VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thế Bắc

THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội, năm 2023

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thế Bắc

THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 9.22.01.21

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG

2. PGS. TS. CAO KIM LAN

Hà Nội, năm 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các

số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực và không

trùng lặp với công trình nào của người khác, các thông tin trích dẫn trong

luận án đều có xuất xứ rõ ràng và được chỉ rõ nguồn trích dẫn.

Hà Nội, tháng 10 năm 2023

Tác giả luận án

Nguyễn Thế Bắc

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều

của các tập thể và cá nhân.

Tôi xin cảm ơn lãnh đạo, giảng viên, cán bộ, nhân viên các cơ

quan: Học viện Khoa học xã hội; Viện Văn học; Viện Hàn lâm Khoa học

xã hội Việt Nam đã tận tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi học

tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo các cơ quan: Ban Tuyên giáo

Trung ương; Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương;

Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật; các đồng nghiệp, bằng hữu

đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên, khích lệ tôi học tập, nghiên cứu

và thực hiện luận án.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc đối với

PGS. TS. Phan Trọng Thưởng và PGS. TS. Cao Kim Lan đã quan tâm, tận

tình hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu đề tài luận án, tạo mọi điều kiện

thuận lợi để tôi hoàn thành luận án này.

Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối gia đình đã tạo mọi điều kiện

thuận lợi, là nguồn động viên và là chỗ dựa tinh thần vững chắc để tôi yên

tâm học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận án.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 10 năm 2023

Tác giả luận án

Nguyễn Thế Bắc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 3

2.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4

3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 4

3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 5

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5

5. Đóng góp mới về khoa học .......................................................................... 6

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn ......................................................................... 6

7. Cấu trúc của luận án ................................................................................... 7

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 8

1.1. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở nước ngoài ........................ 8

1.2. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở trong nước ...................... 21

1.2.1. Giai đoạn trước 1945 ......................................................................... 21

1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 ................................................................ 23

1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay................................................................... 25

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 41

Chương 2: SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA

THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM ................................... 43

2.1. Nguồn gốc và những yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại

truyện trinh thám Việt Nam ......................................................................... 44

2.1.1. Bối cảnh lịch sử-xã hội, văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX 44

2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại truyện trinh thám

Việt Nam ...................................................................................................... 50

2.1.2.1. Nhu cầu tinh thần của xã hội và công chúng đương thời .......... 50

2.1.2.2. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Tây ........................... 52

2.1.2.3. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Đông ......................... 54

2.1.2.4. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học truyền thống Việt Nam .......... 56

2.1.2.5. Ảnh hưởng của xuất bản, báo chí ............................................... 58

2.2. Các giai đoạn phát triển thể loại truyện trinh thám Việt Nam .......... 59

2.2.1. Giai đoạn hình thành và phát triển thể loại từ đầu thế kỉ XX đến

1945 ............................................................................................................. 59

2.2.2. Giai đoạn biến đổi mô hình thể loại từ 1945 đến 1986 ..................... 65

2.2.3. Giai đoạn đổi mới, cách tân thể loại từ 1986 đến nay ....................... 67

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 69

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM .............. 71

3.1. Sự hỗn dung, giao thoa thể loại ............................................................. 71

3.1.1. Yếu tố truyền kì trong truyện trinh thám Việt Nam .......................... 71

3.1.2. Yếu tố kinh dị, đường rừng trong truyện trinh thám Việt Nam ........ 74

3.1.3. Yếu tố kiếm hiệp trong truyện trinh thám Việt Nam ........................ 77

3.2. Đặc điểm một số thủ pháp nghệ thuật .................................................. 79

3.2.1. Về đề tài ............................................................................................. 79

3.2.2. Về cốt truyện...................................................................................... 84

3.2.3. Về nhân vật ........................................................................................ 92

3.2.4. Về không gian, thời gian nghệ thuật................................................ 100

3.3. Vấn đề hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật ................................................. 105

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 112

Chương 4: XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ

LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 114

4.1. Những yếu tố chi phối sự vận động và phát triển thể loại ................ 114

4.1.1. Quan niệm mới về chức năng giải trí của văn học và nhu cầu của

công chúng hiện nay .................................................................................. 114

4.1.2. Sự đa dạng, phong phú của chất liệu đời sống ................................ 119

4.1.3. Đội ngũ tác giả có đam mê, khát vọng ............................................ 121

4.1.4. Sự phát triển của báo chí, kênh phát hành và một số loại hình

nghệ thuật gần gũi với truyện trinh thám .................................................. 127

4.1.5. Sự giao lưu, hội nhập quốc tế .......................................................... 132

4.2. Xu hướng vận động, phát triển của thể loại ....................................... 135

4.2.1. Xu hướng truyện trinh thám kinh dị ................................................ 135

4.2.2. Xu hướng truyện trinh thám lịch sử ................................................ 138

4.2.3. Xu hướng truyện trinh thám hình sự ............................................... 141

Tiểu kết chương 4 ......................................................................................... 147

KẾT LUẬN ................................................................................................... 148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............... 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152

PHỤ LỤC...................................................................................................... 172

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Truyện trinh thám hiện đại là thể loại văn học được hình thành ở phương

Tây từ giữa thế kỉ XIX với sự đặt nền móng của nhà văn Mĩ Egar Poe bằng

truyện trinh thám Vụ giết người ở phố Morgue ra đời năm 1841 và nhanh

chóng trở thành một thể loại phát triển mạnh ở nhiều nước như Mĩ, Anh,

Pháp, v.v… Tuy nhiên, cả một thời gian dài, thể loại này chỉ được xem là văn

học giải trí, văn học hạng hai, là cận văn học và ít nhận được sự quan tâm của

giới nghiên cứu. Mãi về sau, từ thập kỉ 70 của thế kỉ XX, khi mà tiểu thuyết

trinh thám phát triển ở đỉnh cao và nhu cầu đọc truyện trinh thám trở thành

một hiện tượng xã hội quan trọng, đặc biệt là sự ảnh hưởng của thể loại này

đối với văn chương tiểu thuyết, các nhà nghiên cứu phương Tây mới đặt vấn

đề nghiên cứu truyện trinh thám một cách nghiêm túc.

Ở Việt Nam, cuộc xâm chiếm và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp

đã khiến lịch sử, xã hội, văn hóa Việt Nam có sự chuyển biến sâu sắc. Trên

lĩnh vực văn hóa, sự gặp gỡ văn hóa Đông-Tây đã khiến văn hóa Việt Nam

dần thoát khỏi cái bóng văn hóa Trung Hoa để bắt đầu mở rộng tiếp xúc với

văn hóa phương Tây, chủ yếu là văn hóa Pháp, từ đầu thế kỉ XX. Sự giao

thoa, gặp gỡ Đông-Tây khiến nền văn học Việt Nam có sự vận động và phát

triển theo hướng hiện đại hoá, dẫn đến sự xuất hiện nhiều thể loại mới, trong

đó có thể loại truyện trinh thám. Từ khi ra đời ở thời điểm đầu thế kỉ XX,

truyện trinh thám Việt Nam cũng đã nhanh chóng ghi dấu ấn của mình trong

nền văn học dân tộc. Đây là thể loại văn học mới ở Việt Nam, song đã có quá

trình phát triển, có thành tựu, có đội ngũ tác giả, hệ thống tác phẩm và được

ghi nhận, đánh giá trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam.

1

Trong lịch sử nghiên cứu văn học nước ta, truyện trinh thám cũng là thể

loại văn học từng được giới nghiên cứu quan tâm bàn đến nhưng mới chỉ là

bước đầu, còn tản mạn, thiếu tập trung, chưa có tính hệ thống, được thể hiện

qua một vài hội thảo quy mô nhỏ, một số bài viết được in trên báo, tạp chí,

những lời tựa ở những cuốn sách, một vài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ

hoặc được đề cập đến trong một số công trình liên quan.

Mặc dù đã có sự quan tâm bàn đến thể loại này ở nước ta như một sự nỗ

lực của giới nghiên cứu, lí luận, phê bình nhằm đưa đến một cái nhìn khách

quan, công bằng hơn về vai trò, vị trí của thể loại truyện trinh thám trong văn

học Việt Nam nhưng hiện nay vẫn còn khá nhiều vấn đề đặt ra đối với thể loại

truyện trinh thám Việt Nam như: vấn đề nguồn gốc, quá trình ảnh hưởng, đặc

trưng thể loại, thi pháp thể loại, bản chất thẩm mĩ của thể loại, thành tựu của

thể loại, v.v…

Về mặt lịch sử, thông qua việc tiếp thu thể loại truyện trinh thám phương

Tây kết hợp với truyện vụ án phương Đông và các thể loại của văn học truyền

thống như truyện truyền kì, truyện kiếm hiệp, truyện kinh dị, v.v… truyện

trinh thám Việt Nam ra đời, đem đến cho người đọc món ăn tinh thần hấp

dẫn. Ra đời, phát triển và có những dấu ấn nhất định ở nửa đầu thế kỉ XX,

truyện trinh thám Việt Nam nửa sau thế kỉ XX bị lắng xuống do các tác động

của lịch sử-xã hội và văn học. Tuy nhiên, ngày nay, truyện trinh thám Việt

Nam đang có dấu hiệu phát triển trở lại thành một hiện tượng văn học với đội

ngũ tác giả trẻ tài năng và nhiều khát vọng. Cùng với đó, một thế hệ công

chúng mới đang hình thành và có nhu cầu mới về văn học khiến thể loại

truyện trinh thám trở thành nhu cầu khách quan của văn học. Đặc biệt, từ

1986 trở lại đây, do ảnh hưởng của nền kinh tế mở cửa và giao lưu văn hóa

quốc tế, ở nước ta, nhu cầu đọc truyện trinh thám cũng nhiều hơn. Không chỉ

đọc truyện trinh thám nước ngoài được dịch, độc giả nước ta còn có nhu cầu

2

đọc truyện trinh thám Việt Nam. Vì thế mà những tác phẩm truyện trinh thám

Việt Nam tiếp tục ra đời, không những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa,

tạo nên sự phát triển đa dạng cho nền văn học nước nhà mà còn đóng góp lớn

vào đời sống giải trí và công cuộc bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ gìn trật tự xã

hội. Hiện nay, tuy không nhiều tác giả, tác phẩm truyện trinh thám nhưng

những tác phẩm trinh thám ra đời đều đặn những năm gần đây đã cho thấy

dấu hiệu trở lại của thể loại này, đồng thời cũng cho thấy sức sống tiềm tàng

của truyện trinh thám trong dòng chảy chung của văn học dân tộc.

Dưới ánh sáng của các thành tựu nghiên văn học và các thông tin cập

nhật về văn học, nhất là văn học thế giới, truyện trinh thám đang có nhu cầu

được nghiên cứu lí giải một cách hệ thống, đầy đủ hơn.

Với những lí do trên, đề tài nghiên cứu Thể loại truyện trinh thám trong

văn học Việt Nam hiện đại mà chúng tôi lựa chọn làm đề tài nghiên cứu thực

hiện luận án vừa có tính lịch sử, tính khoa học, vừa có tính thời sự cấp thiết

không chỉ đối với giới nghiên cứu mà còn đối với giới sáng tác, tiếp nhận và

thưởng thức văn học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu thể loại truyện trinh thám Việt Nam từ hướng tiếp

cận lịch sử văn học nhằm dựng nên diện mạo của một thể loại văn học có

nguồn gốc phương Tây nhưng đã xuất hiện, hình thành và phát triển, có thành

tựu nhất định trong bối cảnh đặc thù của Việt Nam.

Luận án cũng nhằm đánh giá và dự báo về khả năng phát triển và xu

hướng vận động của thể loại truyện trinh thám trong dòng chảy văn học Việt

Nam hiện nay và tương lai, đóng góp thêm cơ sở khoa học cho việc nghiên

cứu sự vận động của văn học Việt Nam nói chung trong quá trình đổi mới,

giao lưu hội nhập với văn học thế giới.

3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu, luận án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu

cơ bản là triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ để đưa ra được những kết

luận khoa học, cụ thể:

- Tìm hiểu, phân tích cơ sở lí luận và thực tiễn để lí giải sự ra đời và quá

trình vận động, phát triển của thể loại truyện trinh thám trong nền văn học

Việt Nam.

- Chỉ ra những quan niệm, đặc trưng thể loại truyện trinh thám nói chung

và truyện trinh thám Việt Nam nói riêng.

- Đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, khoa học về vị trí, vai

trò của thể loại này đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Hệ thống hoá những đặc điểm tiêu biểu của thể loại truyện trinh thám

Việt Nam.

- Trên cơ sở thực tiễn đời sống văn học và các nhân tố ảnh hưởng, đánh

giá xu hướng vận động, nhận định và dự báo về tương lai phát triển của thể

loại truyện trinh thám Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Để có thể nhận diện được tiến trình phát triển của thể loại truyện trinh

thám Việt Nam, đối tượng khảo sát và nghiên cứu của luận án bao gồm toàn

bộ các tác phẩm văn học trinh thám trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại,

từ khi bắt đầu hình thành thể loại văn học này ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX

cho đến nay. Song song với việc khảo sát tác phẩm, luận án cũng tiến hành

xem xét đội ngũ tác giả như một trong những nhân tố quan trọng nhằm chỉ ra

sự hình thành và vận động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam từ điểm

nhìn lịch sử văn học.

4

Luận án cũng nghiên cứu những nhân tố tác động đến thể loại truyện

trinh thám Việt Nam như: lịch sử-xã hội, văn hoá, văn học, công chúng-bạn

đọc văn học, v.v…

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Với mục tiêu nghiên cứu một cách hệ thống tình hình nghiên cứu, quá

trình hình thành, vận động và phát triển, đặc điểm và xu hướng vận động của

thể loại truyện trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay, luận án phải

tiếp cận với một khối lượng tác phẩm trinh thám khá lớn. Tuy nhiên, trong

khuôn khổ cho phép, trên cái nền chung đó, đối với từng nội dung cụ thể,

chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu sâu những tác giả, tác phẩm truyện

trinh thám tiêu biểu trong mỗi giai đoạn phát triển của thể loại này từ khi

chúng ra đời đến nay.

Luận án chỉ nghiên cứu, khảo sát những tác giả, tác phẩm truyện trinh

thám của Việt Nam và ở Việt Nam. Những truyện trinh thám dịch và những

truyện trinh thám tiếng Việt Nam được phát hành ở nước ngoài chỉ để tham

khảo.

4. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp

nghiên cứu cơ bản sau đây:

- Phương pháp văn hoá-lịch sử: để nghiên cứu yếu tố văn hoá-lịch sử tác

động đến sự hình thành và vận động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam

trong các giai đoạn phát triển.

- Phương pháp loại hình: để nghiên cứu, lí giải, phân tích những đặc

trưng thể loại và đặc điểm truyện trinh thám Việt Nam.

- Phương pháp so sánh: để thấy sự tương đồng và dị biệt giữa truyện

trinh thám Việt Nam với truyện trinh thám thế giới.

5

- Phương pháp xã hội học: để nghiên cứu tác động xã hội từ công chúng

và người đọc đối với thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

- Phương pháp liên ngành: để có hệ tham chiếu, tham khảo đầy đủ, rộng

rãi với các lĩnh vực, loại hình khác như điện ảnh, sân khấu, v.v...

Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các thao tác như: khảo sát, thống kê, phân

tích, so sánh, tổng hợp, v.v… để hỗ trợ các phương pháp nêu trên trong quá

trình nghiên cứu đề tài luận án.

5. Đóng góp mới về khoa học

Kế thừa những nghiên cứu đi trước, dựa trên cơ sở lí thuyết loại hình và

lịch sử-văn hóa, từ kết quả nghiên cứu lịch sử và thi pháp thể loại, luận án là

công trình nghiên cứu một cách hệ thống về thể loại truyện trinh thám Việt

Nam từ góc nhìn lịch sử văn học.

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ quy luật hình thành,

vận động, các giai đoạn phát triển, những thành tựu cơ bản, xu hướng vận

động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam trong các giai đoạn; đánh giá và

dự báo xu hướng vận động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam hiện nay

và tương lai.

Luận án góp phần làm sáng rõ, khẳng định đặc trưng chung thể loại

truyện trinh thám và đặc điểm truyện trinh thám Việt Nam; đánh giá khách

quan những đóng góp, vị trí, vai trò của thể loại truyện trinh thám đối với sự

vận động, đa dạng hóa, hiện đại hóa văn học Việt Nam.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn

Không chỉ góp phần làm sáng tỏ hơn những đóng góp của thể loại truyện

trinh thám đối với quá trình phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại,

luận án còn là sự đóng góp quan trọng đối với việc khẳng định đặc trưng thể

loại truyện trinh thám và đặc điểm thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

6

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nhận diện rõ sự hình thành,

quy luật vận động, những thành tựu cũng như đặc điểm, xu hướng vận động

của thể loại truyện trinh thám trong văn học Việt Nam hiện đại. Với những

phân tích, đánh giá một cách cụ thể và toàn diện về thể loại truyện trinh thám

trong văn học Việt Nam hiện đại, luận án có thể trở thành nguồn tài liệu tham

khảo hữu ích cho giới nghiên cứu, giảng dạy và học tập cũng như giới sáng

tác và công chúng thưởng thức văn học Việt Nam.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung của luận án được cấu trúc

thành 4 chương:

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

- Chương 2: Sự ra đời và các giai đoạn phát triển thể loại truyện trinh

thám Việt Nam.

- Chương 3: Đặc điểm truyện trinh thám Việt Nam.

- Chương 4: Xu hướng vận động và phát triển của thể loại truyện trinh

thám Việt Nam hiện nay.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở nước ngoài

Nguồn gốc thực sự của truyện trinh thám hiện đại ẩn chứa trong báo chí

phổ biến vào đầu thế kỉ XIX ở phương Tây, nơi các vụ án, quá trình điều tra

trở thành nguồn cứ liệu hấp dẫn cho loại hình kể chuyện này phát triển mạnh

mẽ. Nhà văn Mĩ Edgar Allan Poe được coi là cha đẻ thể loại trinh thám đã

quan niệm truyện trinh thám là “một thể loại văn học duy lí, một trò chơi trí

tuệ” [183]. Trong sáng tác của ông, mỗi cốt truyện đều bắt đầu bằng một vụ

án đặt ra những “thách thức” khiến người thám tử phải vận dụng đầu óc xét

đoán và phương pháp suy luận khoa học để tìm ra thủ phạm, làm sáng tỏ bí

mật. Ở Vụ án đường Morgue và Lá thư bị mất, tác giả Edgar Poe đã miêu tả

một cách tỉ mỉ quá trình điều tra của thám tử bằng “một sự nhận dạng trí tuệ

trong cách suy luận của chúng ta với cách suy luận của đối phương chúng ta”

[183, tr.454] để tìm ra thủ phạm vụ giết người và vụ mất cắp lá thư. Quá trình

ấy như một “trò chơi trí tuệ” mà người chiến thắng là người biết “bước vào

đầu óc địch thủ, đồng nhất với hắn và thường chỉ bằng nháy mắt là anh ta phát

hiện ra cách độc nhất, một cách mà đôi khi đơn giản đến vô lí, là thu hút địch

thủ vào một tính toán sai lầm” [183, tr.637]. Nhân vật thám tử Charles Dupin

trong truyện của Edgar Poe được xây dựng trở thành một mẫu hình thám tử

chuyên nghiệp đầu tiên trong văn học.

Trong Edgar Poe và truyện ngắn, nhà văn kiệt xuất của văn chương Mĩ -

Latinh thế kỉ XX Jorge Luis Borges đã từng đánh giá giá trị của truyện trinh

thám và chỉ ra bản chất, đặc trưng của thể loại này: “Văn học của chúng ta

đang hướng về sự hỗn loạn, v.v… Trong thời kì hỗn loạn ấy, có một thứ vẫn

giữ, giữ một cách khiêm tốn, những giá trị truyền thống: đó là truyện trinh

8

thám […] ta không thể hình dung một truyện trinh thám không có phần mở

đầu và cởi nút” [19, tr.707], tức là ông đã khẳng định vai trò của hành trình

điều tra vụ án trong truyện trinh thám. Khi phân tích truyện trinh thám của

Edgar Poe, tác giả Jorge Luis Borges đã nhận xét: truyện trinh thám “là một

thể loại văn học lí trí, một thể loại kì ảo, v.v… nhưng đó là thể loại kì ảo có

nguồn gốc từ trí tuệ chứ không phải chỉ bằng tưởng tượng. Truyện trinh thám

có nguồn gốc từ cả hai thứ đó, dĩ nhiên, nhưng trước hết phải bằng trí tuệ”

[19, tr.699]. Ông cũng khẳng định sự thành danh của Edgar Poe ở thể loại này

đến mức đánh giá Edgar Poe là người không chỉ sáng tạo ra truyện trinh thám

mà qua truyện trinh thám của mình, Edgar Poe sáng tạo ra một lớp công

Ngày nay có một loại độc giả đặc biệt, những độc giả của truyện trinh thám.

Những độc giả này – mà người ta gặp ở mọi nước trên thế giới, với số

lượng hàng triệu – chính là những độc giả của Edgar Poe […] độc giả

truyện trinh thám là một độc giả hoàn toàn không mê tín và vừa đọc vừa

nghi ngờ, một nỗi nghi ngờ đặc biệt […]. Truyện trinh thám đã tạo nên một

loại độc giả đặc biệt. Đó là điều người ta thường quên khi đánh giá tác

phẩm của Edgar Poe; bởi vì nếu như Edgar Poe đã sáng tạo ra truyện trinh

thám thì ông đồng thời cũng sáng tạo ra độc giả của truyện trinh thám

chúng riêng, đồng thời đó cũng là độc giả của truyện trinh thám nói chung:

[17].

Với bài viết Twenty Rules for Writing Detective Stories (Hai mươi quy

tắc của tiểu thuyết trinh thám), (The American Magazine, September, 1928),

nhà văn Mĩ S.S Van Dine đã đưa ra 20 quy tắc viết tiểu thuyết trinh thám. Ở

quy tắc thứ 5, S.S Van Dine nhấn mạnh: “Thủ phạm phải được xác định bằng

những suy luận logic, không phải do ngẫu nhiên hay trùng hợp hoặc thú tội

không có động cơ” [51]. Điều đó cho thấy tác giả khẳng định tính lí trí, logic

trong quá trình xét đoán của thám tử trong quá trình đi tìm thủ phạm.

9

Năm 1978, Tzvetan Todorov có công trình Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh

Đào và Lê Hồng Sâm dịch, NXB Đại học Sư phạm, 2014). Trong công trình

này, tác giả nghiên cứu và trình bày ở mục 1: Loại hình của tiểu thuyết trinh

thám. Ở đây, Todorov đã đánh giá và rút gọn 20 quy tắc viết tiểu thuyết trinh

1. Cuốn tiểu thuyết phải có nhiều nhất là một thám tử và một thủ phạm, và ít

nhất là một nạn nhân (một xác chết).

2. Thủ phạm không được là một tội phạm chuyên nghiệp; không được là

thám tử; phải giết người vì lí do riêng của cá nhân.

3. Ái tình không có chỗ trong tiểu thuyết trinh thám.

4. Thủ phạm phải có một tầm quan trọng nào đó:

a. Trong đời: không phải là một nam hay nữ hầu phòng.

b. Trong sách: là một trong các nhân vật chính.

5. Mọi sự đều phải được giải thích một cách duy lí; cái kì ảo không được

chấp nhận ở đây.

6. Không có chỗ cho miêu tả cũng như phân tích tâm lí.

7. Với các thông tin về truyện, cần tuân thủ sự đối ứng sau: “tác giả: độc

giả = tội phạm: thám tử”.

8. Cần tránh các tình thế và các giải pháp tầm thường tẻ nhạt [204, tr.17-

thám mà S. S Van Dine đã nêu thành mấy điểm sau:

18].

Cũng trong công trình Thi pháp văn xuôi, Tzvetan Todorov đã thể hiện

Tiểu thuyết trinh thám có những chuẩn mực của nó; làm “tốt hơn” những gì

mà các chuẩn mực ấy đòi hỏi, là đồng thời làm “kém đi”: người nào muốn

làm cho tiểu thuyết trinh thám “hay hơn”, là người đó đang làm “văn

chương”, chứ không phải tiểu thuyết trinh thám. Tiểu thuyết trinh thám

tuyệt nhất không phải là cuốn tiểu thuyết vi phạm quy tắc của thể loại, mà là

cuốn tiểu thuyết tuân theo những quy tắc này: Không có hoa lan cho cô

Blandish là hiện thân của thể loại, chứ không phải một sự vượt quá thể loại

quan niệm về thể loại tiểu thuyết trinh thám:

[204, tr.9].

10

Mặc dù thừa nhận về hạn chế và khó khăn trong việc nghiên cứu văn chương

theo hướng nghiên cứu thể loại nhưng ông cũng khẳng định văn học trinh

thám thuộc lĩnh vực văn học quần chúng, việc xem xét các thể trong dòng văn

học này không hề khó khăn: “Vậy việc làm rõ các thể ở bên trong tiểu thuyết

trinh thám xem ra tương đối dễ. Nhưng muốn thế, cần phải bắt đầu bằng sự

miêu tả các “loại”, như vậy cũng có nghĩa là bắt đầu bằng sự xác định giới

hạn của chúng” [204, tr.9-10].

Theo Tzvetan Todorov, truyện trinh thám có ba kiểu loại chính: tiểu

thuyết ẩn ngữ, tiểu thuyết đen và tiểu thuyết phiêu lưu. Đồng thời, ông cũng

chỉ ra sự khác nhau và những đặc trưng cơ bản của từng loại trinh thám đó.

Ông quan niệm truyện trinh thám là một kiểu loại văn học đặc thù, nó cần

được đánh giá theo những tiêu chí thích hợp.

Qua công trình Thi pháp văn xuôi, ta thấy nhà nghiên cứu Tzvetan

Todorov đã tập trung xác định những đặc trưng thể loại và phân loại truyện

trinh thám dựa trên những tiêu chí cụ thể, nhất quán và khoa học.

Ở cuốn Tiểu thuyết phiêu lưu, Tiểu thuyết trinh thám và Tiểu thuyết lãng

mạn (Adventure, Mystery and Romance, Univercity of Chicago Press, 1976),

nhà nghiên cứu người Mĩ G. John Cawelti cho rằng tiểu thuyết trinh thám là

một thể loại độc lập với tiểu thuyết phiêu lưu và tiểu thuyết lãng mạn. G. John

Cawelti cũng đã có nhận định về mô hình và vị thế của thể loại truyện trinh

thám, được Laura Behling đồng tình và dẫn lại: “Truyện trinh thám cổ điển

đòi hỏi bốn vai cơ bản: nạn nhân, tội phạm, thám tử và những người có nguy

cơ bị đe dọa bởi tội ác” [229, tr.34]; “Truyện trinh thám không chỉ là một hình

thức nghệ thuật vui vẻ đối với bạn đọc thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX mà

còn tạo ra một sự giải thoát lâm thời trước hồ nghi và tội lỗi khởi phát từ

những đổi thay quá lớn của văn hóa” [229, tr.34]. Đó là mô hình nhân vật tiểu

thuyết trinh thám khá gần gũi với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, đồng

11

thời nhận định đó cũng cho thấy G. John Cawelti không chỉ phân loại truyện

trinh thám mà còn xác định mô hình nhân vật và đánh giá cao vị thế, vai trò,

chức năng của thể loại này.

Trong Black novel – Tiểu thuyết đen (tiếng Nga: Черный роман, 1975)

của Rainov, nhà nghiên cứu Fosca cũng cho rằng: “Có thể định nghĩa tiểu

thuyết trinh thám như một câu chuyện kể về sự săn đuổi con người [...] mà

trong đó được sử dụng tiến trình xét đoán đặc biệt, cho phép lí giải những sự

kiện bề ngoài không đáng kể để từ chúng có thể có được một kết luận nhất

định […] Thiếu điều đó […] sẽ không là tiểu thuyết trinh thám” [240]. Nhận

định trên cho thấy, với Fosca, cốt lõi làm nên đặc trưng của thể loại trinh

thám là ở “tiến trình xét đoán đặc biệt” chứ không phải nội dung của truyện

có tính hình sự hay không có tính hình sự, cũng có nghĩa là ông nhấn mạnh

đến tính trí tuệ, khoa học của truyện trinh thám.

Trong khi đó, ở cuốn Tiểu thuyết trinh thám (tiếng Pháp: Le Roman

Policier, 1997), tác giả Vanoncini đã quan niệm về một mô hình truyện trinh

thám bao gồm ba yếu tố chính: nạn nhân - thủ phạm - người điều tra (thám tử)

khi cho rằng: “Nội dung trinh thám được bố trí theo chiều dài một trục trung

tâm của biện giải, người điều tra tiến lên theo đó từ bí mật ban đầu thường

gắn với nạn nhân của một vụ sát hại cho đến bước giải quyết thường là sự

nhận biết kẻ sát nhân” [217]. Điều này cũng gần gũi với quan niệm về truyện

trinh thám của các nhà văn, các nhà nghiên cứu khác. Ở tác phẩm này,

Vanoncini cũng đã phân loại và đánh giá các khuynh hướng tiểu thuyết trinh

thám, mà tiêu biểu là khuynh hướng tiểu thuyết đen và tiểu thuyết kinh dị.

Theo đó, dù tiểu thuyết trinh thám có nhiều khuynh hướng nhưng phát triển

theo khuynh hướng nào thì tiểu thuyết trinh thám vẫn xoay quanh mô hình

nhân vật nạn nhân-thủ phạm-người điều tra. Nhận định đó cho thấy Vanoncini

cũng xác định mô hình nhân vật cốt lõi của truyện trinh thám tương tự với

12

quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khác, như quan điểm của Velerdi nêu

Tác giả giới thiệu thám tử, tội ác, vài bằng chứng và mối nghi ngờ. Cao

trào của câu chuyện xuất hiện khi thám tử công bố tên tội phạm và lí giải

làm cách nào mà bí ẩn ấy được giải quyết. Truyện trinh thám là loại truyện

xoay quanh một bí ẩn cần khám phá, trong đó nhất định có một tên tội phạm

và có một hành trình điều tra phá án [244].

trong Plot, cheracter & setting: a study of mystery & detective fiction:

Bên cạnh những nghiên cứu nhằm định hình trinh thám như một thể loại

văn học đại chúng hấp dẫn gắn liền với các vấn đề như: truyện trinh thám là

gì, những nguyên tắc tổ chức kết cấu truyện trinh thám, các yếu tố đặc trưng

và mô hình phổ biến của truyện trinh thám, những nghiên cứu về thể loại này

trên thế giới tiếp tục mở rộng ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau.

Trong Trinh thám và giới hạn: vài lưu ý về hư cấu văn chương hậu hiện

đại (The Detective and the Boundary: Some Notes on the Postmodern

Literary Imagination, 1972), William Spanos đã dựa trên những sáng tác của

Edgar Poe và Conan Doyle để khái quát các nguyên tắc điều tra để giải quyết

Cách giải quyết vấn đề trong các truyện trinh thám thường rất lôi cuốn và

hồi hộp bởi vì nó dựa vào sự quan sát nhạy bén, dựa vào các tư chất đặc

biệt và một số yếu tố khác […]. Sự giải quyết vấn đề ở đây dựa vào những

điều chắc chắn mà khoa học và tâm lí học có thể chứng minh được theo

phương pháp quy nạp – một quá trình suy luận về mối quan hệ giữa các sự

kiện rời rạc, từ đó đưa ra một lời giải thích hợp lí cho những bí ẩn, tội ác có

vẻ như tồn tại một cách ngẫu nhiên [243, tr.150].

các nghi vấn trong truyện trinh thám:

Quan điểm đó của William Spanos dường như đã khái quát khá toàn diện

bản chất đặc trưng của truyện trinh thám: đi tìm bí ẩn, điều tra để tìm ra tội

phạm (“cuối cùng các tội ác cũng được làm sáng tỏ”) bằng suy luận logic

khoa học (“dựa vào sự quan sát nhạy bén, dựa vào các tư chất đặc biệt và một

13

số yếu tố khác […] qua các suy luận chặt chẽ”, hấp dẫn (“rất lôi cuốn và hồi

hộp”) và được độc giả chấp nhận sự hợp lí (“đưa ra một lời giải thích hợp lí

cho những bí ẩn, tội ác”).

Nhà nghiên cứu người Nga Bogamil Rainov, trong công trình Black

novel – Tiểu thuyết đen (tiếng Nga: Черный роман, 1975), đã gọi các dạng

tiểu thuyết về tội phạm là tiểu thuyết đen. Ông cho rằng trong sự phát triển

của mình, tiểu thuyết trinh thám đã gạt bỏ và phá vỡ hầu như tất cả mọi phép

tắc đã cố quy định và hạn chế đặc thù của nó, tuy vậy nó vẫn giữ một nét chủ

yếu: sự trần thuật văn học gắn liền một cách không thay đổi với sự phạm tội.

Ông phân tích tội phạm như một chất liệu cốt yếu. Ông cũng cho rằng tiểu

thuyết tình báo-phản gián như một hình thức của tiểu thuyết trinh thám [240].

Lấy truyện trinh thám làm đối tượng đối sánh khi nghiên cứu văn học

trong bối cảnh Chủ nghĩa hậu hiện đại và tiểu thuyết hậu hiện đại xuất hiện,

một số nhà nghiên cứu đã đánh giá về truyện trinh thám, và từ đó hình thành

khái niệm, xây dựng mô hình phản trinh thám. Hans Bertens, trong “Truyện

trinh thám”, Chủ nghĩa hậu hiện đại quốc tế: lí thuyết và thực tiễn văn học

("The detective", International Postmodernism: Theory and Literary

Practice, 1997), đã dẫn lại quan điểm về sự phân biệt tiểu thuyết hiện đại và

hậu hiện đại của Brian McHale trong Tiểu thuyết hậu hiện đại. Dù không nói

đến một cách trực tiếp nhưng McHale đã gián tiếp nói về mối quan hệ giữa

tiểu thuyết trinh thám với Chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại khi cho rằng tiểu

thuyết khoa học là đại diện của Chủ nghĩa hậu hiện đại, cũng như tiểu thuyết

trinh thám là đại diện Chủ nghĩa hiện đại [227]. Như thế, theo McHale, tiểu

thuyết trinh thám gắn với Chủ nghĩa hiện đại, tiểu thuyết hiện đại và tiểu

thuyết trinh thám có mối quan hệ trực tiếp với nhau, và để nghiên cứu tiểu

thuyết hậu hiện đại thì cần bắt đầu từ tiểu thuyết (trinh thám) hiện đại. Trong

khi đó, nhà nghiên cứu Michael Holquist lại cho rằng tiểu thuyết hiện đại

14

thuộc về khu vực văn học bậc cao, ngược lại, tiểu thuyết trinh thám thuộc về

khu vực văn học bậc thấp. Nhận định của Michael Holquist cho thấy ông

đánh giá thấp vị trí của thể loại truyện trinh thám. Từ đó Michael Holquist

đưa ra thuật ngữ “truyện trinh thám siêu hình” như một bước hình thành khái

niệm “truyện trinh thám hậu hiện đại” [227] với sự phá vỡ khả năng nhận

thức luận. Từ truyện trinh thám, William Spanos đưa ra thuật ngữ “phản trinh

thám” (anti-detective) trong bài viết Thám tử và giới hạn: vài lưu ý về hư cấu

Mô hình lí tưởng của hư cấu văn chương hậu hiện đại là truyện phản trinh

thám (và tương tự, câu chuyện phản phân tâm học) với mục đích tối hậu là

gợi lên sự cần thiết của hành trình kiếm tìm và/ hoặc điều trị phân tâm học,

rồi vô hiệu hóa nó một cách triệt để bằng cách từ chối khả năng làm sáng tỏ

tội ác [243, tr.154].

văn chương hậu hiện đại khi ông cho rằng:

William Spanos khẳng định phản trinh thám đi ngược lại nguyên tắc xây

dựng tác phẩm theo quan hệ nhân-quả với cấu trúc ba phần: mở đầu, trung

tâm, kết thúc.

Vào năm 1997, trong công trình Lí thuyết và thực hành tiểu thuyết trinh

thám cổ điển – Những đóng góp cho việc nghiên cứu văn hóa đại chúng

(Theory and Practice of Classic Detective Fiction - Contributions to the Study

of Popular Culture), Jerome H. Delamater và Ruth Prigozy đã kết hợp các

phương pháp tiếp cận lí thuyết và thực tiễn nhằm khám phá tiểu thuyết trinh

thám cổ điển từ nhiều quan điểm đương đại. Với sự đa dạng trong cách tiếp

cận, những bài tiểu luận của tuyển tập này hướng đến việc "thẩm vấn cách thể

loại phản ánh thái độ văn hóa và xã hội", góp phần giúp người đọc nâng cao

khả năng thích ứng với những thách thức của cuộc sống hàng ngày, cung cấp

một sự thay thế vai trò của thám tử như một người điều tra và phân xử "sự

thật" trong cuộc sống đời thường. Trong công trình này, các tác giả cũng

hướng đến xem xét bản chất khán giả của tiểu thuyết trinh thám cũng như

15

điều tra khảo sát về vai trò của thám tử. Và để tiếp cận các bình diện này một

cách thuyết phục, nghiên cứu này cũng sử dụng một ứng dụng của tâm lí học

quan hệ để khảo sát đối tượng. Thêm nữa, từ những phân tích phê bình văn

học gần đây, các tác giả cho rằng tiểu thuyết trinh thám truyền thống chứa

mầm mống của sự lật đổ chính nó.

Bước sang thế kỉ XXI, công trình Nghệ thuật của tiểu thuyết trinh thám

(The Art of Detective Fiction, 2000) do Warren Chernaik, Martin Swales,

Robert Vilain chủ biên đã tập trung vào khai thác những đặc trưng riêng của

tiểu thuyết trinh thám. Ở đó, người ta nhận ra rằng, trong tay của nhiều nhà

văn vĩ đại, việc vén màn bí ẩn chỉ là một phần trong một dự án phức tạp. Ở

tiểu thuyết trinh thám còn nhiều điều khác cũng được làm sáng tỏ. Đó là niềm

tin vào một thế giới có thể giải thích được một cách hợp lí, vào lực lượng có

lợi, có trật tự của văn hóa và nền văn minh. Các tác giả của cuốn sách này đã

cho thấy rằng, là một thể loại mang những khả năng đặc thù, trinh thám có

khả năng kết hợp tối ưu sự hấp dẫn phổ biến của nó với khả năng gây xáo

trộn, khiêu khích và thách thức người đọc. Các bài tiểu luận trong công trình

đều tôn vinh và tìm cách giải thích độ bền đáng kinh ngạc của truyện trinh

thám với tư cách là một thể loại tự sự. Chúng có phạm vi rộng rãi, có thể áp

dụng nhiều cách tiếp cận lí thuyết và độ phổ biến của loại tiểu thuyết này

cũng rất lớn, bao gồm tiểu thuyết trinh thám bằng các ngôn ngữ khác ngoài

tiếng Anh.

Tiếp theo, trong công trình Khám phá xã hội: Trật tự và rối loạn trong

tiểu thuyết trinh thám sau năm 1970 (Detecting the Social: Order and

Disorder in Post-1970s Detective Fiction, 2019) của Mary Evans, Sarah

Moore và Hazel Johnstone, các tác giả của cuốn sách đã phân tích những cách

thức mà tiểu thuyết trinh thám đầu thế kỉ XXI cung cấp sự hiểu biết về thế

giới đương đại ngày càng phức tạp và cũng thường xuyên gây khó khăn – khi

16

nhìn từ góc độ xã hội học, với tư cách là một ngành học, liệu chúng ta có thể

học được gì từ đó. Đối với ngành xã hội học thông thường, khi tiếp cận một

tiểu thuyết thường hướng đến việc hiểu được giá trị của nó đối với những

cách thức mà nó có thể minh họa, phóng to hoặc giúp làm rõ một lí thuyết xã

hội cụ thể, những tác động của nó như thế nào đối với độc giả. Ở đây, Evans,

Moore và Johnstone đề xuất một cách tiếp cận khác và chứng minh rằng bằng

cách lấy một cụm tiểu thuyết trinh thám như đối tượng khảo sát chính, chúng

ta có thể nhận ra chúng có thể tiết lộ những ý tưởng lí thuyết chưa được xác

định, nhưng quan trọng hơn, về ý nghĩa của việc trở thành một cá nhân trong

thế kỉ XXI. Cụ thể hơn, các tác giả cho rằng tiểu thuyết trinh thám trong bốn

mươi năm qua (được xác định từ năm 1970) đã làm sáng tỏ những tác động

của sự cô lập và chia cắt đô thị, sự tàng hình của quyền lực thể chế, sự bất an

về tài chính và sự thất bại của các cơ quan công quyền trong việc bảo vệ

người dân. Khi làm như vậy, thể loại tiểu thuyết này vạch ra những lỗi, những

lỗ hổng trong sự sắp xếp xã hội của chúng ta, khắc phục nỗi sợ hãi tập thể của

chúng ta và ghi lại tâm trạng bất an hoảng loạn của con người. Bằng cách lôi

cuốn những câu chuyện trinh thám theo cách này, cuốn sách xem xét lại

những ý tưởng về lời hứa và mục đích của xã hội học.

Công trình nghiên cứu về tiểu thuyết trinh thám gần đây nhất là cuốn

Tiểu thuyết tội phạm xuyên quốc gia: Tính di động, biên giới và điều tra

(Transnational Crime Fiction: Mobility, Borders And Detection, 2020) của

Maarit Piipponen, Helen Mäntymäki và Marinella Rodi-Risberg. Tập trung

vào việc khảo sát các câu chuyện tội phạm đương đại từ các khu vực khác

nhau trên thế giới, các bài tiểu luận trong tuyển tập này khám phá sự di

chuyển của tội phạm, xem xét tội phạm và điều tra viên qua những biên giới/

ranh giới xã hội, văn hóa và quốc gia. Các tiểu luận chỉ ra rằng những giao cắt

biên giới như vậy phản ánh những chuyển đổi văn hóa xã hội gần đây và

17

những lo lắng về địa chính trị nhằm tạo ra hình ảnh về các xã hội tạo thành

mạng lưới và liên kết với nhau, nơi tội phạm không dễ bị kiềm chế. Cuốn

sách phân tích sâu hơn ý nghĩa văn hóa xã hội và tình cảm rộng lớn hơn của

văn bản tội phạm bằng cách kiểm tra tính di chuyển toàn cầu của thể loại này

qua các nền văn hóa, ngôn ngữ và phương tiện truyền thông. Bằng việc nhấn

mạnh phạm vi tiếp cận toàn cầu và tính di động của thể loại tội phạm, tuyển

tập này đã phân tích các kiểu loại và sự thể hiện tính di động trong các câu

chuyện tội phạm bằng văn học và hình ảnh, mời gọi so sánh giữa các văn bản,

tội phạm và tính di động trong những bối cảnh địa lí đa dạng. Cuối cùng,

tuyển tập hiểu tính di động như một đối tượng nghiên cứu và một lăng kính

quan trọng mà qua đó có thể kiểm tra những biến đổi trong thế giới toàn cầu

hóa của chúng ta.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng truyện trinh thám ra đời và phát triển

khá mạnh ở phương Tây những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX và cho

đến nay vẫn đang nhận được sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu, lí giải của các

nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình.

Ở một số nước phương Đông khác như Nhật Bản, Trung Quốc, hiện

tượng tiếp thu văn hóa phương Tây nói chung và tiểu thuyết trinh thám nói

riêng cũng ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển của thể loại văn học trinh thám

ở mỗi nước. Chẳng hạn, trong bài viết có tính chất tổng kết về sự phát triển

của truyện trinh thám ở Trung Quốc Xu hướng phát triển của tiểu thuyết trinh

thám Trung Quốc (中国侦探小说的发展趋势), tác giả Anna Huang đã cho

thấy rằng, Trung Quốc từ khi bước sang thời kì mới, tiểu thuyết trinh thám

Trung Quốc cũng mở ra một thời kì thịnh vượng mới. Chỉ trong vòng mười

năm, số lượng và chất lượng của tiểu thuyết trinh thám đã phát triển nhảy vọt.

Nếu so sánh với hai thời kì cực thịnh từ những năm 1930-1940 và những năm

1950-1960 sau khi thành lập Tân Trung Hoa, các giai đoạn phát triển tiểu

18

thuyết trinh thám của Trung Quốc có cả những điểm tương đồng và khác biệt.

Giống nhau ở chỗ "đều lấy một số lượng lớn các bản dịch tiểu thuyết trinh

thám nước ngoài làm khúc dạo đầu, đều lấy tiểu thuyết trinh thám nước ngoài

làm tài liệu tham khảo nghệ thuật, đều lấy cuộc sống hiện thực của Trung

Quốc làm nguồn sáng tác, cùng khám phá các trinh thám trên đất của cuộc

sống hiện thực Trung Quốc" [245]. Trên con đường nghệ thuật của tiểu thuyết

trinh thám, điểm khác biệt là hệ quy chiếu nghệ thuật mà tác giả tiểu thuyết

trinh thám sở hữu trong thời đại mới rộng lớn và phức tạp hơn bao giờ hết.

Chính đời sống xã hội phức tạp trong thời đại mới đã cung cấp cho các tác giả

tiểu thuyết trinh thám những chất liệu sáng tạo phong phú. Chính vì vậy, theo

Anna Huang, "sự tìm tòi nghệ thuật của các nhà văn trinh thám trong thời đại

mới mang tính nguyên bản và dân tộc hơn bao giờ hết" [245]. Thậm chí, tác

giả này còn khẳng định rằng, các nhà văn thời đại mới của Trung Quốc "đang

đối mặt với một thế giới nghệ thuật đa sắc hơn của tiểu thuyết trinh thám

nước ngoài" [245]. Ngoài những cuốn tiểu thuyết trinh thám cổ điển phương

Tây vẫn có sức hút khó cưỡng khi được dịch sang tiếng Trung bởi "tâm lí hồi

hộp, gay cấn, kinh dị" của chúng thì điều đặc biệt đáng chú ý là vào thời điểm

này, tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản đã xuất hiện trên giá sách của các nhà

văn viết tiểu thuyết trinh thám Trung Quốc với tần suất hoạt động chưa từng

có. Chính khí chất phương Đông cùng mối quan tâm nghiêm túc đến đời sống

xã hội và sự từ bỏ tâm lí game thuần túy của một số tác phẩm phương Tây đã

giúp các nhà văn Trung Quốc tìm thấy sự phù hợp của mình trong hệ quy

chiếu của tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Nhiều nhà văn Trung Quốc đã

thừa nhận có "học hỏi và vay mượn từ tiểu thuyết kì bí của Nhật Bản". Mặc

dù đối với nhiều nhà văn Trung Quốc, các tác phẩm của Conan Doyle rất li kì

nhưng chúng thiếu tính xã hội, họ bị thu hút bởi các tiểu thuyết bí ẩn xã hội

19

của Nhật Bản. Thực ra điều này cũng gây không ít khó khăn cho các nhà văn

Trung Quốc khi họ vấp phải thói quen đánh giá cao tinh thần dân tộc.

Người đọc Trung Quốc cũng thích truyện trinh thám và đánh giá cao

truyện trinh thám nội địa. Trong bài viết Mười tiểu thuyết trinh thám hay nhất

(中国推理小说排行榜前十名每部都很经典, 发布时间): “Đối với những người hâm

của Trung Quốc, mỗi cuốn đều là một tác phẩm kinh điển

mộ truyện trinh thám, tiểu thuyết trinh thám là thứ họ yêu thích nhất. Ở đất

nước rộng lớn này không thiếu những cuốn tiểu thuyết trinh thám xuất sắc”

[246].

Tiếp tục nhìn về trinh thám phương Đông, trong cuốn Giết người hiện

đại nhất: tiểu thuyết trinh thám và văn hóa Nhật Bản (Murder Most Modern:

Detective Fiction and Japanese Culture, 2008), Sari Kawana đã cho thấy tiểu

thuyết trinh thám thường hoạt động dưới chiêu bài giải trí đại chúng để khiến

độc giả có thể hiểu rộng rãi trước những câu hỏi đạo đức truyền thống phức

tạp và những tình huống khó xử về luân lí đạo đức đương thời. Đây được coi

là nghiên cứu dài hơi đầu tiên về tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản trong việc

xác định sự nổi lên của thể loại này ở một quốc gia phương Đông hiện đại.

Sari Kawana khám phá sự tương tác giữa đặc trưng của một thể loại phổ biến

và những diễn ngôn rộng hơn về tính hiện đại, dân tộc và đạo đức luân lí được

lưu truyền vào thời điểm quan trọng này trong lịch sử Nhật Bản. Tác giả đã

đối chiếu các tác phẩm tiếng Nhật của Edogawa Ranpo, Unno Juza, Oguri

Mushitaro và những người khác với các tác phẩm tiếng Anh của Edgar Allan

Poe, Dashiell Hammett và Agatha Christie để cho thấy cách các tác giả tiểu

thuyết trinh thám Nhật Bản sử dụng thể loại trinh thám để phổ biến ý tưởng

của họ về một số khía cạnh đáng kinh ngạc nhất của cuộc sống hiện đại: sự

phát triển của đô thị hóa, việc bảo vệ và vi phạm quyền riêng tư, tội phạm hóa

tình dục bất thường, sự mất nhân tính trong nghiên cứu khoa học và sự khủng

20

khiếp của chiến tranh toàn diện. Cách tiếp cận so sánh của Sari Kawana cho

thấy cách các tác giả Nhật Bản thuộc thể loại này đã nhấn mạnh các vấn đề xã

hội quan trọng thu hút sự chú ý của những độc giả tìm kiếm cảm giác mạnh,

trong khi né tránh con mắt của các nhà kiểm duyệt chính phủ.

Như vậy, những nghiên cứu về thể loại truyện trinh thám đã có một lịch

sử khá phong phú mà sự khảo sát thống kê của chúng tôi có lẽ chưa tiếp cận

hết được. Tuy nhiên, từ những công trình tiêu biểu đã nói ở trên, có thể nhận

thấy những chuyển đổi rõ rệt trong việc tiếp cận với thể loại văn học này, từ

việc xác định đặc trưng thể loại đến nghiên cứu kĩ thuật kể, và hiện nay việc

nghiên cứu truyện trinh thám được kết hợp với rất nhiều vấn đề thuộc về lịch

sử, văn hóa và xã hội. Sự kết hợp này là tất yếu của khuynh hướng nghiên cứu

liên ngành, xuyên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn.

