thì căn cứ này sẽ phát đạt bậc nhất ở đây.
Hải cảng Tourane sẽ được coi là một trung tâm điểm giữa Trung Quốc và Phi Luật
Tân cùng eo biển Malacca. Về phương diện quân sự, Tourane đo vị trí quân sự của nó sẽ
giúp ta ngăn chặn ngành thương mại quan trọng nhất của địch quốc” [75, 165]. Tháng 6
năm 1786, một chiếc tàu Pháp được giao nhiệm vụ đi dò la xem xét tình hình Việt Nam,
vẽ bản đồ các vịnh, cảng, bãi biển... Nước 42TPháp 42Tđã dự 42Ttính 42Tkỹ những lợi ích mà họ sẽ
có 42Tở 42TViệt Nam nên xúc tiến việc thăm dò, tìm hiểu. Ngày 24-7-1787, Pháp cử một đoàn
điều tra tiếp tục sang Việt Nam. Lúc này phái đoàn của Bá Đa Lộc đi cầu viện đã tới
Paris, triều đình Louis 16 đang lúng túng trong nhiều vấn đề cần giải quyết như:
67
vấn 13Tđề 13Ttài chính ki ệt quệ, kinh tế sa sút và nội bộ đang lao đao do tham gia cuộc chiến
tranh giành độc lập 42Tở 42TBắc Mỹ. Nhưng khi 42TBá 42TĐa Lộc đưa vấn đề Việt Nam ra thì cũng đã
thu hút được sự quan tâm của Pháp đình, Louis 16 đã tiếp vị giám mục này và chuẩn y
một bản hiệp ước với Nguyễn Ánh. Đây 13Tlà 13T49Tbản 49Thiệp ước đầu tiên giữa 42TPháp 42Tvà Việt Nam
được trình vào ngày 25-11-1787, ngày 28- 42T142T1-1787, bản hiệp ước này được ký chính
thức lại Versailles, giữa Thượng thư Bộ ngoại giao Pháp là Mont Morin đại diện vua
Pháp và Bá Đa Lộc đại diện cho Nguyễn Ánh.
Hiệp ước Versailles ghi một mốc quan trọng đầu tiên trong lịch sử quan hệ ngoại
giao Việt Nam và Pháp. Nội dung hiệp ước gồm 13T10 13Tkhoản, chủ yếu là vua Pháp cam kết
sẽ phái 6Tquân 6Tđội và thu thuyền đến giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền lực họ
Nguyễn. Đổi lại, “Vua Nam kỳ sẽ nhường cho Pháp 43Tcác 43Tđảo gần Đà Nẵng và Côn Lôn
để buôn bán, không cho bất cứ nước nào 43Tkhác 43Tthuộc 6Tchâu 6TÂu nữa” [97, 50]. Đây là văn
kiện ngoại giao đầu tiên được hai hước ký kết và dù được nhiều quyền lợi nếu can thiệp
vào Việ t Nam, 6Tnhưng 6Tnước Pháp đang đối phó với nhũng vấn đề cấp bách nên Louis 6T16T6
giao vấn đề Việt Nam cho viên Toàn quyền kiêm Tổng tư lệnh Pháp ở Ấn Độ De
Conway xem xét nếu “không lợi thì cứ việc bải bỏ hay trì hoãn cũng được”. Theo
những nhận định đã có, thì De Conway một phần sợ trách nhiệm, một phần có những
mâu thuẫn với cá nhân 43TBá 43TĐa Lộc nên anh ta tâu trình về Pháp rằng: “đem binh đao
sang cứu viện Nguyễn vương là việc rất khó và không có lợi gì” [29, 152]. Với lời kết
luận của De Conway cùng với những khó khăn tại Pháp nên cuối cùng hiệp ước
Versailles đã không được thực hiện. Công cuộc can thiệp nhằm tiến tới bảo hộ đã
không được chính phủ Pháp tiến hành đối với Việt Nam vào cuối thế kỷ 18. Và Bá Đa
Lộc đã quyết định hành động với tư cách cá nhân. Ông ta vận động quyên góp tiền giúp
cho Nguyễn Ánh, cùng với tiền túi của mình, ông mua vũ khí, quân trang, quân dụng và
về lại Việt Nam “, đến tháng 6 năm Kỷ Dậu (1789), ông Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh đi
chiếc tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu buôn chở súng ống, đạn dược cũng
lục đục sang sau” [29,52]. Ngoài ra, Bá Đa Lộc còn vận động nhiều người Pháp sang
Việt Nam giúp Nguyễn Ánh. Theo những tính toán đã có thì có khoảng 160 người Pháp
tới giúp việc cho Nguyễn Ánh trong thời kỳ này. Đó tà những người bỏ tàu của mình mà
đi sau đó tới miền Nam và giúp Nguyên Ánh. Theo tài liệu của Nguyễn Thế Anh thì
68
“tàu La résolution: 4 người, La vénus: 4 người... La Méduse: 100 - Tổng cộng 160
người” [138, 176].
Số người Pháp này khi về giúp Nguyễn Ánh đã có một vai trò quan trọng trong
cuộc nội chiến ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 18. “Nhóm người Pháp này đã giúp Nguyễn
Ánh huấn luyện một phần quân đội theo cách thức 42Tờ 42Tchâu Âu, lập một đội pháo binh
cùng thủy quân hiện đại [97,50], những người Pháp đó “sẽ đắc lực giúp Nguyễn Ánh
6TĐa 6Tsố người Pháp đi theo Nguyễn Ánh đều thông thạo về hàng hải và được ông
làm cho ông thay đổi cán cân lực lượng” [110,61]
giao giữ những vị trí quan trọng trong hải, 6Tlục 6Tquân và 43Tcác nhiệm 43Tvụ khác như “hộ
thành”, hoặc hậu cần. Tiêu biểu như ông Olivier de Puymanel thì giữ vững được những
tỉnh mà Đức Nguyễn Ánh lấy được, ông Dayot thì mua đạn ở Ma-ní và mua tàu bè ở Áo
môn [132, 106]. Ngoài ra, một vài người khác như Barisy thì được giao phụ trách việc
ngoại thương, Despiaux là bác sĩ...
Lợi dụng phương tiện kỹ thuật quân sự của phương Tây, sự thành thạo của người
Pháp, Nguyễn Ánh đã xây dựng được mối quan hệ 6Tthân 6Tthiện với người Pháp vào buổi
bình minh của cuộc hội ngộ Đông - Tây. Nhưng khi thiết lập quan hệ với người Pháp,
trước tiên chúng ta th ấy Nguyễn Ánh cũng đã phải “trả giá” cho mối quan hệ này. Ông
phải chấp nhận một thực tế không dễ dàng với bản 6Tthân 6T- một ông vua Nho giáo, đó là sự
du nhập mạnh mẽ của Thiên Chúa giáo. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn thì
“trong quân đội Nguyễn Ánh có đến 100 sĩ quan Pháp theo đạo Thiên Chúa” [77, 43].
Như vậy, cùng với sự hiện diện của người Pháp trong quân đội và chính quyền họ
Nguyễn là đạo Thiên Chúa. Trong tác phẩm “Nho giáo ở Gia Định”, Cao Tự Thanh có
viết: Nguyễn Ánh giao cho những giáo sĩ đảm nhiệm các trọng trách như: “Jacquésliot
đóng vai trò “trưởng ban hậu cần” chỉ huy giáo dân mua gạo và chở tới cho quân đội
Nguyễn Ánh, năm 1783, có một Pigneau được phong là: Đi ều chế thuyền thủy bộ viện
binh giám mục thượng sư...” [93, 78].
Nhìn chung phần lớn những người Pháp theo Nguyễn Ánh đều có những vai trò
nhất định trong cuộc nội chiến ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 18. Đặc biệt nổi bật là vai trò
của Giám mục Bá Đa Lộc và quan hệ giữa Giám mục với Nguyễn Ánh. Mối quan hệ này
khá thân thiết: “trong suốt 1T1 0 1Tnăm Giám mục sống 42Tở 42TNam Hà, người đã đóng vai một
69
Bộ trưởng chiến tranh của Nguyễn vương kiêm cả nhiệm vụ ngoại giao nữa... Giám
mục đã giữ cả việc từ dịch với các toàn quyền Phi-luật-tân, Ma-cao, Bengale và với đại
diện cả Anh hoàng và của vua Đan Mạch” [75, 191]. Nhờ vào thế lực của Nguyễn Ánh,
người Pháp đã có mặt khắp nơi 42Tở 42TViệt Nam và hoạt động trên nhiều lĩnh vực: quân sự,
tôn giáo, thương mại..., họ đã có gắng thiết lâp vị trí của Pháp tại đất nước này “từ năm
1788 có việc tàu Dryade và tàu Panduor thả neo tại Côn đảo cho Linh mục Phan Nghị
và vài người Việt xuống, đồng thời trút xuống đây 1000 khẩu súng cho họ Nguyễn”
[75, 158]. Người Pháp ngày càng tham gia nhiều vào nội tình nước Việt và qua quan hệ
với Nguyễn Ánh, họ đã “trở thành những sứ giả trung gian và tích cực trong 42Tcác 42Thoạt
động mượn quân và mua súng của tập đoàn Nguyễn Ánh, những điệp viên và cố vấn đắc
lực trong 42Tcác 42Thoạt động do thám và tác chiến” [93, 79]. Người Pháp trên thực tế đã giúp
đỡ Nguyễn Ánh về quân sự, chính trị và “cung cấp tình hình Việt Nam về Pháp” [14, 8].
Thực chất hoạt động này của người Pháp là bước khởi đầu cho quá trình xâm lược thuộc
địa của Pháp lại vùng Đông Nam Á.
Khi Nguyễn Ánh chiến thắng hoàn toàn Tây Sơn, thì người Pháp được họ Nguyễn
trả ơn bằng cách dành cho họ nhiều ưu đãi :
- Gia Long ban quốc tính họ Nguyễn cho những người Pháp tiêu biểu như trường
hợp Đa vật, Va-nê-e, Lê Văn Lăng và Olyvi, 4 người ấy theo Bá Đa L ộc từ Tây Dương
tới Gia Định, xin 42Tở 42Tlại làm thân bộc, đều bổ lại làm cai đội. Đa vật cho tên là Chấn,
Va-nê-e cho tên là Thắng, đều cho là họ Nguyễn...” [73, II, 477].
- Ban chức tước
- Miễn cho một số nghi lễ.
Những người Pháp giúp Gia Long sau năm 1802 còn ở lại phục vụ triều Nguyễn
đều được cấp 50 lính hầu, đến buổi chầu thì miễn lạy.
Cho đến 1791 số người Pháp còn lại trong chính quyền họ Nguyễn rất ít, theo thư
của viên khâm sứ Pháp ở Quảng Đông gởi về Bộ ngoại giao thì 42T“ở 42TNam Kỳ chỉ còn ông
Olivier (de Puymanel) mà giám mục Bá Đa Lộc rất khen ngợi” [138, 178]. Thực tế là
người Pháp còn 42Tở 42Tlại Việt Nam lúc đó không đáng kể nhưng họ biết về Việt Nam nhiều
hơn trước. Năm 1790, Nguyễn Ánh đã thông báo cho nước Pháp biết là ông không cần
cứu viện nữa, không cần Pháp giúp nhưng Nguyễn Ánh Gia Long không thể quay lưng
70
với những người bạn Pháp với những tư cách cá nhân đã giúp mình trong hoạn nạn.
Quan hệ Nguyễn Ánh - Gia Long với Pháp bước sang một giai đoạn mới, phù hợp với
tình hình nội dung lịch sử mới.
Thế kỷ 19 mở đầu bằng sự kiện Gia Long xưng đế, vị vua đầu tiên của triều
Nguyễn đối với Pháp “gìn giữ không thắt chặt mối liên lạc chính thức có vẻ là các cam
kết 38Tchính 38Ttrị với chính phủ phương Tây, để khỏi sa vào những lỗi lầm trên đến số phận
của Ân” [97, 50 - 51]. Gia Long là người tiếp xúc, liên hệ với 38Tngười 38T42TPháp, và 42Thơn ai hết,
chắc chắn Gia Long hiểu ý đồ, động cơ của họ đối với đất nước của ông. Do vậy, sau khi
42Tcầu
42Tviện
đã tranh thủ sự giúp đỡ của một số người Pháp và khi
nước 38TPháp 38Tkhông 38Tthành, 38TGia Long cố không gắn bó hơn nữa với người Pháp và
không 13Tđể 13Thọ có ảnh hưởng trong triề u thần của mình. Giải 42Tpháp 42Ttốt nhất mang tính tạm
thời của gia Long được thể hiện rõ qua thái độ của ông với người Pháp và
nước 42TPháp. 42TVới người Pháp ông vẫn đối xử tốt. Tuy nhiên không có mội sự kiện lịch
sử 42Tnào 42Tchứng tỏ ông tin cậy vào 38Thọ, 38Tthực tế Gia Long rất đa nghi, và không cho họ có
những vị trí quan trọng trong chính quyền của ông. Với nước Pháp, Gia Long 13Tđã 13Tcông
khai không 38Tcần 38Tđến sự viện trợ của Pháp nữa.
Tóm lại, cho đến đầu thế kỷ 19, quan hệ Việt - Pháp về cơ bản được phản ánh qua
mối quan hệ giữa cá 38Tnhân 38TNguyễn Ánh - Gia Long, và những người Pháp đã tới Việt
Nam giúp họ Nguyễn. Hiệp ước Versailles thỏa thuận cam kết chính trị - quân sự đầu
tiên gắn Nguyễn Ánh và nước Pháp đã không được thực hiện. Khi liên hệ cầu viện
Pháp, Nguyễn Ánh đã nhận thức được sức mạnh của văn minh vật chất phương Tây,
nhưng qua đó sự yếu ớt của phương Đông cũng được phơi bày một cách rõ rằng nhất.
Đó chính là nguyên 6Tnhân 6Tsâu xa dẫn tới thái độ dè chừng trong quan hệ với Pháp của Gia
Long sau khi lên ngôi. Nguyễn Ánh và người 38TPháp 38Tđều theo đuổi và che dấu những mục
đích riêng của cá nhân, trong khi vẫn liên hệ với nhau từ cuối thế kỷ 18 cho đến đầu thế
kỷ 19. M. Gaultier đã nêu lên thực chất của quan hệ Nguyễn Ánh - Bá Đa Lộc như sau:
“Nguyễn Ánh và giám mục Bá Đa Lộc mỗi người đeo đuổi dự kế riêng của mình trong
khi vẫn lừa phỉnh 38Tlẫn 38Tnhau” [126, 87], trong mối quan hệ mang tính “lừa phỉnh” nhau
này, xét về 38Tlâu 38Tdài, thì Nguyễn Ánh - Gia Long đã thua cuộc.
71
3.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Pháp nửa đầu thế kỷ 19:
3.2.1. Việt Nam trong tầm nhìn của Pháp:
Hoàn cảnh lịch sử của nước Pháp vào đầu thế kỷ 19 là một trong những nhân tố
khách quan chi phối mạnh mẽ quan hệ đối ngoại của nước này nói chung và quan hệ với
triều Nguyễn Việt Nam nói riêng.
Từ cuối thế kỷ 18 cho đến những năm đầu thế kỷ 19, nước Pháp luôn có chiến
tranh và cách mạng nhưng tư sản Pháp vẫn không thôi nhòm ngó Việt Nam với khát
vọng đặt được ảnh hưởng trên vùng đất có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng này.
Năm 1813, Napoléon I giao cho Quốc vụ khanh Hauterive sưu tầm, tập hợp các tư
liệu đã có về Việt Nam. Đó là nhũng thư từ trao đổi giữa Conway và Bộ trưởng ngoại
giao Pháp Luzerne về tình hình Việt Nam. Nhưng Napoléon I không thực hiện được
ý 22Tđồ 22Tbành trướng đế quốc của ông ta. Trong thời kỳ phục hưng công tư ớc Richelieu đã
rất lo lắng đến lợi ích của nước Pháp tại hải phận Trung Quốc, ông 43Tta 43Tviết thư cho
Chaigneau; 43Tlá 43Tthư viết ngày 17-9-1817 có đoạn “một vài chủ tàu buôn của chúng tôi xin
được hay đề nghị làm cuộc viễn chinh lên miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Chính
quyền rất ủng hộ việc làm này...” [123, 141]. Triều đại Louis 18 lên nắm quyền cho đến
năm 1830 và cuộc cách mạng 1830 đã vĩnh viễn chấm dứt sự thống trị của dòng họ
Bourbon, đưa giai cấp tư sản lên nắm chính quyền. Nước Pháp 22Ttừ 22T1830 - 1848 nằm dưới
sự thống trị của bọn đại tài phiệt đứng đầu là Orléans Louis Philippe, chính phủ này
tiếp tục đi theo chính sách đối 49Tngoại 49Txâm lược bành trướng. Chúng ta có thể thống nhất
với nhận định rằng: “Những nguyên nhân kinh tế - chính trị trước kia đã thúc đẩy nước
22Tgiờ đây
22Tdưới chính quyền tư
Pháp quân chủ muốn xâm lược Việt Nam,
sản 22Tchẳng 22Tnhững 22Tvẫn tồn tại 22Tmà 22Tcòn 22Tphát triển 22Tthêm 22Tlên” [95, 517].
Nước Phàp đầu thế kỷ 19 bắt đầu tiến hành cách mạng công nghiệp, nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này kinh tế Pháp xếp hàng thứ nhì trên thế
giới chỉ sau nước Anh. Công nghiệp Pháp phát triển đòi hỏi nhân công, khoáng chất,
nguyên liệu sản phẩm nhiệt đới. Điều này thôi thúc tư bản Pháp cấp thiết vươn mình tới
những “vùng đất mới”. Nhu 25Tcầu 25Tcủa nền kinh tế trong thời kỳ 6Thoàn 6Tthành cách mạng
công nghiệp, là yếu tố quyết định đường lối chính sách đối ngoại thực 42Tdân 42Txâm lược
của 6Tnhư 6TPháp. Trong quá trình 42Tmở 42Tmang thuộc địa, 6TPháp 6Tđã đặt chính sách thống trị của
72
mình ở một số vùng thuộc châu Phi, châu Á. Tại châu Á Pháp đã có một số thuộc địa
quan trọng như: Pondichéry, Yanaon, Mahé, Karicol (Ân)... Việt Nam là vùng đất mà
từ lâu Pháp có sự quan tâm đặc biệt. Một trong những lý do là vị trí quan trọng của Việt
Nam như: “một căn cứ hệ trọng mà người Anh chưa ch ăm chú đến” [26, 31].
Qua những lần thăm dò và điều tra của Pháp thì Việt Nam trong tương lai sẽ đem
lại lợi nhuận đặc biệt cho tư bản Pháp. Việt Nam còn là cửa ngỏ đi vào miền Hoa Nam
Trung Quốc, các xứ Lào, 42TChân 42TLạp, Xiêm. Việt Nam như là trạm nghỉ để tiếp lương,
nhiên liệu, nhân công cho thu thuyền Pháp trên con đường từ Ấn Độ sang Trung Quốc.
Pháp đã không xây dựng được cơ sở ở Trung Quốc, nên Việt Nam nghiễm nhiên trở
thành tiêu điểm để Pháp chọn mở đường vào thị trường lộng lớn Trung Quốc. Trong
một báo cáo gởi về Pháp năm 1787, giám mục Bá Đa Lộc trình bày rõ vị trí quan trọ ng
của Việt Nam như sau: “Một căn cứ Pháp ở Nam kỳ chắc chắn sẽ tạo ra một phương tiện
đối lập lại ảnh hưởng lớn lao của người Anh... Với những tài nguyên chắc chắn hơn, và
những viện trợ ở xa hơn là trông chờ ở châu Âu, để có thể khống chế trên tất cả những
biển Trung Quốc, những quần đảo, cuối cùng là để làm chủ tất cả thương mại ở phần đất
này trên thế giới.” [130, 36].
Lợi ích kinh tế tất yếu dẫn đến quyền lợi chính trị, có vị trí trên đất Việt Nam Pháp
sẽ làm chủ được một địa điểm mà 42Tở 42Tđó theo Cao Huy Thuần sẽ là: “mội chướng ngại nào
đó để làm một điểm trọng tài cho kẻ thua trận, nếu muốn nói thế, một điểm giám sát cho
kẻ thắng trận quá tham lam, một điểm trú ẩn và nương náu cho tàu bè chúng ta, dường
như đang phiêu bạt trong cả phần Đông Á này, về cuối cùng là một điểm tiếp nhiên liệu
về buôn bán cho các người, cung cấp hương liệu của chúng ta vốn chỉ biết dựa vào lá cờ
của các nước ngoài, ở đây để bảo đảm 42Tvà 42Tche chở họ 42Tở 42Tmột đời quá xa tổ quốc” [ 97, 62].
Vào năm 1817, phòng thương mại Pháp đã nhận định: Việt Nam là một nước, nơi Pháp
đạt cùng một lúc 2 nhiệm 50Tvụ, 50Tnếu đặt được cơ sở ở đây:
1. Là nơi có tiềm năng thương mại .
2. Là thị trường tiêu th ụ hàng hóa qu an trọng
Như vậy, Việt Nam là bàn đạp lý tưởng để Pháp mở rộng thế lực của họ, và để
cạnh tranh với Anh 38Tvà 38Tthắng lớn trong cuộc chạy đua vào vùng Hoa Nam Trung Quốc.
Theo thực dân Pháp thì Việt Nam sẽ là “thuộc địa đẹp nhất, quí nhất (này) trong các
73
thuộc địa cũ và mới của Pháp” [97, 63]. Một kế hoạch xâm chiếm Việt Nam đã định
hình, thu hút sự quan tâm của cả chính khách, thực dân, nhà truyền giáo lẫn thương
nhân. Giám mục Retord tuyên bố: “Nước Pháp sẽ tìm thấy ở xứ sở đẹp đẽ này nhiều mỏ
vàng, bạc, đồng, sắt, than, nhiều gỗ để đóng tàu, nó có một hải cảng kiên cố cho 42Tcác 42Thạm
đội và thự c phẩm cho lính thủy của họ. Tại đây còn là nơi buôn bán quan trọng về gạo,
bông, muối, vải, lụa và nhiều hàng khác “Giám mục Pellerin thì nói về “khả năng phát
triển trồng cà-phê , khai mỏ vàng, mỏ than, mỏ đồng, mỏ sắt” [97, 68]. Về lợi ích quâ n
sự thì Napoleon 6TI 6Tđã nhắm Việt Nam bởi theo ông ta “sự thành lập một căn cứ của Pháp
trong vùng bể Trung Hoa, đứng về mặt quân sự mà thôi, là một điều kiện rất lợi trong
trường hợp giao chiến với Anh. Nhất là vào lúc này người Anh đang tăng cường sục sạo
trên mặt bể” [68, 518].
Như vậy, chính hoàn cảnh kinh tế - chính trị của bản thân nước Pháp từ cuối thế kỷ
18 đến đầu thế kỷ 19, nhu cầu bức thiết của sự phát triển nội tại đất nước này là nguyên
nhân sâu xa thúc giục Pháp tăng cường tìm kiếm thị trường 42Tở 42Tvùng 42Tchâu 42TÁ cụ thể là
Đông Nam Á. Tiếp đó sự phái triển thế lực của Thiên Chúa giáo sang Việt Nam cũng là
mục tiêu của thực dân Pháp, vua Pháp cho rằng làm như vậy là để “cứu giúp đạo Thiên
Chúa...” [97, 43]. Chúng ta đã biết Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp (société des
Missions étrangrères) thành lập 1664 để lo việc truyền giảng ở các thuộc địa ngày càng
có một địa vị vững chắc và các mối liên hệ giữa Pháp với Việt Nam phần lớn do hội
truyền giao 42Tcác 42Tgiáo sĩ (Missionnaire) đảm trách. Nhưng ngoại trưởng Pháp là Guizot
cho đến 1848 đã xác định mục đích của đường lối đối ngoại Pháp đã khôi phục địa vị
của Pháp 42Tở 42Tchâu Âu và liên minh với nước Anh, nên không nên làm mất lòng nước Anh
bằng cách bành trướng thế lực ở Á 42Tchâu 42T“Guizol chỉ thị cho Cécille là không được động
tới Việt Nam” [3, 16].
43TĐầu 43Tthế kỷ 19, Việt Nam không có nhiều những mối quan hệ rộng rãi với
3.2.2. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Gia Long (1802 - 1819):
phương 43TTây. Dưới 43Ttriều vua Gia Long, đề phòng sự bành trướng của “Tây dương”,
Việt Nam hạn chế tối đa những cuộc tiếp xúc ngoại giao với các nước tư 6Tbản 6TÂu Mỹ.
Đối với nước Pháp, do những ràng buộc tình cảm giữa cá nhân nhà vua Việt Nam với
giám mục Bá Đa Lộc và 6Tnhững 6Tngười Pháp đã từng giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn,
74
nên Gia Long phải hoạch định một đường lối ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo. Ông
phân biệt rạch ròi 6Tquan 6Thệ với nước Pháp và người Pháp.
Đối với nước Pháp, Gia Long vô cùng thận trọng trong giao tiếp. Ông mềm mỏng,
linh hoạt trong mọi tiếp xúc, 6Tnhưng 6Tnguyên tắc cứng rắn, kiên quyết từ chối mọi yêu cầu
phi lý của Pháp (nhờ 43Tyêu 43Tcầu của Pháp đòi thực hiện hiệp 22Tước 22TVersailles, mà phía Pháp
đã không thi hành ngay từ khi ký).
Đối với người Pháp đã từng liên hệ với ông, Gia Long luôn biệt đãi, nhưng thật
6TTrước sự tăng cường xâm nhập của tư bản Âu Mỹ vào phương Đông, Việt Nam 6Tcũng
tâm ông vua này cũng chẳng quý trọng gì cả người Âu lẫn đạo Thiên Chúa.
như các nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên đều thực hiện đường lối
ngoại giao “không phương 6TTây”. 6TĐường lối ngoại giao này được hoạch định và thực thi
từ thực tế bị sự uy hiếp của tư bản Âu Mỹ.
Gia Long không có ý định thiết lập quan hệ chính thức với phương Tây, nhưng với
những liên hệ đã có với nước Pháp, Gia Long 6Tkhông 6Tthể cự tuyệt thẳng thừng quan hệ
với nước này. Ông đã cố gắng thể hiện một sách lược ngoại giao mang tính “lưỡng xử”,
dung hòa và cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa Việt Nam và những người Pháp hiện
diện trên đất nước ta. Đường lối trị 22Tnước 22Tcủa ông hoàn toàn độc lập không hề bị chi phối
và chịu ảnh hưởng bởi người Pháp tại triều. Toàn cảnh chính trị - ngoại giao thời Gia
Long đã toát lên một tinh thần ứng xử tinh tế nhẹ nhàng đầy cẩn trọng, ông cảnh báo với
người kế vị “Hãy biết ơn người Pháp, nhưng đừng 6Tbao 6Tgiờ để họ đặt chân vào triều đình
của con” [117, 60]. Gia Long suy nghĩ và thực sự lo lắng trước hiểm họa đến từ phương
Tây, nhưng Gia Long không có và không thể có được một chính sách thích ứng với tình
hình mới, việc mà ông làm được với một sự cố gắng chỉ là: duy trì quan hệ bình thường
với người Pháp, nước Pháp. Trong 20 năm trị vì Gia Long đối đãi ôn hòa, tử tế và kìm
chế với người Pháp từ nhà buôn, giáo sĩ hay người đại diện cho vua Pháp đến Việt Nam.
Nhưng dù Gia Long có khéo léo che đậy thái độ nghi ngờ của ông, thì người Pháp
cũng nhận thấy: “nhà vua không nói cái mà nhà vua nghĩ, nhà vua rất khôn khéo và luôn
có những lối thoát” [121, 73]. Gia Long bằng mọi cách đã né tránh được những cam kết
thắt chặt ngoại giao chính trị với Pháp. Vannier, một người Pháp được Gia Long phong
sắc Nhất phẩm vĩnh viễn cũng nhận xét “Thật là vô ơn cái vị chúa ấy đã chịu ơn người
75
Âu bao nhiêu và nhấ t là người Pháp... Ông Chaigneau và tôi đã chán Nam kỳ lắm rồi...
[60, IV, 198].
Đường lối ngoại giao “không phương Tây” của triều Nguyễn thời Gia Long tuy
bảo thủ, nhưng cũng có những yếu tố tích cực. Triều Gia Long giao thiệp bình thường
với Pháp, nhưng tránh được những ký kết chính thức giữa hai nhà nước, mà theo Gia
Long, từ những ký kết đó có thể gây nguy hại cho an ninh quốc gia.
Ông ưu đãi những người Pháp từng cộng tác giúp ông, nhưng sau 1802 số người
này chỉ còn 4 người. Trừ Despinux là thầy thuốc, còn Chaigneau, 54TVannier, 54TForsant
được phong chức Chưởng.. , cơ (võ quan 34Tcao 34Tcấp, hàm nhị phẩm, có 50 lính hầu). Năm
1809, Forsant qua đời, số lượng người 42TPháp 42Thiện diện trong guồng máy chính trị nhà
Nguyễn rất không đáng k ể, và không thể tạo ra một ảnh hưởng nào.
Dưới triều Gia Long quan hệ Việt - Pháp chưa có gì khó khăn, mâu thuẫn để dẫn
đến xung đột, nhưng mối quan hệ này cũng bị vấn đề thương mại và tôn giáo chi phố i.
Về thương mại, so với yêu 42Tcầu 42Tvà xu thế của thời kỳ đầu thế kỷ 19 là mở cửa để
giao thương trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ nước nhà, thì chúng ta nhận thấy Gia
Long đã không “ức thương” một 42Tcách 42Tnghiệt ngã. Dưới triều Gia Long, thương nhân các
nước, kể cả thương nhân Pháp có thể tới mọi hải cảng để thông thương, nhưng họ phải
tới Hội An hoặc Đà Nẵng để làm thủ tục nhập cảng.
Để phòng ngừa không cho Pháp có lý do xâm nhập và bành trướng thế lực vào
nước ta qua việc ký kết những thương ước, Gia Long chủ trương không ký
thương 22Tước 22Tvới bất kỳ một nước phương Tây nào. Ông cũng từ chối không nhận tặng
vật của các thương gia 43TPháp, 43Tkhông tiếp các sứ giả Pháp, cũng như khước từ tặng phẩm
và tiế p sứ của các nước tư bản khác như Anh chẳng hạn.
Từ năm 1802 đến 1812, do bận chiến tranh châu Âu của Napoléon I nên Pháp
không có hoạt động buôn bán gì đáng kể 42Tở 42TViệt Nam. Cho đến năm 1817 những chiếc
tàu mang cờ Pháp mới xuất hiện ở nước ta. Năm Gia Long thứ 17 có tàu Pháp đến Cần
Giờ xin buôn bán. Theo “Mục lục châu bản triều Nguyên”: “Tàu trưởng tàu Ba-Lăng-
Sa, tên là Đa-nhét-xích-lâu cùng An-Tôn- 54TBôn- 54TLiên tới Cần Giờ 54Ttừ 54Tngày 12-6 xin lên
thành Sài Gòn ứng hiệu và xin ra cửa Hàn buôn bán”, tiếp đó “... tàu Phi Giác, hiệu Xuy
Ba Lê đến cửa Hàn ngày 6-1-1818, có đem lại những lễ vật: 1 các đồng hồ, khẩu súng
76
hẹp.... do vua Ba-Lang-Sa tặng vua 22Tnước 22TViệt Nam để tỏ tình bang giao nghĩa như anh
em” [49, 1, 196]...
Những chuyến đi của thương nhân Pháp đến Việt Nam đều được Gia Long hoan
nghênh, giúp đỡ. Trường hợp tàu Henry và tàu Lapaix khi đến Đà Nẵng và Sài Gòn đều
được vua Gia Long phái 2 người Pháp trong triều là Vannier và Chaigeau đ ến giúp đỡ,
vua còn cho các quan địa phương giúp thủ y thủ đoàn mua bán, cho họ tới Huế. Gia
Long lại miễn thuế 6Thoàn 6Ttoàn cho thu buôn Pháp, con trai của Chaigeau cũng thừa nhận
thiện chí của vua Gia Long “Ngài thấy buổi đầu 43Tmà 43Tviệc buôn bán không được may
mắn thì Ngài lấy làm tiếc lắm, vậy Ngài xá thuế cho hai chiếc tàu ấy, vả lại Ngài cũng
không nhận những đồ đã đem dâng Ngài.... Rồi Ngài hứa rằng Ngài lại thu tiếp tử tế cho
xứng là dân một nước giao hiếu với nước Nam” [133, 129]. Gia Long từng đích thân chỉ
ra những thứ hàng gì liền đem sang Việt Nam bán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua
bán của thương nhân Pháp. Các chuyến tàu sau, hàng 43TPháp 43Tmang sang Việt Nam bán
rất chạy. Ngay người Pháp cũng thừa nhận quan hệ thương nhân Pháp với triều Nguyễn
Gia Long là rất tốt đẹp “Thái độ Gia Long niềm nở đón tiếp, hàng hóa mang sang bán
hết và được thanh toán sòng phẳng, đến lúc 6Tra 6Tvề còn cho nhiều hàng quí như: đường ,
trà, bạc nén...”[95, 519].
Nhìn chung trong thời Gia Long trị vì, có nhiều tàu buôn Pháp sang Việt Nam mua
bán, việc giao thương tiến triển khá dễ dàng và chính phía Pháp khuyến khích các thu
buôn sang Việt Nam. Trong lúc buôn bán đang thuận lợi thì có một sự kiện khiến Gia
Long không thể không đề phòng ý đồ của Pháp. Năm 1817, tàu Pháp La Cybele đến cửa
Hàn, viên thuyền trưởng là Kergnriou xin đến Huế dâng quà tặng của vua Pháp và nhắc
lại hòa ước 1787. Gia Long sai quan tiếp đãi tàu La Cybele tử tế, nhưng ông không cho
thuyền trưởng triều kiến và không nhận tặng phẩm với lý do Kergariou không có quốc
thư. Cuộc vận động ngoại giao này của Pháp đã không gặt hái một kết quả nào,
“Kergnriou đổ thừa sự thất bại của ông ta là do 2 nguyên nhân : Sự ghen tức của quan
Bộ Lễ đối với những quan Pháp, và việc những tàu buôn tới trước ông ta đã cho biết sự
lên ngôi của Louis XVIII. Nhiệ m vụ của ông 42Tta 42Tđã mất hết toàn bộ ý nghĩa” [132, 116].
Thủ tướng Pháp là Richelieu tìm cách liên hệ với Chaigneau và Vanniet trước mắt
nhằm mục đích thiết lập mối quan hệ buôn bán thường xuyên với Việt Nam. Các hoạt
động ráo riết của tư bản Pháp không thể không gia tăng sự nghi ngờ 42Tở 42Ttriều đình Huế.
77
Năm 1819, tàu Henry của Pháp đến Việt Nam, vua Gia Long cũng cho phép họ đến Huế
mở cửa hàng cạnh nhà của Vannier, vua có đến thăm và đặt hàng. Khi tàu Henry về
Pháp, Chaigneau xin phép về nước 3 năm. Gia Long đã ưu tiên cho Chaigneau chờ hàng
về và miễn thuế khi ông này chở hàng trở lại Việt Nam.
Dưới triều Gia Long quan hệ Việt - Pháp còn chưa bị vấn đề thương mại gây khó
khăn. Việ c buôn bán v ới Pháp 43Tkhá 43Tthuận lợi, Gia Long t ạo điều kiện cho thương nhân,
ưu tiên cho họ nhưng không cho họ một đặc quyền nào. Mọi đề nghị ký kết thương ước
từ Pháp, đều bị Gia Long tìm mọi lý do để khước từ.
Vấn đề truyền đạo: Đây là vấn đề tạo ra những trở ngại trong quan hệ giữa nhà
nước phong kiến Việt Nam với Pháp.
Do quan hệ gần gũi với Bá Đa Lộc và chịu ơn giúp đỡ của những người Pháp trong
cuộc chiến với Tây Sơn, Gia Long khi lên ngôi vẫn để cho việc truyền đạo Thiên Chúa
được tồn tại, và phát triển tương đối thuận lợi. Thực ra, đối với đạo Thiên Chúa, Gia
Long chủ trương dung hòa. Ông không thể chống đạo một cách công khai, cũng không
thể “cải đạo”. Gia Long đã nhìn thấy trong tôn giáo mới một quyền lực có thể tranh
chấp với vương quyền. Ông cũng nhìn thấy trong sự phát triển của đạo Thiên Chúa mối
liên hệ dẫn tới sự nguy hại của độc lập quốc gia, và quyền lợi của họ Nguyễn bị đe dọa
trực liếp. Sự dính líu và mối quan hệ biện chứng giữa công việc truyền đạo và giai c ấp
tư sản thực dân là một sự hiển nhiên : “không một ai chối cải sự liên quan đó, trừ những
người có thiên kiến” [97, 5]. Năm 1804, Hoàng đế nước Pháp Napoléon 6TI 6Tkhẳng định
“Hội truyền giáo 42Tở 42Tnước 22Tngòai 22Tsẽ rất có ích cho tôi ở châu Á... Tấm áo của họ sẽ che chở
cho họ và sẽ dùng để che giấu những mưu đồ chính trị và thương nghiệp” [138,120].