1.2. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở trong nước

1.2.1. Giai đoạn trước 1945

Một mặt tiếp thu từ văn học phương Tây, mặt khác là kế thừa văn học

truyền thống, truyện trinh thám xuất hiện ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX. Mặc

dù sự ra đời thể loại này tương đối muộn so với các nước phương Tây nhưng

cũng có dấu ấn nhất định trong quá trình hiện đại hóa văn học nước nhà. Cũng

bởi ra đời muộn nên những nghiên cứu về truyện trinh thám ở nước ta không

nhiều. Ngoài những lời phát biểu, lời giới thiệu sách của một số tác giả, có thể

khẳng định Vũ Ngọc Phan là người đầu tiên nghiên cứu về truyện trinh thám

Việt Nam và đề cập trong công trình Nhà văn hiện đại, tập 2 (1989). Khi viết

về văn xuôi Thế Lữ, ở phần đánh giá về truyện trinh thám của Thế Lữ, tác giả

Vũ Ngọc Phan đã có nhận định: “Trong tiểu thuyết trinh thám, hay nhất là

những lời nghị luận của nhà trinh thám theo diễn dịch pháp, nghĩa là do một

nguyên lí chung mà suy luận ra và đoán định được những sự thực riêng”

[168]. Cũng theo tác giả Vũ Ngọc Phan thì Thế Lữ, Phạm Cao Củng và Bùi

21

Huy Phồn là các nhà văn trinh thám đầu tiên trong văn học Việt Nam. Từ đó,

ở nước ta, quan niệm về truyện trinh thám cũng dần được định hình. Nhà

nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đặc biệt chú ý đến Phạm Cao Củng. Theo tác giả,

Phạm Cao Củng là nhà văn tiêu biểu nhất trong số những cây bút theo đuổi thể

loại văn học này. Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Trong các tiểu thuyết trinh thám của

Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và Phạm Cao Củng, chỉ có tiểu thuyết của Phạm Cao

Củng là có phần đặc sắc hơn, các truyện trinh thám của Bùi Huy Phồn mang tính

chất “hoạt kê”... cách điều tra, phán đoán sự việc mà ông miêu tả trong truyện

còn đơn giản, nhiều yếu tố ngẫu nhiên, vô lí” [168, tr.53]. Có thể thấy Vũ Ngọc

Phan đã đánh giá cao sự sáng tạo của Phạm Cao Củng trong việc tiếp biến

một thể loại văn học có nguồn gốc từ phương Tây. Còn đối với Thế Lữ, Vũ

Ngọc Phan cho rằng “loại truyện trinh thám của Thế Lữ chưa thành công”

[168, tr.54].

Nhà văn Khái Hưng, trong Lời giới thiệu Vàng và máu (1934) đã nhận

xét về hiện tượng kết hợp “bút pháp” phương Tây và phương Đông ở các

Tôi vẫn mong mỏi sẽ có nhà văn dung hợp được văn Thái Tây với văn Á

Đông, để gây một lối văn viết theo óc khoa học mà vẫn giữ được thi vị của

văn Tàu.

Nhà văn đó ngày nay đã có: chính là bạn Nguyễn Thế Lữ, thi sĩ trong Tự lực

văn đoàn.

Thực vậy, tác giả những truyện “Vàng và máu” và “Một đêm trăng” đã tỏ

ra có óc khoa học của Edgar Poe và tâm hồn thi sĩ của Bồ Tùng Linh [104,

truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ, và cũng là “mong mỏi” của nhà văn:

tr.14].

Đưa ra đánh giá này, Khái Hưng dường như chỉ căn cứ vào các truyện

trinh thám kinh dị của Thế Lữ ở giai đoạn đầu (Vàng và máu, Một đêm trăng

xuất hiện vào năm 1934). Thực ra, khái quát như vậy về Thế Lữ là chưa đầy

22

đủ bởi ông còn có cả loạt truyện trinh thám suy luận xuất hiện từ năm 1937

mà tiêu biểu nhất là series truyện về nhân vật thám tử Lê Phong.

Trong “Lời giới thiệu” tập truyện ngắn Tiếng hú ban đêm của Thế Lữ,

Dương Quảng Hàm lại có cái nhìn khác về tác phẩm Vàng và máu, Bên đường

thiên lôi của Thế Lữ. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến “chủ đích” của tác giả khi

Ông thường công kích những điều mê tín dị đoan. Muốn đạt chủ đích ấy, ông

đặt những câu chuyện có vẻ rất rùng rợn làm cho người đọc ghê sợ, rồi đến

đoạn kết, ông đem cái lẽ khoa học ra mà giải thích các việc đã xảy ra một cách

rất đơn giản, tự nhiên. Chính vì thế, các câu chuyện có sức hấp dẫn kì lạ, làm

cho người đọc thích thú [88, tr.9].

sáng tác truyện trinh thám kinh dị:

Điều đó cho thấy Dương Quảng Hàm đã đánh giá cao Thế Lữ ở thể loại

truyện trinh thám.

Ở giai đoạn này, mặc dù có biểu dương sự sáng tạo của nhà văn Việt Nam

trong việc tiếp thu thể loại văn học phương Tây nhưng các nhà nghiên cứu chưa

thực sự coi trọng giá trị của truyện trinh thám Việt Nam.

1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975

Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965), tác giả Phạm Thế

Ngũ đã dành 11 trang đánh giá về mảng truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh

thám của Thế Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho

Thơ mới còn có một Thế Lữ văn xuôi đặc sắc. Tuy nhiên, truyện trinh thám của

Tiểu thuyết của ông cao quá, lấy làm truyện những điều lạ quá, làm nhân vật

những người hiếm quá […]. Cao quá cả ở cách viết săn sóc chải chuốt, cách

lập luận khoa học tỉ mỉ, vì vậy không phổ biến trong độc giả trung bình [...].

Các tác phẩm trinh thám của ông có nhiều tình tiết phi lí, không gian và thời

gian truyện ngắn và hẹp một cách khiên cưỡng [154, tr.214].

Thế Lữ cũng có nhược điểm:

23

Phạm Thế Ngũ cho rằng “thể loại tiểu thuyết này ngay bản chất của nó,

không có lợi thú văn học lắm” [154, tr.214].

Trong Thế Lữ - Về tác gia và tác phẩm do Phạm Đình Ân giới thiệu và

tuyển chọn, Lê Huy Oanh đã đi sâu tìm hiểu nghệ thuật xây dựng cốt

truyện và nghệ thuật kể chuyện trong truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ

với bài viết Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong “Vàng và máu” và kết

Chính nhờ tài kể chuyện của tác giả mà “Vàng và máu” đã là một tác

phẩm lớn […]. Tất cả những tình tiết, những yếu tố gây tò mò, gây cảm

giác mạnh, gây xúc động đều được đặt trong một thứ tự hợp lí […] với

“Vàng và máu”, ông đáng được coi là một trong những tiểu thuyết gia

đại tài của xứ sở chúng ta [4, tr.426].

luận:

Bên cạnh các tác giả truyện trinh thám gốc miền Bắc như Thế Lữ, Phạm

Cao Củng, Bùi Huy Phồn; một tác giả miền Nam là Phú Đức cũng được nhắc

đến. Các tác giả Thượng Sỹ, Vũ Bằng, Ngọa Long trong Văn nghiệp Phú Đức –

Tiểu thuyết gia một thời nổi tiếng ở Nam Bộ đã đề cập đến nhiều vấn đề trong

sáng tác của nhà văn Phú Đức và khẳng định: “Chỉ với cái tên tác giả Phú Đức là

đủ đảm bảo, đủ lôi kéo bạn đọc rồi; nhưng phải nhìn nhận là trong tất cả tiểu

thuyết của Phú Đức thì chỉ có bộ Châu về hiệp phố là hay hơn hết” [189, tr.25].

Có thể thấy rằng, tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở giai đoạn này

không được sôi nổi bởi sáng tác truyện trinh thám không phát triển, bị gián đoạn

do sự thay đổi về mối quan tâm của nhà văn và thị hiếu bạn đọc trong điều kiện

kháng chiến, cả nước hướng đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất

nước nhà. Dòng văn học cách mạng phát triển với tư cách là dòng chủ lưu. Trên

phương diện lí luận văn học và mĩ học, hệ thống chức năng văn học chỉ chú

trọng đến chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, mà xem nhẹ, thậm chí không

thừa nhận chức năng giải trí. Với khuynh hướng cách mạng, sử thi, nhà văn

hướng đến phản ánh cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ và anh dũng của nhân

24

dân ta, biến văn học thành một vũ khí đấu tranh cách mạng, v.v… Và dĩ nhiên,

trong hoàn cảnh đó thì sự quan tâm của các nhà nghiên cứu giai đoạn này ít

hướng đến truyện trinh thám là tất yếu.

1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay

Năm 1975, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ kết thúc thắng lợi, non

song thu về một mối, đời sống văn học có sự thay đổi. Nhà văn, bạn đọc và các

nhà nghiên cứu, phê bình cũng có sự dịch chuyển sự quan tâm đến những vấn

đề, những đề tài, thể loại và nhu cầu thẩm mĩ mới, trong đó có sự đòi hỏi giá trị

giải trí của văn học. Vì thế, nhiều người có sự quan tâm nhiều hơn đến thể loại

truyện trinh thám.

Tác giả Vũ Đức Phúc, trong một bài viết với tựa đề Truyện trinh thám

(1981), đã dành nhiều trang giới thiệu lịch sử hình thành truyện trinh thám thế

giới với những tác gia tiêu biểu như Honoré de Balzac, Charles Dickens, E.Allan

Poe, v.v… Theo tác giả, điều đáng kể trong truyện trinh thám chính là hiện thực

xã hội (tư bản) mà nhà văn đã tập trung phản ánh, mô tả với tinh thần phê phán.

Đánh giá về truyện trinh thám Việt Nam, nhà nghiên cứu cho rằng: “Truyện

trinh thám có ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội” [179, tr.36].

Trong “Lời giới thiệu” cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, nhà

nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung đã phân chia truyện của Thế Lữ chi tiết hơn,

tác giả viết: “Ông được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị [...] rồi loại truyện

tình lãng mạn đường rừng [...] và nhất là truyện trinh thám, ông là một trong

những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở nước ta” [115, tr.423]. Ông xếp

sáng tác của Thế Lữ thành nhiều nhóm khác nhau, trong đó đáng chú ý là truyện

kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng. Nguyễn Hoành Khung đánh giá

về văn nghiệp của Thế Lữ ở cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám:

Thành công nhất của nhà văn vẫn là truyện trinh thám. Đồng thời, tác giả cũng

nhận định về thể loại truyện trinh thám Việt Nam: Chính cái “phụ đề” ghi bên

25

cạnh tên truyện Truyện trinh thám An Nam của nhà văn Nguyễn Công Hoan cho

thấy cái nhìn khắt khe về thể loại truyện trinh thám Việt Nam của nhà văn hiện

thực Nguyễn Công Hoan. Bình luận về truyện ngắn này, Nguyễn Hoành Khung

cho rằng thiên truyện thường được xem như một ngón đòn “đả kích khá trúng

thứ văn chương” hiện đại, “lai căng toàn những chuyện li kì rẻ tiền” [114, tr.7].

Nhà văn Bùi Huy Phồn, trong “Đôi lời tâm sự cùng bạn đọc” in trong tác

Trong những năm cuối thập kỉ 20 đầu thập kỉ 30, bên cạnh những tiểu thuyết...

chứa chan lòng yêu nước thương nòi, chúng ta còn bị một thứ bịnh dịch điên

loạn về các loại truyện phong thần, kiếm hiệp, dao bay, trinh thám... tung ra từ

bốn phương tám hướng để ngu dân, đầu độc đông đảo thanh niên hồi bấy giờ,

thứ bịnh dịch cũng không kém phần nguy hiểm như các thứ truyện trinh thám

rẻ tiền, truyện về những vụ án hình sự đương ăn dỗ tiền và mê hoặc con em

chúng ta ngày nay [174, tr. 6].

phẩm Lá huyết thư (tái bản năm 1989) nhận định:

Điều đó cho thấy tác giả đã không ghi nhận những đóng góp của thể loại

truyện trinh thám đối với sự phát triển văn học dân tộc và đối với đời sống văn

hóa, xã hội ở nước ta.

Có lẽ truyện trinh thám Việt Nam được nghiên cứu một cách khách quan,

khoa học hơn là từ khi đất nước bước vào thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế

(1986). Đây cũng là lúc các nhà nghiên cứu bắt đầu có sự thay đổi trong cách

nhìn nhận, đánh giá lại về các hiện tượng văn học. Ít thấy những lời phê phán

gay gắt đối với thể loại truyện trinh thám như trước đây; thậm chí có những tác

giả đặt lại vấn đề, xác định lại vai trò, vị trí của truyện trinh thám trong đời sống

văn học. Trong bối cảnh đó, xuất hiện rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu

về các vấn đề liên quan đến thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng với bài viết Thế Lữ nghệ sĩ hai lần

tiên phong đã nhận xét:

26

Chỉ sau khi tập “Mấy vần thơ” ra đời được ít lâu, Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh

vực văn xuôi, với hai sở trường là tiểu thuyết li kì rùng rợn và tiểu thuyết trinh

thám như: “Vàng và máu” (Đời nay-1937), “Bên đường thiên lôi” (Đời nay-

1936); “Mai Hương và Lê Phong” (Đời nay-1937), “Gói thuốc lá” (Đời nay-

1940). Với “Vàng và máu” (tiểu thuyết kinh dị), ông có thể được coi là tác giả

đạt đỉnh cao nghệ thuật của loại truyện này. Điều đáng chú ý là sự thay đổi thể

loại ở Thế Lữ đồng thời cũng kéo theo cả thế giới nghệ thuật trong sáng tác

của ông. Nếu như ở Thơ mới ông thích cõi tiên, ở truyện trinh thám ông thích

cõi đời thì ở truyện li kì, rùng rợn, ông thích cõi âm [201, tr.13].

Nhận định này cho thấy nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng đã quan tâm

đánh giá và ghi nhận vị trí, vai trò, đóng góp của Thế Lữ ở các lĩnh vực sáng tác

khác nhau đối với nền văn học, trong đó có sự đóng góp của ông ở thể loại

truyện trinh thám.

Đánh giá của Hoàng Minh Châu cũng gần với nhận định trên khi tác giả

Bài học tình yêu cho rằng: “Nhưng có lẽ các nhà văn hiện nay và cả độc giả,

nếu có dịp đọc lại những truyện trinh thám của Thế Lữ - nhà thơ, ắt sẽ ngạc

nhiên mà kêu rằng: viết truyện trinh thám được như ông không phải dễ!” [26,

tr.28]. Đó là sự ghi nhận thành công của Thế Lữ khi viết truyện trinh thám.

Trong bộ sách Truyện truyền kì Việt Nam (2009), trên cơ sở nhận diện

quá trình phát triển và những điểm gần gũi giữa truyện truyền kì truyền thống

với truyện trinh thám, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã xếp một số truyện

trinh thám của Thế Lữ vào truyện truyền kì. Điều đó cho thấy ít nhiều quan

điểm của ông về bản chất, đặc trưng thể loại của truyện trinh thám Việt Nam:

có sự gần gũi, kế thừa, đan xen, hỗn dung nhiều thể loại.

Với Tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đầu tiên (2013), nhà nghiên cứu

Nam Chi đã nhận định sâu sắc về nghệ thuật viết truyện trinh thám của Thế

Lữ. Tác giả cho rằng: “Thế Lữ viết truyện trinh thám, truyện li kì dù hay dù

dở đều phải hợp lí… hợp lí trong tình tiết thì phải thuận lí trong câu văn. Thế

27

Lữ đã đưa vào trong tiểu thuyết Việt Nam cấu trúc câu văn Tây phương, minh

bạch khúc chiết mà vẫn giữ được dáng dấp mềm mại của câu nói Việt Nam”

[30]. Nhận định đó phần nào cho thấy phát hiện sự cách tân và truyền thống

trong truyện trinh thám của Thế Lữ.

Với bài viết Thế Lữ và năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe

(2012), tác giả Hoàng Kim Oanh đã so sánh, chứng minh truyện trinh thám

của Thế Lữ chịu ảnh hưởng mẫu hình của nhà văn Mĩ Edgar Poe và kết luận:

“Chất duy lí khoa học phương Tây được quyện lẫn với tính chất ma quái

huyền bí của Bồ Tùng Linh và cái kì ảo hoang đường của truyện truyền kì dân

gian Việt Nam là thành màu sắc truyện trinh thám Thế Lữ” [165].

Nhà nghiên cứu, phê bình Đỗ Lai Thúy khẳng định “Thế Lữ là người

khởi điểm của những khởi điểm”, tên tuổi của ông gắn liền với quá trình hiện

đại hóa văn học Việt Nam và ông cũng là một trong những người đặt nền

móng cho thể loại truyện trinh thám Việt Nam. Tác giả Hoài Anh cho rằng:

“Thế Lữ cả thơ và truyện đều có hơi hướng Poe, nặng về duy mĩ mà không

đau khổ đến mức bệnh hoạn, tuyệt vọng như Baudelaire” [9, tr.13].

Tiếp tục đề cao mảng truyện trinh thám của Thế Lữ, nhà nghiên cứu Lê

Loại sáng tác này cho ta thấy một Thế Lữ có tài quan sát, có óc quan sát

sắc bén, có trí tưởng tượng dồi dào, cho nên dù ít đề cập đến vấn đề gì quan

trọng về xã hội và nhân sinh, nó vẫn được đón nhận và được tìm đọc một

cách lí thú. Cho đến nay, trong lịch sử văn học Việt Nam, không thấy có tên

tuổi nào đáng được xếp cạnh Thế Lữ trong loại sáng tác khá độc đáo này

Đình Kỵ đã nhận xét:

[118, tr.55-56].

Ở bài viết Cuộc kì ngộ giữa Phạm Cao Củng và Trình Tiểu Thanh – Hai

tác giả trinh thám nửa đầu thế kỉ XX (2001), nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu

đã so sánh kết cấu truyện của nhà văn Việt Nam Phạm Cao Củng và nhà văn

Trung Quốc Trình Tiểu Thanh. Tác giả cho rằng:

28

Có thể nói đây là sự gặp gỡ đầu tiên giữa Trình Tiểu Thanh và Phạm Cao

Củng – hai tiểu thuyết gia trinh thám không hề quen biết, không hề có thông

tin gì nhau – về kết cấu của truyện trinh thám. Tiếp đó hai ông cũng gặp gỡ

nhau ở chỗ xây dựng nhân vật chính là một thám tử có trình độ vận dụng lí

luận học và óc quan sát để phân tích sự việc, gỡ dần ra đầu mối chính [27,

tr. 28].

Tác giả Thy Ngọc, trong Truy tìm truyện trinh thám Việt Nam (2013),

cho rằng: “Phạm Cao Củng dù là học hỏi phương Tây, nhưng ông ấy cũng

biết “thổi” cho nhân vật một tính cách Việt, tâm hồn Việt, đời sống Việt cùng

những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông, như trọng nghĩa khí, tình

cảm, đạo đức, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao” [153]. Gần

với ý kiến trên của Thy Ngọc, trong “Vài dòng hồi tưởng…” mở đầu Hồi ký

Phạm Cao Củng, Phạm Tú Châu đã dẫn lại đánh giá của Vũ Ngọc Phan trong

Cái đặc biệt mà người ta thấy ở tiểu thuyết trinh thám suy luận của Phạm

Cao Củng là những nhân vật và khung cảnh do ông sáng tạo đều có tính

chất Việt Nam hợp với trình độ người Việt Nam ta hiện thời, không như mấy

nhà tiểu thuyết trinh thám khác đi nhặt những mẩu chuyện li kì của Tây

phương rồi cố gò ép vào những khung cảnh lai Việt lai Pháp [43, tr.12].

Nhà văn hiện đại:

Đó là những sự đánh giá cao tinh thần Việt hóa truyện trinh thám của

Phạm Cao Củng.

Ở “Về các loại truyện viết bằng chữ quốc ngữ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ

XX ở Việt Nam” trong công trình Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX

(2006), Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Truyện trinh thám Nam Bộ phát triển

rất sớm, ảnh hưởng truyện kì án võ hiệp của Trung Quốc và phù hợp với tính

cách của người dân Nam Bộ nên được hưởng ứng rất rộng rãi” [208, tr.137].

Với nhận định và nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung

đã có cái nhìn rất mới về văn học Nam Bộ, trong đó có tiểu thuyết trinh thám.

29

Nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang, trong bài Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ

cuối thế kỉ XIX đến 1945 - Thành tựu và triển vọng nghiên cứu (2006), đã

khái quát, giới thiệu về diện mạo của các tác giả, tác phẩm truyện trinh thám ở

miền Nam những năm đầu thế kỉ XX, và đã khẳng định: “Những phát hiện

gần đây cho thấy Biến Ngũ Nhy mới là nhà văn trinh thám đầu tiên và sớm

nhất của Việt Nam” [75]. Đây là nhận định có tính thuyết phục và khá mới

mẻ, khi trước đây các nhà nghiên cứu thường coi Thế Lữ và Phạm Cao Củng

là những người khai mở thể loại này ở Việt Nam.

Với bài viết Phú Đức - Một mẫu hình nhà văn Nam Bộ đặc biệt đầu thế

kỉ XX (2006), tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã phân tích khá chi tiết về

cách đặt nhan đề, cách xây dựng nhân vật trong truyện trinh thám của Phú

Đức và kết luận “nhân vật trong truyện trinh thám của Phú Đức còn hơi

gượng” [222, tr.19-23].

Trong bài Bửu Đình, nhà tiểu thuyết Nam Bộ (2009), các tác giả Lê Tiến

Màu sắc trinh thám trong tiểu thuyết Bửu Đình in đậm ở tình huống truyện,

còn ở tình tiết truyện thì màu sắc này không rõ nét như các tác phẩm trinh

thám […] so với những tác phẩm trinh thám khác thì tính trinh thám của

Bửu Đình chỉ dừng lại ở mức độ khởi đầu… tình tiết trong tiểu thuyết trinh

thám của Bửu Đình không đạt đến độ chín muồi của nghệ thuật tiểu thuyết

trinh thám [73].

Dũng-Hồ Khánh Vân cho rằng:

Trong công trình Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX

(2004), các tác giả Nguyễn Kim Anh (Chủ biên), Hà Thanh Vân, Nguyễn Thị

Tác phẩm “Kim thời dị sử” của Biến Ngũ Nhy được coi là cuốn tiểu thuyết

trinh thám đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại, nó mang dáng dấp của

một tiểu thuyết phương Tây hiện đại và giá trị của nó trong văn học sử đã

được ghi nhận và thành quả của Biến Ngũ Nhy, người đi tiên phong mở

Trúc Bạch cho rằng:

30

đường trong lãnh vực này đã được một số cây bút sau ông như Phú Đức,

Nam Đình Nguyễn Thế Phương, Sơn Vương, v.v… ở Nam Bộ và Thế Lữ,

Phạm Cao Củng, v.v… ở miền Bắc nối tiếp [10, tr.163].

Nhận định này đã có sự gặp gỡ với nhận định của nhà nghiên cứu Đoàn

Lê Giang.

Cũng trong công trình Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX

(2004), Hà Thanh Vân cho rằng Nam Đình Nguyễn Thế Phương “có công xây

dựng một dòng tiểu thuyết trinh thám, võ hiệp, kì tình, phiêu lưu mạo hiểm,

làm phong phú thêm bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc của tiểu thuyết Nam

Bộ đầu thế kỉ XX” cùng với Biến Ngũ Nhy, Phú Đức và một số tác giả khác,

Tiểu thuyết Nam Đình Nguyễn Thế Phương hầu hết thuộc thể loại trinh

thám li kì, hấp dẫn. Yếu tố li kì và hiện đại được ông nhấn mạnh. Và phong

cách viết của ông rất gần với nhà văn Phú Đức, tuy nhiên văn phong không

thật sắc sảo, dường như những tiểu thuyết này được viết để đăng báo dài kì,

ông không mấy quan tâm trau chuốt ngôn từ […] nhiều chi tiết còn bất hợp

lí, tỏ ra dễ dãi, không thuyết phục người đọc [10, tr.439].

và đánh giá về nghệ thuật viết truyện trinh thám của tác giả này:

Bài viết Lê Hoằng Mưu – Nhà văn của những thử nghiệm táo bạo thế kỉ

XX (2006), nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn đã đánh giá: “Các tác phẩm chính

của Lê Hoằng Mưu hầu hết đều thuộc thể loại trinh thám hấp dẫn và li kì”

[161, tr.26-35]; “Trước 1945, Châu về hiệp phố của Phú Đức có lẽ là bộ tiểu

thuyết được độc giả Nam Kì say mê nhất, và là bộ tiểu thuyết có độ dài kỉ lục

mà chưa tác phẩm nào có thể vượt qua. Tác phẩm được khởi đăng trên Trung

lập báo năm 1926” [161, tr.37].

Do những cách ngăn về địa lí và những đặc thù về lịch sử, nên văn học sử

Việt Nam dường như vẫn còn bỏ sót hoặc “làm lơ” các nhà văn tiền phong

có nhiều đóng góp vào thể loại văn học trinh thám, viễn tưởng, phiêu lưu ở

Nam Bộ đầu thế kỉ 20 […]. Nam Đình luôn pha trộn giữa chất trinh thám và

Ở Văn học trinh thám ở Nam Bộ đầu thế kỉ 20 (2018), Lý Đợi cho rằng:

31

ái tình, văn phong mộc mạc, nhưng tình tiết khá hấp dẫn, bạn đọc vẫn còn

nhớ “Vô oan trái”, “Huyết lệ hoa”, “Chén thuốc độc” [63].

Những nhận định như thế đã khái quát, ghi nhận những đóng góp của

các nhà văn Nam Bộ ở thể loại truyện trinh thám.

Trong lời giới thiệu bài viết Thời vàng son của tiểu thuyết trinh thám

(2009) của Trần Thanh Hà có dẫn nhận định của Cao Việt Dũng: “Nếu coi

những cuốn truyện hình sự vẫn được bán hoặc cho thuê đầy rẫy trên thị

trường hiện nay là truyện trinh thám thì bạn đã hạ thấp thể loại này, những

người hâm mộ chân chính của văn học trinh thám đích thực sẽ dễ dàng kể ra

nền tảng trinh thám của vô số tác phẩm lớn, cả văn học lẫn điện ảnh” [81]. Đó

là sự đánh giá và ghi nhận giá trị, vị trí của văn học trinh thám nước ta một

cách khá thỏa đáng.

Tháng 3/2010, Toạ đàm Văn học trinh thám có phải là văn học? do

Công ty Nhã Nam tổ chức, nhiều ý kiến phát biểu, thảo luận về truyện trinh

thám như: “Làm sao không nể, đọc và hồi hộp như quả bom nổ chậm”

(Nguyễn Minh Hoàng); “Tôi nghĩ, trong tương lai, văn học hiện đại trinh thám

Việt Nam sẽ phát triển vì rõ ràng, qua lịch sử, chúng ta đã có những nhân vật

tình báo, điệp báo lẫy lừng tầm cỡ thế giới nể phục như Phạm Xuân Ẩn, Vũ

Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, v.v… thì tại sao chúng ta không có những tác

phẩm văn học hay, độc đáo về họ?”; “Tôi nghĩ rằng văn học trinh thám gần gũi

với tuổi trẻ vì những ước mơ thám hiểm, chinh phục cái mới” (Trương Văn

Dân), v.v… [147]. Đó là những ý kiến không chỉ đề cập đến đặc trưng thể

loại, vai trò của truyện trinh thám mà còn nhấn mạnh những đóng góp của

truyện trinh thám là một thể loại văn học đích thực; đánh giá về tiềm năng phát

triển truyện trinh thám ở nước ta, v.v… Mặc dù có một số ý kiến nhận định,

đánh giá chưa thống nhất nhưng Toạ đàm đã đem đến cho độc giả những cái

nhìn mới cùng sự quan tâm đặc biệt về thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

32

Tác giả Yên Ba, với bài viết Văn học trinh thám Việt Nam: từ thám tử Kỳ

Sách trinh thám ở Việt Nam không có một lịch sử lâu dài. Lý do là vì chữ quốc

ngữ mãi đến những năm đầu tiên của thế kỉ 20 mới dần được truyền bá và hoàn

thiện, theo đó văn học chữ quốc ngữ cũng mới được hình thành […] Có thể coi

cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học trinh thám Việt Nam chính là “Vết tay

trên trần”, dày hơn 100 trang, xuất bản năm 1936, tác giả là Phạm Cao Củng.

Đây có lẽ cũng là tác gia trinh thám đầu tiên của Việt Nam, bởi ngoài “Vết tay

trên trần”, Phạm Cao Củng còn viết khoảng 20 tiểu thuyết và truyện ngắn

mang màu sắc trinh thám, như “Gia tài nhà họ Đặng” (1937), “Chiếc tất

nhuộm bùn” (1938), “Người một mắt” (1940), “Kỳ Phát giết người” (1941),

“Nhà sư thọt” (1941), “Đám cưới Kỳ Phát” (1942), “Bóng người áo tím”

(1942), “Một cái Tết rùng rợn của Kỳ Phát” (1945)... Ngoài ra còn có những

tác phẩm pha trộn giữa màu sắc mạo hiểm với trinh thám như “Máu đỏ lòng

son” (1937), “Hàm răng mài nhọn” (1942), “Chiếc gối đẫm máu” (1942),

“Bàn tay sáu ngón” (1950), “Người chó sói” (1950) [125].

Phát đến điệp viên Nguyễn Thành Luân được Nhị Linh thuật lại, cho rằng:

Vấn đề thể loại cũng thu hút được nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu,

phê bình. Tác giả Thy Ngọc đã băn khoăn: “Cái gọi là “dòng văn học trinh

thám Việt Nam” chỉ là một vạch rất đỗi mờ nhòe và đứt gãy trong lịch sử văn

học nước nhà” [153]. Nhà văn Trần Thanh Hà nhận định: “Ảnh hưởng trực

tiếp của văn hóa phương Tây, một số nhà văn đã mô phỏng các cốt truyện

hình sự-điều tra trong truyện trinh thám nước ngoài, làm manh nha một thể

loại mới: tiểu thuyết trinh thám Việt Nam” [81]. Trong Bỏ trống văn học trinh

thám, kì ảo Việt, Báo Thanh Niên Online cho rằng: “Không có nhiều tác phẩm

văn học thuộc thể loại trinh thám, kì ảo, đời sống văn học Việt đang bỏ trống

sân chơi này cho dòng sách truyện trinh thám, kì ảo của văn học thế giới ào ạt

tràn vào” [197].

Trong Tiếng hú ban đêm – Tập truyện ngắn của Thế Lữ, Ngô Văn Giá có

nhận định về vai trò của thể loại trinh thám trong đời sống khá thuyết phục:

33

“Ngày nay nhìn vào những mảng văn học này, chúng ta rộng lòng hơn khi đón

nó và trên thực tế sẽ bổ ích cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc với những tác phẩm

văn học mà ở đó không phải lúc nào cũng chăm chăm đi tìm bằng được ý nghĩa

xã hội một cách thô thiển và vị tất đã thấy!” [74, tr.13].

Toạ đàm Văn học trinh thám Việt Nam và tiểu thuyết trinh thám của Di

Li diễn ra tại Trung tâm Văn hoá Pháp Việt ngày 18/01/2016, cũng là dịp Di

Li ra mắt cuốn trinh thám Câu lạc bộ số 7. Cuộc toạ đàm thu hút sự quan tâm

của nhiều độc giả, người thích truyện trinh thám đến tham dự. Tại toạ đàm

này, các học giả, nhà văn, độc giả và báo giới đã thảo luận nhiều vấn đề về

truyện trinh thám: truyện trinh thám Việt Nam có đặc điểm gì, nó ra đời khi

nào, gương mặt trinh thám tiêu biểu có những ai, thời gian qua thể loại này

phát triển ra sao, v.v…? Nhà văn Di Li cùng với việc giới thiệu tiểu thuyết

trinh thám Câu lạc bộ số 7 của mình cũng chia sẻ rằng chị viết truyện trinh

thám vì từ nhỏ đã thích đọc sách và rất thích đọc tiểu thuyết trinh thám nước

ngoài và đương nhiên không thể không đọc Thế Lữ, Phạm Cao Củng của

nước ta. Điều này phần nào nói lên rằng nhà văn trinh thám Việt Nam một

phần tiếp thu, ảnh hưởng truyện trinh thám nước ngoài nhưng cũng luôn có

tinh thần tiếp nối truyền thống trinh thám Việt Nam, cho dù truyện trinh thám

Việt Nam ra đời muộn hơn so với phương Tây.

Cũng trong năm 2016, ngày 30/11, Khoa Văn học - Học viện Khoa học

xã hội đã tổ chức Hội thảo khoa học Văn học trinh thám ở Việt Nam – Lí luận

và thực tiễn. Hội thảo đã thảo luận từ những vấn đề chung về quan niệm, đặc

trưng thể loại đến những trường hợp tác giả, tác phẩm truyện trinh thám cụ

thể. Đặc biệt, Hội thảo đặt ra những vấn đề về nguồn gốc, về diện mạo và

tương lai của thể loại này. Một số tham luận trình bày tại Hội thảo đã đặt ra

được các vấn đề và được các nhà khoa học, các đại biểu thảo luận sôi nổi như

các tham luận: Văn học trinh thám Đông Tây – một vài điểm nhìn tham chiếu

34

của Nguyễn Thị Thuý Hạnh, Quan niệm về truyện trinh thám và sự ra đời

truyện trinh thám của Thế Lữ trong nền văn học Việt Nam của Nguyễn Thế

Bắc, Trinh thám của Di Li – “người mở đường” dũng cảm của Trần Thị Vân,

Nhân vật trong tiểu thuyết phản trinh thám của Đặng Thị Bích Hồng, v.v…

Không ít ý kiến còn băn khoăn trong bối cảnh văn học trinh thám thế giới

hiện nay, văn học trinh thám Việt Nam đứng ở đâu, có hay không một dòng

riêng văn học trinh thám Việt Nam giữa nguồn chung văn học trinh thám thế

giới, tương lai phát triển của thể loại này như thế nào, v.v…? Tuy nhiên, cơ

bản ý kiến cho rằng việc nghiên cứu văn học trinh thám như một thể loại là

cần thiết và chắc chắn ẩn chứa nhiều điều thú vị. Chủ đề, cũng là những vấn

đề đặt ra, của Hội thảo này cho thấy thể loại truyện trinh thám ngày càng thu

hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, lí luận, phê bình và độc giả văn học.

Ngày 25/11/2018, nhân sự kiện tái bản bộ sách Thám tử Kỳ Phát của

Phạm Cao Củng, một toạ đàm về truyện trinh thám diễn ra tại phố sách Hà

Nội với chủ đề Đánh thức trinh thám Việt đã khái quát lịch sử hình thành

trinh thám Việt. Tại toạ đàm, Phạm Xuân Thạch chia sẻ: “Chúng tôi làm phê

bình nên hay để ý tới những cuộc tranh luận: cuộc tranh luận của nhóm Tự

lực văn đoàn (là những người chuyên viết tiểu thuyết kĩ thuật cao) với những

nhà văn thuộc nhóm Tân Dân (nhóm văn học tiêu thụ, vì Tân Dân có tờ Tiểu

thuyết Thứ Năm, Tiểu thuyết Thứ Bảy, hệ thống xuất bản của họ xuất bản rất

nhiều trinh thám, võ hiệp). Trong cuộc tranh luận đó, truyện trinh thám, võ

hiệp luôn luôn bị coi là ba xu, thấp kém” [92]; nhưng hiện nay, “mảnh đất của

trinh thám luôn rộng mở, điều quan trọng là nhà văn có ý thức cao về nghề

hay không” [92]. Những nhận định đó một mặt đã khái quát, đánh giá về thực

trạng đời sống của truyện trinh thám Việt Nam, một mặt thể hiện niềm tin về

tương lai của thể loại này.

35

Gần đây nhất, tại Hà Nội có hai cuộc toạ đàm về truyện trinh thám được

tổ chức ở hai tháng liền nhau (tháng 9/2022 và tháng 10/2022), cho thấy sự

quan tâm về truyện trinh thám ngày một nhiều hơn:

Ngày 9/9/2022, Hội Nhà văn Việt Nam, Công ti Linh Lan Books, Công

ti Lien Viet Books, Truyền hình Kĩ thuật số trả tiền K+ đồng chủ trì tổ chức

Toạ đàm Văn học trinh thám hiện đại – giao thoa Đông và Tây đã thu hút

được nhiều ý kiến thảo luận của các độc giả, các nhà lí luận, phê bình văn

học, các nhà văn, các phóng viên báo chí xoay quanh những vấn đề: lí giải tại

sao văn học trinh thám Việt Nam vẫn còn non trẻ, sự khác nhau giữa văn học

trinh thám Đông và Tây, giữa văn học trinh thám hiện đại và truyền thống,

khả năng khai thác thế mạnh của thể loại đối với những nhà văn Việt Nam

trong sáng tác của họ.

Ngày 25/10/2022, Toạ đàm Trinh thám Pháp và Việt qua góc nhìn của

các nhà văn nổi danh được Thư viện quốc gia Việt Nam, Viện Pháp tại Việt

Nam và Công ty Văn hoá và truyền thông Nhã Nam đồng tổ chức. Tôi tham

dự và trao đổi với các diễn giả tại toạ đàm là nhà văn trinh thám Pháp Michel

Bussi, Đại sứ Pháp tại Việt Nam – nhà văn Nicolas Warnery, nhà văn trinh

thám Việt Nam Di Li. Các diễn giả đã chia sẻ về lí do viết truyện trinh thám,

những khó khăn khi viết truyện trinh thám, cách thức viết truyện trinh thám

để thành công, sự phát triển và thành công của các nhà văn trinh thám Pháp,

Sự bí ẩn cuốn hút chúng ta và tiểu thuyết trinh thám khiến chúng ta biết

được cuộc sống có nhiều điều cuốn hút. Truyện giúp ta tái hiện được những

gì là hơi thở của cuộc sống qua tài miêu tả của nhà văn. Khán giả hiện nay

rất khó tính nên cần những truyện hấp dẫn hơn nhưng vẫn phải gắn với hơi

thở cuộc sống chứ không phải là những câu chuyện ở tận vũ trụ.

sự nỗ lực của các nhà văn Việt Nam, v.v… Nhà văn Nicolas Warnery chia sẻ:

Các diễn giả đều cho rằng một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn,

thành công khi viết truyện trinh thám hiện nay là truyện “phải bám sát đời

36

sống”, “mang dấu ấn bản sắc văn hoá vùng miền”, “cần có sự quan tâm đến

đời sống xã hội với những nghèo đói, tham nhũng, bất công”, “viết tiểu thuyết

trinh thám về ngay những điều ở đất nước của mình sẽ hay hơn”, v.v...

Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình

nghiên cứu, phê bình, sưu tầm và giới thiệu tác phẩm ít nhiều liên quan đến

các tác giả và tác phẩm truyện trinh thám như: Văn học Nam Bộ đầu thế kỉ XX

(1900-1945) (1988) của Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp; Phác thảo

quan hệ văn học Pháp và văn học Việt Nam hiện đại (1988) của Hoàng Nhân;

Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX (1999) do Cao Xuân Mĩ sưu tầm, Mai

Quốc Liên giới thiệu; Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (2000) của

Nguyễn Đăng Mạnh; Báo chí với văn học giai đoạn 1932-1945 (2001) của Lê

Thị Đức Hạnh; Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (2002) của Mai Quốc

Liên (Chủ biên), Nguyễn Văn Lưu và Nguyễn Cừ (Sưu tầm, biên soạn), Lược

khảo văn học Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại (2005) của Bùi Đức Tịnh;

Văn học miền Nam nơi miền đất mới (2007) của Nguyễn Q. Thắng, v.v… Tuy

những công trình này không bàn sâu về truyện trinh thám Việt Nam nhưng

cũng đã nhắc đến thể loại này trong mối quan hệ với thể loại khác, trong lịch

sử văn học, v.v… có liên quan đến vấn đề nghiên cứu trong đề tài luận án.

Cũng đã có một số luận án, luận văn đề cập đến những vấn đề liên quan

thể loại này trong văn học Việt Nam, như các luận án: Sự hình thành và vận

động của thể loại tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối

thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX (1993) của Tôn Thất Dụng; Đóng góp của văn

học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và tiến trình hiện đại hóa

văn học Việt Nam (2001) của Lê Ngọc Thúy; Quá trình hiện đại hóa tiểu

thuyết Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX (2001) của Cao Thị

Xuân Mĩ; Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX (2008) của

Võ Văn Nhơn,v.v… đặt trinh thám trong các thể loại tiểu thuyết để đánh giá

37

về tiểu thuyết văn xuôi Nam Bộ và quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết Việt

Nam; Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX- Từ đặc trưng thể loại

(2006) của Nguyễn Thành Khánh đã khái quát diện mạo, đánh giá một số đặc

điểm hình tượng nghệ thuật, cốt truyện và phương thức trần thuật của truyện

trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Các luận văn: Nhận diện tiểu thuyết

trinh thám Việt Nam (2005) của Trần Thanh Hà, Tiểu thuyết trinh thám - kinh

dị của Di Li (2017) của Nguyễn Thị Lĩnh đã khái quát và đánh giá, phân tích

một số đặc điểm về cốt truyện, tình huống, nhân vật, không gian và thời gian

nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li; Truyện trinh thám

của Thế Lữ (2016) của Nguyễn Thế Bắc đã phân tích, đánh giá quy luật vận

động văn học dẫn đến sự ra đời và những đặc điểm nội dung, nghệ thuật, các

yếu tố truyền thống và cách tân trong truyện trinh thám của Thế Lữ; Tiểu

thuyết trinh thám của Di Li (Qua “Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bộ số 7”)

(2017) của Vũ Thị Thủy đã khái quát về tiểu thuyết trinh thám của Di Li,

phân tích cốt truyện và nhân vật, điểm nhìn và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu

thuyết trinh thám của Di Li. Những luận văn, luận án này cho thấy đã có ngày

càng nhiều hơn sự quan tâm nghiên cứu ở những góc độ và mức độ khác nhau

về truyện trinh thám ở Việt Nam.

So với giai đoạn trước, những công trình nghiên cứu từ sau năm 1986 về

truyện trinh thám đã có nhiều thay đổi. Các tác giả nghiên cứu truyện trinh

thám với cái nhìn khá mới mẻ, cởi mở theo tinh thần đổi mới. Tuy có những

quan điểm gần gũi nhưng cũng có những quan niệm, ý kiến trái chiều, trong

đó có cả những đánh giá cực đoan đối với truyện trinh thám. Điều đó chứng

tỏ còn nhiều khoảng trống trong nghiên cứu đòi hỏi chúng ta cần tìm hiểu,

trao đổi bằng cách nhìn khoa học, khách quan đối với thể loại văn học này.

Như vậy, hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu về thể loại truyện trinh thám

Việt Nam của giới chuyên môn ở nửa đầu thế kỉ XX còn ít, còn thiếu những

38

chuyên luận, những công trình lớn, mang tính hệ thống; hầu hết chỉ là các bài

báo, những lời giới thiệu sách, những nhận xét xen kẽ trong các công trình

nghiên cứu liên quan. Việc nghiên cứu sâu về phương diện thể loại truyện

trinh thám hầu như chưa được đặt ra. Trong giới chuyên môn vẫn tồn tại

những định kiến khá nặng nề đối với thể loại này.

Tuy nhiên, tình hình nghiên cứu thể loại này có nhiều thay đổi ở nửa sau

thế kỉ XX. Đặc biệt là từ thời điểm đất nước đổi mới, bước vào quá trình hội

nhập quốc tế đến nay, những vấn đề liên quan đến thể loại truyện trinh thám đã

được nhìn nhận lại một cách khách quan hơn. Các nhà nghiên cứu và độc giả

đã có cái nhìn cởi mở hơn về thể loại này. Truyện trinh thám được xem là một

thể loại hấp dẫn, có triển vọng và có những đóng góp đáng ghi nhận đối với

tiến trình vận động và phát triển văn học Việt Nam hiện đại.

Sang đầu thế kỉ XXI, việc nghiên cứu thể loại truyện trinh thám đã có

những thay đổi mang tính “đột phá”, có nhiều phát hiện mới mẻ. Các kết quả

nghiên cứu truyện trinh thám đã nhiều hơn, sâu hơn, công bằng, khách quan

hơn ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Mặc dù vậy, nghiên cứu một cách tổng thể

và hệ thống về thể loại truyện trinh thám từ khi nó xuất hiện cho đến nay trên

tinh thần cập nhật tri thức khoa học, với cái nhìn mới mẻ, khách quan vẫn còn

là một khoảng trống đòi hỏi các nhà nghiên cứu hiện nay giải quyết.

Tìm hiểu về quá trình nghiên cứu truyện trinh thám Việt Nam, theo

chúng tôi, một số vấn đề cơ bản của thể loại đã ít nhiều có sự gặp gỡ trong

nhận định, đánh giá của giới nghiên cứu:

Thứ nhất, về quan niệm: mặc dù có sự quan tâm chú ý nhiều ít khác nhau

đến các yếu tố trong truyện trinh thám nhưng các nhà văn, các học giả nước

ngoài cũng như của các nhà văn, các học giả trong nước đều coi truyện trinh

thám là một thể loại văn học duy lí, kết cấu cốt truyện và các tình tiết, nhân

vật, v.v… đều xoay quanh sự khám phá bí mật liên quan đến vụ án, thường

39

liên quan đến tội ác, pháp luật, để cuối cùng mở được bức màn bí mật, tìm ra

được thủ phạm của vụ án bằng quá trình xét đoán khoa học chứ không hề nhờ

sự huyền bí hay tình cờ, ngẫu nhiên; thuyết phục người đọc bằng lối miêu tả

một cách tỉ mỉ, trình bày một cách logic khoa học, duy lí và gay cấn, hấp dẫn.

Thứ hai, về nguồn gốc, xuất xứ truyện trinh thám Việt Nam: trên cơ sở

mô phỏng truyện truyện trinh thám phương Tây và truyện vụ án Trung Quốc,

kết hợp với một số yếu tố của văn học truyền thống, các nhà văn đầu thế kỉ

XX đã tạo ra một thể loại văn học mới, đó là truyện trinh thám Việt Nam. Thể

loại truyện trinh thám Việt Nam có những nét đặc thù, cả về nội dung lẫn hình

thức; có quy luật vận động riêng. Do ảnh hưởng hoàn cảnh lịch sử-xã hội Việt

Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX, nó hình thành một cách nhanh chóng, góp phần

thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.

Thứ ba, về thành tựu: Thế Lữ, Phạm Cao Củng được xem là hai nhà văn

thành công nhất về thể loại này. Các truyện trinh thám của Thế Lữ và Phạm

Cao Củng đều ảnh hưởng truyện trinh thám cổ điển của nhà văn trinh thám

Mĩ Adgar Allan Poe, nhà văn Anh Conan Doyle trong việc xây dựng hình

tượng nhân vật thám tử. Đồng thời, sự đóng góp của nhiều nhà văn như Phú

Đức, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu, Nam Đình Nguyễn Thế Phương, Bửu

Đình, Bùi Huy Phồn, v.v… với các truyện mang màu sắc khác nhau (trinh

thám hành động, trinh thám vụ án, trinh thám ái tình, trinh thám võ hiệp,…)

đã làm nên diện mạo cho thể loại truyện trinh thám với những thành tựu và

đóng góp không nhỏ đối với nền văn học nước ta đầu thế kỉ XX.

Tuy nhiên, truyện trinh thám Việt Nam là một đối tượng được giới

nghiên cứu nhìn nhận rất khác nhau. Xuất phát từ đó, chúng tôi thấy rằng

nhiều vấn đề về thể loại này cần được giới chuyên môn quan tâm và tiếp tục

tìm hiểu, giải quyết:

40

Một là, sự khác biệt trong việc đánh giá vị trí, vai trò, tầm ảnh hưởng của

văn học trinh thám đối đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam nói chung, đối

với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nói riêng. Ở đây có hai xu hướng

đánh giá hoàn toàn trái ngược nhau. Mặc dù càng về sau, xu hướng khẳng

định càng tỏ ra vượt trội, song do chỗ phần lớn các công trình nghiên cứu chỉ

mới dừng lại ở việc phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, chưa có

những công trình đánh giá một cách đầy đủ, hệ thống về thể loại nên những

nhận định chưa tạo được sức thuyết phục cao.

Hai là, hầu như các nhà nghiên cứu đều khẳng định nguồn gốc của

truyện trinh thám Việt Nam khởi phát từ tiểu thuyết trinh thám phương Tây,

truyện vụ án Trung Quốc nhưng về cơ bản vẫn chỉ là những nhận định chung

chung, chưa có sự đối chiếu, so sánh, chứng minh thật chi tiết, đầy đủ. Không

thể phủ nhận sự ảnh hưởng của truyện trinh thám phương Tây, truyện vụ án

Trung Quốc đối với trinh thám Việt Nam, song ảnh hưởng như thế nào, chi

phối đến đâu, biểu hiện ra sao, phần tiếp thu, tiếp biến, sáng tạo của nhà văn

nước ta như thế nào?, v.v… vẫn là những câu hỏi chưa được trả lời đầy đủ.

Ba là, một số vấn đề lí luận thể loại vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát

như: nội hàm khái niệm, đặc trưng, bản chất thể loại truyện trinh thám Việt

Nam; tác giả, tác phẩm truyện trinh thám Việt Nam đầu tiên; thành tựu của

thể loại này đạt được đến đâu?, v.v… Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, trong

khi đi tìm câu trả lời cho các vấn đề trên đã nảy sinh không ít sự nhầm lẫn dẫn

đến những ngộ nhận về nguồn gốc, đặc trưng thể loại so với các thể loại khác

như truyện truyền kì, truyện kinh dị, truyện kiếm hiệp, truyện khoa học viễn

tưởng, v.v… khiến cho việc tìm hiểu về thể loại gặp không ít khó khăn.

Tiểu kết chương 1

Truyện trinh thám là một thể loại đã nhận được sự quan tâm tìm hiểu, lí

giải của không ít nhà văn, nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình trong và ngoài

41

nước. Điều đó đã phần nào cho thấy lí do tồn tại cũng như vị trí, vai trò của

thể loại này đối với đời sống xã hội nói chung và đời sống văn học nói riêng.

Mặc dù đã được các nhà chuyên môn đề cập đến, nghiên cứu, lí giải

nhưng xung quanh những vấn đề mấu chốt của thể loại trinh thám Việt Nam

vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu rất khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu để

nhận thức một cách đầy đủ, khoa học và hệ thống hơn về thể loại truyện trinh

thám trong nền văn học Việt Nam là một vấn đề rất cần thiết đặt ra cho giới

chuyên môn hiện nay.

Từ việc tổng quan tình hình nghiên cứu về thể loại truyện trinh thám nói

chung và thể loại truyện trinh thám Việt Nam nói riêng, chúng tôi có cơ sở

khoa học và thực tiễn để xác định những vấn đề mà luận án sẽ tập trung giải

quyết cũng như hướng tiếp cận vấn đề, triển khai luận án một cách hệ thống,

khoa học, phù hợp và thiết thực. Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu,

luận án hướng đến việc tiếp tục giải quyết một số vấn đề cơ bản: thuật ngữ,

khái niệm thể loại truyện trinh thám; nguồn gốc, những tiền đề dẫn đến sự ra

đời và các giai đoạn phát triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam; đặc

trưng thể loại truyện trinh thám; một số đặc điểm của thể loại truyện trinh

thám Việt Nam; vai trò, vị trí, những đóng góp, xu hướng vận động và phát

triển của thể loại này trong văn học Việt Nam hiện đại.

Trước một lịch sử vấn đề khá phức tạp như vậy, để đạt được mục tiêu

nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xác định hướng tiếp cận sẽ nghiêng về lịch sử

thể loại. Tuy luận án không đặt vấn đề đi sâu vào thi pháp thể loại nhưng để

làm rõ tiến trình và đặc điểm thể loại này, ở một số luận điểm, chúng tôi vẫn

đề cập đến ở phạm vi có thể và cần thiết.

42

Chương 2

SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN

CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM

“Truyện trinh thám” là một thuật ngữ xuất phát từ tiếng Pháp: “Roman

détective” (Tiểu thuyết trinh thám), “Littérature policiere” (Văn học cảnh sát);

hay “Roman policier” (Truyện cảnh sát). Trong tiếng Anh, người ta dùng các

thuật ngữ: “Detective novel-Detective fiction” (Tiểu thuyết trinh thám),

“Mystery novel” (Tiểu thuyết kì bí), “Crime novel” (Tiểu thuyết tội phạm),

“Suspense novel” (Tiểu thuyết li kì/ hồi hộp), “Fiction noir novel” (Tiểu

thuyết hư cấu), “Thriller novel” (Tiểu thuyết giật gân) để chỉ thể loại truyện

trinh thám.

Ở Việt Nam, do hiểu bản chất thể loại chưa rõ ràng, nhiều khi hiểu chưa

đầy đủ về bản chất thể loại nên có người xếp truyện trinh thám, truyện truyền

kì, truyện chí dị, chí quái, truyện đường rừng vào một loại; nhưng có người

lại coi đó là những thể loại khác nhau. Chẳng hạn như nhà nghiên cứu

Nguyễn Huệ Chi tuyển chọn các truyện in thành cuốn Truyện truyền kì Việt

Nam mà trong đó có Vàng và máu của Thế Lữ; Truyện Thần Hổ, Ai hát giữa

rừng khuya (Tchya); Trên đỉnh non Tản của Nguyễn Tuân. Trong khi đó, ở

nhiều cuốn sách khác lại xếp Vàng và máu vào loại sách truyện trinh thám;

Truyện Thần Hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Tchya) và Trên đỉnh non Tản của

Nguyễn Tuân vào loại sách truyện đường rừng, truyện chí dị. Điều này đã

phần nào nói lên sự phức tạp, sự gần gũi và đan xen giữa truyện trinh thám

với các thể loại khác.

Về dung lượng, cách gọi thể loại văn xuôi này cũng là một vấn đề còn

khác nhau về phân loại, tên gọi như các thuật ngữ nêu ở trên: tiểu thuyết,

truyện ngắn, truyện. Về nội dung này, chúng tôi tán thành với quan niệm của

43

Phạm Đình Ân cho rằng ở những năm đầu của thế kỉ XX, khi văn xuôi nghệ

thuật viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện thì tiểu thuyết và truyện ngắn chưa

được phân biệt một cách rõ ràng theo quan niệm hiện đại, và vì thế, khi nói

đến một thể loại cụ thể thì dùng khái niệm “truyện” để chỉ tất cả các thể loại

văn xuôi. Ở luận án này, chúng tôi cũng sử dụng thuật ngữ “Truyện trinh

thám” thay cho nhiều cách gọi khác nhau kể trên để chỉ tất cả các sáng tác văn

xuôi có nội dung điều tra, phá án bằng tư duy logic khoa học, bằng trí tuệ.

Xuất phát từ bản chất nội dung và nghệ thuật của thể loại văn xuôi và

những quan niệm về thể loại này, chúng tôi cho rằng: “Truyện trinh thám” là

một thuật ngữ chỉ những sáng tác văn xuôi mà nội dung và nghệ thuật của

những sáng tác ấy mang tính duy lí, có kết cấu, cốt truyện và các tình tiết,

nhân vật v.v… xoay quanh sự khám phá bí mật liên quan đến vụ án để giải

mã những bí mật trong vụ án, tìm ra được thủ phạm của vụ án bằng quá trình

xét đoán khoa học, logic; thuyết phục người đọc bằng việc miêu tả một cách tỉ

mỉ, trình bày một cách logic khoa học, duy lí và ngôn ngữ kể chuyện tạo được

sự gay cấn, hồi hộp, hấp dẫn người đọc. Truyện trinh thám Việt Nam là

những tác phẩm như thế, được nhà văn Việt Nam sáng tác ở Việt Nam (không

bao gồm những truyện trinh thám dịch và những truyện trinh thám tiếng Việt

được phát hành ở nước ngoài).

2.1. Nguồn gốc và những yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại truyện

trinh thám Việt Nam

2.1.1. Bối cảnh lịch sử-xã hội, văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỉ

XX

Sự xâm lược của thực dân Pháp từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX khiến

cho xã hội, văn hóa Việt Nam có sự biến đổi sâu sắc. Năm 1858, thực dân

Pháp nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng, chính thức tiến hành cuộc chiến tranh

xâm lược đất nước ta. Sau gần nửa thế kỉ bình định về quân sự, thực dân Pháp

44

đã thôn tính hoàn toàn, biến đất nước ta thành một nước thực dân nửa phong

kiến. Từ đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thuộc địa

một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đối

với đất nước ta. Từ đây, thực dân Pháp thực sự khai thác thuộc địa về kinh tế.

Hai cuộc khai thác thuộc địa của chúng (lần thứ nhất từ năm 1897 đến năm

1914; lần thứ hai từ năm 1919 đến năm 1929) nhằm vơ vét tài nguyên, bóc lột

nhân công, mở mang thị trường đã khiến cho xã hội Việt Nam có những biến

đổi sâu sắc. Quá trình đô thị hóa, sự ra đời các thành phố công nghiệp, đô thị,

thị trấn diễn ra ở nhiều nơi. Cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng có sự thay đổi

lớn: bên cạnh những tầng lớp, giai cấp cũ như nông dân, địa chủ, những giai

cấp, tầng lớp xã hội mới như tư sản, tiểu tư sản, công nhân, dân nghèo thành

thị, viên chức, học sinh, sinh viên xuất hiện ngày càng nhiều. Những giai tầng

mới ra đời tạo ra một lớp công chúng mới của văn học có đời sống tinh thần

và thị hiếu mới. Điều này tác động đến văn hóa, văn học, làm nảy sinh đòi hỏi

một thứ văn chương mới. Đồng thời làm xuất hiện những chủ thể sáng tạo

nghệ thuật mới đại diện cho tiếng nói khác nhau trong xã hội.

Cùng với sự biến đổi về kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội, tình hình giáo

dục, đời sống tư tưởng, văn hóa và tâm lí ở Việt Nam cũng có nhiều chuyển

biến. Thực dân Pháp chủ trương nhanh chóng xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục

Nho học, thay vào đó là sự mở rộng hệ thống giáo dục Pháp-Việt, mở ra nhiều

trường học và chia thành hai bộ phận: các trường Pháp chuyên dạy học sinh

Pháp theo chương trình “Chính quốc”, các trường Pháp-Việt chuyên dạy

người Việt theo chương trình “Bản xứ”. Việc làm này của thực dân Pháp, bên

cạnh mục đích giáo dục phục vụ sự cai trị, thôn tính, khai thác, bóc lột của họ,

nó cũng đã tạo ra tầng lớp trí thức Tây học, có sự tiếp cận với văn hóa, văn

học Pháp và phương Tây. Từ trường học Pháp-Việt và bối cảnh xã hội chung,

nhiều thành tựu khoa học kĩ thuật, nghệ thuật và văn hóa gắn với các trào lưu

45

tư tưởng mới từ phương Tây thông qua sách báo nước ngoài đã tràn vào trong

nước, thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Á-

Âu, Đông-Tây ở Việt Nam. Việc in ấn, xuất bản và giới thiệu các công trình

về khoa học tự nhiên, về triết học, luật học của các học giả phương Tây đã

góp phần làm thay đổi phương pháp tư duy, nghiên cứu. Phương pháp tư duy

duy lí tồn tại bên cạnh lối tư duy duy cảm được hình thành trong một số trí

thức tân học, tác động mạnh đến quan niệm nhân sinh và nghệ thuật của nghệ

sĩ Việt Nam. Đặc biệt, đến thời kì này, viết văn cũng được coi là một nghề,

tuy còn rất chật vật, khó khăn. Vì thế, việc sáng tác của nhà văn trở nên có

tính chuyên nghiệp.

Như trên vừa nói, đây là thời kì giao lưu văn hóa Đông-Tây diễn ra

mạnh mẽ. Nếu trong suốt mười thế kỉ văn học trung đại, Việt Nam chỉ giao

lưu với văn hóa, văn học phương Đông mà chủ yếu là văn hóa, văn học Trung

Hoa thì từ đầu thế kỉ XX, Việt Nam mở rộng giao lưu với văn hóa, văn học

Pháp và qua đó giao lưu với văn hóa, văn học phương Tây. Đây là bước

chuyển biến sâu sắc vì trước đó sự giao lưu của Việt Nam chỉ mang tính khu

vực, còn từ đầu thế kỉ XX có giao lưu với văn hóa Pháp và phương Tây là

Việt Nam đã bước ra phạm vi giao lưu thế giới. Nhờ đó mà văn hóa, văn học

Việt Nam có điều kiện để giao lưu, tiếp nhận và tiếp biến văn hóa, văn học

của phương Tây và bắt đầu trở thành một bộ phận trong văn hóa, văn học thế

giới.

Lịch sử chính trị-xã hội, văn hóa và văn học, nghệ thuật luôn có mối

quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Thời đại nào thì văn học ấy. Sự

biến động của tình hình lịch sử-văn hóa-xã hội Việt Nam những năm đầu thế

kỉ XX đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của văn học Việt Nam. Trong

khuôn khổ của luận án, chúng tôi phác thảo bối cảnh văn học Việt Nam từ

đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 để lí giải nguyên nhân

46

tác động dẫn đến sự ra đời thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam. Đây là thời

kì rất quan trọng trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử văn học nói riêng.

Trước hết có thể thấy, từ đầu thế kỉ XX, trong nhiều lĩnh vực, từ hành

chính công vụ đến văn chương nghệ thuật; chữ Hán, chữ Nôm đã được thay

thế bằng chữ quốc ngữ. Sự phát triển rộng rãi của chữ quốc ngữ đã tạo điều

kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc với sách báo. Nhu cầu văn hóa của lớp

công chúng mới làm nảy sinh những hoạt động kinh doanh văn hóa, làm cho

nghề in, nghề xuất bản, nghề làm báo theo kĩ thuật hiện đại phát triển khá

mạnh. Chính sự phát triển ấy, đặc biệt là sự phát triển của báo chí đã làm chỗ

dựa cho sự phát triển của văn học.

Từ đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam bắt đầu phát triển theo hướng hiện

đại hóa, dần dần thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới

theo hình thức văn học phương Tây, hội nhập với nền văn học thế giới. Đây là

giai đoạn có sự đan xen cũ-mới trong văn học, cái mới đang hình thành và cái

cũ vẫn chưa mất đi ở nhiều yếu tố của văn học. Trong khi sáng tác của những

cây bút Hán học như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,

Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế đã có những đổi mới về nội dung tư

tưởng nhưng thể loại, ngôn ngữ, thi pháp, văn tự vẫn thuộc phạm trù văn học

trung đại thì những cây bút tân học lại có những sáng tác mới với quan niệm

văn học, mục đích sáng tác, quan niệm thẩm mĩ, thể loại, thi pháp, văn tự

mới. Lúc này, chữ quốc ngữ đã xuất hiện và được phổ biến ngày càng rộng rãi

trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn chương nghệ thuật. Cùng với chữ quốc

ngữ, báo chí và phong trào dịch thuật phát triển. Nhiều tác phẩm tiểu thuyết

cổ điển, tiểu thuyết và kịch Pháp, Tân thư Trung Quốc, Nhật Bản được dịch

và có tác động quan trọng tới việc hình thành và phát triển văn xuôi chữ quốc

ngữ ở Việt Nam. Đầu thế kỉ XX, nhiều tác phẩm văn xuôi bằng chữ quốc ngữ

ra đời. Đến giai đoạn 1920-1930, quá trình hiện đại hóa nền văn học đã đạt

47

được những thành tựu đáng kể. Với những tác phẩm ở các thể loại, nhiều tác

giả đã khẳng định được tài năng và sức sáng tạo qua những sáng tác của mình

như: truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học; tiểu thuyết của Hồ

Biểu Chánh; thơ của Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải; kịch của Vũ Đình

Long, Vi Huyền Đắc, v.v… Để rồi nền văn học của ta hoàn tất quá trình hiện

đại hóa ở giai đoạn 1930-1945. Đến giai đoạn này, nền văn học nước nhà đã

có sự cách tân sâu sắc trên mọi thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện ngắn và

thơ; ngay cả những thể loại mới như kịch nói, phóng sự, phê bình văn học đều

khẳng định được sự cách tân so với văn học trung đại. Sau giai đoạn giao

thời, từ năm 1930 đến năm 1945, nền văn học Việt Nam gắn liền với sự

chuyển động trong đà quay rất nhanh. Chỉ trong 15 năm, văn học đã thực sự

bước vào quỹ đạo văn học hiện đại với nét nổi bật của tư duy nghệ thuật là

“tôi nhìn thế giới bằng con mắt của riêng tôi”, thế giới được phản ánh qua

cảm quan của người nghệ sĩ.

Sự phát triển mạnh mẽ và lớn lao về số lượng tác giả và tác phẩm; sự

hình thành và đổi mới theo hướng hiện đại ở các thể loại văn học; sự vận

động với nhiều bộ phận, xu hướng văn học và độ kết tinh ở nhiều tác giả, tác

phẩm tiêu biểu như đã khái quát ở trên cho thấy văn học Việt Nam từ đầu thế

kỉ XX đến năm 1945 có sự phát triển nhanh chóng trong lịch sử văn học dân

tộc. Chưa bao giờ nền văn học của ta lại có sự xuất hiện một thế hệ nhà văn,

nhà thơ tài năng đông đảo và đạt được những thành tựu to lớn gắn với sự hoàn

thiện về các thể loại văn học như trong thời kì này.

Văn xuôi đạt được những thành tựu ở tất cả các thể loại: từ tiểu thuyết,

truyện ngắn cho đến phóng sự, bút kí, tùy bút, kịch nói, lí luận và phê bình

văn học.

Mặc dù tiểu thuyết quốc ngữ trước năm 1930 xuất hiện chưa nhiều, kết

cấu, cốt truyện còn đơn giản, thậm chí có một số chỉ là phỏng tác theo cốt

48

truyện của tiểu thuyết phương Tây hoặc chưa thoát được kiểu kết cấu chương

hồi, ngôn ngữ chưa mang tính nghệ thuật cao nhưng đã là tín hiệu khai mở sự

phát triển của thể loại này. Để rồi từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, thể

loại này đã phát triển phong phú, có sự đổi mới sâu sắc và đạt được thành tựu

lớn lao. Tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm xuất sắc

của Nhất Linh, Khái Hưng đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới.

Tiếp đó, từ năm 1936, những tên tuổi lớn của tiểu thuyết hiện thực như Vũ

Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, v.v… đã thực sự đưa

công cuộc cách tân tiểu thuyết nước nhà lên một tầm cao mới.

Cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn cũng phát triển mạnh mẽ, nhanh

chóng. Đặc biệt, chỉ sau hơn mười năm, từ năm 1930 đến năm 1945, trong

nền văn học của chúng ta đã xuất hiện nhiều truyện ngắn đặc sắc, có những

truyện được coi là kiệt tác. Chưa bao giờ truyện ngắn nước ta lại đơm hoa

kết trái muôn sắc muôn hương như ở giai đoạn 1930-1945 mà nó kết tinh ở

những sáng tác truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan; truyện

ngắn trữ tình của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh; truyện ngắn phong

tục của Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân; và Nam Cao với những truyện ngắn

viết về người nông dân và người trí thức nghèo, mang tư tưởng sâu sắc, có

ý nghĩa khái quát rộng lớn với những trang miêu tả, phân tích tâm lí đạt

đến trình độ nghệ thuật cao. Ở giai đoạn này, ngoài vị trí người đi tiên

phong của phong trào Thơ mới, Thế Lữ cũng là cây bút có những thành tựu

truyện ngắn xuất sắc, nhất là ở những sáng tác truyện kinh dị, truyện trinh

thám.

Ở thời kì này, nền văn học nước ta cũng đã ghi nhận thành tựu của một

số thể loại văn xuôi mới xuất hiện như: phóng sự; tùy bút, bút kí; lí luận, phê

bình văn học. Ra đời từ đầu những năm 30, thể loại phóng sự đã đạt được

những thành tựu đáng ghi nhận trong những sáng tác của Tam Lang, Trọng

49

Lang, Ngô Tất Tố, Lê Văn Hiến, v.v… và nhất là những sáng tác của “Ông

vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng. Đặc biệt, sự phát triển và liên tiếp

xuất hiện những tác phẩm phóng sự điều tra với yếu tố sự kiện, vụ án, điều tra

đã có tác động lớn đến sự phát triển thể loại truyện trinh thám Việt Nam đầu

thế kỉ XX.

Có thể khẳng định rằng, nhờ sự kế thừa tinh hoa truyền thống văn học

dân tộc, nhờ sự giao lưu, ảnh hưởng, tiếp thu văn hóa, văn học Phương tây,

nền văn học nước ta đã bước vào quá trình hiện đại hóa từ đầu thế kỉ XX đến

Cách mạng tháng Tám năm 1945. Mặc dù còn những hạn chế không tránh

khỏi nhưng nền văn học dân tộc đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn.

Ở thể loại văn học nào cũng phát triển nhanh và mạnh, ở thể loại nào cũng ghi

nhận được nhiều tác giả, tác phẩm xuất sắc, trong đó có những tác phẩm xứng

đáng là kiệt tác. Đóng góp vào sự phát triển và những thành tựu to lớn ở các

thể loại có sự tham gia đóng góp của các nhà văn viết truyện trinh thám.

2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại truyện trinh thám

Việt Nam

2.1.2.1. Nhu cầu tinh thần của xã hội và công chúng đương thời

Thực tế trong đời sống xã hội từ cổ xưa cho đến ngày nay, con người

luôn hướng đến sự văn minh và khát vọng đời sống công bằng. Những cách

hành xử của con người trái với đạo đức hay pháp luật vẫn thường thấy ở bất

kì thời đại nào, ở bất kì xã hội nào. Để thực hiện khát vọng công bằng, người

ta đấu tranh nhằm loại bỏ, chế ngự hay cải biến tội ác bằng nhiều biện pháp

khác nhau, trong đó có việc phản ánh tội ác và sự trừng phạt tội ác trong

những sáng tác văn chương. Ước mơ về công lí từng là ước mơ ngàn đời của

con người Việt Nam, được thể hiện đa dạng và phong phú trong văn học Việt

Nam, nhất là trong văn học dân gian: ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyện

truyền kì, v.v…

50

Hơn nữa, bản chất đời sống tinh thần của con người là luôn có khát vọng

kiếm tìm sự thật. Chính khát vọng kiếm tìm sự thật của con người là một yếu

tố nguồn cội để truyện trinh thám ra đời, bởi bản chất của thể loại truyện trinh

thám là thể loại đi tìm sự thật: nêu lên vụ án, tất nhiên trong đó có nạn nhân,

và quá trình đi giải mã sự thật về nạn nhân, sự thật về thủ phạm, sự thật về lí

do, mục đích, cách thức gây án của kẻ thủ ác bằng việc sử dụng lí trí, tư duy

logic, sự hiểu biết của thám tử/ người điều tra.

Sự hiếu kì, muốn khám phá những điều mới lạ, những điều bí ẩn là một

tâm lí phổ biến của người Á Đông, và đó cũng là một đặc điểm nổi bật của

người Việt Nam. Truyện Bí mật trong văn học dân gian Việt Nam là một ví

dụ nói lên rõ điều này. Vì thế, chắc không có thể loại văn học nào thích hợp

hơn thể loại truyện trinh thám trong việc khơi gợi trí tò mò, sự hiếu kì, thích

khám phá cái lạ (cái chưa biết, cái cần làm sáng rõ). Bởi vậy, ở chiều ngược

lại, tâm lí hiếu kì của người Việt Nam cũng là nguồn gốc, là nguyên nhân, là

xúc tác cho sự xuất hiện thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

Người Việt Nam là người sáng tạo và đồng thời là người tiếp nhận,

thưởng thức, là bạn đọc, là công chúng của văn học, cả văn học dân gian và

văn học viết. Họ có nhu cầu nhận thức, nhu cầu giáo dục, nhu cầu thẩm mĩ,

nhu cầu giải trí từ những tác phẩm văn học. Mỗi thể loại văn học có thế mạnh

riêng trong việc đáp ứng những nhu cầu đó của bạn đọc, của công chúng. Thể

loại truyện trinh thám có khả năng đáp ứng những nhu cầu đó nhưng đặc biệt

có thế mạnh trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của bạn đọc, của công chúng.

Xã hội càng hiện đại thì nhu cầu giải trí của con người, của bạn đọc càng cao.

Vì thế, nhu cầu của công chúng cũng là một yếu tố ảnh hưởng, tác động, thúc

đẩy sự ra đời thể loại truyện trinh thám Việt Nam trong nền văn học Việt

Nam hiện đại.

51

Đầu thế kỉ XX, cùng với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp

ở đất nước ta là quá trình đô thị hóa diễn ra, tác động không chỉ đối với đời

sống xã hội, dân sinh mà còn tác động mạnh đến đời sống văn học. Hàng loạt

đô thị ra đời ở nhiều nơi trên cả nước với những thành phố, thị trấn xuất hiện,

làm xuất hiện giai tầng mới: bên cạnh những tầng lớp, giai cấp cũ như nông

dân, địa chủ; những giai cấp, tầng lớp xã hội mới như tư sản, tiểu tư sản, công

nhân, dân nghèo thành thị, viên chức, học sinh, sinh viên xuất hiện ngày càng

nhiều. Đặc biệt, những tầng lớp thị dân là lớp công chúng mới của văn học,

họ có đời sống tinh thần và thị hiếu mới, đòi hỏi một thứ văn chương mới. Và

đương nhiên, để đáp ứng những yêu cầu văn chương mới đó thì phải có

những chủ thể sáng tạo nghệ thuật mới. Trong nhu cầu đời sống tinh thần của

thị dân đầu thế kỉ XX thì giải trí là một nhu cầu rất lớn, và truyện trinh thám

ra đời từ yêu cầu đó của công chúng. Truyện trinh thám ra đời cùng với quá

trình đô thị hoá và sự xuất hiện thị dân ở nước ta đầu thế kỉ XX.

2.1.2.2. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Tây

Nguồn gốc sâu xa của truyện trinh thám có thể tìm thấy dạng sơ khai

trong những hình thức văn chương cổ xưa của phương Tây. Những câu

chuyện trong thần thoại Hi Lạp, trong kịch, trong Kinh Thánh đã chứa đựng ở

đó những yếu tố của truyện trinh thám. Ngay từ truyện Oedipus làm vua trong

thần thoại Hi Lạp được Sophocles (496-406 TCN) xây dựng thành vở bi kịch

cùng tên cũng đã xuất hiện những tình tiết tìm hiểu, điều tra để tìm ra sự thật.

Tại thành Thebes xinh đẹp, đức vua Laius cùng hoàng hậu Jocaste kết hôn đã

lâu mà chưa có con. Họ bèn đến đền thờ thần Apolllo để cầu tự. Thần phán

rằng họ sẽ có con trai nhưng đứa con ấy khi lớn lên sẽ giết cha, lấy mẹ. Để

tránh tai hoạ ấy, khi đứa bé vừa chào đời, Laius sai người giết nó. Xót thương

đứa trẻ vô tội, người hầu trao nó cho một người chăn cừu xứ Corynth. Vì

không có con nên vua xứ này nhận đứa trẻ làm con nuôi. Một ngày kia, tin

52

đồn Oedipus không phải là con ruột của nhà vua tới tai chàng, chàng đến đền

thờ thần Apollo tìm lời giải đáp. Thế nhưng thay vì giải đáp, thần Apollo lại

phán sau này chàng sẽ giết cha và lấy mẹ. Sợ hãi tột độ, Oedipus rời Corynth

đi về phía Thebes để tránh hậu họa của lời sấm truyền ấy. Tại một ngã ba

đường, vì xích mích với một đoàn người nên chàng giết chết đoàn người ấy,

trong đó có một ông già và đó chính là vua Laius – cha đẻ của chàng. Ở

Thebes lúc này đang mắc phải một tai hoạ là có một con quái vật đưa ra một

câu đố nếu không giải được câu đố của nó thì mỗi ngày nó sẽ ăn thịt một

người. Oedipus giải được câu đố, quái vật chết, chàng lên làm vua, lấy Jocaste

làm vợ mà không hề biết đó chính hoàng hậu của vua Laius và là mẹ đẻ của

chàng. Ít lâu sau, thành Thebes xảy ra dịch bệnh. Trong quá trình đi tìm

nguồn gốc của dịch bệnh, Oedipus khám phá ra thân phận thật sự của mình.

Chàng hiểu rằng chính chàng là nguyên nhân dẫn tới dịch bệnh bởi sự trừng

phạt đối với tội giết cha, lấy mẹ của chàng. Cuối cùng, Oedipus ân hận và tự

chọc mù hai mắt rồi rời bỏ ngai vàng.

Tuy nhiên, truyện trinh thám hiện đại trên thế giới mới chỉ xuất hiện

khoảng những năm đầu thế kỉ XIX, gần như đồng thời ở nhiều nước phương

Tây. Nhà văn Mĩ Edgar Poe (1809- 1849) được coi là người khai sinh ra thể

loại này. Hàng loạt truyện của ông như: Vụ án ở đường Morgue, Bức thư bị

mất cắp, Bí mật của Marie Roget, v.v… đã được coi là hình mẫu đầu tiên của

truyện trinh thám. Nhà văn đã xây dựng được nhân vật thám tử tài danh

Charles Auguste Dupi, gây được ấn tượng sâu sắc bởi nhân vật này đã trở

thành mẫu hình thám tử chuyên nghiệp đầu tiên trong văn học. Sau Edgar

Poe, dường như nền văn học thế giới đã có sự nở rộ thể loại này. Các nước

Anh, Mĩ, Pháp có văn chương trinh thám phát triển nhất, sau đó lan rộng ra

các nước Đức, Hà Lan, Nga, v.v… với những nhà văn tiêu biểu gắn với tên

những hình tượng nhân vật nổi tiếng như các nhà văn Anh: Charles Dickens

53

(1812-1870) với nhân vật thanh tra Bucket, Conan Doyle (1859-1930) với

nhân vật thám tử siêu hạng Sherlock Holmes, Agatha Christie (1890-1976)

với hình tượng thám tử Hoecull Poirot; nhà văn Mĩ S.S Van Dine (1888-

1939) với nhân vật thám tử Philo Vance; nhà văn Nga Dostoevsky (1821-

1881), v.v… Đặc biệt là sau sự khai mở về thể loại này của nhà văn Mĩ Edgar

Poe, đến đầu thế kỉ XX, truyện trinh thám phát triển bùng nổ mạnh mẽ với tốc

độ nhanh chóng ở phương Tây, được thể hiện ở số lượng lớn tác giả, tác phẩm

và số lượng xuất bản truyện trinh thám ở nhiều nước như: Anh, Mĩ, Pháp,

Đức, Hà Lan, Nga, v.v...

Trong khi đó, cuộc ngoại xâm của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ

đến lịch sử văn hóa, xã hội Việt Nam. Nó tạo ra mối quan hệ tiếp xúc giữa hai

nền văn hóa Á-Âu và Đông-Tây ở nước ta. Sự tiếp xúc ấy đã khiến cho nền

văn chương của ta thoát dần khỏi sự ảnh hưởng mang tính chế định của văn

hóa, văn học phương Đông để từng bước hiện đại hóa nền văn học nước nhà.

Ngay từ đầu thế kỉ XX, nhiều thể loại văn học mới từ phương Tây du nhập và

xuất hiện ở Việt Nam, trong đó có truyện trinh thám.

2.1.2.3. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Đông

Không chỉ chịu ảnh hưởng, tiếp thu và tiếp biến những giá trị của văn

hóa-văn học phương Tây mà văn học Việt Nam cũng tiếp nhận những ảnh

hưởng của văn hóa-văn học phương Đông. Sự tiếp thu, ảnh hưởng đó cũng đã

phần nào cho thấy nguồn gốc ảnh hưởng đối với truyện trinh thám trong nền

văn học Việt Nam hiện đại. Trong Kinh Phật, câu chuyện liên quan đến tội ác

và sự trừng phạt được thể hiện ở quan niệm luân hồi, nhân quả, báo ứng.

Thực chất đó cũng là khát vọng công bằng, khát vọng sự thật được phơi bày,

thậm chí sự thật ở kiếp này được phơi bày ở kiếp khác. Mà khát vọng kiếm

tìm sự thật là một mục đích không thể thiếu của truyện trinh thám.

54

Trong văn học cổ đại Ả Rập có tác phẩm Nghìn lẻ một đêm với các câu

chuyện hàng ngày Scheherazate kể cho đức vua nghe. Trong các câu chuyện

kể của nàng Scheherazate có truyện Ba trái táo có chứa những yếu tố trinh

thám với sự xuất hiện hành động tội ác một cách bí ẩn: Một hôm, nhà vua báo

cho tể tướng Giafar phải có mặt ở cung điện vào tối hôm sau để cùng nhà vua

đi một vòng xung quanh thành phố để nghe ngóng xem dư luận nhân dân ra

sao và nhất là để biết xem họ có điều gì không được hài lòng với những pháp

quan của nhà vua mà điều chỉnh cách cai trị của mình. Tể tướng cùng với thái

giám Mesrour và nhà vua cải trang để không ai nhận biết và cùng ra khỏi

cung điện. Họ gặp một ông lão đánh cá, ông lão than phiền mình là người

nghèo khổ nhất trong cái nghề này. Theo lời hứa của nhà vua là ông lão đánh

cá quay lại kéo lưới ở sông một lần nữa và nhà vua cho lão một trăm đồng

sequins để đổi lấy bất cứ cái gì ông lão kéo lên được. Lão đánh cá quên hết

mệt nhọc trong ngày, cùng với Hoàng đế và Tể tướng Giafar và Mesrour quay

lại sông Tigre, lão buông lưới rồi kéo lên được một chiếc hòm đóng kín khá

nặng. Hoàng đế tức thì bảo Tể tướng đưa cho lão đủ một trăm đồng sequins

và cho lão về. Mesrour theo lệnh Hoàng đế vác chiếc hòm về hoàng cung.

Hoàng đế nôn nóng biết trong đó có gì, lập tức hòm được mở ra với nhiều

tầng gói buộc, mọi người đều kinh hãi khi thấy thân thể một phụ nữ trẻ bị chặt

ra làm nhiều mảnh. Nhà vua giận dữ với sự phạm tội sát nhân của kẻ nào đó

và yêu cầu Tể tướng phải mau chóng tìm ra được kẻ sát nhân để trả thù cho

người phụ nữ, nếu không tìm được hung thủ thì Hoàng đế sẽ treo cổ Tể tướng.

Tể tướng xin Hoàng đế cho ông thời gian để tiến hành cuộc điều tra. Ông lệnh

cho các quan hành pháp làm một cuộc săn lùng hung thủ và đã tìm ra kẻ giết

chết người phụ nữ trẻ là chồng nàng: vì ghen tuông mà hung thủ sát hại vợ

mình.

55

Trong sự ảnh hưởng tiếp nhận và tiếp biến những giá trị của văn học

phương Đông mà chủ yếu là từ nền văn học Trung Hoa cổ điển, văn học Việt

Nam cũng chịu ảnh hưởng và tiếp nhận nhiều yếu tố trinh thám trong văn học

Trung Hoa. Những thần thoại, truyện truyền kì, truyện phiêu lưu, võ hiệp,

truyện công đường, truyện trinh thám Trung Quốc thực sự trở thành chất xúc

tác cho sự ra đời truyện trinh thám trong văn học Việt Nam hiện đại. Đầu thế

kỉ XX, văn học dịch ở nước ta đã phát triển. Ngoài những tác phẩm văn học

phương Tây, tiểu thuyết Trung Quốc cũng được dịch nhiều, trong đó có nhiều

truyện mang yếu tố trinh thám. Theo khảo cứu của tác giả Nhan Bảo được thể

hiện trong bài viết Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học

Việt Nam, ở phần “Thư mục các dịch phẩm tiểu thuyết bình dân Trung Quốc

sang chữ quốc ngữ”, tác giả đã thống kê được 360 dịch phẩm được xuất bản

chủ yếu ở Sài Gòn và Hà Nội, nhiều nhất ở thập niên 20-30 của thế kỉ XX,

trong đó có nhiều truyện mang đậm yếu tố trinh thám như: Bao Công kì án,

Bao Công tra Quách Hòa án, Bao Công nghĩa hiệp chính sử kì thư, Long đồ

công án, Nữ báo phục thù, Thiếu lâm trường hận, Võ Tắc Thiên tứ đại kì án,

Chung Nam huyết hận, v.v… Những dịch phẩm ấy đã tạo nên sự ảnh hưởng

của tiểu thuyết Trung Quốc đến văn học Việt Nam nói chung và truyện trinh

thám Việt Nam nói riêng. Đây cũng là một yếu tố tác động, có ảnh hưởng đến

sự ra đời truyện trinh thám trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

2.1.2.4. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học truyền thống Việt Nam

Như một quy luật, truyện trinh thám Việt Nam còn có gốc gác từ những

truyện kể dân gian Việt Nam trong truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện truyền

kì. Nhiều yếu của truyện trinh thám đã xuất hiện trong các tác phẩm văn học

dân gian. Đó là hành động Trọng Thủy thực hiện âm mưu của vua cha Triệu

Đà, hắn ngụy trang, lừa gạt công chúa Mị Châu và vua An Dương Vương để

trở thành nội gián và lấy cắp lẫy nỏ thần của An Dương Vương; hỏi Mị Châu

56

chỉ dấu để tìm nàng khi phải li tán nếu hai nước thất hòa ở truyền thuyết

Chuyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy. Hay những chi tiết cốt

truyện Tấm Cám là tội ác với âm mưu và hành động giết chết Tấm của mụ dì

ghẻ, là sự lừa gạt của mẹ con Cám đối với Tấm và đức vua, là hành động đức

vua tìm chủ nhân của chiếc hài mà quân lính nhặt được để cưới làm vợ, là sự

hồi sinh qua nhiều kiếp của Tấm để dõi theo hành động và vạch trần tội ác

của mẹ con Cám, là chỉ dấu với miếng trầu têm cánh phượng để đức vua nhận

ra và tìm được Tấm sau nhiều kiếp hồi sinh mà đón nàng về cung. Ở truyện

Trạng Quỳnh thì đó là sự thông minh, sắc sảo và sự phán đoán tài tình của

Trạng Quỳnh. Phán đoán được tâm địa và tính cách của nhà vua sẽ giết mình

nên Trạng Quỳnh cũng đã lập mưu để vua chịu sự trừng phạt, tự nếm thuốc

độc dùng để giết Trạng Quỳnh mà tự chết. Trí thông minh, óc phán đoán của

Trạng Quỳnh, tội ác và sự trừng phạt là những yếu tố rất rõ về nguồn gốc của

truyện trinh thám.

Truyện truyền kì mang rất nhiều những yếu tố li kì, hấp dẫn người đọc

bằng nhiều tình tiết kì ảo. Truyện truyền kì có nhiều yếu tố gần gũi với truyện

trinh thám. Không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi khi

biên soạn cuốn Truyện truyền kì Việt Nam lại xếp một số truyện của Thế Lữ

(Vàng và máu, Một đêm trăng, Ma xuống thang gác) vào công trình này, mặc

dù một số nhà nghiên cứu khác lại xếp những truyện đó của Thế Lữ vào loại

truyện trinh thám.

Mặc dù là thể loại được du nhập từ phương Tây nhưng một trong những

yếu tố làm nên sức sống của thể loại truyện trinh thám là sự li kì, hấp dẫn

trong việc điều tra đi tìm sự thật. Mà sự li kì, hấp dẫn lại có nhiều trong

truyện truyền kì truyền thống của văn học Việt Nam. Ta có thể thấy điều đó

trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và truyện truyền kì của nhiều tác giả

khác cũng như truyện truyền kì khuyết danh. Chính những yếu tố li kì trong

57

truyện truyền kì cũng đã tác động, ảnh hưởng nhiều trong những truyện trinh

thám Việt Nam.

2.1.2.5. Ảnh hưởng của xuất bản, báo chí

Báo chí, xuất bản gắn chặt với in ấn. Đầu thế kỉ XX, theo con đường

xâm lược và thôn tính Việt Nam, thực dân Pháp đã đưa công nghệ in phương

Tây vào Việt Nam. Nhờ sự xuất hiện và phát triển công nghệ in ấn mà báo

chí, xuất bản cũng phát triển. Nhiều tài liệu, sách báo được in, xuất bản ở

nước ta, trong đó có sách báo văn chương nghệ thuật. Nhờ sự phát triển của

báo chí, xuất bản mà văn học được phổ biến rộng rãi, tạo được đội ngũ độc

giả đông đảo cho văn học, trong đó có truyện trinh thám, cả truyện trinh thám

dịch và những sáng tác mới của Việt Nam.

Báo chí phát triển là chất xúc tác để văn học phát triển, trong đó có thể

loại truyện trinh thám. Chỉ trong khoảng 20 năm đầu thế kỉ XX đã có khoảng

hơn 20 tờ báo tiếng Việt xuất bản trong cả nước, gồm các tờ như: Gia Định

báo (1865-1910), Nhật trình Nam Kì (1883-?), Thông loại khóa trình (1888-

1889), Đại Nam Đăng cổ tùng báo (1892-1907), Phan Yên báo (1898-

1899), Nông cổ mín đàm (1901-1924), Đại Việt tân báo (1905-1908), Nhật

báo tỉnh (1905-?), Lục tỉnh tân văn (1907-1944), Nam Kì địa phận (1908-

1943), An Hà nhật báo (1917-1933), Đông Dương tạp chí (1913-

1919), Trung Bắc tân văn (1913-1941), Công luận báo (1916-1939), Nam

trung nhật báo (1917-1921), Nam Phong tạp chí (1917-1934), Nam Việt tế

gia nhật báo (1917-1918), Đại Việt tập chí (1/1918-7/1918), Nữ Giới

Chung (2/1918-7/1918), Quốc dân diễn đàn (10/1918-10/1919), Đèn nhà

Nam (12/1918-1/1919), v.v..., và tính đến năm 1945 có khoảng hơn 150 tờ

báo (gồm cả báo tiếng Pháp) ở Việt Nam (Theo khảo sát của Huỳnh Văn

Tòng). Nhờ báo chí ra đời với nhiều hoạt động sôi nổi mà đời sống văn

chương cũng trở nên sôi nổi hơn. Ở nước ta đầu thế kỉ XX, đời sống văn

58

chương chủ yếu diễn ra trên báo chí: văn chương được viết ra và in trên báo

chí rồi sau đó mới được tập hợp in thành sách, và nhờ đó mà độc giả báo chí

cũng trở thành lượng độc giả lớn cho văn chương. Đặc biệt, báo chí còn là nơi

phổ biến nhiều tác phẩm văn học nước ngoài được dịch tại nước ta, trong đó

có truyện trinh thám. Từ năm 1929, Nguyễn Cổn đã dịch một cuốn trinh thám

Anh qua tiếng Trung, rồi sau đó có nhiều tác phẩm khác được dịch. Vũ Ngọc

Phan và Nhất Linh đều đã từng phân tích tiểu thuyết trinh thám. Báo chí cũng

góp phần không nhỏ đối với việc phổ biến, đưa trinh thám vào tâm trí độc giả

đương thời. Chỉ không lâu sau đó, nhà văn Việt Nam đã bắt đầu viết trinh

thám, và sau một giai đoạn chập chững đã xuất hiện mấy cây bút xuất sắc như

Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và nhất là Phạm Cao Củng.

Như vậy, thật khó mà xác định được nguồn gốc của truyện trinh thám

Việt Nam một cách rành rẽ, rõ ràng. Từ nguồn gốc và những yếu tố ảnh

hưởng, trong một bối cảnh lịch sử-xã hội, văn hoá, văn học đầu thế kỉ XX

nhiều thay đổi, có sự giao thoa văn hoá Đông-Tây, vận động theo hướng hiện

đại hoá, truyện trinh thám đã hình thành, phát triển, trở thành một thể loại

trong nền văn học Việt Nam, vừa mang những đặc trưng của thể loại vừa

mang những đặc điểm của Việt Nam.

2.2. Các giai đoạn phát triển thể loại truyện trinh thám Việt Nam

2.2.1. Giai đoạn hình thành và phát triển thể loại từ đầu thế kỉ XX đến

1945

Ở Việt Nam, truyện trinh thám xuất hiện muộn so với các nước phương

Tây và so với một số thể loại khác ở nước ta. Trong môi trường giao thoa văn

hóa Pháp-Việt, một số truyện trinh thám nước ngoài được dịch và in ở nước

ta. Về cơ bản, nhờ sự giao thoa văn hóa mà có sự manh nha thể loại truyện

trinh thám với việc một số nhà văn Việt Nam mô phỏng truyện phiêu lưu,

truyện trinh thám phương Tây, đưa motif phiêu lưu, hình sự - điều tra vào tác

59

phẩm của mình. Bửu Đình là một trong số những nhà văn có sự đóng góp như

thế đối với sự ra đời truyện trinh thám Việt Nam. Tác phẩm Mảnh trăng thu

của ông mặc dù được in trên Báo Phụ nữ tân văn số 40 ngày 20/02/1930 với

chú thích là “ái tình tiểu thuyết” nhưng khác với những thiên tiểu thuyết diễm

tình khác chỉ mô tả tình yêu, những đau khổ và đấu tranh để đi đến tự do yêu

đương, tác giả Bửu Đình đã đưa vào cốt truyện một câu chuyện vụ án với cái

chết của nhân vật người chồng Thuần Phong trong đêm tân hôn, người vợ

Kiều Tiên đã quyết tâm tìm ra kẻ giết chồng mình. Được sự giúp đỡ của nhiều

người như Thành Trai, Minh Đường, cuối cùng họ đã tìm ra được thủ phạm

giết Thuần Phong, đồng thời làm sáng tỏ thân phận cô em gái của Kiều Tiên

tên là Kiều Nga, vạch mặt sự gian tà của Nguyễn Viết Sung, Bẩy Lộng, v.v…

Rõ ràng, nhiều yếu tố trinh thám của văn học hiện đại đã xuất hiện trong tác

phẩm này của Bửu Đình.

Sau đó, từ nửa sau thập niên 30 của thế kỉ XX, truyện trinh thám đã

không còn xa lạ với người Việt Nam và đã có sự xuất hiện những nhà văn

chuyên viết hoặc viết nhiều truyện trinh thám. Tiêu biểu và thành danh ở thể

loại này là Phạm Cao Củng, Thế Lữ và Bùi Huy Phồn ở miền Bắc; Bửu Đình,

Phú Đức, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu, Nam Đình Nguyễn Thế Phương,

v.v… ở miền Nam.

Ở miền Bắc, Thế Lữ và Phạm Cao Củng là những tác giả mở đầu xây

dựng truyện trinh thám hiện đại, tạo cho trinh thám trở thành một thể loại độc

lập trong loại hình văn học phiêu lưu ở Việt Nam. Thế Lữ tuy là “nghệ sĩ hai

lần tiên phong” (ở Thơ mới và kịch) nhưng cũng đã có công lớn đối với sự

hình thành truyện trinh thám hiện đại Việt Nam. Ông là một trong hai người

(cùng với Phạm Cao Củng) mở đầu thể loại trinh thám hiện đại Việt Nam

bằng một số truyện trinh thám hấp dẫn, gây ấn tượng sâu sắc. Hàng loạt

truyện trinh thám của Thế Lữ ra đời: Vàng và máu (1934), Ba hồi kinh dị, Một

60

chuyện ghê gớm (1936), Lê Phong làm thơ (1936), Lê Phong phóng viên

(1937), Những nét chữ (1939), Mai Hương - Lê Phong (1939), Đòn hẹn

(1939), Gói thuốc lá (1940), v.v… Đặc biệt là Thế Lữ rất thành công khi xây

dựng nhân vật thám tử Lê Phong – một phóng viên trinh thám hào hoa, phong

nhã, thông minh, tài trí trong một series truyện trinh thám của ông. Đồng thời,

tác giả Phạm Cao Củng cũng đã cho ra đời một series truyện trinh thám với

gần 20 cuốn sách, tiêu biểu như Vết tay trên trần (1936), đặc biệt là ông đã

ghi dấu ấn đậm nét với sự thành công khi xây dựng được hình tượng nhân vật

thám tử tài danh Kỳ Phát trong một chuỗi sáng tác như: Kho tàng họ Đặng

(1937), Một cái tết rùng rợn của Kỳ Phát (1937), Chiếc tất nhuộm bùn

(1938), Ba viên ngọc bích (1938), Người một mắt (1940), Nhà sư thọt (1941),

Kỳ Phát giết người (1941), Bóng người áo tím (1942), Đám cưới Kỳ Phát

(1942), Hàm răng mài nhọn (1942), Đôi hoa tai của bà chúa (1942), Chiếc

gối đẫm máu (1942), Một đám cưới rùng rợn của Kỳ Phát (1945), v.v… Bùi

Huy Phồn cũng được tác giả Vũ Ngọc Phan nhắc đến trong Nhà văn hiện đại

với tư cách là nhà văn viết truyện trinh thám. Ông có những sáng tác truyện

trinh thám như Lá huyết thư (1932), Tờ di chúc của dòng họ Trần Thạch

(1941), Gan dạ đàn bà (1942), Mối thù truyền nghiệp (1942), Lá thư màu

thiên thanh (1943), Món quà năm mới (1943).

Ở miền Nam, các tác giả Bửu Đình, Phú Đức, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng

Mưu, Nam Đình Nguyễn Thế Phương cũng cho ra mắt nhiều truyện trinh

thám, góp phần làm phong phú, đa dạng và sôi nổi hơn đời sống văn học.

Được đánh giá là người có công mở đầu cho truyện trinh thám Việt Nam, từ

năm 1917, Biến Ngũ Nhy đã giữ mục “Mật thám truyện” trên Công Luận báo,

chuyên dịch các tác phẩm trinh thám nước ngoài ra tiếng Việt. Đồng thời ông

cũng viết truyện trinh thám Kim thời dị sử-Ba Lâu ròng nghề đạo tặc (in trên

Công Luận báo từ 1917 đến 1920) được một số nhà nghiên cứu cho là tác

61

phẩm truyện trinh thám hiện đại sớm nhất ở Việt Nam. Tác phẩm thu hút sự

quan tâm đón nhận nồng nhiệt của công chúng do phù hợp với thị hiếu thẩm

mĩ người Việt và được văn giới đánh giá rất cao bởi tính hiện đại của nó. Sau

tác phẩm này, Biến Ngũ Nhy còn có Một người ăn cắp bạc nhà nước (1921),

Chủ nợ bất nhơn (1921). Sau Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, tiểu

thuyết trinh thám đã nở rộ ở miền Nam với hàng loạt tác giả với những tác

phẩm trinh thám ra đời, nhất là ở giai đoạn 1930-1945: Nguyễn Chánh Sắt có

Gái trả thù cha (1920); Lê Hoằng Mưu có Đầu tóc mượn (1926), Đêm rốt của

người tội tử hình (1929), Người bán ngọc (1931); Phú Đức có Châu về hiệp

phố (1926), Tôi có tội (1929), Lửa lòng (1929), Trường tình huyết lệ (1930),

Căn nhà bí mật (1930); Nam Đình Nguyễn Thế Phương có Huyết lệ hoa

(1928), Bó hoa lài (1930), Vô oan trái (1931), Giọt lệ má hồng (1932), Khép

cửa phòng thu (1933), Chén thuốc độc (1934); Sơn Vương có Bát cơm chan

máu (1929), Chén cơm lạt của người thất nghiệp (1931), Tướng cướp hào

hoa (1931); Bửu Đình có Mảnh trăng thu (1930), Cậu Tám Lọ (1931), v.v...