Bản thân Gia Long là người nhận thức sớm và sâu sắc vấn đề đó, ông đã có thời gian
khá dài cộng tác với một 11Tgiám mục người 11TPháp, 11Tnên chắc chắn ông 11Thiểu 11Trõ hơn ai sự
nguy hiểm đến 11T35Ttừ 35Tnhững người đi truyền đạo, ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo đối với
con ông (Hoàng tử Cảnh) và các thần dân của mình. Trong tình thế vừa mới nhờ cậy
người Pháp xong, Gia Long chưa thể cấm 42Tđạo 42Tvà làm mất lòng người Pháp ngay lập tức
được, nhưng qua điều lệ Hương Đảng cho các xã dân ở Bắc Hà, ông cũng tỏ rõ được
thái độ của mình đối với đạo Thiên Chúa :” Từ rày về sau, dân các tỉnh, xã nào có nhà
thờ Gia Tô đổ nát thì phải đưa trình quan trấn mới được tu bổ lại, còn việc dựng nhà thờ
mới đều cấm chỉ”[70, III, 6T168]. 6TTuy nhiên, để bảo đảm mối quan hệ bình yên với nước
78
Pháp, Gia Long cố gắng đứng ngoài việc chống đối đạo, ông muốn “làm người trọng tài
không thiên vị để lấy lòng cả giáo sĩ lẫn nho sĩ” [93, 93].
Gia Long có thái độ và cách xử sự mang tính dung hòa trong quan hệ với Pháp,
nhưng cương quyết và cứng rắn từ chối mọi yêu cầu từ phía nhà nước Pháp... Hướng
giải quyết của Gia Long 11Ttrong 11Tnhững năm 11Tở 11Tngôi 11Tbáu 11T43Tlà 43Tdàn 11Txếp 11Tổn thỏa quan hệ với
người Pháp, dễ dãi tạo điều kiện cho thương nhân Pháp làm ăn, 11Tvới đạo 11TThiên Chúa ông
đề nghị theo hướng “đạo này nên dung nạp thêm lễ tục thờ cúng tổ 11Ttiên...” 11T[26,82]. Ông
yêu cầu các tín đồ Thiên Chúa giáo nên g ần gũi với dân chúng bên lương hơn nữa, Gia
Long nói với giám mục Pháp “lưu ý điều đó 11Tvà 11Tcho phép các tín đồ Thiên Chúa giáo 43Tgần
gũi 43Tthần 6Tdân 6Tcủa tôi hơn nữa” 6T[121, 21]. 6TNhư vậy, Gia Long không h ề chống lại các giá
trị 11Tvật 11Tchất - tinh thần phương Tây, nhưng 43Tông 43Tcần 11Tthi 11Tết phải bảo vệ các truyền thống
dân tộc Việt Nam, và so với Trung Quốc cùng một số nước lân cận, Gia Long đã thể
hiện một đối sách ngoại giao nhu hòa, uyển chuyển hơn, đặc biệt qua hai vấn đề tôn
giáo và thương mại. Chính sách ngoại giao mềm dẻo với Pháp đã giúp Gia Long rất
nhiều trong việc ổn định đất nước sau mội thời gian dài nội chiến.
Thực chất 45Tđường 45Tlối chính sách ngoại giao của vua Gia Long là “không phương
Tây”, không dính líu tới Pháp dưới bất kỳ hình thức nào. Chính vì vậy, dù biểu hiện ứng
xử của ông có mềm dẻo, khôn khéo đến bao nhiêu, Gia Long vẫn không che giấu được
những 45Tmâu 45Tthuẫn trong thái độ và suy nghĩ của ông đối với Pháp, ông “nói cái điều
không nghĩ”. Những hành động của ông cũng mang tính đối phó tạm thời, và người
Pháp không thể không nhận thấy “Mặc dầu Ngài vẫn đối xử luôn luôn như bạn, nhưng
tôi không vừa ý về cách phát biểu của Ngài về thánh đạo của chúng ta...” [60, 45TIV, 45T204].
Chí hướng của Gia Long được biểu hiện rõ ràng nhất là vào năm 1820, trước khi
qua đời, Gia Long đã chọn Hoàng tử Đảm làm người kế vị. Chọn lựa vị Hoàng tử đã
trưởng 45Tthành 45Tchín chắn để làm người tiếp tục thực hiện đường lối chính trị của mình,
Gia Long tin tưởng hoàn toàn vào hoàng tử Đàm, người rất tinh thông, tôn sùng Nho
học, và nhìn chung, không có mấy thiện cảm với người Pháp. Quyết định của Gia Long
đã 45Tlàm 45Tsụp đổ mọi hy vọng của phần lớn giáo sĩ Pháp có từ thời Bá Đa Lộc. Gia Long đã
có một sự lựa chọn giữa Hoàng tử Đảm và các con của Hoàng tử Cảnh. Đây chính là sự
lựa chọn người có khả năng thực hiện đường lối chính trị cơ bản của ông, thực tế thì con
của Hoàng tử Cảnh ít nhiều cũng đều chịu ảnh hưởng của người Pháp.
79
Bằng những biện pháp ôn hòa, khéo léo, Gia Long khéo tạo ra môi trường quốc tế
ổn định để củng cố, xây đựng, phát triển đất nước và quyền lực của dòng họ. Khi vua
Minh Mạng thừa kế ngôi vàng, cỗ máy chính trị mang đặc tính của nền quân chủ
phương Đông đã vận hành tốt và đi vào nề nếp. Trước khi Gia Long qua đời, vấn đề mà
ông còn mang nặng ưu tư là quan hệ với nước Pháp và phương hướng giải quyết mối
quan hệ với nước này. Ông căn dặn Minh Mạng phải hết sức đề phòng, cảnh giác với
nước 43TPháp, 43Tnhưng không được làm mất lòng người Pháp.
3.2.3. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Minh Mạng (1820 - 1840)
Đi theo đường lối đối ngoại mà vua Gia Long hoạch định, vua Minh Mạng sau khi
lên ngôi 43Tvẫn 43Tđối xử nhã nhặn, hòa hoãn với người Pháp. Vannier, một người Pháp còn
lại, trong thư 43Tgởi 43Tcho giám mục Baroudel (Hội truyền giáo Macao) cũng khách quan
thừa nhận rằng ông ta “không than phiền điều gì về nhà vua, nhà vua luôn tiếp đãi tôi
nồng hậu và rất thường trò chuyện 57Tthân 57Tmật với tôi” [121,64]. Trong những năm đầu trị
vì, Minh Mạng về cơ bản trung thành với đường lối chính trị của cha mình. Nhưng dưới
triều Minh Mạng hoàn cảnh quốc tế và trong nước tin thay đổi, các áp lực từ phương
Tây gia tăng, trong nước có nhiều biến động... Đó là nguyên nhân lý giải phần nào sự
điều chỉnh mang tính bắt buộc của Minh Mạng trong đường lối nội trị và ngoại giao.
Trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta thấy là cho đến đầu thế kỷ 19, nền kinh tế Việt Nam
vẫn là nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên, tự cung, tự cấp. Sản xuất hàng hóa Việt Nam
còn thấp và hầu 57Tnhư 57Tkhông có hàng xuất khẩu. 57TMột 57Tnghịch lý hiển nhiên là Việt Nam
cần mua 57Tnhiều 57Thàng hóa ở nước ngoài, nhưng nếu tăng cường việc mua ngoại hóa thì có
thể 57Tdẫn 57Tđến hiện tượng “chảy máu” 43Tvàng, 43Tbạc nước ta. Đó là một trong nhiều lý do triều
Nguyễn định ra việc hạn chế thông thương với phương Tây. 43TĐây 43Tcũng là chính sách
chung của các 57Tnước 57Tchâu Á thời đó. Trung Quốc thời Trung Thanh (1757) cũng chủ
trương “đóng cửa” về kinh tế với phương Tây, Trung Quốc chỉ mở cửa bể Quảng Châu.
Nhật Bản từ thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, chính phủ Mạc Phủ 22Tvẫn 22Tduy trì chính sách
“đóng cửa” về thương mại v.v...
Việt Nam dưới thời Minh Mạng, vấn đề hạn chế thông thương được áp dụng với
hạn định chỉ mở một cửa khẩu (cửa Hàn), hạn chế thuyền buôn ra nước ngoài, thuyền
buôn phương Tây chỉ được vào bến cảng Đà Nẵng. Năm 1821 Chaigneau
80
được 22Tvua 22TPháp cử sang Việt Nam làm lãnh 22Tsự dâng 22Tthư 22Tvà phẩm vật của 22TL 22Touis 22T18 đồng
thời xin 6Tlập thương 6Tước, vua Minh Mạng đã từ chối. Năm 1822 một chiến thuyền Pháp là
Cléoptre đến Đà Nẵng xin được tiếp kiến vua Việt Nam, Minh Mạng cũng từ chối. Năm
1824 Louis 18 lại phái hai chiến thuyền là Thétis và Espérauce đến Việt Nam dâng
quốc 21Tthư 21Tvà phẩm vật xin giao hiếu và thông thương nhưng Minh Mạng cũng từ chối
đồng thời không nhận thư, phẩm vật của vua Pháp.
Về chính trị, trong thời gian từ 1825 trở đi, sự lấn lướt của các nước tư bản Âu -
Mỹ ở châu Á ngày càng gia tăng. Nước Anh đã kiểm soát cả vùng eo bể Sumatra, đường
vòng tới bán đảo Đông Dương, Malaca, Pê-nang... Tàu thuyền của Pháp thì xuất hiện
nhiều và thường xuyên ở vùng bể Trung Hoa. Tất cả các hoạt động của tư bản châu Âu
nhắc nhở thường xuyên cho Minh Mạng về sự an nguy của đất nước. Ông cố gắng đứng
ngoài những tiếp xúc với Pháp, tiếp tục củng cố triều đại và đất nước trên nền tảng của
ý thức hệ Nho giáo để chống đỡ các tư tưởng mới lạ của phương Tây, chủ yếu là đạo
Thiên Chúa. Đư ờng lối chính trị của Minh Mạng cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi vấn đề
tôn giáo. Theo người Pháp thì ngay từ lúc còn là một vị hoàng tử, Minh Mạng đã luôn
cảnh giác và “Vị Thái tử tuy còn thơ ấu, đã nói đến diệt đạo Thánh Chúa của chúng ta”
[60, N, 198].
Trong những năm đầu lên ngôi, đường lối chính trị của Minh Mạng so với Gia
Long không có thay đổi lớn.Với người Pháp, nước Pháp ông vẫn thể hiện thiện chí,
lòng biết ơn của mình nhưng tình hình quan hệ quốc tế ngày một thay đổi, nước Pháp
sau khi ổn định tình hình trong nước tìm cách nối lại những liên lạc với Việt Nam nhầm
đạt được những cam kết với nước ta trên lĩnh vực thương mại, chính trị. Pháp mong
muốn xác định đặc quyền của Pháp đối với Việt Nam, trong phạm vi cạnh tranh với các
nước tư bản khác. Tình thế đó khiến Minh Mạng sau khoảng 5 năm đi theo đ ối sách ôn
hòa của Gia Long, đã chuyển dần từ chính sách mềm dẻo, hòa hoãn sang chính sách
cứng rắn trong quan hệ với Pháp. Có thể “Ông tỏ ra hơi vội vã, thậm chí cứng rắn,
không theo đúng lời căn dặn của cha mình là phải hết sức thận trọng trong việc xa lánh
tuyệt giao với người Pháp và các Thừa sai” [66, 118], nhưng Minh Mạng đã không làm
khác được. 58TQuan 58Thệ ngoại giao của Minh Mạng đối với Pháp ngày càng tiến triển một
cách khó khăn hơn.
81
“Từ năm 1820 đến khoảng năm 1825, 6Tđây 6Tlà thời gian Minh Mạng mới kế vị ngai
vàng, ông cần củng cố quyền lực cá nhân, ổn định triều chính... nên chưa thể có điều
chỉnh lớn trong chính sách ngoại giao đối với Pháp. Minh Mạng vẫn đi theo chính sách
ôn hòa c ủa tiền triều, đối xử bình thường với người Pháp nhưng tìm cách xa lánh họ.
Năm 1825, J.B Chaigneau trở lại Việt Nam với tư cách là đặc sứ của hoàng đế
Pháp, ông ta cũng được triều Nguyễn đón tiếp long trọng. Vua Pháp nhân cơ hội này có
quốc thư giới thiệu Chaigneau và đề nghị được ký kết một hiệp ước thương mại với
Việt Nam, quốc thư có đoạn viết “Nhân lúc tại ngôi, tôi hằng ao ước vấn đề thông
thương và bang giao giữa hai nước đạt kết quả tốt đẹp.”
Trong quan điểm này, tôi thấy rất thích đáng ủy nhiệm lên Ngài quý ông J. B.
Chaigneau, sĩ quan thủy quân của bản quốc, là vị quan của xứ đàng Trong. Sở dĩ tôi cử
J. 6TB. 6TChaigneau vì ông ấy hiểu biết quý quốc, nhận được lòng tín nhiệm và ưu ái của
quý Ngài. Tôi luôn luôn tin tưởng vào đức công bằng và quảng đại của Ngài, có thể
giúp ông Chaigneau trình bày lên Ngài điều kiện lợi ích cho công cuộc chung của
chúng ta như việc giao thương...” [169, 110].
Triều đình Huế đón tiếp vị đặc sứ trên rất chu đáo, chính bản thân Chaigneau và
Michel Đức Chaigneau trong hồi ký đã tả lại cuộc tiếp sứ này rất trang trọ ng. Kèm với
thư gởi cho Minh Mạng, vua Pháp gởi theo nhiều tặng vật như: đồng hồ, đèn, các bức
vẽ, gương và nhiề u chế phẩm của Pháp. Vua Nguyễn nhận thư và cũng gở i tặng vật lại
cho Louis 18 như: da voi, da hổ, the lụa... nhưng trong thư trả lời Minh Mạng tỏ ý lạnh
nhạt, ông viện dẫn lý do hai nước quá xa nhau và bất đồng về ngôn ngữ, thông dịch
tiếng Pháp tại Việt Nam hiếm hoi, ngay thư của Hoàng đế Pháp ông cũng tuyên bố: hiểu
lờ mờ không dám tự cho là có hiểu. 21TVề 21Tviệc ký kết một 57Tt57Thương ước Việt - Pháp, Minh
Mạng trả lời dứt khoát: “Nước Đại Nam đã có lệ định rõ ràng, các nước ngoài vẫn đã áp
dụng xưa nay, nếu muốn khỏi phiền phức cho cả hai bên, thì Quả nhân tưởng không nên
lập thêm, hay là lập riêng một thương ước khác...” [89, 32]. Cũng với một lập luận như
thế vua Minh Mạng từ chối sứ giả của tất cả các nước khác đến Việt Nam xin thông
thương, thực chất của 39Tvấn đề 39T“hạn thương” là “Nhà vua sợ rằng các trao đổi với phương
Tây, kẻ đang nắm những kỹ thuật tiến bộ sẽ làm nguy hại đến nền độc lập và trật tự
quốc gia” [97, 52].
82
Minh Mạng từ chối ký các thương ước, nhưng ông không cấm đoán tàu bè và
thương nhân Pháp và các nước đến Việt Nam mua bán. Năm 1822 chiếc tàu Pháp mang
tên Cléopâtre đến Việt Nam mua bán và trong 22Tnăm 22Tnày còn có một vị đặc sứ Pháp tên là
Vill - Helio đến Việt Nam. Tất cả các chuyến đi này cùa Pháp đều không thành công
trong việ c thương thuyết về một cam kết với triều Nguyễn.
Đối với những cuộc tiếp xúc phi chính trị, vua Mình Mạng không hề ngăn cản một
cách phi lý, trường hợp của nhà khoa học trẻ người Pháp đã minh chứng cho nhận định
này. Diard là một nhà nghiên cứu Pháp, ông đến Việt Nam và được triều Nguyễn cho
phép tự do đi tham quan các trấn ở miền Nam để nghiên cứu.
Đối với tàu thuyền ngoại quốc bị thiên tai, vua có chủ trương giúp đỡ tận tình, tạo
điều kiện cho họ sớm hoạt động trở lại (ví dụ như trường hợp tàu Neptune vào năm
1822).
Vua Minh Mạng không ký kết những văn bản trên các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao
với Pháp nhưng t ừ năm 1820 đến khoảng 1825, vi ệc buôn bán và truyền đạo của người
Pháp tại Việt Nam chưa hề bị ngăn cấm. Dù dè chừng và thận trọng trong quan hệ với
Pháp, nhưng Minh Mạng vẫn định hướng theo đường lối ngoại giao mà Gia Long đề ra
trong nhữ ng năm đầu trị vì của ông.
Từ năm 1825 cho đến năm 1831, tình 6Thình 6Tnước ta có nhiều khó khăn như: thiên
tai, dịch bệnh lan tràn, những vùng bị nặng là Thanh Hoa, Ninh Bình...Tình trạng đói
kém xảy ra làm cho xã hội rối loạn. Năm 1825 có vụ nổi dậy tại trấn Nghệ An, qua năm
1826, 6Tngười 6TThổ nổi lên ở Nam Định... Cũng năm 1826, ở trấn Thanh Hoa và Nghệ An
vụ nổi dậy do Minh Đặng Tạo cát cứ. Phong 6Ttrào 6Tnổi dậy ở miền Bắc rất mạnh đến năm
1827 triều đình mới ổn định được. Trong nước thì khó khăn như vậy, bên ngoài lại
nhiều biến cố dồn dập xảy đến cho các quốc gia lân cận: Anh gây chiến với
Miến 38TĐiện 38Tvà ngày 24-2-1826, Miến Điện thất bại phải ký hàng ước Yanbado nhường
cho Anh những vùng đất Assam, Tavoy và Mergui. Minh Mạng không thể không lo
ngại đến các thế lực Tây phương, ông dè dặt hơn đối với người Pháp. Ngay với hai
người Pháp còn lại ở triều là Vannier và Chaigneau cũng bị 6Tmột 6Tsố 38Tquan 38Tlại
xa 38Tlánh. 38TThấy thái độ ngày càng lạnh nhạt của triều Nguyễn đối với mình, trong năm
1825 hai ông này xin trở về Pháp vĩnh viễn. Thực tế, ngay từ năm 1819 cả Chaigneau
83
lẫn Vannier đều đã rất muốn ra đi, trong một bức thư gởi đến Ô. Baroudel, chủ quản
ngoại vụ ở Macao, Vannier viết: “ Tôi đã chán Nam Kỳ và chúng tôi muốn có phương
tiện để ra khỏi nơi này...” [60, IV, 205]. Đến năm 1823, trong thư gởi cho Bộ trưởng
ngoại giao Chaigneau đã viết “...dự định mà tôi mong muốn là được trở về 6TPháp 6T...” [60,
IV, 207].
Trong năm 1825, có mội chiếc tàu Pháp là Thélis tới cập bến cửa Hàn, mang theo
quốc thư và tặng phẩm của hoàng đế nước Pháp tặng vua Minh Mạng, lần này Minh
Mạng từ chối không nhận thư và tặng phẩm. Tháng 2 - 1825, Eugène Chau of
Chaigneau tới Đà Nẵng mang theo thư của bộ trưởng ngoại giao Pháp đề nghị với triều
đình Huế giúp Eugène hoàn thành nhiệm vụ, đến lúc đó Eugène mới được thông báo:
“...từ nay không ai được phép đến Huế... không ai đủ khả năng dịch và hiểu thư của
nước Pháp, vì vậy không thể công nhận chức vụ viên chức Pháp tại Việt Nam” [12,
167]. Tuy bị từ chối, nhưng Eugène cũng cố gắng 22Tvận 22Tđộng mong đạt được một hiệp
ước với triều đình Huế. Cuối cùng ông ta đã thất bại và lên đường về Pháp. Sau đó
Eugène được cử sang Việt Nam làm lãnh sự nhưng vua Minh Mạng không chấp nhận.
Năm 1829 Eugène lại sang Việt Nam và cũng không thành công trong 6Tnhiệm 6Tvụ ngoại
giao của mình. Năm 1829 là năm ghi nhận sự cố gắng cuối cùng của Pháp với sự kiện
đại tá Laplace được cử 6Tđến 6TViệt Nam xin thông thương. Viên đại tá này đã có những
hành động sai trái, sử triều Nguyễn ghi lại hành động của ông ta là: “Người Pháp lại
thiện tiện lên núi Tam Thai đứng trông; nhơn nói muốn có một người hướng đạo dẫn
qua các hạt Bắc thành vẽ đồ; rồi chạy tàu đi.” [69, 149]. Đến tháng 1 - 1831, triều
Nguyễn hạ lệnh trục xuất chiếc tàu của Laplace.
Như vậy, trong khoả ng thời gian từ 1825 - 1831, tất cả các nhân viên mà Pháp cử
sang làm công tác ngoại giao với triều Minh Mạng đều không thể thuyết phục được
triều Nguyên ký kết những hiệp ước mà họ mong muốn. Nguyên nhân 11Tcủa sự 11Tthất bại
này không chỉ thuộc về sự bảo thủ hay cứng rắn trong đường lối, chính sách đối ngoại
của triều Nguyễn, mà còn do 6Tnhững âm mưu 6Tchính trị của 11Tnước 11TPháp. Những sứ giả
người Pháp sang Việt Nam thường với ý đồ phô trương thanh thế, lực lượng và có
những yêu cầu vô lý khó chấp nhận, thậm chí có những 11Tsứ 11Tđoàn đi mang theo nhiều giáo
sĩ xâm nhập trái phép lãnh thổ Việt Nam. Đến năm 1832 thì Pháp hoàn toàn không tìm
cơ hội giao thương và tiếp xúc chính trị với Việt Nam nữa. Tại thời điểm này ở Pháp
84
cuộc cách mạng tháng 7 - 1830 đã đưa Louis Philippe lên 34Tcầm 34Tquyền, mở đầu thời kỳ
thống trị của giai cấp đại tư sản. Louis Philippe thực hiện chính sách đối ngoại nhượng
bộ nước Anh và Nga, để củng cố quyền lực trong nước và đối phó với phong trào công
nhân đang phát triể n mạnh mẽ. Do vậy, chính phủ Pháp tạm gác lại vấn đề quan hệ với
Việt Nam.
Từ năm 1825 cho đến 1831 chính sách của Minh Mạng đã giới hạn dần dần hoạt
động của Pháp, trên lĩnh vực thương mại lẫn truyền giáo. Chính sách đối ngoại này
cũng nằm trong khuôn khổ của đường lối ngoại giao “không phương Tây” của triều
Nguyễn. Từ chối ký kết các thương ước và các tiếp xúc chính trị không có nghĩa là
Minh Mạng “bế quan, tự thủ”, và quay lưng hoàn toàn với phương Tây. Năm 1831,
Eugène Chaignea u khi viết thư báo cáo với bộ trưởng ngoạ i giao Pháp, ông thừa nhận:
“sản phẩm của Pháp được ưa chuộng hơn là sản phẩm của Anh, cho nên bán được
nhiều, thêm vào đó tại Việt Nam dư luận quần chúng và triều đình vẫn còn quý mến
người Pháp” [140, 319]. Đây là một nhận xét khách quan, và cũng phần nào minh
chứng rằng đến thời điểm này, triều Nguyễn còn chưa đóng chặt cửa và bài ngoại một
cách mù quáng.
Từ 1832 trở đi lịch sử biến chuyển nhanh chóng, tại nước Pháp dưới sự thống trị
của nền quân chủ tư sản do Louis Philippe đứng đầu, cuộc cách mạng công nghiệp đã
được tiến hành, nền kinh tế Pháp trải qua một giai đoạn phát triển quan trọng và đòi hỏi
thêm thị trường. Trong nước, triều Nguyên tăng cường và củng cố nền chuyên chính
trung ương, đặc biệt là sau cái chết của Tổng trấn Lê Văn Duyệt 4T(8 -1832), 4Ttriều đình
bãi bỏ chức Tổng trấn Gia Định Thành, chia Gia Định thành 6 tỉnh trực thuộc trung
ương. Năm 1832, lấy lý do tàu thuyền đến Việt Nam ít hẳn đi, công việc của Ty thương
bạc không còn nhiều, vua Minh Mạng ra lệnh bãi b ỏ Ty thương bạc.
Năm 1833, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khô i khởi binh dấy loạn, chiếm
cả 6 tỉnh miền Nam. Triều Nguyễn phải tập trung sức lực dẹp suốt 4T2 4Tnăm mới yên. Vụ
biến Lê Văn Khôi đã đặt vấn đề ngoại xâm một cách cụ thể cho triều Nguyễn suy ngẫm.
Chúng ta biết Lê Văn Khôi đã cầu cứu Xiêm La và trong cuộc nổi loạn này còn có sự
tham gia của các giáo sĩ người Pháp. Có nhiều nguyên nhân để Minh Mạng tăng cường
đường lối đối ngoại biệt lập với Pháp, nhưng nguyên nhân chính yếu vẫn là độc lập an
ninh của quốc gia có nguy cơ bị xâm phạm. Ngoài ra, vấn đề an ninh chính trị, vấn đề
85
tôn giáo, vấn đề tập quyền... cũng là những nhâ n tố ngăn cản quan hệ Việt Nam - Pháp
tiến triển thuận lợi. Từ năm 1832 đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Pháp,
hoàn toàn không mang tính ch ất ôn hòa nữa .
Cho đến năm 1839 cả châu Á bị rung chuyển bởi những loạt đại bác của thực dân
Anh, mở đầu cho việc can thiệp quân sự vào Trung Hoa. Cu ộc chiến tranh thuốc phiện
là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho các 22Tnước 22Tphong kiến Á châu còn đang “đóng kín
cửa”. Trung Hoa, quốc gia tiêu biểu cho Á Đông đang bị các cường quốc tư bản xâu xé.
Có thể nói “Minh Mạng đã được đánh thức do những biến động ở Trung Quốc” [66,
118]. Nhà vua ý thức nguy cơ trước mắt đang đe dọa độc lập tự chủ của đất nước. Đó là
lý do sâu xa khiến ông quyết định điều chỉnh đường lối ngoại giao cổ truyền tự thủ thụ
động sang đường lối ngoại giao cởi 6Tmở 6Thợp tác với phương Tây trong những năm tháng
cuối đời mình.
Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất ở Trung Quốc cùng với việc “bài đạo”
kéo dài ở trong nước gây rối ren và mất nhân tâm xã hội là hai nguyên nhân lay động cái
tư tưởng “bất biến”, “bất dịch” trong ý thức vua quan nhà Nguyễn. Minh Mạng hiểu rõ,
nếu tiếp tục khư khư 6Tđường 6Tlối đối ngoại như cũ, một cuộc xung đột Việt - Pháp có thể
xảy ra giống như ở Trung Quốc. Ông cho rằng: “nên thăm dò ý đồ các nước châu Âu
hầu đi đến một thỏa hiệp về đạo Thiên Chúa, cũng như về buôn bán” [97-53].
Đối với các nước phương Tây, sau khi chiến tranh thuốc phiện kết thúc với phần
thắng thuộc về Anh quốc, đã gây nên một sự phấn khích cho các nước Âu - Mỹ, giấc
mộng bành trướng tại châu lục rộng lớn này trở thành một hiện thực gần gũi hơn đối với
các nước phương Tây. Triều đình Huế nhận thức nhanh chóng vấn đề trên, tiếp theo đó
là sự bất thành của việc “cấm đạo”, “bài đạo” ở trong nước, có thể nhận thấy, dù có
ngăn cản, hạn chế, việc truyền đạo vẫn cứ được tiến hành. Việ c “bài đạo” và phát triển
lên thành “sát đạo” trong nước kéo dài cho đến tận năm 1838 vẫn chẳng đem lại một kết
quả thiết thực nào. Càng ngăn cấm thì lòng tin của giáo dân càng gia tăng, có
nhiều 6Ttrường 6Thợp “tử vì đạo” xảy ra.
Vua Minh Mạng nhận thức rõ đường lối đối ngoại của mình sẽ không có hiệu quả
thực tế trong hoàn cảnh này. Tình hình mới đã đặt triều đình Huế đứng trước sự lựa
86
chọn: Tiếp tục đi theo con đường ngoại giao kiểu phương Đông, hoặc mở cửa tiếp xúc
với phương Tây. Minh Mạng đã chọn con đường thăm dò để “mở cửa”.
Cuối năm 1839, để đối phó với tình hình đang biến động dồn dập xảy ra xung
quanh, Minh Mạng cho tăng cường củng cố phòng bị những nơi quan yếu, hải cảng (cửa
Hàn, An Hải...), tăng số lượng thuyền chiến... Điều này cho thấy Minh Mạng khi bắt
đầu thăm dò để đổi mới đường lối đối ngoại, ông vẫn có ý thức tăng cường sức mạnh
phòng bị đất nước, đề cao cảnh giác với bên ngoài. Sau đó ông bắt đầu tiến hành các
bước thăm dò để đi đến một chính sách hợp tác với phương Tây:
- Bước đầu tiên, Minh Mạng nghiên cứu tình hình hoạt động của những nước tư
bản Âu - Mỹ tại châu Á. Để nghiên cứu hoạt động của Anh tại Xiêm La, 6Ttriều 6Tđình phái
2 điệp vụ thạo tiếng Xiêm La, có dấu ấn của chính quyền Xiêm La đóng trên người,
sang Xiêm La làm nhiệm 22Tvụ 22T(“Hà Tiên phái thám tử là Nguyễn Văn Nhũ, Lâm Văn
Thành sang trinh thám nước Xiêm... khi trở về báo cáo tình hình... vua đặc thưởng cho
100 quan tiền, lại sai sang lần nữa để thăm dò sau” [71, XXI, 235]). Tháng 11 năm
1839, vua phái 5 sứ đoàn đi theo đường biển chia thành 4 khu vực: -Batavia (một quần
đảo nhỏ ở42T Tây 42TBắc đảo Bornéo thuộc khu vực quần đảo Nam Dương), -Tambelan,
-Calcutta- và Singapo. Phái đoàn đến Batavia do Tham tri Đào Tri Phú làm chính biện,
ngoại lang 42TTrần Tú 42TDĩnh làm phó biện, đến Batavin tìm cách tiếp xúc với người Hà Lan,
người Pháp, dò hỏi tin lức. đến năm 1840, triều đình Huế còn cử thêm một phái đoàn
đến Batavia nữa để tìm hiể u tình hình và gặp gỡ buôn bán với người Âu.
- Phái đoàn thứ hai do ngự lang Trần Văn 6TBửu 6Tvà quan 6Tthư 6Tviên ngoại lang Cao
Hữu Tán làm chánh, phó biện đến Tambelan với mục đích chính là tìm hiểu chính sách
thống trị của Anh lại nơi đây.
- Phái đoàn thứ ba đi vòng vịnh Xiêm La, theo eo hiển Malacca đến đảo Pinang
(một đảo nhỏ nằm sát Mã Lai, chịu sự thống trị của Anh), rồi vượt vịnh Bengal tới
Calcutta (Ấn Độ), cũng nh ằm tìm hiểu chính sách thuộc địa của Anh và mua sản phẩm
của phương Tây đem về nước.
- Phái đoàn thứ tư và thứ năm đều đi Singapo, một thuộc địa của Anh. Nhìn chung,
cả năm đoàn đi sứ đều nhận lãnh những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với nước nhà.
Đó là theo dõi, nghiên cứu tình hình khu vực, các chính sách của Anh, Hà Lan... đối với
87
các nước trong khu vực Đông Nam Á và kiêm luôn nhiệ m vụ mua hàng hóa v ật dụng ở
châu Âu về phục vụ cho việc quân nhu ở triều đình.
- Bước tiếp theo, Minh Mạng cử sứ đoàn sang Anh và Pháp nhằm mục đích
thương thuyết và thiết lập quan hệ chính thứ c với hai nước này. Các sứ đoàn có nhiệm
vụ làm việc để đi tới ký kết một hiệp ước liên minh 11Tchính trị 11T- kinh tế với Anh, Pháp và
mua hàng hóa. S ứ đoàn sang Pháp do quan tư vụ Trần Viết Xương dẫn đầu, quan tư lại
Tôn Thất Thường làm phó đoàn, cùng đi còn có hai thông ngôn (một tiếng Anh và một
tiếng Pháp).
-Tháng 11 năm 1840, sứ đoàn Việt Nam đến Pháp, Trần Viết Xương vận động xin
gặp hoàng đế Pháp, nhưng Louis Philippe đã từ chối, 42T“các 42Tphái bộ truyền giáo nước
ngoài, để ngăn chặn việc ký kết một hiệp ước mà 42Thọ 42Tsợ phải gánh chịu phần thua thiệt,
đã mưu mô vận động ở triều đình, đã nói về vua Minh Mạng như một kẻ thù quyết liệt
của tôn giáo và Giáo Hoàng cũng phản đối” [97, 53]. Vài tháng trước khi phái đoàn
Việt Nam sang Paris, Giáo Hoàng Grégoire XVI đã viết mội lá thư cho các giáo sĩ ở
Việt Nam nói về cảnh khổ cực của giáo sĩ Pháp tại Việt Nam và cảnh báo cho thế giới
đang có sự “diệt đạo” ở Việt Nam. Bức thư đã 42Tgây 42Tnên sự căm hờn trong giới Thiên
Chúa giáo tại Pháp. Cha cố Affre, giám đốc Chủng viện Paris cũng viết thư lên vua
Pháp “cuối bức thư là lời khẩn thiết xin vua ra uy quyền đối kháng triều đình Huế” [12,
237]. Tất cả sự chống đối đó, cộng thêm việc Pháp bắt bẻ sứ thần ta không mang quốc
thư và thành phần sứ không thuộc phẩm hàm đúng hàng sứ giả (Trần Viết Xương thuộc
hạng Chính L ục 42TPhẩm 42Tmà nguyên tắc Chánh sứ phải là quan Nhị phẩm). Phía Pháp cho
rằng chánh sứ của ta không 11Tthể 11Tđại diện chính thức của vua Nguyễn. Có thể nói đây là
cơ hội sau cùng cho mối quan hệ Việt - 6TPháp 6Tnhưng đã bị bỏ lỡ. Theo một vài ý kiến đã
có 6Ttừ 6Tphía Pháp thì “ việc ngoại giao này thất bại do tính cố chấp của chính quyền Pháp
qua sự xúi giục của bè phái Thiên chúa hiềm tị mù 6Tquáng” 6T[128,240]. Thực ra, đây chỉ là
một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của phái đoàn Việt Nam tại Pháp và
Anh. Triều đình Huế không tạo ra được một dư luận tốt cho sứ đoàn, công việc chuẩn bị
cho sứ thần còn có sơ suất mặc dù chúng ta biết là Minh Mạng chi phí cho sứ đoàn này
một số tiền khá lớn (20000 quan Pháp) [12,239].
Sau thất bại ngoại giao tại Pháp, sứ đoàn của Việt Nam lên đường sang nước Anh.
Tại đây, “dựa vào lời cùa Crawfurd, Palmerston lừ chối liên giao với Việt Nam... với
88
lời khước từ của Bộ trưởng ngoại giao nước Anh, sứ ta mục đích lại bất thành”
[128,239] - Không 6Tthành 6Tcông trong sứ mệnh ngoại giao ở cả hai nơi - chủ yếu là ở
Pháp, đoàn Việt Nam lên đường trở về nước. Khi đoàn vế 6Ttới 6THuế, vua Minh Mạng đã
băng hà vào ngày 21 tháng 1 năm 1841.
Trong 20 năm trị vì vua Minh Mạng đã thực hiện một đường lối ngoại giao rõ ràng
có định hướng, có điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Dưới thời Minh
Mạng, Việt Nam trở thành Đại Nam có uy tín và thể hiện được sự tự cường trong khu
vực. Đi theo đường lối ngoại giao đối với phương 43TTây 43Tđược định ra từ thời Gia Long,
đường lối ngoại giao biệt lập khép kín, mà hầu như phần lớn các quốc gia Châu Á đều
áp dụng trước sức ép của tư 43Tbản 43TÂu Mỹ, Minh Mạng đã mong muốn duy trì, bảo vệ
nghiêm ngặt trật tự xã hội của Việt Nam. Vừa lên ngôi Minh Mạng đã tránh tiếp xúc
với 43TPháp, 43Ttránh né và tiến tới việc không quan hệ với Pháp. Tuy vậy, trong vòng 10
năm đầu, dù có hạn chế tiếp xúc với Pháp nhưng triều Nguyễn không thực sự “đóng
cửa”, người phương Tây đến thì theo lời Minh Mạng, ông “không cự”.
Trên lĩnh vực thương mại, trong những năm đầu 60Td ư ớ i 60Ttriều Minh Mạng, vẫn được
tiến hành bình 6Tthường 6Tvới người Âu. Việc truyền đạo cho đến năm 1825 vẫn được tiến
1TQuan 1Thệ Việt - Pháp vào 78Tđầu 78Tthế kỷ 19 không g ặp nhiều thuận lợi còn do nhữ ng ý
triển dễ dàng, chưa hề bị cấm đoán khắc nghiệt
đồ đen tối của Pháp. Nhiều phái đoàn Pháp đã sang Việt Nam và chở theo nhiều giáo sĩ,
xâm nhập trái phép vào nước ta. Trường hợp tàu Favorite của La Place (1830) là một ví
dụ điển hình, ông này cho người lên dò xét và vẽ địa thế núi Non Nước 42Tở
Đà 42TNẵng... 57TTất 57Tcả những sự kiện xảy ra 39Ttrong 39Tvà ngoài nước làm cho triều đình Huế gia
tăng sự nghi ngờ Pháp, và dần dần tiến tới chỗ không quan hệ với Pháp, không quan hệ
để tự thủ và phòng vệ đất nước.
Đường lối, chính sách ngoại giao trên của Minh Mạng nằm trong phạm vi ngoại
giao phong kiến Á Đông. Triều Nguyễn không có quan hệ ngoại giao chính thức với
Pháp và các nước phương Tây dù có lý do biện minh, nhưng phần nào cũng tự tách rời
ra khỏi hiện thực quốc tế. Điều đó góp phần nào tạo nên ý thức bảo thủ và kém linh hoạt
đổi mới trong đường lối đối ngoại của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19.
89
Dưới triều Minh Mạng, cơ quan giao t hiệp với nước ngoài là Thương bạc bị đóng
cửa, trong bộ máy nhà nước phong kiến Nguyễn thiếu hẳn một bộ phận, một cơ quan
chuyên trách về phương Tây. Các quan lại cao cấp của triều đình được cử ra tiếp sứ, hay
đi công vụ nước ngoài đều là những người học giỏi, đỗ đạt và được đào tạo trên nền
tảng nho giáo và ngoại giao theo kiểu nho giáo nên khi đi đến các nước tư bản không
thể phù hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ ngoại giao được.
Một vấn đề mà chúng ta không thể né tránh hay phủ nhận là chính sách “bài đạo”
dưới triều Minh Mạng. Đây là nhân tố tạo nên một cản trở, khó khăn lớn trong quan hệ
Việt Nam - Pháp thời kỳ này. Chính sách này bắt nguồn từ nhu cầu tự vệ và ý thức của
giai cấp phong kiến cầm quyền trong vấn đề bảo vệ toàn vẹn độc lập 6Tdân 6Ttộc và thống
nhất văn hóa truyền thống, bởi lẽ vào “thời điểm lịch sử xảy ra cấm đạo gay gắt nhất
của nhà Nguyễn cũng chính là thời điểm chủ nghĩa thực dân phương Tây đang ở vào
giai đoạn triển khai mạnh mẽ nhất, cũng như sự truyền bá đạo Thiên Chúa 30Tđã 30Tbiến chất”
[31, 26]. Truyền đạo trong thời điểm này không chỉ là truyền bá tôn giáo mà có cơ sở để
chúng ta nghi ngờ về sự gắn với âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Dưới thời vua
Minh Mạng, nhiều cha xứ người Pháp đã báo nhiều tin quan trọng cho chính ph ủ Pháp
và cũng 42Tcó 42Tnhiều giáo sĩ, như Taberd, Gagelin 57Ttheo 57Ttàu La Rose vào Việt Nam năm 182,
Régereau theo tàu Thélis vào Việt Nam năm 1825. Triều Nguyễn đã không thể làm gì
khác hơn là ngăn chặn mối nguy hại đến với đất nước từ việc truyền đạo, dù cho qua
chính sách “cấm đạo”, nét lạc hậu trong tư duy Nho giáo được phản ánh khá rõ so với
hiện thực khách quan đang tồn tại. Và với việc “cấm đạo”, triều Nguyễn 30Tđã 30Ttỏ rõ một
cách ứng xử lúng lúng, vụng về đối với nước Pháp.
Chính sách cấm đạo dưới triều Minh Mạng được phản ánh qua các chỉ dụ cấm đạo
sau 42Tđây:
- Năm 1825, khi Vannier và Chaigneau rời Việt Nam thì sự việc các giáo sĩ lén
trốn ở lại cửa Hàn 30Tđã 30Tdẫn đến việc ra chỉ dụ tháng 2 -1825. Mục đích chính của chỉ dụ
này là ngăn ngừa giáo sĩ ngoại quốc 42Txâm 42Tnhập trái phép vào Việt Nam (chính sử triều
Nguyễn không ghi l ại chỉ dụ này)..
90
- Chỉ dụ cấm đạo năm 1827 chủ yếu kêu gọi các giáo sĩ tập trung về Huế làm
nhiệm vụ dịch thuật. Các cha cố và người Pháp đến Huế như: Taberd, Gagelin...đều
được cấp tiền gạo. Chỉ dụ này thực ra nhằm kiểm soát hoạt động của giáo sĩ Pháp.
- Cuối năm 1830, việc cấm đạo được tiến hành nghiêm ngặt hơn, nhiều chỉ dụ
được ban hành. Chỉ dụ năm 1833 có nội dung cấm đạo đối với dân chúng trong cả nước.
Chỉ dụ năm 1836 mang tính chất sát đạo. Lần đầu tiên triề u Nguyễn xác định mục đích
cấm đạo là bởi giáo sĩ ngoại quốc phạm tội do thám. Tiếp đó, triều Nguyễn còn ban ra 3
chỉ dụ nữa vào năm 1835 (dành cho các 42Ttỉnh 42TThanh - Nghệ - Tĩnh), và 2 chỉ dụ vào năm
1839 (đây là 2 chỉ dụ mật).
- Như vậy, dưới triều Minh Mạng có 5 chỉ dụ liên quan đến vấn đề “cấm đạo”,
nhưng Minh Mạng và triều thần đã không thể “cấm đạo” có hiệu quả mà còn tạo ra một
dư luận quốc tế không đồng tình với Việt Nam, bất lợi cho việc thiết lập các mối quan
hệ ngoại giao với phương Tây vào cuối đời Minh Mạng. Tháng 1 năm 1841, Minh
Mạng băng hà trong khi toan tính dự định “mở cửa” trong những năm cuối đời của ông,
và nhữ ng cố gắng ngoại giao đã không thành hiện thực.
3.2.4. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và đầu
thời Tự Đức (1847 - 1883):
Ngày 12 – 2 - 1841, Thiệu Trị trở thành vua lúc ông 34 tuổi. Thiệu Trị chỉ ở ngôi 7
năm, ông không đủ lực cũng như thời gian để thay đổi nội dung, tính chất mối quan
hệ 43Tvới Pháp.
Mới lên ngôi, Thiệu Trị đã phải đối phó với rất nhiều cuộc khởi nghĩa 42Tở 42Ttrong nước
như khởi nghĩa ở Tây Ninh, Hà Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long... Nhiều cuộc nổi dậy
liên miên đã tạo nên sự bất ổn, rối ren ở trong nước. Bên ngoài thì tình hình tại Chân
Lạp có nhiều biến động, nhân dân Chân Lạp nổi dậy phản kháng sự độc đoán, chuyên
quyền, nhũng nhiễu của quan lại Việt Nam. Vì thế vừa lên ngôi Thiệu Trị đã phải xuống
chiếu rút hết binh về nước. Toàn cảnh chính trị thời Thiệu Trị gây nhiều khó khăn cho
ông. “Thiệu Trị ở ngai 7 năm đã phải đối phó hơn 50 cuộc khởi nghĩa lớn, nhỏ trong cả
nước” [65, 61].
Ngoài ra, vào thời Thiệu Trị, áp lực của phương Tây tiếp tục gia tăng 42Tở 42Tvùng Viễn
Đông. Tại Trung Quốc, các nước tư bản đã hoàn toàn lấn át được triều Mãn Thanh. Thất
91
bại trong cuộc chiến tranh thuốc phiện, triều Mãn Thanh phải ký điều ước Nam Kinh
vào năm 1842 nhường Hồng Kông cho Anh và phải mở 5 cửa bể cho tàu thuyền ngoại
quốc vào mua bán. Theo gót chân của nước Anh, Pháp cũng đòi quyền lợi của mình ở
Trung Quốc và họ còn đạt được một yêu cầu khác là được tự do truyền đạo 42Tở 42TTrung
Quốc. Đó là những quyền lợi mà Pháp đạt được thông qua hiệp ước Hoàng Phố ký với
nhà Thanh vào n ăm 1844.
Thắng lợi của Pháp tại Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp can thiệp
vào Việt Nam với ý đồ đạt được những quyền lợi tương tự như ở Trung Quốc. “Theo lời
kêu gọi của các nhà truyền giáo nền quân chủ tháng 7 lúc đó nghĩ là cần can thiệp vào
Việt Nam để có những sự đặc nhượng tương tự” [97, 54]. Từ năm 1835, Pháp đã có
Lãnh sự quán ở Manille và đến năm 1839 thì đổi thành Tổng Lãnh sự quán. Từ năm
1840 đến năm 1841, Pháp đã 43Tgầy 43Tdựng được cơ sở ở vùng biển Trung Hoa, hải quan
Pháp đã hiện diện ở các Hải cảng thuộc Manille, Macao, Batavia, Singapo, Hồng
Kông... và Pháp bắt đầu nhắm đến Việt Nam.
Đường lối chính sách đối với phương Tây, đặc biệt đối với nước Pháp thời Thiệu
Trị không có gì thay đổi so với thời Minh Mạng. Nhưng Thiệu Trị tỏ ra ôn hòa hơn
trong vấn đề truyền đạo. Ông đã ra lệnh phóng thích 5 giáo sĩ Pháp đang chịu án tử hình
(các giáo sĩ đ ó là: Miche, Duclos, Galy, Berneux, Charrier). Trong năm 1845 và 1846,
Thiệu Trị ân xá 2 lần cho vị giáo sĩ ngoan cố bất chấp luật lệ Việt Nam là Lefèbre và trả
ông này về lại Singapo. Nhìn chung Thiệ u Trị có những nhân nhượng trong v ấn đề tôn
giáo, theo ông “phải tìm nhiều cách để giảng dụ, khai hóa, khiến cho đổi lỗi làm lành,
chứ nếu đều gia hình pháp cả thì e có quá đáng” [26, 100]. Triều Nguyễn bắt đầu hòa
hoãn nhân nhượng thì lúc này Pháp đã xúc tiến công việc gây hấn can thiệp vào nước ta.
Năm 1843 một chiếc tàu Pháp là Erigone đến Đà Nẵng, viên thuyền trưởng là
Cécille lập một bản báo cáo gởi về chính phủ Pháp. Trong bản 43Tbáo cáo 43Tcủa mình
Cécille đề nghị chính phủ Pháp nên can thiệp vào Việt Nam để đổi lại vấn đề tự do buôn
bán và truyền đạo. Đề nghị của Cécille đã không được chấp thuận, nhưng một năm sau,
khi ở Huế không còn giáo sĩ Pháp nào bị giam cầm nữa, Pháp cử 2 chiến thuyền là
Victorieuse và La Gloire dưới sự chỉ huy của La Pièrre và Rigaull de Genouilly đến Đà
Nẵng. Hai viên chỉ huy trên khi đến Đà Nẵng đã đệ quốc thư lên vua Thiệu Trị phản đối
sự cấm đạo, và yêu cầu “vua theo gương Trung Quốc đã không ngăn cản việc này” [75,
92
405]. Đây chỉ là cái cớ để Pháp khiêu khích gây sự với triều Nguyễn. “Trong mục đích
đó Pháp đã phái đ ến hai tàu chi ến do Rigault de Genouilly điều khiển, y đưa ra tối hậu
thư đòi rút lệnh trục xuất và đạo Thiên Chúa phải được tự do truyền giáo tại Việt Nam
như tại Trung Quốc. Trong cuộc thương thuyết tại Đà Nẵng, Pháp thấy các thuyền
buồm Việt Nam đến gần, chúng liền tấn công mà không một lời báo trước và đánh đắm
toàn thể đoàn thuyền.” [97, 54]. Do sự khiêu khích của Pháp mà quan hệ Việt Nam với
Pháp trở nên căng thẳng. Vua Thiệu Trị đã bàn với triều thần việc chiến tranh, vua cho
tăng cường đồn lũy, đúc thêm súng... Trư ớc đó, Thiệ u Trị đã thực hiện một chính sách
hòa dịu với Pháp, điều đó gây nên một sự lạc quan trong nước, 43Tcác 43Tgiáo sĩ và giám mục
cũng tin là “sắp đến ngày hòa bình rồi” [26, 100]. Nhưng Pháp đã phá hoại không khí
hòa bình đó, gây nổi bất bình trong triều thần nhà Nguyễn. Trước 43Tsự gây 43Thấn của Pháp,
Thiệu Trị giận dữ và ban dụ “cấm đạo” trở lại. Trong lúc tình hình đang căng thẳng,
triều đình Huế còn chưa có đối sách thích hợp để giải quyết mối quan hệ với Pháp thì
6TTừ năm 1843 - 1847, Pháp đã phái thuyền tới Đà Nẵng 3 lần để thị uy Triều 6TNguyễn
Thiệu Trị qua đời.
đang đối diện với thách thức lớn của thời đại, trách nhiệm đối với đất nước của triều đại
phong kiến này càng nặng nề hơn trước gấp bội.
Cuối năm 1847, Tự Đức lên ngôi. Chính sách không quan hệ với Pháp vẫn đang
được triều Nguyễn thực hiện. Vào những năm 1848 -1849, cuộc cách mạng tư sản đã và
đang bùng n ổ trên khắ p lục địa châu Âu. Tại nước Pháp, cuộc cách mạng 6Ttư 6Tsản này đã
lật đổ sự thống trị suốt 18 6Tnăm (6T1830 -1848) của nền quân chủ 6Ttháng 6T7. Mội thời gian
ngắn sau đó, nền đế chế II được thiết lập với sự kiện Napoléon III lên ngôi. Nước Pháp
tiếp tục cuộc cách mạng công nghiệp, kinh tế Pháp đạt những thành tựu nhất định và
Napoléon III quyết định đẩy mạnh chính sách bành trướng thuộc địa. Theo 43Ttài 43Tliệu của
Tiến sĩ Cao Huy Thuần thì: “Đệ nhị đế chính cũng quyết tiếp tục và mở rộng chính sách
bành trướng thuộc địa mà vua Louis Philippe đã bắt đầu...” [26, 112]. Khi Napoléon III
quyết định can thiệp quân sự vào Đà Nẵng, ông ta đã hành động bởi sự chi phối sâu sắc
của tình hình trong nước Pháp “là một chế độ muốn thành độc tài, đế chế mới sinh cần
có những thành công quân sự mà nó có thể hy vọng 43Tở các 43Tcuộc viễn chinh xa xôi để
vuốt ve tự ái dân tộc ..” [97, 58]. Tham vọng lớn lao 6Tnhư 6Tthế, nhưng cho đến 1852 thì
tình hình nước Pháp chưa cho phép Pháp can thiệp mạnh vào Việt Nam.
93
Tự Đức kế vị ngai vàng trong hoàn cảnh nước ta khó khăn hơn bao giờ hết. Trong
nước thì tài chính của triều đình cạn kiệt, Thị tả tham tri bộ Công là Trương Quốc Dụng
dâng sớ tâu “thi lực trong dân, so với năm trước mười 43Tphần 43Tkém đến năm sáu” [69,
282]. Tự Đức vốn là ông vua chuộng văn thơ, tính tình nho nhã hiền lành, khi lên cầm
quyền cũng tự nhận trong “Khiêm cung ký” về tình hình đất nước như sau : thương mại
bế tắc, dân chúng đói kém. Tình hình càng thêm phức tạp bởi việc Tự Đức lên ngôi đã
gây nên một sự phản ứng mạnh mẽ của người anh cùng cha khác mẹ. Đương đầu với
những phức tạp trong nước, đối diện với đại họa “bạch quỷ”, những tham vọng của
phương 42TTây, 42Tvua Tự Đức không hề có một sự đổi mới nào trong nội trị và ngoại giao.
Thực tế chứng mình rằng, cuối thời Minh Mạng, ông vua này đã có ý thức đổi mới trên
lĩnh vực đối ngoại nhưng ông không thành công. Việt Nam vẫn tiếp tục đóng cửa trong
quan hệ với các nước tư bản phương Tây cho đến thời Tự Đức. Như vậy, quan hệ Việt
Nam và Pháp cho đến thời Tự Đức vẫn gặp khó khăn, đặc biệt là qua vấn đề “cấm đạo”.
Năm 1848, vua ban chỉ dụ cấm đạo, theo 6Tlời 6Tông 6Tthì để 6Tchống 6Tlại 6T“những 6Tkẻ 6Tcả gan
đến 6Tđộ 6Tquyến rũ một hoàng 6Tthân 6Tvà hơn lúc nào hết đang bắt đầu có chỗ đứng trong đời
sống chính trị trong nước” [97, 55]. Tiếp đó trong năm 1851, 1855, vua l ại ban ra 2 dụ
khác, đuổi các giáo sĩ ngoại quốc vẫn lén lút vào Việt Nam. Những nghi ngờ
của 6TTự 6TĐức là có cơ sở. Theo tài liệu của Nguyễn Thế Anh thì: “Tự Đức nghi ngờ các
nhà truyền đạo lại nhúng tay vào đời sống chính trị Việt Nam và bắt đầu một chính sách
chống Thiên Chúa rất gắt gao” [4, 302 - 303]. Đây là nguyên cớ mà Pháp tr ông chờ để
can thiệp vào Việt Nam .
Lúc này Pháp đã kết thúc cuộc chiến tranh Crimê, và bắt đầu quan tâm đến Việt
Nam hơn, các sứ giả lại được cử đến nước ta. Năm 1855, sứ thần nước Pháp là
Montigny, khi sang công vụ ở Xiêm La, cũng nhận lệnh sang Việt Nam, song khi ông
này tới Việt Nam thì Le Lieu de ville 22Tsur 22TAce đã gây sự ở Đà Nẵng rồi. Trước yêu cầu
giao hội của Montigny, Đào Trí, quan khâm sai trấn Dương tâu lên vua Tự Đức: “Tàu
Đại Pháp đến, xin ta phái quan giao hội hòa hảo, mà quan tàu tự xưng là quan nhất
phẩm nước Pháp, chỉ muốn tới kinh cùng quan nhất phẩm mình hội nghi. Vậy xin lựa
phái quan đại thần tới hội” [68, 302]. Trước một vấn đề quan trọng như thế, nhưng vua
Nguyễn lại tỏ ra thờ ơ, không chú tâm lắm, ông bày tỏ sự lãnh đạm của mình bằng việ c
94
phó thác hết cho Đào Trí “hết lòng lo liệu ... phải mượn người nhắc làm gì nữa” [69,
302].
Cuộc hội đàm giữa Đào 6TTrí 6Tvà Montigny kéo dài tới 15 ngày nhưng chẳng được
một kết quả cụ thể nào. Ngày 7 – 2 - 1857 Montigny rời Việt Nam mà không được Tự
Đức tiếp kiến. Viên sứ Pháp này ngang nhiên để lại bản hiệp ước “theo đó hai nước giao
hiếu, người Pháp được đến buôn bán, đặt lãnh sự và đạo Thiên Chúa được tự do truyền
bá” [26, 109]. Những yêu cầu này tất 6Tnhiên 6Tkhông được 6Ttriều 6Tđình Huế chấp nhận, sau
đó đại diện hai nước không còn dịp nào thương lượng nữa. Pháp chuẩn bị can thiệp
quân sự vào Việt Nam sau khi ký hòa ước Thiên 42TTân 42Tvới nhà 6TThanh 6T(Trung Quốc).
Ngày 27 - 6 - 1858, ven bờ biển nước ta, tàu chiến của Pháp đã xuất hiện.
Nhìn chung, trước nguy cơ độc lập dân tộc, an ninh đất nước bị đe dọa nghiêm
trọng, Tự Đức 43Tvẫn 43Tlúng túng đối phó với những khó khăn trong nước, 43Tvà 43Tbế tắc trong
đối sách với nước Pháp. Bộ máy chính quyền Nguyễn thiếu vắng hẳn một cơ quan trông
coi việc ngoại giao với phương Tây, chỉ sau khi mất Gia Định vào tay Pháp, triều
Nguyễn mới đặt lại Thương Bạc viện để coi việc giao thiệp với ngoại quốc.
Thực tế, từ năm 1847, khi thương thuyền Pháp đến bể Đà Nẵng, vua Thiệu Trị đã
nhận thức tình thế nguy hiểm của đất nước, ông đã cho chuẩn bị phòng thủ Đà Nẵng.
Nhưng cho đến 1858, chín năm đã trôi qua, vua Tự Đức vẫn không đủ mạnh dạn để có
một giải pháp đổi thay thích hợp đối phó với Pháp. Ông vẫn tiếp tục chính sách cự tuyệt
giao thiệp với Pháp và chuẩn bị chống ngoại xâm “nếu sau này có những thương thuyền
hoặc chiến hạm của họ đi lại trong bờ bể của ta thì phải đuổi chúng nó ngay và không
được phép cho chúng nó cập bến. Phải luôn luôn canh phòng thật ráo riết...” [13, 32].
Năm 1858, Pháp tấn công Việt Nam, quan hệ Việt-Pháp bước qua một giai đoạn khác.
22Tnước đi
22Txâm
Quan hệ giữa hai nước trở thành quan hệ đối kháng, giữa
lược 22Tvà 22Tnước 22Tbị 22T42Txâm 42Tlược.
3.3. Những nhận xét về quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp trong nửa đầu
thế kỷ 19:
Quan hệ Việt - Pháp trong nửa 43Tđầu 43Tthế kỷ 19 phản ảnh trung thực và tiêu biểu nhất
quan hệ giữa một nước phong kiế n châu Á với mội nước tư bản phương Tây trong thời
kỳ chủ nghĩa tư bản toàn thắng trên phạm vi thế giới. Vấn đề quan hệ Việt - Pháp là một
95
trong những vấn đề phức tạp nhất, do vậy từ trước đến nay trong giới nghiên cứu đã có
nhiều nhận định, đánh giá khác nhau. Chúng ta có thể điểm qua một vài hướng nhận
định tiêu biểu:
+ Hướng nhận định mang tính biện minh đơn thuần cho đường lối chính sách
ngoại giao “khép kín” (đóng cửa) để tự thủ, tự cô lập của triều Nguyễn trước 1858.
Hướng nhận định này tìm trong các nguyên nhân khách quan, chủ quan 43Tdẫn 43Ttới sự can
thiệp quân sự của thực dân Pháp để đi tới một kết luận chung là: triều Nguyễn phải chịu
một phần trách nhiệm về việc để cho quan hệ Việt Nam và Pháp ngày càng xấu đi, căng
thẳng và cuối cùng là Pháp gây chiến với ta. Có thể nói đây là những kết luận mang tính
dung hòa, khi lý giải đường lối “đóng cửa” của triều đình Huế là do sự bắt buộc của tình
thế, và do sự thiếu chuẩn bị của giai cấp phong kiến cầm quyền. Đó là sự thách thức yếu
ớt của nội tại xã hội Việt Nam, là sự duy trì một cách bền vững xã hội truyền thống,
không chịu cách 43Ttân 43Tvới nền tảng ý thức hệ nho giáo cổ... Ngoài ra, có ý kiến cho rằng
không thể “mở cửa”, bởi 43Tâm 43Tmưu của Pháp quá rõ ràng; “mở cửa” là mất nước ngay.
+ Hướng phê phán đường lối ngoại giao, quan hệ ngoại giao (đối với
phương 11TTây) 11Tcủa triều đình Huế, nhưng vẫn nhìn nhận nét cố gắng trong nội trị, cũng
như ngoại giao của triều Nguyễn. Tác giả Đỗ Bang (TS Sử học), trong nhiều công trình
nghiên cứu của mình đã cho rằng: “việc bang giao với nước ngoài tuy có giới hạn, tôn
giáo có bị cấm, nhưng triều Nguyễn đã mở tất cả các cánh cửa cho 11Tthuyền 11Tbuôn các
nước...” [8, 21T41], 21Tdù vây, tác giả trên vẫn nhận định triều đình Huế cần thích ứng với thế
giới đang Âu hóa trên các lĩnh vực như ngoại giao và kinh tế, nhưng về mặt này triều
Nguyễn lại “thiếu sáng suốt trong chủ trương, hoặc có những biện 11Tpháp 11Tsai lầm trong
ứng xử, đối phó với các nước phương 21TTây...” 21T[8, 50]. Một số tác giả khác thì đánh giá
triều Nguyễn “chỉ để lại mội xu hướng biệt lập với nước ngoài, làm phương hướng
phòng thủ tốt nhất mà thôi” 21T[59, 21TII, 21T22]. 21TTsuboi một học gia Nhật Bản, cũng có ý kiến
khá uyển chuyển, khi cho rằng: về lý thuyết thì triều Nguyễn “đóng cửa” nhưng thực tế
thì có quan hệ với nước ngoài và Pháp. Theo ông “ Việt Nam thời đó đâu cô lập về mặt
truyền thông và tri thứ c” [110 21T, 49]. 21Tv.v...
Bên cạnh các ý kiến đánh giá dung hòa hai mặt tích cực và hạn chế của đối sách
với phương Tây của triều Nguyễn, còn có nhiều nhận định nặng về lên án vương triều
này.
96
Khá nhiều ý kiến cho rằng triều Nguyễn đã xây dựng một “mô hình kinh tế - chính
trị - xã hội có tính chất bảo thủ” 21T[59, 21TII, 21T22] 21Thay “trung thành mội cách ngu xuẩn với
những trí tuệ của thế giới cũ” [59, II, 16]. Có đánh giá cho là triều Nguyễn ngay trong
thời kỳ thịnh trị nhất (nửa đầu thế kỷ 19) “vai trò của vương triều Nguyễn nói chung
vẫn là tiêu cực xét theo xu hướng tiến bộ của lịch sử” 21T[59,11,121]
Đánh giá của PGS.TS Sử học Nguyễn Phan Quang trong những 22Tcông 22Ttrình nghiên
cứu 43Tgần 43Tđây khá thỏa đáng và hợp lý. PGS. Nguyễn Phan Quang đã nhận định sự tận
tâm, tận lực của các vua đầu thời Nguyễn trong khả năng cho phép của các vua này,
nhưng các vua Nguyễn đã “lựa chọn đường lối cơ bản không phù hợp với những yêu
cầu của xã hội việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ 19...” [53, 15].
Thực tế cho thấy, trong những năm cuối thế kỷ 20, vấn đề triều Nguyễn đã được
đưa ra nghiên cứu, nhìn nhận theo một xu hướng gợi mở hơn, đa dạng hơn. Nhiều công
trình cấp nhà nước đã cung cấp thêm tư liệu mới, những cách tiếp cận, nhận thức mới
khi đánh giá về triều Nguyễn trên lĩnh vực ngoại giao. Đây cũng là vấn đề có liên quan
đến vận mệnh của Việt Nam nửa sau thế kỷ 19. Để có kết luận bước đầu về vấn đề quan
hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn với Pháp trong đầu thế kỷ 19, chúng ta có thể nhìn lại
tiến trình quan h ệ Việt - 43TPháp 43Tqua 2 thời kỳ sau:
+ Thời Gia Long trị vì đất nước 1802 - 1819. Ông định hướng đường lối chiến
lược ngoại giao “không phương Tây”, nhưng mềm dẻo, ôn hòa với Pháp và các nước tư
bản Âu - Mỹ. Gia Long chủ trương không quan hệ chính thức với Pháp trê n bất kỳ lĩnh
vực nào (kinh tế và chính trị), nhưng vẫn tỏ ra thân thiện với người Pháp. Từ 1817 qua
sự kiện Kergariou, Gia Long đã dứt khoát cắt bỏ mọi dự định mà Pháp toan tính đặt ra
với Việt Nam. Đường lối chính sách này xuất phát từ yêu cầu phòng vệ đất nước và bảo
vệ vương quyền họ Nguyễn. Đối sách này được Minh Mạng thực thi dù có điều chỉnh
tùy thời điểm cụ thể, nhưng về cơ bản đây là đường lối chính trị xuyên suốt trong nửa
đầu thế kỷ 19, không có những thay đổi lớn.
+ Quan hệ Việt - Pháp thời Minh Mạng trở đi do vấn đề thương mại và tôn giáo cản
trở, 42Tvà 42Ttrở nên gay gắt căng thẳng vào cuối thời Thiệu Trị.
Nhìn chung, quan hệ giữa 43Tcác 43Tnước phong kiế n Á Đông với các 43Tnước 43Ttư bản Âu -
Mỹ không tiến triển một cách tốt đẹp, chủ yếu là do những lý do kinh tế - chính trị
97
- 6Tquân 6Tsự của các nước phương Tây. Chúng ta có thể nhìn qua một số nước tiêu biểu đi
theo đường lối chính sách như triều Nguyễn (Việt Nam) trong thời điểm này:
Trung Quốc: Vào thời cận đại đây là một thị trường rộng lớn lý tưởng của tư bản
phương Tây đang khao khát thuộc địa. Sự mênh mông của đất nước này, khiến cho
Trung Quốc không trở thành thuộc địa độc quyền của riêng một cường quốc tư bản nào
cả. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 Anh, Hà Lan, Bồ luôn tranh chấp về Trung Quốc. Nhà
Thanh để đối phó với nguy cơ xâm lược của tư bản Âu - Mỹ, cũng đã thực hiện chính
sách “đóng cửa” tuyệt giao với phương Tây để tự vệ. Chính quyền phong kiến Mãn
Thanh ra lệnh phong tỏa các miền duyên hải, cấm trong nước buôn bán với người ngoại
quốc. Năm 1758, chính phủ ban hành đạo dụ hạn chế người Âu buôn bán với Trung
Quốc qua công hành, và ra sức bài đạo Thiên Chúa. Chính sách “đóng cửa” của Trung
Quốc đã đi ngược lại quyền lợi của các nước tư bản, các nước này tìm cách can thiệp
vào Trung Qu ốc. Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần I đã mở đường cho các nước tư bản
vào xâu xé Trung Quốc. Hòa ước Nam Kinh buộc Trung Quốc mở 5 cửa khẩu cho ngoại
quốc vào buôn bán và chứng thực lời của Khang Hy trước lúc băng hà: “trẫm ngại rằng,
trong các thế kỷ sau, Trung Hoa sẽ lâm nguy vì xung đột với các dân tộc phương Tây
vượt biển để tới 43Ttận 43Tđây” [20, 225]. Tất cả các phái đoàn ngoại giao của Anh, Pháp...
tới Bắc Kinh xin thông thương và ký hiệp ước, đều bị nhà Thanh kiêu căng chối từ vì
“lời xin đó trái với tục nhà Thanh...” [20, 226]. Như vậy, cùng với Việt Nam, Trung
Quốc cũng “đóng cửa” đất nước để phòng vệ hiểm họa ngoại xâm đến từ phương Tây.
Đối với Nhật Bản, do hoàn cảnh lịch sử 43Tkhác 43Tbiệt, nên Nhật là nước phong kiến
châu Á tạo nên một kỳ tích trong lịch sử các nước phương Đông: Giữ được độc lập và
trở thành nước đế quốc tư bản duy nhất ở châu Á.
Đầu thế kỷ, Nhật cũng chủ trương “đóng cửa”. Năm 1853 những chiến thuyền Mỹ
đã xuất hiện ven bờ biển xứ mặt trời mọc. Trước áp lực của Mỹ, năm 1854 21TNhật 21Tbuộc
phải ký hiệp ước Kanagawa mở cửa Shimôda và Hakôđatê. Tiế p sau đó, Nhật còn phải
ký một loạt điều ước khác với Anh, Pháp, Nga, nhượng cho châu Âu nhiều quyền lợi.
Năm 1868, sau cuộc “đảo Mạc” thắng lợi, Nhật Hoàng tập trung được quyền lực, và
thực hiện công cuộc cải cách Mê-Di mang tính chất tư sản trên toàn bộ các lĩnh vực để
canh tân đất nước. Chính tại thời điểm Nhật duy tân, thì các nước tư bản đang tranh
nhau quyền lợi ở Trung Quốc. Nước Mỹ thì đang bận khai phá vùng Nam Mỹ, không có
98
điều kiện thuận lợi can thiệp vào nội tình Nhật Bản. Hoàn cảnh đó là nhân tố khách
quan cực kỳ thuận lợi cho Nhật “mở cửa” canh tân đất nước và đuổi kịp phương 42TTây.
Với Xiêm La, nước gần Việt Nam và có quan hệ mật thiết với triều Nguyễn, chúng
ta nhìn ngược dòng lịch sử và thấy rằng từ thế kỷ 15 trở đi, thương 43Tnhân châu 43TÂu đã
đến Xiêm La để buôn bán, và tìm cách gây dựng ảnh hưởng ở Xiêm La. Trước những
chấn động xã hội mạnh mẽ cuối thế kỷ 17, đặc biệt 43Tlà 39T43Tphong 39Ttrào chống sự lũng đoạn
của tư bản nước ngoài ở Xiêm La, trên thực tế, Xiêm La đã thi hành chính sách “đóng
cửa”, mặc dù không có một lệnh cấm nào đối với người châu Âu tới Xiêm La. Cho đến
trước năm 1815 (tức là trước trận Oa-Téc-Lo diễn ra), các nước châu Âu vẫn dành ưu
tiên cho những 43Tcông 43Tviệc 43Tở 43Tchâu Âu. Sau 1818, tình hình đã khác đi, khi quân
đội 38Txiêm 38TLa tiến hành chinh phạt thành công tiểu vương Kêđác trên đ ảo Malacca. Việc
Xiêm La có thể chiếm cả Xê-lango đã dẫn đến việc va chạm quyền lợi của Anh ở phía
Nam, vì năm 1819 Anh đã biến Singapo thành thuộc địa của mình. Năm 1822, Anh b ắt
đầu uy hiếp Xiêm La. Năm 1824, RaMa IV lên ngôi vua Xiêm La và ông hết sức năng
động trong chính sách đối nội, đối ngoại. Chính sách ngoại giao “lựa chiều” của RaMa
III tỏ ra hữu hiệu, từ 1826 - 1839, ông sáu lần tiếp sứ thần phương 43TTây, 43Tđồng thời ông
cũng chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng của đất nước. Năm 38T1 8 5 1 38TRaMa IV lên
kế vị. Ông là người biết tiếng Anh, tiếng Latinh và có quan hệ chặt chẽ với các giáo sĩ ở
châu Mỹ - châu Âu. Lên câm quyền, ông đi theo con đường “mở cửa”, kiên quyết đoạn
tuyệt với những truyền thống cũ không hợp lý của nền ngoại giao Xiêm La. Dù tình thế
lúc đó buộc RaMa IV phải ký những hiệp ước bất bình đẳng với phương Tây, nhưng
RaMa IV biết tìm cách tháo gỡ những ràng buộc thông qua các hiệp ước trên. Ông sáng
suốt nhận định “một quốc gia bé nhỏ như nước ta có thể làm gì, khi mà từ hai mặt hoặc
từ ba phía bị bao vây bởi các quốc gia hùng mạnh?” [66,139]. Từ thực tế lịch sử khách
quan đó, Xiêm La đã tìm cách khai thác mâu thuẫn giữa 43Tcác 43Tnước đế quốc trên đất
Xiêm La để giữ vững độc lập cho tổ quốc.
Nhìn chung, trong lịch sử cận đại vào thế kỷ 19 hiện tượng “chênh lệch” giữa sự
phát triển của phương Tây và phương Đông là một thực tế lịch sử. Đối điện với sự uy
hiếp của tư bản Âu Mỹ, Nhật Hoàng và Xiêm Vương đã có sự điều chỉnh trong đường
lối đối ngoại, để tìm mọi cách giữ được độc lập và phát triển đất nước. Còn Việt Nam,
Trung Quốc và một số nước khác thì rơi vào tình cảnh thuộc địa, phụ thuộc của phương
99
Tây. Như vậy, 11Tdù 11Tđã cố gắng để bảo vệ quyền lực của họ Nguyễn, độc lập chủ quyền của
đất nước bằng đường lối ngoại giao mang tính phòng vệ, xa lánh phương Tây, các vua
Nguyễn cũng 6Tđã 6Ttự làm suy yếu tiềm lực đất nước, không huy động cổ vũ được lực
lượng toàn dân để bảo vệ đất nước hữu hiệu hơn. 43TCác 43Tvua đầu triều Nguyễn vì mục đích
tối cao là độc lập chủ quyền của đất 22Tnước, 22Tđã thực thi một chính sách không giao thiệ p
với Pháp cũng như các n22Tước 22Ttư bản khác. Đây là nguyên nhân có thể biện giải
cho 43Tcác 43Thạn chế dẫn tới sai lầm trong ngoại giao Triều Nguyễn, và cũng là một trong
những yếu tố để có thể kết luận: Triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm trong việc để mất
nước. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng Triều Nguyễn dù “đóng
cửa”, 6Tnhưng 6Tkhông hề ảo tưởng vào vấn đề 11T“bế 11Tquan” này. Tự Đức cũng đã nhận thức
“... nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến là thoái vậy” [16, 325]. Tình thế bắt
buộc các vua Nguyễn không thể làm cách nào khác hơn cách các ông đã làm. Đó là tự
thủ, một kiểu phòng vệ thụ động. Đường lối ngoại giao của các vua đầu triều Nguyễn
không mang tính cô lập một cách tuyệt đối, vì trên thực tế Việt Nam có học tập kinh
nghiệm văn minh phương 42TTây, 42Tcó quan 6Thệ 6Tdù không chính thức với một số nước tư bản,
không xa lánh người Pháp một cách cực đoan cứng nhắc. Nhưng nhìn chung, triều
Nguyễn về cơ bản là một lực lượng 11Tchính trị bảo thủ, nệ cổ và phải gánh chịu trách
nhiệm trước lịch sử về việc 11Tthất 11T bại 11Ttrong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và chủ
quyền của đất nước vào giữa thế kỷ 1 21T9.
100
CHƯƠNG 4: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC
NƯỚC XIÊM LA, CHÂN LẠP, VẠN TƯỢNG TRONG NỬA ĐẦU
THẾ KỶ 19
4.1. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:
4.1.1. Quan hệ Việt Nam - Xiêm La từ đầu cho đến cuối thế kỷ 18:
Việt Nam có nền văn hiế n lâu đời, còn Xiêm La tuy mới xuất hiện như một quốc
gia độc lập vào thế kỷ 14, nhưng là láng giềng, hai vương quốc này có mối quan hệ với
nhau từ khá sớm.
Theo nguồn thư tịch cổ ghi lại lừ thế kỷ 12 người Xiêm La đã có mặt tại
Việt 58TNam 58Tđể buôn bán và sinh sống và đón nhận những ưu ái mà Triều đình phong kiến
Việt Nam dành cho họ. Từ thế kỷ 12 giữa hai nước cũng đã có quan hệ bang giao chính
thức “Nhâm Dần năm thứ 7 (1182) (Tống, Thuần Hy năm thứ 9) nước Xiêm La sang
cống” [99, 5]. Theo tiến sĩ sử học Phan Lạc Tuyên bang giao Việt - Xiêm La được thiết
lập quá muộn “năm 1750 chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) cử phái bộ ngoại giao
mang 58Tthư 58Tsang trách cứ Triều đình Thái Lan nhúng tay can thiệp vào nội bộ Chân Lạp.
Đây là lần đầu tiên có sự bàng giao chính thức giữa Việt Nam và Thái Lan “ [88, 62 -
63].