Về nội dung, nhiều truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn này phản ánh

về một đời sống xã hội những năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt ở thập niên 30-40

ở nước ta. Lối sống phương Tây tràn vào và đã tạo sự ảnh hưởng lớn đến đời

sống xã hội ta. Trong xã hội, xuất hiện nhiều con người ích kỉ, tham lam, trở

thành căn nguyên cho những hoạt động tội phạm xuất hiện. Vì đời sống vật

chất mà con người sẵn sàng vi phạm pháp luật, họ đi buôn lậu súng, buôn lậu

thuốc phiện (Lê Phong phóng viên). Vì tiền bạc, của cải mà một người trí thức

du học ở Pháp về như Lương Hữu lại đem sự hiểu biết khoa học tinh vi để

giết bác sĩ Đoàn nhằm chiếm đoạt pho sách y học chứa đựng bí mật nơi giấu

của (Mai Hương và Lê Phong). Vì tiền bạc mà Thạc rắp tâm giết chết người

bạn thân thiết ở cùng để chiếm đoạt tấm vé số trúng giải độc đắc của Đường

(Gói thuốc lá)... Thậm chí, trong xã hội ấy còn có cả sự xuất hiện những hội

62

đảng bí mật đầy mờ ám như “hội kín” mà Mai đã từng tham gia (Những nét

chữ), Đảng Tam Sơn có những hoạt động giết người tinh vi nhất (Đòn hẹn)…

trong những truyện trinh thám của Thế Lữ. Những câu chuyện như thế còn

được thể hiện khá phổ biến trong những truyện trinh thám của các nhà văn

khác: Nhân vật Tâm giết bố vợ để chiếm đoạt tài sản (Nhà Sư Thọt – Phạm

Cao Củng), Hương sơ Nguyễn Viết Sung bắt cóc, đánh tráo trẻ con vào nhà

giàu để mong nhờ cậy về sau (Mảnh trăng thu - Bửu Đình), vì lòng tham mà

Phan Kì Hổ cho đồng bọn giết chết người bạn (Châu về hiệp phố - Phú Đức);

sự trả thù của Đảng Thất Viên (Đám cưới Kỳ Phát - Phạm Cao Củng), vì thù

hận mà Lâm Ngục giết Nùng Cao (Vết tay trên trần - Phạm Cao Củng), Năm

Nhỏ vì muốm có tiền mà bán đứng chồng cho cảnh sát (Ba Lâu ròng nghề

đạo tặc - Biến Ngũ Nhy), Lường-Duỳn giết chết Đào Ngung vì ghen với tình

địch (Lê Phong phóng viên - Thế Lữ), Hồ Quốc Thanh căm giận vợ phản bội

mà giết chết tên đầy tớ và người vợ một cách dã man (Người bán ngọc -

Phạm Cao Củng), v.v…

Những ảnh hưởng từ phương Tây đến xã hội Việt Nam một cách mạnh

mẽ khiến cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi, đời sống sinh hoạt trong xã

hội đương thời khá phong phú và có nhiều sự mới mẻ, khác xa so với đời

sống sinh hoạt trong xã hội truyền thống trước đó. Điều này cũng được các

tác giả truyện trinh thám phản ánh khá rõ trong những tác phẩm của mình.

Thực dân Pháp xâm lược, khai thác thuộc địa ở nước ta làm biến đổi cơ cấu,

thành phần xã hội. Trong xã hội có sự xuất hiện các giai tầng mới, tầng lớp trí

thức kiểu mới đã xuất hiện với đủ hạng người tốt-xấu được thể hiện khá phổ biến

trong truyện trinh thám. Chẳng hạn trong truyện trinh thám của Thế Lữ, Đào

Đăng Khương, Đỗ Lăng trong Những nét chữ; bác sĩ Trần Thế Đoàn, Lương

Hữu trong Mai Hương và Lê Phong; Lê Phong, Mai Hương, Đinh Võ Thạc, Văn

Bình, Huy trong Gói thuốc lá và nhiều tác phẩm khác thuộc các giai tầng mới.

63

Một bộ máy chính quyền và những cơ quan mới trong xã hội đương thời đã xuất

hiện. Đó là Sở Cảnh sát, nơi làm việc của viên cẩm trong Lê Phong phóng viên;

Sở Liêm phóng, là cơ quan của thanh tra mật thám Mai Trung và nhà thương

Phủ Doãn, nơi Lê Phong giăng bẫy bắt được Đinh Võ Thạc trong Gói thuốc lá;

là Báo Thời Thế, cơ quan của phóng viên Lê Phong, trong hàng loạt truyện và có

cả đoàn văn hóa kháng chiến trong Tay đại bợm, v.v… đã phản ánh một đời

sống xã hội rất rõ nét.

Sự thay đổi sinh hoạt xã hội do tác động, ảnh hưởng từ phương Tây còn

được thể hiện ở nhiều hoạt động, nhiều việc làm hiện đại gắn với đời sống của

con người. Trong Mai Hương và Lê Phong có việc đào tạo và học tập ở

trường Cao đẳng để có một bác sĩ Đoàn tài giỏi do các vị Giáo sư giảng dạy.

Ở Gói thuốc lá có sự ấp ủ công trình nghiên cứu của Đường. Hay các nhân

vật Thạc, Huy, Lê Phong và Văn Bình đi xem chiếu bóng ở rạp và phóng viên

Lê Phong có thói quen hút thuốc lá như một cách thức để thư gian mỗi khi

suy nghĩ. Ở Mai Hương và Lê Phong, một người phụ nữ như phóng viên Mai

Hương cũng lái ô tô chạy nhanh khiến Lê Phong cũng không thể theo kịp khi

theo dõi cô, hay cảnh sinh hoạt đầy bí ẩn, tối tăm ở các tiệm hút trên phố Mã

Mây mà quá trình điều tra Lê Phong đã phát hiện ra: “Đến phố Mã Mây anh

bảo xe ngừng, rồi xuống cắm đầu chạy như thằng điên về phía tiệm hút thuốc

phiện” [131, tr.141-143]. Ở Đòn hẹn lại hiện lên một xã hội với sự tấp nập

bên trước chợ Hôm mà cái chết của Nguyễn Bồng do Đảng Tam Sơn ám sát

bên tàu điện. Nơi ở và sự tính toán hành vi phạm tội, những phương tiện để

phạm tội của tội phạm và cách thức, phương tiện điều tra của thám tử-người điều

tra trong nhiều tác phẩm của các tác giả trinh thám đã cho thấy đời sống đã biến

đổi theo hướng hiện đại hơn của xã hội đầu thế kỉ XX. Quả là những ảnh hưởng

từ phương Tây đến đất nước đã tạo ra một xã hội có nhiều hoạt động phong

phú, mới mẻ, hiện đại nhưng mặt trái là sự tác động ấy cũng tạo ra một xã hội

64

lộn xộn, tình hình an ninh, trật tự xã hội có nhiều bất ổn với những hoạt động

tội phạm được các nhà văn thể hiện trong truyện trinh thám của mình.

2.2.2. Giai đoạn biến đổi mô hình thể loại từ 1945 đến 1986

Sau 1945, truyện trinh thám Việt Nam có sự dịch chuyển mô hình thể

loại. Lịch sử đất nước giai đoạn này có sự vận động và biến đổi: cả dân tộc

phải đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Trong

suốt 30 năm trường kì kháng chiến, đội ngũ văn nghệ sĩ hết lòng phục vụ sự

nghiệp cách mạng của dân tộc, họ là những nghệ sĩ-chiến sĩ. Trong văn học,

với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, bám sát thực tiễn đất nước

trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại, các nhà văn hướng ngòi bút của mình vào

phản ánh hai cuộc kháng chiến đầy gian khổ với những hi sinh, mất mát, đâu

thương nhưng vô cùng anh dũng và hào hùng của nhân dân ta; đồng thời phản

ánh sự tàn ác của bọn thực dân, đế quốc bằng nền văn học cách mạng.

Cuộc kháng chiến vệ quốc trường kì đã thu hút toàn dân tộc tham gia với

tình cảm yêu nước nồng nàn, với trách nhiệm công dân cao cả, với lòng căm

thù giặc sâu sắc nhằm đấu tranh chống kẻ thù xâm lược trong suốt 30 năm. Vì

vậy, nhu cầu đọc và tiếp nhận văn học của công chúng-nhân dân ta cũng chỉ

tập trung hướng đến những tác phẩm văn học cách mạng cổ vũ quá trình đấu

tranh của nhân dân ta; lên án sự phi nghĩa, độc ác của kẻ thù xâm lược. Do đó,

văn học giải trí, trong đó có truyện trinh thám thuần tuý, về cơ bản, không có

vị trí cả trong sáng tác lẫn trong tiếp nhận. Nhưng nói như thế không có nghĩa

là thể loại truyện trinh thám không xuất hiện ở giai đoạn này, mà nó có sự vận

động, biến đổi mô hình thể loại phù hợp với hiện thực đời sống đương thời.

Không còn là mô hình truyện trinh thám truyền thống như giai đoạn trước

1945, truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn này phát triển ở dạng truyện tình

báo-phản gián, điều tra-vụ án. Đây là những dạng loại của thể loại truyện

trinh thám, sử dụng các thủ pháp nghệ thuật truyện trinh thám, bám sát hiện

65

thực, thường lấy nguyên mẫu trong đời sống đấu tranh của nhân dân – ở đây

chủ yếu là những người hoạt động cách mạng, hoạt động tình báo và chiến

đấu để tiêu diệt kẻ thù, đấu tranh trấn át tội phạm để bảo vệ đất nước, để “giữ

bình yên cuộc sống” cho nhân dân. Nhân vật trong những truyện ở dạng loại

này không là những thám tử mà là những nhân vật tình báo, là những nhân vật

công an.

Truyện tình báo, phản gián được coi là một bộ phận của văn học chiến

tranh, đi vào phản ánh đời sống khác của chiến tranh là cuộc chiến bí mật,

thầm lặng mà các chiến sĩ tình báo, trinh sát đã tiến hành để đưa tới thắng lợi

chung của cả nước trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất

nước. Chúng ta có thể kể đến những truyện trinh thám Việt Nam xuất hiện

dưới dạng truyện tình báo - phản gián như: Cất vó, X30 phá lưới, Tấm bản đồ

thất lạc, Đi tìm cái chết, Lần theo chuỗi hạt (Đặng Thanh); Toạ độ bí mật,

Mũi tên mười bảy (Phạm Thanh Đàm); Bản án tử hình (Nguyễn Khắc Thứ);

Miền đất lạ, Hoa hồng trắng (Nguyễn Sơn Tùng). v.v… Đó là cuộc đấu tranh

chống gián điệp ở miền Bắc những năm 1960 (Nhóm rắn lục - Văn Phan); là

hoạt động chiến đấu trong lòng địch của Vũ Ngọc Nhạ (Ông cố vấn - Hữu

Mai); là công an phá vụ án gián điệp (Đêm yên tĩnh - Hữu Mai); hoạt động

của nhà tình báo Nguyên Vũ (Điệp viên giữa sa mạc lửa - Nhị Hồ); hoạt động

tình báo trong lòng địch của Nguyễn Thành Luân (Ván bài lật ngửa – Nguyễn

Trường Thiên Lý). Chủ yếu lấy đề tài cuộc chiến tình báo, phản gián trong

chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, truyện trinh thám tình báo, phản gián đã

phản ánh một phần hiện thực chiến tranh của nhân dân ta chống lại kẻ thù

xâm lược.

Sau 1975, cuộc cách mạng giải phóng miền Nam thắng lợi, đất nước

hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi vào xây dựng đất

nước sau chiến tranh. Tuy đất nước đã có hoà bình nhưng trật tự xã hội có

66

phần bất ổn, tình hình tội phạm ngày càng gia tăng trong đời sống xã hội.

Trong bối cảnh ấy, truyện trinh thám điều tra - vụ án ra đời, phản ánh thực

trạng tội phạm và cuộc chiến đấu chống tội phạm của lực lượng cảnh sát, an

ninh. Đời sống xã hội và quá trình điều tra phá án của lực lượng cảnh sát, an

ninh được thể hiện sinh động, nhiều góc khuất của xã hội được phơi bày trong

những tác phẩm trinh thám điều tra-vụ án: Hồ sơ chưa kết thúc (Phùng Thiên

Tân) phản ánh một số vụ án bắt cóc tống tiền và sát hại nhằm vào các nghệ sĩ,

trí thức ở Sài Gòn sau ngày giải phóng miền Nam; ở Người không mang họ

(Xuân Đức) là quá trình nhân vật Nguyễn Viết Lãm dấn thân vào con đường

phiêu lãng, vô tình giết người, gặp những tình huống bất công và muốn trả thù

đời bằng bạo lực, hắn trượt dài trong tội lỗi, để rồi cuối cùng hắn cũng bị các

chiến sĩ công an điều tra ra, bị bắt và không thoát khỏi sự trừng trị của pháp

luật, v.v…

2.2.3. Giai đoạn đổi mới, cách tân thể loại từ 1986 đến nay

Sau 1986, cùng với sự phát triển nhanh của xã hội là sự nảy sinh nhiều

vấn đề mới trong xã hội hiện đại, trong đó có vấn đề bất ổn định an ninh trật

tự xã hội. Tình hình tội phạm ngày càng gia tăng so với giai đoạn trước, các

hoạt động tội phạm ngày càng tinh vi trong thủ đoạn gây án và cuộc đấu tranh

để trấn áp tội phạm của lực lượng an ninh, cảnh sát ngày càng cam go, quyết

liệt. Vì thế, truyện trinh thám điều tra-vụ án tiếp tục phát triển ở nửa cuối thập

niên 80 và thập niên 90 của thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI với

những tác phẩm tiêu biểu: Hồ sơ một tử tù (Nguyễn Đình Tú) là câu chuyện

về tướng cướp Phạm Bạch Đàn bị bắt và bị kết án tử hình; Cổ cồn trắng

(Nguyễn Như Phong) là cuộc điều tra, quá trình chiến đấu của công an với

loại tội phạm maphia với sự phạm tội có tổ chức trong vụ án Năm Cam. Qua

câu chuyện điều tra vụ án, truyện đã phản ánh hiện thực phát triển phức tạp

của tội phạm có tổ chức và cuộc đấu tranh để chống lại loại tội phạm này.

67

Đồng thời, ở đó còn phản ánh cả cuộc đấu tranh để làm trong sạch nội bộ lực

lượng công an. Đời sống sinh động và đầy phức tạp của xã hội đã được phản

ánh trong nhiều truyện trinh thám điều tra-vụ án khác như: Phía sau tội ác,

Đối mặt kẻ tử tù (Đắc Trung), Khớp hẹn (Văn Phan), Nữ hoàng đá đỏ (Thái

Chí Thanh), Kế hoạch J.96 (Trần Tử Văn); Bản án tử hình (Nguyễn Khắc

Thứ); Bí mật cuộc đời (Nguyễn Như Phong). Qua đó, nhiều vấn đề bức xúc

trong đời sống xã hội được phơi bày; sự anh dũng, mưu trí, quả cảm, hành

động vì sự ổn định xã hội và sự bình yên của Tổ quốc mà lực lượng an ninh,

công an đã làm được thể hiện, rất đáng ghi nhận và ngợi ca.

Khoảng hơn chục năm trở lại đây, truyện trinh thám hình sự, trinh thám

kinh dị, trinh thám lịch sử phát triển và trở thành xu hướng phát triển của

truyện trinh thám Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến những tác giả, tác phẩm

tiêu biểu như: Trại Hoa Đỏ, Câu lạc bộ số 7 của Di Li; Ổ buôn người, Âm

mưu thay não, Mật mã Champa của Giản Tư Hải; Cái chết cô ca sĩ trẻ của

Nguyễn Thanh Hoàng; Sát thủ Online của Nguyễn Xuân Thủy; Phiên bản, Cô

Mặc Sầu của Nguyễn Đình Tú; Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng, Thảm kịch trắng

của Kim Tam Long; Đảo bạo bệnh của Đức Anh, v.v… Câu lạc bộ số 7 của

Di Li tập trung vào đề tài chưa từng được đề cập đến trong văn học: giới tính

thứ tư. Ở đó diễn ra năm vụ án mạng tưởng chừng chỉ là những tai nạn thông

thường nếu như nạn nhân là các thiếu nữ xinh đẹp không có cùng một điểm

chung là trước khi chết đều bước chân lên chiếc taxi mang nhãn hiệu Hoa

Sen, v.v… Các truyện của Giản Tư Hải lại phản ánh các khía cạnh khác nhau

của đời sống xã hội: Ổ buôn người phản ánh vấn đề đang nhức nhối của xã

hội hiện đại ngày nay là tình hình tội phạm buôn người xuyên quốc gia và sự

tinh vi của các đường dây tội phạm; Âm mưu thay não phản ánh về tội phạm

khủng bố thời hiện đai; Mật mã Champa lại dùng câu chuyện mật mã tìm kho

68

báu để phản ánh tội phạm tà giáo của Hội kín. Ở Cái chết cô ca sĩ trẻ lại cho

thấy tội phạm giết người mà nạn nhân là các nghệ sĩ, v.v…

Cùng với việc khai thác đề tài hình sự để phát triển dòng truyện trinh

thám hình sự, nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng phong phú của độc

giả, từ đầu thế kỉ XXI đến nay, một số nhà văn đã viết truyện trinh thám hình

sự-kinh dị. Ở dòng truyện trinh thám này có thể kể đến Di Li với Trại Hoa

Đỏ, Kim Tam Long với bộ ba “truyện trắng”: Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng,

Thảm kịch trắng, Đức Anh với Đảo Bạo bệnh. Nhìn chung các tác giả đã phát

huy được khả năng hư cấu, tưởng tượng của mình; phát huy được nhiều yếu

tố kinh dị trong truyện trinh thám kinh dị Việt Nam giai đoạn đầu và truyện

kinh dị trong văn học truyền thống của dân tộc, v.v… để tạo nên sức hấp dẫn

cho tác phẩm.

Đề tài lịch sử có sức hấp dẫn đối với văn học mọi thời đại. Từ đầu thế kỉ

XXI đến nay, đề tài lịch sử cũng trở nên hấp dẫn đối với các nhà văn trinh

thám. Trong xu hướng viết về lịch sử của văn học nói chung, thể loại truyện

trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay cũng có những tác giả, tác

phẩm viết về đề tài lịch sử. Ở dòng truyện trinh thám lịch sử, có thể kể đến

Mật mã Champa (2016), Minh Mạng mật chỉ (2018), Thiên địa Hội An Nam

của Giản Tư Hải, Dưới cánh đại bàng (2022) của Hoàng Yến.

Với nhiều tác giả và tác phẩm trinh thám Việt Nam xuất hiện từ đầu thế

kỉ XXI đến nay, có thể xem đây là dấu hiệu cho thấy thể loại này đang có sự

hồi sinh ở nước ta.

Tiểu kết chương 2

Từ nguồn gốc và những yếu tố ảnh hưởng, với nhiều lí do khác nhau: từ

nhu cầu tinh thần của xã hội và công chúng, từ giá trị truyền thống và hiện đại

của văn hóa - văn học Đông - Tây, từ văn hóa - văn học truyền thống của dân

tộc, với sự nỗ lực của các nhà văn, truyện trinh thám Việt Nam ra đời từ

69

những năm đầu thế kỉ XX, từng bước hình thành những đặc trưng thẩm mĩ cơ

bản và phát triển cùng các thể loại khác trong nền văn học Việt Nam.

Tuy ra đời muộn so với các nước phương Tây nhưng thể loại truyện trinh

thám Việt Nam đã có thành tựu đáng ghi nhận. Ngay khi ra đời ở những năm

đầu thế kỉ XX, truyện trinh thám Việt Nam đã nhanh chóng phát triển nở rộ

với đội ngũ tác giả, tác phẩm đông đảo, hình thành đặc trưng thể loại, tạo nên

trào lưu sáng tác và công chúng mới trong nền văn học dân tộc. Với sự xuất

hiện và bước đầu đạt được những thành tựu nhất định, truyện trinh thám đã

góp phần làm phong phú, đa dạng hoá nền văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX,

góp phần đưa nền văn học dân tộc tiến sâu vào con đường hiện đại hóa và hội

nhập với nền văn hóa, văn học thế giới.

Trong quá trình hành thành, do tác động của nhiều yếu tố lịch sử-xã hội,

văn hoá, văn học, truyện trinh thám Việt Nam đã phải trải qua những giai

đoạn phát triển thăng trầm: ra đời và nở rộ ở giai đoạn đầu thế kỉ XX, gián

đoạn và có sự chuyển dịch mô hình thể loại ở giai đoạn 1945-1986, phát triển

trở lại từ 1986 đến nay. Những năm gần đây, thể loại truyện trinh thám Việt

Nam có những dấu hiệu hồi sinh mạnh mẽ, thể hiện sức sống tiềm tàng của

thể loại.

Dù hướng đến giải trí là chủ yếu nhưng những dấu ấn về tình hình đời

sống xã hội nước ta qua các giai đoạn đã phần nào được thể hiện trong truyện

trinh thám, qua đó, thể hiện khát vọng kiếm tìm và bảo vệ chân lí và công lí,

đem lại công bằng xã hội, hướng tới cái thiện, cái đẹp và luôn gắn liền với

đạo đức. Thượng tôn pháp luật, đề cao công lí, biểu dương các hành động cao

đẹp, đem đến giá trị đạo đức, nhân văn, có tính giáo dục sâu sắc là những giá

trị nội dung tư tưởng tiêu biểu xuyên suốt trong các giai đoạn phát triển của

truyện trinh thám Việt Nam.

70

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM

Trong những năm gần đây, có không ít tác phẩm truyện trinh thám Việt

Nam được sưu tầm, được tái bản và những tác phẩm mới được sáng tác để

đáp ứng nhu cầu của độc giả; mặt khác, đã có những cuộc hội thảo được tổ

chức, những công trình nghiên cứu, khảo luận về văn học trinh thám được

công bố. Đó là sự nỗ lực trong việc đưa đến một cái nhìn khách quan, công

bằng hơn về vai trò và vị trí của thể loại truyện trinh thám trong văn học Việt

Nam. Ở chương này, chúng tôi nghiên cứu để làm rõ hơn một số đặc điểm của

truyện trinh thám Việt Nam.

3.1. Sự hỗn dung, giao thoa thể loại

Trong thực tế văn học có những trường hợp một tác phẩm nhưng được

xếp vào nhiều loại khác nhau, như: trường hợp Vàng và máu (Thế Lữ) có thể

gọi là truyện đường rừng-kinh dị-trinh thám; Truyện Thần Hổ, Ai hát giữa

rừng khuya (Tchya), Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân) được xếp vào truyện

đường rừng-kinh dị, thậm chí những tác phẩm này còn được nhà nghiên cứu

Nguyễn Huệ Chi tuyển chọn trong cuốn Truyện truyền kì Việt Nam. Vì thế, ta

có thể thấy bản thân các tác phẩm văn học đã chứa những yếu tố hỗn dung các

thể loại. Việc phân tách để tìm các yếu tố của các thể loại trong truyện trinh

thám chỉ mang ý nghĩa tương đối nhằm làm rõ đặc trưng, đặc điểm thể loại

truyện trinh thám ở Việt Nam.

3.1.1. Yếu tố truyền kì trong truyện trinh thám Việt Nam

Truyện truyền kì là thể văn tự sự có nguồn gốc từ truyện dân gian, sử

dụng những yếu tố hoang đường, kì ảo để phản ánh hiện thực cuộc sống.

Những yếu tố hoang đường, kì ảo này không phải là dạng nhân vật Bụt, Tiên

với vai trò là nhân vật chức năng như trong truyện cổ tích thần kì, cũng không

71

phải là lực lượng tự nhiên được nhân hóa như trong truyện thần thoại. Sự

tham gia của yếu tố thần kì, hoang đường trong truyện truyền kì phần lớn ở

trong hình thức các nhân vật con người kết hợp với dạng nhân vật ma, quỷ, hồ

li, vật hóa người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể loại truyền kì đã manh

nha xuất hiện từ buổi đầu của văn học viết trong những tác phẩm ghi chép các

chuyện kì lạ được lưu truyền trong dân gian như Lĩnh Nam chích quái (tương

truyền của Trần Thế Pháp), Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên), sau đó phát

triển mạnh và đạt đến đỉnh cao với những sáng tác Thánh Tông di thảo (tương

truyền của Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân

phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Tân truyền kì lục

(Phạm Quý Thích), Thính văn dị lục (Khuyết danh), Việt Nam kì phùng dị lục

(Khuyết danh). Về nghệ thuật, ta dễ dàng bắt gặp trong những sáng tác truyền

kì những câu chuyện mang cốt truyện dân gian hoặc dã sử, các motif quen

thuộc trong truyện dân gian. Và có không ít những truyện truyền kì vốn là

những truyện dân gian được sáng tạo lại. Ở truyện truyền kì ta dễ dàng thấy

sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và những yếu tố hoang đường, kì ảo.

Cùng với không gian huyền ảo, bên cạnh những con người phàm trần là

những nhân vật không thuộc về thế giới người như tinh vật, yêu ma, thần tiên.

Từ Thánh Tông di thảo đến Lan Trì kiến văn lục, ta đều có thể bắt gặp những

nhân vật siêu nhiên trong một thế giới ảo huyền.

Mặc dù ra đời muộn, chịu sự ảnh hưởng và kế thừa các yếu tố của truyện

trinh thám phương Tây và truyện kiếm hiệp, truyện công án phương Đông,

nhưng truyện trinh thám Việt Nam đã bám rễ vào cái nôi văn hóa dân tộc với

các thể loại văn học truyền thống, trong đó có truyện truyền kì. Chúng ta có

thể tìm thấy nhiều yếu tố của truyện truyền kì trong truyện trinh thám Việt

Nam. Những yếu tố kì ảo trong các truyện truyền kì được các nhà văn trinh

thám Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo để làm tăng sức gợi cảm, hấp dẫn

72

cho câu chuyện mà vẫn không làm mất đi yếu tố hiện thực gắn với tính logic,

khoa học – yếu tố bản chất của truyện trinh thám. Các chi tiết kì ảo xuất hiện

phổ biến trong truyện trinh thám Việt Nam. Vàng và máu (Thế Lữ) là câu

chuyện kể về sự giải mã của quan Châu Nga Lộc về cái chết của mọi người

khi đến hang Thần trên núi Văn Dú và tìm ra kho báu do quan Tàu để của.

Cốt truyện li kì nhưng lại có một giải kết khoa học. Cái hang lớn trên núi Văn

Dú là nơi chứa những tai họa ghê gớm – ai vào đó cũng chết, là nguồn gốc

của những chuyện khủng khiếp, kinh hoàng gắn với những câu chuyện đồn

thổi về thần linh, ma quái, khiến ai nấy đều sợ mà tránh xa. Truyện có vẻ quái

đản, rùng rợn nhưng không quá thần bí khi giải kết của truyện là sự lí giải

khoa học bằng trí tuệ sáng suốt của con người: cái chết của tất cả những

người vào hang trước đó không hề do thần linh, ma quỷ gì hết, mà là do

những viên đá được tẩm thuốc độc bởi tên quan Tàu tạo nên để bảo vệ kho

báu khi chúng để của trong hang thần trên núi Văn Dú.

Tương tự như thế, kiểu xây dựng những chi tiết, khung cảnh kì ảo, hoang

đường rồi cuối cùng đều được hóa giải, được giải thích có cơ sở logic, khoa

học được thể hiện nhiều ở các tác phẩm: Lê Phong phóng viên, Đòn hẹn, Gói

thuốc lá (Thế Lữ); Vết tay trên trần, Con ma cây vả, Kho tàng họ Đặng,

Chiếc gối đẫm máu, Ông già buôn xác chết, Buổi diễn tất niên của người hổ,

Cái tết của người đã chết, Một cái tết rùng rợn của Kỳ Phát, Kỳ Phát giết

người, Bóng người áo tím… (Phạm Cao Củng); Tờ di chúc của dòng họ Trần

Thạch, Lá huyết thư (Bùi Huy Phồn); Mảnh trăng thu (Bửu Đình); Căn nhà bí

mật (Phú Đức); Người bán ngọc (Lê Hoàng Mưu); Kim thời dị sử - Ba Lâu

ròng nghề đạo tặc, Kim thời dị sử - Chủ nợ bất nhơn (Biến Ngũ Nhy); Một

mình nơi đất khách, Miền đất lạ (Nguyễn Sơn Tùng); Câu lạc bộ số 7, Trại

Hoa Đỏ (Di Li); Mật mã Cham Pa, Minh mạng mật chỉ (Giản Tư Hải); Nỗi

ám ảnh tuổi thơ (Nguyễn Thanh Hoàng); Ngôi mộ bí mật (Vũ Khúc), v.v…

73

3.1.2. Yếu tố kinh dị, đường rừng trong truyện trinh thám Việt Nam

Truyện kinh dị là loại truyện để lại ấn tượng rùng rợn, sợ hãi đối với

người đọc thông qua những câu chuyện về cái khác thường. Để tạo được điều

đó, nhân vật trong truyện kinh dị thường là những nhân vật kì bí, huyễn hoặc

như hồn ma bóng quỷ, được đặt trong những sự cố, sự kiện đặc biệt diễn ra

bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của con người và được kể bằng giọng ma mị,

huyền bí. Không gian trong truyện kinh dị nổi bật nhất là không gian kì bí,

linh thiêng. Giọng điệu ma quái đã trở thành một nét đặc trưng nghệ thuật của

thể loại này.

Truyện đường rừng lại là loại truyện có sự kết hợp giữa yếu tố lãng mạn

với yếu tố hiện thực và sẵn sàng dung nạp yếu tố truyền kì, ma quái, viết về

miền núi dưới hình thức phiêu lưu, đầy màu sắc truyền kì và kinh dị, có khả

năng khơi dậy tính hiếu kì, kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Không

gian chủ yếu của truyện là không gian núi rừng thâm u, kì bí. Thời gian trong

những câu chuyện thường diễn ra vào ban đêm nên mọi sự nguy hiểm như

rình rập xung quanh con người. Nhân vật của truyện được hiện lên gắn với

các yếu tố thần kì, ma quái, có sự biến hóa và kinh dị. Các nhà văn viết truyện

đường rừng thường tạo ra những yếu tố li kì, xây dựng một thế giới núi rừng

hoang vu và bí ẩn, gợi cho người đọc sự rùng rợn, ghê sợ. Hàng loạt truyện

đường rừng trong văn học Việt Nam như: Rừng khuya, Mọi rợ, Tiếng gọi của

rừng thẳm, Hồng thầu, Suối Đàn, Đỉnh non Thần, Dấu ngựa trên sương,

Chiếc nỏ cánh dâu, Người hóa hổ, Gò thần (Lan Khai); Trại Bồ Tùng Linh,

Tiếng hú ban đêm, Cái đầu lâu, Một chuyện ghê gớm (Thế Lữ); Thần Hổ, Ai

hát giữa rừng khuya, Kho vàng Sầm Sơn, Tình sơn nữ (TchyA Đái Đức

Tuấn), v.v… chứa đựng nhiều chi tiết kì ảo, li kì, hoang đường. Nhìn chung,

những truyện đường rừng thường gợi lên một thế giới huyền bí, linh thiêng,

74

đầy hiểm nguy và bất trắc, vừa gợi trí tò mò khám phá vừa gây cảm giác ghê

sợ cho người đọc.

Cũng như sự kế thừa, phát huy các yếu tố kì ảo của truyện truyền kì,

truyện trinh thám Việt Nam kế thừa các yếu tố kinh dị, sự bí hiểm hoang vu

của truyện kinh dị, truyện đường rừng nhằm tạo ấn tượng rùng rợn, kinh hãi,

ghê sợ đối với người đọc, qua đó làm tăng tính hấp dẫn và xúc cảm của độc

giả. Ví dụ một vài trường hợp điển hình: Trong truyện trinh thám của Thế Lữ,

chỉ với âm thanh lảnh lót rồi mất hút của tiếng viên sỏi ném xuống hang thần

Văn Dú, tiếng “Kòi… kia...” từ vách núi vang vọng trong không gian, thây

người chết treo trên cây đại trước cửa hang thần Văn Dú, không gian núi

“Văn Dú hiện ra một vẻ riêng oai linh và màu nhiệm” (Vàng và máu); lời thư

đe dọa Lê Phong của đảng Tam Sơn đã trở thành hiện thực như một lời tiên

tri, quá trình điều tra của Lê Phong với sự rượt đuổi theo Mai Hương một

cách li kì (Đòn Hẹn); hình ảnh cái chết của Đường đầy bí ẩn và rùng rợn

trong sự phát hiện đầy ngạc nhiên và hoảng sợ của Huy: “Bỗng Huy kêu lên

một tiếng rất ngắn, nhưng ghê gớm; một tiếng kinh dị dữ dội […]. Huy vừa

chợt trông thấy trên lưng Đường một con dao cắm ngập tới chuôi, trong một

khoảng máu đẫm sau áo” (Gói thuốc lá), v.v… đã đủ tạo nên sự rùng rơn, ghê

sợ nhưng hấp dẫn bạn đọc dõi theo câu chuyện. Ở truyện của Phạm Cao Củng

thì những yếu tố kinh dị, rùng rợn xuất hiện qua những chi tiết Kỳ Phát phát

hiện cảnh lão già bị đâm chết khi “tay sát nhân đâm trúng ngực lão từ bao giờ,

một nhát dao ngập đến cán” (Kỳ Phát giết người), là dòng máu trên cầu thang

(Bóng người áo tím), là cánh tay đen và chi tiết ông châu Nùng Cao chém

Lâm Nục với “lưỡi dao sáng loáng vừa hạ, khúc tay từ bàn đến khuỷu đã rơi

xuống bên mâm rượu, máu chảy chan hòa, v.v… Lâm Nục kinh sợ, hoảng

chạy. Nùng Cao như điên như cuồng, tay cầm chiếc lọ, tay nắm khúc xương

tay đẫm máu, khanh khách cả cười” (Vết tay trên trần), là không gian như

75

huyền bí nơi cụ Lang Sặt sống bên cạnh xác người chết trong nhà cụ đã nhiều

năm (Ông già buôn xác chết) và nhiều chi tiết trong các truyện Con ma cây

vả, Ba đốt ngón tay, Chiếc tất nhuộm bùn, Kho tàng họ Đặng, v.v… Đó còn

là âm mưu và hành động giết hại chú rể Thuần Phong của Nguyễn Viết Sung

trong Mảnh trăng thu (Bửu Đình); sự nham hiểm, độc ác của Phan Kỳ Hổ với

hành động đốt nhà, giết vợ Lâm Nghĩa Sĩ trong Châu về hiệp phố (Phú Đức);

sự trả thù của quan đô đốc Hồ Quốc Thanh rất dã man, khủng khiếp khi sát

hại đứa đầy tớ, hắn “chém Đào Anh một đao rồi đá thây văng xuống ao làm

cho máu nhuộm hồ nước” [150] trong Người bán ngọc (Lê Hoằng Mưu); một

xác chết kinh quái đưa vào bệnh viện Việt Đức trong Ổ buôn người (Giản Tư

Hải), v.v... Nhà văn trinh thám gần đây như Di Li cũng sử dụng nhiều yếu tố

kì bí, ma mị và giàu sức ám ảnh trong tiểu thuyết trinh thám-kinh dị của mình.

Với Trại Hoa Đỏ, đó là các chi tiết chiếc xe của vợ chồng Trần Hoàng Lưu xô

vào con chó rừng mà ngay sau đó lại không thấy xác con vật đâu, là bóng ma

người đàn bà áo đen “mặt đầy lỗ thủng, bụng ngập máu” luôn hiện diện trong

những giấc mơ của Diên Vĩ, là lời nguyền về những cô gái của dòng họ

Quách lúc nào cũng chịu một kết thúc bất hạnh – tự tử, là tiếng sáo luôn lặp

lại một điệu duy nhất dẫn dắt Diên Vĩ đi trong ma mị, tiếng sáo mà chỉ cô và

bé Bảo nghe thấy mà mỗi lần xuất hiện đều báo hiệu có một việc chẳng lành.

Trong Câu lạc bộ số 7, ngay chương đầu tiên “Đêm Halloween” đã gợi cho

người đọc cảm giác ma mị khi theo bước chân Mĩ Anh vào quán bar được

trang trí theo kiểu rùng rợn để hút khách, sự xuất hiện thoắt ẩn thoắt hiện của

bóng áo đen, là những vụ giết người, những ám ảnh ma quái không giải thích

được, là người bạn gái của Vũ Phương Đăng mới chết và ảo giác về cô ở khắp

mọi nơi trong phòng ngủ, trên chùa, trong đoạn chat với người chết. Không

chỉ đối với các truyện trinh thám của Thế Lữ, Phạm Cao Củng, Biến Ngũ

Nhy, Lê Hoằng Mưu ở đầu thế kỉ XX, hay truyện trinh thám của Giản Tư Hải,

76

Di Li từ đầu thế kỉ XXI đến nay, mà hầu hết các truyện trinh thám Việt Nam,

dù nhiều dù ít, đều sử dụng yếu tố kinh dị, kì ảo của truyện kinh dị, truyện

đường rừng để tạo cho bạn đọc những xúc cảm ghê sợ, rùng rợn và bị hấp

dẫn, cuốn hút theo những trang truyện.

3.1.3. Yếu tố kiếm hiệp trong truyện trinh thám Việt Nam

Truyện kiếm hiệp hay còn có cách gọi khác là truyện võ hiệp, truyện

chưởng là một thể loại có nguồn gốc từ Trung Hoa, nói về những cuộc phiêu

du của những hiệp khách trên giang hồ. Nhân vật chính là những võ sĩ hành

hiệp, thường được gọi là hiệp khách. Hành động của hiệp khách thường mang

tinh thần trượng nghĩa, nghĩa hiệp, có bản lĩnh phi thường, trừ gian, diệt bạo,

cứu khổ cứu nạn. Tính cách phổ biến của hiệp khách là vị tha, công bằng, tự

lập, trung thành, dũng cảm, đáng tin, không màng tiền bạc và danh lợi.

Nhân vật Kỳ Phát trở thành thám tử rất tình cờ, chỉ vì “ham mê đọc

truyện trinh thám” mà muốn làm thám tử. Kỳ Phát thường cộng tác với bạn là

thanh tra Trúc Lâm, thuộc Sở Liêm phóng (Mật thám) Hà Nội, và tất cả các

vụ án do Kỳ Phát tìm ra thủ phạm đều đem tặng cho Trúc Lâm lĩnh công và

lập danh. Phóng viên Lê Phong sau khi khám phá ra bí mật vụ án “thì chỉ có

việc mau mau về nhà báo cắm đầu mà viết bài tường thuật và đợi đến một vụ

án mạng li kì hơn”; Thành Trai là “một cử nhân Luật, từng du học ở Pháp”,

điều tra vụ án nhằm tìm cách minh oan em gái, con chú chàng, là Kiều Tiên

(Mảnh trăng thu); Hoàng Ngọc Ẩn, Đỗ Hiếu Liêm (Châu về hiệp phố) vì cảm

mến nghĩa tình mà ra tay giúp đỡ nàng Lệ Thủy và những kẻ thế cô; Quan

Châu Nga Lộc (Vàng và máu) vì địa vị, trách nhiệm nên tham gia làm sáng tỏ

vụ án. Các nhân vật thám tử Việt Nam thực hiện việc điều tra với tinh thần

nghĩa hiệp, không vì danh lợi bản thân. Đây là một nét đặc trưng trong việc

xây dựng kiểu nhân vật thám tử Việt Nam. Nó không hoàn toàn theo khuôn

mẫu như trong truyện trinh thám cổ điển phương Tây. Bởi lẽ, ở Phương Tây,

77

nghề thám tử hình thành và phát triển mạnh trong xã hội tư bản do nhu cầu

thực tế, khi đời sống ở các thành thị phát triển sẽ kéo theo nhiều mặt trái của

nó, nghề thám tử trở nên cần thiết và được trả công. Nhưng đối với xã hội

Việt Nam, trong thực tế, nghề thám tử chưa được xã hội công nhận.

Dù được xây dựng thành nhân vật thám tử trong nhiều truyện hay chỉ là

nhân vật điều tra trong một truyện, các nhà văn trinh thám Việt Nam vẫn luôn

xây dựng nhân vật điều tra - thám tử trong những tác phẩm của mình vừa có

võ công, bản lĩnh, vừa có trí tuệ thông minh, có tư duy logic trong điều tra vụ

án, vừa thể hiện tinh thần nghĩa khí của hiệp khách trong truyện kiếm hiệp.

Họ hành động vì những mục đích cao đẹp mà không màng danh lợi cho bản

thân. Thám tử Lê Phong trong series truyện trinh thám của Thế Lữ, thám tử

Kỳ Phát trong series truyện trinh thám của Phạm Cao Củng và những nhân

vật điều tra trong các tác phẩm của các nhà văn trinh thám đều là người tài

đức, nghĩa hiệp, tự nguyện tham gia điều tra vụ án, trở thành thám tử do muốn

đem lại chính nghĩa, công bằng cho xã hội như Lê Phong, Mai Hương (trong

series truyện của Thế Lữ); Kỳ Phát (trong series truyện của Phạm Cao Củng);

Thành Trai, Hàng Tâm (Mảnh trăng thu); Hoàng Ngọc Ẩn, Lệ Thủy, Bách Si

Ma (Châu về hợp phố); Tấn Phước (Giọt lệ má hồng), Tám Huỳnh Kỳ (Bàn

tay sáu ngón); Tám Lọ (Cậu Tám Lọ), Sáu Do, Đường Gòong (Nhà sư thọt),

Ba Lâu (Ba Lâu ròng nghề đạo tặc), v.v…

Có thể nói, trí tuệ, tài năng, sự tinh thông võ nghệ, tinh thần thượng võ,

nghĩa hiệp và luôn hành động vì sự công bằng, vì sự tốt đẹp của xã hội, không

màng danh lợi cá nhân của nhân vật thám tử - người điều tra trong truyện

trinh thám Việt Nam chính là những yếu tố của truyện kiếm hiệp được các

nhà văn trinh thám Việt Nam tiếp thu sáng tạo và đưa vào những tác phẩm

của mình. Những nhân vật mang phẩm chất, phong cách nhân vật kiếm hiệp

78

trong truyện trinh thám Việt Nam đã làm tăng giá trị nhân văn và sức hấp dẫn

cho truyện.

3.2. Đặc điểm một số thủ pháp nghệ thuật

Viết được một tác phẩm trinh thám hấp dẫn bạn đọc là công việc không

hề dễ dàng. Trái lại, nó đòi hỏi nhà văn phải thực sự nắm vững nghệ thuật viết

truyện, phải tinh thông trong sử dụng các thủ pháp nghệ thuật phù hợp để

truyện trở nên hấp dẫn người đọc và mang đặc trưng thể loại. Xem xét trên

phương diện thủ pháp nghệ thuật, chúng tôi thấy các nhà văn trinh thám Việt

Nam đã nỗ lực và đạt được hiệu quả nhất định trong sử dụng kết hợp một số

thủ pháp nghệ thuật. Ở đây chúng tôi xin được tập trung vào các đặc điểm về

đề tài, cốt truyện, nhân vật và không gian, thời gian nghệ thuật của truyện

trinh thám Việt Nam.

3.2.1. Về đề tài

Một truyện trinh thám thường xoay quanh một vụ án, một án mạng và

quá trình điều tra của thám tử, người điều tra bí mật để tìm nguyên nhân, cách

thức và người phạm tội. Việc lựa chọn đề tài phù hợp rất cần thiết đối với việc

thu hút sự quan tâm của người đọc. Trong mỗi bối cảnh lịch sử-xã hội-văn

học khác nhau thì người đọc lại có sự quan tâm đến phạm vi phản ánh đời

sống trong tác phẩm văn học khác nhau. Nhà văn lựa chọn được đề tài phù

hợp với thể loại và thời đại sẽ tạo được sự quan tâm của công chúng, bạn đọc.

Bên cạnh những đề tài quen thuộc giống như truyện trinh thám phương Tây

(chiến tranh, khủng bố, giết người hàng loạt, tình dục, tình báo, điệp viên, tôn

giáo, pháp y, thám tử, v.v…), truyện trinh thám Việt Nam khá đa dạng về đề

tài, lựa chọn được một số đề tài gần gũi với đời sống xã hội Việt Nam, tạo

nên nét riêng của thể loại này trong nền văn học Việt Nam.

Trong thế giới truyện trinh thám Việt Nam có nhiều mảnh ghép đời sống

chứa những bí ẩn cần khám phá, gắn với những đề tài gần gũi trong đời sống

79

xã hội Việt Nam. Đó là những câu chuyện về bí mật cái chết gắn với đề tài đi

tìm kho báu; những vụ án mạng gắn liền với câu chuyện tình ở đề tài tình yêu;

những vụ buôn lậu, những vụ án liên quan đến sự chiếm đoạt tài sản, những

án mạng gắn với đề tài an ninh, trật tự xã hội; và có cả bí mật về một vụ trộm

chỉ nhằm khẳng định tài năng “qua mặt” của “thủ phạm” gắn với đề tài cách

mạng, v.v… ở truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Mặc dù ở nửa

sau thế kỉ XX, truyện trinh thám Việt Nam trở nên trầm lắng nhưng ở ngã rẽ

mới với các tiểu loại, truyện trinh thám Việt Nam đã chủ yếu hướng đến đề tài

tình báo, phản gián, hình sự nhằm phản ánh đời sống xã hội Việt Nam trong

giai đoạn đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đặc biệt là ở những

năm sau chiến tranh đến hết thế kỉ XX. Từ đầu thế kỉ XXI đến nay, trong bối

cảnh mới, truyện trinh thám Việt Nam cũng bắt kịp thời đại, đi vào khai thác

những đề tài mới gắn liền với đời sống xã hội hiện nay: truyện trinh thám gắn

với đề tài môi sinh, dịch bệnh; đề tài lịch sử, văn hoá; đề tài khoa học viễn

tưởng bên cạnh đề tài an ninh, trật tự xã hội, v.v…

Đặc biệt, một số đề tài xa lạ với thể loại truyện trinh thám phương Tây

đã được khai thác và thể hiện một cách khéo léo, hiệu quả trong truyện trinh

thám Việt Nam:

Trước đây ta thường thấy đề tài đi tìm kho báu trong truyện cổ tích,

truyện truyền kì thì bây giờ ta lại thấy trong truyện trinh thám Việt Nam.

Truyện Vàng và máu của Thế Lữ kể về câu chuyện Tàu để của trong một

hang từ lâu đã nổi tiếng với những chuyện kì quái, chết chóc. Một hôm có hai

người Thổ mạo hiểm đến đây và đã gặp một người chết treo cổ ở cửa hang,

một người vào hang rồi chạy ra và cũng bị chết ngay ở cửa hang, trên tay cầm

một mảnh giấy có chữ Hán. Người còn lại cầm mảnh giấy chạy về trình với

quan Châu Nga Lộc. Nhờ giải mã ký tự trong mảnh giấy đó mà quan Châu

biết hang Văn Dú là nơi một viên quan Tàu nhà Minh để của. Ông đã đem gia

80

nhân đến hang thần tìm lấy của. Trong khi tìm lấy của ở hang, quan Châu Nga

Lộc có óc phán xét thông minh và đã giải mã được những dòng chữ trên mảnh

giấy, lấy được hết vàng trong hang và làm rõ bí mật nguyên nhân dẫn đến cái

chết của những người đến trước là bởi những tảng đá bị viên quan Tàu quết

thuốc độc để giữ của. Kho tàng họ Đặng của Phạm Cao Củng kể về câu

chuyện chàng thám tử Kỳ Phát dùng tài trí để giải mã chiếc đĩa cổ và bức di

chúc của ông tổ họ Đặng, cùng giúp cho 3 người họ Đặng tìm ra kho báu:

“Trong hầm ngổn ngang không biết bao nhiêu là thoi vàng bạc […] không

biết bao nhiêu là châu ngọc. Viên nhỏ, viên to, miếng mầu hồng, hòn màu

biếc, dưới ánh sáng đèn pin, đống châu báu sáng loà phản ra muôn ánh hào

quang” [44]. Cũng vẫn đề tài đi tìm kho báu, Giản Tư Hải đã kể câu chuyện

về những mật mã bằng chữ Phạn khắc trên bia đá chỉ đường đến kho báu của

người Champa cổ xưa mà nhà khảo cổ người Pháp Paul Morierre phát hiện ra,

rồi ông đến đó và bị giết chết. Nhưng trước khi chết, ông đã để lại một mật

mã. Dựa vào mật mã đó, Kì Phương (học trò Paul Morierre) cùng Thi Nga

(con gái Paul Morierre) và Simha (người buôn đồ cổ) đi tìm kho báu Naga nơi

thánh địa Mỹ Sơn của người Champa cổ trong Mật mã Champa. Thiên địa

Hội An Nam của Giản Tư Hải kể về câu chuyện quân Pháp đánh quét những

hội kín từ phương Bắc tràn xuống An Nam thời nhà Nguyễn, trong đó có

Thiên địa Hội An Nam. Những tài liệu của Thiên Địa Hội An Nam, trong đó

có cuốn Kinh Phật, được cho là manh mối kho báu bí ẩn ở An Nam thời

Nguyễn và thời Trần đang trong tay Thiên Địa Hội An Nam nên người Pháp

thực hiện cuộc truy lùng, càn quét Thiên Địa Hội ở nước thuộc địa An Nam,

bắt giữ tù binh đưa về Hoàng thành Thăng Long, tìm mọi cách để chiếm đoạt

và giải mã tài liệu đó để tìm kho báu. Truyện Trại Hoa Đỏ của Di Li cũng kể

về âm mưu đi tìm và chiếm đoạt kho báu của Trần Hoàng Lưu. Vì nghe được

lời tương truyền chỉ cần hiến tế cô gái trinh trong dòng họ Quách sẽ tìm được

81

kho báu khổng lồ của nhà họ Quách mà Trần Hoàng Lưu đã gây nên bao tội

ác, giết chết bao người, v.v…

Một đề tài gần như không thấy trong truyện trinh thám phương Tây là đề

tài cách mạng, đề tài kháng chiến nhưng ta lại thấy đề tài này trong truyện

trinh thám Việt Nam. Tay đại bợm là một truyện khai thác đề tài kháng chiến.