Từ năm 1750 trở đi, quan hệ hai nước cũng không có gì đặc biệt, cho đến tháng
6-1778 khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm được Gia Định, Ông đã phái cai cơ Lưu Phúc
Trung cầm đầu sứ bộ sang Xiêm La để giao hảo. Năm 1780, Nguyễn Phúc Ánh lại cử
hai viên võ quan của mình sang Xiêm La, đáng tiếc là do có sự hiểu nhầm (có tin đồn
những sứ giả Việt 58TNam 58Tlà gián điệp) nên những viên quan Việt Nam đi sứ đã bị phía
Xiêm La giết hại. Suốt trong thời Nguyễn, quan hệ Việt Nam - Xiêm La đã trải qua
nhiều thăng trầm, lúc hòa hiếu, lúc khó khăn... Năm 1780 Nguyễn Phúc Ánh xưng
vương ở Gia Định và hai năm sau, khi Xiêm La chiếm Chân Lạp, Nguyễn Phúc Ánh đã
cử Nguyễn Văn Thoại, Hồ Văn Tâm sang giúp Chân Lạp, lúc này hai viên tướng Xiêm
La là Chất Tri, Sô Tri đã thương lượng với Nguyễn Văn Thụy, hai bên dàn hòa chiến
trận, cam kết giao hiếu với nhau. Xiêm La còn 6Tlà 6Tnơi trú ngụ của Nguyễn Phúc Ánh
trong những ngày thất thế: 6Tlần 6Tthứ nhất vào tháng 2 năm 1784, ông đã ở lại Xiêm La bốn
101
tháng, lần thứ hai hai mươi sáu tháng (4-1785 - 7-1787). Trong những ngày Nguyễn
Phúc Ánh ở 6TXiêm 6TLa, ông được vua Xiêm La 6Tlà 6TRa Ma 6TI 6Ttrọng đãi giúp đỡ, điều này
cũng khiến vua Gia Long, sau này trong quan hệ với Xiêm La, luôn định hướng mềm
dẻo, khéo léo...
Về phía Xiêm La, từ năm 1782 - 1809 6Tdưới 6Tsự trị vị của vua 69TRa Ma I 6T69T, 6Tông đã tiến
hành một loạt các cuộc chiến tranh xâm lấn những quốc gia nhỏ lân cận như: Chiềng
Xen, Chiềng Rai, Viên Chăn, các quốc gia ở 43Tbán 43Tđảo Malacca. Kết quả những cuộc
chiến tranh xâm lấn đó là các quốc gia như: Pa-ta-nhi, Kê-đát, Kê-lan-tan,
Tơ-ren-ga-nu đều trở thành những nước phụ thuộc Xiêm La. Phong kiến Xiêm La cũng
chờ có cơ hội là nhòm ngó xâm nhập vào Việt Nam. Năm 1783 khi thế cùng, Nguyễn
Phúc Ánh đã cầu cứu Xiêm La, nhân dịp này hai viên tướng Xiêm La là Chiêu Tăng và
Chiêu Sương đem hơn hai vạn quân và ba trăm chiến thuyền sang nước ta can thiệp.
Chiến thắng Rạch Gầm - Soài Mút của Quang Trung Nguyễn Huệ đã làm tiêu tan ảo
mộng xâm chiếm Việt Nam cùa giai cấp phong kiến thống trị Xiêm La. “Người Xiêm
sau cuộc bại trận năm Giáp Thìn, miệng tuy nói khoác, mà lòng thì sợ Tây Sơn như
cọp” [70, 11, 65].
Sau thất bại của Xiêm La trước Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh không còn ý định
nhờ Xiêm La giúp đỡ nữa. Ngược lại, trong những ngày Nguyễn Phúc Ánh lưu 43Tở 43Tđất
Xiêm La, ông đã gíup Xiêm La đánh Miến Điện vào 6Tnăm 6T1786 “Ngài đem quân giúp
Xiêm, sai Lê Văn Duân, Nguyễn Văn Thành đi trước, lấy ống hỏa xô lửa ra đánh. Binh
Diến Điện sợ chạy chết nhiều lắm, bắt sống đến 800 người. Khi trở về vua Xiêm lễ tạ...”
[34, 150].
Dù dư âm thất bại của trận Rạch 42TGầm 42Tcòn đang ám ảnh, song Xiêm La lúc này đang
đi theo đường lối đối ngoại bành trướng xâm lược, nên vẫn tìm mọi cách xâm nhập vào
Việt Nam “vào năm Nhâm Tý (1792). Sau khi sứ giả Việt từ Xiêm La về, Xiêm La lại
đưa thư xin giúp binh nhà Nguyễn để đánh lại Tây Sơn” và “nhà Nguyễn từ chối khéo
quân Xiêm mới rút về” [70, 11, 178].
Nguyễn Phúc Ánh luôn giữ thái độ mềm mỏng, hòa hảo với Xiêm La, nhưng triều
thần nhà Nguyễn đều đã có một bài học kinh nghiệm, là nhờ Xiêm thì có thể đồng nghĩa
với “ đem giặc vào trong nước” [69, 15]. Mặc dù như vậy, hai nước cố giữ quan hệ bình
102
thường và thường qua lại giúp đỡ nhau. Năm 1798, Xiêm La cũng sang cầu cứu Nguyễn
Phúc Ánh. Theo Quốc triều chánh biên toát yếu: “ Năm Mậu Ngọ thứ 19 (1798) Diến
Điện đánh Xiêm, Xiêm sai sứ sang xin quân cứu viện...” [69, 32]. Sự tương trợ giữa hai
nước thời này là nền tảng cho chi ến lược ngoại giao của triều Nguyễn về sau trong đ ối
sách với Xiêm La. Từ năm 1780 đến 1800 chúng ta thấy có nhiều sứ giả Việt Nam được
cử sang 22Tnước 22TXiêm làm nhiệm vụ bang giao:
+ Năm 1750: Chúa Nguyễn Phúc Ánh cử một sứ bộ ngoại giao sang Xiêm La
với nội dung là trách cứ triều đình nước này can thiệp vào nội tình Chân Lạp.
+ Năm 1776: Tổng binh Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ sang Xiêm La cầu viện (ông này
đã bị Xiêm giữ lại).
+Tháng 6 - 1778: Sau khi chiếm Gia Định, Nguyễn Ánh đã phái cai cơ Lưu Phúc
Trung dẫn đầu một phái bộ sang Xiêm La giao hảo và hỏi tin Mạc Thiên Tứ.
+ Năm 1780: Nguyễn Phúc Ánh cử hai võ quan cao cấp sang Xiêm La giao hảo.
+ 1782: Nguyễn Phúc Ánh lại sai Lê Phúc Diễn đi sứ, mang lễ vật sang tặng vua
Xiêm tỏ tình giao hiếu.
+ Tháng 2 - 1784: Nguyễn Phúc Ánh lại sai Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) và
chánh cơ Trung sang nước Xiêm La báo tin thất bại của Chiêu Tăng - Chiêu Sương (2
tướng Xiêm).
+ Tháng 1 - 1796: Nguyễn Phúc Ánh cử Nguyễn Tấn Lượng và Nguyễn Văn Thụy
làm chánh, phó s ứ sang Xiêm La.
+ Tháng 9 - 1797: Nguyễn Phúc Ánh cử Trần Phúc Chất đem quốc thư sang Xiêm
để báo việc binh.
+ Tháng 53T2 - 53T1799: Nguyễn Phúc Ánh cử Nguyễn Văn Thụy, Lưu Phước Tường làm
chánh, phó sứ sang Xiêm, mang quốc thư đến trình vua Xiêm nhờ hỗ trợ thanh thế cho
quân Nguyễn.
Những năm cuối thế kỷ 18, nội tình hai nước Việt - Xiêm La có nhiều biến động
khá phức tạp. Tại Việt Nam, cuộc 22Tnội 22Tchiến giữa Nguyễn 43Tvà 43TTây Sơn đi vào giai đoạn
kết thúc. Ở Xiêm La thì viên lương Chất -Tri 6Tđã 6Tlàm một cuộc lật đổ thành công, 43Tvà 43Tlên
103
ngôi vua, lấy hiệu là RaMa I43T. 43TViệt Nam và Xiêm La vẫn thường qua lại giúp đỡ thăm
hỏi nhau, tuy quan hệ hai nước có lúc xảy ra bất đồng căng thẳ ng, nhưng nhìn t ổng thể
vẫn khá suông sẻ. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất
nước, sáng lập ra triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam,
thì quan hệ Việt Nam - Xiêm La 87Tvẫn 87Ttiếp tục phát triển bình thường.
4.1.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19:
4.1.2.1. Triều Nguyễn và đường lối ngoại giao với Xiêm La:
Khi Nguyễn vương xưng đế, lập ra triều Nguyễn vào đầu thế kỷ 19, thì quan hệ
Việt Nam - Xiêm La bước vào một giai đoạn phát triển mới mới. Ở Xiêm La từ năm
1809, RaMa II lên kế vị ngai vàng, dần dần phát triển thành một cường quốc trong
vùng. Từ đó, đường lối đối ngoại của nước này là mưu toan bành trư ớng về phía đông.
“Trong những năm đầu thế kỷ 19, các triều vua RaMa hướng về phía Đông nhằm chiếm
lĩnh vùng lãnh thổ rộng lớn thuộc Việt Nam, Lào, Campuchia” [55, 78]. Có thể nói đây
là một trong nhiều nguyên nhân gây nên những xáo trộn lớn trong quan hệ Việt Nam
- 38TXiêm 38TLa trong nửa đầu thế kỷ 19. 38TBối 38Tcảnh quốc tế thời cận đại, cũng góp phần tác
động tới quan hệ hai quốc gia châu Á này. Trước sự tăng cường uy hiếp của tư bản
phương Tây, Việt Nam cũng như Xiêm La đều phải có những điều chỉnh trong đường
lối ngoại giao của mình, cố gắng duy trì mối quan hệ láng giềng bình yên để tập trung
đối phó với nguy cơ bị xâm lược.
Phía Việt Nam, Gia Long khi mới lên ngôi 71Tđang 71Tthực thi một đường lối ngoại giao
khá hợp lý, tỏ thiện chí với nước Xiêm, nước đã từng giúp đỡ ông trong những
năm 45Ttháng 45Ttrước đó. Hơn nữa, Việt Nam và Xiêm La trong nửa đầu 45TIhế 45Tkỷ 19 là hai
vương quốc phong kiến có tương quan thực lực 43Tkhá 43Tquân bình.
Ngay sau 71Tkhi 71Tthắng 71Tlợi 71Ttrước 71TTây 71TSơn, 45Tnăm 45T71T1801 71TGia Long 71Tđã 71Tcho sứ 71Tgiả 71Tsang
Xiêm để báo tin mừng. Xiêm vương nhận tin vui, liền cử sứ sang tận Thăng Long để
chúc mừng Gia Long. Năm 71T1 71T803, Gia Long lại cho sứ sang Xiêm La tặng quà và sản
vật... Từ 1802 đến 1807 nhận thấy quan hệ hai quốc gia tiến triển thuận lợi, Gia Long
đã bàn với đình thần chính thức đặt quan hệ ngoại giao giữa hai nhà nước Việt Nam -
Xiêm La. Theo “Đại Nam thực lục” thì: “ vua thấy nước Xiêm cùng ta giữ hậu việc giao
hảo, hành lý đi lại, đường 43Tsá 43Tthông nhau, bèn sai quan Lễ Bộ bàn định trình thức của sứ
104
bộ để gởi sang Xiêm” [ 70, 111, 322]. Trong năm 1807 Gia Long cũng định lệ đi sứ
sang Xiêm La. 71TVề 71Tsố lượng sứ bộ đi Xiêm La, theo Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ
thì: “Từ nay về sau sai sứ đến nước Xiêm, đi đường 45Tthủy 45Tliền chuẩn cho lấy 50 người
làm hạn, đi đường bộ thì lấy 12 người làm hạn...
Nếu nước Xiêm có sai sứ thần đệ quốc thư đi đường biển đến Gia Định, lại đi
đường thủy tiến đến kinh thì số người ở chuyến đi ấy cũng lấy 50 người làm hạn. Nếu từ
trấn Gia Định đi đường bộ tiến đến kinh chỉ chuẩn cho 14 người...” [62, 503].
Những quy định về nguyên tắc ngoại giao của triều Nguyễn đối với nước Xiêm La
thể hiệu tinh thần đối ngoại thân trọng nhưng linh hoạt mềm dẻo. Có một vài trường
hợp phía Xiêm La phạm những sai sót trong triều nghi thì các vua Nguyễn vẫn nể tình
giao hảo từ trước mà bỏ qua. Như năm Minh Mạng thứ 7, sứ Xiêm sang báo tang bà nội
của Xiêm vương, vua Nguyễn cho là việc báo tang này bất hợp lệ, trách cứ nhưng vẫn
uyển chuyển. Theo “Minh Mạng chính yếu” : “Trẫm lấy tình lân bang hòa hiếu với
nhau, không muốn nói trắng ra tất cả...” [72, 111, 372].
Đặc trưng của đường lối ngoại giao đầu triều Nguyễn thể hiện dưới thời Gia Long
là tính hòa hoãn mềm dẻo hợp lý với các lân bang, một sự mềm dẻo có điều kiện và có
nguyên tắc.
Với nước Xiêm La, triều đình Huế hết sức cẩn trọng duy trì tình trạng hòa bình
trong giao hiếu, sử dụng mọi phương cách để duy trì quan hệ ổn định giữa hai nước.
Các vua Nguyễn đã tận dụng mọi khả năng và phương tiện, kể cả mua chuộ c bằng tiền
bạc, vật chất để đạt mục đích trên. Vào năm 1806, vua Gia Long 6Tđã 6Tcấp tiền gạo cho
quân Xiêm La đang đóng quân 43Tở 43Tbiên giới vùng Hưng Hóa của ta cốt “để yên việc biên”
[70,111,273]. Để ứng phó v ới những vấn đề phức tạp trong qua n hệ khu vực như “ vấn
đề 6Tnước 6TVạn Tượng”, “vấn đề nước Chân Lạp”, Triều đình Huế cũng khéo léo tránh
đụng chạm tới Xiêm La, cố gắng giữ thái độ trung lập cho tới giới hạn cuối cùng. Khi
Xiêm La 43Tvà 43TVạn Tượng mâu thuẫn với nhau, Minh Mạng đã bày tỏ ý kiến rằng: Đối với
hai nước đó, không nên đứng hẳn về phía bên này mà tuyệt giao với bên kia. Đó là một
cách ứng xử ngoại giao sáng suốt không thiên kiến, rất ít có một nhà nước nào vào thời
điểm đó lại giữ được mội thái độ ngoại giao trung lập khôn khéo như vậy. Cách ứng xử
105
với triều Nguyễn còn thể hiện tinh thần đối ngoại hòa bình, hòa hợp vô cùng thông
minh và bản lĩnh.
4.1.2.2. Những hoạt động ngoại giao chủ yếu trong quan hệ của triền Nguyễn với
Xiêm La:
Trong 57Tsuốt 57Tthời Gia Long trị vì, có tất cả 16 sứ bộ Việt Nam, Xiêm La qua lại với
nhau. Thời gian này không phải không có những bất đồng trong quan hệ Việt - Xiêm,
nhưng Gia Long đã khéo giữ quan hệ với Xiêm được êm đẹp, bình 57Tthường 43T57Ttheo 43Tphương
châm “không 22Tbỏ 22Tbạn tìm 22Tthù”. 22TVới triều Nguyễn, Xiêm La 22Tlà nước luôn 22T “bằng hàng”
với mình, “cùng chung một dải biển rộng, liên hợp chung trời” [27, 6]. Đó là lý do quan
trọng để triều Nguyễn luôn thể hiện thiện chí trong giao hảo với Xiêm La.
Hoạt động ngoại giao đầu thời Nguyễn với Xiêm La tiến triển thường xuyên, đặc
biệt là khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức 43Tvào 43Tnăm 1807.
Hai 6Tnước 6Ttrao đổi sứ để thông báo tình hình tin tức giữa hai nước: Theo lộ định từ thời
Gia Long, mỗi khi nước Xiêm La có quốc tang và có sự kiện vua mới đăng quang, Việt
Nam sẽ cử 21T2 21Tsứ bộ cùng sang Xiêm La cùng một lúc: Một đoàn sứ sang 6Tphúng 6Tđiếu vua
trước và một đoàn sứ sang mừng vua mới đăng quang.
Năm Gia Long thứ 8 (1809), khi sứ giả nước Xiêm La đến Huế báo tin buồn vua
Ra Ma 6TI 6Tqua đời thì đến 1810 Gia Long liền “sai hai sứ bộ đến nước Xiêm phúng Phật
vương trước và mừng Phật 92Tvương 92Tmới” [62, 504].
Khi Minh Mạng lên ngôi đã sai sứ sang báo tin cho nước Xiêm biết, 42Tvà 42Tsứ Xiêm La
cũng sang Việt Nam phúng điếu vua Gia Long mừng vua Minh Mạng đăng quang.
Đến thời Minh Mạng, ông nhận thấy việc cử hai sứ đoàn sang Xiêm một lần không
hợp lý lắm, nên chỉ quyết định chỉ cử một sứ đoàn đi cùng một lúc làm hai nhiệm vụ
(vừa phúng điế u, vừa chúc mừng).
Ngoài việc trao đổi sứ để thông báo tin tức cho nhau, việc trao đổi sứ còn có ý
nghĩa giao lưu kinh tế - văn hóa, trao đ ổi sản vật địa phương, đặc sản quý hiếm...
Trong những lần trao đổi sứ giữa hai nước, Việt Nam và Xiêm La thường cổ lệ ban
tăng phẩm vật, quà cáp cho nhau. Năm 1803, tặng vật chính thức của Triều đình Huế
gởi đến Xiêm Vương, chúng ta thấy rất hậu 13T“10 13Tđỉnh 43Tvàng, 43Tmỗi đỉnh 13T10 13Tlạng, 100 đỉnh
106
bạc mỗi đỉnh 10 lạng, 1 chiếc đao thanh long, 600 cân sáp ong, 6000 cân đường cát, the
màu 250 tấn. Nhị Vương ở nước ấy: 5 đỉnh vàng mỗi đỉnh 13T10 13Tlạng, 50 đỉnh bạc mỗi
đỉnh 13T10 13Tlạng, 4000 cân đường cát” [62,501].
Thành phần lễ phẩm cho nước Xiêm La nhân các dịp ngoại giao thường là đặc sản
hiếm như: quế, kỳ nam... Lễ phúng điếu thì vật phẩm 95Tít 95Thơn các 13Tlễ 13Tkhác gồm: sáp ong,
đường phèn, đường phổi..
Tặng vật của triều đình Vọng - Các thì gồm: ngọc thạch, áo Mãn châu, thiếc, băng
phiến.
Mỗi dịp sứ Xiêm La sang Việt Nam, Triều Nguyễn luôn có sự chuẩn bị rất chu đáo
và phổ trương thực lực của quốc gia nhằm làm cho nước bạn ý thức 92Tvề 92Tsự giàu mạnh của
mình. Tại những địa điểm mà sứ Xiêm La 92Tngang 92Tqua, triề u Nguyễn đều chỉ thị cho các
địa phương đó cung đón rất chu tất. Lúc sứ 92Tgiả 92Tnước Xiêm đến bên ngoài cửa đông nam
kinh thành, triều đình Huế đã đón tiếp trọng thể (“một viên quan ở đinh ấy mặc triều
phục, viên chức, quan lính 100 người cắm súng, 20 người cầm gươm, có đủ long đình,
tán lọng đón liếp quốc thư sứ bộ vào cổng quán yên nghỉ...” [62, 503]). Từ thời vua
Minh Mạng, khi sứ Xiêm La tới kinh đô Huế, triều đình Việt Nam luôn cử một viên cai
đội dẫn 100 lính tới đầu địa giới Vân Quan đón, đến lúc về cũng bắt biền binh hộ tống
về, mục đích để bày tỏ tình hữu nghị lâu bền của phía Việt Nam.
Trong Châu bản Triều Nguyễn thời Gia Long, chúng ta thấy có một bản kê số
lương, tiền cung đốn 42Tvà 42Tthưởng sứ thần nước Xiêm cùng các khoản khác khi sứ Xiêm La
từ Gia Định đến Huế: “cộng tiề n 1.419 quan, gạo 283 vuông” [49, 1, 191]. Tổng số chi
phí như trên là không nhỏ, điều đó nói lên rất rõ tàng là trong quan hệ ngoại giao với
Xiêm La, Triển Nguyễn rất chu đáo.
Trong thời Nguyễn cũng có những sứ bộ được vua cử đi Xiêm La với những nội
dung đặc biệt: bàn bạc các vấn đề có liên quan đến Việt Nam và Xiêm La, hoặc trao đổi
những thông tin quan trọng khác, liên quan đến an ninh chính trị hai nước. Thời Gia
Long trị vì, vua Xiêm La thường cử sứ sang thông báo cho vua Nguyễn biết những tin
tức liên quan đến sự thông hảo giữa Miến Điện và Tây Sơn, hoặc trong “Mục lục châu
bản” cho biết: “vua nước Xiêm La gởi thơ Bộ Lễ nước Việt Nam nhờ tấu đạt lên vua về
việc Nam Vang đem binh vào ba ngả qua giới hạn đồn trú, rồi cướp trâu bò cùng gia tài,
107
rồi cử binh khiêu chiến, bảo lui binh cũng không lui..” [49, 1, 190]. Cũng trong thời vua
Gia Long vào năm 1810 khi triều đình Xiêm La đem quân chiếm Battambang,
vua 6TChân 6TLạp cầu cứu triều Nguyễn, từ đó nảy sinh ra những bất đồng trong quan hệ
Việt - Xiêm La. Vua RaMa II và Gia long tại thời điểm này đã có những 6Tnhân 6Tnhượng,
dàn xếp với nhau để tránh một cuộc chiến có thể xảy ra do vấn đề Chân Lạp đưa đến.
Đến Triều Minh Mạng, ông thực hiện một đường lối ngoại giao 95Tít 95Tmềm dẻo hơn
cha mình, đặc biệt trong quan hệ với một số nước. Đối với Xiêm La, những bất đồng
vốn có từ trước trong quan hệ hai 22Tnước 22Tđến thời Minh Mạng không thể thương lượng
được, và chiến tranh Việt - Xiêm đã bùng nổ vào 1833. Cuộc chiến Việt Nam - Xiêm La
kéo đài cho đến đời Thiệu Trị. Tuy nhiên, trong thời vua Minh Mạng quan hệ Đại Nam
và 38TXiêm 38TLa không chỉ có bất đồng, tranh chấp mà trái lại, thực tế lịch sử chứng minh
rằng: Minh Mạng 38Tcũng 38Tmềm mỏng, hòa hoãn trong cách xử lý tùy theo trường hợp đối
với nước Xiêm. Điển hình cho thiện chí của vua Minh Mạng đối với Xiêm La là vào
năm 1823 lúc quan hệ Xiêm - Miến xấu đi, vua Miến Điện Ià Bátgiđô đã “đề nghị Minh
Mạng ký kết một liên minh chống Xiêm La. Nhưng Hoàng đế Minh Mạng đã thông báo
bức thư này của Bátgiđô cho triều đình Xiêm biết” [67,59]. Về vụ việc này Quốc sử
triều Nguyễn có ghi 6Tlại 6T“vua nước Diến Điện khiến sứ qua thông hảo... xin ta đừng giao
hiếu với Xiêm nữa. Nghi nghĩ rằng không nên bỏ tình giao hiếu mà gây sự cừu thù,
không cho...lại đem việc ấy báo cho Xiêm biết, Xiêm đưa thư qua tạ” “[69, 124 - 125].
Mục đích trên hết của các vua Nguyễn là “không bỏ bạn gây thù”. Từ năm 1820
cho đến lúc chiến tranh Xiêm - Việt xảy ra vào năm 1833 chúng ta thấy có tất cả 7 phái
bộ chính thức của Việt Nam đi sứ sang Xiêm La:
- Tháng 9 năm 1820 sứ Việt Nam sang Xiêm La báo ta ng vua Gia Long.
- Năm 1822 sứ sang Xiêm La với nhiệm vụ giao hiếu.
- Năm 1824 có 2 sứ bộ sang Xiêm La giao hiếu và 43Tbáo 43Ttin Miến Điện ý muốn gây
chiến với Xiêm La.
Trong năm 1828, 1829 và 1832 Minh Mạng đều cử sứ đi Xiêm La thông hiếu và
bàn bạc những vấn để liên quan đến 2 nước nhằm đi đến giải quyết bằng hòa bình
những vướng mắc tồn tại trong quan hệ 2 nước. Như vậy đến năm 21T121T832 Việt Nam đã cố
108
gắng thể hiện thiện chí của mình trong quan hệ với nước Xiêm La bằng nhữ ng tiếp xúc
ngoại giao hòa bình.
Một điểm son trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La đẩu thế kỷ 19 là vấn đề cứu giúp
người bị thiên tai, hoạn 6Tnạn. 6TBiên niên sử triều Nguyễn còn ghi lại rất nhiều trường hợp
Việt Nam giúp đỡ quân dân Xiêm La ngay trong thời điểm quan hệ hai nước đang khó
khăn. Lúc Nguyễn Ánh chưa lên ngôi vào năm 1789 Xiêm La mất mùa, đói kém đã cho
sứ sang xin Nguyễn Ánh giúp đỡ, Nguyễn Ánh cũng đã gửi tặng một số gạo lớn. Những
sự việc cứu giúp tương tự thường xuyên xảy ra trong quan hệ hai nước. Năm Gia Long
thứ nhất “Thuyền bị nạn nước Xiêm dạt vào phần biển Quảng Ngãi, vua sai
Trấn 6Tthành 6Tcấp tiển gạo cho về” [73, 11, 571]. Các vua Nguyễn có một quan niệm đối
ngoại độ lượng và tiến bộ: “coi dân nào cũng thế, sao nỡ điềm nhiên ngồi nhìn mà
không cứu ư” [70, 11. 752]. Năm Gia Long thứ ba lại có đợt cấp phát gạo cho thuyền bị
nạn của Xiêm ở Gia Định. Năm Gia Long thứ sáu, triều đình Huế lại cấp tiền và 1000
phương gạo và sửa chữa tàu thuyền giúp sứ Xiêm La trên đường đi Trung Quốc bị
bão 43Tở 43TBình Định. Năm Gia Long thứ mười bốn, thứ mười sáu... triều Nguyễn đều có
những hoạt động giúp phía X iêm bị tai nạn, thiên tai 22TV.V..
Việc giúp đỡ, cứu trợ người nước Xiêm được tiếp lục duy trì trong các triều đại
sau. Dưới triều vua Minh Mạng, lúc quan hệ hai quốc gia căng thẳng thì thuyền sứ
Xiêm đi Trung Quốc lạc vào nước ta, Minh Mạng đã tỏ rõ đức độ của một vị vua. Trong
“Đại Nam thực lục” ghi lại lời vua Minh Mạng như sau: “Ta đối với nước Xiêm vốn giữ
tình hữu nghị, tuy gần đây có điều không được 6Tnhã, 6Tnhưng việc chưa rõ, mà việc cứu
giúp kẻ bị nạn, quốc thể phải nên như thế” [71,4 ,133].
Trên đây là nét đẹp đạo lý truyền thống trong quan hệ với các nước láng giềng của
nhà nước phong kiến Việt Nam dù dưới triều đại nào. Đây là một truyền thống tốt đẹp
trong quan h ệ đối ngoại luôn được kế thừa và phát huy trong lịch sử Việt Nam.
Về cơ bản, quan hệ ngoại giao Việt Nam và Xiêm La trong đầu thế kỷ 19 được các
vua Nguyễn cố gắng giữ gìn và phát triển truyền thống hòa hiếu vốn có từ trong lịch sử
quan hệ hai nước. Cuối cùng, những vấn đề bất đồng về vấn đề nước Vạn Tượng và
nước Chân Lạp luôn là trở ngại cho quan hệ Việt - Xiêm, giống như vua Minh Mạng đã
109
từng thừa nhận, trong quan hệ ngoại giao với Xiêm La thì “chỉ có việc Vạn Tượng thiệt
khó xử mà thôi” [69, 136].
4.1.2.3. Vấn đề nước Chân Lạp trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Xiêm La nửa
đầu thế kỷ 19:
Chân Lạp là một nước nằm giữa Việt Nam và Xiêm La. Vào đầu thế kỷ 19 nội bộ
nước này lục đục, mâu thuẫn và tranh chấp quyền lực bùng nổ giữa các phe nhóm chính
trị đối lập ở Chân Lạp đã lôi kéo Việt Nam và Xiêm La vào chiến sự. Chính vì vậy,
trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La, vấn đề nước Chân Lạp đã được đặt ra và gây nên
những trở ngại trong lịch sử ngoại giao giữa hai nước.
Trước đây, trong thế kỷ 18 Chân Lạp xin thần phục các chúa Nguyễn, lúc Tây Sơn
thắng thế, chúa Nguyễn bỏ chạy khỏi Gia Định thì Chân Lạp quay sang thần phục nước
Xiêm La và bị Xiêm La khống chế. Trong cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ
hoàng gia Chân L ạp luôn có sự hiện diện của Việt Nam và Xiêm La.
Năm 1802, triều Nguyễn được sáng lập, 43TChần 43TLạp quay lại xin thán phục Gia
Long. Năm 1807, triều Nguyễn cử sứ đoàn sang Chân Lạp sách phong cho vua Chân
Lạp. Như vậy, từ năm 1807 Chân Lạp thán phục cả hai nước Việt Nam và Xiêm La.
Mục đích của việc thần phục cả Việt Nam lẫn Xiêm La, theo triều Nguyễn đó là “ Nặc
Chăn đem thần dân trong nước để thờ hai nước lớn, cũng chỉ là mong nhờ uy đức để giữ
gìn bờ cõi toàn vẹn” [70, 4, 113]. Đây là biện pháp lốt nhất để dung hòa mâu thuẫn Việt
- Xiêm.
Năm 30T1811, 30Tvua Gia Long dụ cho vua 30Tchân 30TLạp là Nặc Ông Chân sai sứ sang Xiêm
phúng điếu để thể hiện lòng thành với Xiêm La. Chính trong năm này, nội bộ cầm
quyền Châu Lạp lại mâu thuẫn, các em của Nặc Ông 30Tchân 30Tmuốn tranh giành quyền bính
nên cầu cứu Xiêm La. Đây là một cơ hội để Xiêm La đem quân vào Chân Lạp can thiệp,
Nặc Ông Chân bỏ nước chạy sang Việt Nam cầu cứu Gia Long. Đứng trước tình thế
phức tạp ấy, triển Nguyễn đã có cách xử trí hợp lý 30Tnhất là 30Tthương lượng, giảng hòa bằng
lý lẽ. Trong “Đại Nam thực lục” có ghi lại Gia Long đã đùng lời lẽ ngoại giao trách phía
Xiêm La: “Nước ngươi vô cớ dấy quân để cho Nặc Chân phải chạy, nay là thác để cho
cớ giải hòa là thế nào! Chân Lạp đời đời làm tôi của ta, ta tất phải vì họ mà kinh lý” [70,
4, 155]. Kiên quyết mà linh hoạt, mềm dẻo nhưng vẫn giữ nguyên tắc đối ngoại cơ bản
110
là: đứng về lẽ phải. Theo “Đại Nam thực lục”, Gia Long đã buộc Xiêm La phải đồng ý
“mọi việc chỉ nhờ triều đình xếp đặt, vua Xiêm không dám không vâng mệnh” [70, 4,
164].
Sau một cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng, năm 1813 Gia Long phái Tổng trấn
Gia Định thành là Lê Văn Duyệt đem 10.000 quân, cùng quan Xiêm hộ tống Nặc Ông
Chân về nước. Theo sử Chân Lạp ghi lại “ Ngày 14 – 5 - 1813 quốc vương Ang Chăn 2
trở về U Đông với một đạo binh Việt và Xiêm” [78 73T, 1 2 3 | . 73TSau khi đưa Nặc Chăn
về 6Tnước 6Tvào năm 1813, triều Nguyễn chính thức “bảo hộ” 6TChân Lạp. Xiêm chấp nhận hiện
trạng trên, bằng cách buộc vua Chân Lạp phải 6T“giao hết cho mình vùng dài giữa dãy núi
Danggrek và vùng Prohmtep, các tỉnh Mloupiei và Tonlércpou
cùng 6TStungtreng” 6T[78,123]. 6TNhư 6Tvậy, trong thời Gia Long, quan hệ Việt Nam - Chân Lạp
- Xiêm La tạm thời ổn thỏa sau khi Chân Lạp chấp nhận cả hai nước Việt Nam và Xiêm
La đều có quyền lợi chính trị trên đất Chân Lạp.
Thực tế lịch sử cho thấ y rằng, cả triều Nguyễn lẫn vương triều RaMa II đều muốn
có ảnh hưởng trên đất 6TChân 6TLạp, nhưng với cách xử trí khéo léo của Gia Long khiến
Xiêm La bước đầu không thể có những hành động cứng rắn được. Nhìn chung, cả hai
bên Việt Nam và 6TXiêm 6TLa đều cố tránh va chạm với nhau, cố gắng duy trì mối quan hệ
thân tình vốn có từ trước.
Năm 1814, Xiêm La đưa thư phản đối việc Việt Nam đóng quân 43Tở 43TChân Lạp và
việc vua Chân Lạp không “chầu nước Xiêm”. Lê Văn Duyệt thấy quan hệ Việt - Xiêm
La lại trở nên khó khăn, nên tỏ ý đánh Xiêm La trước, vua Gia Long không thuận cho là
“giọng nói Xiêm man khổng nên để ý, ta cùng Phật vương trước có tình giao hảo, kết
nghĩa với cha mẹ mà đánh con thì các nước láng giềng sẽ bảo ta ra sao? Vả lại, việc can
qua mới yên, dân đương vui được nghỉ ngơi, Trẫm không 6Tmuốn 6Tlàm mệt tướng sĩ ở dưới
giáo mác. Được một nước Chân Lạp 6Tmà 6Tđể lo cho đời sau thì trẫm không làm...”[70, 4,
226]. Rõ ràng là căn cứ vào hiện tình đất nước và do ân nghĩa từ khi kết giao với Ra
Ma 11TI, 11Tvua Gia Long đã không thực hiện đường lối ngoại giao cứng rắn. Sự mềm mỏng,
ôn hòa của Gia Long là tinh thần ngoại giao 11Tchủ đạo xuyên suốt trong thời kỳ ông 11Ttrị 11Tvì.
Đường lối giải quyết mâu thuẫn Xiêm La - Chân Lạp trong quan hệ tay ba (Việt
Nam - Chân Lạp - Xiêm La) của Gia Long là đường lối hòa bình, nhân nhượng khi cần
111
thiết song trên cơ sở tăng cường phòng bị đất nước, bởi lẽ theo Gia Long, thực chất vấn
đề “nước 6TChân 6TLạp” trong quan hệ với Xiêm La là “mối lo về phía Nam” của triều đình
Huế”.
Dù thế nào chăng nữa, trong thời Gia Long trị vì, 11Tông 11Tcũng đã cố gắng để gìn giữ
mối quan hệ Việt - Xiêm không bị phá vỡ bởi các vấn để tế nhị trong khu vực (như vấn
đề 30TChân 30TLạp). Năm 1816, vua Gia Long hạ chiếu cho Nặc Ông Chân thông sứ với nước
Xiêm La. Dụ của vua Gia Long viết “Nước ngươi đối với nước Xiêm lấy nước nhỏ thờ
nước lớn đã lâu lắm rồi. Nay vương tuy không thâu hành sang thăm, cũng nên sai sứ đi
như xưa, không nên trước hậu mà sau bạc” [70, 4, 282], sau đó sử ghi lại nước Chân
Lạp lại cùng nước Xiêm La giao hiếu. Thời kỳ này, Việt Nam đóng quân ở Chân Lạp
với đanh nghĩa “bảo hộ” nhưng mọi công việc của nước này, thì quan quân Việt Nam
“không được can thiệp...”[95, 478]. Thời vua Gia Long, Chân Lạp chịu ảnh hưởng của
Việt Nam nhiều hơn là Xiêm La, để quan hệ với Xiêm được bình yên, Chân Lạp đã để
một số tỉnh thuộc quyền cai quản của Xiêm như Stung-treng, Tonlé Repou và Mluprey
từ 1814.
Đến thời vua Minh Mạng quan hệ Việt Nam - Xiêm La lại nổi sóng vì vấn đề
“nước Chân Lạp” và thường thì “gây mối xích mích là tự Xiêm khởi đầu” [71, 9, 187].
Vào năm 1833, Xiêm La uy hiếp Chân Lạp, vua Minh Mạng đã chỉ thị nếu Xiêm “xâm
phạm đến địa hạt Chân Lạp thì chuẩn cho quan quân lập tức liệu cơ mà đánh đẹp” [7l,
13, 293]. Năm 1834, Lê Văn Khôi cầu cứu Xiêm La, quân Xiêm La nhân cơ hội kéo vào
nước ta. Chiến tranh Xiêm - Việt bùng nổ và đến tháng 6T5 6Tnăm 1834, Xiêm La phải rút
quân. Minh Mạng sau sự kiện này đã không thể thực hiện chính sách ngoại giao trung
lập được nữa, theo ông “người Xiêm thấy lợi làm càn, bỏ nghĩa gây cừu thù, thực vượt
ra ngoài tình lý, không cần lại lấy điều nghĩa hiể u dụ nó nữa” 32T[71,14 ,39].
Như vậy, sau mấy đời hòa mục với nhau, quan hệ Việt - Xiêm trở nên xấu đi . Theo
“Đại Nam thực lục”, Minh Mạng đã nhận định tình hình: “Triều đình ta cùng vớ i nước
Xiêm mấy đời hòa mục đã hơn 40 năm... Ta nghĩ chỗ nước láng giềng lẽ đâu vô cớ trước
tự bỏ tình giao hiếu” [71, 14, 43]. Triều Nguyễn không tự mình cắt đứt tình thân với
Xiêm La nhưng quan hệ ngoại giao Việt - Xiêm cuối cùng cũng bị đứt đoạn. Năm 1841,
vua Thiệu Trị lên ngôi thì tình hình vùng biên phía Nam của Việt Nam thường hay bị
quân Xiêm La gây phiền hà. Phía Xiêm La tìm cách giúp những phần tử nổi loạn chống
112
triều đình Huế ở vùng An Giang, Vĩnh Long... của ta. Theo “Bản triều nghịch liệt
truyện” : “Tướng Xiêm là Chất Tri cũng trở lại theo tên Đôn tiến đến Hải Tây, thiết lập
đồn trại, mưu lập tên Đôn làm quốc trưởng Cao Mên, lại ngầm phân phái người đi các
nơi Hải Đông, Hải Tây... đóng đồn chiếm giữ Lạc Hóa, Trà Vinh, Vĩnh Long” [48, 85].
Những hoạt động gây rối của Xiêm La làm quan hệ giữa Xiêm 6TLa 6Tvà Việt Nam trở
nên căng thẳng. Đầu Xuân 1842, Xiêm lấy cớ giúp Hoàng Tôn (người tự xưng là con
Hoàng Tử Cảnh) đã tổ chức xâm 6Tlược 6Tnước ta, Việt - Xiêm cắt đứt quan hệ ngoại giao.
Chiến tranh với Xiêm La kéo dài cả năm, triều Nguyễn phải huy động một loại quan
binh như Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ ... đi đánh giặc.
Năm 1844, chiếu tranh Việt Nam - Xiêm La bùng nổ trên đất 30TChân 30TLạp. Quan hệ
Việt - Xiêm trong vấn đề “nước Chân Lạp” cuối cùng vần phải đùng chiến tranh để giải
quyết. Chiến tranh đem lại những bất lợi cho cả hai nước. Trong tác phẩm “Nguyễn Tri
Phương” của Phan Trần Chức và Lê Quế thì: Đại diện cho triều đình Huế là Nguyễn Tri
Phương đã nêu ra phương hướng giải quyết: “Tôi thiết nghĩ nên cho chúng hòa. Binh
lính của ta đã đánh Đông dẹp Bắc nhiều trận rồi, sức chiến thắng e cũng mòn mỏi” [13,
22]. Để chấm dứt chiến trận, triều Nguyễn và Xiêm La đồng ý giảng hòa “một hiệp ước
được đựng lên có chữ ký của Nguyễn Tri Phương và Chất Tri (viên 6Ttướng 6TXiêm - TG) để
kết thúc cuộc xung đột” [75, 402]. 6TChân 6TLạp được độc lập, cả Việt Nam 6Tlấn 6TXiêm La
đều giải binh, nhưng cho đến năm 1847 sau khi vua Thiệu Trị tuyên phong cho vua
Chân Lạp, triều đình Huế mới cho lệnh rút hết 6Tquân 6TViệt Nam về An Giang. 6TTừ 6Tnăm
1847 trở về sau, quan hệ Việt Nam - Xiêm La không có sự kiện gì gây khó khăn nữa,
cho đến lúc thực dân Pháp chiếm nước ta thì quan hệ hai nước Việt - Xiêm La chuyển
sang một thời kỳ lịch sử khác.
4.1.2.4. Vấn đề nước Vạn Tượng trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Xiêm
La nửa đầu thế kỷ 19:
Vạn Tượng là một nước láng giềng của Việt Nam và Xiêm La. Vấn đề nước Vạn
Tượng cũng 6Tlà 6Tmột nhân tố phức tạp trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La vào đầu thời
cận đại.
113
Từ cuối thế kỷ 18, Vạn Tượng thần phục Xiêm La, đến năm 1801, nước này cho sứ
giả sang Việt Nam mừng Gia Long chiến thắng và 42TChâu 42TA Nụ - quốc vương Vạn Tượng
cử sứ sang Việt Nam triều cống - triều kính.
Xiêm La từ khi không thể mở rộng phạm vi 6Tảnh 6Thưởng trên lãnh thổ 6TChân 6TLạp thì
quay sang khống chế chặt chẽ các xứ 42TLào. 42TDưới sự khống chế của Xiêm, các xứ Lào, đặc
biệt là Vạn Tượng tìm mọi cơ hội để chống lại Xiêm La. Năm 1824, khi thực dân
Anh 11Ttăng 11Tsức ép với 6TXiêm 6TLa, triều đình Xiêm La đang lúng túng chưa tìm ra cách giải
quyết tình thế thì Châu A Nụ lợi đụng cơ hội này nổi dậy mong thoát khỏi sự áp chế của
Xiêm La. Cuộc khởi nghĩa 6TChâu 6TA Nụ nhanh chóng thất bại, quốc vương Vạn Tượng
chạy sang Việt 6TNam 6Tcầu cứu vua Minh Mạng. Đứng trước tình hình đó, triều Nguyễn đã
có chủ trương sáng suốt, kịp thời là 6Ttăng 6Tcường phòng thủ vùng biên ải. “Quốc triều
chánh biên toát yếu” ghi lời vua Nguyễn cho rằng “Vạn Tượng với Xiêm La đánh nhau,
Ngài nghĩ thượng đạo Cam Lộ thông với Xiêm, bèn khiến quản đạo Tống Văn Uyển dò
xét việc ấy” [69, 134] và “khiến đem lính Thanh - Nghệ giữ bờ cõi nước mình” [69,
135]. Minh Mạng cũng như Gia Long, khi tìm phương cách để giải quyết vấn đề nước
Vạn Tượng và Xiêm La trong quan hệ khu vực ông chọn cách trung lập. Minh Mạng
muốn “đạo đối xử nước nhỏ, hòa mục láng giềng hai mặt đều được tốt cả” và để đạt
được mục đích đó chỉ có con đường thương lượng, thương thuyết ngoại giao.
Từ 11Ttrước 11Tcho đến nay, trong giới nghiên cứu thường có nhận định cho là vua Minh
Mạng né tránh va chạm với Xiêm La và “dù sau 11Tnày 11Tcó phải lao 11Tvào 11Tmột cuộc đụng độ
với Xiêm do cần bảo vệ Campuchia thì thái độ dè dặt của Minh Mạng vẫn là chủ yếu”
[56, 47]. Thực tế cho thấy, Minh Mạng và triều đình Huế không đứng hẳn về bên nào
trong cuộc xung đột Vạn Tượng và Xiêm La là thái độ ngoại giao khôn khéo nhất tại
thời điểm ấy để “hai mặt đều được tốt 11Tcả” 11T. Minh Mạng cho 11Tquân 11Tlính đưa vua Vạn
Tượng về nước, mặt khác cho sứ đưa thư sang trình bày vấn đề với Xiêm vương “khiến
họ bỏ hiềm khích cũ với Vạn Tượng” [71,9, 47]. Triều Nguyễn đã 6Trất 6Tcố gắng để hòa
giải mâu thuẫn Vạn Tượng - Xiêm La nhưng đến tháng 6 năm 1828 xung đột hai nước
này lại tiếp tục xảy ra. Trong “Quốc triền chánh biên toát yếu” thì: Vua Minh Mạng lần
này cho là “tại A Nô gây hiềm, liền sai Phan Văn Thông khiển trách nó và khiến nó tạ
lỗi với Xiêm” [69, 140]. Minh Mạng còn sai sứ sang Xiêm La để nói rõ sự tình. Với tất
cả 11Tnhững sư kiện nêu ra ở trên, chúng ta không thể không nhận thấy rằng trong 11Tquan hệ
114
với Xiêm La, triều Nguyễn đã vận dụng một đường lối ngoại giao mang tính hòa bình,
nhân nhượng và kìm chế đến mức vua Minh Mạng, trong “Minh Mệnh chính yếu” thừa
nhận rằng dù quan hệ hai nước Việt Nam - Xiêm La nếu có gì khó khăn, trắc trở “đối
với bản triều thì có gì là đáng trách 105Tđâu” 105T[72, 3, 402]
Đối lại thiện chí của triều đình Huế, nước Xiêm La 21Tđã 21Tcó những hoạt động làm
quan hệ hai nước xấu đi. Phía Xiêm La 21Tđã 21Tchặn bắt và giết hại phái bộ của Việt Nam do
Phan Văn Thông cầm đầu. Khi được tin này vua Minh Mạng vẫn bình tĩnh và thận trọng
hòa dịu “cử sứ thần sang Bangkok để hỏi nguyên do sự thể ra sao” [56, 107]. Tháng 2
năm 1829, triều đình Huế cử tiếp phái bộ do Lang Trung Bộ Hộ Bạch Xuân Nguyên làm
chánh sứ sang Xiêm để trách Xiêm trái lẽ, tự tiện bắt giết sứ giả Việt Nam. Chuyến đi
này là chuyến đi ngoại giao đặc biệt, nên triều Nguyễn tổ chức một cuộc sát hạch để
chọn người kỹ lưỡng, Bạch Xuân Nguyên đã hoàn thành nhiệm vụ được giao và trở về
nước năm đó. Sau khi sứ Việt Nam về nước, triều đình Xiêm La cử sứ giả sang Việt
Nam thông hiếu, song sứ bộ này cố tình lờ đi những yêu cầu của triều Nguyễn đòi phía
Xiêm La trả lời vụ bắt giết người của ta. Tháng 6 năm 1830 vua Xiêm La lại cho sứ sang
Việt Nam dâng quốc thư cùng phẩm vật cho Minh Mạng và để xin lỗi về những hành
động sai trái trước đó.
Thực chất quan hệ Việt Nam - Xiêm La qua vấn đề Van Tượng không có một sự
“đối đầu” nào xét về phía triều Nguyễn cả. Vua Minh Mạng đã nhân nhượng đầy thiện
chí, ngay cả lúc những yêu cầu chính đáng của Việt Nam, không được Xiêm La đáp
ứng, Minh Mạng cũng không có động thái cứng rắn bởi theo ông “nếu ta nghiêm cự thời
là đối với người không được rộng rãi...”[71, 9, 214]
Tuy nhiên, năm 1833 Xiêm La đã đem đại quân sang vi phạm lãnh thổ Việt Nam
đơn phương xóa bỏ quan hệ láng giềng truyền thống, tự chuốc cừu thù. Từ năm 1833 trở
đi, suốt cả một thời gian dài quan hệ hai nước căng thẳng và vùng biên giới Việt Nam -
Xiêm La chẳng hề yên ổn.
Nhìn chung, trong những năm 20 đến 40 của thế kỷ 19, vấn đề tranh giành quyền
lực và quyền lợi trên đất Chân Lạp và Vạn Tượng, giữ a nước Xiêm La và Vi ệt Nam đã
làm cho hòa bình trong khu vực không được gìn giữ 42Tvà42T phát triển.
115
Đường lối ngoại giao triều Nguyễn tuy có những hạn chế nhưng trong quan hệ
ngoại giao với Xiêm La các ông vua đầu triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng để duy trì
hòa bình ổn định trong khu vực và giữa hai vương quốc Việt Nam - Xiêm La.
Thực chất cuộc chiến Việt Nam - Xiêm La qua vấn đề nước Chân Lạp và Vạn
Tượng không hoàn toàn do triều Nguyễn gây chiến, cũng không hẳn do “nhu cầu mở
rộng biên cương”, 43Tmà 43Tthực ra việc giành ảnh hưởng 43Tở Chân 43TLạp và Vạn Tượng chủ yếu
là do yêu cầu bảo vệ, phòng thủ biên cương của nhà nước phong kiến vào thời điểm lịch
sử đó.
Từ năm 1834, nước ta tuyệt giao với Xiêm La, quan hệ ngoại giao được thay 6Tbằng
chiến tranh và quan hệ quân sự. Năm Tự Đức thứ 6T13T10 6T13T(1857) việc nối lại quan 6Thệ ngoại giao
với Xiêm La được đặt ra trong triều đình Huế. Vua Tự Đức hạ lệnh cho Nguyễn Tri
Phương xem xét kỹ để chuẩn bị cơ hội “nếu nước ấy quả thực tâm lại giao hiếu thì tự đề
nghị lên trước..”[71, 28, 320]. Theo bộ sử Đại Nam Thực lục do triều Nguyễn bên soạn
thì đến 11Tnăm 11T1866 việc thông sứ với Xiêm La 76Tv ẫ n 76Tchưa được tái lập.
4.1.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong
nửa đầu thế kỷ 19:
Triều Nguyễn trong quan hệ với nước Xiêm La vào nửa đầu thế kỷ 19 đã có định
hướng ngoại giao hòa hảo và thiện chí. Từ lúc Gia Long kiến lập nên triều đại, ông đã
thiết lập những mối quan hệ láng giềng hòa hiếu phản ánh tinh thần ngoại giao hòa
bình, mềm mỏng trong sách lư ợc và cứng rắn trong nguyên tắc đối ngoại. Ngay những
tác giả có phần khắt khe khi đánh giá về ngoại giao triều Nguyễn cũng phải công bằng
mà nhận định: “Lúc đầu thì đối với Xiêm, triều đình Nguyễn giữ một niềm hòa hảo”
[22, 100]
Xiêm La là đất nước mà Gia long trú ngụ khi chưa tạo đựng đế nghiệp. Xiêm
vương và Gia Long kết giao và thường qua lại giúp đỡ nhau, họ còn là đồng minh trong
một liên minh quân sự tự nguyện chống lại âm mưu của Miến Điện... Đó chính
là 6Tnhững 6Ttiền đề dẫn đến đường lối ngoại giao thân thiện với Xiêm La của triều Nguyễn.
Theo đuổi mục tiêu ngoại giao hòa bình, triều Nguyễn nhận thức sâu sắc rằng: “Nước ta
xưa nay vẫn giao hảo với Xiêm La, ví thử có xảy ra mối giao tranh thì s ự lợi hại chẳng
phải là nhỏ” [48, 17]. Như vậy, triều Nguyễn hiểu rằng giữ mối giao hảo với Xiêm là
116
cần thiết nhưng các vua Nguyễn cũng biết rằng quan hệ hòa hiế u với Xiêm La cũng rất
mỏng manh, nguyên nhân xuất phát từ vấn đề Vạn Tượng, Chân Lạp. Theo “Minh
Mệnh chính yếu”, Minh Mạng cũng biết rõ là: 6T“Chân 6TLạp từ khi nội thuộc bản triều cho
tới nay, người Xiêm la không thể không cay cú thắc mắc...Bởi vậy, mọi 6Tkế 6Thoạch biên
phòng 42Tcác 42Tngươi cần phải trù liệu cho hết sức chu đáo” [72, 3, 277].
Đi theo đường lối đối ngoại hòa bình tích cực cho nên triều Nguyễn không bị mất
cảnh giác trong khi phòng bị biên giới. Năm 1809, Gia Long đã từ chối không cho Xiêm
La mượn đường Lào đi sứ, năm 1815 vua cũng kiên quyết không cho sứ Xiêm La đi
theo đường Châu Đốc, Hậu Giang về nước... Triều Nguyễn tuy hết sức nhân nhượng
Xiêm La, về tình thì chu đáo, vẹn toàn, về lý thì luôn luô n thể hiện tinh thần độc lập tự
chủ toàn vẹn cương thổ quốc gia. Khi Vạn Tượng và Xiêm La đánh nhau, triều Nguyễn
xác định thái độ dứt khoát: “Họ đánh với Vạn Tượng thì mặc họ, không được xâm phạm
tới biên thùy thuộc vùng mường mán của ta, nếu họ không nghe lời thì chiến sự sẽ bùng
nổ” [72 39T,3, 39T290]. Tuy vậy, xuất phát từ định hướng ngoại giao hòa bình, hòa mục với
láng giềng, triều Nguyễn chủ trương “liệu cơ mà làm, bất tất vội đánh nhau truớc để
mang tiếng tự mình 43Tgây 43Thấn” [73, 2, 584].
Vua Minh Mạng kiên trì tư tưởng “Trẫm nhất thiết không bao giờ nghe theo cái lý
luận bỏ bạn tìm thù” [72, 3, 369]. Khi quân Xiêm đã vượt biên giới vào địa phận nước
ta, tinh thần chống xâm lăng nhưng không hiếu chiến của triều Nguyễn được thể hiện
rất rõ. Minh Mạng phái sứ giả đi dò xét và chuẩn bị thương thuyết, dụ rằng: “Nếu quả
thực có 43Tquân 43TXiêm đến đất ta, thì phải trước phái người đưa thư đến vặn hỏi Xiêm đến
đây vì ý gì. Xem chúng đáp lại thế nào? Nếu chúng trả lời bằng giọng hòa hảo thì tùy
nghi biện bác khiến chúng đuối lý phải tự rút lui, ấy là kế hay nhất” [71, 13, 312]. Đến
lúc không còn đấu tranh ngoại giao được nữa, triều Nguyễn phải thực hiện biện pháp
quân sự song vẫn theo đuổi mục tiêu hòa bình trong quan hệ với Xiêm La. Triều
Nguyễn chủ trương đuổi quân Xiêm La ra khỏi đất nước và không truy để diệt đến cùng
“quân ta cũng đi kiểm soát bờ cõi...không nên vượt qua biên giới mà đuổi theo đến
cùng” [71, 23, 66].
Không thể kết luận vội vã và thiếu công bằng về đường lối ngoại giao của triều
đình Huế trong quan hệ với Xiêm La. Trên thực tế, từ cuối thời Gia Long cho đến thời
Minh Mạng, Việt Nam là chủ của miền Đông bán đảo Đông Dương, đến năm 1828,
117
Chân Lạp thuộc quyền bảo hộ của triều Nguyễn, Trấn Ninh, Hạ Lào đều quy thuận nhà
Nguyễn. Nếu vua Minh Mạng không thận trọng trong quan hệ bên ngoài đối với các
vùng biên cương, đặc biệt trong quan hệ với Xiêm, không sớm thi muộn Xiêm cũng sẽ
tiến vào Chân Lạp hoặc Hạ Lào (Xiêm giáp giới với cả hai nước này), khi đó miền Nam
của Việt Nam sẽ gặp khó khăn và an ninh của đất nước sẽ bị đe đọa.
Triều Nguyễn hết sức 38Tnhân 38Tnhượng với Xiêm La. Theo “Đại Nam thực lục” thì đến
khi Xiêm “bỏ láng giềng”, “Người Xiêm bỏ bạn chuốc thù, manh tâm gây chiến”
[71,13,336] Việt Nam mới buộc lòng từ bỏ sách lược hòa hoãn bởi Minh Mạng nhận
thấy “một cuộc hòa đàm, khó lòng nói được, nay chúng đã đi sâu vào nội địa” [72, 3,
146]. Như vậy, triều Nguyễn luôn ý thức sâu sắc về sự yên ổn hòa bình của mối quan hệ
Việt Nam - Xiêm La, tìm mọi cách duy trì quan hệ ngoại giao với Xiêm La cho tới lúc
Xiêm La khởi binh gây chiến.
Vấn đề ngoại giao giữa triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đâu thế kỷ 19 chứa
đựng nhiều nội đung khá phức tạp và do những mối quan hệ khác trong khu vực chi
phối (vấn đề Chân Lạp và Vạn Tượng là ví dụ điển hình). Chính đo điều kiện khách
quan ấy mà quan hệ Việt - Xiêm cuối cùng xấu đi và dẫn tới chiến tranh, 21Tvề 21Tcuộc chiến
mà nhà Nguyễn tiến hành với Xiêm La, chúng ta không thể lên án một chiều chính sách
đối ngoại xâm lược của phong kiế n Việt Nam được. Đối với Xiêm La, triều Nguyễn có
tranh chấp, có mâu thuẫn, song 42Tcác 42Tvua Nguyễn vẫn không tự mình gây chiến tranh và
hận thù với Xiêm La.
Suốt cả chiều dài lịch sử gần 50 năm đầu của thế kỷ 19, trong quan hệ với Xiêm
La, triều Nguyễn vẫn tuân theo đường lối ngoại giao mềm mỏng nhún nhường. Minh
Mạng từng dụ quan quân: Nếu Xiêm La sang xâm phạm lãnh thổ Việt Nam thì lỗi tự họ,
phải chống lại, nhưng giữ chặt biên giới không đuổi theo nếu Xiêm thua chạy. Như thế,
triều Nguyễn chống xâm lược nhưng nêu cao khí phách anh hùng, không hung hăng,
hiếu chiến.
Qua quan hệ với nước Xiêm La, chúng ta hiểu thêm phần nào ngoại giao của triều
Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19. Đó là chiến lược ngoại giao hòa bình tích cực của
phong kiến Việt Nam.
118
4.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với nước Chân Lạp trong nửa đầu thế
kỷ 19:
Chân Lạp hay còn gọi là Cao Miên (Cao Man) đến đời vua Thiệu Trị tránh tên húy
mới gọi là Chân Lạp. Theo ông Châu Đạt Quan trong cuốn “Chân Lạp phong thổ ký”,
nước Chân Lạp (Tchen-la) còn gọi là Chiêm Lạp (Tchan-lap) và còn gọi là Cam Bội Trí
(Cam-po-Tche). Theo “Đại Việt Địa 6Tdư 6Ttoàn biên”, 6TChân 6TLạp vốn là thuộc quốc của
nước Phù Nam xưa.
4.2.1. Quan hệ Việt Nam và Chân Lạp cho đến năm 1807:
Quan hệ giữa triều Nguyễn và Chân Lạp là một loại hình quan hệ đặc biệt, nó phản
ánh một kiểu đối ngoại của phong kiến Việt Nam đối với các nước lân cận nhỏ hơn
mình trong thời phong kiế n.
Thời cổ đại cho đến thế kỷ thứ 6, Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam, đến
thời hậu Ăng-co Chân Lạp bước vào giai đoạn suy tàn. Nước Xiêm - La 42Tở 42Tphiá Tây
Chân Lạp nhiều lần 42Tgây 42Tchiến tranh xâm lấn, nội bộ 42Tcầm 42Tquyền của Chân Lạp luôn lục
đục, xâu xé nhau tranh quyền bính. Trong cuộc đấu tranh đó các phe nhóm ở Chân Lạp
đều cầu ngoại viện, lôi kéo Việt Nam và Xiêm La vào cuộc nội chiến của Chân Lạp làm
cho nội dung quan hệ Việt Nam - Chân Lạp biến dạng bởi chiến tranh tương tàn.
Cho đến trước thế kỷ 1T10, 1Tsử sách không ghi lại quan hệ giữa hai nước Việt Nam -
Chân Lạp, theo một giả định thì “có thể lúc đó Việt Nam còn đang bị Trung Quốc đô hộ
sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại năm 43” [88, 67]. Từ thời Lý trở đi, Đại Việt
và Chân Lạp bắt đầu có quan hệ ngoại giao chính thức. Mối quan hộ này được phản ánh
qua việc trao đổi sứ liên tục giữa hai nước vào 22Tnhững 22Tnăm : “1014, 1020, 1025, 1026,
1033, 1039, 1056, 1072, 1086, 1088, 1095, 1118, 1120, 1123, 1134, 1135, 1153, 1191,
1194, 1195 và 1197...” [85, 65].
Đến thế kỷ 15, Hoàng gia Chân Lạp lại xảy ra nội chiến, các phe đối lập tìm cách
cẩu cứu Xiêm và Việt Nam, đặt hai nước này vào thế đối trọng. Điều này gây nên những
khó khăn nhất định trong quan hệ Việt Nam - Chân Lạp. Nói cách khác, quan hệ Việt
Nam - Chân Lạp luôn bị chi phối bởi những xung đội chính trị ở Chân 6TLạp. Triều Nguyễn
đã khái quát 6Ttình 6Thình 6T43Tở Chân 6T43TLạp như sau: “ hễ anh 6Tem 6Ttranh 6Tgiành nhau, không nhờ
119
được 42Tở 42Tta thì chạy đến nước Xiêm, không nhờ 6Tđược ở 6Tnước Xiêm thì chạy đến với ta”
[73, 11, 545].
Trong thế kỷ 17, khi họ Nguyễn vào Nam xây dựng cơ đồ đã giúp vua Chân Lạp
đẩy lùi nhiề u cuộc tiến công của phong kiến Xiêm La, giữ yên bờ cõi [136, 57]. Trong
bài “Lịch sử cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam” của Phù Lang Trương Bá Phát, ông
khẳng định năm Việt Nam tiếp xúc với Chân Lạp là “năm Canh thìn 1623” [83, 107].
Nhờ vậy, trong 42Tđầu 42Tthế kỷ 17, Việt Nam và Chân Lạp đã có mối quan hệ khắng khít
tương trợ giúp đỡ nhau, điều này còn được minh chứng qua sự kiện vua Chey-Chetta II
(1618 - 1628) vừa lên ngôi đã tìm cách liên lạc với chúa Nguyễn, người Việt bấy giờ đã
trở thành thân hữu và đồng minh của người Chân Lạp. Sự gắn bó Việt Nam - Chân Lạp
còn được tăng cường trong nhiều thế kỷ sau. Vào cuối thế kỷ 18, nhà Nguyễn tiếp tục
giúp Chân Lạp chống đỡ một cách tích cực và hiệu quả đối với xâm lược Xiêm La, ơn
nghĩa đó khiến vua Chân Lạp xin thần phục Việt Nam. Thần phục Việt Nam, Chân Lạp
còn theo đuổi mục đích khác tạo nên thế đối trọng răn đe đối với Xiêm La. Theo Phan
Lạc Tuyên trong “Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á: “Để có thể đối trọng với
Thái Lan, vun Chân Lạp đã chọn con đường thần phục Việt Nam...” [88, 69].
Chân Lạp thần phục nhà Nguyễn và nhờ sự bảo 19Ttrợ 19Tcủa Việt Nam để chống Xiêm,
năm 1758, vua Chân Lạp mới lên ngôi là Ontey 19TII 19Tcũng xin thần phục nhà Nguyễn.
Theo Lê Hương: “quốc vương Outey (đệ nhị) (758-1775) vừa tức vị đã lập tức nhờ chúa
Nguyễn bảo hộ” [78,118]. Cùng thời điểm này, Xiêm La yêu cầu Outey II thần phục và
cống lễ nhưng vị vua này đã từ chối. Chính sự khước từ của vua Chân Lạp đã là một
trong nhiều lý đo đưa đến cuộc xung đội trên đất Chân Lạp có cả hai thế lực Việt - Xiêm
La tham gia. Cuộc xung đội này kết thúc với thắng lợi của Outey II, ngai vàng c ủa vua
Chân Lạp được tái lập. Để đảm bảo chắc chắn cho kết quả này, một vị quan Việt Nam
được cử đến ở bên cạnh vua Chân Lạp để giúp ông ta trị nước. Sử Chân Lạp ghi về sự
kiện này như sau: “Để trả ơn sự can thiệp này, thay vì nộp lễ cống như thường lệ, Quốc
vương Outey 19TII 19Tphải nhận một viên quan Việt Nam lại triều coi sóc trị dân” [78, 119].
Quan hệ giữa Việl Nam và Chân Lạp trong thời kỳ này cũng hạn chế bở Chân Lạp phải
đối phó với nội loạn liên miên. Riêng ở Việt Nam đang diễn ra nội chiến giữa họ
Nguyễn và Nguyễn Tây Sơn nên hai nước không có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc ngoại
giao gì. Sau một thời gian nội chiến, năm 1779 con của Outey II là Ang-Eng lên ngôi,
120
đến 1794, Chân L ạp thần phục thần phục Xiêm La, luôn có một phụ chính người Xiêm
La 42Tở 42Tbên cạnh vua Chân Lạp để “bảo hộ” Chân Lạp. Viên phụ chính này thường gọi là
Poc. Năm 1796 con Ang-Eng là Ang Chan lên ngồi tuy vẫn thần phục Xiêm La, nhưng
ông vẫn tìm cách nối lại quan hệ với Việt Nam. Theo tác giả Lê Hương: “năm 1800 theo
lệnh vua xiêm, Poc gởi một đạo quân giúp Nguyễn đánh Tây Sơn... Thắng trận này,
Nguyễn Ánh lên ngôi tức là vua Gia Long, gởi trả lại Cao Miên hai khẩu súng đồng để
cảm ơn” [78,112].
Từ năm 1800, Chân Lạp thường xuyên gởi tặng vật đến mừng tặng cho Gia Long,
tháng 6 năm 1802 38T“Chân 38TLạp sai Oc-Nha 38T-Thư38T-Triệu-Bồn-Nha-Diệt đến hiến sản vật địa
phương” [70, 3, 45]. Tháng 7 năm 1803, Chân Lạp lại sai sứ sang cống 11Tcho
triều 11TNguyễn. Theo “Khâm Định Đại Nam Hội 11Tđiển 11Tsự 11Tlệ” 11T:Gia Long 11Tnăm thứ 11Thai Thánh
giá đi tuần miền Bắc, nước Cao Miên sai sứ theo đến Bắc thành triều cống” [62,418]
Theo “ Mục lục châu bản triều Nguyễn “, năm Gia Long thứ tư (1805), vua định lệ
các dinh từ Quảng Đức vào Bình Thuận “ mỗi dinh phái mội cai đội và l0 quân, đem đủ
khí giới, đệ tặng phẩm vào Gia Định để đưa qua Cao Miên ban tứ” [49, 1, 100]. Trong
năm này, Gia Long cử sứ bộ sang Chân Lạp mang “ 2 đạo dụ chỉ và phẩm vật để ban tứ
nước Cao Miên” [49, 38T1, 38T100]. Trong những năm đầu thế kỷ 19 vua Chân Lạp “thẩn
phục” cả hai nước Việt Nam và Xiêm La. Năm 1806, vua Xiêm La làm lễ đăng quang
cho Ang-Chang tại Vọng Các (Thủ đô của Xiêm). Và tháng 21T9 21Tnăm 1807,Chân Lạp xưng
thần với triều Nguyễn, Theo “Quốc triều chánh biên toát yếu”: “Tháng 21T9 21Tnước Chân
Lạp tới xin thọ phong Ngài phong cho Nặc Chân làm Cao Man quốc vương” [69, 68].
Sử Chân Lạp ghi nhận sự kiện này như sau: “Nước Việt Nam nhìn nhận tân vương khi
Cao Miên chịu xưng thần với triều đình Huế, 3 năm cống tiến một lần [78, 112]. Cầm
đầu sứ bộ sang xin phong của Chân Lạp là Oc-nha-vi Bôn-lạch. Việc triều đình Huế tấn
phong cho quốc vương Chân Lạp 27Tđã 27Tđánh đấu một quan hệ mới trong quan hệ hai nước
Việt Nam - Chân Lạp. Giai đoạn mà nhà nước phong kiến Việt Nam vì những mục đích
chính trị và quyền lợi quốc gia đã “bảo hộ” Chân Lạp mô phỏng theo nguyên tắc đối
ngoại “nước lớn - nước nhỏ”. Điều đó làm cho quan hệ hai nước trải qua biết bao thăng
trầm trong lịch sử tồn lại và phát triể n của hai quốc gia láng giềng này.
121
4.2.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ 19:
4.2.2.1. Vấn đề Việt Nam sách phong cho vua Chân Lạp :
Đây là nội dung khá quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước, vào
tháng 9 năm 1807, sau khi sứ Chân Lạp sang xin phong và được Gia Long chuẩn y thì
triều Nguyễn đã cho đúc ấn “Cao Miên quốc vương” để chuẩn bị việc 42Tsách phong. 42TTheo
“Đại Nam hội 22Tđiển 22Tsự 22Tlệ” thì 22T“ấn 22Tbằng bạc 22Tmạ 22Tvàng có nuốm con 22Tsư 22Ttử, 22T42Tmột cái 22T42Thộp
để 22Tđóng 22Tsơn 22Tson bằng đồng...” [62, 542]. Theo “Đại nam thực lục” thì “ấn bạc mạ vàng,
núm làm hình lạc đà” [70, 3, 347]. “Đại Nam liệt truyện” chỉ ghi lại khi Chân Lạp sai sứ
sang Việt Nam xin phong “Thế tổ y cho, mới đúc ấn”Cao Miên quốc vương” phong cho
Nặc Chân làm vua nước Cao Miên” [73,11, 545]. Theo “ Đại Việt địa dư toàn biên” thì
“Năm Gia Long thứ 6, vua sai sứ đem sắc đến Tuyên phong ban cho quốc ấn, ấn khắc
chữ: Cao Miên quốc vương chi ấn” [74, 319].
Chiếc ấn “Cao Miên quốc vương” đó được sứ bộ Việt Nam mang sang Chân Lạp
tuyên phong cho quốc vương Chân Lạp tại thành La Bích. Thành phần sứ bộ Việt Nam
sang Chân Lạp phong lân đầu tiên này là: Ngô Nhân Tĩnh làm chánh sứ, Trần Công Đàn
làm phó sứ. Đây là sự kiện ngoại giao quan trọng, do vậy triều Nguyễn thông báo cho
phía nhà nước Chân Lạp biết thời gian sứ Việt Nam sang để Chân Lạp chuẩn bị đón
rước. Số lượng sứ bộ Việt Nam khá đông, riêng quân lính là 150 người, kèm theo một
long đình, 4 tán vàng, 1 thuyền lê, 2 thuyền hậu, 5 thuyền sai... Lúc sứ bộ Việt Nam đến
ngang địa giới đã có quan Chân Lạp đón đợi sẵn để rước sứ giả Việt Nam vào thành La
Bích nghỉ ngơi, chờ Việt Nam định 43Tngày tuyên 43T phong.
Lễ tuyên phong 42T(sách phong) 42Tcủa Việt Nam cho vua Chân Lạp cũng diễn ra theo các
nghi thức gần giống như lễ sách phong trong quan h ệ Việt Nam - Trung Quốc.
Tại chính đường cử hành lễ, vua Chân Lạp cũng bày 11Thương 11Tán, và tất 11Tcả 11Tngười
tham dự lễ đều hướng mặt vào Long đình, nơi có để sẵn thế cáo, sắc thư...
Bắt đầu lễ 42Tsách phong 42T“viên hành nhân dẫn quốc trưởng ấy đến chỗ lạy quỳ xuống.
Viên chánh sứ bưng chế thơ giao viên hành nhân đứng tuyên đọc xong, bưng để trên
hương án, viên chánh sứ bưng chế thư đứng trao cho quốc trưởng ấy bưng lấy giơ lên
trán, rồi trao cho quan phiên tiếp lĩnh, cúi đầu xuống đứng dậy. Quốc trưởng quỳ
xuống, phó s ứ bưng hòm ấn trao cho...” [62, 453].
122
Trong lễ 42Tsách phong 42Tnày, còn một nội dung khác là việc Gia Long đồng ý cho Chân
Lạp đổi quốc hiệu thành “Cao Miên”. Năm 6T1 8 1 1 , Chân 6TLạp lại xin đổi quốc hiệu “Cao
Miên” thành Ân – Di - Bắc – Phú - Lài, nhung vua Gia Long không chuẩn y với lý đo
“Quốc hiệu cũ đã đẹp rồi, cần gì phải đổi” và “Quốc hiệu cũ của vương tự tổ phụ vương
dựng nước đã định danh rồi, không c ần thay đổi làm gì” [70, 4, 131].
Thời Minh Mạng 16 (1835), vua Cao Miên là Nặc Chân đau kiết lỵ băng hà. Sự
kiện này cũng đánh đấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt - Chân Lạp. Nhân dịp vua
Chân Lạp mất, Minh Mạng dụ bộ lễ “ấn triện của vun Phiên, chuẩn giao cho quan Phiên
là lũ Chưởng cơ Trà Long và vệ úy Trà Kiên theo (sự điểu khiển) của Trương Minh
Giảng và Lê Đại Cương quyền làm việc nước Chân Lạp” [71, 15, 244]. Sau khi giao
quyền cho các quan Chân Lạp, Minh Mạng y tấu cho con gái Nặc Chăn là công chúa
Ngọc Vân lên nhiếp chính việc nước. Triều Nguyễn cũng sách phong cho nàng công
chúa Chân Lạp này, vua Minh Mạng “chuẩn cho Thứ bố chính tỉnh An Giang là Trương
Phúc Cương sung chức khâm sứ, tuyên phong Ngọc Vân là con gái thứ hai cố vương
Chăn làm quận chúa Cao Miên quyền nhiếp công việc” [62, 454].
Lễ 11Ttuyên phong cho Ngọc Vân được tiến hành như lễ tuyên phong cho 11TNặc Chăn.
Năm 1840, Minh Mạng cử Huỳnh 78TMẫn 78TĐạt làm 6Tkhâm 6Tsứ sang Chân 11TLạp 11T“đổi phong”
quận chúa Ngọc Vân thành quận chúa Mỹ 6TLâm. 6T“Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”
ghi lại: “Mùa hạ tháng 5 đổi phong quận chúa Ngọc Vân làm Mỹ Vân quận chúa, huyện
quân Ngọc Biện thành Lư an huyện quân, Ngọc Thu làm 43TThâu 43TTrung huyện quân, Ngọc
Nguyên làm Tập Ninh huyện 6Tquân” 6T[62, 456].
Với sự kiện “đổi phong” này, quan hệ việt Nam – Chân Lạp đã bước sang một thời
kỳ mới. Theo vua Minh Mạng, việc “Chân Lạp” cần phải “xử trí” để đối phó với Xiêm
La, trên đất Chân Lạp phải “chia đặt huyện, đặt lưu quan để cai trị đất ấy, khiến cho
người Xiêm sợ hãi không đám đến xâm lấn” [71, 22, 145]. Thực tế, vua Minh Mạng đã
sáp nhập Chân Lạp vào lãnh thổ Việt Nam. Lịch sử 6TChân 6TLạp cũng xác nhận là “từ năm
1841 đến 1845, ngôi vua Cao Miên không có người, nước Cao Miên sáp nhập vào Việt
Nam, việc triều chính hoàn toàn do tướng Trương Minh Giả ng quyết đoán” [78, 125]
Cho đến cuối năm 1846 Sá - Ông - Giun (em Nặc - Ông - Chân còn gọi 13Tlà 13TNạo Ông
- Run hay Nặc – Ông - Đôn), mới đến triều đình Việt Nam ở Trấn Tây xin xưng thần.