Câu chuyện xoay quanh một vụ lấy trộm “giả vờ” của cả Hống với chủ ý lấy

trộm của hắn là để mời được mọi người đến nhà mà phục tài của hắn để giúp

hắn hoàn lương, giúp hắn thực hiện được tâm nguyện “được làm một công

việc xứng đáng với khả năng ra vào những nơi quân giặc đóng, do thám

những vị trí rất kín của chúng nó, hoặc nữa, lọt vào tận bản doanh của nó, lấy

những tài liệu về cho bộ đội mình” [132]. Mặc dù có gián đoạn về thời gian

do hoàn cảnh lịch sử nhưng có lẽ Tay đại bợm của Thế Lữ là những trang viết

đầu tiên gợi nên những cảm hứng viết truyện trinh thám chính trị - truyện

phản gián, tình báo phát triển sau này như: X30 phá lưới (1976) của Đặng

Thanh là câu chuyện kể về hoạt động tình báo của nhân vật có biệt danh X.30;

Ván bài lật ngửa (1976) của Nguyễn Trường thiên Lý kể về hoạt động tình

báo đầy nguy hiểm “Giữa biển giáo rừng gươm” và lí tưởng yêu nước của

nhân vật Đại tá Nguyễn Thành Luân; Miền đất lạ (1977) của Nguyễn Sơn

Tùng kể về hoạt động tình báo của nhân vật Bảo Trung; Giữa sa mạc lửa

(1986) của Nhị Hồ kể về hoạt động tình báo của điệp viên Nguyên Vũ khi

lặng lẽ, khôn khéo và mưu trí dũng cảm tìm hiểu các âm mưu của Mĩ, Pháp,

góp sức bảo vệ các lực lượng kháng chiến, lực lượng yêu nước. Tương tự như

vậy, các tác phẩm Kế hoạch Anpha (1983) của Lê Chấn, Câu lạc bộ chính

khách (1986) của Lê Tri Kỷ, Ông cố vấn (1988) của Hữu Mai đều viết về hoạt

động tình báo đầy hiểm nguy nhưng rất mưu trí, dũng cảm, gắn với lòng yêu

nước của các chiến sĩ tình báo, v.v…

82

Truyện trinh thám Việt Nam còn khai thác đề tài tình ái, thi văn mà vẫn

gay cấn, hấp dẫn và thuyết phục người đọc. Trong các truyện của Thế Lữ,

Những nét chữ có cốt truyện dẫn dắt về một sự việc có sự phạm tội mà thủ

phạm vô tình giết người và cũng không hề biết mình phạm tội chỉ vì yêu và

muốn được yêu. Đào Đăng Khương phục tài xét đoán của Lê Phong nên đã

đến gặp và nhờ anh điều tra về cái chết của em gái mình là Mai. Nhờ sự phân

tích, xét đoán tài tình những nét chữ trong bài thơ Lên núi cảm tác mà Lê

Phong khám phá ra thủ phạm. Đỗ Lăng là bạn của Khương, vì yêu Mai nên

Đỗ Lăng đã giả làm gái để được gần gũi Mai. Mai không biết, cô chơi thân và

tâm sự nhiều chuyện với Lăng, trong đó có cả việc cô đã tham gia một hội

kín, sau không thấy phù hợp nên cô đã xin ra và hội kín đó cũng tan. Chuyện

không có gì ghê gớm nhưng sẵn đầu óc giàu tưởng tượng, yếu đuối và bị ám

ảnh bởi những chuyện trả thù đọc được trên sách báo nên Mai thường xuyên

lo sợ. Mỗi lúc như thế, Đỗ Lăng lại tìm cách giải thích, động viên, an ủi làm

cho Mai yên lòng. Càng ngày Đỗ Lăng càng yêu Mai. Một hôm, Đỗ Lăng viết

thư thú nhận mình là con trai và bày tỏ tình yêu của mình với Mai. Mai tỏ ra

dửng dưng, không còn thân thiết với Đỗ Lăng như trước. Luyến tiếc những

ngày được gần gũi Mai, Đỗ Lăng viết một bài thơ đặc biệt theo lối của hội kín

mà Mai đã từng kể, với nội dung khép Mai vào tội phản bội và bị xử chết,

những mong làm cho Mai lo sợ mà tìm đến mình để được an ủi như trước.

Nào ngờ, vì quá sợ, Mai đã tự tử. Chỉ đến khi nghe Lê Phong giải thích mọi

việc, Đỗ Lăng mới biết được sự thật, anh vô cùng đau khổ và hối hận vì trò

đùa quái ác của mình.

Đó là sự khám phá ra hung thủ khôn khéo, không ai ngờ tới của vụ án

giết chết Đào Ngung chính là Lường Duỳn do hắn ghen khi phát hiện Đào

Ngung mà trước hắn tưởng là em vợ mình nhưng thực chất là tình địch của

hắn trong Lê Phong phóng viên. Hay là câu chuyện về sự rượt đuổi như trò

83

chơi ú tim của chàng phóng viên Lê Phong hào hoa, phong nhã, tài năng, có

khả năng xét đoán và óc phân tích khoa học với người con gái kiều diễm,

thông minh Mai Hương trong Mai Hương và Lê Phong. Cả hai người cùng

điều tra về cái chết của bác sĩ Trần Thế Đoàn ngay trong buổi lễ phát bằng,

ngay tại hội trường, bên cạnh nhiều người mà không ai hay biết về cái chết

của Đoàn. Mai Hương đã khiến Lê Phong tưởng cô là hung thủ và mải miết

truy đuổi, điều tra theo mục đích của cô ta. Nhờ đó mà họ tìm được hung thủ

giết Trần Thế Đoàn. Mai Hương bày tỏ tâm nguyện được làm nữ phóng viên

cho Báo Thời Thế và được Lê Phong chấp thuận, họ trở thành cộng sự tâm

đắc với nhau. Có thể nói, đề tài tình ái, thi văn vừa mới lạ so với truyện trinh

thám phương Tây, vừa gần gũi đời sống vừa bao quát được sự phản ánh đời

sống của truyện trinh thám Việt Nam.

3.2.2. Về cốt truyện

Nói về cốt truyện trinh thám, nhà văn Mĩ Edgar Allan Poe (1809-1849)

đã có nhiều truyện trinh thám mà những sáng tác đó luôn có cốt truyện điều

tra và nhân vật chính là thám tử. Mỗi cốt truyện của ông đều bắt đầu bằng một

vụ án, đặt ra những nghi vấn khiến người thám tử phải vận dụng đầu óc xét

đoán và phương pháp suy luận khoa học để tìm ra thủ phạm, làm sáng tỏ bí

mật. Trong thực tế, một cốt truyện trinh thám bao giờ cũng gắn liền với vụ án

mà ở đó có thủ phạm gây ra vụ án và sự điều tra để tìm ra thủ phạm đó. Vụ án

thường được đưa ra ở ngay đầu tác phẩm để người điều tra đi tìm lời giải. Quá

trình đi tìm lời giải ấy của người điều tra/ thám tử sẽ dẫn dắt người đọc cùng

suy luận, cùng phán đoán cho đến khi sự thật được phơi bày, bí mật vụ án

được mở ra và kẻ phạm tội với hành vi gây án hiện rõ. Như vậy, trung tâm

của cốt truyện là vụ án và quá trình điều tra để tìm ra bí mật của vụ án, tìm ra

thủ phạm và cách thức, quá trình phạm tội của thủ phạm. Do đó, sự thật và

hành trình kiếm tìm sự thật chính là hạt nhân của truyện trinh thám.

84

Việc điều tra phát hiện tội phạm là cả quá trình đấu trí căng thẳng, gay

cấn. Điều này, một mặt tạo điều kiện để bộc lộ tâm lí nhân vật; mặt khác,

cung cấp dữ liệu để thúc đẩy câu chuyện phát triển. Khi đọc tác phẩm, người

đọc thường bị cuốn theo diễn biến sự kiện, nảy sinh trạng thái lo lắng, sợ hãi.

Chỉ có tư duy phán đoán và suy luận để giải đáp điều bí ẩn mới là mục tiêu,

nhiệm vụ của truyện trinh thám. Nói cách khác, cái đích của truyện trinh thám

không phải mô tả tội ác, tội phạm mà là điều tra tìm kiếm sự thật bị che giấu

để tìm ra tội phạm và cách thức gây án của chúng. Trong truyện trinh thám,

việc điều tra bí mật của cái chết thường xuyên được đặt ra. Bởi cái chết không

xuất hiện một cách phi lí, tình cờ, mà cái chết ở đây như đã có sắp đặt, có sự

chuẩn bị trước. Trước một cái chết, nhân vật thám tử, người điều tra tiến hành

cuộc điều tra, thế nhưng càng mở rộng diện tìm hiểu thì bí hiểm càng lúc càng

tăng.

Truyện trinh thám Việt Nam dựa trên những đề tài gần gũi để xây dựng

nên cốt truyện phù hợp với tâm lí tiếp nhận của độc giả Việt Nam. Chẳng hạn,

trong Lê Phong phóng viên, mọi tình tiết đều xoay quanh vụ án mất hai chục

bạc ở Tòa soạn Báo Thời Thế. Qua điều tra, Lê Phong đã làm cho kẻ ăn cắp

(chính là người thợ in) phải cúi đầu nhận tội. Sự kiện này là tâm điểm của câu

chuyện. Tuy nhiên, Lê Phong còn cảm thấy tiếc bởi tính chất đơn giản, quy

mô hạn chế, không có gì đáng gọi là một vụ chấn động. Chàng nghĩ: “Tiếc

rằng chỉ mất có hai chục bạc thôi! Giá là một cái án mạng thì thú quá” [130].

Ở truyện Gói thuốc lá của Thế Lữ, điều quan trọng nhất là những bí ẩn xung

quanh một vụ giết người. Trong khi hầu hết mọi người đều cho rằng Nông An

Tăng là thủ phạm giết Đường, Lê Phong không tin điều đó. Chàng cho rằng

tên Thổ Nông An Tăng là một người không liên quan, không phải là hung thủ.

Với phương pháp điều tra riêng của mình, Lê Phong đã nhanh chóng giải mã

được điều khó tin, hóa giải bí ẩn chỉ trong vòng 24 giờ. Hóa ra kẻ giết người

85

là Thạc (bạn Đường và Lê Phong) chứ không phải là người Thổ Nông An

Tăng. Bí mật vụ án trong Mảnh trăng thu (Bửu Đình) cũng có ý nghĩa tương

tự, nghĩa là trở thành “câu đố” được đưa ra để nhà điều tra “giải đố”. Các câu

đố ở đây là: Ai giết Thuần Phong? Thuần Phong chết thì có lợi cho ai? Ai là

thủ phạm trong vụ hai chiếc nhẫn bị mất cắp của bà Cai? Tất cả trở thành

mạch chính của câu chuyện. Tìm được lời giải đáp này thì câu chuyện kết

thúc, thám tử Thành Trai chiêm nghiệm: “Phàm trong những sự bí mật thì dầu

một chút gì xem có hơi khác thường cũng phải cho là lạ, mà cần phải suy nghĩ

cho ra lẽ, vì sao mà có? Có để làm gì? Nhưng con mắt đã quen xem xét sự bí

mật, sự lạnh lùng, hễ thấy có sự gì khác thường là chăm chú vào ngay” [60].

Trong triển khai cốt truyện, đặt nghi vấn để gây chú ý, tò mò của bạn

đọc là một thủ pháp nghệ thuật thường thấy trong truyện trinh thám Việt

Nam. Đặc trưng của truyện trinh thám chính là đặt ra nghi vấn và quá trình

tìm ra bí mật làm lời giải những nghi vấn ấy, tìm ra kẻ phạm tội với hành tung

tội ác của chúng. Đồng thời, bản chất tâm lí xã hội của con người là luôn tò

mò, hiếu kì, và vì thế, các nhà văn trinh thám Việt Nam luôn luôn bám sát đặc

trưng thể loại, tạo ra những nghi vấn xoay quanh vụ án; và truyện trinh thám

thường mở đầu bằng một vụ án, một vụ giết người bí hiểm ngay từ đầu truyện

để tạo sự chú ý, gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc. Từ vụ án được nêu ra

ngay từ đầu truyện, các nhà văn tiếp tục xây dựng hàng loạt những tình tiết để

tạo ra những nghi vấn tiếp theo cho bạn đọc về: hung thủ gây án là ai, nguyên

nhân hắn gây án, động cơ gây án và cách thức thủ phạm gây án, v.v… để thu

hút sự chú ý, sự phán đoán của bạn đọc. Sự dẫn dắt người đọc lần theo quá

trình điều tra của thám tử - người điều tra nhằm giải mã những bí mật bằng

nhiều tình tiết li kì, bất ngờ, khó có thể đoán trước mà truyện trinh tham có

khả năng kích thích người đọc “nhập cuộc” cùng khám phá bí mật được đặt ra

trong truyện. Truyện Vàng và máu được bắt đầu bằng câu chuyện về hang

86

Thần trên núi Văn Dú chứa những tai họa ghê gớm, ai vào đó cũng chết,

người chết treo trên cây ở cửa hang, nhiều người chết trong hang và người

Thổ già cũng chết tức tưởi ngay sau khi bước ra khỏi hang. Bao nhiêu bí mật

ẩn chứa trong những cái chết ấy mà độc giả muốn biết. Truyện Gói thuốc lá

gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc nhờ việc mở đầu bằng cái chết bí hiểm

của nhân vật Đường với một con dao cắm ngập tới chuôi ở sau lưng và tấm

danh thiếp úp trước mặt với dòng chữ bí hiểm X.A.E.X.I.G. Sự bí hiểm ấy đã

tạo sự chú ý và cuốn hút người đọc muốn tìm câu trả lời: dòng chữ ấy có ý

nghĩa gì, ai là người giết Đường và giết nhằm mục đích gì?, v.v... Những cái

chết tức tưởi của những cô gái trẻ liên tục xuất hiện và cùng có chung một đặc

điểm là trước khi chết họ đều lên chiếc xe taxi hãng Hoa Sen đã đặt ra nghi

vấn không thể có một sự trùng hợp kì lạ đến thế, khiến người đọc phải chú ý

dõi theo quá trình đi tìm lời giải bí mật cái chết của họ trong Câu lạc bộ số 7

của Di Li. Một vụ tai nạn đáng ngờ xảy ra tại “đèo Hốc, km 47 Hà Nội - Lạng

Sơn” [84, tr.9] với tang vật ban đầu là “một chiếc xe BMW màu đen to kềnh

đang chổng bốn vó lên trời” [84, tr.11], một chiếc váy hồng, trong túi chiếc

váy có mẩu giấy có dòng chữ “Phan Thị Hà Vi. Tuổi 19. Trú tại L… Thái

Hà” [84, tr.12], “một một thứ đồ lót phụ nữ” [84, tr.11] đã đặt ra một nghi vấn

như cảnh sát Long nghĩ rằng “nếu vụ tai nạn đơn thuần người ta sẽ không bao

giờ phiền đến cơ quan chống tội phạm đặc biệt của anh. Nó phải là một vụ án

hóc búa và bí hiểm vượt qua khả năng của những cơ quan điều tra khác” [84,

tr.11] cũng là đặt ra sự chú ý, sự nghi vấn cho bạn đọc để kích thích họ cùng

tìm lời giải trong Ổ buôn người của Giản Tư Hải. Những cái chết xuất hiện

ngay đầu truyện với những chi tiết, những manh mối ban đầu trong nhiều

truyện trinh thám của Phạm Cao Củng, Thế Lữ, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng

Mưu, v.v… ở đầu thế kỉ XX, hay trong truyện của Di Li, Giản Tư Hải, Kim

Tam Long, Đức Anh, Nguyễn Dương Quỳnh, Hoàng Yến, v.v… những năm

87

gần đây đã thực sự tạo được sự chú ý của bạn đọc, đặt ra những nghi vấn để

cuốn hút người đọc cùng những thám tử/ người điều tra đi giải mã những bí

mật về vụ án được nêu trong truyện, v.v… Có thể nói, việc tạo nghi vấn, gây

sự chú ý, tò mò đối với độc giả là một thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu mà cách

nhà văn trinh thám Việt Nam sử dụng để tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn trong quá

trình triển khai cốt truyện.

Tình huống truyện cũng là một yếu tố quan trọng để triển khai cốt truyện

và góp phần làm nên thành công trong sáng tác tự sự của nhà văn. Chẳng

những góp phần khắc họa tính cách nhân vật mà tình huống truyện còn phản

ánh được hơi thở cuộc sống, mang đến những cảm giác đặc biệt cho người

đọc. Đối với truyện trinh thám, tình huống truyện càng trở nên quan trọng để

tạo kịch tính, tạo sự bất ngờ – một yếu tố quan trọng để làm nên sự thành

công của truyện trinh thám. Chính vì thế mà các nhà văn viết truyện trinh

thám Việt Nam rất dụng công và cũng thành công trong nghệ thuật xây dựng

tình huống truyện. Người đọc đã thực sự bị lôi cuốn vào tình huống truyện

độc đáo trong những sáng tác truyện trinh thám: chẳng hạn, trong Vàng và

máu, tình huống được đẩy lên cao trào khi quan Châu Nga Lộc dẫn thục hạ

vào hang tìm kho báu. Ai cũng hồi hộp lo sợ, quan Châu và ngay cả bạn đọc

cũng hồi hộp lo sợ, vì trước đó chưa ai thoát chết khi vào hang. Với truyện

Mai Hương và Lê Phong, Đòn hẹn, tác giả lại tạo một tình huống nhầm lẫn,

phóng viên Lê Phong phải lừa, và người đọc cũng phán đoán sai, để đi đến

một cái kết bất ngờ. Ở Mai Hương và Lê Phong, cái chết của bác sĩ Trần Thế

Đoàn gắn với manh mối và sự ẩn hiện của Mai Hương khiến Lê Phong tập

trung hướng điều tra vào Mai Hương. Cuộc điều tra như một trò chơi ú tim

mà Lê Phong là người bị động, sự chủ động thuộc về Mai Hương. Không chỉ

Lê Phong mà cả bạn đọc, ai cũng nghĩ thủ phạm là người con gái kiều diễm

Mai Hương. Liên tiếp những tình huống bất ngờ xảy ra trong cuộc điều tra.

88

Để rồi kết thúc truyện, hung thủ lại là Lương Hữu, người giết Đoàn vì muốn

chiếm pho sách y học mà trong đó chứa mật mã nơi cất giấu của. Ở Đòn hẹn,

tình huống đẩy sự gay cấn lên cao điểm chính là tình huống Lê Phong bị sập

bẫy của Đảng Tam Sơn. Anh bị bắt, bị giam giữ, không thoát được và ai cũng

nghĩ Lê Phong sẽ bị thủ tiêu. Nhưng kết thúc truyện lại là một điều khiến ai

nấy đều “ngã ngửa người ra”, quá bất ngờ: hóa ra, đó là Đảng Tam Sơn giả do

Mai Hương dựng nên màn kịch để bảo vệ Lê Phong thoát khỏi sự ám sát của

Đảng Tam Sơn thật. Truyện Gói thuốc lá, nhà văn dẫn dắt người đọc đến

những tình huống xoay quanh cái chết của Đường bên một tấm thiếp mang

những con chữ bí mật X.A.E.X.I.G. Những chứng cứ đều đẩy những người

điều tra như Mai Trung, Kỳ Phương và ngay cả bạn đọc đều hướng đến Nông

An Tăng. Sự gay cấn được đẩy lên cao trào khi Nông An Tăng đấm Bình xây

xẩm mặt mày để bỏ chạy. Đến đây, ai cũng như khẳng định chắc chắn hung

thủ không ai khác là Tăng. Nhưng chỉ có Lê Phong, với tài quan sát và óc

phân tích khoa học, anh vẫn không tin hung thủ là Tăng. Từ đó nhà văn tiếp

tục dẫn dắt và hấp dẫn người đọc bằng tình huống độc đáo giầu kịch tính, đầy

gay cấn, bất ngờ khi Lê Phong lên kế hoạch bắt hung thủ ở nhà thương Phủ

Doãn. Anh đóng vai người sẽ bị giết, nằm trùm khăn trên giường trong bệnh

viện để chờ sự ra tay của hung thủ. Một nhát dao đâm mạnh trúng ngực Lê

Phong đã khiến bạn đọc thót tim vì nghĩ Lê Phong đã bị sát hại. Nhưng bạn

đọc thở phào và thán phục: Lê Phong không chết vì anh đệm trong ngực tệp

giấy bản dày ngót một gang tay; hung thủ bị bắt và đó không phải là Nông An

Tăng mà là Đinh Võ Thạc – người bạn thân thiết cùng ở với Đường, vì muốn

chiếm đoạt tấm vé số trúng giải độc đắc mà Thạc đã giết Đường. Số của tấm

vé trúng thưởng là 015097 được mã hóa bằng chữ X.A.E.X.I.G mà Lê Phong

giải mã để tìm ra hung thủ. Dường như ở tác phẩm truyện trinh thám nào của

các nhà văn Việt Nam, chúng ta cũng có thể tìm thấy những tình huống truyện

89

độc đáo, tạo ra sự li kì, sinh động cho tác phẩm, kích thích được trí tò mò và

khơi gợi được cảm xúc của độc giả, làm cho truyện trinh thám có sức hấp dẫn

đặc biệt đối với bạn đọc, nhất là những người ưa khám phá.

Để tạo ấn tượng, tăng cảm giác rùng rợn, li kì khi triển khai cốt truyện,

truyện trinh thám Việt Nam đã sử dụng các chi tiết gây hiệu quả nghệ thuật

đắt giá để vừa làm mềm hoá, làm chậm nhịp độ chuyện kể, vừa tạo cảm giác

hồi hộp, rùng rợn, tăng xúc cảm cho người đọc. Nhiều chi tiết được sử dụng

trong truyện trinh thám Việt Nam như chìa khoá mở bức màn bí mật của câu

chuyện, tạo sức thuyết phục cao bằng sự logic, khoa học, hợp lí, như: chi tiết

vết tay trên trần trong Vết tay trên trần của Phạm Cao Củng giúp Kỳ Phát

phát hiện ra nguyên nhân và người giết Nùng Cao là âm mưu trả thù của Lâm

Nục; chi tiết viên đá tẩm thuốc độc trong Vàng và máu của Thế Lữ giải thích

về cái chết của những người vào hang Thần trên núi Văn Dú; chi tiết Đinh Võ

Thạc giật mình khi Lê Phong đòi gói thuốc lá mặc dù Thạc không cầm của Lê

Phong trong Gói thuốc lá của Thế Lữ đã làm lộ ra kẻ giết Đường chính là

Đinh Võ Thạc chứ không phải người Thổ Nông An Tăng như ban đầu nhiều

người nghĩ; chi tiết tìm hiểu được về lai lịch của Trần Hoàng Lưu đã giúp

Phan Đăng Bách hoá giải cái chết của nhiều người bởi chính chồng của Diên

Vĩ – tên Trần Hoàng Lưu trong Trại Hoa Đỏ của Di Li; chi tiết những con số

và chữ mật mã đã giúp Kỳ Phương giải mã được mật chỉ thời Minh Mạng,

giúp anh và cả đội tìm ra kho báu, thoát khỏi hang trong Minh Mạng mật chỉ

của Giản Tư Hải: “Kỳ Phương vẫn chưa tỉnh hẳn để tin rằng có ngày mình lại

góp sức khai quật được một di sản quý hiếm theo cách ngoạn mục như vậy.

Hạm đội Hoàng Sa trứ danh triều Nguyễn – một kho báu lịch sử vô giá, một

di sản quân sự hiếm hoi tưởng như thất truyền đã chính thức trở về đất mẹ”

[83, tr.468]; chi tiết phân tích logic về động cơ gây án cùng những dấu hiệu

phát hiện bằng chứng từ việc livestream của Hoàng đã khiến Quân và Nguyên

90

tìm ra hung thủ giết chết Vương chính là Hoàng (dù yêu quý và kính trọng tài

năng, lòng tốt của bạn mình là bác sĩ Hoàng), hoá giải lời nguyền, sự đồn

đoán về sự báo thù, báo oán truyền kiếp của kẻ mang mặt nạ trắng trong Mặt

nạ trắng của Kim Tam Long.

Truyện trinh thám Việt Nam có cách dẫn chuyện, lối kể chuyện khá linh

hoạt. Cùng một cốt truyện quen thuộc của thể loại là vụ án - quá trình điều tra

- tìm ra hung thủ - bí mật vụ án được làm sáng tỏ, nhưng các nhà văn trinh

thám Việt Nam lại có nhiều cách dẫn, cách kể khác nhau để triển khai cốt

truyện: có thể là một sự giới thiệu trực tiếp vụ án rồi kể theo trình tự thời gian

trong nhiều truyện trinh thám đầu thế kỉ XX như truyện của Phạm Cao Củng,

Thế Lữ, Phú Đức, Bửu Đình, Thuý Am, Tô Nguyệt Đình; có thể là lối dẫn

truyện bằng bối cảnh để tạo cảm giác, tạo không khí trinh thám rồi vụ án mới

được đưa ra và lối kể chậm theo trật tự tuyến tính thời gian, cũng có khi là sự

đan xen giữa lối kể chuyện theo trật tự tuyến tính với lối kể theo dòng ý thức

của nhân vật trong nhiều truyện trinh thám cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI.

Nhưng có lẽ bởi đặc trưng của thể loại truyện trinh thám là đặt ra “câu đố” về

bí mật vụ án (vụ án là kết quả được đưa ra trước), rồi thám tử/ người điều tra

mới truy tìm thủ phạm, nguyên nhân, cách thức gây án của hung thủ, v.v…

nên hầu hết truyện trinh thám Việt Nam được hiện lên qua nghệ thuật kể

chuyện đảo thời gian và lối dẫn chuyện li kì, đánh lừa người đọc để dẫn đến

một cái kết bất ngờ, giải toả những nghi vấn, giải toả cảm xúc nhiều khi là sự

lo âu, sự căng thẳng của độc giả để phán đoán tìm ra thủ phạm cùng thám tử/

người điều tra, khiến độc giả được thoả mãn nhu cầu kiếm tìm sự thật, kiếm

tìm chân lí, và trực tiếp là thoả mãn nhu cầu giải trí của bạn đọc. Có thể nói,

các thủ pháp dẫn chuyện, kể chuyện của các nhà văn trinh thám Việt Nam có

những nét riêng khá độc đáo, tạo được sự hấp dẫn cho truyện kể.

91

Bên cạnh những thành công nhất định trong triển khai cốt truyện, nhiều

truyện trinh thám Việt Nam có cốt truyện đơn giản khiến người đọc dễ đoán

được cái kết của câu chuyện ngay khi đọc phần đầu truyện. Mặt khác, trong

quá trình triển khai cốt truyện, một số nhà văn muốn sử dụng các thủ pháp

nghệ thuật hiện đại để tạo sự mới lạ nhưng kĩ thuật vận dụng chưa nhuyễn nên

kết cấu bị rời rạc, khó theo dõi. Ví dụ như Tường lửa của Đức Anh được tác

giả dùng thủ pháp lồng ghép, phân mảnh nhưng kết cấu đó lại tạo nên sự rời

rạc, khó theo dõi, nhịp kể chậm, không tạo được sự gay cấn cần thiết để hấp

dẫn người đọc. Trong khi đó, một trong những đặc điểm quan trọng của

truyện trinh thám là phải tạo được kịch tính, bất ngờ và sự logic chặt chẽ. Hạn

chế này có lẽ phần nào do sự ảnh hưởng của lối tư duy lí tính không cao và

phông kiến thức chuyên ngành, liên ngành, nhất là những kiến thức khoa học,

kiến thức pháp lí của tác giả trinh thám Việt Nam còn hạn chế.

3.2.3. Về nhân vật

Trong truyện trinh thám, nhân vật thám tử/ người điều tra và thủ phạm

luôn tồn tại song hành, và đương nhiên có cả nhân vật nạn nhân. Tuy nhiên,

nhân vật người điều tra, thám tử được tập trung thể hiện và là nhân vật trung

tâm của truyện trinh thám. Bởi vì nhân vật thủ phạm là nhân vật luôn được

giấu đi để nhân vật thám tử, người điều tra truy tìm. Khi nhân vật thủ phạm

xuất hiện cũng là lúc sự thật đã được phơi bày và câu chuyện kết thức, hết

truyện. Còn nhân vật nạn nhân thường được xây dựng mờ nhạt chỉ như là cái

cớ cho câu chuyện. Do đó, nhân vật thám tử, người điều tra luôn xuất hiện

xuyên suốt truyện và trở thành yếu tố trung tâm, giữ vai trò quyết định sự tồn

tại một truyện trinh thám. Vì vậy, ở luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu

nhân vật trung tâm của truyện trinh thám Việt Nam là nhân vật thám tử, người

điều tra, không đi sâu vào phân tích nhân vật thủ phạm và nhân vật nạn nhân

hay những nhân vật khác.

92

Tâm điểm của tác phẩm trinh thám chính là nhân vật thám tử, người điều

tra, người theo dõi, người phát hiện tội phạm. Tìm hiểu quá trình điều tra tội

ác cũng chính là tìm hiểu về nhân vật thám tử, người điều tra. Thám tử, người

điều tra giữ vai trò chính trong cốt truyện trinh thám. Khi vụ án xuất hiện và

đi vào bế tắc, khi việc truy tìm bí mật như đi vào ngõ cụt thì bằng sự quan sát

tỉ mỉ, bằng những suy luận logic, bằng phán đoán xác thực mà thám tử, người

điều tra tìm ra thủ phạm một cách thuyết phục và hết sức bất ngờ. Nếu không

có nhân vật người điều tra, thám tử thì tác phẩm không được xem là truyện

trinh thám. Điều này được S. S.Van Dine chỉ rõ: “Tiểu thuyết trinh thám bắt

buộc phải có một thám tử. Và một thám tử sẽ không phải là một thám tử nếu

anh ta không phá án. Nhiệm vụ của anh ta là tập hợp các manh mối cuối cùng

sẽ dẫn tới người đã tham gia vào hoạt động mờ ám trong chương đầu tiên của

cuốn sách; và nếu thám tử không đưa ra được những kết luận của mình thông

qua một sự phân tích những manh mối, anh ta sẽ chẳng thể giải quyết được

khó khăn của anh ta hơn là một cậu học trò tìm được câu trả lời giấu đằng sau

bài tập số học” [51]. Nhân vật thám tử, người điều tra có thể là một nhân viên

của bộ máy công quyền, là thành viên của lực lượng cảnh sát, công an hoặc

cũng có thể là một người hoạt động độc lập kiểu thám tử tư. Trong lịch sử

truyện trinh thám thế giới, có những nhân vật thám tử nổi tiếng đến mức từ

chỗ một hình tượng văn học được hư cấu đã trở thành một thứ điển phạm,

danh tiếng nhân vật lẫy lừng, quen thuộc với độc giả không khác gì một người

có thật ở đời, như các nhân vật: Sherlock Holmes trong truyện của Conan

Doyle, Charles Dupin trong truyện của Edgar Poe, Hercule Poirot trong

truyện của Agatha Christie, v.v...

Trong truyện trinh thám Việt Nam, tuỳ thuộc vào sự vận động của thể

loại trong từng giai đoạn mà nhân vật thám tử - người điều tra có thể là thám

tử chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư, là nhân viên mật thám, là nhân vật tình báo

93

hay là một cảnh sát, một nhân viên an ninh, v.v… Nhìn chung nhân vật thám

tử/ người điều tra trong truyện trinh thám Việt Nam khá đa dạng. Chúng ta

thấy những nhân vật thám tử như Lê Phong trong truyện trinh thám của Thế

Lữ, Kì Phát trong truyện trinh thám của Phạm Cao Củng; các nhân vật công

quyền như Quan Phủ Trang Tử Minh trong Người bán ngọc của Lê Hoằng

Mưu, Quan Châu Nga Lộc trong Vàng và máu của Thế Lữ, thanh tra Trúc

Lâm trong truyện trinh thám của Phạm Cao Củng; các nhân vật tình báo như:

Nguyễn Thành Luân trong Ván bài lật ngửa của Nguyễn Trường Thiên Lí,

Hai Long trong Ông cố vấn của Hữu Mai; các nhân vật công an, cảnh sát sát

như: người chiến sĩ an ninh trong Dạ khúc của Thiết Vũ, Hà Phan trong Ổ

buôn người của Giản Tư Hải, Phan Đăng Bách trong Câu lạc bộ số 7 của Di

Li, v.v…

Trong truyện trinh thám Việt Nam, thám tử - người điều tra là nhân vật

có niềm đam mê và không vụ lợi trong công việc. Ý thức công việc và lòng

yêu nghề trở thành một phẩm chất không thể thiếu của nhân vật thám tử,

người điều tra. Họ hành động xuất phát từ sở thích, sự đam mê, yêu cầu của

công việc hoặc ngẫu nhiên, ví như lời tâm sự của nhân vật Kỳ Phát trong

truyện trinh thám của Phạm Cao Củng: “Tôi đã học đủ nghề để phòng khi

dùng đến, nhưng tôi vẫn làm việc ở một ấp trên trung du, vừa trông coi đồn

điền, vừa dạy học thêm, cốt để tự nuôi sống, còn nghề trinh thám kia, thì khi

nào có dịp tôi mới đem ra mà áp dụng, coi như là một trò giải trí mà thôi... vì

vậy tôi chẳng phải là một tay trinh thám nhà nghề” [47; tr.24]. Kỳ Phát luôn

tỏ ra thờ ơ với mọi thứ không liên quan đến vụ án và trong khi điều tra, anh

luôn giữ thái độ tỉnh táo, cần mẫn của một thám tử chuyên nghiệp. Nhân vật

thám tử Lê Phong trong truyện của Thế Lữ cũng vậy, anh là phóng viên của

Báo Thời Thế. Khi được cử đi tường thuật vụ án, qua những việc điều tra cụ

thể, từ việc khám phá vụ buôn lậu ở Lạng Thương đến các vụ giết người, các

94

băng đảng bí mật ở Hà Nội, v.v… lòng say mê cùng bản năng nghề nghiệp

của chàng được bộc lộ rất rõ. Lê Phong bộc bạch: “Tôi không làm phóng viên

nữa thì đời tôi không còn gì”. Chính vì vậy, hoạt động thám tử, công việc điều

tra phá án trở thành lẽ sống, mục đích cuộc đời của chàng nên Lê Phong

nghiên cứu rất sâu những kĩ thuật cần thiết cho việc phá án. Chàng rất giỏi

trong việc giải các loại mật mã, cũng là bậc thầy về cải trang. Với một chiếc

kính lúp, Lê Phong có thể suy đoán nhân dạng của thủ phạm chỉ từ những dấu

vết đơn giản mà hung thủ vô tình để lại hiện trường như vết chân, vết giày

dép, vết bánh xe, tàn thuốc, v.v… Lê Phong cũng rất tài tình trong việc nhận

xét về cảm xúc của người đối diện. Chàng có thể xoa dịu và làm an lòng

những người đang gặp khủng hoảng về tâm lí (Gói thuốc lá). Lê Phong với

những tính cách nổi bật thông minh, hào hoa, đa cảm, lãng mạn đã tạo nên

dấu ấn truyện trinh thám của Thế Lữ trong lòng người đọc. Hình tượng thám

tử Lê Phong là sự pha trộn giữa nhân vật thám tử trong truyện trinh thám suy

luận kết hợp với truyện trinh thám hành động, lãng mạn.

Ngoài những nhân vật thám tử chuyên nghiệp còn có thám tử nghiệp dư.

Họ là những người vì hoàn cảnh riêng hoặc cũng có thể chỉ vì sở thích mà làm

thám tử. Thám tử Đỗ Hiếu Liêm (Châu về hiệp phố) làm việc ở Sở Mật thám

để tìm cơ hội bắt bọn cướp Thanh Long để trả thù cho cha mẹ. Quan Phủ

Trang Tử Minh (Người bán ngọc) là “một vị minh quan, giữ mực công bình,

không chịu vị tình xử đoản”, điều tra vụ án Tô Thường Hậu để tìm ra nguyên

nhân sâu xa của vụ án mà xử người có tội. Quan Châu Nga Lộc (Vàng và

máu) “là một người Thổ vào dạng trí thức. Những điều mà dân quê mê tín

như những việc bí hiểm trong hang Thần, ông vẫn ngờ là chuyện huyền hoặc

cả”, cho nên ông đã can đảm khám phá thực chất sự linh thiêng của hang

Thần trên núi Văn Dú. Thám tử Thành Trai, Minh Đường, Tám Lọ (Mảnh

95

trăng thu) điều tra làm sáng tỏ vụ án đã trải qua năm năm trời để tìm cách

minh oan cho Kiều Tiên bị mang tiếng oan giết chồng, v.v…

Nhân vật thám tử, người điều tra trong truyện trinh thám Việt Nam vừa

giống vừa khác so với mẫu hình nhân vật thám tử trong truyện trinh thám

phương Tây. Mẫu hình nhân vật trong truyện trinh thám Việt Nam là các

thám tử, người điều tra thông minh, có tài suy luận logic, phản ứng nhanh

nhạy trong các tình huống, có lòng nhân hậu, kiên quyết đấu tranh để đòi lại

lẽ công bằng và có phong thái, nhân dạng mang đặc điểm người Việt Nam.

Người đọc không thể nhầm lẫn thám tử Kỳ Phát với tầm người cao và gầy,

vận âu phục, khuôn mặt sáng ngời, nhất là đôi mắt với chàng thám tử phương

Tây Sherlock Holmes đội mũ dạ, vận đồ đen, ngậm tẩu thuốc khi suy luận,

điều tra phá án.

Tuy nhân vật thám tử, người điều tra trong truyện trinh thám Việt Nam

thông minh, có tài suy luận logic, phản ứng nhanh nhạy trong các tình huống,

giỏi võ thuật, có lòng nhân hậu, kiên quyết đấu tranh để đòi lại lẽ công bằng

nhưng những suy luận của họ vẫn đơn giản. Đối với nhân vật thám tử, người

điều tra chỉ tư duy logic, suy đoán dựa trên quy luật cuộc sống không thôi, dù

sắc sảo đến mấy thì vẫn chưa đủ để phá án. Nhân vật thám tử, người điều tra

trong truyện trinh thám Việt Nam bên cạnh suy lí còn biết kết hợp với trí

tưởng tượng và cả mưu mẹo trong quá trình điều tra. Đây cũng chính là một

đặc điểm của nhân vật thám tử, người điều tra trong truyện trinh thám Việt

Nam. Dùng mưu trí, mẹo mực, tháo vát, đồng thời cũng có gì đó mang tính

chất láu lỉnh, tinh khôn để giải quyết các tình huống là một lối ứng xử mang

đậm dấu ấn tính cách của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói

riêng. Chẳng hạn, để kiểm tra sự suy đoán của mình, Lê Phong đã bộc bạch

với Mai Hương rằng mình đã dùng mẹo nhỏ là đòi Thạc gói thuốc lá để thử

96

tâm lí của Thạc, mặc dù Thạc không mượn chàng, nhờ đó mà xác định chính

xác Thạc là hung thủ giết Đường:

Thạc: “Anh trả tôi gói thuốc lá chứ? Gói thuốc lá anh mượn từ lúc ngồi

xem xi-nê kia mà!”. Thạc hình như chợt nhớ ra, lấy gói thuốc lá trả tôi, và

tôi hiểu rằng mưu của tôi đã thành. Vì thực ra thì trong lúc ngồi ở nhà chiếu

bóng, tôi có cho Thạc mượng gói thuốc lá nào đâu [137, tr.203-204].

Tôi lại nghĩ ra được một mẹo nhỏ, và sau đó mười phút, tôi đến gần bảo

Thám tử Lê Phong muốn giấu những giấy má quan trọng không bị lọt vào tay

bọn Tam Sơn quỷ quyệt, đã bảo thằng Biên “lấy những tờ giấy trong hộp bỏ

vào những phong bì dùng rồi […]. Không cất đâu hết. Để nó cả trên bàn nhà

ngoài […]. Phải, nhét nó vào ngăn để thư hoặc ngăn kéo nhưng không cần

khóa […]. Những chỗ hở như thế là chỗ giấu kín nhất đó. Vì đó là những chỗ

chúng nó không thèm để tâm đến nhất” [134, tr.50], v.v…

Đặc điểm nổi bật nhất của nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt

Nam là những con người tài đức kết hợp với tinh thần nghĩa hiệp, không vụ

lợi cho bản thân. Kỳ Phát thường cộng tác với bạn là thanh tra Trúc Lâm ở Sở

Liêm phóng (Mật thám) Hà Nội, và tất cả các vụ án do Kỳ Phát tìm ra thủ

phạm đều đem tặng cho Trúc Lâm lĩnh công và lập danh. Phóng viên Lê

Phong sau khi khám phá ra bí mật vụ án thì nhanh chóng về viết bài và chờ

đợi khám phá vụ án khác; Hoàng Ngọc Ẩn, Đỗ Hiếu Liêm (trong Châu về

hiệp phố) vì cảm mến nghĩa tình mà ra tay giúp đỡ nàng Lệ Thủy và những kẻ

thế cô; Quan Châu Nga Lộc vì địa vị, trách nhiệm nên tham gia làm sáng tỏ

vụ án, v.v…

Xuất phát từ phương Tây với các nhân vật thám tử đầy lí trí, tư duy suy

luận luôn bám theo quá trình phá án, nhưng ở truyện trinh thám Việt Nam,

các nhân vật thám tử một mặt mang trong mình tư duy logic, bản lĩnh và lí trí,

mặt khác lại rất giàu cảm xúc, hào hoa, lãng mạn. Thám tử Lê Phong trong

truyện trinh thám của Thế Lữ điển hình cho mẫu thanh niên hào hoa, lãng

97

mạn, nghĩa hiệp và say mê phiêu lưu. Chàng luôn lãng mạn, nhiều khi ngồi

mơ màng ngắm làn khói thuốc do mình nhả ra. Chàng cũng dễ xúc động trước

cái đẹp và si tình, không thiếu những lần chăm chú dõi theo những nhân vật

nữ xinh đẹp, thậm chí là “say nắng” trước Mai Hương. Kể từ lần đầu gặp gỡ

Mai Hương, anh đã có những biểu hiện tâm lí không bình thường, bắt đầu “ấp

úng”, “bối rối”, “nói những lời ngớ ngẩn, vô nghĩa” và bị chinh phục bởi vẻ

đẹp của người thiếu nữ yêu kiều Mai Hương. Bên cạnh câu chuyện điều tra vụ

án, Thế Lữ đã xây dựng nên một câu chuyện tình của Lê Phong. Kỳ Phát

trong truyện trinh thám của Phạm Cao Củng như thần người trước “một thiếu

nữ chừng 18 tuổi, người nhỏ nhắn nhưng cân đối, nước da trắng hồng […] có

đôi mắt huyền rất đẹp, đen tuyền và trong sáng thông minh, lanh lẹn vô cùng”

[45, tr.19] đã thốt lên: “Chà, đôi mắt huyền đẹp quá” [45, tr.19], rồi chàng

“suy nghĩ ngẩn ngơ, lơ đãng nhìn về phía toa tầu thiếu nữ vừa lên” [45, tr.19].

Nguyễn Thành Luân trong Ván bài lật ngửa được thể hiện với tâm lí khá

phong phú, là một điệp viên nhưng anh cũng rất giàu cảm xúc, hay cảm động.

Rất nhiều lần anh khóc, khóc khi người đồng đội là Ngọc bị bắt và bị bắn chết

mà anh không cứu được, khi nghe tin Lục chết ở Nha Trang, khi con trai bị

bắt, khi gặp Saroyan ở Mĩ. Nguyễn Thành Luân cũng rất đa cảm, đa tình, hào

hoa. Anh luôn được phụ nữ yêu và giúp đỡ, anh cũng được người đồng đội là

Dung thắp lên ngọn lửa tình yêu. Hai Long trong Ông cố vấn cũng đầy tâm

trạng, cảm xúc khi bị đồng đội nghi ngờ phản bội. Trái tim anh cũng luôn có

những khoảng rung động như cảm xúc của anh trong nỗi nhớ Hà Nội. Nhân

vật người chiến sĩ an ninh trong Dạ khúc, giữa một quốc gia xa lạ, khi thử

thách sống chết cận kề, ngoài ý nghĩ về nhiệm vụ, thấp thoáng trong anh hình

bóng một người con gái đang chờ anh. Ta còn thấy tình cảm của Hà Phan

thầm thương trộm nhớ cô gái Hà Vi mà anh giải cứu được trước nạn buôn

người trong Ổ buôn người của Giản Tư Hải. Nhân vật thiếu tá Phan Đăng

98

Bách trong Câu lạc bộ số 7 của Di Li khi đứng trước người yêu cũng rụt rè,

ấp úng, v.v…

Các nhà văn trinh thám Việt Nam thường tạo ngôn ngữ nhân vật với lối

nói dung dị, lời ăn tiếng nói đặc trưng vùng miền, sử dụng ngôn ngữ đời

thường, thể hiện “tính chất Việt” của nhân vật. Trong các truyện trinh thám

xuất bản ở miền Bắc, người đọc cảm nhận được sự chân thật và gần gũi qua

những ngôn từ địa phương trong lời nhân vật: “Tôi mới đến ở sau này, nên

không biết, anh ạ”, “Phát đấy ư con? Con đóng cửa lại rồi đứng đây thầy

bảo”, “Thằng ông mãnh, mày chạy đâu mà như bố chết thế”, “Bạn tôi chỉ

chiếc đèn cầy trên bàn mà bảo”, “Chính cái ô kia nó dẫn tôi từ bà cụ đến

chàng trẻ tuổi”, v.v… Với những truyện trinh thám miền Nam, người đọc

thấy những câu văn vừa gần gũi vừa chân thực theo ngôn ngữ địa phương

trong lời nhân vật: “Chúng bây đừng chợp rợp mà tao bắn nát óc bây giờ”,

“Lối này coi bộ khá hơn trước nhiều”, “Chàng lật đật bấm chuông kêu bồi,

biểu mau mau chạy đi rước thầy thuốc”, “Ê chú, nới chơn cho dài thêm một

chút mà, xe chạy như rùa bò biết bao giờ tới chốn”, “Nên ráng sức bình sanh

mà đánh”, “thiên hạ đi coi dập diều mỗi khi pháo xẹt lên trời”, “Mi khai thiệt

hết đầu dây mối nhợ ta nghe”, v.v… Khác với ngôn ngữ nhân vật trong truyện

trinh thám phương Tây thường trung hoà cảm xúc, ngắn gọn, gắn với lối tư

duy lí tính và lối sống hiện đại phương Tây; ngôn ngữ nhân vật trong nhiều

truyện trinh thám Việt Nam thiếu sự trung hoà cảm xúc cần thiết. Bên cạnh

những lợi thế về đặc điểm ngôn ngữ tiếng Việt có khả năng diễn đạt một cách

tinh tế, gợi cảm, tác động đến tâm trạng, cảm xúc người đọc một cách mạnh

mẽ, gợi những xúc cảm cần thiết như sự bất ngờ, sự rùng rợn, sự hồi hộp, sự

lo âu, v.v… thì đặc điểm giàu cảm xúc, mang tính biểu cảm cao của ngôn ngữ

tiếng Việt lại trở thành rào cản làm giảm sự bất ngờ, kịch tính của truyện –

một yếu tố rất quan trọng để làm nên tính hấp dẫn của truyện trinh thám.

99

Chúng ta có thể tìm thấy đặc điểm này trong hầu hết các truyện trinh thám

nước ta, từ truyện trinh thám của Thế Lữ, Phạm Cao Củng, Biến Ngũ Nhy, Lê

Hoằng Mưu, v.v… ở đầu thế kỉ XX đến truyện trinh thám của Di Li, Giản Tư

Hải, Kim Tam Long, Đức Anh, Nguyễn Dương Quỳnh, Hoàng Yến từ đầu thế

kỉ XXI đến nay. Đây vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của ngôn ngữ truyện

trinh thám Việt Nam nói chung và ngôn ngữ nhân vật trong truyện trinh thám

nói riêng: một mặt, nó tạo được sự gần gũi, quen thuộc trong tiếp nhận của

bạn đọc Việt Nam; mặt khác, chính sắc thái biểu cảm, giàu cảm xúc của ngôn

ngữ đã làm hạn chế yếu tố bất ngờ của truyện – một yếu tố đặc trưng quan

trọng của truyện trinh thám.

Tuy đã có thành công nhất định trong xây dựng nhân vật thám tử, người

điều tra nhưng đa số nhân vật truyện trinh thám Việt Nam chưa thực sự được

khắc hoạ tính cách rõ nét nên chưa tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng độc

giả. Các nhân vật được xây dựng thuộc một số kiểu nhân vật truyện trinh

thám Việt Nam (nhân vật thám tử, nhân vật công an, nhân vật tình báo)

thường giống nhau, chưa thực sự có nét riêng nổi bật để tạo ấn tượng: có sự

giống nhau giữa nhân vật thám tử Lê Phong trong truyện của Thế Lữ với nhân

vật Kỳ Phát trong truyện của Phạm Cao Củng; giữa nhân vật Phan Đăng Bách

trong truyện của Di Li với nhân vật Quân trong truyện của Kim Tam Long;

giữa nhân vật Kỳ Phương với nhân vật Trần Phách và Hà Phan trong truyện

của Giản Tư Hải, v.v…

3.2.4. Về không gian, thời gian nghệ thuật

Trong tác phẩm nghệ thuật, việc xử lí không gian, thời gian là một yếu tố

vô cùng quan trọng đối với việc thành công của tác phẩm. Bởi vì không gian

nghệ thuật, thời gian nghệ thuật chính là nơi, là lúc để nhân vật tồn tại và

hành động, đồng thời là phương tiện để tái hiện đời sống. Không có ai trong

đời sống lại không có một không gian và thời gian tồn tại nhất định, cũng như

100

không có nhân vật nào lại tồn tại ngoài không gian nghệ thuật, thời gian nghệ

thuật cụ thể trong tác phẩm. Ở truyện trinh thám Việt Nam, không gian nghệ

thuật đã góp phần “định danh”, thể hiện đặc điểm bản sắc Việt của truyện.

Có một điều đặc biệt là không gian trong nhiều truyện trinh thám Việt

Nam được xây dựng là không gian hẹp, không gian thuần Việt, gắn liền với

đời sống người Việt Nam. Trong truyện trinh thám của Thế Lữ, không gian

chủ yếu là không gian ở Hà Nội. Những địa chỉ, địa danh gắn với tên những

con đường, những ngôi nhà ở Hà Nội xuất hiện dày đặc trong những vụ án và

quá trình điều tra vụ án; và không gian những nơi đó cứ dần hiện lên qua sự

miêu tả chi tiết của nhà văn. Không gian trong Gói thuốc lá rất cụ thể nơi

Đường bị giết: “Đến trước căn nhà hai tầng số 44 bis phố Richaud, ba người

cùng dừng lại. Đêm đã khuya. Đèn trên gác đã tắt. Hai cửa sổ mở ra đường

hai khung lớn tối đen” [137, tr.5]; trong mảnh giấy manh mối gán tội cho

Nông An Tăng có ghi: “Hắn đang xuống Hà Nội, Điền He… 143 bis D” [137,

tr.61]. Nơi diễn ra màn kịch mà Lê Phong dựng nên để bắt hung thủ và mời

Mai Trung và Kỳ Phương đến chứng kiến cũng là ở nhà thương Phủ Doãn:

“Tên Thổ vẫn chưa ra khỏi Hà Nội […] mời các ông lại nhà thương Phủ Doãn

tối hôm nay cùng với một cái khóa tay chắc chắn để đón lấy tên hung thủ mà

tôi sẽ nộp tận tay các ông” [137, tr.165]. Trong Mai Hương và Lê Phong, Lê

Phong điều tra, rượt đuổi Mai Hương theo vết dầu anh đánh dấu vào xe Mai

Hương trên những cung đường vòng vo: “Đến phố Jean Soler, vết dầu lại

chạy thẳng rồi rẽ về đường Gambetta. Gần hết đường Gambetta, xe anh lại

chậm lại lần thứ hai để xem xét […] đến chỗ rẽ sang tay trái, lối xuống Cống

Vọng anh thấy vết bánh xe sát lên rất rõ” [131, tr.41]. Vẫn là không gian bám

theo Mai Hương: “Qua phố Hàng Buồm đến phố Mã Mây… Xe hơi băng

băng chạy trên con đường nhựa bóng loáng. Qua Hàng Bún, rẽ lên đường

Quán Thánh, rẽ sang Hàng Cót, Hàng Bông, Cửa Nam qua ga rồi cứ thế chạy

101

thẳng mãi” [131, tr.176]. Ở Đòn hẹn ta cũng thấy không gian xảy ra cái chết

của Nguyễn Bồng: “Chiếc xe điện từ lối Bờ Hồ vừa đứng lại ở trước chợ

Hôm […] Phong đang mải nhìn đi, bỗng nhiên nghe có những tiếng kêu thất thanh

của tất cả mọi người, và- việc xảy ra đột ngột lạ lùng- về phía bên kia, dưới bánh xe

vừa ngừng, anh thấy một người đàn ông quần áo nâu nằm chết trên đường sắt”

[134, tr.9], sau đó “Chiếc xe điện lúc nãy chạy đã lâu. Phố Huế lại giữ vẻ tấp nập

thản nhiên thường ngày và trên chỗ tai nạn xảy ra chỉ còn một vết máu rửa

chưa sạch hẳn” [134, tr.23]. Cứ thế, tác giả tạo nên một không gian động, một

không gian rượt đuổi, vừa làm tăng sự bí ẩn và kịch tính cho câu chuyện vừa

tạo cho người đọc thấy những địa danh, những không gian quen thuộc ở Hà

Nội nên không gian ấy đã lôi cuốn, hấp dẫn sự chú ý của độc giả.