123
Nặc – Ông - Đôn “sai 43Tbầy 43Ttôi đem bài biểu đồ và đồ phẩm nghi tới quân thứ Trấn Tây
xin dâng biểu về kinh xưng thần, nộp cống” [69, 274]. Vun Thiệ u Trị 13Tđã 13Tchấp nhận và
tháng 7 năm 1847 triều Nguyễn cử một sứ hộ Việt Nam sang Chân Lạp gồm: 1 viên
chánh sứ, 1 phó sứ, 2 người tuyên đọc, 2 người hộ cáo ấn, quản vệ quản ơn 2 người, suất
đội 13T10 13Tngười, binh đinh 500 người đến tuyên phong cho Nặc Ông Đôn tại
thành 13TU 13TĐông, tước hiệu mà Nặc Ông Đôn nhận từ triều đình Huế 13Tlà 13T“Cao Miên Quốc
Vương”. Vun Thiệu Trị cũng phong Ngọc Vân công chúa làm “Cao Miên Quận Chúa”,
để cùng với “Cao Miên Quốc Vương” trông coi việc nước Chân Lạp.
Trong lễ 42Tsách phong cho 42TNặc Ông Đôn, vua Thiệ u Trị cũng ban cho ông này một ấn
bằng bạc trên khắc 6 chữ “Cao Miên Quốc Vương Chi Ấn”, hình thức giống như ấn cũ:
“ấn bằng bạc, cái núm hình lạc đà mạ vàng, đường kính, bề mặt và cao đầy phân tấc đều
y như ấn cũ” [71,26,201]. Cùng với ấn triều Nguyễn ban thêm cho vua Chân Lạp một
cái dấu kiềm bằng ngà voi, mặt khắc hai chữ Cao Miên”.
Trong năm 1847, triều Nguyễn cử hai sứ bộ ngoại giao đi Chân Lạp. Một sứ bộ
sang sách phong cho Nặc Ông Đôn gốm Lê Khắc Nhượng và Nguyễn Tiến Hội. Sứ bộ
kia sang sách phong cho Ngọc 54TVân 54Tcông chúa làm Cao Miên quận chúa, theo “Đại Nam
Hội điển Sự lệ” thì có: “một khâm sứ (Hoàng thư), 1 bộ sắc, 1 tuyên đọc đi theo sứ giả,
quản vệ 1 người, suất đội 4 người, binh đinh 200 người” [62, 458]
Sau 1847 cho đ ến 1858, khi thự c dân Pháp nổ súng xâm lược 3 nước trên bán đả o
Đông Dương thì trong nội dung quan hệ triền Nguyễn và Chân Lạp không diễn ra lần
sách phong nào nữa.
4.2.2.2 Triều cống trong quan hệ giữa triều Nguyễn và Chân Lạp:
Chân Lạp là “nước nhỏ” nhận chịu sự “bảo hộ” của Việt Nam 42Tvà 42Tphải thực hiện
một nghĩa vụ trong quan hệ với Việt Nam là 42Ttriều cống, 42Tđể hợp với danh xưng và hình
thức “phụng thờ nước lớn”.
Khi 42Tsách phong 42Tcho vua Chân Lạp, Gia Long đã chuẩn y lời nghị về lệ tiến cống của
nước này, cứ 3 năm một lần tiến cống “Lấy năm Tỵ, năm Thân, năm Hợi, năm Dần làm
hạn” [62, 464]. Năm 1833, Minh Mạng lại đổi thời hạn tiến cống “nay chẩn cho đổi
định... cứ đến thượng tuần tháng hai đến tỉnh An Giang, thượng tuần tháng 4 hiện dã
cho đến kinh làm lễ tiến cống để kịp lễ mừng thọ” [62, 466]
124
42TTriều cống của 42TChân Lạp đối với triều Nguyễn gồm có hai lễ. Lễ cống chính, cứ ba
năm cống một lần. Lễ “thường cống” thì một năm một lần cống. Ngoài ra nước Chân
Lạp cũng dâng các lễ cống khác như: Lễ tạ ơn sách phong, lễ mừng các sự kiện trong
đời sống chính trị 6T- xã 6Thội Việt Nam, lễ tiến hương v.v...
Con đường tiến cống của sứ Chân Lạp phải qua Gia Định thành, chờ Tổng trấn Gia
Định thành bẩm báo về kinh đô Huế, có lệnh từ Huế cho phép tiến cống thì sứ bộ đi
cống mới lên đường về kinh. Một tờ trình của Tổng trấn Gia Định thành cho chúng ta
hình dung cụ thể quá trình đó “...Quốc vương Cao Miên sai sứ bộ đem các sản vật tuế
cống đến thành trình nạp, tôi liền sức lựa thuyền kiên cố chở các phẩm vật ấy cùng than
140 tạ trước còn thiếu về kinh phụng nạp” [50, l1, 32]
Số lượng người trong sứ bộ Chân Lạp sang ta thời vua Gia Long ngoài m ột chánh
sứ, một phó sứ nếu đi đường bộ cho 13Tl0 13Tngười, đường biển thì 20 người” [74, 319]. Năm
1808, vua Gia Long cho tăng số lượng sứ đi đường bộ lên 15 người. Toàn bộ số lượng
sứ đoàn không được về kinh đô Huế. Thời Minh Mạng vua chỉ chuẩn cho chánh, phó sứ,
một thông ngôn, 4 lính hầu, tổng cộng là 7 người cùng với mội viên quan Việt
Nam 42Tở 42Ttỉnh đi ban tống, số người còn lại phải đợi 42T ở 42Tbiên giới. Năm Thiệu Trị thứ 7, khi
quan hệ ngoại giao hai nước được nối lại, vua cũng chuẩn y cho 15 người trong sứ bộ
Chân Lạp tiến kinh, số còn lại thì chờ 42Tở 42TAn Giang đợi Thiệu Trị ban thưởng.
Về số lượng 43Tphẩm 43Tvật trong lỗ cống chính gồm có đặc sản của nước 6TChân Lạp
như: 6T“2 6Tthớt 6Tvoi đực, 2 tòa sừng 6Ttê, 6T2 chiếc ngà voi, 20 bình sơn đen, đậu 6Tkhấu, 6Tsa nhân,
sáp ong, cánh kiến, trần hoàng, mỗi thứ đều 50 6Tcân” 6T[70, 6T111, 6T347]. 6TPhẩm 6Tvật
của 6Tlễ 6T“thường cống” so với 6Tlễ 6T“chính cống” 6Tthì 6T“giảm 6Tbớt đi l 0 6Tthùng sơn đen, 4T2 4Tcon voi
đực” [62, 743]. Minh Mạng 34Tnăm 34Tthứ hai chuẩn cho Chân Lạp, nếu năm nào gặp 2 lễ
cống cùng một lúc thì cho miễn lễ thường cống chỉ phải dâng một lễ thôi, lệ miễn giảm
này được duy trì mãi cho đến các đời vua sau.
Trong tất cả các lễ phẩm mà Chân Lạp tiến kinh, lễ phẩm tạ ơn là lớn hơn cả. Lễ
phẩm tạ ơn vào năm 1811 gồm “5 cỗ tê giác, 19 cái ngà voi, sáp ong, 92Tcánh 92Tkiến, đậu
khấu, sa nhân, trần hoàng mỗi thứ 400 cân, sơn đen 100 thùng...” [62,472]
Kỳ hạn tiến cống của Chân Lạp đối với Việl Nam không 81Ttuân 81Ttheo 81Tmột 81Tquy định
nghiêm ngặt nào cả mà tùy theo 92Ttình 92Thình hoàn cảnh cụ thể của nước Chân Lạp. Vào
125
thời Gia Long năm 1809 vua cũng miễn giảm lễ tạ ơn cho Chân Lạp “Về lễ tạ 81Tơn 81Tđược
chuẩn giảm đi 2 con voi đực” [62, 471]. Năm 1811 Gia Long ra lệnh trả lại lễ vật tạ ơn
cho sứ bộ nước ấy nhận lãnh để đem về nước lại. Tháng 9 năm 1812, Gia Long lại miễn
lễ cống cho 43TChân 43TLạp. Minh Mạng lên trị vì, ông cũng theo 6Tlệ 6Tthời Gia Long vào năm
1823 miễn cống cho Chân Lạp “lễ mừng bát tuần hồi loan đã có chỉ để 6Ttrừ 6Tvào lệ cống
năm nay” [71, 6, 193]. Minh Mạng năm thứ 16, vua thấy nội tình Chân Lạp rối ren nên
đã cho đình chỉ tất cà các lệ cống lại, Chân Lạp không phải nộp một lễ phẩm nào từ thời
Thiệu Trị đến Tự Đức lệ 3 năm một 81Tlần 81Tcống lại được tiếp tục trong quan hệ hai nước
Việt Nam - Chân Lạp nhưng kỳ hạn tiến cống của sứ Chân Lạp cũng linh hoạ t. Tự Đức
từng xuống dụ: nếu sứ Cao Miên đến 92Tcống không y 92Thạn 92Tthì 92T“cũng 92Tkhông hại gì gia hạn,
cho hạ tuần hàng tháng, để bảo là 92T thể tất đến nước dưới không liên ấn định làm gì” [62,
469]. Có những trường hợp khi sứ Chân Lạp 81Tdâng 81Tphương vật thì triều Nguyễn lại xuất
tiền trả “Tháng 6 năm 1812 Chân Lạp dâng 39 thớt voi đực, sai thành thần Gia Định
xuất tiền kho trả đúng giá” [71, 51, 514].
Không chỉ nhận 83Ttriều cống 83Ttừ Chân Lạp, triều Nguyễn cũng nhiều lần viện trợ cứu
giúp nước này, khi Chân Lạp gặp khó khăn. Gia Long năm thứ 12 “vua thấy
nước 6TPhiên 6Tmới yên kho tàng trống rỗng, cho Nặc Chăn 3500 lạng bạc, 5000 quan tiền
và 10.000 h ộc thóc...” [70,4, I89J.
Ngoài việc 42Ttriều cống, 42Tmỗi khi triều đình Huế có những hoạt động chính trị quan
trọng, như sách lập Hoàng tử chẳng hạn, thì Chân Lạp luôn sai sứ sang mừng kèm theo
lễ mừng. Khi Gia Long làm lễ sách lập Hoàng tử, sứ Chân Lạp đến mừng nhưng Gia
Long đã từ chối lễ vật. Ông giải thích “quý quốc sai sứ đệ phương vật đến mừng lễ sách
lập Hoàng tử, Hoàng thượng ban khen, nhưng vì nước Cao Miên mới định quốc, tài lực
chưa dồi dào, nay nhơn lễ khánh hạ làm cho phiền phí, nếu trả về hết thì phụ lòng quốc
vương, nên đã sức thâu 2 tòa tê giác, còn bao nhiên vật khác, đều giao sứ thần mang về
cho đỡ tốn” [49, 6T1 , 6T160].
Để định vị tư cách “nước lớn” của Việt Nam, Chân Lạp phải chịu nhận sự 42Tsách
phong 42Ttừ triều Nguyễn, thực hiện nghĩa vụ 42Ttriều cống, 42Tphải hàng năm sang Việt Nam chầu
như Gia Long từng tuyên 42Tbố về 42Tnghĩa vụ của các nước “phiên thuộc”: “Nước phiên
thuộc hàng năm đến chầu là chức phận của tôi con” [70,4,325].
126
Việc sang Việt Nam chầu của các sứ Chân Lạp, Vạ27Tn 27TTượng... cũng chỉ mang ý
nghĩa tượng trưng, bởi lẽ chúng ta thấy có nhiều trường hợp sứ Chân Lạp đến chầu, các
42TSách phong, triều cống 42Ttrong quan hộ ngoại giao triều Nguyễn và Chân Lạp cũng là
vua Nguyễn miễn cho tới Huế lại còn cấp phát bạc, lụa thưởng rồi cho về.
hai nội dung quan trọng. Đầu tiên nó nhằm khẳng định tư thế của Việt Nam trong khu
vực, kế tiếp nó tăng cường sự hiểu biết, giao lưu giữa nhà nước phong kiến Việt Nam
- 6TChân 6TLạp. Ngoài ra qua m ỗi lần trao đổi sứ hai nước đều có ban tặng quà và phẩm vật
cho nhau. Đối với triều Nguyễn việc ban thưởng, ban t ặng cho sứ giả Chân Lạp là một
trong những nguyên tắc của chính sách ngoại giao với tinh thần “nhu viễn”. Sự cung
đốn cho các sứ bộ nước ngoài, trong đó có Chân Lạp, chiếm một kinh phí khá lớn trong
ngân sách triều đình Huế, không chỉ cung đốn lương thực, thực phẩm...Triều Nguyễn
còn cấp liền cho các thành viên trong sứ bộ ngoại giao của các nước. Theo “Đại Nam
hội điển sự lệ” lệ cấp tiền này được đặt ra từ thời Gia Long năm thứ 2 cho đến thời
Thiêu Trị chánh sứ 8 quan tiền, 3 phương gạo trắng, phó sứ 5 quan tiền). Thời vua Tự
Đức thi chánh sứ được thưởng 13 quan tiền, phó sứ 1Tl 0 1Tquan ...
Nhìn chung, quan hệ giữa triều Nguyễn và Chân Lạp, tuy về hình thức triều
Nguyễn “bảo hộ” Chân Lạp, song chủ yếu đây là mối quan hệ láng giềng bình thường,
trừ một vài thời kỳ triều Nguyễn đã thể hiện vai trò “nước lớn”, để minh chứng cho
quan hệ vai trò “nước lớn - nước nhỏ” tồn tại khá phổ biến trong khu vực thời đó.
Từ thời Minh Mạng 42Ttrở 42Tđi quan hệ ngoại giao Việt Nam - Chân Lạp thường gặp khó
khăn. Tình hình chính trị của Chân Lạp không ổn định. Tháng 9 năm 1820, Chân Lạp có
vụ nổi dậy của “sư Kế” triều Nguyễn phải phái quan quân sang dẹp và Nặc Chăn xin
triều Nguyễn “đặt quan bảo hộ như trước” [69, 114]. Năm 1821, Minh Mạng khiến
Nguyễn Văn Thụy đem quân qua “bảo hộ” Chân Lạp 39Ttheo 39Ttinh thần bảo hộ cho họ tồn
lại phát triể n, chứ không phải giám sát họ “Công việc 19Ttrong 19Tnước nó đều giao cho vua
và quan phiên cứ theo tục nước nó mà làm, lại nên nghiêm trị quân sĩ không được mưu
lợi riêng, để cho trọng thể thống nước mình” [69,114]. Năm 1822, Minh Mạng lại ban
sắc thư dụ vua Chân Lạp phải gắng mà tu tỉnh tự cường...Trong suốt thời gian Nguyễn
Văn Thụy làm quan bảo hộ ở Chân Lạp, không có vấn đề gì căng thẳng giữa đại diện
triều Nguyễn và nhà nước Chân Lạp. Đến năm 1829, Nguyễn Văn Thụy qua đời, Minh
Mạng cử một viên quan khác là Nguyễn Văn Tuyên lãnh ấn bảo hộ Chân Lạp (6-1829).
127
Năm 1833, vụ nổi dậy 43Tở 43TPhiên An có quân Xiêm La can dự khiến triều Nguyễn
phải dùng binh và thông 43Tbáo 43Tcho phía Chân Lạp yên tâm. Sách “Quốc triều chánh biên
toát yếu” phản ánh lại tinh thần đoàn kết liên minh giữa Việt Nam - Chân Lạp trong
việc đánh đuổi Xiêm La can thiệp như sau: “Các tướng Chân Lạp đánh phá binh Xiêm,
chạy cờ đỏ báo tiệp” [69,170] cho vua Minh Mạng biết. Đến năm 1834, Minh Mạng sai
quân hộ tống vua 6TChân 6TLạp về nước và quyết định đình chỉ việc 6TChân 6TLạp sai sứ sang
Xiêm La khống chế Xiêm La can thiệp vào nội tình Chân Lạp nữa, “Trước đây nước
Chân Lạp mỗi năm một lần sai sứ sang Xiêm... Nay Xiêm càn rỡ đem quân vào cướp
của cải và 6Tđồ vật6T cùa Phiên. 6TChân 6TLạp cùng Xiêm La đã trở thành thù địch, vậy việc
thông sứ xin do quan tổng đốc An - Hà chuyển sức, đình chỉ mãi mãi” [71,14,59].
Trong thời Minh Mạng trị vì, triều Nguyễn gây dựng được ảnh hưởng lớn lao
trên 6TChân 6TLạp, nhưng quan hệ giữa triền Nguyễn và 6TChân 6TLạp cũng có lúc căng thẳng.
Một trong những nguyên nhân là do triều Nguyễn có những sai lầm trong phương pháp
“bảo hộ”. Năm 1840, triều Nguyễn đổi phong cho các quận chúa Chân Lạp, bắt các
công chúa này sang Gia Định ở, bắt 2 viên quan trụ cột của Hoàng gia Chân Lạp
...Những việc làm ấy đã gây nên bất bình trong lòng người Chân Lạp. Cộng thêm vào
đó là cuộc chiến tranh Việt Xiêm trên đất 6TChân 6TLạp đã làm cho tình cảnh đất nước Chân
Lạp khốn khó hơn. Cho tới năm 1846 khi Việt Nam giảng hòa với Xiêm La và cả hai
cùng rút quân ra khỏi 43TChân 43TLạp, tình hình Chân Lạp mới yên ổn. Từ tháng 2 năm 1847,
quan hệ 3 nước Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm La đi vào ổn định. Một trật tự mới được
lập lại trong quan hệ khu vực, lễ đăng quang của vua Chân Lạp có cả đại diện hai nước
Việt Nam - Xiêm La chứng kiến “quốc vương Ang Dương (còn gọi là Nặc Ông Đun,
Nặc Ông 6TDon 6T- TG) mới làm lễ đăng quang trước các tướng lĩnh đại diện vua Việt Nam
và vua Xiêm ” [78,127].
4.2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong
nữa đầu thế kỷ 19:
Về vấn đề quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và một số nước lân cận dưới triều
Nguyễn, từ trước đến nay tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Phần lớn giới nghiên cứu cho
rằng: với Chân Lạp, triều Nguyễn đã thi hành một chính sách ngo ại giao “phản động”,
“xâm lược”. Theo GS. Trần Văn Giàu: “đối với các nước láng giềng nhỏ thì triều đình
Huế lại thực hiện một chính sách xâm lược” [22, 100], và với chính sách ngoại giao đó
128
triều Nguyễn chỉ làm cho “sự xích mích càng sâu sắc giữa các nước láng giềng Việt –
Miên - Xiêm...” [22, 118]. Một nhận định khác cho rằng, triều Nguyễn “đối với các
láng giếng khác như Xiêm, Lào, Miên thì tỏ thái độ đe dọa, khinh miệt hoặc tranh chấp”
[64, 193].
Nhìn lại lịch sử những năm tháng từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, chúng ta có
thể nhận thấy trong quan hệ ngoại giao với Chân Lạp triều Nguyễn đã thực thi một
đường lối ngoại giao khá hợp lý:
- Nếu triều Nguyễn phải sử dụng phương pháp “bảo hộ” Chân Lạp, thì trước hết
điểm xuất phát của phương pháp này là do yêu cầu phòng thủ của đất nước. Để có thể
bảo vệ hữu hiệu thành Gia Định cần có ảnh hưởng nhấ t định tại Nam Vang, “nếu thành
Nam Vang mất, như làm hư hại rào giậu ta, thời thành Gia Định e có sự nguy hiểm”
[69,111], “muốn giữ vững Gia Định ta đã phải bào hộ Cao Miên, bao 43Tlần 43Tđánh nhau với
Xiêm, vì Xiêm bao gi ờ cũng dòm ngó Cao Miên” [34,144].
- Việc gây ảnh hưởng trên đất Chân Lạp là nằm trong hệ thống chiến lược phòng
thủ vùng biên giới Tây Nam của đất nước. Thực tế chứng tỏ “Ta muốn che chở Gia
Định phải cho Nặc Chăn làm tôi” [69, 83]. Biên giới Tây Nam, ngay từ thời vua Gia
Long đã có những biến động, việc canh phòng và gìn giữ an ninh ở đây luôn được triều
Nguyễn chú ý. Khi vua Chân Lạp đề nghị tới kinh đô để chầu, vua Minh Mạng cũng t ỏ
ý lo ngại 42T“Chân 42TLạp tiếp giáp Thái Lan, nay nước họ vào chầu, vấn đề bảo vệ biên thùy
không thể không phải cẩn mật” [72, 111, 358]. Xuất phát từ nhận thức trên, triều
Nguyễn đã cố gắng xây dựng ảnh hưởng trên đất Chân Lạp, 42Tvà 42Ttrong quá trình đó, tất
yếu nảy sinh những hậu quả đáng tiếc trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa hai nước
Việt Nam Chân Lạp.
- Chính nội bộ Chân Lạp thường xuyên chia rẽ và chiến tranh lôi kéo Việt Nam và
Xiêm La vào cuộc chiến là một trong nhiều nhân tố chi phối sâu sắc quan hệ giữa triều
Nguyễn và Châu Lạp. Theo Lê Hương trong” Việc bang giao giữa Cao Miên và Việt
Nam..”, : “Nước Cao Miên bấy giờ có 4 vị quốc vương cấu kết và xâu xé lẫn nhau. Vị
thì nhờ người Xiêm, vị nhờ người Việt giúp đỡ...” [78,114]. Từ thời Gia Long trở đi,
mỗi khi phía Chân Lạp yêu cầu giúp đỡ, thì triều Nguyễn mới đem quân đến giúp theo
tinh thần “Nặc Chăn là phên giậu của ta, nếu có sự hoãn cấp thì không lẽ ngồi nhìn,
129
nhưng việc binh cũng không thể kinh động” [70, 4, 140]. Chính sử của Chân Lạp cũng
ghi nhận điều đó. Năm 1810, khi Nặc Chăn cầu viện Việt Nam, Gia Long đã cho quân
sang giúp, khi đuổi Xiêm La rút quân về, thì triều Nguyễn cũng “chiếu cho Nguyễn Văn
Nhân rút quân về. Nặc Chăn lấy cớ nước mới yên định, tình dân chưa yên, xin lưu quân
lại bảo vệ...” [70, IV, 104]. Đến tháng 3 - 1811, Gia Long ban chiếu dụ vua Chân Lạp:
“Nay nước Phiên yên tĩnh, không cần để quân lại nữa, nếu có sự cần kíp phát quân cũng
chưa muộ n” [70, IV,114]. Vua Gia Long đã thể hiện thiện chí cố gắng khô ng can thiệp
sâu vào nội tình Chân Lạp. Trong một vài 81Ttình 81Thuống bắt buộc để thực hiện chiến lược
“cố phòng thủ” thì Việt Nam mới đem quân sang Chân Lạp. Thời Minh Mạng, Chân
Lạp cũng nhiều lần sang cầu cứu triều đình Huế... Năm 1841, Thiệu Trị đã bãi binh, rút
hết lực lượng quân Nguyễn về An Giang, nhưng 4 năm sau, Chân Lạp dưới ách thống trị
của Xiêm La, lại sang cầu cứu triều Nguyễn...
Như vậy, thực chất quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và Chân Lạp trong nửa
đầu thế kỷ nói lên lên vấn đề gì? Khách quan nhìn nhận thì thời Gia Long, triều Huế đã
có được ảnh hưởng uy thế của mình trên đ ất Chân Lạp. Dưới thời Gia Long, Chân L ạp
là nước “phiên thuộc” của Việt Nam nhưng Gia Long chủ trương không can thiệp vào
việc nước Chân Lạp. Các quan “bảo hộ” như Nguyễn Văn Thụy, rồi Nguyễn
Văn 81TNhân 81Tđều được ông rút về nước. Việc Chân Lạp để cho Chân Lạp tự giải quyết.
Trường hợp khi vua 81TChân 81TLạp xin vua Gia Long xét định trường hợp một bề tôi của
mình, Gia Long đã trả lời “Đấy là việc của nước phiên, đã có chính lệnh của nước
phiên, sao phải xin chỉ” [70,4,3I3]. Năm 1819, Gia Long bãi chức bảo hộ quan, theo
ông “nước Chân Lạp có bảo hộ là vì vua phiên 11Tmà 11Tđặt... sau này nếu họ 11Tcó cần thì sẽ cho
lại. Như thế thì thể thống triều đình được tôn mà ân uy đều rõ cả” 11T[70,4,390].
Thời Gia Long, triều Nguyễn không trực tiếp “bảo hộ” Chân Lạp, tuy vậy 11Tchúng ta
nhận thấy 6T11TChân 6TLạp 11Tít 6T11Tnhiều 6T11Tphụ thuộc vào ý kiến “chỉ đạo” t ừ 11THuế. Ví 11Tdụ 11Tđiển hình
nhất là việc Chân Lạp xin đổi quốc hiệu vào năm 1811, Gia Long không đồng ý, cho
rằng: “không cần thay đổi làm gì” và vua Chân Lạp phải nghe theo.
Từ năm 1821, đây là thời kỳ lực lượng 6T“thân 6TViệt Nam” nắm quyền lãnh đạo đất
nước Chân Lạp, do vậy 81Tmà 81Tquan hệ hai nước tiến triển thuận lợi. Lúc đầu Minh Mạng
cũng thực hiện chính sách đối ngoại như Gia Long “công việc nước ấy thì nhất thiết ủy
cho bọn vua phiên, quan phiên theo quốc tục mà làm” 21T[ 7 I 21T,5 21T,204]. Về 21Tsau, triều đình
130
Huế dần dần điều hành công việc 42Tở Chân 42TLạp. Quan quân Chân Lạp có tội, vua 81TChân 81TLạp
cũng phải 81Ttâu 81Tbáo lên triều đình Huế chứ không được xử tội,... Từ năm 1834 trở đi, sau
cuộc chiến tranh Việt - Xiêm La, triều Nguyễn tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam
trên đất Chân Lạp, Minh Mạng cử Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương sang Chân Lạp
làm quan “bảo hộ”.
Năm 1834, vua Chân Lạp là Nặc 6TChăn 6Tqua đời, do ông không có con trai nối dõi
nên triều Nguyễn 6Tđã 6Tđưa một nàng công chúa lên làm quận chúa “vua Việt Nam cử công
chúa Anh Mey [1834-1841) là con giòng thứ lên ngôi, quyết định này không được
thông báo cho vua Xiêm biết” [78, 124]. Minh Mạng đã mật dụ hai quan bảo hộ “vua
Chân Lạp chết, ta đã hạ dụ cho lũ chưởng cơ Trà Long và vệ úy La Kiên quyền giữ quốc
ấn làm việc dưới quyền 43Tcác 43Tkhanh” [71 30T,1530T,392]. Năm 1835, triều Nguyễn cho đổi đồn
An Nam ở Nam Vang thành Trấn Tây Thành, “Chân Lạp quốc ấn” cũng được niêm lại,
mọi công văn giấy tờ Minh Mạng cho phép Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương
“chuyển bảo ký thay cũng không sao” [71,16,110]. Sử Chân Lạp chép lại tình hình đất
nước thời này cũng thừa nhận “Việc triều chính đều đo các tướng lãnh, quan lại Việt
Nam điều khiển và thay đổi tất cả hệ thống hành chính Cao Miên...” [78,125].
Từ quan hệ mang tính “bảo hộ” hình thức, triều Nguyễn đã trực tiếp bảo hộ và
tham gia công việc nội chính của 30TChân 30TLạp. Coi 43TChân 43TLạp nội thuộc vào bản đồ Việt
Nam: “Chân Lạp dẫu là dân man nhưng cũng thuộc vào bản đồ và dân tịch của triều
đình” [71 30T,15,30T244]. Mỗi tỉnh của 30TChân 30TLạp có một viên quan Việt Nam cùng với quan
Chân Lạp cai trị. Vua Minh Mạng còn chia đặt lại hệ thống hành chính của Chân Lạp:
“Nay 6TChân 6TLạp đã 30Tvào 30Tbản đồ, Trẫm muốn chia đặt phủ huyện” [71,11,88] Kết quả sự
tham dự vào nội chính 30TChân 30TLạp của triều Nguyễn là “Tổng số tỉnh trong nước là 56 bị
giảm xuống còn 32 và mang tên Việt” [87,125].
Nhìn chung, từ năm 1841 - 1845, Chân L ạp không có vua trị vì, lúc này thực chất
quan hệ Việt Nam - 6TChân 6TLạp là quan hệ giữa nước “bảo hộ” và nước bị “bảo hộ”. Bản
chất của mối quan hệ của hai nước thay đổi, triều Nguyễn đã trực tiếp cai trị Chân Lạp.
Vua Minh Mạng đã khuyến dụ các quan lại Việt Nam phải khéo léo vỗ về 6Tdân 6TChân Lạp,
nhưng các quan quân triều Nguyễn đã phạm phải nhiều sai lầm gây nên bất mãn trong
lòng dân 43TChân 43TLạp. Hậu quả những sai lầm của quan quân nhà Nguyễn là người Chân
Lạp “coi ta 6Tnhư 6Tthù địch... 1Tl 0 1Tphủ, 23 huyện đều phản ta” [71, 23, 131]. Cuối cùng, vua
131
Thiệu Trị phải “bỏ 6Tđất Chân 6TLạp”, trên thực 6Ttế, 6Tphần lớn nội bộ cầm quyền Chân Lạp đã
ngã về phía Xiêm La, họ theo Xiêm La “không phải là họ thích nước Xiêm đâu, h ọ chỉ
mong khôi phục được Chân Lạp của họ mà thôi” [71, 23, 290]. Khi triều Nguyễn rút
quân, trả lại độc lập cho Chân Lạp, quan hệ hai nước Việt Nam - Chân Lạp trở lại bình
thường, Chân Lạp chịu 42Tsách phong 42Tvà thần phục triều Nguyễn như trước.
Có thể tạm thời chia quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và 30TChân 30TLạp nửa đầu
thế kỷ 19 thành hai thời kỳ:
- Từ thời vua Gia Long đến đầu triều vua Minh Mạng, đây là thời triều Nguyễn
thực thi đường lối ngoại giao hòa hoãn, thận trọng theo lời dụ của Gia Long: “phàm
việc ngoài biên phải bình lĩnh 42Tmà 42Ttrấn giữ, thong thả mà xem biến chuyển, cẩn thận chớ
nên gây hấn trước” [70,4,140]. Đó là đường lối đối ngoại hòa bình “không cần đánh mà
người ta phải khuất phục, đó mới là kế sách hay” [17, 409]. Thời kỳ này, quan hệ Việl
Nam - Chân Lạp là quan hệ kiểu “bảo hộ”, nhưng thực chất mọi công việc nội, ngoại trị
của Chân Lạp triều Nguyễn đều không can thiệp vào.
Từ giữa triều Minh Mạng trở đi, quan hệ láng giềng hòa bình bị xóa bỏ, triều
Nguyễn trực tiếp cai trị Chân Lạp và các quan lại Việt Nam phạm nhiều sai lầm, làm tổn
thương đến mối quan hệ truyền thống Việt Nam - Chân Lạp. Vua Thiệu Trị lên ngôi
phải ra lệnh rút hết quân Việt Nam về nước, chấm dứt một thời kỳ ngắn Việt Nam cai trị
Chân Lạp, trả lại sự bình thường trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam Chân Lạp.
4.3. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với tiểu vương quốc Lào - Vạn Tượng
trong nửa đầu thế kỷ 19:
4.3.1. Những bước đầu tiên trong quan hệ của Việt Nam với các tiểu quốc Lào:
Việt Nam và Vạn Tượng là hai nước cùng nằm trong một khu vực địa lý. Vạn
Tượng là một tiểu quốc trong xứ Lào. Theo sách “Đại Việt Địa dư toàn biên”, đời Lý,
Trần, Lê đều gọi là nước Ai Lao 42Tvà 42Tcòn gọi là nước Chiêu Viên Chăn. Giáp Việt
Nam 42Tở 42Tphía đông, giáp Chân Lạp ở phía nam, giáp Xiêm La 42Tở 42Tphía tây, và phía bắc
giáp Trung Quốc. Việt Nam và Vạn Tượng ở gần kề nhau và có chung ranh giới tự
nhiên 43Tlà các 43Tdãy núi chạy dài theo hướng tây bắc, đông nam, và bắc nam, dãy Pu-Đen-
Đinh, Pu Sam Sao và dải Trường Sơn 43T“các 43Ttỉnh Hưng Hóa, Thanh Hóa, Nghệ An,
Quảng Trị xưa của Việt Nam là những vùng có các châu, huyện giáp liền với Lào...”
132
[102, 4]. Do vị trí gần gũi như vậy, nên từ xa xưa hai nước đã có quan hệ, qua lại với
nhau.
Theo nghiên cứu của các nhà Đông Nam103T Á 103Thọc, trong giai đoạn 71Ttừ 71Tthế kỷ 71Tl 0 71Tđến
thế kỷ 15 ở Đông Nam Á ngoài những quốc gia đã được hình thành, phái triển, xuất
hiện thêm 2 quốc gia mới là Ayuthaya của người Thái và Lanxang của
người 42TLào 42T(khoảng thế kỷ X-XIV). Đến thế kỷ 17 thì vương quốc Lanxang khủng hoảng
suy vong. Sau năm 1694, vương quốc Lanxang phân hóa thành 3 tiểu quốc: Viên Chăn
(Vạn Tượng), Luông Pha Bang 54T(Nam 54TChưởng), và Chămpaxắc (Nam Lào). Đất nước
rơi vào tình trạng phân liệt trầm trọng và vương quốc Lanxang thực tế không còn tồn
tại. Từ đó, chính sử Việt Nam ghi chép về quan hệ những nước láng giềng phía Tây
nhưng là những tiểu quốc riêng biệí khác nhau. Từ năm 1795, Lào bị Xiêm La khống
chế, các xứ Lào tồn tại trong sự chia cắt biệt lập với nhau, trong 42Tđó 42TVạn Tượng là một
tiểu vương.
Với một biên giới chung khá dài, quan hệ hai nước được hình thành một cách tự
nhiên, các xứ Lào tuy bị chia cắt nhưng đều có “quan hệ ngoại giao riêng với nước
ngoài, chủ yếu là với Việt Nam, nhất từ năm 1802, khi triều Nguyễn được thiết lập”
[56, 101]. Thực tế, từ trước đó quan hệ ngoại giao Việt Nam và các tiểu quốc 42TLào 42Thình
thành trên nền tảng mối quan hệ tự nhiên của hai dân tộc sống gần gũi bên nhau. Theo
Thư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á phần Vạn Tượng: “Những vùng biên giới
Lào Việt là nơi đã diễn ra những mối quan hệ chồng chéo của nhân 42Tdân 42Thai nước
ở 6Tđây 6Tphổ biến tình trạng cư trú xen cài một dân tộc ở cả hai quốc gia” [102, 4].
Quan hệ ngoại giao ổn định bình 6Tthường 6Tgiữa triều Nguyễn và Vạn Tượng là sự kế
thừa, phát huy một truyền thống tốt đẹp trong bang giao với láng giềng từ xưa. Các vua
chúa phong kiến Việt Nam luôn tìm cách củng cố tình giao hảo với Lào.
Một biểu hiện cho tình đoàn kết thân ái Việt Nam - Lào là vào năm 1564, Trịnh
Kiểm đã gả con gái nuôi của mình cho vun Lan Xang Sethathirak. Lào và Việt Nam còn
là đồng minh của nhau khi hai nước tiến hành chiến tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền
của mỗi nước. Ví dụ như trong cuộc kháng chiến chống Xiêm La vào năm 1792, Lào đã
đề nghị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ trợ giúp, năm 1793 quân Việt đã tiến sang Lào
giúp bạn.
133
Vào cuối thể kỷ 18, khi Xiêm La tấn công 42Txâm 42Tlược các tiểu quốc Lào
(1778), 42Tcác 42Ttiểu quốc Lào 32Tđã 32Tnhờ Việt Nam giúp 32Tđỡ 32Tvà quân Việt Nam đã sang giúp,
theo GS. Lương Ninh thì Việt Nam giúp Lào: “cốt giúp người bạn láng giềng và giữ yên
biên giới phía tây của mình” [56,100]. Việc hỗ trợ nhau giữa các tiểu quốc Lào và Việt
Nam để đề phòng mọi mưu đồ của Xiêm La, đặc biệt là từ cuối thế kỷ 18 trở đi là
thường xuyên. Theo “Lịch 11Tsử 11Tbang giao Việt Nam - Đông Nam Á” của Phan Lạc
Tuyên: “sau khi đã trở nên cường thịnh, Thái Lan có ý muốn bành trướng đánh chiếm
Chân Lạp và Lào” [88, 75]. Lịch sử quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và các tiểu
quốc Lào chủ yếu là Vạn Tượng, cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, lúc êm ả, lúc
sóng gió trong suốt cả thời kỳ tồn tại và phát triển của lịch sử hai quốc gia này ở thời
cận đại.
4.3.2. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Vạn Tượng cho đến 1831:
Khi Gia Long còn là Nguyễn Ánh đã liên kết với Chiêu Ấn - quốc vương Vạn
Tượng để đánh Tây Sơn. Nguyễn Ánh sau khi thu Bắc Hà xong đã khen Chiêu Ấn “là có
công, lấy đất ở Trấn ninh ban cho” [73, 2, 620]. Liên minh Nguyễn Ánh Gia Long với
Vạn Tượng là tiền đề quan trọng hình thành nên nội dung, hình thức quan hệ ngoại giao
giữa triều Nguyễn và Vạn Tượng trong đầu thế kỷ 19. Từ năm 1786, khi Chiêu Ấn sang
chầu nước Xiêm La, nghe tin Gia Long đang lưu trú tại Vọng Các thì “Chiêu Ấn nhân
tới yết kiến, lòng kính mộ. Khi về nước nghe tin Vua đã lấy lại Gia Định, thường muốn
sai sứ” [73,2,618]. Cơ hội trao đổi sứ đã đến vào 1801, Vạn Tượng mừng thắng lợi của
Gia Long bằng cách gởi sứ sang cống 42Tvà 42Tđem dâng địa đồ Nghệ An và Phú Xuân. Theo
“Đại Nam thực lục”: “Nước Vạn Tượng sai sứ sang cống (chiêng đồng 32Tl0 32Tcái, sừng tê
trắng 1 tòa), dâng địa đổ Nghệ An, Phú Xuân” [70,11,385]. Tháng 12 năm 1801 “Vạn
Tượng sai sứ mang quốc thư đến hành tại Động Hải...” [70,11,454]. Năm 1802 nhân dịp
Gia Long xưng đế, quốc vương Vạn Tượng sai sứ mang lễ vật sang mừng và thực hiện
lễ cống. Sách “Chính biên liệt truyện” ghi lại: “Gia Long năm thứ I (1802) mùa thu,
Bắc Hà dẹp yên cả báo cáo trong ngoài, Chiêu Ấn sai sứ mang quốc thư đến mừng”
[73,11,620]. Trong năm này chính sử Việt Nam cũng ghi lại một số tiểu quốc Lào khác
như Nam 6TChưởng, 6TNam Lào cũng đến mừng Gia Long, tự nguyện triều cống và sau đó
xin nội thuộc.