Không chỉ là không gian phố thị, các tác giả trinh thám Việt Nam xây

dựng không gian rừng núi, không gian tự nhiên, v.v... cũng rất quen thuộc,

gần gũi với đời sống, mang bản sắc Việt Nam. Đó là hang Thần trên núi Văn

Dú vừa linh thiêng, ghê sợ, vừa đầy bí ẩn (Vàng và máu); là hang động trong

cổ miếu giữa rừng già (Kho tàng họ Đặng); là căn phòng tối tăm, đầy khói

thuốc phiện cùng con rắn hổ mang của Ông Phán (Ông Phán nghiện); là “căn

phòng lịch sự, yên tĩnh và sang trọng nhưng đầy những điều kì lạ” (Mai

Hương - Lê Phong); là “căn phòng khóa kín” mà Nùng Cao bị giết một cách

bí ẩn (Vết tay trên trần), và căn phòng “chật hẹp, bốn bề bít kín như bưng,

buồng chỉ có một lỗ trống bằng hai bàn tay” mà Bá Vy đã giam giữ Kỳ Phát

(Kho tàng nhà họ Đặng); là hang và đường hầm trong Minh Mạng mật chỉ

của Giản Tư Hải; là động đá ẩn chứa những bí mật gia đình họ Quách trong

Trại Hoa Đỏ của Di Li, v.v… Có thể thấy, các nhà văn đã bám rất sát thực tế

đời sống để sáng tạo nên những hình tượng không gian đặc thù của truyện trinh

thám Việt Nam, khác hẳn với không gian hoành tráng ở những thành phố lớn

trong truyện trinh thám phương Tây. Không gian đó vừa đảm bảo cho sự phát

102

triển hợp lí của câu chuyện vừa in đậm dấu ấn văn hóa, xã hội, đời sống sinh

hoạt của Việt Nam.

Trong truyện trinh thám Việt Nam, các nhà văn viết truyện trinh thám

cũng chú ý nhiều đến không gian đường rừng. Đây dường như là sự ảnh

hưởng từ truyện truyền kì, truyện đường rừng trong văn học truyền thống Việt

Nam. Chính điều này đã làm tăng thêm tính lãng mạn, chất kì ảo, hấp dẫn và

mang đặc điểm riêng của truyện trinh thám Việt Nam so với phương Tây. Đặc

trưng của không gian đường rừng trong truyện trinh thám không phải ở nét

thơ mộng, lãng mạn mà là những cảnh trí rùng rợn, u ám, lạ lẫm, bí ẩn, nhiều

bất trắc, thường là tai họa. Thế nên, trong các truyện trinh thám Việt Nam,

khung cảnh thường được mô tả bằng một cái nhìn đầy vẻ huyền bí. Không

gian ấy hứa hẹn nhiều thứ bất ngờ, những điều li kì, rùng rợn đến khó tin. Môi

trường tự nhiên hoang dã ở miền núi có tác dụng kích thích trí tưởng tượng,

khơi gợi cảm giác lo lắng pha lẫn thích thú của người đọc. Trong Vàng và

máu: “Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía cũng như các

ngày ủ dột âm u, Văn Dú lại hiện ra với một vẻ riêng oai linh và màu nhiệm

[…] họ còn sợ hãi Văn Dú như một vật có tri giác, có quyền phép làm hại

người […] ai nói tới Văn Dú là một sự gở lạ” [138, tr.19-20].

Truyện trinh thám Việt Nam có các yếu tố kì ảo, kinh dị, ma mị trong

xây dựng không gian nghệ thuật, trong miêu tả âm thanh, ánh sáng, v.v...

Điều này đã tạo được hiệu quả nghệ thuật cao trong việc tạo ra sự hồi hộp, lo

sợ, cảm giác rùng rợn, những cung bậc cảm xúc của người đọc. Bạn đọc sẽ

cảm thấy rùng rợn đến ớn lạnh khi âm thanh tiếng “còi…kia…” vọng đập vào

vách núi giữa nơi thâm u hoang vắng của núi rừng được phát ra từ người phát

hiện xác chết và chỉ tay về hình ảnh một xác chết treo cổ mặt thâm đen với

lưỡi thè ra thật kinh khủng trong Vàng và máu của Thế Lữ. Bạn đọc sẽ cảm

thấy quay cuồng, hoang mang, lo sợ với cảm giác bị rượt đuổi khi lọt vào mê

103

cung và không tìm ra lối thoát cùng với nhân vật Diên Vĩ, hay những âm

thanh lách cách trong hang động, hình ảnh con chó mực chết giữa đường

trong lúc chập choạng tối nơi núi rừng heo hút mà chồng Diên Vĩ lái xe va

phải trong Trại Hoa Đỏ của Di Li; cảm thấy sợ hãi với hình ảnh kẻ sát nhân

mặt nạ trắng thoắt ẩn thoắt hiện nơi miếu hoang cạnh nghĩa địa gắn với những

câu chuyện giết người báo thù nhiều kiếp trong Mặt nạ trắng của Kim Tam

Long; cảm thấy khủng khiếp, rùng rợn trước hình ảnh một thi thể cụt đầu và

một bộ não đỏ hon hỏn trong bể dung dịch thí nghiệm mà Giáo sư Tôn Thất

Sắc dẫn kẻ mặt nạ vào coi ở phòng thí nghiệm ngột ngạt thâm u trong Âm

mưu thay não của Giản Tư Hải; cảm thấy rùng mình trước căn bệnh lạ cướp

đi hình hài, sinh mạng của nhiều người trong Đảo bạo bệnh của Đức Anh,

v.v… Để cho câu chuyện li kì, làm tăng sự thu hút, hấp dẫn và gợi cảm giác

hồi hộp cho người đọc, tác giả truyện trinh thám Việt Nam sử dụng nhiều

không gian bóng tối, không gian bí ẩn, những âm thanh tạo cảm giác trong

nhiều tác phẩm. Đó là không gian rậm rạp nơi cửa hang tối om và âm thanh

tiếng những giọt nước tí tách nhỏ giọt vọng ngân trong hang Thần trên núi

Văn Dú (Vàng và máu); không gian dò xét của Lê Phong trong Mai Hương và

Lê Phong với “những căn buồng đóng ván lên tới trần, kín mít và tối om” hay

không gian sào huyệt của Đảng Tam Sơn với “một căn phòng kín đáo hiện

đang là nơi giam giữ Lê Phong” cùng tiếng “kẹt kẹt” của cánh cửa từ phòng

hầm này sang phòng hầm khác đầy vòng vo ngóc ngách; không gian mênh

mông hoang vu lặng lẽ trong đêm tối mờ ảo với những bóng người Mán lủi

thủi ẩn hiện ở Trại Hoa Đỏ khi gia đình Diên Vĩ về nghỉ cuối tuần nơi núi

rừng miền sơn cước trong Trại Hoa Đỏ của Di Li; không gian lắt léo, bí hiểm

trong Mật mã Champa của Giản Tư Hải; những không gian kì bí lúc tranh tối

tranh sáng nơi miếu hoang, nơi nghĩa địa trong series truyện trắng của Kim

Tam Long, v.v… Tất cả những không gian ấy được dựng nên bởi các nhà văn

104

trinh thám Việt Nam muốn tạo ra một sự bí hiểm khiến cho người đọc có cảm

giác hồi hộp, lo âu, sợ hãi, và cũng chính điều đó kích thích trí tò mò khiến

bạn đọc bị cuốn hút theo diễn biến câu chuyện.

Không chỉ là không gian nghệ thuật, các nhà văn trinh thám Việt Nam

còn chú ý đến việc xây dựng thời gian nghệ thuật rất hiệu quả: chủ yếu là thời

gian ban đêm, gắn thời gian khách quan với thời gian tâm lí để gợi cảm xúc

của các nhân vật. Đặc biệt, thời gian tâm lí không chỉ diễn tả sự hồi hộp chờ

đợi từng giây, từng phút của nhân vật mà nó khiến độc giả cũng hồi hộp, lo

lắng, ngóng chờ theo từng bước đi của thời gian. Thời gian ấy đã tạo nên kịch

tính để thu hút độc giả, khiến độc giả được sống với số phận, với tâm trạng và

diễn biến tâm lí của nhân vật. Bạn đọc có cảm giác thời gian chậm chạp trôi

trong sự nín thở, rón rén chờ đợi hung thủ xuất hiện như chính cảm giác của

Lê Phong chờ đợi hung thủ xuất hiện ở nhà thương Phủ Doãn trong truyện

của Thế Lữ, hay thời gian rất chậm diễn tả sự chần chờ của Phan Đăng Bách

khi chưa tìm được manh mối phá án trong Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7

của Di Li; thời gian gấp gáp, dồn dập như cuộc rượt đuổi của Lê Phong bám

theo Mai Hương trong Lê Phong phóng viên của Thế Lữ; hay thời gian nhanh

gấp trong Ổ buôn người và Âm mưu thay não của Giản Tư Hải, v.v…

Thủ pháp nghệ thuật xây dựng thời gian nghệ thuật độc đáo kết hợp với

bối cảnh không gian nghệ thuật độc đáo đã tạo ra một thế giới không-thời

gian cho nhân vật bộc lộ phẩm chất và tính cách, tạo nên kịch tính, gợi nên

những xúc cảm phong phú, đồng thời tạo nên một sức hút, sức lôi cuốn lớn

đối với bạn đọc.

3.3. Vấn đề hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật

Truyện trinh thám Việt Nam sử dụng nhiều yếu tố nghệ thuật để kích

thích sự tò mò, khát khao của độc giả cùng thám tử, người điều tra khám phá

những bí mật của vụ án và tạo được những hiệu ứng thẩm mĩ: người đọc được

105

giải toả tâm lí lo lắng, hồi hộp, sợ hãi; được thoả trí tò mò; được giải đáp

những hoài nghi ám ảnh; được sáng tỏ về nhận thức, v.v… Khi kết thúc

truyện trinh thám, bao giờ các nhà văn trinh thám cũng dùng sự duy lí và tư

duy logic của thám tử, người điều tra làm cơ sở để tìm ra thủ phạm, làm sáng

tỏ bí mật về vụ án. Điều đó khiến bạn đọc cảm thấy thỏa mãn khi nhu cầu

kiếm tìm sự thật của họ đã có kết quả: tìm ra được thủ phạm của vụ án và

những bí mật của câu chuyện được làm sáng tỏ. Những tình tiết li kì, tư duy

logic kết hợp với cách giải thích khoa học khiến cho các vụ án trong truyện

trinh thám Việt Nam lúc đầu tưởng như mơ hồ, khó hiểu và bế tắc nhưng về

sau lại được giải thích một cách hợp tình, hợp lí khiến người đọc phải thích

thú và thán phục. Như vậy, truyện trinh thám Việt Nam đã giúp bạn đọc thoả

mãn nhu cầu giải trí của mình.

Bản chất của con người luôn có tính hiếu kì, sự tò mò, muốn khám phá,

kiến tìm sự thật, kiếm tìm chân lí, khát vọng thực thi công lí. Bằng những yếu

tố đặc trưng thể loại và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, truyện trinh thám

Việt Nam bao giờ cũng đưa bạn đọc tham gia vào cuộc kiếm tìm sự thật, giải

mã những bí ẩn của vụ án bằng những suy luận logic, lí trí, khoa học và

thuyết phục. Ví dụ: kết thúc truyện Trại Hoa Đỏ của Di Li là tìm ra hung thủ

giết chết bao người lại là kẻ không ai ngờ tới, đó là Trần Hoàng Lưu chủ Trại

Hoa Đỏ, hắn gây án do sự tham lam, ích kỉ, muốn giữ bí mật xuất thân và mối

quan hệ gia đình đầy bi kịch và phức tạp của hắn; kết thúc Mặt nạ trắng của

Kim Tam Long là tìm ra hung thủ giết người lại là một bác sĩ rất giỏi tên

Hoàng, giải toả những nghi ngờ về lời đồn đoán ghê sợ về sự báo thù truyền

kiếp của nhân vật bí ẩn Mặt Nạ Trắng; kết thúc Đảo bạo bệnh của Đức Anh

tìm ra hung thủ giết chết cụ Lường chính là lão Sùng; trong nhiều truyện của

Thế Lữ: kết thúc Vàng và máu đã chỉ ra những cái chết của bao người ở hang

thần Văn Dú không phải do thần linh ma quái mà là do tội ác của bọn Tàu khi

106

chúng tẩm thuốc độc lên những viên đá đặt trong hang để giữ của mà chúng

vơ vét được của dân ta; Gói thuốc lá kết thúc là sự tìm ra kẻ giết Đường chính

là Thạc chứ không phải Nông An Tăng; Lê Phong đã tìm ra hung thủ giết Đào

Ngung chính là Lường-Duỳn (Lê Phong phóng viên); người giết chết Trần

Thế Đoàn chính là Lương Hữu (Lê Phong và Mai Hương), v.v… Như mọi

truyện trinh thám nói chung, truyện trinh thám Việt Nam cũng kết thúc bằng

sự tìm ra hung thủ gây án, tìm ra những điều bí mật về vụ án và kẻ gây án

phải chịu sự trừng trị. Điều đó đã làm thỏa mãn khát vọng khám phá, kiếm

tìm chân lí, kiến tìm sự thật và khát vọng thực thi công lí của bạn đọc.

Truyện trinh thám Việt Nam không chỉ thiên về lí trí mà còn hướng đến

khẳng định giá trị đạo đức, giá trị nhân văn, khẳng định công lí. Những khát

khao kiếm tìm sự thật của con người từ truyện trinh thám thực chất chính là

khát khao kiếm tìm bản chất của cái thiện và cái ác để từ đó thể hiện thái độ

đối với con người, đối với các hiện tượng trong đời sống xã hội. Kiếm tìm cái

thiện, cái đẹp để trân trọng, ngợi ca và tìm ra cái ác, cái xấu để phê phán, lên

án, trừng trị. Truyện trinh thám đã làm thỏa mãn bạn đọc khi họ kiếm tìm

được sự thực, kiếm tìm được chân lí để bộc lộ thái độ yêu-ghét; trân trọng,

ngợi ca hay lên án, phê phán một cách phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp

luật, v.v… Chính vì thế, truyện trinh thám thực sự có ý nghĩa tác động để lan

tỏa, phát triển giá trị nhân văn. Ngày nay người ta đặt ra nhiều vấn đề đối với

văn học về cái ác. Truyện trinh thám nói chung và truyện trinh thám Việt

Nam nói riêng là một thể loại tiêu biểu của văn học về cái ác. Giống như bi

kịch phản ánh về cái ác, kết thúc câu chuyện trong bi kịch cũng là những cái

chết, là sự thảm khốc, là những mất mát, đau thương của con người do cái

xấu, cái ác gây nên. Hiệu ứng thẩm mĩ mà truyện trinh thám tạo ra cũng như

hiệu ứng thẩm mĩ của bi kịch, hài kịch hay chính kịch là đều tìm ra cái xấu,

cái ác và cái thiện, cái chính nghĩa để mà lên án, tố cáo cái ác, cái xấu trong bi

107

kịch; để mà cất tiếng cười mỉa mai, chế giễu cái xấu, cái ác trong hài kịch; và

để khẳng định, ngợi ca điều chính nghĩa, ngợi ca cái đẹp, cái thiện, cái tốt

trong chính kịch. Trong truyện trinh thám, cái xấu, cái ác cuối cùng cũng phải

hiển lộ, hung thủ vụ án bao giờ cũng bị phơi bày, bị bắt, bị trừng trị, v.v…

Truyện trinh thám cũng giống như bi kịch, nó cho bạn đọc thấy rõ về cái xấu,

cái ác nhưng không phải để bi luỵ hay để làm theo hoặc ủng hộ, ngợi ca nó;

mà là để ghê sợ mà lên án, phê phán, tránh xa, loại trừ cái xấu, cái ác. Và như

vậy, truyện trinh thám cũng như bi kịch có ý nghĩa góp phần thanh lọc tâm

hồn con người.

Truyện trinh thám Việt Nam cũng có sự mở rộng biên độ đến với những

loại hình nghệ thuật khác. Trong nghệ thuật, sự giao thoa giữa các loại hình là

khá phổ biến: sự giao thoa giữa văn học với sân khấu, điện ảnh; giữa hội hoạ

với điêu khắc, kiến trúc; giữa thơ ca với âm nhạc, hội hoạ; giữa hội hoạ với

sân khấu; giữa điện ảnh với âm nhạc, v.v… Chỉ nói riêng về sự giao thoa giữa

văn học với điện ảnh, sân khấu, chúng ta cũng thấy rất nhiều tác phẩm văn

học nổi tiếng được chuyển thể, được dàn dựng thành những tác phẩm sân

khấu, điện ảnh kinh điển. Thậm chí có những tác phẩm văn học được chuyển

thể, được dàn dựng thành nhiều phiên bản điện ảnh, sân khấu, nhạc kịch; và

có những tác phẩm điện ảnh được chuyển thể từ một nhóm tác phẩm văn học.

Đồng thời, nhiều yếu tố của các loại hình nghệ thuật ấy cũng ảnh hưởng, được

sử dụng trong những tác phẩm văn học. Trên thế giới, những tác phẩm như

tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell; series truyện Sherlock

Holmes của Conan Doyle; tiểu thuyết Anna Karenina, Chiến tranh và hòa

bình của L.Tolstoy; tiểu thuyết Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov,

Lũ người quỷ ám của Dostoyevsky; tiểu thuyết Sông đông êm đềm, truyện vừa

Số phận con người của Sholokhov; tiểu thuyết Những người khốn khổ, Nhà

thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo; tiểu thuyết Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây

108

Du Ký của Ngô Thừa Ân, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Hồng

Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, v.v… được chuyển thể thành tác phẩm điện

ảnh kinh điển; nhiều vở kịch kinh điển của Molière, của Shakespeare được

dàn dựng thành các tác phẩm sân khấu nổi tiếng: Lão hà tiện, Người bệnh

tưởng, Đạo đức giả của Molière; Romeo và Juliet, Hamlet, Antony và

Cleopatra, Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành

Venice của Shakespeare. Ở Việt Nam cũng có nhiều tác phẩm điện ảnh được

chuyển thể từ tác phẩm văn học như: Mùa len trâu được chuyển thể từ truyện

ngắn cùng tên của Sơn Nam, Đêm hội Long Trì được chuyển thể từ tiểu

thuyết cùng tên của Nguyễn Huy Tưởng, Làng Vũ Đại ngày ấy được chuyển

thể từ 3 truyện Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao, Đảo của dân

ngụ cư được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Đỗ Phước Tiến, Đất

phương Nam được chuyển thể từ tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn

Giỏi, Vợ chồng A Phủ được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Tô Hoài, Tôi

thấy hoa vàng trên cỏ xanh được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của

Nguyễn Nhật Ánh, Xin hãy tin em được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của

Nguyễn Thị Thu Huệ, v.v… Nhiều tác phẩm sân khấu được dàn dựng và công

chiếu từ những tác phẩm văn học kịch như: Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta, Hồn

Trương Ba-Da Hàng Thịt, Lời thề thứ 9 của Lưu Quang; Trước giờ chiến

thắng, Chị Nhàn, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm; Quẫn, Đêm

trắng, Hội thề của Lộng Chương; Bạch đàn liễu của Xuân Trình; và gần đây

có một số tiểu thuyết của Nguyễn Thế Kỉ được chuyển thể thành kịch và một

số vở kịch của tác giả này được dàn dựng thành những vở diễn sân khấu như:

Chuyện tình Khau Vai, Hừng đông, 2 tập đầu tiểu thuyết Nước non vạn dặm:

Nợ nước non và Lênh đênh bốn biển, Thầy Ba Đợi, Hoa lửa Truông Bồn, Mai

Hắc Đế, Ngàn năm mây trắng, Gò Rồng Ấp, v.v…

109

Không nằm ngoài quy luật chung đó, nhiều tác phẩm văn học trinh thám

cũng được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh. Trên thế giới, có thể kể đến

một số phim trinh thám tiêu biểu được chuyển thể từ truyện trinh thám như:

phim Anh Sherlock dựa trên bộ truyện trinh thám nổi tiếng Sherlock Holmes

của Conan Doyle; phim Pháp The Innocent – Người vô tội được chuyển thể từ

tiểu thuyết Tell No One của Harlan Coben; phim Mĩ The Alienist – Nhà tâm

thần học dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Caleb Carr; phim Nhật Bản Hung

thủ giấu mặt được chuyển thể từ tiểu thuyết Phía sau nghi can X của Kaigo

Higashino; phim Trung Quốc Đề thi đẫm máu được chuyển thể từ tiểu thuyết

cùng tên của Lôi Mễ, v.v… Nhờ cốt truyện và những yếu tố mang đặc điểm

nghệ thuật điện ảnh trong những tác phẩm văn học đấy đã khiến các nhà làm

phim lựa chọn để chuyển thể và dàn dựng thành những bộ phim hay, hấp dẫn

người xem.

Do ra đời muộn và chịu sự tác động của hoàn cảnh lịch sử đất nước nên

truyện trinh thám Việt Nam tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng

thể loại này chưa có những tác phẩm kinh điển để dựng thành phim như

truyện trinh thám Anh, Pháp, Mĩ, Nhật Bản, Trung Quốc. Nói như vậy không

có nghĩa là truyện trinh thám Việt Nam không có sự kết nối với điện ảnh để

mở rộng biên độ. Tuy chưa nhiều nhưng cũng đã có một số truyện trinh thám,

truyện tình báo-phản gián nước ta được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh

khá thành công và hấp dẫn như: phim Ván bài lật ngửa được chuyển thể từ

tiểu thuyết cùng tên của Nguyễn Trường Thiên Lý; phim X.30 phá lưới được

chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Đặng Thanh, phim Ông cố vấn được

chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Hữu Mai, phim Chiến hạm nổ tung

được chuyển thể từ tiểu thuyết Câu lạc bộ chính khách của Lê Tri Kỷ; nhiều

phần trong loạt phim truyền hình Cảnh sát hình sự được chuyển thể từ tiểu

thuyết của Nguyễn Như Phong, Phùng Thiên Tân, Bùi Anh Tấn, Nguyễn

110

Đình Tú, Vũ Quang Vinh, Nguyễn Thanh Hoàng, Đào Trung Hiếu; gần đây

có phim Trại Hoa Đỏ của Victo Vũ được chuyển thể từ tiểu thuyết trinh thám

cùng tên của Di Li, v.v… Ở chiều ngược lại, nhiều đặc điểm của các thể loại

văn học khác, loại hình nghệ thuật khác đã được các tác giả trinh thám Việt

Nam sử dụng trong tác phẩm của mình: những âm thanh, tiếng động, bố cục

không gian, ánh sáng, v.v… đặc trưng của điện ảnh xuất hiện nhiều trong các

truyện trinh thám Việt Nam, nhờ đó làm tăng hiệu quả nghệ thuật, làm cho

truyện trinh thám trở nên gay cấn, tạo được sự hồi hộp, kịch tính, hấp dẫn

người đọc và thu hút sự quan tâm, chú ý của các nhà biên kịch, các đạo diễn

để chuyển thể và dàn dựng thành phim.

Trong mối quan hệ với những lĩnh vực nghệ thuật, những hoạt động văn

hoá, văn nghệ, một mặt, thể loại truyện trinh thám Việt Nam chịu sự tác động,

ảnh hưởng, tiếp thu từ các loại hình nghệ thuật và các hoạt động văn hoá, văn

nghệ để phát triển; mặt khác, nó cũng có tác động, ảnh hưởng trở lại, có ý

nghĩa đóng góp, thúc đẩy các loại hình nghệ thuật, các hoạt động văn hoá, văn

nghệ phát triển. Đây là những tín hiệu ban đầu về hiệu ứng nghệ thuật của

truyện trinh thám Việt Nam đối với các loại hình nghệ thuật, những hoạt động

văn hoá, văn nghệ nước ta những năm gần đây. Tuy chưa phải là phát triển

mạnh mẽ nhưng cùng với những tác phẩm trinh thám tiêu biểu đầu thế kỉ XX,

sự xuất hiện nhiều hơn giai đoạn trước những tác giả, tác phẩm trinh thám

Việt Nam trong những năm gần đây đã khiến cho hoạt động in ấn, xuất bản có

nhiều lựa chọn và bớt “yên ắng” hơn, có công ti sách lựa chọn phát triển

mảng sách trinh thám là một trong hai dòng sách chính trong chiến lược phát

triển kinh doanh của công ti mình như LinhLanbook. Hoạt động báo chí

truyền thông, lí luận, phê bình có thêm đề tài để khai thác: series truyện trinh

thám của Phạm Cao Củng được tái bản thành 1 bộ 5 cuốn; truyện trinh thám

của Di Li được tái bản mấy lần; khoảng 5 năm trở lại đây, Kim Tam Long cho

111

ra mắt liên tiếp 3 tác phẩm trinh thám; Giản Tư Hải xuất bản 5 tiểu thuyết

trinh thám, Đức Anh xuất bản 2 cuốn trinh thám, v.v… và đều được truyền

thông khá sôi nổi bằng sự kiện ra mắt sách và nhiều đài báo đưa tin; có những

bài lí luận phê bình về những tác giả, tác phẩm đó. Không những thế, những

truyện trinh thám Việt Nam ra đời và được xuất bản liên tiếp những năm gần

đây cũng tạo sự chú ý, tác động đến các lĩnh vực nghệ thuật như âm nhạc,

điện ảnh. Khi điện ảnh chú ý và khai thác truyện trinh thám Việt Nam để xây

dựng kịch bản và dựng thành phim thì nghệ thuật âm nhạc ở mảng nhạc phim,

nghệ thuật truyền hình cũng được xây dựng phát triển theo. Truyện trinh thám

Trại Hoa Đỏ của Di Li có hiệu ứng nghệ thuật đối với điện ảnh, tạo sự chú ý

của các nhà làm phim, được Victor Vũ kết hợp với Truyền hình kĩ thuật số trả

tiền K+ chuyển thể và dựng thành phim cùng tên, đã ra rạp tháng 7/2022, là

bộ phim có chất lượng, thu hút được khán giả. Như nhà văn Di Li giới thiệu

thì truyện trinh thám Hầm tuyết của chị cũng đã được K+ ký hợp đồng mua

bản quyền, đang chuyển thể kịch bản và sẽ dựng thành phim trong thời gian

tới, v.v… Đó là những ví dụ cho thấy những hiệu ứng nghệ thuật tích cực của

truyện trinh thám Việt Nam đối với các loại hình nghệ thuật khác; đối với các

hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật những năm gần đây.

Như vậy, truyện trinh thám Việt Nam đã có sự mở rộng biên độ, tạo

được hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật tích cực. Đây là một đặc điểm nghệ thuật

khá tiêu biểu, vừa cho thấy những đặc điểm chung của thể loại truyện trinh

thám vừa thể hiện đặc điểm riêng của truyện trinh thám Việt Nam.

Tiểu kết chương 3

Truyện trinh thám Việt Nam vừa mang bản chất, đặc trưng của thể

loại truyện trinh thám nói chung vừa mang những đặc điểm riêng của Việt

Nam. Trước hết, truyện trinh thám Việt Nam luôn mang những yếu tố đặc

trưng chung của thể loại: vụ án và quá trình điều tra vụ án là trung tâm của

112

cốt truyện; thám tử - người điều tra và thủ phạm gây án là nhân vật trung

tâm; sự suy lí theo logic khoa học là phương tiện để điều tra phá án, bí mật

vụ án được tìm ra; câu chuyện được kể một cách hấp dẫn, v.v…

Ngoài những yếu tố đặc trưng chung của thể loại, truyện trinh thám

Việt Nam có những đặc điểm riêng: có sự hỗn dung, giao thoa thể loại.

Trong truyện trinh thám Việt Nam có những yếu tố truyền kì, kinh dị,

đường rừng, kiếm hiệp, v.v... Các thủ pháp nghệ thuật mang những đặc

điểm riêng của truyện trinh thám Việt Nam: đề tài, cốt truyện, nhân vật,

không gian, thời gian nghệ thuật đều rất gần gũi, thuần Việt, phù hợp với

tâm lí tiếp nhận của độc giả Việt Nam. Nhờ những yếu tố đặc trưng thể loại

kết hợp với những đặc điểm riêng và sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hiệu

quả mà truyện trinh thám Việt Nam đã có hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật tích

cực, khẳng định được giá trị của thể loại trong nền văn học Việt Nam hiện

đại.

Giá trị riêng khác, độc đáo của truyện trinh thám Việt Nam chính là ở

thể loại này có sự kết hợp giữa dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện

đại. Đây cũng là cơ sở tạo nên sức sống, sự thu hút, hấp dẫn độc giả trong

nước của thể loại truyện trinh thám Việt Nam. Đồng thời, yếu tố hiện đại

vừa giúp truyện trinh thám Việt Nam bám sát với đời sống vừa là cầu nối

để thể loại này bắt nhịp với văn chương trinh thám hiện đại thế giới, cho dù

sự phát triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam so với truyện trinh

thám thế giới vẫn còn một khoảng cách khá xa.

113

Chương 4

XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN

CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Những yếu tố chi phối sự vận động và phát triển thể loại

4.1.1. Quan niệm mới về chức năng giải trí của văn học và nhu cầu

của công chúng hiện nay

Ngày nay, quan niệm mới về chức năng văn học đã trả lại cho văn học

một chức năng quan trọng nhưng bấy lâu bị lãng quên trong nghiên cứu văn

học: chức năng giải trí. Văn học không chỉ có chức năng giáo dục, chức năng

nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng giao tiếp, mà từ khởi thuỷ trong

văn học dân gian, văn học đã mang chức năng giải trí. Trong văn học viết tự

cổ chí kim, chức năng này của văn học cũng luôn luôn tồn tại, chỉ có điều

trước đây trong nghiên cứu văn học, nó chưa được gọi tên.

Thời trung đại, người ta quan niệm văn học chủ yếu là để nói chí, tỏ

lòng, giáo huấn đạo lí: “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí”. Về sau, trong

nghiên cứu lí luận văn học, người ta có nhấn mạnh đến các chức năng cụ thể

như: chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng giáo dục. Chức

năng giải trí của văn học dường như không được nhắc đến hoặc rất ít khi được

nhắc đến. Ngay trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, ở phần

Lí luận văn học, cũng không hề có chức năng giải trí của văn học, mà giới

thiệu các chức năng: 1) Chức năng nhận thức; 2) Chức năng giáo dục; 3)

Chức năng thẩm mĩ; 4) Chức năng giao tiếp.

Những năm gần đây người ta đã thừa nhận, gọi tên chức năng giải trí

của văn học một cách rõ ràng. Khi đó, giá trị giải trí của văn học được ghi

nhận và đề cao (như những chức năng khác). Và đương nhiên, một số thể loại

văn học được coi là có thế mạnh trong việc thực hiện chức năng giải trí, đem

114

lại giá trị giải trí đối với người đọc được quan tâm hơn, có điều kiện để phát

triển hơn, trong đó truyện trinh thám là thể loại tiêu biểu của văn học giải trí.

Về nhu cầu của công chúng hiện nay, truyện trinh thám đã có một lượng

độc giả khá lớn và ngày càng gia tăng. Họ bao gồm cả công chúng bạn đọc

giải trí lẫn người đọc nghiên cứu, phê bình. Đây là một yếu tố rất quan trọng

quyết định đến sự phát triển của thể loại. Bởi vì người đọc quyết định sự sinh

- tử đối với bất kì một thể loại văn học hay một tác phẩm văn học nào: tác

phẩm văn học ra đời mà không có bạn đọc thì tác phẩm ấy chỉ tồn tại dưới

dạng văn bản, không có sức sống. Nhà văn sáng tạo tác phẩm cũng nhằm

hướng đến phục vụ công chúng, nếu sáng tác ra tác phẩm mà không có công

chúng bạn đọc thì khái niệm “nhà văn” đó cũng sẽ không tồn tại. Hiện nay,

độc giả nước ta vẫn “có nhu cầu” đọc truyện trinh thám, và tất nhiên, trong đó

có truyện trinh thám Việt Nam.

Bằng sự nỗ lực và phát huy năng lực bản thân, các nhà văn trinh thám trẻ

Việt Nam đã biết tận dụng những lợi thế trong bối cảnh thời đại công nghệ

4.0 để đưa tác phẩm của mình đến bạn đọc một cách nhanh nhất, rộng nhất để

thu hút độc giả, họ kiến tạo và xác lập một thế hệ độc giả cho chính tác phẩm

của mình. Với tâm thế bình đẳng với công chúng văn học ngày nay, truyện

trinh thám trở thành một thể loại dễ kích thích bạn đọc trao đổi, thảo luận với

nhau. Và cũng từ nền tảng mạng xã hội, nhà văn có thể được nghe trực tiếp

nhiều tiếng nói phản biện, chia sẻ hoặc góp ý về nhiều khía cạnh của tác

phẩm: từ cách xây dựng nhân vật đến những tình tiết, từ cách “đánh lừa” độc

giả đến sự logic của câu chuyện, từ giọng văn và nhịp văn đến khả năng làm

tăng sự kịch tính trong truyện và tăng sự hồi hộp, xúc cảm cho người đọc,

v.v… Vì vậy, tận dụng lợi thế sự phát triển các mạng xã hội, nhiều hội nhóm

trên nền tảng công nghệ mạng xã hội có chung sở thích, có chung sự quan tâm

và có nhu cầu trao đổi, thảo luận, giới thiệu về truyện trinh thám được lập

115

nên. Trang trinh thám “https://trangtrinhtham.wordpress.com/” là của những

người thích truyện trinh thám giới thiệu truyện trinh thám mới theo các mục

rất phong phú: Đọc truyện trinh thám, Kho sách trinh thám, Trinh thám theo

nước, Trinh thám theo thể loại, Trinh thám theo đề tài, Sách đoạt giải thưởng,

Tác giả, Tác phẩm, v.v… Trang trinh thám này là trang mở, vì thế nó đã trở

thành một diễn đàn rộng, thu hút sự tham gia và tương tác sôi nổi của công

chúng bạn đọc yêu thích thể loại này. Đặc biệt, Nhóm Facebook Hội thích

truyện trinh thám có gần 40 nghìn thành viên là người Việt Nam tham gia; họ

trao đổi, thảo luận, giới thiệu, phê bình về truyện trinh thám. Sự tương tác

giữa các thành viên trong nhóm diễn ra thường xuyên, cập nhật, rất sôi nổi.

Có thể nói, họ là công chúng trung thành của truyện trinh thám nói chung và

truyện trinh thám Việt Nam nói riêng. Trên diễn đàn này, ngoài việc giới

thiệu những tác phẩm mà họ đã đọc, sự trao đổi, phê bình về tác giả, tác

phẩm, v.v… họ còn chia sẻ sự quan tâm, sự mong muốn, sự chờ đợi, sự khích

lệ, v.v… đối với truyện trinh thám nói chung và truyện trinh thám Việt Nam

nói riêng. Thông qua kênh tương tác này, các nhà văn cũng nắm bắt được nhu

cầu, thị hiếu của công chúng một cách cập nhật, kịp thời để có hướng đi phù

hợp trong quá trình sáng tạo tác phẩm trinh thám để phục vụ công chúng, qua

đó làm giàu thêm, nhiều hơn công chúng bạn đọc yêu thích tác phẩm của

mình, yêu thích truyện trinh thám. Chính lớp công chúng bạn đọc đông đảo đã

tạo ra hiệu ứng, kích thích các nhà văn sáng tác nhiều hơn, cho ra đời những

truyện trinh thám thuần Việt để trước hết phục vụ nhu cầu, thị hiếu của công

chúng trong nước.

Không những đọc sách trinh thám điện tử qua internet, trên những mạng

xã hội như facebook, zalo, hay những trang điện tử website, những blog,

v.v… hoặc những trao đổi, bình luận, chia sẻ trên những nền tảng công nghệ

này, lượng công chúng bạn đọc tiếp cận, đọc truyện trinh thám bằng cách đọc

116

truyền thống (đọc sách in) cũng rất đông đảo. Thông qua những trao đổi, giới

thiệu truyện trinh thám của thành viên các hội nhóm, các website, các blog,

v.v…; đông đảo độc giả yêu thích, say mê đọc truyện trinh thám bằng sách in,

thậm chí có nhiều người còn thích đọc và sưu tập sách trinh thám theo chủ đề,

theo tác giả, theo vùng địa lí. Gần 40 nghìn thành viên trong Nhóm facebook

Hội Thích truyện trinh thám là gần 40 nghìn độc giả trong nước trung thành,

yêu thích và thường xuyên đọc truyện trinh thám. Đây là số lượng không nhỏ,

là một lượng công chúng lớn có nhu cầu, có đòi hỏi, có chờ đợi, có thị hiếu

đọc truyện trinh thám, trong đó, họ có tình cảm và mong đợi nhiều ở truyện

trinh thám Việt Nam.

Hoạt động của các nhà sách, các nhà xuất bản hiện nay thực chất là hoạt

động kinh doanh sách. Để doanh thu có lãi, họ phải nắm bắt thị trường, nắm

bắt nhu cầu của bạn đọc đối với mỗi loại sách. Thậm chí, trước khi một ấn

phẩm sách được xuất bản để đưa ra thị trường, công tác truyền thông PR được

thực hiện khá bài bản trên các nền tảng công nghệ số. Thông qua đó, họ nắm

bắt, thống kê lượng khách hàng-độc giả để in ấn, xuất bản những loại sách

nào, cuốn sách nào đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của độc giả. Không phải ngẫu

nhiên mà trong những năm gần đây, các nhà xuất bản, các nhà sách, các công

ty sách đã xuất bản, đưa ra thị trường hàng trăm đầu sách trinh thám mỗi năm,

trong đó có truyện trinh thám Việt Nam. Điều đó cho thấy nhu cầu của bạn

đọc trong nước đối với truyện trinh thám ngày càng lớn, và cũng có nghĩa là

thể loại này đang thu hút được độc giả trong nước. Như một quy luật, có cầu

ắt có cung, độc giả có nhu cầu thì nhà xuất bản, nhà sách sẽ in và nhà văn sẽ

sáng tác để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của độc giả.

Không chỉ là độc giả thưởng thức thông thường, sách trinh thám còn thu

hút sự quan tâm của bạn đọc là công chúng làm nghiên cứu, phê bình. Họ là

đối tượng “độc giả tinh tuyển”. Những năm gần đây, truyện trinh thám đã

117

nhận được sự quan tâm ngày càng nhiều hơn của giới nghiên cứu, phê bình.

Họ có nhu cầu tìm đọc truyện trinh thám nói chung, trong đó không ít người

có nhu cầu đọc truyện trinh thám Việt Nam để thưởng thức và nghiên cứu,

phê bình. Lượng bài viết và các hoạt động nghiên cứu, phê bình truyện trinh

thám Việt Nam được đăng trên báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình; lượng

luận văn, luận án nghiên cứu về truyện trinh thám Việt Nam ngày càng xuất

hiện nhiều những năm gần đây. Không chỉ đọc, nghiên cứu tác phẩm mà

nhiều nhà nghiên cứu, phê bình còn thường xuyên giao lưu, tương tác, trao

đổi với các tác giả trinh thám trong nước. Thông qua đó, họ hiểu rõ hơn về tác

giả, tác phẩm, những thành tựu và hạn chế của thể loại này để hoạt động phê

bình được tích cực hơn, hiệu quả hơn. Và như thế, những độc giả này có tác

động trở lại rất mạnh mẽ đối với hoạt động sáng tác của các nhà văn trinh

thám Việt Nam. Đồng thời, thông qua sự tương tác đó, các nhà văn trinh thám

cũng nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của công chúng, những ý kiến của giới lí

luận, phê bình văn học, từ đó có thể có những điều chỉnh khi sáng tác những

tác phẩm mới nhằm nâng cao chất lượng sáng tác, đáp ứng được nhu cầu mới

của công chúng. Vì vậy, góp phần thúc đẩy sự phát triển thể loại này trong

dòng chảy văn học dân tộc.

Tuy nhiên, công chúng truyện trinh thám Việt Nam ngày nay cũng có

những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của thể loại. Mặc dù công chúng

độc giả truyện trinh thám ngày càng tăng lên trong những năm gần đây nhưng

so với công chúng của các thể loại văn học khác như truyện ngôn tình, truyện

viễn tưởng, truyện kiếp hiệp, v.v… thì lượng công chúng của truyện trinh

thám vẫn là ít; hơn nữa, trong số lượng công chúng còn ít đấy của thể loại

truyện trinh thám thì đa phần lại là công chúng độc giả yêu thích truyện trinh

thám nước ngoài. Điều này, ở một góc độ nào đó, nó vừa là động lực thúc đẩy

vừa là rào cản quá trình phát triển của truyện trinh thám Việt Nam. Nó là

118

động lực thúc đẩy sự phát triển của thể loại này khi các nhà văn trinh thám

Việt Nam nhìn thấy tiềm năng công chúng của thể loại nhưng còn nghiêng về

truyện trinh thám nước ngoài thì họ càng phải nỗ lực hơn trong sáng tạo để có

những tác phẩm hay, đủ sức thu hút công chúng yêu thích thể loại nghiên về

phía truyện trinh thám Việt Nam. Nó là rào cản khi lượng công chúng không

nhiều, họ lại luôn đối sánh với truyện trinh thám nước ngoài (những nước có

truyền thống và thế mạnh về thể loại này) thì rất có thể sẽ làm giảm ý chí, sự

đam mê và khát vọng của các nhà văn trinh thám Việt Nam. Với bất cứ thể

loại nào, thiếu độc giả thì thể loại đó cũng khó phát triển.

4.1.2. Sự đa dạng, phong phú của chất liệu đời sống

Trước hết, bản chất của truyện trinh thám là quá trình đi tìm thủ phạm

trong các vụ án và quá trình điều tra của thám tử - người điều tra để tìm ra

hung thủ và nguyên nhân, phương thức gây án. Trong khi đó, sự đa dạng,

phong phú của đời sống xã hội ngày nay đã trở thành chất liệu đời sống rất

phù hợp với đặc trưng thể loại, có thể trở thành những đề tài, chủ đề để các

nhà văn trinh thám khai thác, viết nên những tác phẩm trinh thám vừa mang

bản chất thể loại vừa mang những đặc điểm riêng Việt Nam. Không thể phủ

nhận đời sống xã hội nước ta ngày càng phát triển, nhưng đi cùng với nó cũng

còn không ít những bất cập, hạn chế, trong đó tình hình tội phạm còn nhiều và

diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi, đòi hỏi sự đấu tranh quyết liệt, mưu trí

và khôn khéo mới có thể làm giảm được những vụ án. Nhiều vụ án rất li kì, bí

ẩn, thủ phạm thực hiện hành vi gây án một cách tinh vi, không dễ gì đấu tranh

triệt phá được, và các vụ án diễn ra ở hầu khắp các lĩnh vực đời sống. Hằng

ngày hằng giờ chúng ta vẫn được tiếp nhận từ các phương tiện thông tin đại

chúng về những vụ giết người, cướp của, bạo hành và ngược đãi trẻ em, buôn

bán trái phép chất ma tuý, buôn bán người, buôn bán hàng lậu qua biên giới,

đòi nợ thuê, v.v… thậm chí còn xuất hiện nhiều vụ thảm sát xảy ra ở nhiều

119

địa phương mà chúng ta chỉ cần gõ từ khoá các vụ án này, ngay lập tức

Google sẽ cho ta kết quả thông tin về vụ án trên các phương tiện truyền thông

số: vụ án thảm sát cả gia đình một tiệm vàng ở Bắc Giang (2011), vụ con rể

giết cả nhà vợ ở Tiền Giang (2014), vụ thảm sát 4 người trên lán rừng ở Nghệ

An (2015), vụ thảm sát 6 người xảy ra ở Bình Phước (2015), vụ thảm sát 4

người ở Yên Bái (2015), vụ thảm sát 5 người ở Thái Nguyên (2019). Có thể

thấy thủ đoạn tinh vi và nhiều tình tiết rùng rợn trong vụ án đôi vợ chồng sát

hại, đốt xác chủ nợ ở Hải Dương năm 2020 là một minh chứng về sự dã man,

phức tạp của tình hình tội phạm hiện nay mà các nhà văn có thể khai thác để

Vào khoảng 9h sáng 28/11/2020, anh C. rời nhà, nói với gia đình đến nhà

Cao Tài Năng đòi nợ. Tại căn nhà số 126 Nguyễn Thượng Mẫn, phường

Bình Hàn, TP. Hải Dương, Năng bất ngờ từ phía sau dùng gậy gỗ đánh liên

tiếp nhiều nhát trúng đầu anh C. khiến nạn nhân chết tại chỗ […]. Ngay

trong đêm, hai vợ chồng dùng ô tô chuyển xác nạn nhân ra chôn ở bờ sông

Kim Sơn, thuộc khu 9, phường Thanh Bình, TP. Hải Dương mà Năng đã

đào sẵn hố từ chiều. Để tránh người khác phát hiện, Năng ra chỗ chôn xác

nạn nhân trồng cây để che dấu vết đào bới mới […]. Tối 8/2/2021, sau

nhiều tháng gây án, lo sợ bị người khác phát hiện thi thể, Năng cùng vợ

mua khoảng 6,5 lít xăng, đào xác nạn nhân lên chất củi, gỗ rồi châm lửa

đốt. Đốt xong, vợ chồng này bỏ tro, xương của nạn nhân vào túi nylon mang

vứt nhiều nơi để phi tang [109].

viết truyện trinh thám:

Nói như nhà văn trinh thám Di Li: “Tội ác ở Việt Nam ngày càng dày

đặc hơn, man rợ hơn, tinh vi hơn, nhưng lại vì những lí do ngày càng trở nên

giản đơn hơn. Đó là xu hướng tất yếu song hành cùng với sự phát triển của

dân số, đô thị và kinh tế. Những gì tôi viết trong tiểu thuyết chỉ đơn thuần

phản ánh hiện thực mà thôi” [100].

Nhiều vụ án điển hình với sự móc nối, câu kết của nhiều cá nhân, tổ

chức để thực hiện các hành vi phạm tội một cách tinh vi nhằm qua mắt các cơ

120

quan chức năng, nghiệp vụ xảy ra mấy năm gần đây cũng cho thấy sự phức

tạp của tình hình an ninh trật tự. Chỉ riêng các đại án kinh tế, tham nhũng gần

đây cũng có thể trở thành một đề tài hấp dẫn cho các tác giả trinh thám khai

khác để viết nên những tác phẩm hấp dẫn bạn đọc, như: vụ án Công ty Nhật

Cường, vụ án Công ty Việt Á, các vụ án xảy ra ở một số bệnh viện và nhiều

CDC các tỉnh/ thành phố, vụ án xảy ra tại một số đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh

Cảnh sát biển Việt Nam và Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, các vụ án liên

quan đến các tập đoàn: FLC, Tân Hoàng Minh; vụ án “Chuyến bay giải cứu”,

v.v… Tại phiên thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham

nhũng, tiêu cực nhằm kiểm điểm, đánh giá kết quả hoạt động năm 2021 và

Trong năm 2021, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tăng cường kiểm tra,

giám sát, thi hành kỉ luật đối với 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm

trái (tăng 132 đảng viên so với năm 2020).

Trong năm 2021, cả nước đã khởi tố, điều tra 390 vụ án/1.011 bị can về các

tội tham nhũng, chức vụ. Các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ

đạo, từ sau phiên họp thứ 19 đến nay, đã khởi tố 10 vụ án/40 bị can; kết

thúc điều tra 15 vụ án/150 bị can; truy tố 16 vụ án/164 bị can; xét xử sơ

thẩm 21 vụ án/179 bị cáo, xét xử phúc thẩm 13 vụ án/74 bị cáo [107].

cho ý kiến về chương trình công tác năm 2022 của Ban Chỉ đạo đã thông tin:

Chính tính chất hình sự (gắn liền với tội phạm, sự phạm tội và hình phạt)

của các vụ án đã là chất liệu đời sống phong phú, phù hợp với bản chất thể

loại truyện trinh thám, trở thành một yếu tố tác động khiến các nhà văn trinh

thám có thể khai thác để trở thành đề tài cho sáng tác của mình để phát triển

hơn nữa thể loại này ở nước ta.