134
Nhìn chung, khi Gia Long thắng lợi hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, uy
thế được khuếch trương, thì 43Tcác 43Ttiểu quốc Lào, đặc biệt là Vạn Tượng, tìm cách thiết
lập quan hệ ngoại giao dưới hình thức “xưng thần”, mong muốn có quan hệ hòa hiếu tốt
đẹp với triều Nguyễn, tranh thủ mối quan hệ này để xây dựng, phát triển lực lượng
trong nước nhằm thoát khỏi ảnh hưởng và sức ép của Xiêm La.
Theo Thư lịch cổ Việt Nam về Đông Nam Á thì Vạn Tượng “Do có ý đồ liên kết
với Việt Nam trong kháng chiếu chống Xiêm nên lừ năm 1805 đến năm 1824 đã 8 lần sứ
giả Vạn Tượng sang giao hiếu với nhà Nguyễn” [102, 10]. Còn triều Nguyễn như đã đề
cập ở trước vẫn có ý “coi 43Tcác 43Tmường ở Lanxang là thuộc quốc” [102, 10] nên mỗi khi
sứ giả Vạn Tượng đến mừng hay cống, hoặc ở Vạn Tượng có chuyện “hiếu hỉ”, triều
đình đều cử sứ đến chúc mừng, ban tặng hoặc chia buồn với Vạn Tượng.
Xu hướng dựa vào triều Nguyễn để chống Xiêm La phát triển dưới triều vua Châu
A Nụ. Năm 1804 Chiêu Ấn qua đời, em Chiêu Ấn lên ngôi, đó là A Nụ. Châu A Nụ sai
sứ sang Việt Nam báo tang và triều đình Huế cũng cử sứ bộ qua phúng điếu rất chu đáo.
Theo sách Liệt truyện, “Năm thứ 6T2 6TChiêu Ấn từ nước Xiêm trở về rồi ốm chết, người
Xiêm lập em là A Nỗ làm quốc vương. A Nỗ sai sứ sang ta báo tang, vua sai cai cơ là
Nguyên Văn 6TUẩn 6Tvà hàn lâm là Lê Văn Phú sang phúng (bạc 6T100 lạng, 6Tvải 6T100
tấm, 6Tsáp 6T200 can)” 6T[73 6T,11,620].
Hai nước Việt Nam và Vạn Tượng kể từ triều Gia Long đã có sự trao đổi sứ thường
xuyên, mối liên hệ được thiết lập một cách chặt chẽ, thân thiết. Năm 1819, Gia Long
băng hà, Vạn Tượng xin sang 6Tdâng 6Tlễ tiến hương, theo đúng nguyên tắc bang giao và
chức phận “phiên thuộc”. Theo nhận xét của Gia Long về mối quan hệ Việt Nam - Vạn
Tượng thì “nước Vạn Tượng không bỏ lễ thờ kính nước lớn. Kính thuận đáng khen”
[70,111,260]. Trong các tiểu quốc Lào, chỉ có Vạn Tượng là triều Nguyễn có quan hệ
khăng khít hơn cả. Ngoài ra, các tiểu quốc khác như: Trấn Ninh, Nam Chưởng, Luang
Phrabang cũng đều cố cống sứ đến 30TViệt 30TNam. Nhưng Gia Long cho là họ đến thần phục
“thực dối chưa rõ, sai trả lại đồ cống cho hậu đãi rồi bảo về” [70,111,317]. Triều
Nguyễn cũng không đặt ra các nguyên tắc nghiêm ngặt đối với các thuộc quốc, hay
thuộc Man. Khi Gia Long qua đời, Vạn Tượng không biết chính xác nên không kịp
đàng lễ. Năm 1821, lúc Vạn Tượng cử sứ đến Việt Nam cống theo 30Tlệ 30Tthường mới rõ.
135
Năm sau (1822) “nước Vạn Tượng sai sứ đến Nghệ An dâng biểu xin vào lễ tiến hương,
Vua cho là việc quốc tang đã xong, cho mi ễn” [71,6,15].
Từ thời Gia Long trở đi, quan hệ ngoại giao giữa Việl Nam và Vạn Tượng đang
tiến triển bình thường thì cuộc chiến tranh Vạn Tượng với Xiêm La bùng nổ, đã làm
thay đổi nội dung của mối quan hệ này và ảnh hưởng đến các mối quan hệ trong khu vực
lúc đó.
Châu A Nụ, vị quốc vương Vạn Tượng có tinh thần yêu nước muốn thoát khỏi ảnh
hưởng của Xiêm La, 30Tđã 30Tchuẩn bị cho một cuộc kháng chiến chống Xiêm. Năm 1821,
Châu A Nụ vận động vua Xiêm cho con trai mình làm quốc vương tiểu quốc
Chămpạxắc, và chờ cơ hội để liên kết các lực lượng chống Xiêm La. Năm 1825, khi
Châu A Nụ sang Xiêm La chầu và dâng lễ tiến hương cúng vua RaMa II, ông chứng
kiến tận mắt sự bối rối của triều đình Vọng Các trước sức ép của thực dân Anh, (1826
Anh tấn công tăng sức ép với Xiêm). Trở về nước, A Nụ quyết định chiến tranh với
Xiêm La. Năm 1827 “nước Vạn Tượng cùng nước Xiêm động binh đánh nhau”
[71,8,203]. Kết quả đến tháng 4 năm 1827, Vạn Tượng thất bại, vua Châu A Nụ thế
cùng phải chạy sang Việt Nam dâng lễ cống và cầu viện. Ngày 14 tháng 5 năm 1827
trấn thủ Nghệ An đã khẩn tấu về triều đình Huế về việc vua Lào bị Xiêm truy kích phải
đem gia quyến chạy sang Việt Nam cầu cứu. Minh Mạng triệu tập đình thần (gồm có 29
vị quan tham gia) bàn việc giúp Vạn Tượng. Vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc này là
làm sao giúp Vạn Tượng mà không đối lập với Xiêm La.Ý kiến của đình thần chia làm
hai xu hướng khác nhau: Một số chủ trương đứng về phía Vạn Tượng chống Xiêm La.
Mục đích của xu hướng này nhằm phòng vệ vùng địa đầu trọng yếu của Việt Nam. Tiêu
biểu cho xu hướng này là Tả quân Lê Văn Duyệt , ông cho rằng; “giúp Vạn Tượng mà
chống Xiêm La tưởng là hơn cả”; “Nước Vạn Tượng giữ cống đã lâu, làm phiên phụ
cho ta, thế cùng phải kêu oan, nghĩa láng giềng không thể cự tuyệt” [71,8,247]. Hơn
nữa bộ phận chống Xiêm La còn cho “Nghệ An là xương sống của nước ta, không nên
bỏ”. Xu hướng còn lại trong đó có vua Minh Mạng chọn giải pháp trung lập. Minh
Mạng nhận định Xiêm La là nước có thế lực 6Tngang 6Tta, 6Tnếu 6Tđối lập với Xiêm La, “chiến
tranh với họ là nguy”... Thái độ của triều đình Huế khiến cho phần đông giới nghiên
cứu nhận xét: Nhà Nguyễn “tránh né” Xiêm và “ bỏ rơi Vạn Tượng” v.v...
136
Thực tế lịch sử đã chứng minh vua Minh Mạng chọn giải pháp trung lập là hợp lý
và đúng đắn nhất. Minh Mạng đã khuyên đình thần “nên yên tĩnh để đợi”, không nên
đứng về phía này mà tuyệt giao với phía kia. Thái độ đối với Vạn Tượng của vua
Nguyễn hoàn toàn không có tính cách “kẻ cả”, “nước lớn”. Theo sách “Đại Nam thực
lục”: “Vạn Tượng là thuộc quốc của ta, khốn chạy về với ta, triều đình không nỡ ngồi
xem, vì họ mà ra quân là nghĩa giúp người có nạn” [71, 32T8, 32T274]. Và triều Nguyễn hành
động thận trọng, đã ra lệnh cho lính Việt Nam “đến gần biên giới đóng quân lại và đưa
thư cho nước Xiêm nói rằng họ cùng nước Vạn Tượng đánh nhau không được vượt sang
bờ cõi thuộ c Man của ta “ [71,8,247] đồng thời khẳng định nếu Xiêm La xâm phạm bờ
cõi lãnh thổ Việt Nam thì triều Nguyễn sẽ đem quân đưa vua Vạn Tượng về nước. Đây
là hành động rõ ràng đúng đắn để giải quyết mối quan hệ tay ba: Việt Nam - Vạn Tượng
- Xiêm La. Để thể hiện nghĩa cử của triều Nguyễn và làm yên lòng Xiêm La, Minh
Mạng dứt khoát lập trường “Vạn Tượng là bầy tôi của hai nước”. Minh Mạng liền đó
cho một đạo quân 3000 người, 20 thớt voi dưới sự chỉ huy của Thống chế Phan Văn
Thúy, cùng Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào đưa Châu A Nụ về Vạn Tượng. Sách
Đại Nam thục lục ghi lại: “quân ta đến biên giới nếu người Xiêm kháng cự, lấy nghĩa
lớn thì bảo cho họ thôi. Nếu họ còn dám gây sự thì ta có cớ” [71,10,47] . Tư tưởng nhân
nghĩa của Nho giáo chi phối sâu sắc đường lối trị nước và đối ngoại của triều Nguyễn.
Đứng trước mâu thuẫn của Vạn Tượng và Xiêm La, Minh Mạng tìm một cách giải quyết
khá thỏa đáng ngay chính tại thời điểm lịch sử ấy: Giúp Vạn Tượng, nhưng không gây
hiềm khích với Xiêm La. Đối với cuộc chiến tranh Vạn Tượng - Xiêm La, triều Nguyễn
đã giữ được thái độ trung lập. Đó là một thái độ ứng xử ngoại giao thích hợp, thông
minh và không muốn chiến tranh, nhưng sẵn sàng chiến đấu nếu lãnh thổ bị xâm phạm.
Không phải bất kỳ một nhà nước phong kiến đương thời nào cũng có cách giải quyết
sáng suốt và khôn khéo như vậy.
Khi Châu A Nụ tiếp tục chiến tranh chống Xiêm, và lại cầu cứu triều Nguyễn,
Minh Mạng cho rằng giúp Vạn Tượng vậy là “đủ nhân đủ nghĩa” rồi nên cự tuyệt không
giúp Vạn Tượng nữa. Tuy vậy, xét nguồn gốc, tính chất của cuộc xung đột Vạn Tượng
- Xiêm La, triều Nguyễn cũng phải thừa nhận “Dẫu là A Nỗ không khéo mềm mỏng
nhưng cũng bởi tướng 30TXiêm 30Tsinh sự trước” [71,19,76]. Do đó, Minh Mạng trả lời với A
Nụ là “Triều đình còn đương 11Txét 11Tkỹ tình hình động tĩnh mới có cách xử trí” và để cho
137
Vạn Tượng trị giữ lấy nước. Cuối cùng, triều Nguyễn tìm cách giảng hòa Vạn Tượng và
Xiêm La, Minh Mạng dụ cho A Nụ tạ lỗi và trả khí giới cho Xiêm nguôi giận. Theo “Đại
Nam thực lục”: “Việc 11Tnước 11TVạn Tượng đã sai A Nỗ tạ lỗi. Nên chuyển đạt lên vua Xiêm
tha tội cho nó, khiến nó làm phiên thuộc mãi mãi” [71,19,76] . Chủ trương giảng hòa,
nhưng Minh Mạng tích cực chuẩn bị đề phòng các ngã biên giới và không tự mình gây
sự trước. Có thể phê phán thái độ triều Nguyễn lúc này là giúp không ra giúp, lưng
chừng, tránh né, nhưng so với thời điểm lịch sử lúc đó, triều Nguyễn phải đối phó với
nhiều việc trong và ngoài nước, hơn nữa Minh Mạng lại ở vào thế khó
xử 30T“Cái 30Tnghĩa 11Ttriều 11Tđình đối với nước láng giềng sao lại có thể gây trước mối động
binh”. Hơn nữa, triền Nguyễn cũng không muốn lao vào một cuộc chiến tranh mà chắc
chắn sẽ gây phức tạp cho quan hệ khu vực lúc đó, và đem lại nhiều khó khăn cho đất
nước mình.
Cuối năm 1828 cuộc chiến tranh Vạn Tượng - Xiêm La kết thúc. Năm 1831 vua
Xiêm Ra Ma III bỏ hình thức bảo hộ chuyển sang thống trị trực liếp Vạn Tượng. Theo
“Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á” của GS Lương Ninh: “Viên 30TChăn 30Tbị chiếm lại cuối
năm 1828, một người trong hoàng tộc được đưa lên ngôi bù nhìn 42Tở 42TViên 30TChăn. 30TĐến năm
1831, tiến thêm một bước nữa, vua Xiêm Ra Ma III đã xóa bỏ hình thức bảo hộ mà
chuyển sang hình thức cai trị trực tiếp đối với các mường Lào” [56, 107]. Quan hệ Vạn
Tượng và triều Nguyễn do tình hình 42Tở 42TVạn Tượng nên bị gián đoạn một thời gian khá
dài trong lịch sử thời cận đại.
Trong quan hệ giữa Việt Nam và Vạn Tượng, triều Nguyễn đã đi theo đường lối
đối ngoại “nhu viễn” và thường sách phong hay ban sắc mệnh cho nước lệ thuộc. Trong
suốt chiều dài của lịch sử quan hệ Việt Nam - Vạn Tượng, chúng ta không thấy có ghi
lại sự kiện Vạn Tượng sai sứ đến Huế xin 43Tsách 43Tphong hoặc có ghi chép gì về lễ sách
phong của triều Nguyễn đối với quốc vương Vạn Tượng. Nội dung quan hệ ngoại giao
giữa Việt Nam và Vạn Tượng chỉ thấy thể hiện qua nghĩa vụ triều cống, triều kính của
nước này đối với Việt Nam và việc trao đổi sứ giữa hai nước để bàn bạc, thảo luận về
những vấn đề giữa hai nước trong khu vực.
Năm 1801, để 22Tnối 22Tlại tình thân giao, vua Vạn Tượng sai sứ sang cống để xin hội
quân.
138
Cuối năm 1802, nước Vạn Tượng lại dâng phẩm vật địa phương và dâng một lễ
cống.
Năm 1805, quốc vương Vạn Tượng là Châu A Nụ sai sứ đến triều cống, triều đình
Huế đã đặt triều nghi ở điện Thái Hòa. Trong lễ cống này, Vạn Tượng xin 60T3 60Tnăm chịu
cống một lần, chịu phận “phiên thần”. Vua Gia Long y theo lời tâu đó sai bộ lễ bàn định
lệ cống, lấy năm 1805 làm năm đầu, cứ 3 năm 1 lần. Theo “Đại Nam hội điển sư lệ”: “về
kỳ hạn tiến cống của nước Vạn Tượng cứ 3 năm 1lần, lấy năm Sửu, năm Thìn, năm Mùi,
năm Tuất làm hạn...” [62, 464].
Như vậy, có thể nói rằng trước năm 1805, tuy Vạn Tượng nhiều lần sai sứ dâng
cống phẩm nhưng không tuân theo mội luật lệ nào được ấn định từ triều đình Huế.
Theo “ Đại Nam thực lục”: thành phần cống phẩm của Vạn Tượng tiêu biểu như:
“voi đực 2 con, sừng tê 2 tòa, ngà voi 2 chiếc, vỏ quế 5 cân” [7l, 111, 260], như thế so
với lệ định có phần giảm [70,111,262]. Gia Long cũng quy định thành phần sứ bộ của
Vạn Tượng như sau: 1 chánh sứ, 1 phó sứ, 3 tù trưởng, 2 thông ngôn, 30 người đi theo.
Tổng cộng hạn định chừng 38 người. Cùng với quy định thành phần đi sứ là quy định lộ
trình của sứ Vạn Tượng, triều Nguyễn phái trạm Nghệ An có nhiệm vụ hướng dẫn sứ đi.
Dưới triều Gia Long, Vạn Tượng có những lần cống sau: Vào năm 1801, 1802 (2
lần), 1805, 1809, 1811 (2 lần), 1814, 1817. theo nghiên cứu của Tsuboi - một học giả
Nhật thì dưới thời Gia Long: “Triều đình Vạn Tượng cho sứ sang năm 1805 và 1809”
[110, 135]. Theo chúng tôi, số lần cống của Vạn Tượng nhiều hơn nếu tính từ năm 1805
thì ít nhất cũng 6 lần sứ Vạn Tượng sang cống Việt Nam để thực hiện nghĩa vụ “phiên
thuộc”.
Năm 1821, nước Vạn Tượng sang cống như lệ thường, lúc này Gia Long 6Tđã 6Tbăng
hà, do vậy năm 1822, Vạn Tượng lại sang dâng lễ tiến hương. Vua Minh Mạng đã miễn
cho sứ Vạn Tượng lễ này. Năm 1824, khi Vạn Tượng sai sứ đến cống, Minh Mạng
xuống chỉ “lần này sứ thần Vạn Tượng đến tiến cống, trừ ra l0 người đến kinh bái yết,
còn tù trưởng, man đinh cộng 27 người, hiện lưu ở trấn Nghệ An... gia ơn c ấp cho mỗi
người 21T1 21Tquan tiền, 1 phương gạo để chi dòng tỏ ý thể tối cứu giúp ngoại phiên” [62,
486-487]. Sau lễ cống này do tình hình V ạn Tượng có chiến tranh nên vua Minh M ạng
miễn cho lất cả 42Tcác 42Tlễ cống.
139
Khi sứ Vạn Tượng đến Việt Nam, triều đình Huế cũng khoản đãi, cung đốn, thiết
tiệc rất chu đáo. Lệ khoản đãi cho sứ Vạn Tượng được định từ thời Gia Long thứ 4 gồm:
trâu, gạo, trầu, rượu, tiề n ăn hàng ngày. Đến năm Gia Long thứ 8, lệ này được định lại,
khi sứ Vạn Tượng đi về ngang qua trấn Nghệ An, dinh Quảng Đức, Quảng Trị đều được
cung cấp gà, vịt, gạo, mắm, tiền... Lệ này được duy trì mãi về sau. Ngoài ra, triều
Nguyễn còn có lệ 30Tđãi 30Tyến, cho nghe hát, đối với sứ Vạn Tượng.
Sứ Vạn Tượng cũng như sứ các tiểu quốc khác, khi sang Việt Nam đến Huế, phải
chờ triều Nguyễn định ngày tốt để làm lễ. Trong khoảng thời gian chờ đợi, sứ bộ ấy
phải tập nghi thức. Khi về lại nước mình, sứ Vạn Tượng phải làm lễ trước sân cửa Ngọ
Môn kinh thành Huế; để nhận từ triều đình Huế sắc thư gởi cho quốc vương Vạn Tượng
và phẩm vật thưởng cấp của triều Nguyễn.
Trong quan hệ hai nước, ngoài lệ triều cống của phiêu thuộc, Việt Nam 42Tvà 42TVạn
Tượng luôn có sự trao đổi sứ bộ ngoại giao với những nội dung như: thăm hỏi, hiếu hỉ,
hội lễ. Chúng ta biết triều Nguyễn có đặt lệ Tuất điển, tức là điển lệ thường viếng và
giúp đỡ ... Gia Long năm thứ 3 vua Vạn Tượng mất, em là A Nỗ dâng biểu cáo tang, vua
Gia Long ra chiế u chỉ cho dụ tế và cử một đoàn sứ Việt Nam sang làm nhiệ m vụ dụ tế.
Việc trao đổi sứ giữa Việt Nam và Vạn Tượng giống như việc trao đổi sớ giữa Việt
Nam và một số nước 83Tkhác, 83Tcòn mang nội dung giao lưu trao đổi giới thiệu hàng hóa, đặc
sản của từng nước cho nhau. Sau khi nhận cống 6Tphẩm 6Tcủa Vạn Tượng, phía Việt Nam
bao giờ cũng “trao đổi” trở lại với hình thức ban tặng. Lệ ban tặng cũng định ra từ năm
1805. Theo “Đại Nam hội điển sự lệ”: “Năm thứ 4 chuẩn y lời đề nghị: theo lệ thưởng
quốc trưởng nước Vạn Tượng lụa sợi se đỏ 5 tấm, trừu trắng 20 tấm, lụa mỏng các màu,
và vải trắng đen mỗi thứ 50 tấm...” [62,418].
Ngoài Vạn Tượng, còn có một số tiểu quốc Lào khác như Nam Chưởng, Trấn
Ninh... thỉnh thoảng cũng có sứ bộ đến cống cho triều Nguyễn. Quan hệ giữa triều
Nguyễn và các tiểu quốc (Mường) này khá lạnh nhạt. Trường hợp Nam Chưởng chẳng
hạn, vào tháng 9 năm 1829 lúc sứ bộ Nam 6TChưởng 6Tđến cống, sách “Đại Nam thực lục”
ghi lại: Minh Mạng cho là “Nam 6TChưởng 6Tnăm xưa qui phục, rồi lại thôi, thực là mất cái
lễ nước nhỏ thờ nước lớn...” [71,20,116]. Đến năm 1838 Minh Mạng ra lệnh nếu sứ
Nam Chưởng lại đến: “chuẩn cho đuổi về ngay” [71,20,44] .
140
Sau đó, Nam 6TChưởng 6Tthường cho quân đến quấy nhiễu vùng biên giới của Việt
Nam. Thực tế, sau 1831 Vạn Tượng và một số tiểu quốc khác của Lào trở thành nước
phụ thuộc Xiêm La. Ảnh hưởng triều Nguyễn ở các Mường Lào (kể cả Vạn Tượng) trở
nên lỏng lẽo. Các tiểu quốc Lào như 6Tđã 6Tđề cập luôn lấn cướp, quấy nhiễu vùng biên Việt
N 27Tam 27Tcho mãi đến thời Tự Đức, Tự Đức phải khó khăn lắm mới dẹp yên vùng biên viễn
giáp với các Mường Lào.
4.3.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với tiểu vương quốc Lào
- Vạn Tượng trong nửa đầu thế kỷ :
Quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn và Vạn Tượng trong đầu thế kỷ 19 có một
khởi đầu thuận lợi, êm đẹp. Nhìn về hình thức đây là mối quan hệ “nước lớn - nước
nhỏ”.
Trong thời Gia Long, tuy trong quan hệ Việt Nam - Vạn Tượng, Việt Nam là
“thượng quốc”, nhưng triều Nguyễn không 42T hề có 42Tmột sự can thiệp nào vào nội tình của
Vạn Tượng. Gia Long còn trả lại Trấn Ninh cho Vạn Tượng. Thực chất quan hệ giữa hai
nước này mang tình láng giềng tương trợ, giúp đỡ nhau không có sự “đe dọa, không
khinh miệt...”. Cũng không hẳn 42Tlà 42Tthời này, triều đình Huế luôn tìm cách “xâm lược”
Vạn Tượng. Việt Nam khẳng định tư thế một vương quốc phong kiến độc lập, vững
mạnh, nhưng không vì thế mà làm mất hòa khí với các nước láng giềng, đặc biệt là
trong quan hệ với Vạn Tượng. Theo tác phẩm “Việt Nam - Đông Nam Á quan hệ lịch sử
- văn hóa” thì: “Quan hệ giữa nhân dân hai nước rất mật thiết, nên trong lịch sử mỗi
nước, mỗi khi vận mệnh mỗi nước hưng hay suy, đều có ảnh hưởng nhất định đến nước
láng giềng của mình” [107,67].
Gia Long khi lên ngôi, xuất phát từ thực tiễn của đất nước và khu vực, từ yêu cầu
xây dựng triều đại v.v..., ông 6Tđã 6Tthực hiện một đường lối đối ngoại thật sự “nhu viễn”
đối với Vạn Tượng.
Minh Mạng kế vị ngai vàng lúc Việt Nam đang có uy tín 42Tvà 42Tảnh hưởng trên đất
Chân Lạp, nhưng chính lúc đó, quan hệ giữa Việt Nam - Xiêm La bắt đầu khó khăn. Khi
những khó khăn trong quan hệ Việt Nam - Xiêm La tạm ổn, thì năm 1827 chiến tranh
Vạn Tượng - Xiêm La bùng nổ. Triều Nguyễn lúng túng trong mối quan hệ tay ba này,
cuối cùng Minh Mạng chọn giải pháp tình thế là “nhẫn nại hòa dịu”. Thái độ trên của
141
triều Nguyễn bị lên án là bỏ rơi Vạn Tượng, né tránh Xiêm La, “bảo thủ giữ mình” “tầm
thế nước lớn” v.v... Tất cả những ý kiến phê phán về thái độ của triều Nguyễn trong vấn
đề Vạn Tượng thời Minh Mạng đều có những khía cạnh hợp lý, song phần nào chưa thật
thỏa đáng. Tiêu bi ểu là nhận định của nhà nghiên Nguyễn Văn Sơn. 6TTừ trước 6T1975 ông
cho thái độ của Minh Mạng “trước giúp sau bỏ” đối với Vạn Tượng là “sự bất tín đối
với một nước nhỏ dưới quyền bảo hộ của mình, vừa là điều đáng buồn cho quốc sỉ”
[75,398]. Lý giải cho cách xử trí này, trước hết chúng ta phải nhận thấy rằng: triều
Nguyễn từ khi Gia Long lên ngai đã cố gắng thiết lập và duy trì quan hệ tốt đẹp với
Xiêm La 42Tvà 42TVạn Tượng... Song vấn đề gây ảnh hưởng trên đất chân Lạp 42Tvà 42T43TV ạ n 43TTượng
luôn cản trở trong bang giao Việt - Xiêm La 11Tsuốt 11Tcả thời cân đại. Chính vì thế, khi Vạn
Tượng xung đội với Xiêm La, cầu cứu triều Nguyễn, Minh Mạng 21Tđã 21Trơi vào một hoàn
cảnh khó xử. Làm sao để giúp đỡ Vạn Tượng mà không làm mất hòa khí với Xiêm La là
mội việc khó. Minh Mạng khuyên Vạn Tượng “làm tôi thờ cả hai nước” cũng với mục
đích giảng hòa mâu thuẫn Vạn Tượng - Xiêm La, đồng thời đây cũng là cách tốt nhất để
tránh chiến tranh, và dung hòa hai lực lượng bên ngoài mà Vạn Tượng nhờ can thiệp.
Bên cạnh việc cố gắng duy trì hòa bình trong quan hệ Việt Nam, Vạn Tượng, Xiêm La,
triều Nguyễn tích cực phòng bị đất nước. Chống xâm lăng nhưng không hiếu
chiến 42Tlà 42Tđặc trưng của đường lối đối ngoại triều Nguyễn. Tuy có những hạn chế trong
quan hệ với một số nước láng giềng, nhưng dù sao triều Nguyễn cũng đã “lấy nghìn lý”
để tiến hành một số cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì với Xiêm La, để dàn xếp những
vấn đề trong quan hệ quốc tế lúc đó, c ố tránh họa binh đao.
Trong quan hệ với Vạn Tượng, Việt Nam cũng không hẳn là “bất tín”, Vạn Tượng
nhờ giúp, triều Nguyễn đã giúp, dù rằng sự giúp đỡ đó có một giới hạn nhất định. Do
vậy, kết luận mang tính khẳng định là triều Nguyễn “bất tín” có phần chưa thật chính
xác.
Thực chất, trong đường lối ngoại giao của triều Nguyễn riêng đối với Vạn Tượng,
cũng không hoàn toàn mang tính chất “đối ngoại xâm lược”, hoặc “gây chiến”... bởi lẽ
trong biên niên lịch sử quan hệ giữa triều Nguyễn và Vạn Tượng nửa đầu thế kỷ 19, tất
cả các vụ việc gây căng thẳng trong quan hệ hai nước hầu như không phả i do phía V iệt
Nam tạo nên.
142
Đường lối đối ngoại của các vua đầu thời Nguyễn về cơ bản mang tính chất mềm
dẻo, thận trọng, phản ánh ý thức hảo vệ hòa bình, an ninh quốc gia và khu vực. Ông vua
Nguyễn dường như “cứng rắn” trong nội trị và ngoại giao 43Tlà 43TMinh Mạng, khi giải quyết
các vấn đề trong quan hệ khu vực vẫn được nhận định là “không muốn gây việc binh
đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc” [29,219]. Phương thức xử trí của
Minh Mạng không thiên kiến, không đứng hẳn về Vạn Tượng, cũng không nghiêng về
Xiêm La, nhất quán trong đối sách trung lập.
Đến nửa sau của thố kỷ 19, khi liên thực tế “nước Lào đã bị biến thành một tỉnh
của Xiêm, vua Lào thực tế chỉ là 43Tbù 43Tnhìn” [15,269], thì quan hệ ngoại giao giữa hai
nhà 22Tnước 22Tphong kiến Việt Nam - Vạn Tượng không còn tồn lại. Việt Nam, Vạn Tượng,
Xiêm La... từ giữa thế kỷ 19 đối diện với nhiều thực tế khó khăn, đặc biệt 43Tlà 43Tsự uy hiếp
của tư bản phương Tây ngày càng gia tăng, triều Nguyễn đã uyển chuyển khéo léo lách
qua những thác ghềnh trong các mối quan hệ khu vực, duy trì sự 43Tổn 43Tđịnh trong quan
hệ 43Tcác nước ở Đông 43TNam Á. Đây là đường lối hợp lý và có thể biện minh phần nào cho
những hạn chế trong khi thực hiện đường lối đó của triều thần nhà Nguyễn.
143
KẾT LUẬN
1. Những cố gắng của triều Nguyễn trên lĩnh vực ngoại giao trong nửa đầu thế kỷ 19:
Triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 là một vương triều phong kiến khá vững
mạnh, chính quyền phong kiến trung ương đã ý thức được tầm quan trọng của những
mối quan hệ với các quốc gia láng giềng và với phương 42TTây. 42TĐể bảo vệ an ninh chính trị
và độc lập chủ quyền của đất nước, các vua đầu triều Nguyễn đã hoạch định một đường
lối đối ngoại khá hợp lý, trong hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ 19.
Năm 1804, khi Gia Long xưng đế, tình hình trong nước và bên ngoài
không 22Tcho 22Tphép ông có một đường lối đối ngoại cứng rắn. Gia Long cần có một môi
trường quốc tế hòa bình, ổn định. Đó là lý đo Gia Long đặc biệt khéo léo, mềm dẻo khi
xử lý các vấn đề trong quan hệ với Trung Quốc. Đường lối đối ngoại của Gia Long
trong quan hệ với nước láng giềng hùng mạnh này thể hiện tinh thần “trong thì xưng đế,
ngoài thì xưng vương”. Việt Nam nhún nhường chịu phận “chư hầu”, tôn xưng Trung
Quốc là “Thiên triều” nhằm bảo đảm sự bình yên trong quan hệ Việt - Trung. Kế thừa
chính sách ngoại giao của tổ tiên xưa, triều Nguyễn đã trung thành 78Ttuân 78Ttheo phương
châm ngoại giao: cương nhu kết hợp đúng lúc, đúng chỗ, quốc thể bảo tồn, tôn trọng
nước lớn, nhưng giữ vững độc lập, xây đắp hòa hiếu lâu dài.
Giải quyết thỏa đáng mối quan hệ với Trung Quốc là mối bận tâm hàng đầu của
nhà nước phong kiến Việt Nam qua các thời đại.
Đầu thế kỷ 19, quan hệ Việt - Trung không sóng gió, một phần còn do hoàn cảnh
của Trung Quốc lúc đó không cho phép Trung Quốc can thiệp xâm lược các nước nhỏ
láng giềng. Mặt 43Tkhác, 43Tchính quyền phong kiến Việt Nam cũng luôn tuân thủ các luật lệ
ngoại giao trong quan hệ với Trung Quốc. Kiểu ứng xử ngoại giao uyển chuyển mềm
mỏng của triều Nguyễn đối với Trung Quốc còn do đặc điểm địa chính trị và địa lịch sử
quy định. Trong thời trung đại hoạt động ngoại giao của Việt Nam chủ yếu là với Trung
Quốc. Mục tiêu của triều đình Huế cũng giống như các triều đại trước. Đó là giữ được
quan hệ hòa bình với nước lớn Trung Quốc và trong nửa đầu thế kỷ 19 triều Nguyễn
làm được. Điều này đã đảm bảo sự yên ổn vùng biên giới phía Bắc. Trong quan hệ với
Trung Quốc, triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng để tạo nên sự ổn định trong khu vực.
Việt Nam nằm sát kề một nước lớn trong khu vực mà nước lớn ấy lại luôn thi hành một
144
chính sách đối ngoại xâm lấn bành trướng đối với các nước nhỏ láng giềng, cho nên
triều Nguyễn vào đầu thế kỷ 19 trước hết phải có một đối sách mềm dẻo để vượt qua
thách thức tự nhiên và chính trị này.
Đối với Vạn Tượng, Chân Lạp: Trong đầu thế kỷ 19 quan hệ giữa triều Nguyễn
với láng giềng có lúc căng thẳng dẫn tới chiến tranh. Trong quan hệ giữa các vương
quốc phong kiến xưa việc xung đột chiến tranh là chuyện bình thường. Quan hệ Việt
Nam với Chân Lạp và Vạn Tượng cũng nằm trong quy luật đó. Về cơ bản các vua
Nguyễn đã có một chiến lược ngoại giao nhằm bảo đảm an ninh cho vùng biên ải phía
tây và 43Ttây 43Tnam của tổ quốc. Triều Nguyễn đã thể hiện được vị thế của Việt Nam trong
khu vực, đã nâng cao thanh thế uy danh của đất nước trong quan hệ khu vực lúc đó.
Đối với Xiêm La: Xiêm La là quốc gia tương đồng với nước ta về nhiều mặt, nên
triều Nguyễn phải có một đường lối đối ngoại nhằm đảm bảo quan hệ ngoại giao hòa
hiếu lâu đài. Qua các sự kiện trong quan hệ ngoại giao Việt - Xiêm nửa 86Tđầu 86Tthế kỷ 19,
chúng ta thấy rằng triều Nguyễn đã biết 86Tá p 86Tdụng một cách khéo léo phương châm
ngoại giao “không bỏ bạn tìm thù”, trong cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình Băng
Cốc. Trong quan hệ với Xiêm , triều Nguyễn bao giờ cũng đặt vấn đề đấu tranh ngoại
giao lên hằng đầu. Có những tình huống buộc triều đình Huế phải áp dụng biện pháp
quân sự, nhưng về cơ bản triều Nguyễn đã thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình,
hữu nghị với Xiêm. Chủ yếu, trong suốt nửa đầu thế kỷ 19 tình hòa hi ếu giữa hai nước
đã được triều Nguyễn ra sức vun xới, duy trì cho đến ngày Pháp gây chiến ở Việt Nam.
Trong quan hệ với nước Pháp, tuy triều Nguyễn lúng túng trong phương sách đối
phó trước sự xâm nhập của phương Tây, song triều Nguyễn cũng có cách ứng xử của
riêng họ để có một “lối thoát”. So sánh với các nước phương Đông cùng cảnh ngộ, vua
Gia Long 6Tđã 6Thoạch định mội đối sách với nước Pháp mang tính nhu hòa, uyển chuyển
hơn. Điều này 6Tđã 6Tgiúp Gia Long rất nhiều trong việc ổn định đất nước sau một thời gian
dài nội chiến. Ông đã tranh thủ được môi trường quốc tế ổn định để củng cố và xây
dựng đất nước. 6TVề 6Tcơ bản đó là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân
tộc lúc đó.
Đến thời Minh Mạng, do tình thế bắt buộc nên ông đã có những điều chỉnh cần
thiết, mang tính bắt buộc trong nội trị 42Tvà 42Tngoại giao. Những chính sách đối ngoại trên
145
các lĩnh vực của Minh Mạng có tính chất cứng rắn hơn. Vấn đề “hạn thương” và “sát
đạo” dưới triều Minh Mạng đã ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ quốc tế, cũng như các
quan hệ trong nước (quan hệ Lương - Giáo). Tuy nhiên, đây cũng là tình hình chung cùa
nhiều nước Châu Á trong chủ trương “bế môn tỏa cảng” của mình.
Thiệu Trị, Tự Đức ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn, đặc biệt trong quan hệ với
Pháp, ý đổ “mở cửa” vào cuối đời Minh Mạng không th ể tiếp nối được.
Thiệu Trị rồi Tự Đức ra sức tăng 42Tcường 42Tđường lối “không phương Tây”. Thực tế,
thì vua Thiệu Trị có ôn hòa, 6Tnhân 6Tnhượng hơn trong vấn đề truyền giáo. Điều đó gây nên
một sự lạc quan trong nước. Tuy nhiên, với sức mạnh quân sự của mình và ưu thế sau
thắng lợi ở Trung Quốc, Pháp tăng cường khiêu khích ở Việt Nam. Cuộc chiến Pháp -
Việt đã bùng nổ vào năm 1858 đánh dấu thời kỳ khổ nhục nhưng vĩ đại của nhân dân ta.