4.1.3. Đội ngũ tác giả có đam mê, khát vọng

Một trong những yếu tố được coi là thuận lợi cho sự phát triển thể loại

truyện trinh thám ở Việt Nam là năng lực và khát vọng của đội ngũ tác giả trẻ

xuất hiện gần đây. Tạm gác lại những gì chưa làm được, chúng ta cũng cần

121

ghi nhận những nỗ lực, khả năng sáng tạo và khát vọng đưa truyện trinh thám

Việt Nam phát triển với những dấu ấn riêng của các nhà văn Việt Nam. Và

thực tế đã cho thấy những tác giả trinh thám Việt Nam đầu thế kỉ XXI đã có

những đóng góp đáng kể trong việc kế thừa trinh thám trong nước ở những

giai đoạn trước, kế thừa những yếu tố độc đáo trong văn học dân tộc, tiếp thu

và tiếp biến những thành tựu trinh thám các nước để tạo ra những tác phẩm

trinh thám thuần Việt, mang dấu ấn phong cách riêng của tác giả. Chúng ta

gặp một Di Li với trinh thám kinh dị đầy ma mị, đậm chất truyền kì trong

Trại Hoa Đỏ, nhưng lại mới mẻ, hiện đại trong Câu lạc bộ số 7; một trinh

thám Giản Tư Hải đầy huyền bí gắn với văn hoá cổ xưa trong Bí mật Chăm

Pa và Minh Mạng mật chỉ, Thiên địa Hội An Nam, nhưng lại đậm chất hiện

đại trong Ổ buôn người và nhất là Âm mưu thay não, đề cập đến vấn đề môi

sinh, dịch bệnh rất thời sự trong Đại dịch kép; một trinh thám Kim Tam Long

kinh dị và ma mị trong series “truyện trắng”: Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng,

Thảm kịch trắng; một trinh thám Đức Anh kì ảo, viễn tưởng trong Tường lửa,

Thiên thần mù sương, nhưng lại rất hiện thực và logic trong Đảo bạo bệnh;

một trinh thám Nguyễn Dương Quỳnh khá chặt chẽ và lớp lang về đề tài đồng

tính trong Thăm thẳm mùa hè, v.v… Họ là thế hệ nhà văn trẻ, có khả năng

tiếp cận công nghệ hiện đại, có năng lực ngoại ngữ nên dễ dàng tiếp cận cái

mới, nhiều người biết tiếp thu, vận dụng và tiếp biến cả những lí thuyết sáng

tác mới, hiện đại vào trong sáng tác, làm cho sáng tác của họ ngày càng trở

nên chuyên nghiệp.

Những điều trên đã thể hiện năng lực của các nhà văn trinh thám trẻ, họ

có thể tiếp tục làm đầy đặn thêm cho nền văn học trinh thám nước ta. Năng

lực của họ được xuất phát, được trau dồi từ khát vọng trong nghiệp viết của

họ. Họ là những nhà văn trẻ có niềm đam mê truyện trinh thám, dám vượt qua

những thử thách, có khát vọng cống hiến cho nền văn học nước nhà bằng

122

những tác phẩm trinh thám để làm đầy thêm, làm “hồi sinh” và tạo những dấu

ấn mới ở thể loại này.

Nhà văn Giản Tư Hải (sinh năm 1977, quê ở Thanh Chương - Nghệ An,

học Đại học Kiến trúc Hà Nội, sống và làm việc ở Trung Quốc, nhưng lại có

niềm đam mê viết truyện trinh thám) từng chia sẻ: “Với riêng tôi, văn học

trinh thám là niềm đam mê, nó kì bí và lôi cuốn tôi mãnh liệt. Sau này, nếu

viết đề tài khác như lịch sử, tình yêu hay thiếu nhi, thì tôi cũng phải lồng

trong một bộ khung trinh thám mới có cảm hứng để viết" [102].

Di Li (sinh năm 1978 tại Hà Nội, học Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và Đại

học Sư phạm Hà Nội, là giảng viên Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch

Hà Nội) cũng là người thích truyện trinh thám từ nhỏ. Niềm đam mê đọc

truyện trinh thám từ nhỏ đã dẫn cô đến viết truyện trinh thám, cô chia sẻ: “Từ

hồi nhỏ, tôi hầu như chỉ đọc thể loại giả tưởng và trinh thám luôn chiếm một

vị trí trang trọng trên giá sách của tôi. Một ngày nọ, tôi nghĩ rằng mình cũng

có thể viết một cuốn như vậy và tôi bắt tay vào thử thách mới. Cứ thế, thể loại

trinh thám cuốn hút tôi cho đến tận bây giờ” [103]; “Tôi viết trước tiên vì yêu

thích đã. Tôi tin rằng người ta không thể làm tốt công việc nếu không yêu

thích việc đó. Nếu bạn đến nhà tôi, sẽ thấy giăng hàng một giá sách “khủng”

là bộ sưu tập tất cả những tiểu thuyết trinh thám Đông, Tây, kim, cổ đã lọt

vào mắt tôi. Cho đến giờ tôi vẫn có cảm giác háo hức là đi cho nhanh, làm

cho mau xong việc để còn được đọc nốt cuốn trinh thám đang dang dở.

Không có thể loại văn học nào tạo được cho tôi cảm xúc đó ngoài truyện trinh

thám” [100]; “Văn học trinh thám ở Việt Nam đã có từ trước năm 45 nhưng

đấy mới là những tác phẩm sơ khai, mang âm hưởng khai mở. Tôi thích Vàng

và máu của Thế Lữ bởi một cảm xúc đặc biệt. Nhưng nó chưa đặc thù. Điều

đó cũng dễ hiểu thôi bởi vì Châu Á không phải nơi phát triển dòng văn học

trinh thám. Và người phương Tây có lợi thế khi khoa học hình sự của họ phát

123

triển hơn. Còn với riêng tôi, đây là một sở thích. Và thích đọc gì thì tôi cũng

thích viết thứ đó. Hi vọng góp phần làm cho văn học Việt Nam trọn vẹn hơn”

[50]. Sau thành công với Trại Hoa Đỏ, khi giới thiệu Câu lạc bộ số 7, Di Li

bày tỏ: “Tôi kì vọng nó vượt trội so với Trại Hoa Đỏ. Tôi không so sánh với

tác phẩm, tác giả nào trên thế giới cả. Mong độc giả đón nhận nó như một

bước tiến của tôi. Tôi đã đầu tư công sức trong 6 năm. Nếu Trại Hoa Đỏ là

một sự thử nghiệm thì với Câu lạc bộ số 7 tôi đã hình thành rõ rệt tư duy trinh

thám, dù chưa thực sự hài lòng sau khi viết xong” [50]. Để viết nên những tác

phẩm trinh thám, hình sự, Di Li đã vượt qua không biết bao nhiêu trở ngại:

"Từ một người lơ ngơ không biết gì về hình sự, tội phạm, tôi đã phải tìm đọc

rất nhiều tài liệu như những sinh viên Đại học An ninh và Cảnh sát. Thậm chí

tôi phải tìm mua những “phao thi ruột mèo nhỏ" ở các tiệm phô-tô gần trường

cảnh sát để tìm hiểu về những kiến thức mình cần biết. Đôi khi đọc cả 1.000

trang tài liệu chỉ để viết có 3 dòng. Đến bây giờ tôi có kiến thức giống như 1

bác sĩ pháp y” [216]. Rõ ràng, với những gì nhà văn chia sẻ và bằng thực tế

những sáng tác của mình, Di Li đã cho thấy sức sáng tạo, sự kiên trì, niềm

đam mê và khát vọng của cô dành cho thể loại trinh thám Việt là rất lớn.

Đức Anh (sinh năm 1993 tại Kostroma - Cộng hoà Liên bang Nga, sống

và làm việc tại Hà Nội) lại xác định rất rõ việc viết truyện trinh thám của

mình là đến với truyện trinh thám bằng con đường thuần Việt để rèn luyện

mình: “Tôi không nghĩ mình quá phù hợp với văn học trinh thám, tuy nhiên

đây là cơ hội để tôi rèn giũa khả năng kể chuyện và tìm một lối nhỏ đi vào

văn chương. Tường lửa tôi viết với ý thức muốn tạo ra một cái gì tương tự

Dennis Lehane, mà không cần phải vay mượn chi tiết nào […]. Tôi chịu ảnh

hưởng lớn của một nhà văn mới mất là Carlos Ruiz Zafon, người đã tạo ra

những tác phẩm trinh thám mà ngay cả những độc giả không bao giờ ưa văn

học trinh thám cũng yêu thích và thán phục. Nhiều người bảo tôi viết như văn

124

học dịch chính vì đây. Sau này nhờ các phản hồi, tôi nhận ra cần phải thuần

Việt hơn. Thật may tôi cũng có vốn đọc văn học Việt không quá tệ. Đọc nhiều

văn học Việt, tôi lại càng thấy con đường của tiếng Việt mới là đúng đắn”

[214]; “Tôi lựa chọn thể loại tâm lí hồi hộp. Việt Nam rất khó có những cảnh

đuổi nhau, bắn nhau ầm ầm như trinh thám Mĩ. Khi đã chọn được thể loại, tôi

sẽ tìm các tác giả gây cảm hứng cho mình. Tôi chịu ảnh hưởng của Melinda

Leigh hay Dennis Lehane. Chúng ta đã biết tới Dennis Lehane qua một số tác

phẩm như Đảo kinh hoàng đã được chuyển thể thành phim. Ngoài ra, có một

số tác phẩm khác dạy cho tôi cách đan xen thời gian trong các cảnh, ví dụ

Jeffery Deaver, còn một số tác giả khác lại dạy cho tôi cách xây dựng nhân

vật thám tử như là Robert Dugoni” [77].

Là người ít “tuyên ngôn nghệ thuật” khi viết truyện trinh thám, ít nói về

quá trình sáng tác và những tác phẩm trinh thám của mình nhưng Kim Tam

Long đã cho thấy sự “bén duyên” một cách tình cờ với truyện trinh thám và

đã theo đuổi nó với mong muốn tạo được dấu ấn đậm nét trong trinh thám

Việt. Bằng một series “truyện trắng” liên tiếp ra mắt bạn đọc trong một thời

gian ngắn gần đây, từ năm 2018 đến nay, cứ cách một năm thì tác giả này lại

cho ra đời một truyện trinh thám (Mặt nạ trắng, 2018; Ẩn ức trắng, 2020;

Thảm kịch trắng, 2022), đang viết truyện trinh thám kinh dị Bí ẩn đêm trăng

huyết, đã cho thấy niềm đam mê theo đuổi thể loại này của nhà văn.

Nhà văn Nguyễn Xuân Thủy, sinh năm 1977 tại Phú Thọ, là tác giả của

tiểu thuyết Sát thủ Online – tác phẩm đoạt Giải A cuộc thi của Bộ Công an, đã

được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập cùng tên, phát sóng trên

VTV3. Mới đây nhất, anh đã tiếp tục trở lại với đề tài tâm lí hình sự bằng tiểu

thuyết Có tiếng người trong gió, cuốn sách vừa ra mắt đã gây chú ý bởi giọng

văn kể chuyện và lần đầu tiên nạn mổ sống cướp tạng được đưa vào tiểu

thuyết Việt Nam. Nguyễn Xuân Thuỷ tâm sự: "Tôi hay đi các nhà tù, trại

125

giam để tìm ra những cốt truyện, ở những nơi đó tôi chứng kiến nhiều cảnh

rất xót xa, nhìn những em nhỏ vị thành niên đeo cặp kính cận kể về hành động

phạm tội của mình rất hồn nhiên – “Sống trong thế giới ảo, giết người ở thế

giới thật”. Tôi luôn muốn tìm kiếm sự thánh thiện trong sâu thẳm của mỗi con

người, dù họ là tội phạm giết người" [216]. Nguyễn Xuân Thủy cũng là nhà

văn trăn trở đào xới những hiện thực xã hội nhức bỏng đang là tâm điểm chú

ý của cộng đồng. Trong Sát thủ Online và Có tiếng người trong gió, thủ pháp

khai thác tâm lí nhân vật được coi là điểm mạnh của tác giả. Nguyễn Xuân

Thủy khẳng định: “Viết tiểu thuyết trinh thám hình sự cũng giống như việc

anh phải làm “thám tử” cho chính những trang viết của mình” [216].

Nhà văn Nguyễn Đình Tú là tác giả của 3 tiểu thuyết hình sự trong số

hơn chục đầu sách đã phát hành: Hồ sơ một tử tù (được chuyển thể thành 11

tập phim trong series Cảnh sát hình sự), Phiên bản (được chuyển thể thành

phim nhựa Hương Ga) và mới đây nhất là Cô Mặc Sầu. Anh từng được báo

chí gọi là "nhà văn của dòng tiểu thuyết tội phạm học". Theo anh, tác phẩm

trinh thám là sự hư cấu dựa trên các nhân vật ngoài đời: "Nhà văn phải có sự

sáng tạo trong tác phẩm để nhân vật ngoài đời trong truyện vừa có những nét

tương đồng lại vừa có nét khác lạ. Nhà văn luôn dựa trên những nhân vật có

thật để hư cấu nên những câu chuyên […] Tôi yêu thích các hoạt động phòng

chống tội phạm nói chung, công việc phá án nói riêng, bởi nó hội tụ đủ các

yếu tố thiện - ác, tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, anh hùng, bội phản, hỉ, nộ, ái, ố,

v.v... của cuộc đời, xét cho cùng đó chính là những mối quan hệ cốt lõi mà

muôn đời con người và văn học quan tâm. Với một nhà văn chuyên nghiệp thì

mọi đề tài chỉ là cái cớ để họ cầm bút trải lòng mình về cuộc đời này thôi”

[216]…

Qua đó có thể thấy, ngoài năng lực, phẩm chất, sự hiểu biết, trình độ

ngoại ngữ làm nên năng lực nhà văn, các nhà văn trinh thám Việt Nam hiện

126

nay còn có những khát vọng, niềm say mê với thể loại này. Đây là một tiền

đề, một yếu tố quan trọng góp phần tác động đến sự phát triển thể loại truyện

trinh thám Việt Nam.

Tuy nhiên, mặc dù đội ngũ sáng tác truyện trinh thám ở Việt Nam hiện

nay có nhiều hơn so với giai đoạn trước, họ có năng lực, có đam mê và khát

vọng nhưng nhìn chung vẫn còn thưa mỏng; đối với một số tác giả, viết trinh

thám vẫn là quá trình dò đường. Đa số các tác giả trinh thám Việt Nam hiện

nay là những tác giả trẻ, sự trải nghiệm còn ít; vốn sống và tri thức về pháp y,

pháp lí, hình sự, tội phạm học, tâm lí học có phần còn hạn chế; họ không

mạnh về tư duy logic, tư duy duy lí, v.v... mà thể loại truyện trinh thám lại

luôn đòi hỏi điều đó, coi đó là những yếu tố hàng đầu để viết được tác phẩm

trinh thám thành công, hấp dẫn. Đây là rào cản không nhỏ đối với việc thực

hiện đam mê và khát vọng sáng tác của các nhà văn trinh thám Việt Nam hiện

nay. Không những thế, đối với các nhà văn trinh thám Việt Nam, việc Việt

hóa một thể loại văn học thế mạnh của phương Tây là một việc làm không hề

dễ. Mà nếu không Việt hóa được thì truyện trinh thám Việt Nam sẽ trở nên

mờ nhạt, vừa thiếu hấp dẫn vừa thiếu bản sắc riêng, không thể phát triển và

hội nhập với truyện trinh thám thế giới.

4.1.4. Sự phát triển của báo chí, kênh phát hành và một số loại hình

nghệ thuật gần gũi với truyện trinh thám

Ngày nay, báo chí, truyền thông phát triển nên bất kì một sự kiện nào,

thậm chí là đa số sự việc diễn ra trong đời sống xã hội đều được phản ánh một

cách nhanh nhạy; trong đó, các sự kiện văn hoá, văn học, nghệ thuật cũng

được phản ánh đậm nét. Sự phát triển của báo chí, truyền thông có sức tác

động mạnh mẽ đối với đời sống xã hội nói chung và đối với văn học nói

riêng, trong đó có truyện trinh thám.

127

Sự phản ánh cập nhật của báo chí về những vụ án có thể là một nguồn

thông tin hữu ích để các nhà văn hình thành ý tưởng viết truyện trinh thám

của mình. Sự phản ánh của báo chí về các sự kiện ra mắt sách trinh thám, toạ

đàm hay hội thảo về truyện trinh thám diễn ra trong thời gian vừa qua tạo sự

chú ý nhiều hơn của công chúng đến thể loại này.

Tác phẩm truyện trinh thám và những bài viết lí luận, phê bình về thể

loại truyện trinh thám nói chung, truyện trinh thám Việt Nam nói riêng được

giới thiệu, được in trên báo, tạp chí là nguồn cổ vũ, khích lệ các nhà văn Việt

Nam viết truyện trinh thám.

Trong thời đại giao lưu và hội nhập quốc tế, thời đại công nghệ thông tin

phát triển, thời đại số với sự bùng nổ thông tin, nhiều ứng dụng của công nghệ

4.0 được phát huy ở tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong điều kiện đó,

tác phẩm văn học nói chung và truyện trinh thám nói riêng, và đương nhiên

có cả truyện trinh thám Việt Nam, chưa bao giờ có kênh phát hành đa dạng

như hiện nay. Ngoài những kênh in ấn và phát hành truyền thống (sách giấy),

các nhà văn viết truyện trinh thám Việt Nam đã biết sử dụng các nền tảng

công nghệ để phát hành những tác phẩm của mình, khiến những truyện trinh

thám Việt Nam đến với bạn đọc một cách nhanh chóng, rộng rãi và phần nào

tạo được “hiệu ứng” tiếp nhận của bạn đọc: những tác phẩm trinh thám Việt

Nam được số hoá, được xuất bản thành sách điện tử (ebook), được phát hành

trên các trang mạng xã hội như facebook, zalo, tiktok, hay trên các trang web

(website) khá phổ biến. Nhờ những hình thức phát hành hiện đại này, nhiều

kênh phát hành còn có khả năng cho phép bạn đọc và nhà văn tương tác trực

tiếp với nhau; bạn đọc có thể trao đổi, góp ý với nhà văn về nội dung và nghệ

thuật tác phẩm, giúp nhà văn cập nhật được nhu cầu, thị hiếu thẩm mĩ của

công chúng để có thể điều chỉnh cách viết sao cho phù hợp với thị hiếu công

chúng, làm cho tác phẩm hay hơn, hấp dẫn hơn; cho phép bạn đọc có thể tham

128

gia đồng sáng tạo vào tác phẩm; cho phép tác phẩm được “đẩy” vào những tài

khoản công nghệ để tăng lượng bạn đọc, để giới thiệu và kích thích bạn đọc

tiếp nhận tác phẩm truyện trinh thám, v.v... Đây cũng là một nhân tố quan

trọng thúc đẩy sự phát triển của văn học nói chung, nhất là đối với thể loại

truyện trinh thám Việt Nam nói riêng.

Tuy nhiên, mặc dù kênh phát hành ngày nay khá đa dạng, phong phú

trên các nền tảng công nghệ nhưng về cơ bản đó là những kênh phát hành trên

các ứng dụng mạng xã hội, không chính thống. Những kênh này ít mang đến

thu nhập cho tác giả và nhà văn ít có điều kiện vật chất để tái sáng tạo. Những

kênh, những đơn vị xuất bản, phát hành chính thống thì lại rất khắt khe, họ

dựa vào nhiều tiêu chí để xuất bản, phát hành một tác phẩm trinh thám, như:

dựa vào khả năng đem lại doanh thu từ tác phẩm đem lại, mà thị hiếu và nhu

cầu công chúng sẽ quyết định lượng sách trinh thám được bán và đem lại

doanh thu cho các đơn vị xuất bản, trong khi tâm lí, văn hóa, thị hiếu, nhu cầu

của công chúng trong nước nhiều khi không dễ tiêu thụ, tiếp nhận tác phẩm

văn học mà họ cho là “ngoại lai” hoặc do cách viết táo bạo, mới mẻ kiểu

phương Tây. Ví dụ, nhà văn trẻ Nguyễn Dương Quỳnh đã từng chia sẻ quá

trình tìm “bà đỡ” cho truyện trinh thám đầu tay Thăm thẳm mùa hè của cô:

“Nhà văn Việt Nam gặp bất lợi nhiều hơn các nhà văn nước ngoài. Trong khi

xuất bản cuốn trinh thám đầu tiên, mình đã gặp nhiều nhà xuất bản. Trong đó

có một nhà xuất bản đã nói với mình là mặc dù bản thảo này, bạn biên tập rất

thích nhưng vì nó máu me nên khó mà xuất bản được. Đối với nhà văn nước

ngoài, viết như thế này không sao nhưng nhà văn Việt Nam thì sẽ có vấn đề”.

Chỉ khi nào tác phẩm truyện trinh thám Việt Nam thực sự hay, vừa mới mẻ,

hiện đại vừa gần gũi, thuần Việt thì công chúng Việt Nam mới sẵn sàng đón

nhận, và khi đó các đơn vị xuất bản mới sẵn sàng xuất bản và phát hành. Rõ

ràng, truyện trinh thám Việt Nam đã gặp những khó khăn nhất định trong xuất

129

bản, phát hành. Đây cũng là một rào cản làm cho các nhà văn trinh thám nếu

không thực sự say mê và quyết tâm thì sẽ khó theo đuổi sáng tác ở thể loại

này.

Các loại hình nghệ thuật luôn có sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn

nhau. Những năm gần đây, sự phát triển của các loại hình nghệ thuật gần gũi

như sân khấu, điện ảnh, truyền hình, v.v… cũng có tác động không nhỏ đến

thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam, đặc biệt là sự phát triển của điện ảnh.

Nhu cầu giải trí của khán giả bằng phim điện ảnh và phim truyền hình ngày

càng nhiều, trong đó có nhu cầu về phim trinh thám, hình sự. Các cơ quan

quản lí nhà nước về điện ảnh, truyền hình như Cục Điện ảnh thuộc Bộ Văn

hoá, Thể thao và Du lịch, Hiệp hội Điện ảnh Việt Nam cũng đặt ra mục tiêu

phát triển nền công nghiệp điện ảnh nhằm vừa phát triển nền điện ảnh trong

nước, vừa phát triển kinh tế dựa vào nền điện ảnh “made in” Việt Nam. Nhu

cầu về kịch bản phim đã đặt ra những đòi hỏi mới đối với văn học, trong đó

có đặt ra những đòi hỏi ở thể loại trinh thám: truyện trinh thám trở thành một

đối tượng quan tâm, tìm kiếm của các đạo diễn để chuyển thể thành phim

trinh thám, hình sự. Gần đây, một số phim cảnh sát hình sự được chuyển thể

kịch bản từ những tác phẩm trinh thám hình sự. Bộ Công an cũng thường

xuyên tổ chức cuộc thi sáng tác về đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc

sống thu hút được sự tham gia của nhiều nhà văn với nhiều tác phẩm, trong đó

có những tác phẩm trinh thám hình sự đoạt giải đã được chuyển thành thành

những bộ phim truyền hình hay, hấp dẫn khán giả; tiểu thuyết Sát thủ Online

của Nguyễn Xuân Thủy là tác phẩm đoạt Giải A cuộc thi, đã được chuyển thể

thành phim truyền hình dài tập cùng tên, phát sóng trên VTV3. Đặc biệt, tiểu

thuyết trinh thám Trại Hoa Đỏ của Di Li đã được đạo diễn Victo Vũ chuyển

thể và dựng thành phim truyền hình cùng tên, dài 8 tập, bắt đầu lên sóng độc

quyền trên kênh K+ trong năm 2022; tiểu thuyết trinh thám Câu lạc bộ số 7

130

của nhà văn Di Li mới được tái bản lần 3 và cũng đã được K+ mua bản quyền

để dựng thành phim, dự kiến sản phẩm phim Câu lạc bộ số 7 sẽ lên sóng vào

cuối năm 2023 – đầu năm 2024. Thậm chí tác giả Di Li còn được đặt hàng

viết tiểu thuyết trinh thám Hầm tuyết và cô cũng đã bán xong bản quyền ngay

từ khi viết chương đầu tiên để chuyển thể và dựng thành phim, v.v… Đó là

những minh chứng cho thấy sự phát triển của ngành công nghiệp văn hoá nói

chung, công nghiệp điện ảnh nói riêng đã có tác động trực tiếp, thúc đẩy sự

phát triển của thể loại truyện trinh thám ở nước ta.

Ở thời đại phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kĩ thuật, giao lưu

và hội nhập quốc tế ngày nay, ngành công nghiệp văn hoá được quan tâm và

đầu tư phát triển để góp phần quan trọng vào việc xây dựng đời sống văn hoá,

kinh tế, xã hội, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân.

Trong xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá, các loại hình nghệ

thuật có xu hướng liên kết chặt chẽ, góp phần thúc đẩy nhau cùng phát triển.

Nhiều sản phẩm văn hoá được xây dựng trên cơ sở kết hợp sáng tạo nhiều loại

hình nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, mĩ thuật, hội hoạ, văn học, v.v… Do

đó, sự phát triển của công nghiệp văn hoá giải trí đã trở thành tiền đề, động

lực phát triển của thể loại truyện trinh thám – một loại hình văn học có thế

mạnh về thực hiện chức năng giải trí – để thể loại này tham gia vào chuỗi sản

xuất, cung ứng sản phẩm công nghiệp văn hoá giải trí, góp phần phát triển

kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Đón bắt cơ hội này, một số nhà văn

trinh thám đã liên kết với một số cá nhân, tổ chức, đơn vị để viết, phát hành,

đưa tác phẩm trinh thám của mình vào quá trình sản xuất, cung ứng đó; thậm

chí nhận đặt hàng tác phẩm trinh thám để cung cấp cho các đối tác sản xuất

sản phẩm công nghiệp văn hoá là những bộ phim trinh thám, hình sự. Sự liên

kết giữa nhà văn trinh thám Di Li và những bản hợp đồng với các nhà sách,

các đơn vị in, phát hành truyện trinh thám, với các nhà làm phim, với đơn vị

131

sản xuất phim về bản quyền tác phẩm trinh thám để tạo ra những bộ phim

trinh thám, hình sự ăn khách, hấp dẫn người đọc, người xem như trên đã nói

là một ví dụ tiêu biểu về tiềm năng và chiều hướng phát triển của thể loại

truyện trinh thám Việt Nam.

4.1.5. Sự giao lưu, hội nhập quốc tế

Như ở những phần trên đã trình bày, sự ra đời truyện trinh thám Việt

Nam đầu thế kỉ XX, về bản chất, là kết quả của sự tiếp xúc, giao lưu, tiếp thu,

tiếp biến văn hoá, văn học trinh thám phương Tây kết hợp với sự phát huy

truyền thống văn hoá, văn học phương Đông và truyền thống văn hoá, văn

học trong nước. Cái nôi của thể loại trinh thám hiện đại là phương Tây, thể

loại này xuất hiện và trở thành trào lưu văn học trên thế giới trước khi nó ra

đời ở nước ta hàng thế kỉ. Nhờ có truyện trinh thám của các nước từ thế kỉ

XIX mới có truyện trinh thám Việt Nam ở đầu thế kỉ XX. Như thế, sự ra đời

truyện trinh thám Việt Nam là kết quả của sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá, văn

học phương Tây, dù là bằng con đường tự nguyện hay cưỡng bức.

Ngày nay, thể loại truyện trinh thám vẫn đang phát triển mạnh ở các

nước phương Tây như: Anh, Mĩ, Pháp; hay ở các nước châu Á như: Nhật,

Trung Quốc, v.v… Trong bối cảnh giao lưu hội nhập quốc tế của Việt Nam

ngày càng sâu rộng, nhiều truyện trinh thám kinh điển nước ngoài trước đây

có điều kiện thuận lợi để được in, tái bản ở nước ta, và đặc biệt là nhiều tác

phẩm trinh thám mới của các tác giả đương đại ra đời, được in và quảng bá

mạnh mẽ ở Việt Nam. Chính sự giao lưu hội nhập quốc tế của nước ta hiện

nay là điều kiện rất thuận lợi để các nhà văn Việt Nam một lần nữa được trao

đổi, kế thừa, tiếp thu và tiếp biến những tinh hoa văn học trinh thám hiện đại

của các nước để viết nên những tác phẩm trinh thám vừa hiện đại vừa mang

bản sắc Việt Nam. Đồng thời, không khí “nhộn nhịp” của truyện trinh thám

các nước đã tạo được hiệu ứng, sức tác động mạnh mẽ, tạo cảm hứng và khơi

132

dậy khát vọng sáng tạo cho các nhà văn trinh thám Việt Nam: mong muốn

sáng tạo được những tác phẩm trinh thám hay, vừa để khẳng định sự đóng

góp của thể loại vào tiến trình phát triển của văn học nước nhà, vừa để tạo ra

các tác phẩm trinh thám Việt Nam đủ sức vươn ra ngoài lãnh thổ để hoà nhập

vào nền văn học trinh thám thế giới. Cho dù chưa biết khi nào chúng ta mới

sáng tạo được những tác phẩm trinh thám Việt Nam đủ giá trị để sánh vai, hoà

cùng nền trinh thám thế giới nhưng những mong muốn, những khát vọng đó

của các nhà văn trinh thám Việt Nam là cần thiết, là tiền đề cho một thể loại

văn học phát triển.

Có thể nói, hiện nay, với tinh thần đổi mới và hội nhập, một mặt, chúng

ta đã hội nhập với văn học thế giới; mặt khác, chúng ta có điều kiện thuận lợi

trong việc nghiên cứu, dịch thuật, tiếp thu, vận dụng các lí thuyết nước ngoài

vào Việt Nam. So với những thời kì trước, chúng ta có cơ hội để tiếp xúc, tiếp

thu đầy đủ hơn, hệ thống hơn các lí thuyết văn học nước ngoài, nhất là các lí

thuyết ở các nước Âu - Mĩ hiện đại, tạo nên sự phong phú, đa dạng cho hệ

thống lí thuyết văn học, nghệ thuật ở Việt Nam. Trong khi đó, đội ngũ sáng

tác truyện trinh thám hiện nay có khả năng ngoại ngữ, có tư duy hiện đại nên

họ ngày càng chuyên nghiệp trong sáng tác, họ biết tiếp nhận những lí thuyết

sáng tác và vận dụng nó vào trong quá trình sáng tác của mình. Chính những

lí thuyết sáng tác hiện đại, hậu hiện đại đã cho phép các nhà văn trinh thám

Việt Nam có những cách lí giải vấn đề mới mẻ, hiện đại, phi truyền thống mà

vẫn thuyết phục, vẫn hấp dẫn được bạn đọc ngày nay. Và chính sự tiếp thu,

vận dụng các lí thuyết văn học hiện đại, hậu hiện đại có thể sẽ giúp cho truyện

trinh thám Việt Nam vừa mang bản sắc dân tộc vừa hiện đại, vừa góp phần

hiện đại hoá văn học nước nhà vừa đưa thể loại này đến gần hơn với nền văn

học trinh thám thế giới.

133

Mặc dù vậy, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập văn hóa, văn học, nghệ

thuật ngày nay, truyện trinh thám Việt Nam chịu sự cạnh tranh của nhiều thể

loại văn học, nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều hình thức giải trí khác, và với

chính truyện trinh thám nước ngoài. Công chúng tiếp nhận văn học, nghệ

thuật với nhiều mục đích khác nhau: từ nhu cầu giải trí đến nhu cầu nhận

thức, nghiên cứu, v.v… và họ có nhiều lựa chọn đối tượng thưởng thức để

đáp ứng nhu cầu của bản thân. Thị trường văn học rất đa dạng và phong phú

về thể loại, cả văn học trong nước và văn học nước ngoài; chỉ tính riêng văn

xuôi thì công chúng cũng có quá nhiều tác phẩm thuộc đủ các thể loại để lựa

chọn: từ truyện lịch sử, truyện dã sử đến truyện kinh dị, truyện tâm linh; từ

truyện ngôn tình, truyện võ hiệp đến truyện tâm lí, truyện hình sự, v.v… Ngay

ở thể loại truyện trinh thám thì chúng ta cũng thấy truyện trinh thám nước

ngoài tràn ngập trên kệ của các nhà sách. Cùng với văn học, nhiều loại hình

nghệ thuật phát triển nhanh chóng và hiện đại, dễ tiếp nhận; nhiều hình thức

giải trí hấp dẫn đối với công chúng, nhất là lớp công chúng trẻ. Phim điện ảnh

phong phú, đa dạng thể loại, đề tài, cả phim trong nước và phim nước ngoài

được phổ biến rộng rãi từ rạp chiếu phim đến các nền tảng ứng dụng, phim

được phổ biến thông qua các nhà phát hành phim trên các nền tảng ứng dụng

trực tuyến như Netflix, Amazone, Disney, Pops, iQiyi, v.v... Âm nhạc cũng

đủ thể loại: từ nhạc dân gian, nhạc đồng quê đến những thể loại hiện đại du

nhập như Pop, Rock, Jazz, Blues, Dance, v.v… mà công chúng có thể thưởng

thức ở mọi lúc, mọi nơi: từ nhà hát đến các sân khấu ngoài trời, trên các nền

tảng công nghệ số trực tuyến; từ những đĩa nhạc đến các file lưu phát trên

máy tính hay qua USB hoặc các chương trình âm nhạc trên truyền hình.

Những game show giải trí xuất hiện dày đặc trên các đài truyền hình từ trung

ương đến địa phương. Có thể nói, để giành được công chúng cho truyện trinh

thám Việt Nam trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế, có sự cạnh tranh

134

khốc liệt với truyện trinh thám nước ngoài, với các thể loại văn học khác, với

các loại hình nghệ thuật khác và với các hình thức giải trí khác, v.v… là điều

rất khó khăn và không phải nhà văn trinh thám Việt Nam nào cũng đủ sự kiên

trì, nhẫn nại, nỗ lực, say mê, yêu thích và trường sức theo đuổi thể loại sáng

tác truyện trinh thám để góp phần vào sự phát triển thể loại này trong tương

lai.

4.2. Xu hướng vận động, phát triển của thể loại

Văn học luôn có quy luật vận động của nó. Thời đại nào thì văn học đấy.

Đối với mỗi thể loại văn học cũng vậy, nó chịu ảnh hưởng từ sự vận động

khách quan của bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hoá, văn học của thời đại, của

dân tộc. Truyện trinh thám Việt Nam đã phát triển qua các giai đoạn với

những bước thăng trầm, vận động, biến đổi trong nền văn học Việt Nam hiện

đại. Trên cơ sở tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình vận động, phát

triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam hiện nay, khảo sát thể loại

truyện trinh thám Việt Nam với những tác giả, tác phẩm trinh thám đương đại

tiêu biểu, chúng tôi nhận thấy từ đầu thế kỉ XXI đến nay, thể loại này đã và

đang vận động, phát triển sôi nổi hơn và có nhiều tiềm năng để phát triển

trong tương lai. Có thể nhận thấy một số xu hướng vận động và phát triển của

truyện trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay, và cũng là khả năng

xu hướng vận động của thể loại này trong những năm tới, đó là:

4.2.1. Xu hướng truyện trinh thám kinh dị

Đầu thế kỉ XX, truyện trinh thám ra đời ở Việt Nam trên cơ sở tiếp thu,

phỏng theo mô hình truyện trinh thám truyền thống phương Tây, kết hợp với

việc tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá, văn học phương Đông nói chung và văn

hoá, văn học Việt Nam nói riêng. Truyện trinh thám Việt Nam ra đời và phát

triển rực rỡ ở giai đoạn trước 1945 với ba loại chính là truyện trinh thám lãng

mạn, truyện trinh thám suy luận, truyện trinh thám kinh dị. Tuy nhiên, do bối

135

cảnh lịch sử đất nước có sự thay đổi trong các giai đoạn khác nhau mà truyện

trinh thám Việt Nam cũng có sự vận động biến đổi từ mô hình truyện trinh

thám truyền thống sang dạng truyện tình báo, truyện phản gián, truyện điều

tra-vụ án ở giai đoạn 1945-1986.

Từ 1986 đến nay, trong một bối cảnh văn học mới, các tác giả văn học

trinh thám đã tiếp tục kế thừa truyện trinh thám truyền thống trước 1945, phát

triển theo nhiều xu hướng, trong đó có xu hướng kế thừa truyện trinh thám

kinh dị và mô hình truyện trinh thám truyền thống. Không còn là những

truyện tình báo, truyện phản gián, điều tra-vụ án như ở giai đoạn 1945-1986,

truyện trinh thám Việt Nam từ 1986 đến nay đã trở lại với mô hình truyện

trinh thám truyền thống: vụ án (thường có cái chết) - quá trình điều tra của

thám tử-người điều tra - bí mật về vụ án được làm sáng tỏ (hung thủ, nguyên

nhân, cách thức gây án) một cách thuyết phục. Đặc biệt, từ đầu thế kỉ XXI

đến nay, truyện trinh thám Việt Nam có xu hướng phát triển truyện trinh thám

kinh dị, đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân đã khẳng định trong

Truyện trinh thám – Một thể loại văn học: “Gần đây, truyện trinh thám Việt

Nam bắt đầu trở lại theo xu hướng trinh thám kinh dị với tên tuổi của Di Li

(Nguyễn Diệu Linh): Trại Hoa Đỏ, 2009; Câu lạc bộ số 7, 2016… Xu hướng

này cho thấy truyện trinh thám Việt Nam đã hội nhập trở lại với thế giới để

duy trì và phát triển một thể loại truyện trinh thám hiện đại” [49]. Trại Hoa

Đỏ (Di Li) có sự xuất hiện lần lượt cái chết của những người trong gia đình

họ Quách, cái chết của người vợ cả của Lưu và cái chết của Sương ở trại Hoa

Đỏ, nơi nghỉ dưỡng của vợ chồng Trần Hoàng Lưu và Diên Vĩ; cảnh sát hình

sự Phan Đăng Bách đã tiến hành điều tra, nhiều tình tiết đánh lạc hướng điều

tra của anh, nhưng cuối cùng, kết truyện là kết quả Phan Đăng Bách điều tra

ra hung thủ không là ai khác mà chính là Trần Hoàng Lưu – chồng của Diên

Vĩ: vì tham của, tin vào tương truyền chỉ cần hiến tế cô gái đồng trinh nhà họ

136

Quách thì sẽ tìm được kho báu nhà họ Quách, Lưu đã giết người nhà họ

Quách, giết vợ cả, giết Sương để che giấu thân phận bản thân. Câu lạc bộ số 7

(Di Li) mở ra bằng sự mất tích và cái chết của bảy cô gái xinh đẹp, họ có

chung đặc điểm là trước khi chết thì những cô gái này đều lên chiếc xe taxi

hãng Hoa Sen. Cảnh sát hình sự Phan Đăng Bách cùng đồng nghiệp lần theo

dấu vết từ các tài khoản mạng xã hội bí ẩn, dần tiếp cận, tìm ra manh mối về

một hội kín gồm những thành viên tự xưng theo tên của người nổi tiếng như

Đức Phật, Chúa Jesus, Isaac Newton, Chopin, Immanuel Kant, v.v..., nguyên

nhân sâu xa cái chết của bảy thiếu nữ dần được hé lộ, hung thủ cuối cùng

cũng lộ diện, tội ác gây ra bởi tên giáo chủ cùng giáo phái của hắn có tư tưởng

sai lầm, cho rằng ái tình không tồn tại trên thế giới, tình dục là một thứ bẩn

thỉu cần phải thanh lọc nên bọn chúng dựng lên một thánh nhân trinh nữ từ

những bộ phận khác nhau của các cô gái, dẫn đến sự sát hại bảy cô gái trẻ.

Cùng với Di Li là Kim Tam Long với Mặt nạ trắng, là Đức Anh với Đảo

bạo bệnh, v.v… Mặt nạ trắng (Kim Tam Long) cũng bắt đầu câu chuyện

bằng những án mạng xảy ra: cái chết của vợ chồng người thợ rèn tên Ơn, rồi

lần lượt ba gã gây ra vụ án mạng đó cũng bỏ mạng bởi nhiều nhát búa đập nát

đầu. Sự xuất hiện người đeo mặt nạ trắng thoắt ẩn thoắt hiện khiến dân làng

tin rằng đó là hồn ma người thợ rèn tên Ơn quay trở lại báo thù. Mấy chục

năm sau, những vụ án mạng lại xảy ra với cái chết của Giang, vợ chồng ông

Thanh, Vương, xác các nạn nhân được tìm thấy vẫn mang đặc điểm: cái đầu

bị đập vỡ nát, nạn nhân vẫn là người liên quan đến ba gã đàn ông năm xưa đã

sát hại vợ chồng ông thợ rèn tên Ơn. Đang sống cùng gia đình ở nước ngoài,

nhân chuyến trở về Việt Nam làm từ thiện, Hoạ My đã quyết tâm tìm hiểu

nguyên nhân gia đình mình phải trốn chạy khỏi sự truy sát của Mặt Nạ Trắng

trong sự thấp thỏm đối mặt với sự nguy hiểm gắn với lời nguyền: “Hãy nhớ…

Ta sẽ khiến…cho các người, dòng họ…các người phải chịu…những cái

137

chết… đau đớn nhất…” [127, tr.12]. Những cảnh sát hình sự tên Quân,

Nguyên, Lương cùng đồng đội đã điều tra và phát hiện ra sự thật. Kết truyện

là sự phát hiện ra hung thủ giết chết tên Vương chính là người bác sĩ tài năng

tên Hoàng – bạn thân của Quân và Nguyên, vì thù hận mà Hoàng ẩn trong câu

chuyện đồn đoán ma mị tương truyền hồn ma dưới dạng Mặt Nạ Trắng để giết

chết Vương bằng cách dã man nhất.

Truyện Đảo bạo bệnh của Đức Anh là câu truyện về quá trình điều tra

một vụ án trên huyện đảo Đảo Thiên Đường của chiến sĩ an ninh Thanh Đức.

Xen vào câu chuyện điều tra ấy là câu chuyện về một dịch bệnh lạ đầy kinh

hãi bùng phát trên huyện đảo này. Căn bệnh do virus Phantom-X gây ra làm

nhiều người chết và ghê sợ nữa là căn bệnh này có thể khiến con người bị

biến dạng do lão hoá trong một thời gian rất ngắn khi mắc phải. Khó khăn

trong quá trình điều tra tìm manh mối và sự cản trở của dịch bệnh nhưng cuối

cùng Thanh Đức cũng điều tra ra nguyên nhân và hung thủ giết chết bà

Lường, v.v…

Những truyện trinh thám của Giản Tư Hải, Nguyễn Dương Quỳnh,

Hoàng Yến cũng đều xây dựng nhiều chi tiết, nhiều yếu tố kinh dị và theo mô

hình truyện trinh thám truyền thống như thế.

4.2.2. Xu hướng truyện trinh thám lịch sử

Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận nhiều tác phẩm viết về đề tài lịch

sử, có thể kể đến: Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái; Vũ Như Tô,

Đêm hội Long Trì, Bắc Sơn, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng;

Gươm thần Vạn Kiếp, Ấn kiếm trời ban, Cờ lau dựng nước, Uy Viễn tướng

công, Lí Công Uẩn của Ngô Văn Phú; Tám triều vua Lí; Bão táp triều Trần

của Hoàng Quốc Hải; Hồ Quý Li, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn của

Nguyễn Xuân Khánh; Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê; Sông Côn mùa lũ

của Nguyễn Mộng Giác; Thông reo Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang,

138

v.v... Trong những năm gần đây, nhiều nhà văn tiếp tục quan tâm đến đề tài

lịch sử và sáng tạo nên những tác phẩm văn học về đề tài này, góp thêm

những cách nhìn, những sự luận giải khác nhau về lịch sử như: Trần Quốc

Toản, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh; Ngô Vương của Phùng Văn Khai;

Hồ Dương của Trường An; Thiệu Bảo Bình Nguyên của Hồng Thái; Từ Dụ

Thái hậu của Trần Thùy Mai; Đức Thánh Trần, Trần Thủ Độ, Trần Nguyên

Hãn của Trần Thanh Cảnh; Hừng Đông, Nước non vạn dặm (tập 1: Nợ nước

non, tập 2: Lênh đênh bốn biển) của Nguyễn Thế Kỷ, v.v… Điều đó cho thấy

sức hấp dẫn của đề tài lịch sử đối với các nhà văn.

Trong xu hướng viết về lịch sử của văn học nói chung, thể loại truyện

trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay cũng có xu hướng viết về đề

này với những tác phẩm như: Mật mã Champa (2016), Minh Mạng mật chỉ

(2018) của Giản Tư Hải, Dưới cánh đại bàng (2022) của Hoàng Yến.

Với Mật mã Champa (2016), Giản Tư Hải khai thác những chi tiết có

thật trong lịch sử, văn hóa Champa khu thánh địa Mỹ Sơn để kể về câu

chuyện giải mã kho báu bí ẩn của người Champa cổ. Khi trùng tu khu Thánh

địa Mỹ Sơn, một nhà khảo cổ người Pháp đã phát hiện ra nhiều mật mã bằng

chữ Phạn và chữ Chăm cổ khắc trên bia đá, tiết lộ các lễ hiến tế người cùng

nhiều vàng bạc, châu báu. Trong quá trình khám phá, nhà khảo cổ Pháp đã bị

sát hại. Trước khi chết, ông đã để lại mật mã. Kỳ Phương là học trò và là đồng

nghiệp của ông, và con gái ông là Thi Nga lần theo manh mối ông để lại và

rơi vào vòng xoáy tội ác. Kỳ Phương phát hiện ra âm mưu giết nhà khảo cổ

người Pháp vừa để hiến tế thần linh vừa để ngăn chặn ông khai quật kho báu

đang bị một hội kín chiếm giữ. Kỳ Phương bị sập bẫy, Thi Nga bị bắt đưa lên

đài tế trong nghi thức man rợ. Vượt qua những hiểm nguy, họ giải mã được

những cái chết khủng khiếp của nhiều người.

139

Trên cơ sở những sự kiện có thật về kho báu của vua Minh Mạng dưới

lòng Đại Nội Huế, Minh Mạng mật chỉ (2018) kể về câu chuyện đi tìm kho

báu. Nhân vật Kỳ Phương là một kiến trúc sư yêu lịch sử, là người chuyên đi

tìm kho báu, được một người bạn dòng dõi hoàng tộc đề nghị tham gia khai

quật và giải mã một thư tịch cổ của vua Minh Mạng để tìm kho báu. Khi vào

cuộc, Kỳ Phương biết mình đang tham gia một nghi lễ bàn giao thần bí giữa

hai thế lực cổ xưa là Hội Đạo sĩ cơ mật và những hậu duệ hoàng tộc. Tuy

nhiên, lễ bàn giao không được thực hiện bởi sự xuất hiện bất ngờ của một

nhân tố bí ẩn. Kỳ Phương muốn rút khỏi đó nhưng không được, anh bị cuốn

vào cuộc đấu tranh giữa hàng loạt các thế lực đối nghịch và trở thành nhân tố

chủ chốt trong cuộc tìm kiếm kho báu. Trải qua bao gian nan, nguy hiểm, Kỳ

Hàng trăm chiến thuyền cổ xưa bọc đồng nhuốm nắng óng ánh nối tiếp

nhau tiến ra cửa biển. Kỳ Phương vẫn chưa tỉnh hẳn để tin rằng có ngày

mình lại góp sức khai quật được một di sản quý hiếm theo cách ngoạn mục

như vậy. Hạm đội Hoàng Sa trứ danh Triều Nguyễn – một kho báu lịch sử

vô giá, một di sản quân sự hiếm hoi tưởng như thất truyền đã chính thức trở

về đất mẹ [83, tr.468].

Phương đã giải mã được mật chỉ của vua Minh Mạng và tìm ra kho báu:

Dưới cánh đại bàng (2022) của Hoàng Yến là tiểu thuyết trinh thám

được hư cấu trên lịch sử, lấy bối cảnh ba mươi năm sau khi vua Lý Thái Tổ

sáng lập triều Lý, dời đô về Thăng Long. Trong trận mưa giông đầu mùa, một

vị thiền sư đã bị sét đánh chết bên dưới gốc cây gạo làng Diên Uẩn. Trên thân

cây sét đánh lộ ra bài sấm truyền giống hệt ba mươi năm về trước. Nhưng lần

này, thay vì tiên đoán sự sụp đổ của Triều Lê, bài sấm lại cảnh báo về sự lụi

tàn của triều Lý. Năm xưa, chính miệng vị thiền sư này đã loan truyền câu

chuyện bạo quân Lê Long Đĩnh, tức Ngọa Triều Hoàng đế, tàn ác róc mía trên

đầu sư phụ của ông ấy. Khắp làng Diên Uẩn bắt đầu nổi lên lời đồn Ngọa

Triều báo oán, người ta cho rằng vị thiền sư kia bị trời phạt vì đã cả gan chuốc

140

ô danh cho thiên tử. Trước nguy cơ bài sấm uy hiếp tới giang sơn Lý triều,

Thánh thượng đã sai Thái tử Nhật Tôn lập tức tới làng Diên Uẩn điều tra và

dập yên lời đồn. Sau khi Nhật Tôn và Thường Kiệt tới làng Diên Uẩn, một

loạt án mạng đã liên tiếp xảy ra. Nạn nhân hầu như đều từng cố ý hoặc vô tình

phỉ báng Ngọa Triều đế, khiến lời đồn càng lúc càng nghiêm trọng. Trong quá

trình tra án, Nhật Tôn dần nhận thấy vị Hoàng đế tiền triều hoàn toàn không

giống một hôn quân.

Đề tài lịch sử vẫn là một đề tài hấp dẫn đối với văn học nói chung và thể

loại truyện trinh thám nói riêng bởi đằng sau bức màn thời gian che phủ còn

bao nhiêu điều bí ẩn về cuộc sống của con người cần được khám phá, cần

được làm sáng tỏ bằng góc nhìn của con người thời hiện đại. Trong những bí

ẩn ấy có biết bao câu chuyện về sự chết chóc, về án mạng, về các vụ án cần

điều tra làm rõ. Vì thế, đề tài lịch sử cũng là vùng đất hứa cho các nhà văn

trinh thám khai thác để viết nên những truyện trinh thám hiện đại, lí giải

những điều bí ẩn trong quá khứ. Và cũng chính vì thế mà truyện trinh thám

lịch sử đã trở thành một xu hướng vận động và phát triển của truyện trinh

thám Việt Nam thời gian vừa qua và sẽ còn phát triển trong tương lai.