Như vậy, quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nhìn chung là nhất quán ở đường lối
“không phương Tây”, những bế tắc, lúng lúng 42Tvà 42Tthất bại của triều Nguyễn có nguyên
nhân lịch sử của cuộc đụng đầu Đông - Tây, của hai phương thức sản xuất tư bản và
phong kiến Á Đông. Tuy vậy, qua so sánh với nhiều nước Đông Á khác như Nhật Bản,
Xiêm La cũng có thể thấy triều Nguyễn có những tận tâm, 6Ttận 6Tlực với vận mệnh quốc
gia. Những nghi kỵ, dè dặt của triều Nguyễn đối với Pháp là có cơ sở. Khi sức ép của
thực dân Pháp ngày càng gia tăng, thì triều đình Huế càng ra sức tự thủ, tự vệ. Gia Long
và con cháu của ông đã không thể làm khác được, ngoài việc quay lưng chối từ mọi
lời 6Tđề 6Tnghị xin quan hệ với Pháp
2. Những vấn đề tồn tại trong quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn:
Đối với phương Bắc, triều Nguyễn thực hiện chính sách “Hòa với phương Bắc”.
Đây là chính sách đối ngoại xuất phát vì mục liêu hòa bình, an ninh khu vực. Tuy nhiên,
trong các hoạt động ngoại giao đối với Trung Quốc, triều Nguyễn củng 43Tcố 43Tnhững hạn
chế đáng kể: Sự xa hoa, tốn kém trong đón tiếp, rước sứ nhà Thanh. Sự “thần phục”
Trung Quốc, dù là trên danh nghĩa, danh xưng, nhưng vua Nguyễn vẫn phải khấu đầu,
quì lạy trong lễ sách phong của sứ Trung Quốc phần lớn các hoạt động ngoại giao liên
quan đến Trung Quốc, triều Nguyễn đều tổ chức long trọng với nhiều chi tiết, nghi lễ
phức tạp kéo dài không cần thiết. Trong đường lối ngoại giao của Việt Nam thời kỳ
này, chúng ta vẫn nhận thấy triều Nguyễn ít nhiều chịu ảnh hưởng của những “dấu vết
146
Trung Hoa”, đặc biệt là trong quan hệ với các nước phương Tây (đóng cửa giao thương,
coi thường “Tây dương, Bạch quỉ”...).
- Đối với Xiêm La, đây là nước quân bình với Việt Nam về mọi mặt (thực lực kinh
tế, trình độ phát triển...), triều Nguyễn có lúc đã không duy trì được mối quan hệ láng
giềng hòa hiếu một cách trọn vẹn. Cuộc chiến giữa Việt Nam với Xiêm La dưới thời
Nguyễn 43Tlà 43T một bằng chứng về sự xung đột giữa những quốc gia phong kiến thời này.
Như chúng ta đã biết, cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng trên đất Chân Lạ p với Xiêm La
đã làm cho triều Nguyễn hao binh, t ổn lực rất nhiều, và dù sao chiến tranh cũng đã tổn
thương đến tình cảm gắn bó giữa 43Tcác 43Tdân tộc Việt, Xiêm La, Chân Lạp và gây nên
những hậu quả chiến tranh lâu dài trong lịch sử quan hệ đối với các 22Tnước 22Tnày.
- Đối với Vạn Tượng, 87TChân 87TLạp. Hai nước láng giềng có cùng chung biên giới,
triều Nguyễn đã thực hiện một chính sách đối ngoại ít nhiều mang tính chối “nước lớn”.
Đường lối chính sách đối ngoại đó đã làm cho biên giới lãnh thổ Việt Nam đầu thời
Nguyễn, đặc biệt là dưới triều vua Minh Mạng được mở rộng hơn cả. Giống như Trung
Quốc, Việt Nam thời Nguyễn cũng gây ảnh hưởng đối với các 87Tnước 87Tláng giềng (Vạn
Tượng, Chân Lạp), nhằm tạo dựng một hệ thống phiên thuộc cho Việt Nam. Triều
Nguyễn phong vương cho vua các nước này, và quy định kỳ hạn tiến cống trong điển lệ
ngoại giao đối với Vạn Tượng, Chân Lạp cũng như một 19Tsố 19Tnước nhỏ xung quanh Việt
Nam. Đường lối đối ngoại trên của triều đình Huế là một trong nhiều nguyên nhân gây
nên sóng gió trong quan hệ Việt Nam với 42Tcác 42Tlân bang. Tuy chiến tranh giữa 42Tcác 42Tquốc
gia phong kiến là hiện tượng bình thường nhưng những xung đột giữa Việt Nam - Xiêm
La; Việt Nam - Vạn Tượng; Việt Nam - Chân Lạp đã gây 19Tnên 19Tnhiều 42Ttổn 42Tthất về của và
người, dẫn đến tiềm lực của đất 42Tnước 42Tsuy thoái và góp phần làm quan hệ trong khu vực
thiếu sự ổn định. Đây là một hạn chế trong quan hệ ngoại giao của triển Nguyễn trong
nửa đầu thế kỷ 19 với các nước láng giềng.
Những hạn chế trong đường lối đối ngoại của triều Nguyễn đối với nước Pháp đã
đưa lại hậu quả tai hại nhất trong lịch sử nước ta.
Đẩu thế kỷ 19, khi yêu cầu tìm kiếm và mở rộng thị trường thuộc địa gia tăng,
nước Pháp đã xây dựng hệ thống thuộc địa của họ ở Bắc Phi, Trung Đông. Pháp bắt đầu
hướng sự chú ý vào châu Á - Thái Bình Dương.
147
Vua Gia Long lên ngôi trong hoàn cảnh lịch sử nhiều biến động. Đất nước ta bước
vào thời hậu chiến. Bên ngoài các áp lực phương Tây gia tăng. Pháp đã và đang tăng
cường tiếp xúc với Việt Nam, đầu tiên là thông qua con đư ờng buôn bán... Trong hoàn
cảnh đó, Gia Long đã tìm cách tránh né quan hệ chính thứ c với nước Pháp, thực tế ông
đã định một 6Tđường 6Tlối đối ngoại mang 6Tmàu 6Tsắc cổ Á đông. Đó chính là đường lối đối
ngoại “tự thủ”, “khép kín”, mang tính chất “không phương Tây”. Đường lối đối ngoại
trên tiếp tục được thực hiện ở các đời vua Nguyễn sau. Đường lối đối ngoại khép kín
“không phương 6TTây” 6Tấy dù có lý đo để biện minh, cũng đi ngược lại với chính sách mở
mang thị trường của các 89Tnước 89Ttư bản 89Tphương 89TTây. Đi đôi với việc không ký kết các văn
bản quan hệ chính thức với Pháp, triều Nguyễn còn thực thi chính sách “bài đạo”, có
thời điểm “sát đạo”, tạo ra cái cớ để Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta. Sự
kiện triều đình Huế cấm đạo đã được giới 6Ttruyền 6Tthông Pháp thổi phồng, xuyên tạc, tạo
ra nguồn dư luận quốc tế bất lợi cho Việt Nam. Hoàng đế Pháp Napoleon III lên ngôi
nhờ thế lực tôn giáo, ông ta lại đang chờ được giáo hội tuyên phong. Về lý mà xét, thì
vương quyền, thầ n quyền và tư bản Pháp là 3 thế lực cấu kết chặt chẽ với nhau. Đường
lối đối ngoại “không phương 43TTây” 43Tcủa triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 gây khó
khăn cho giáo hội và tư bản Pháp, 78Tvà 78TPháp đã mượn cớ đó can thiệp quân sự vào Việt
Nam. Tháng 7 năm 1857 Hội Đồng nội các của Hoàng đế Pháp thông qua kế hoạch can
thiệp 6Tquân 6Tsự vào Việt Nam, thực hiện ý đồ xâm lược 30Tđã 30Tđược nung nấu lừ lâu của tư bản
Pháp.
Đường lối đối ngoại “không phương 42TTây” 42Tcủa triều Nguyễn dù sao cũng không phù
hợp với xu thế phát triển tất yếu khách quan của lịch sử của nước ta đầu thế kỷ 19.
Đường lối ấy lại càng không thể tạo điều kiện cho những nhân tố mới du nhập và phát
triển thúc đẩy xã hội Việt Nam tiến lên. Mội điểm đáng lưu ý là trong nửa đầu thế kỷ 19,
cơ quan ngoại giao của việt Nam còn chưa có một bộ phận nghiên cứu về phương Tây.
Dưới triều vua Minh Mạng có cai đội Nguyễn Mẫn đứng đầu ban Tây Dương thuộc
trong hành 6Tnhân 6T(cơ quan chuyên thông ngôn ngoại giao). Tứ dịch quán của Triều
Nguyễn cũng chỉ dạy bốn thứ tiếng (Bồ Đào Nha, Vạn Tượng, Xiêm La, Mã Lai). Triều
đình Huế cũng cho lập các công quán, nhưng chủ yếu để tiếp sứ giả các nước phương
Đông còn sứ thuộc các nước phương Tây không được lưu ngụ.
148
Vị vua khai sáng ra Triều Nguyễn đã từ chối mối quan hệ chính thức với nước
Pháp, nước Anh...vì lo ngại ảnh hưởng và sự xâm lăng của phương 6TTây. 6TĐó cũng là lý
do ông định hướng chiến lược ngoại giao không dính dáng gì đến các nước tư bản Tây
Âu. Minh Mạng đã tiếp tục đường lối ngoại giao đó. Thực tế là từ Triều vua Minh Mạng
đến Triều vua Tự Đức các vua Nguyễn không có sự thay đổi lớn về chiến lược ngoại
giao đối với nước Pháp.
Đường lối ngoại giao của các vua Nguyễn đã tự tách rời với các nước tư bản Tây
Âu nói chung và nước Pháp nói riêng. Do vậy triều Nguyễn đã không tự bảo vệ được
quốc gia một cách hiệu quả, và làm cho đất nước ngày càng thiếu sự hiểu biết về thế
giới bên ngoài, dần dần không hòa nhịp để bắt kịp tiến trình phát triển của lịch sử.
Đường lối chính trị trên cùng với những hạn chế trong chính sách kinh tế đối ngoại,
chính sách tôn 43Tgiáo 43Tđã tạo ra dư luận quốc tế không thuận lợi cho những phái đoàn
ngoại giao dưới triều vua Minh Mạng.
Dưới Triều Nguyễn, vua là người chịu trách nhiệm về các chính sách đối ngoại
và 43Tcác 43Thoạt động với người nước ngoài. Quyền hành tuyệt đối của vua đã làm cho việ c
vua chịu lắng nghe, chấp nhận các đề nghị cải cách của triều thần trên lĩnh
vực 49Tngoại 49Tgiao vô cùng khó khăn.
Phan Thanh Giản khi đi sứ ở Pháp về đã tâu xin vua Tự Đức: thực tình hòa hảo với
Pháp, giao lưu mua bán với 43Tcác 43Tnước, cho dân mình du học, sửa đổi việc trong nước để
dân khôn sáng thì nư ớc nhà mới hùng cường. Vua Tự Đức đã không y tấu.
Có ý kiến cho rằng, không nên đơn thuần kết tội các vua Nguyễn, mà phải quy lỗi
cho cả một thời đại “chưa đủ thời gian tính” hay “như con nhộng còn nằm trong vỏ kén,
nó muốn chui ra khỏi kén nhưng chưa đủ năng lực để chọc thủng lưới bao” [105,
216-217]. Xét toàn cảnh chính trị của đất nước trong đầu thế kỷ 19 chúng ta có thể đồng
tình với ý kiến trên. Nhìn chung, trong đầu thế kỷ 19, trình độ nhận thức của phần lớn
tầng lớp phong kiế n thống trị Việt Nam còn bị hạn chế, chưa bắt kịp nhịp điệu của vận
hội mới. Triều Nguyễn đã loay hoay tìm phương cách bảo vệ vương quyền về đất nước.
Đường lối đó không 78Tđáp 78Tứng được các yêu cầu của lịch sử - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ
19. Chúng ta biết rằng, tiếng súng của cuộc chiến tranh thuốc phiện ở Trung Quốc tuy
có cảnh tỉnh vua Minh Mạng, song Triều Nguyễn lại không rút ra được điều gì từ biến
149
cố này, mà ngược lại, vua Minh Mạng chủ trương đề phòng “họa Tây dương” một cách
cứng rắn hơn trước.
“Đóng cửa” về chính trị - ngoại giao là một nội dung mang tính chất tương đồng ở
phần nhiều các quốc gia phong kiến Á châu thời này. Điều đó đã tạo nên một sự thụ
động trong ngoại giao và tình trạng trì trệ bảo thủ chung của phương Đông. Các vua đầu
triều Nguyễn đã không thể vượt qua những hạn chế do giai cấp và thời đại ràng buộc.
Giai cấp phong kiến thống trị 102TViệt 102TNam không thể tìm ra được một hướng đi mới trong
quan hệ quốc tế lúc đó nhằm bảo đảm độc lập dân tộc và lợi ích an ninh quốc gia. Chính
vì vậy, họ mãi mãi chịu sự phán 102Txét 102Tcủa lịch sử, về việc để cho đất nước chịu cảnh gần
100 năm rên xiết dưới ách đô hộ của thực 60Td â n 60TPháp.
3. Những bài học kinh nghiệm từ quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn trong nửa đầu
thế kỷ 19:
Nước Việt Nam phong kiến trước đây và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay khác biệt cơ bản về thể chế chính trị, đối tượng và phương thức ngoại
giao. Hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ 19 cũng khác với hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ 21.
Tuy vậy những nhiệm vụ của đường lối chính sách ngoại giao của hai chế độ vẫn có
cùng chung một nội dung. Đó là : Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ.
Trong quan hệ giữa các 22Tnước 22Tphong kiến xưa thì chiến tranh là hiện tượng khá phổ
biến. Vì thế, triều Nguyễn cũng như các triều đại phong kiến Việt Nam trước đó, luôn
định hướng đường lối ngoại giao nhằm mục đích tối cao là bảo đảm độc lập dân tộc, lợi
ích quốc gia và quyền bính của dòng họ. Đường lối ngoại giao đó cũng phải tính đến
vấn đề môi trường quốc tế hòa bình, ổn định để các vua Nguyễn có thời gian phục hồi
đất nước sau nội chiến. Đây là bài học kinh nghiệm mà bất kỳ nhà nước nào trên thế
giới cũng phải lưu ý.
Một kinh nghiệm đối ngoại cần thiết mà lịch sử quan hệ ngoại giao của triều
Nguyễn để lại đó là khi thực hiện đường lối đối ngoại, những người nắm vận mệnh
nước nhà cần tính đến vấn đề nâng cao uy thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhũng mục tiêu mà nhà nước phong kiến Nguyễn định hướng trong các mối quan
hệ quốc tế của mình cũng giống mục tiêu mà nhà nước Việt Nam hiện tại hướng tới: Đó
150
là ưu tiên hàng đầu cho quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực theo
tinh thần “bán họ hàng xa mua láng giềng gần”.
Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc là mối quan hệ lâu đời kéo dài hàng mấy ngàn
năm đầy thăng trầm và phức tạp. Bài học lịch sử rút ra từ mối quan hệ này là kinh
nghiệm quan trọng cho quan hệ ngoại giao của Việt Nam hiện nay. Như chúng ta đã
biết, không ai có thể chọn được láng giềng. Việt Nam là một nước nằm sát nước lớn
Trung Quốc, 42Tmà 42TTrung Quốc phong kiến lại luôn thi hành chính sách bành trướng lãnh
thổ. Như vậy, hòa bình yên ổn, lợi ích của 6Tdân 6Tlộc của 6Thai nước6T gắn liền và có mối quan
hệ hữu cơ với quan hệ các nước láng giềng.
Trong quan hệ với Trung Quốc, triều Nguyễn đã để lại một bài học quan trọng
trong lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam. Đó là bài học biết Cương - Nhu đúng lúc.
biết kết hợp một cách khéo léo nguyên tắc với việc sử dụng linh hoạt sách lược nhún
nhường khi cần thiết, nhằm đảm bảo hòa bình ổn định khu vực. Đây là bài học mà cho
đến nay vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn.
Với phương châm ngoại giao “biết người biết ta”, triều Nguyễn luôn tỏ rõ thái độ
tôn trọng nước lớn láng giềng Trung Quốc, trên cơ sở giữ vững độc lập quốc gia, lợi ích
dân tộc. Đó chính là nguyên nhân trong suốt hơn nửa thế kỷ 19 quan hệ hữu nghị Việt -
Trung không 92Tcó 92Tnhững biến động lớn. Về 92Tcơ 92Tbản, tình đoàn kết giữa hai 42Tdân 42Ttộc Việt -
Trung được giữ gìn và phát triển.
Với các nước Chân Lạp, Vạn Tượng, Xiêm La, triều Nguyễn xem các nước này là
đối tượng quan trọng trong quan h ệ quốc tế của mình.
Thông qua các mối quan hệ với Xiêm La, Vạn Tượng, Chân Lạp, triều đình Huế đã
phát huy được truyền thống ngoại giao hòa bình, chính nghĩa, hòa hiếu, thủy chung,
độ 6Tlượng 6Tcủa dân tộc Việt Nam. Nhìn chung, đường lối ngoại giao 92Tcủa 92TViệt Nam trong
nửa đầu thế kỷ 19 phản ánh tinh thần yêu chuộng hòa bình, thể hiện mong muốn thêm
bạn bớt thù, và tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc 92Ttế. 92TĐường lối
ngoại giao của triều Nguyễn trong một chừng mực nhất định, đã 92Tthể 27T92Thiệ n 27T92Tđược chính
sách ngoại giao cân bằng giữa các nước trong khu vực, đặc biệt 92Ttrong quan hệ với nước
lớn Trung Quốc.
151
Những hạn chế trong đường lối ngoại giao với nước Pháp của triều Nguyên đã để
lại nhiều bài học kinh nghiệm lịch sử cho quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện đại. Đó là
bài học về việc phải kịp thời nắm bắt xu thế phát triển của tình hình thế giới, hiểu biết
sân sắc thế và lực của đất nước, của cục diện quốc tế, phải luôn theo sát hoàn cảnh thế
giới, nắm bắt cho được quy luật vận động để theo kịp vận hội 92Tmới và 92Tđổi mới 6Ttư 6Tduy đối
ngoại. Đầu thế 92Tkỷ 92T19 hoàn cảnh 92Ttrong nước và 92Tngoài nước đòi hỏi Việt Nam
phải 6Ttăng 6Tcường mở rộng các mối quan hệ quốc tế, thắt chặt hơn quan hệ với các nước
trên thế giới...nhất 92Tlà 92Tvới phương Tây để bảo vệ hữu hiệu lợi ích và an ninh đất nước.
Chúng ta sống trong thời hiên đại, nội dung, tính chất thời đại hoàn toàn khác biệt
so với hoàn cảnh lịch sử những năm đầu kỷ 19. Chính vì vậy, không thể yêu cầu các bậc
tiền nhân phải nhận thức, tư duy và hành động như con người hiện đại.
Chúng tôi đã cố gắng tái hiện trong chừng mực có thể bức tranh quan hệ ngoại
giao của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX để xác lập một cái nhìn có tính hệ thống - lịch sử
làm căn cứ cho những nhận định, đánh giá của mình. Chúng tôi quan niệm nhiều vấn đề
về vai trò lịch sử của nhà Nguyễn vẫn chưa khép lại, trong đó có vấn đề về quan hệ
ngoại giao. Những kết luận của chúng tôi về vai trò lịch sử triều Nguyễn thông qua việc
nghiên cứu quan hệ ngoại giao của vương triều này trong nửa đầu thế kỷ XIX cũng chỉ
dám xem là những kết luận có tính chất bước đầu để làm 83Tcơ sở 83Tcho những nghiên cứu
sau hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1 . Nguyễn Huyền Anh (1967), 42TViệt Nam danh nhân từ điển, 42TKhai Trí, Sài Gòn
2 . Đào Duy Anh (1992), 42TViệt Nam văn hóa sử cương, 42TNXB TP.HỒ Chí Minh, Khoa Sử
ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.
3 . Nguyễn Thế Anh (1970), 42TViệt Nam dưới thời Pháp đô hộ, 42TLửa Thiêng xuất bản SG
4 . Nguyễn Thế Anh (1971), 42TKinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn , 42TLửa
Thiêng xuất bản SG.
5 42T. 42TNguyễn Thế Anh (1995), 42TSứ bộ Miến Điện phái đến Đại Nam năm 1823: Vài nhận xét
về thế cờ ngoại giao trong bán đảo Đông dương đầu thế kỷ 19, 42TTạp chí Thông tin Khoa học và
Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ - Môi trường Thừa Thiên - Huế, số 2.
6 . Đặng Anh (1995), 42TThử nhìn lại vấn đề Gia Long một cách khách quan trong lịch sử dân
tộc - 42TChương trình nghiên cứu triều Nguyễn, số 4, Đại học Sư phạm Huế.
7 . Đỗ Bang (chủ biên) (1997), 42TTổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn
I802-1884, 42TNXB Thuậ n Hóa, Huế
8 . Đỗ Bang (1997), 42TKinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, 42TNXB Thuận
Hóa, Huế.
9 . Đỗ Bang, Nguyễn Minh Tường (1996), 42TChân dung các vua Nguyễn, 42TNXB Thuận
Hóa, Huế.
10 . 42TBiên Niên Lịch Sử cổ trung đại Việt Nam từ đầu đến giữa thế kỷ 19, 42T(1987) NXB KHXH,
Hà nội.
11 . C. Maybon (1931), Lịch sử Việt Nam, Paris
12 . Nguyễn Đức Chi (1973), 42TViệc bang giao giữa Đại Nam và các nước Tây dương dưới
triều vua Thánh Tổ - 42TTiểu luận Cao học lịch sử, S6.4.
13 . Phan Trần Chức, Lê Quế (1956), 42TNguyễn Tri Phương 42T58T,NXB 58TChính 58TKý, s6 .
14 . Phạm Cao Dương, Nguyễn Khắc Ngữ (1968), 42TSử học đệ nhị - 42TNam Sơn.
153
15 . Nguyễn Khắc Cần, Phạm Viết Thực(1994), 42TTừ Đà 42T93TNẵng đến 42T93TĐiện 42T93TBiên 42T93TPhủ, 42TNXB
QĐND, Hà Nội.
16 . Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (1995), 100TCác triều đại Việt Nam, 100TNXB Thanh Niên
17 . Ngô Giáp Đậu (1993), 42THoàng Việt Long Hưng Chí, 42TNXB Văn Học.
18 . Lê Quý Đôn, 42TBắc Sứ thông lục.
19 . Mạc Đường (6/1988), 42TNgười Việt Thiên Chúa giáo ở miền Nam nước ta từ thể kỷ 17 đến
thế kỷ 19, 42TTạp chí Nghiên Cứu Khoa Học số 8, 9, l0.
20 . Durant (1997) - 42TLịch sử văn minh Trung Quốc, 42TNXB Văn Hóa Thông Tin.
21 . Trần Văn Giàu (1993), 42TSự phát triển của tư tưởng của Việt Nam từ thế kỷ 19 đến Cách
mạng tháng 8, 42TT1, NXB Tp Hồ Chí Minh.
22 . Trần Văn Giàu (1958), 42TSự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước
1958, 42TNXB Văn Hóa Cục Xuất Bản Bộ Văn Hóa, Hu ế.
23. Thái Nhân Hòa ( chủ biên) ( 39T1 39T995), 42TPhạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân 42THội KHLS
TP. Hồ Chí Minh.
24 . Huy Vũ - Hữu Hợp (3/1988) - 42TCái gì của nhà Nguyễn hãy trả cho nhà Nguyễn, 42TKỷ
yếu Hội Nghị Khoa Học.
25. Bửu Kế (2/1963) - 42TLăng Tự Đức, 42TĐại Học số 3.
25 . Phan Khoang (1995), 42TViệt Nam Pháp thuộc sử, 42TNhà sách Khai Trí, Sài Gòn. 1971
27 39T.Phan Khoang (1970), 39T42TTrung Quốc sử lược, 39T42TViện 39T102Tsử 39T102Thọc xuất39T102T 39T102Tbản.
28 39T. Trần Trọng Kim 39T 4T(1992), 4T42TNho giáo, 42TNXB TP. Hồ Chí Minh.
29 . Trần Trọng Kim (1971), 42TViệt Nam sử lược, 42TQl, T.11, Bộ Giáo dục, Trung tâm
học liệu xuất bản.
30 .Nguyễn Văn Kiệm (10/1993), 42TChính sách tôn giáo của nhà Nguyễn trong nửa 42T93Tđầu 42T93Tthế
kỷ 19, 42TTạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5.
31 . Nguyễn Văn Kiệm (10/1992), 42TSự du nhập của đạo Thiên Chúa vào Việt Nam, thực
chất, hậu quả 42Tvà 42Thệ lụy, 42TTạp chí Nghiên c ứu lịch sử số5.
154
32. Nguyễn Văn Kiệm (6/1988), 42TSự truyền giáo ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử của sự
truyền giáo thế giới các thế kỷ từ 16 đến 19 “Vấn đề phong thánh, tử vì đạo và lịch sử dân tộc
Việt Nam” - 42TNghiên cứu khoa học số 8, 9, 32T10, 32Tủy ban Khoa Học 38Txã 38THội và Ban Tôn
giáo chính phủ.
33 . Hoàng Khôi (1995), 42TGóp một nhận thức để đánh giá nhân vật Gia Long, 42TChương
trình nghiên cứu triều Nguyễn, số4, Đại học Sư phạm Huế.
34 . Nguyễn Thiệu Lâu (1958) - 42TQuốc sử tạp lục, 42TNXB Sài Gòn.
35 . 42TLênin toàn tập - 42TT3 (1963), NXB Hà Nội.
36 . Nguyễn Hiến Lê (1993), 42TĐế Thiên Đế Thích, 42TNXB Văn Hóa thông Tin.
37 . Nguyễn Hiến Lê (1993), 42TSở Trung Quốc42T, T2, NXB Văn Hóa.
38 . Phan Ngọc Liên (chủ biên) (1997), 42TLược sử Đông Nam Á, 42TNXB Giáo
Dục, 43TH à 43TNội.
39 . Tạ Ngọc Liễn (1995), 42TQuan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ
16, NXB KHXH, Nà Nội.
40 . Tạ Ngọc Liễn (10/1993), 42TMấy nét về vai trò đặc điểm của Nho giáo thời Nguyễn nửa
đầu thế kỳ 19, 42TTạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 42T5 .
41 .Trần Huy Liệu (1964), 42THai nước Việt Nam - Trung Quốc trong lịch sử hiện đại, 42TTạp
chí Nghiên C ứu Lịch Sử số 67.
42 . 42TLịch sử Việt Nam, Tập 1 42T(1971), NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội.
43 . Phạm Nguyên Long (chủ biên) (1993), 42TĐông Nam Á trên dường, 42TNXB Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội.
44 . Huỳnh Lứa (6/1988), 42TNói thêm về những nguyên nhân dẫn tới sự cấm đạo của nhà
Nguyễn, 42TNgiên Cứu Khoa học số 8, 9, 13Tl0, 13TTP. Hồ Chí Minh, UBKHXH Việt Nam,
Ban Tôn giáo của chính phủ.
45 . Huỳnh Lứa (3/1988), 42TDo đâu mà có việc cấm đạo Thiên Chúa trong thế
k ỷ 1 7 ,1 8 , 1 9, 42TKỷ yếu Hội nghị khoa học, TP. Hồ Chí Minh.
46 . Các Mác - Ăng-ghen (19), 42TTuyển tập, 42TTập 2, NXB S ự Thật, Hà Nội
155
47 . Đặng Thai Mai (1994), 42TXã hội sử Trung Quốc, 42TNXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
48 . Giá Sơn Kiều Oanh Mởu (1963), 42TBản triều nghịch liệt truyện 42T(Trần Khải Văn
dịch), 6TBộ 6TQuốc gia Giáo dục, Sài gòn.
49 . 42TMục lục châu bản triều Nguyễn (1960), 42TTập 1, Huế.
50 6T. 6T42TMục lục châu bản triều Nguyễn (1962), 6T42TTạp 2, Huế
51 . Nam Mộc (1955), 42TChế độ phong kiến ngăn cản bước tiến của xã hội Việt Nam, 42TSự 6TThật,
Hà N ộ i .
52 . Murashêva G. F (1973), 42TQuan hệ Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ 17, 19, 42TNXB Khoa
học, Hà Nội - Mát-xcơ-va, (phần dẫn luận - Bản dịch đánh máy, Viện Sử học, Hà Nội)
53 . Nguyễn Phong Nam (Chủ biên) (1997), 42TNhững vấn đề lịch sử văn chương triều
Nguyễn, 42TNXB Giáo đục, Hà Nội.
54 . Lương Ninh, Đặng Đức An (1978), 42TLịch sử thế giới trung đại, 42TNXB. Giáo dục, Hà
Nội.
55 . Vũ Dương Ninh (1994), 42TLịch sử Thái Lan, 42TNXB Giáo dục, Hà Nội.
56 . Lương Ninh (Chù biên) (1991), 42TLịch sử các quốc gia Đông Nam Á. Lịch sử Lào, 42TTập
2, ĐHSP 6T1 6THà nội.
57 . 42TNhững tác phẩm của Phan Bội Châu 42T(1982), Tập 1, NXB KHXH.Hà Nội.
58 . 42TNhững vấn đề lịch sử Đông Nam Á - về lịch sử Đông Nam Á thời cổ 42T(1983), Viện Đông
Nam 42TÁ. 42THà Nội.
59 . 42TNhững vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn, 42TTập 1 (1992), Tập 2 (1995), NXB Khoa
học Lịch sử, Viện Khoa học 21Txa 21Thội, Bảo Tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh.
60 . 42TNhững người bạn cố đô 42THuế (B.A.V.H) (1998), T 1 , T.2, T.3, T.4, T.5, T.6, T.7,
NXB Thuận Hóa, Huế.
61. 42TNguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước (42T1992), Viện Khoa học Xã hội và Sở
Văn hóa - Thông tin TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm.
62. Nội các triều Nguyễn, 42TKhâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, 42TT.8 (1993), NXB Thuận
Hóa, Huế.
156
63. Châu Đạt Quan (1973), 42TChân Lạp phong thổ ký, 42TSài Gòn, Việt Nam,(Bản dịch của
Lê Hương)
64. Nguyễn Phan Quang (1971), 42TLịch sử Việt Nam 42T(1427-1858), NXB Giáo
Dục, Hà Nội.
42Tkỷ 19, 42TNXB KHXH, 42THà 42TNội.
65. Nguyễn Phan Quang (1986), 42TPhong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế
66. Nguyễn Phan Quang (1995), 42TCó một nền đạo lý Việt Nam như thế, 42TNXB. TP Hồ Chí
Minh.
67. Lê Văn Quang (1905), 42TLịch sử vương quốc Thái Lan, 42TNXB TP. Hồ Chí Minh.
68. Trần Hữu Quảng - 42TLịch sử Việt Nam – 42TThế giới, Nguyễn Du xuất bản.
69. 42T Quốc triều chánh biên toát yếu 42T(1971), Nhóm nghiên cứu Sử Địa xuất bản, Sài
Gòn.
70. 42T Quốc sử quán triều Nguyền 42T(1963), Đại Nam thực lục chính biên, Tập 1
Tập 2, Tập 3, Tập 4, NXB Sử học, Hà Nội.
71. 42T Quốc sử quán triều Nguuyễn 42T(1973), Đ ại Nam thục lục chính biên, Tập 5
đến Tập 38, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
72. 42T Quốc sử quán triều Nguyễn 42T(1994), Minh Mệnh chính yếu, Tập 1, Tập 2,
Tập 3, NXB Thuậ n Hóa, Huế.
73. 42TQuốc sử quán triều Nguyễn (142T993), Đại Nam chính biên liệt truyện tập 1, Tập 2,
Tập 3, Tập 4, NXB Thuậ n Hóa, Huế.
74. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1997), 42TĐại Việt địa dư toàn biên, 42TViện Sử học và
NXB Văn hóa, Hà Nội.
75. Phạm Văn Sưu (1961), 42TViệt sử Ltân biên, 42TTủ sách Sử học Việt Nam.
76. Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt (1994), 42TKế sách giữ nước thời Lý - Trần, 42TNXB
Chính trị Quốc gia.
157
77. Phạm Văn Sơn (1971), 42TQuân dân Việt Nam chống Tây xâm lược 42T(1847 - 1945), Sài
Gòn.
78. Tập san Văn hóa, (1969), 42TViệc bàng giao giữa Cao 42T93TMiên 42T93Tvà Việt Nam từ ngày tiên
khởi đến ngày Pháp đô hộ 42T(Bài của Lê Hương) số 18.
79. 42TTạp chí Văn hóa nguyệt san (142T965), loại mới số 5.
80. 42TTạp chí Bách khoa (1 42T959), số 67.
81. Văn Tân (1967) - 42TChế độ phản động của nhà Nguyễn, 42TNghiên cứu Lịch sử số 95,
97 , HN.
82. 42TTập san Sử Địa ( 1 42T968) số 9, 10.
83. 42TTập san Sử Địa 42T(1970),số 19, 20.
84. Tìm 42Thiểu lịch sử - văn hóa Thái Lan 42T(1994), NXB Khoa học Xã hội, Hà 94TNội.
85. Tìm 42Thiểu lịch sử - văn hóa Cam-pu-chia 42T(1993), NXR Khoa học Xã hội, Hà Nội.
86. Nguyễn 6TKhánh Toàn (6T1954), 42TVài nhận xét về thời kỳ từ cuối nhà Lê đến nhà Nguyễn
Gia Long, 42THà Nội.
87.Bùi Quang Trung (1958), 42TNước Việt Nam trên con đường suy vong (1958 - 1884), 42THội
Nghiên cứu liên lạc văn hóa Á châu xuất bản.
88. Phan Lạc Tuyên (1993), 42TLịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á ( 42TTCN đến thế kỷ
19), Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Đào tạo mở rộng, Khoa Đông Nam Á học, TP.
Hồ Chí Minh.
89. Ưng Trình ( 1953), 42TViệt Nam ngoại giao sử cận đại, 42THà Nội.
90. 42TTriều Nguyễn - Những vấn đề lịch sử - tư tưởng – văn hóa (199442T94T), Đại 94Thọc Sư phạm Huế.
91. Nguyễn Anh Thái, Đặng Thanh Tịnh, Ngô Phương Bá (1991), 42TLịch sử Trung
Quốc, 42TNXB Giáo Dục, Hà Nội.
92. Hoàng Ngọc Thành (1969), 42TNhững quan hệ giữa Pháp và Trung Hoa về vấn đề Việt Nam
(1880-1851). 42TTrình bày, Tủ sách Nghiên c ứu Sử Địa, Sài Gòn.
93. Cao Tự Thanh (1996), 42TNho giáo ở Gia Định, 42TTP. Hồ Chí Minh.
158
94. Lễ Tần Nguyễn Nhược Thị (1950), 42THạnh thục ca (Trần 42TTrọng Kim d ịch), Tân Việt
xuất bản.
95. Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyền, Đinh Xuân Lâm (1960), 42TLịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam, 42TTập 4, NXB Giáo dục, Hà Nội.
96. Lê Hữu Thu (1952), 42TSử Việt Nam đệ lục - Thế giới, 42THà Nội, Việt Nam.
97. Cao Huy Thuần (1996), 42TĐạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt 42T43TNam, 43TLuận án
Tiến sĩ Quốc gia, KHCT Đại học Paris - Christianismc et colonialisme au
Vietnam 1807-1914, Đại học Paris.
98. Nguyễn Khắc Thuần (1988), Vài suy nghĩ về sự truyền bá và tiếp nhận Thiên
chúa giáo ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị khoa học (3/1980), Tp.HCM.
99. 42TThư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á (phần Xiêm) 42T(1977), UB Khoa học Xã hội Việt
Nam, Ban Đông Nam Á (lưu hành nội bộ), Hà Nội.
100. 42TThư tịch cổ Việt Nam nói về chủ nghĩa bá quyền đại Hán (1 42T985), NXB Thông tin lý
luận, Hà Nội.
101. 42TThư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á (phần Chân Lạp) 42T(1977). UB Khoa học Xã
hội Việt Nam, Ban Đông Nam Á (lưu hành nội bộ).
102. 42TThư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á (phần Vạn Tượng) 42TUB Khoa học Xã hội Việl
Nam (1977), Ban Đông Nam Á (lưu hành nội bộ).
103. Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung (1982), 42TLịch sử Cam – pu -
chia42T95T, 95TNXB Đại học - Trung học chuyên nghiệp.
104. Mai Khắc Ứng (1966), 42TChính sách khuyến nông thời Minh Mạng, 42TNXB Văn Hóa
Thông tin, Hà Nội.
105. Nguyễn Triều Vân (1969), 42TViệt Nam 42T80Tvà Tây 42T80Tphương (cuộc tiếp xúc từ năm 1784 đến
năm 1820), 42TTiểu luận Cao học sử, Đại học Sài Gòn, Đai học Văn khoa.
106. Phạm Trung Việt (1973), 42TKhuôn mặt Quảng Ngãi 42T(1764- 1916), Nhà in Nam
Quang xuất bản.
107. 42TViệt Nam - Đông Nam Á quan hệ lịch 42Tsử (I993), 42Tvăn hóa, 42TNXH Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
159
108. 11TThành 11TThế Vỹ - 42TNgoại thương Việt Nam hồi thế kỷ 17 – 18 42Tvà nửa đầu 42Tthế kỷ 19
109. Hoàng Yến (dịch) (1917), 42TLệ thụ phong của vua Minh Mạng tại Hà Nội 42T(Minh Mạng
et recevoire 32TI’ 32Tinveslilure à Hanoi), B.A 39T.V 39T.H, Tập 39T4.
110. Yoshiharu Tsuboi (1992), 42TNước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa
1847-1885, 42THội Sử 11Thọc 11TViệt Nam, Hà Nội.
160
161
162
163
PHỤ LUC
164
165
166