4.2.3. Xu hướng truyện trinh thám hình sự

Truyện trinh thám hình sự là một thể loại phản ánh hoạt động điều tra tội

phạm về trật tự, an ninh, xã hội của lực lượng công an. Nhân vật chính trong

truyện trinh thám hình sự không phải là các thám tử như trong truyện trinh

thám truyền thống, không phải là những điệp viên như trong truyện trinh thám

tình báo-phản gián, mà nhân vật trong truyện trinh thám hình sự là các chiến

sĩ công an, các chiến sĩ an ninh, cảnh sát. Trong đời sống xã hội hiện đại vô

cùng phong phú hiện nay luôn tồn tại song hành những vấn đề phúc tạp, mất

an ninh, an toàn, trật tự xã hội. Hàng loạt vụ án ở đủ mọi lĩnh vực vẫn xảy ra

liên tiếp trong đời sống xã hội đã tạo nên tính chất hình sự và trở thành đề tài

141

phù hợp cho thể loại truyện trinh thám khái thác. Sự phát triển loại truyện

trinh thám hình sự Việt Nam trong những năm qua là một xu hướng vận động

tất yếu, phù hợp với đời sống xã hội, bối cảnh lịch sử, bối cảnh văn học và

tính chất của thể loại. Tiêu biểu cho xu hướng truyện trinh thám hình sự có

thể kể đến Giản Tư Hải với Âm mưu thay não, Ổ buôn người; Di Li với Câu

lạc bộ số 7; Kim Tam Long với Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng, Thảm kịch trắng;

Đức Anh với Đảo bạo bệnh, v.v…

Truyện trinh thám hình sự sử dụng những thủ pháp nghệ thuật hậu hiện

đại để hoà nhập với bối cảnh mới của văn học. Trong bối cảnh văn học ngày

nay, những lí thuyết văn học nước ngoài được tiếp thu vào Việt Nam rất đa

dạng và phong phú. Một trong những lí thuyết được tiếp nhận và được vận

dụng nhiều những năm gần đây là chủ nghĩa hậu hiện đại: cả trong lí luận,

phê bình lẫn trong sáng tác văn học. Trong sáng tác văn học, những thủ pháp

hậu hiện đại như châm biếm, phân mảnh, nghịch lí, liên kết văn bản, cóp nhặt,

bóp méo thời gian, v.v… đã được vận dụng ở nhiều thể loại, nhất là ở tiểu

thuyết trong văn học Việt Nam. Đối với thể loại truyện trinh Việt Nam từ đầu

thế kỉ XXI đến nay, các nhà văn cũng tiếp thu, nhận thức và bắt nhịp với lí

thuyết hậu hiện đại, có xu hướng sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hậu hiện

đại trong sáng tác của mình. Đảo bạo bệnh (2020) của Đức Anh có kết cấu

phân mảnh với nhiều câu chuyện về căn bệnh lạ bởi virus Phantom-X gây ra

trên Đảo Thiên Đường, cướp đi sinh mạng của nhiều người, những người

sống sót thì bị biến dạng toàn bộ cơ thể. Đồng thời là câu chuyện về vụ án

xoay quanh cái chết của bà Lường khiến chiến sĩ công an trẻ tuổi Thanh Đức

phải lao vào cuộc điều tra vụ án để tìm câu trả lời: ai là người giết bà Lường,

vì sao và cách nào hung hủ giết bà ấy? Cách kể chuyện còn sử dụng thủ pháp

liên kết văn bản giữa câu chuyện trong tác phẩm của nhà văn với câu chuyện

trong các tác phẩm của mẹ nhân vật “tôi” qua hồi tưởng và kể lại của nhân vật

142

Cận Phương, tạo nên sự đan cài khó phân biệt giữa những câu chuyện trong

tác phẩm Đảo bạo bệnh (2020) của tác giả Đức Anh với tác phẩm Đảo bạo

bệnh mà nhân vật Cận Phương là người lên ý tưởng cốt truyện và mẹ nhân vật

“tôi” là người chấp bút trong tác phẩm của Đức Anh; cuối tác phẩm của nhà

văn Đức Anh là “Thư tác giả” với lời tâm sự của “tôi” nhưng “tôi” lại là

“người bạn quý” của nhân vật trong truyện là Thanh Đức, v.v… vì thế có sự

mờ nhoè giữa truyện trinh thám của Đức Anh với những truyện nằm trong tác

phẩm này. Chúng ta cũng thấy những yếu tố hậu hiện đại trong Âm mưu thay

não (2011) của Giản Tư Hải. Câu chuyện về tội ác khủng bố và bắt cóc gắn

với âm mưu táo tợn, nham hiểm và không tưởng, tưởng chừng như nghịch lí

là “âm mưu thay não” của bọn khủng bố hậu Khơ Me Đỏ. Một cuộc khủng bố

táo tợn diễn ra tại một ngôi đền cổ ở Campuchia, chiếc xe của Viện Quân y

Sisowath bị phục kích, bác sĩ đầu ngành về não của y học Việt Nam là Giáo

sư Tôn Thất Sắc trong chuyến công tác tại Campuchia có mặt trong chiếc xe

đó đã mất tích bí ẩn. Một cuộc điều tra và truy lùng ráo riết của đội đặc nhiệm

Việt Nam do Trần Phách và Hà Phan chỉ huy được tiến hành. Sau những truy

lùng và chịu nhiều tổn thất, nhóm biệt kích đã đột phá sào huyệt khủng bố,

tìm ra sự thật về âm mưu thay não: quân khủng bố hậu Khơ Me Đỏ lừa dối và

cưỡng bức nhà khoa học, bác sĩ đầu ngành về não là Tôn Thất Sắc thực hiện

cuộc phẫu thuật thay bộ não của tên trùm khủng bố Son Sen vào đầu nhà khoa

học, viên Viện trưởng Viện não Nguyễn Khoa Học để có một tên trùm khủng

bố man rợ, khét tiếng Son Sen nguỵ trang trong bộ dạng nhà khoa học

Nguyễn Khoa Học; kẻ trùm khủng bố Khoa Học - Son Sen tiếp tục cưỡng bức

Tôn Thất Sắc thực hiện cuộc phẫu thuật thay não thứ hai là thay não của con

trai hắn vào Thống tướng Hor Bunnarith với âm mưu “cấy mầm mống khủng

bố từ con trai mình vào viên Tư lệnh tối cao để thực hiện kế hoạch khủng bố

động trời của hậu Khơ Me Đỏ. Việc thay não như một câu chuyện khoa học

143

viễn tưởng, tưởng chừng là cái nghịch lí, được nhà văn hư cấu nên và liên kết

trong một diễn biến logic hợp lí, thuyết phục được bạn đọc.

Truyện trinh thám hình sự cũng khai thác tri thức liên ngành để phản ánh

sát đời sống. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học, tri thức

của loài người ở mọi lĩnh vực được tích lũy nhanh chóng theo từng ngày, từng

giờ. Nhờ đó mà loài người có một kho tri thức khổng lồ ở tất cả các lĩnh vực,

các ngành. Vì thế, trong nghiên cứu khoa học chuyên ngành, để có kết quả

nghiên cứu khách quan và khoa học nhất, trong nhiều trường hợp, người ta

phải sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành. Trong nghiên cứu văn học

cũng vậy, rất nhiều trường hợp phải sử dụng phương pháp nghiên cứu liên

ngành mới có thể cắt nghĩa, giải mã được những vấn đề, những hiện tượng

văn học một cách khoa học, khách quan và thuyết phục. Bối cảnh đời sống

của loài người có khoa học phát triển nhanh chóng, tri thức của loài người

dường như không có giới hạn. Vì thế, sáng tác văn học muốn phản ánh đời

sống xã hội, tất nhiên, cũng phải sử dụng, khai thác tri thức liên ngành để

phản ánh cuộc sống một cách hiệu quả hơn, hay hơn, hấp dẫn hơn. Đối với

thể loại truyện trinh thám thì tri thức liên ngành càng trở nên cần thiết để có

được sự chặt chẽ, logic, thuyết phục.

Trong những năm gần đây, truyện trinh thám hình sự Việt Nam có nhiều

trường hợp đã khai thác tri thức liên ngành để phản ánh đời sống một cách

hiệu quả, tạo được sự logic, thuyết phục, hấp dẫn người đọc. Ngoài những tri

thức về điều tra hình sự, tâm lí học, tội phạm học không thể thiếu trong các

tác phẩm trinh thám nói chung, hầu hết truyện trinh thám hình sự Việt Nam từ

đầu thế kỉ XXI đến nay đều sử dụng tri thức liên ngành để phản ánh đời sống.

Những tri thức về y học, sinh học, hóa học, về quân sự đan cài dày đặc trong

Âm mưu thay não (2011) của Giản Tư Hải, làm hiện lên một xã hội hiện đại,

có nhiều chi tiết được hư cấu như khoa học viễn tưởng:

144

Nếu bệnh nhân kia không đến thì cấy bộ não đang đỏ hỏn trước mặt ông

vào đâu đây? […].

Nằm trong dung dịch đặc biệt được bào chế bằng công nghệ nano, não bộ

được tăng cường sức sống khi bị tách khỏi môi trường sống truyền thống

bằng một loại hooc môn kích thích sinh trưởng và hạn chế sự huỷ hoại của

tế bào thần kinh. Tất cả hệ thống trên được kiểm soát và vận hành bởi một

siêu máy tính có độ tin cậy tuyệt đối.

Bể chứa não lại được đặt trên một giá đỡ silicon gắn hệ thống bơm máu

tưới não và được nối với một quả tim nhân tạo đặt bên ngoài […].

Công việc đêm nay của ông chỉ ráp phần não kia vào hộp sọ của một cơ thể

khác. Một núi công việc đang thách thức trước mắt, tuy nhiên, với công

nghệ vi tính hiện đại, sơ đồ mạch máu và dây thần kinh được máy tính chỉ

ra trong mô hình không gian chính xác đến na-nô-mét sẽ hỗ trợ tối đa cho

ông và các nhà vi phẫu, v.v…[82, tr.337].

Đoạn trích sau là sự vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ thuật quân sự hiện

Heng Sovan biết đội đặc nhiệm Para của đại tá Kam Va được hưởng bao

nhiêu trong ngân khố 270 triệu đô la chi cho hiện đại hoá quân đội. Chiếc

trực thăng tối tân này chỉ là một phần nhỏ của kho khí tài mà Para đang có.

[…]. Khi nhận lệnh biệt phái một phân đội 911 cho vệ binh sử dụng, chỉ huy

Heng Sova biết đại tá Kam Va hơi bất ngờ và chẳng lấy làm vui vẻ nhưng

điều đó lại chứng tỏ nguy cơ mà ông ta cảnh báo trước đây về khủng bố là

chính xác.

Trong khi Heng Sovan đang gấp rút truy bắt “tên gián điệp” có nguy cơ bị

ám sát thì cấp trên lại đột ngột triệu tập về gặp Interpol […].

Các vụ án ngày một lớn hơn, dày hơn và anh ta giật mình nghiệm ra cái rốn

của tội phạm quốc tế không phải đâu khác mà chính là Campuchia [82,

đại trong Âm mưu thay não:

tr.363-364].

Được viết trong thời gian đại dịch Covid-19 hoành hành gây những đau

thương chết chóc cho loài người, Đại dịch kép (2021) của Giản Tư Hải đã sử

145

dụng những tri thức về sinh học, về môi trường, về y học, về dịch tễ, về quân

sự, về chiến tranh sinh học, về khủng bố để phản ánh đời sống con người chịu

sự tàn phá của đại dịch kép: virus Regoon và âm mưu khủng bố của tổ chức

thánh chiến giấu mặt âm thầm gieo rắc loại virus để hủy hoại con người nhằm

bá chủ thế giới.

Mật mã Champa và Minh Mạng mật chỉ của Giản Tư Hải không chỉ viết

về đề tài lịch sử mà còn mang đậm tính chất hình sự. Trong những tác phẩm

này, tác giả cũng sử dụng dày đặc những tri thức về văn hóa, về lịch sử, về địa

Người Chăm có câu châm ngôn nổi tiếng: “Cuộc đời là một chuyến đi buôn.

Khi đi tay trắng, khi về trắng tay”; và đạo Phật cũng vậy: “Cát bụi lại trở

về cát bụi”.

“Vâng, những đền tháp, kiến trúc, điêu khắc Champa vẫn trường tồn ngạo

nghễ dưới trời cao. Họ đã đi xa nhưng niềm tin và trí tuệ vẫn gửi lại cho

hậu thế”.

“Người Champa rất lạ. Những kiệt tác nghệ thuật còn đó mà có thấy tên

tuổi nào đâu […]. Họ sáng tạo ra tất cả rồi bỏ lại tất cả đúng như tinh thần

Siva sáng chói. Những chuyến đi buôn tay trắng kia đã làm giàu cho hậu thế

[85, tr.366].

lí, về kiến trúc, nghệ thuật để điều tra và giải mã những bí mật vụ án:

Trên ô tường, hình ảnh mặt rồng dữ tợn lập tức biến mất […]. Viên trung tá

quay phắt sang Kỳ Phương hỏi gấp. “Cái gì? Anh vừa thấy cái gì?”.

Kỳ Phương chỉ vào ô tường. “Tôi cam đoan nhìn thấy một con rồng xuất

hiện chỗ này rồi biến mất”.

Phi chiếu đèn len rồi ngẩn người khi nhận ra ngay trên trần nhà có một con

rồng khổng lồ ẩn hiện trong mây gió. Ông ta không hề biết rằng đó là một

kỉ lục về bức tranh trần lớn nhất Việt Nam có tên “Long vân khế hội” do

nghệ nhân nổi tiếng từ thời Bảo Đại vẽ [83, tr.70].

Hay:

146

Và nhiều chi tiết cho thấy các tác giả sử dụng tri thức khoa học và văn

hóa, xã hội trong Câu lạc bộ số 7 của Di Li; trong Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng,

Thảm kịch trắng của Kim Tam Long, v.v… Có thể nói, sử dụng tri thức liên

ngành để phản ánh đời sống và làm tăng tính thuyết phục, hấp dẫn là một xu

hướng khá phổ biến của truyện trinh thám hình sự Việt Nam hiện nay.

Tiểu kết chương 4

Mặc dù còn những khó khăn, rào cản nhưng trong bối cảnh chung về lịch

sử - xã hội, văn hóa, văn học Việt Nam cũng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tích

cực cho sự phát triển thể loại này: từ sự nhận thức mới về chức năng giải trí của

văn học, sự phong phú của chất liệu đời sống, sự đam mê và giàu khát vọng của

đội ngũ nhà văn, nhu cầu ngày càng lớn của công chúng bạn đọc, đến sự phát

triển những loại hình nghệ thuật gần gũi với thể loại truyện trinh thám, sự phát

triển của báo chí và sự đa dạng kênh phát hành, sự giao lưu hội nhập quốc tế,

v.v… Đây là những điều kiện thuận lợi, tác động trực tiếp, kích thích, thúc đẩy

thể loại truyện trinh thám phát triển.

Trong bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa, văn học với rất nhiều thuận lợi, từ

đầu thế kỉ XXI đến nay, thể loại truyện trinh thám đã có sự phát triển mạnh mẽ

trở lại với sự xuất hiện đội ngũ tác giả trẻ khá đông và nhiều tác phẩm ra đời với

những xu hướng vận động, phát triển chủ yếu như: xu hướng kế thừa truyện

trinh thám kinh dị và mô hình truyện trinh thám truyền thống, xu hướng viết về

đề tài lịch sử, xu hướng truyện trinh thám hình sự sử dụng tri thức liên ngành

trong sáng tạo tác phẩm và cách tân theo lối viết hậu hiện đại. Những xu hướng

này đang vận động và có chiều hướng tiếp tục phát triển trong thời gian tới.

Với những đam mê, khát vọng của đội ngũ nhà văn và thực tiễn vận động,

phát triển của thể loại truyện trinh thám từ đầu thế kỉ XXI đến nay, chúng ta có

quyền hi vọng, tin tưởng về tương lai phát triển của thể loại này trong tương lai

bên cạnh những thể loại khác của nền văn học Việt Nam hiện đại.

147

KẾT LUẬN

Kế thừa những nghiên cứu đi trước, trên cơ sở nghiên cứu thể loại từ hướng

tiếp cận lịch sử văn học, chúng tôi thấy truyện trinh thám Việt Nam hiện lên như

một hiện tượng văn học đầu thế kỉ XX. Kể từ đó đến nay, thể loại này đã vận

động và phát triển theo quy luật vận động của văn học nước nhà, phù hợp với bối

cảnh lịch sử - văn hoá, xã hội, văn học dân tộc trong từng giai đoạn. Từ những

kết quả nghiên cứu một cách hệ thống để nhận diện rõ sự hình thành, quy luật

vận động và phát triển, đặc điểm, những yếu tố ảnh hưởng và xu hướng vận

động, phát triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam hiện nay, chúng tôi đi

đến một số kết luận sau:

1. Truyện trinh thám Việt Nam là một thể loại văn học ra đời ở nước ta từ

đầu thế kỉ XX trong bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hoá, văn học cụ thể “buổi giao

thời”. Từ một thể loại bị coi là “ba xu”, bị rẻ rúng, bị coi là “cận văn học”, truyện

trinh thám Việt Nam đã dần khẳng định được chỗ đứng, khẳng định được vị trí,

vai trò của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại, gây được chú ý và nhận

được sự quan tâm, đánh giá, ghi nhận của bạn đọc, của giới nghiên cứu, lí luận,

phê bình về những đóng góp tích cực vào quá trình hiện đại hóa nền văn học dân

tộc, góp phần làm phong phú, đa dạng hơn về thể loại trong nền văn xuôi tự sự

Việt Nam nói riêng và trong nền văn học Việt Nam nói chung.

2. Trong bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa, văn học cụ thể đầu thế kỉ XX

với sự giao thoa và chịu ảnh hưởng, tiếp thu, tiếp biến văn hoá, văn học nước

ngoài, đặc biệt là văn hóa, văn học phương Tây, kết hợp với sự kế thừa truyền

thống văn hóa, văn học phương Đông và truyền thống văn hóa, văn học dân tộc,

v.v… truyện trinh thám Việt Nam đã ra đời và nhanh chóng phát triển, định hình

được thi pháp thể loại. Sự ra đời và nhanh chóng phát triển rực rỡ ở giai đoạn

148

đầu của thể loại truyện trinh thám Việt Nam là một quy luật tất yếu trong quá

trình vận động, phát triển của nền văn học dân tộc.

3. Do ảnh hưởng của lịch sử - xã hội, văn hoá, văn học dân tộc ở những giai

đoạn khác nhau, thể loại truyện trinh thám Việt Nam đã có những bước thăng

trầm trong quá trình phát triển. Nhưng thể loại này cũng có sự vận động theo quy

luật vận động của văn học, có sự biến đổi, phát triển phù hợp với lịch sử - xã hội,

với đặc điểm, bối cảnh văn hoá, văn học dân tộc; phù hợp với nhu cầu và thị hiếu

của công chúng; phù hợp với cơ chế phát triển của thời đại trong mỗi giai đoạn

phát triển của thể loại. Trải qua hàng trăm năm vận động và phát triển, thể loại

truyện trinh thám Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp tích

cực đối với lịch sử phát triển nền văn học Việt Nam hiện đại.

4. Từ một thể loại ra đời trong sự giao thoa văn hoá với các nước, ảnh

hưởng, tiếp thu, tiếp biến truyện trinh thám phương Tây, truyện trinh thám Việt

Nam định hình được thi pháp thể loại, vừa mang bản chất, đặc trưng thể loại

trinh thám nói chung, vừa mang những đặc điểm riêng của Việt Nam. Truyện

trinh thám Việt Nam vừa thể hiện được những vụ án và quá trình điều tra vụ án

của các thám tử - người điều tra để tìm ra thủ phạm, tìm ra logic xảy ra vụ án

bằng lối kể chuyện li kì, rùng rợn, sử dụng kết hợp những thủ pháp nghệ thuật

hiệu quả, tạo được kịch tích và lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, và cuối cùng làm

hài lòng độc giả bằng sự giải thích logic, khoa học, hợp lí những điều xảy ra - đó

là sự trung thành với đặc trưng thể loại trinh thám nói chung. Nhưng truyện trinh

thám Việt Nam cũng thực sự gần gũi, quen thuộc với độc giả Việt Nam ở đề tài,

cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật thuần Việt, và nhất là nó có sự hỗn

dung thể loại với những yếu tố truyền kì, kinh dị, đường rừng, kiếm hiệp, v.v…

để có sự li kì, ma mị mang đậm chất phương Đông. Điều đó nói lên sự tương

đồng và dị biệt giữa truyện trinh thám Việt Nam với truyện trinh thám phương

Tây, với một số thể loại văn xuôi tự sự khác.

149

5. Mặc dù có những bước thăng trầm trong quá trình vận động, phát triển

nhưng thể loại truyện trinh thám Việt Nam có sức sống tiềm tàng. Với nhiều yếu

tố thuận lợi tác động như quan niệm mới về chức năng giải trí của văn học đã đề

cao giá trị giải trí của văn học; sự đa dạng, phong phú của chất liệu đời sống; đội

ngũ tác giả trẻ có đam mê, khát vọng, biết khai thác chất liệu đời sống phong

phú, bắt nhịp với đời sống văn học hiện đại trong bối cảnh giao lưu hội nhập

quốc tế, có sự cách tân, đổi mới trong cách viết; sự phát triển của báo chí, sự đa

đạng kênh phát hành và sự phát triển các loại hình nghệ thuật gần gũi, v.v… thể

loại truyện trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay phát triển trở lại với

số lượng lớn tác giả, tác phẩm, vận động theo nhiều xu hướng. Điều đó đã khẳng

định sự nỗ lực, đam mê của các nhà văn, và thể loại truyện trinh thám vẫn còn

nhiều tiềm năng phát triển trên cánh đồng văn chương Việt Nam đương đại.

Tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá, nhận định một thể loại văn học trong cả

một thế kỉ, từ khi truyện trinh thám Việt Nam ra đời cho đến nay, và dự báo

tương lai phát triển của thể loại là một điều không dễ dàng. Đã có khá nhiều

nghiên cứu, nhận định, đánh giá đối tượng này từ những hướng tiếp cận khác

nhau. Không có mục đích giải quyết được mọi vấn đề đặt ra đối với thể loại

truyện trinh thám Việt Nam, chúng tôi chỉ nỗ lực làm hiện lên diện mạo thể loại

này từ hướng tiếp cận lịch sử văn học để làm rõ quy luật vận động, các giai đoạn

phát triển, một số đặc điểm, đóng góp của thể loại truyện trinh thám Việt Nam

đối với quá trình vận động và phát triển nền văn học dân tộc. Đồng thời đánh giá

những nhân tố ảnh hưởng, những tác động tích cực và những khó khăn, rào cản

đối với sự phát triển của thể loại này để dự báo về xu hướng vận động và khả

năng phát triển của thể loại trong thời gian tới.

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Thế Bắc, Xung quanh quan niệm, nguồn gốc truyện trinh

thám và sự ra đời truyện trinh thám của Thế Lữ trong nền văn học Việt Nam,

Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 54, 2-2017, tr.57-63.

2. Nguyễn Thế Bắc, Truyện trinh thám của Thế Lữ: Truyền thống và

cách tân, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 11.2018, tr.24-34.

3. Nguyễn Thế Bắc, Nghệ thuật sử dụng nghiệp vụ báo chí và xử lý

không gian-thời gian trong truyện trinh thám của Thế Lữ, Tạp chí Nghiên cứu

văn học, số 12 (574), tháng 12-2019, tr.35-43.

4. Nguyễn Thế Bắc, Sự hỗn dung - giao thoa thể loại trong truyện trinh

thám Việt Nam, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 2.2020,

tr.91-96.

5. Nguyễn Thế Bắc, Đặc điểm nghệ thuật truyện trinh thám của Thế Lữ,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3-2020, tr.106-116.

6. Nguyễn Thế Bắc, Một vài giá trị tiêu biểu của thể loại truyện trinh

thám Việt Nam, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 10.2022,

tr.96-105.

7. Nguyễn Thế Bắc, Tiềm năng cho sự phát triển thể loại truyện trinh

thám ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4-2023,

tr.119-128.

8. Nguyễn Thế Bắc, Vài thủ pháp nghệ thuật trong một số truyện trinh

thám Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 1013, tháng 5.2023, tr.97-101.

9. Nguyễn Thế Bắc, Mấy xu hướng vận động của truyện trinh thám Việt

Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ

thuật, số 05.2023, tr.101-106.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tiếng Việt

1. Thúy Am. 1936. Anh hùng tương ngộ, Imprimerie Tân Dân Thư

Quán, Hà Nội.

2. Thúy Am. 1937. Cái hầm bí mật, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, Hà

Nội.

3. Thúy Am. 1937. Người hay ma, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, Hà

Nội.

4. Phạm Đình Ân. 2006. Thế Lữ, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục

Việt Nam, Hà Nội.

5. Đức Anh. 2019. Thiên thần mù sương, Nxb Văn học.

6. Đức Anh. 2019. Tường lửa, Nxb Hội Nhà văn.

7. Đức Anh. 2020. Đảo bạo bệnh, Nxb Công an Nhân dân.

8. Đức Anh. 2020. “Trò chơi của khiếm diện: Văn học trinh thám Việt

Nam 20 năm đầu thế kỉ XXI”,

cua-khiem-dien-van-hoc-trinh-tham-viet-nam-20-nam-dau-the-ky-xxi/>,

(1/7/2020).

9. Hoài Anh. 2001. Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

10. Nguyễn Kim Anh (Chủ biên). 2004. Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ

XIX đầu thế kỉ XX. Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

11. Tuấn Anh (1925), Bí mật phi thường, S. Impr Xưa Nay, Sài Gòn.

12. Tuấn Anh (1925), Cái rương bí mật, S. Impr. Nguyễn Văn Viết, Sài

Gòn.

13. Yên Ba (2009), “Sách trinh thám chính trị - mảnh đất màu mỡ”,

mau-mo-n2009081402285126.htm>, (23/10/2019).

152

14. Lê Huy Bắc. 2011. “Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại”, Tạp chí

Khoa học, số 2, tr.39-45.

15. Bakhtin (Phạm Vĩnh Cư dịch). 1992. Lí luận và thi pháp tiểu thuyết,

Bộ VHTTTT-Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

16. Nhan Bảo. 2004. “Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với

văn học Việt Nam”, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu Á (từ thế kỉ

XVII-thế kỉ XX) (Claudine Salmon biên soạn), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Jorge Luis Borges. 2004. “Về truyện trinh thám [1/2]” (Ngô Tự Lập

dịch từ tiếng Pháp),

1973880.html>, (17/10/2019).

18. Jorge Luis Borges. 2004. “Về truyện trinh thám [2/2]” (Ngô Tự Lập

dịch từ tiếng Pháp),

1973877. html>, (17/10/2019).

19. Jorge Luis Borges. 2000. “Edgar Poe và truyện trinh thám”, Tuyển

tập Edgar Poe, Nxb Văn học, Hà Nội.

20. Nguyễn Ngọc Cầm. 1933. Mũi tên thù, Impr. Nam Mĩ, Hà Nội.

21. Nguyễn Ngọc Cầm. 1939. Dao bang, Viễn Đông Công ti, Hà Nội.

22. Nguyễn Ngọc Cầm. 1939. Oan thù, NXB Viễn Đông, Hà Nội.

23. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Chiếc hộp sắt và chín mạng người, á

Châu, Hà Nội.

24. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Món nợ kì khôi, á Châu, Hà Nội.

25. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Người thiếu nữ kì dị, á Châu, Hà Nội.

26. Hoàng Minh Châu. 1993. Bài học tình yêu, Nxb Văn học, Hà Nội.

27. Phạm Tú Châu. 2001. “Cuộc kì ngộ giữa Phạm Cao Củng và Trình

Tiểu Thanh – Hai tác giả trinh thám nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số

6, tr.24-32.

153

28. Phạm Tú Châu. 2005. “Phạm Cao Củng, người đầu tiên ở Việt Nam

thành danh với tiểu thuyết trinh thám”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1,

tr.7-20.

29. Nam Chi. 1991. Thế Lữ, cuộc đời và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

30. Nam Chi. 2013. “Tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đầu tiên”,

,

(19/6/2013).

31. Nguyễn Huệ Chi. 2009. Truyện truyền kì Việt Nam, Quyển ba (Tập

V-VI), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

32. Nguyễn Chiến. 2001. “Bản chất tội ác và sự hình thành văn học trinh

thám”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1.

33. Agatha Christie. 2002. Cái chết trên mây, Nxb Công an Nhân dân.

34. Lê Đình Cúc. 2000. “Edgar Allan Poe – nhà văn trinh thám và kinh

dị xuất sắc”, Tạp chí Văn học, số 342, tr.49-56.

35. Phạm Cao Củng. 1942. Chiếc gối đẫm máu, Khuê Văn xuất bản, Hà

Nội.

36. Phạm Cao Củng. 1942. Hàm răng mài nhọn, Khuê Văn xuất bản, Hà

Nội.

37. Phạm Cao Củng. 1943. Một nhà trinh thám, Nxb Đời Mới, Hà Nội.

38. Phạm Cao Củng. 1945. Một cái tết rùng rợn của Kỳ Phát, Khuê Văn

xuất bản, Hà Nội.

39. Phạm Cao Củng. 1945. Ông già bí mật, Khuê Văn xuất bản, Hà Nội.

40. Phạm Cao Củng. 1951. Bọn người săn ngọc, Huyền Nga xuất bản,

Hà Nội.

41. Phạm Cao Củng. 1951. Hai người lên máy chém, Huyền Nga xuất

bản, Hà Nội.

154

42. Phạm Cao Củng. 1997 (tái bản). Truyện trinh thám, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội.

43. Phạm Cao Củng. 2012. Hồi ký Phạm Cao Củng, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

44. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Chiếc tất nhuộm bùn (Chiếc tất

nhuộm bùn, Kho tàng họ Đặng), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

45. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Đám cưới Kỳ Phát (Đám cưới Kỳ

Phát, Đôi hoa tai của bà chúa), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

46. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Kỳ Phát giết người (Kỳ Phát giết

người, Bóng người áo tím), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

47. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Nhà sư thọt (Nhà sư thọt, Người một

mắt), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

48. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Vết tay trên trần (Vết tay trên trần,

Ba viên ngọc bích, Con ma cây vả, Ba đốt ngón tay, Ông già buôn xác chết,

Buổi diễn tất niên của người hổ, Quả báo, Cái tết của người đã chết, Bát cơm

siếu mẫu), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

49. Nguyễn Văn Dân. 2022. “Truyện trinh thám – Một thể loại văn học”,

< http://baovannghe.com.vn/truyen-trinh-tham-mot-the-loai-van-hoc-

26251.html> (01/6/2023)

50. Ý Dịu. 2016. “Nhà văn Di Li: Viết trinh thám vì thích đọc trinh

thám”,

doc-trinh-tham-20160303235354862.htm> (14/04/2020).

51. SS Van Dine. 1928. “Hai mươi quy tắc viết truyện trinh thám”,

,

(17/9/2020).

52. Conan Doyle. 2019. Sherlock Holmes toàn tập, Nxb Văn học, Hà

Nội.

155

53. Đặng Anh Đào. 1994. “Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt

Nam 1930-1945”, Tạp chí Văn học, số 7.

54. Đặng Anh Đào. 2001. “Nữ tác gia hiện nay và truyện trinh thám”,

Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện nay, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

55. Đặng Anh Đào. 2007. “Truyện trinh thám hiện đại: Hàng ngoại át

hàng nội”,

ngoai-at-hang-noi-i311179/>, (23/10/2018).

56. Dương Minh Đạt. 1927. Anh hùng ba mặt (Bí mật phi thường), Nxb

Xưa và Nay.

57. Dương Minh Đạt. 1927. Bình vỡ gương tan, Nxb Xưa và Nay.

58. Phan Cự Đệ. 1990. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập 1, Nxb Văn

học, Hà Nội.

59. Bửu Đình. 1989 (tái bản). Cậu Tám Lọ, Nxb Tổng hợp, Tiền Giang.

60. Bửu Đình. 2001 (tái bản). Mảnh trăng thu, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ

Chí Minh.

61. Tô Nguyệt Đình. 2002 (tái bản), Bộ áo cà sa nhuộm máu, Nxb Văn

nghệ TP. HCM

62. Trịnh Bá Đĩnh. 2002. Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học &

Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia.

63. Lý Đợi. 2018. “Văn học trinh thám ở Nam bộ đầu thế kỉ 20”,

ork&artworkId=10705>, (14/10/2019).

64. Việt Đông. 1932. Ngọc nát hoa tươi (4 tập), Nhà in Đức Lưu

Phương.

65. Việt Đông. 1932. Trường huyết chiến (4 tập), Nhà in Đức Lưu

Phương.

156

66. Hà Minh Đức. 2021. Thế Lữ - Cung đàn muôn điệu tài hoa, Nxb

Thuận Hoá, TP Huế.

67. Phú Đức. 1926. Châu về hiệp phố, Nxb Xưa và Nay.

68. Phú Đức. 1929. Lửa lòng, Báo Công Luận.

69. Phú Đức. 1930. Căn nhà bí mật, Báo Công Luận.

70. Phú Đức. 1930. Trường tình huyết lệ, Báo Công Luận.

71. Phú Đức. 2003 (tái bản). Tôi có tội, Nxb Tổng hợp, Hà Nội.

72. Xuân Đức. 1985. Người không mang họ, Nxb Công an Nhân dân, Hà

Nội.

73. Lê Tiến Dũng-Hồ Khánh Vân. 2009. “Bửu Đình, nhà tiểu thuyết

Nam Bộ”,

h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/487-bu-inh-nha-tiu-thuyt-nam-

b.html>, (12/6/2018).

74. Ngô Văn Giá (Sưu tầm và biên soạn). 1996. Tiếng hú ban đêm, tập

truyện ngắn Thế Lữ, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

75. Đoàn Lê Giang. 2006. “Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỉ

XIX đến 1945 - Thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Tạp chí Nghiên cứu

Văn học, số 7.

76. Hương Giang. 2020. “Tiểu thuyết trinh thám Việt: Cơ hội của các tác

giả trẻ”,

cua-cac-tac-gia-tre-1030690.vov>, (23/7/2020).

77. Nguyễn Hà. 2022. “Tác giả Đức Anh: 'Tôi tìm hiểu kĩ xem người

Việt muốn gì?”,

Toi-tim-hieu-ky-xem-nguoi-Viet-muon-gi>, (5/6/2022).

78. Nguyệt Hà. 2018. “Văn học trinh thám Việt Nam: Hồi sinh hay chìm

khuất?”,

Nam-Hoi-sinh-hay-c79h77im-khuat-i501001/>, (01/11/2019).

157

79. Song Hà. 2009. “Chuyên đề văn học trinh thám (Bài 3): Hướng đi

mới”,

n20090820082216220 .htm, (23/10/2019).

80. Trần Thanh Hà. 2004. “Truyện trinh thám từ Tây sang Đông”, Văn

nghệ Công an, số 9.

81. Trần Thanh Hà. 2009. “Thời vàng son của tiểu thuyết trinh thám Việt

Nam”,

vang-son-cua-tieu-thuyet-trinh-tham-viet-namn20090814120154441.htm >,

(23/10/2019).

82. Giản Tư Hải. 2011. Âm mưu thay não, Nxb Văn học, Hà Nội.

83. Giản Tư Hải. 2011. Minh Mạng mật chỉ, NxbThanh niên, Hà Nội.

84. Giản Tư Hải. 2011. Ổ buôn người, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

85. Giản Tư Hải. 2018. Mật mã Champa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

86. Giản Tư Hải (2021), Đại dịch kép, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

87. Giản Tư Hải (2021), Thiên địa Hội An Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

88. Dương Quảng Hàm. 1996. “Lời giới thiệu” tập truyện ngắn Tiếng hú

ban đêm, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

89. Lê Thị Đức Hạnh. 2002. “Báo chí với văn học giai đoạn 1992-1945”,

Nhìn lại văn học Việt Nam Nam thế kỉ XX (Hà Minh Đức chủ biên), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. Trần Hậu. 2005. “Một “nữ hoàng truyện trinh thám” khởi nghiệp từ

ngành An ninh”, Báo Văn nghệ Công an, số 18 (118).

91. Mỹ Hiền. 2016. “Hội thảo Khoa học: Văn học trinh thám ở Việt Nam

- Lí luận và thực tiễn”,

aspx?categoryId= 87&itemId=41098>, (15/6/2018).

158

92. Thu Hiền. 2018. “Tại sao truyện trinh thám Việt Nam bị coi là ba xu,

rẻ tiền, thấp kém?”,

la-ba-xu-re-tien-thap-kem-post895285.html>, (23/10/2019).

93. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Cái chết cô ca sỹ trẻ, Nxb Hồng Bàng,

Gia Lai.

94. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Căn phòng khóa trái, Nxb Hồng Bàng,

Gia Lai.

95. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Kẻ sát nhân không bao giờ bị bắt, Nxb

Hồng Bàng, Gia Lai.

96. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Li-Ta xinh đẹp, Nxb Hồng Bàng, Gia

Lai.

97. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Nỗi ám ảnh tuổi thơ, Nxb Hồng Bàng,

Gia Lai.

98. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Tên sát nhân có tài mở khóa, Nxb

Hồng Bàng, Gia Lai.

99. Nguyễn Thanh Hoàng. 2016. Cuộc truy lùng nghiệt ngã, Nxb Công

an Nhân dân, Hà Nội.

100. Lê Huệ. 2013. “Nhà văn Di Li: "Hành tung của tôi nhuốm màu

trinh thám"”,

toi-nhuom-mau-trinh-tham-276939.vov>, (21/12/2021).

101. Nguyễn Thị Ngọc Huệ. 2011. “Phạm trù sự thật trong tiểu thuyết

trinh thám”,

that-trong-tieu-thuyet-trinh-tham-3840.thml>, (23/5/2018).

102. Minh Hùng. 2022. “Những tác giả trinh thám Việt nổi bật”,

,

(15/7/2022).

159

103. Khánh Huyền. 2022. “Di Li-nữ văn sĩ đam mê viết truyện trinh

thám”,

dam-me-viet-truyen-trinh-tham-696004>, (3/6/2022).

104. Khái Hưng. 1934. “Lời giới thiệu”, Vàng và máu (Thế Lữ), Nxb

Đời nay, Hà Nội.

105. Lưu Thuỷ Hương. 2020. “Bốn thể loại văn chương”,

,

(03/11/2021).

106. Dương Thị Hường. 2013. “Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo

tặc - sự dung hợp và đối kháng với phương tây trong lối viết tiểu thuyết trinh

thám”, , (23/10/2019).

107. Nguyễn Hưởng. 2022. “10 vụ án trọng điểm trong năm 2022, điển

hình vụ Việt Á”,

nam-2022-dien-hinh-vu-viet-a-20220128095944026.htm>, (5/2/2022).

108. Asami Ishimochi. 2020. Cánh cửa đóng kín, NXB Thanh Niên, Hà

Nội.

109. kenh14.vn. 2021. “Nhìn lại những vụ án rúng động năm 2021: Từ

giết người đốt xác man rợ ở Hải Dương đến vụ án thương tâm của bé gái 5

tuổi ở Vũng Tàu”, < https://kenh14.vn/nhin-lai-nhung-vu-an-rung-dong-nam-

2021-tu-giet-nguoi-dot-xac-man-ro-o-hai-duong-den-vu-an-thuong-tam-cua-

be-gai-5-tuoi-o-vung-tau-20211218224255299.chn>, (21/12/2021).

110. Lan Khai (Trần Mạnh Tiến sưu tầm, biên soạn, giới thiệu). 2010.

Lan Khai tuyển tập, Tập 1, NXB Văn học, Hà Nội.

111. Lan Khai (Trần Mạnh Tiến sưu tầm, biên soạn, giới thiệu). 2010.

Lan Khai tuyển tập, Tập 2, NXB Văn học, Hà Nội.

160

112. Lan Khai (Trần Mạnh Tiến, Nguyễn Thanh Trường sưu tầm, nghiên

cứu và tuyển chọn). 2004. Truyện đường rừng (Tác phẩm và chuyên khảo),

NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

113. Nguyễn Vi Khanh. 2012. “Cái chết trong văn chương: từ siêu hình,

lãng mạn đến kinh dị và trinh thám”,

component/k2/30-nhung-goc-nhin-vanhoa/4940-cai-chet-trong-van-chuong-

tu-sieu-hinh-lang-man-den-kinh-di-va-trinh-tham>, (28/10/2019).

114. Nguyễn Hoành Khung. 1973. Văn học Việt Nam 1930-1945, Tập I,

Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

115. Nguyễn Hoành Khung. 1989. “Lời giới thiệu”, Văn xuôi lãng mạn

Việt Nam 1930-1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

116. Huỳnh Thị Hoa Kỳ. 1996. “Tiểu thuyết trinh thám”, Tạp chí Kiến

thức ngày nay, số 203.

117. Lê Kỳ. 2018. “Nhận diện truyện trinh thám Việt Nam”,

vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/phe-binh-van-nghe/nhan-dien-

truyen-trinh-tham-viet-nam-12735_8054.html>, (18/10/2019).

118. Lê Đình Kỵ. 1983. “Lời giới thiệu”, Tuyển tập Thế Lữ, Nxb Văn

học, Hà Nội.

119. Cao Kim Lan. 2020. Ma thuật của truyện kể, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

120. Nguyễn Lân. 2000. Từ điển và từ ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

121. Di Li. 2016. Câu lạc bộ số 7, Nxb Lao động, Hà Nội.

122. Di Li. 2018. Trại Hoa Đỏ, Nxb Lao động, Hà Nội.

123. Vũ Bội Liêu. 2000. Những sự gặp gỡ của phương Đông và phương

Tây trong ngôn ngữ và văn chương, Nxb Văn học-Trung tâm văn hóa ngôn

ngữ Đông-Tây, Hà Nội.

161

124. Bồ Tùng Linh. 2012. Liêu trai chí dị, NXB Văn học, Hà Nội.

125. Nhị Linh. 2010. “Từ Kỳ Phát đến Nguyễn Thành Luân qua Yên

Ba”,

luan-qua-yen.html>, (5/10/2019).

126. Lan Lộc. 2018. “Đánh thức dòng truyện trinh thám”,

728944.htm>, (23/10/2019).

127. Kim Tam Long. 2018. Mặt nạ trắng, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.

128. Kim Tam Long. 2020. Ẩn ức trăng, Nxb Dân trí, Hà Nội.

129. Kim Tam Long. 2012. Thảm kịch trắng, Nxb Dân trí, Hà Nội.

130. Thế Lữ. 1963 (tái bản). Lê Phong phóng viên, Nxb Ngày nay, Hà

Nội.

131. Thế Lữ. 1989 (tái bản). Mai Hương và Lê Phong, Nxb Tổng hợp

An Giang.

132. Thế Lữ. 1989 (tái bản). Tây đại bợm, Nxb Đồng Tháp.

133. Thế Lữ. 1996 (tái bản). Đòn hẹn-Gói thuốc lá, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

134. Thế Lữ. 1996 (tái bản). Đòn hẹn (tái bản), Nxb Văn nghệ Thành

phố Hồ Chí Minh.

135. Thế Lữ. 1996 (tái bản). Tiếng hú ban đêm (Tập truyện ngắn), Nxb

Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

136. Thế Lữ. 1997 (tái bản). Truyện ngắn , Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

137. Thế Lữ. 1999 (tái bản). Gói thuốc lá, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ

Chí Minh.

138. Thế Lữ. 2000 (tái bản). Vàng và máu, Nxb Văn học, Hà Nội.

139. Thế Lữ. 2003 (tái bản). Mai Hương-Lê Phong, Nxb Văn học, Hà

Nội.

162

140. Thế Lữ. 1936. “Lê Phong làm thơ”, Tạp chí Ngày nay, Tập 24-25.

141. Nguyễn Trường Thiên Lý. 1988 (tái bản). Ván bài lật ngửa, Nxb

Tổng hợp Hậu Gang

142. Hoàng Tố Mai. 2002. “Edgar Allan Poe”, Tạp chí Văn học, số 361,

tr.53-60.

143. Hữu Mai. 2001. Đêm yên tĩnh, Nxb Công an Nhân dân Nxb, Hà

Nội.

144. Hữu Mai. 2004. “Tôi với truyện trinh thám”, Văn nghệ Công an, số

9.

145. Hữu Mai. 2004 (tái bản). Ông cố vấn (2 tập), Nxb Công an Nhân

dân, Hà Nội.

146. Nguyễn Đăng Mạnh. 1997. “Quá trình hiện đại hóa văn học Việt

Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số 5.

147. Nguyễn Hữu Hồng Minh. 2010. “Thời hoàng kim của văn chương

trinh thám?”,

tham-post266263.html>, (10/9/2019).

148. Lê Hoằng Mưu. 1926. Đầu tóc mượn, Impr. De.I’Union

149. Lê Hoằng Mưu. 1929. Đêm rốt của người tội tử hình (4 quyển),

Nhà in Lưu Đức Phương.

150. Lê Hoằng Mưu. 1931. Người bán ngọc (4 quyển), Nhà in Lưu Đức

Phương.

151. Nguyễn Phong Nam. 2015. Truyện truyền kì Việt Nam – Đặc điểm

hình thái-văn hoá & lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội.

152. Phan Ngọc. 1993. “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt Nam

trong giai đoạn 1932-1940”, Tạp chí Văn học, số 4.

163

153. Thy Ngọc. 2013. “Truy tìm truyện trinh thám Việt”,

http://www.dilivn.com/tin-van-nghe/244-truy-tim-truyn-trinh-tham-viet-nam

(21.09.2013).

154. Phạm Thế Ngũ. 1988. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập

III, Nxb Đồng Tháp.

155. Thao Nguyễn (Tuyển chọn). 2013. Thế Lữ - Cây đàn muôn điệu,

Nxb Văn hoá-Thông tin, Hà Nội.

156. Vương Trí Nhàn. 2000. Những lời bàn về tiểu thuyết Việt Nam đầu

thế kỉ XX-1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

157. Vương Trí Nhàn (Biên soạn). 1996. Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội.

158. Hoàng Nhân. 1998. Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học

Việt Nam hiện đại, Nxb Mũi Cà Mau.

159. Trần Thị Mai Nhi. 1994. Văn học hiện đại Việt Nam - Giao lưu gặp

gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.

160. Nhiều tác giả. 2002. Kinh thánh trọn bộ Tân ước và Cựu ước, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

161. Võ Văn Nhơn. 2006. “Lê Hoàng Mưu – Nhà văn của những thử

nghiệm táo bạo thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số 7.

162. Biến Ngũ Nhy (1918-1921), “Kim thời dị sử - Chủ nợ bất nhơn”,

Mục “Mật thám truyện”, Công luận báo.

163. Biến Ngũ Nhy (1918-1921), “Một người ăn cắp bạc nhà nước”,

Mục “Mật thám truyện”, Công luận báo.

164. Biến Ngũ Nhy. 1921. Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc,

Imp. Moderne L. Hesloury S.Moutégout Sài Gòn.

164

165. Hoàng Kim Oanh. 2012. “Thế Lữ và năm hình mẫu truyện trinh

thám Edgar Poe”, ,

(7/1/2016).

166. Thuỵ Oanh. 2016. “Văn học trinh thám Việt Nam dưới con mắt của

giới chuyên môn”,

con-mat-cua-gioi-chuyen-mon-post620363.html>, (13/4/2018).

167. Văn Phan. 1990. Khớp hẹn, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

168. Vũ Ngọc Phan. 1989. Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

169. Bùi Huy Phồn. 1941. Gan dạ đàn bà, Impr. Hàn Thuyên

170. Bùi Huy Phồn. 1941. Tờ di chúc của dòng họ Trần Thạch, Impr.

Hàn Thuyên.

171. Bùi Huy Phồn. 1942. Mối thù truyền nghiệp, Impr. Hàn Thuyên

172. Bùi Huy Phồn. 1943. Lá thư màu thiên thanh, Impr. Hàn Thuyên

173. Bùi Huy Phồn. 1943. Món quà năm mới, Impr. Hàn Thuyên

174. Bùi Huy Phồn. 1989. Lá huyết thư, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

175. Bùi Huy Phồn. 1943. Hai giờ đêm nay, Impr. Hàn Thuyên

176. Nguyễn Như Phong. 2002. Cổ cồn trắng, Nxb Công an Nhân dân,

Hà Nội.

177. Nguyễn Như Phong. 2005. Bí mật những cuộc đời, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội.

178. Thế Phong. 1974. Lược sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945,

Nxb Vàng Son.

179. Vũ Đức Phúc. 1981. “Truyện trinh thám”, Tạp chí Văn học, số 6.

180. Nguyễn Thế Phương. 1934. Chén thuốc độc, Impr. Bảo Tồn.

181. Nguyễn Thế Phương. 1934. Giọt lệ má hồng, Impr. Tín Đức thư xã.

165

182. Nguyễn Thế Phương. 1934. Khép cửa phòng thu, Impr. Phạm Đình

Khương.

183. Edgar Poe. 2000 (tái bản). Tuyển tập Edgar Poe, Nxb Văn học, Hà

Nội.

184. Edgar Poe. 2002 (tái bản). Tuyển tập truyện ngắn Edgar Poe, Nxb

Văn học, Hà Nội.

185. Hoa Quỳnh. 2016. “Truyện trinh thám Việt Nam đang hồi sinh?”,

htm>, (13/4/2018).

186. Nguyễn Dương Quỳnh. 2018. Thăm thẳm mùa hè, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

187. Claudine Salmon (Biên soạn). 2004. Tiểu thuyết truyền thống Trung

Quốc ở Châu Á (từ thế kỉ XVII – thế kỉ XX), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

188. Nguyễn Chánh Sắt. 1925. Gái trả thù cha, Impr. J. Nguyễn Văn

Viết.

189. Thượng Sỹ, Vũ Bằng, Ngọa Long. 1971. “Văn nghiệp Phú Đức –

Tiểu thuyết gia một thời nổi tiếng ở Nam bộ”, Tạp chí Văn học, số 9.

190. Phùng Thiên Tân. 1985. Hồ sơ chưa kết thúc, Nxb Công an Nhân

dân, Hà Nội.

191. Bùi Anh Tấn. 1999. Một thế giới không có đàn bà, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội.

192. Nguyễn Hồng Thái, Trần Hoàng Thiên Kim, Trần Thiện Khanh

(2020), Sáng tạo văn học về đề tài công an nhân dân, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

193. Nguyễn Quyết Thắng. 1990. “Bình minh của tiểu thuyết hiện đại

Việt Nam”, Tạp chí Bách khoa, số 1, tr.44-49.

194. Đặng Thanh. 1984. Tấm bản đồ thất lạc, Nxb Thuận Hóa.

166

195. Đặng Thanh. 2003 (tái bản). X30 phá lưới, Nxb Công an Nhân dân,

Hà Nội.

196. Thái Chí Thanh. 1994. Nữ hoàng đá đỏ, Nxb Công an Nhân dân,

Hà Nội.

197. Thanh Niên Online. 2010. “Bỏ trống văn học trinh thám, kì ảo

Việt”, < https://thanhnien.vn/bo-trong-van-hoc-trinh-tham-ky-ao-viet-post205

209.html>, (25/8/2018).

198. Nguyễn Thành. 1997. “Những đóng góp của Thế Lữ về truyện

ngắn”, Tạp chí Cửa Việt, số 37.

199. Nguyễn Quang Thiều. 1995. Kẻ ám sát cánh đồng, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội.

200. Phan Trọng Thưởng. 2001. Văn chương - tiến trình tác giả, tác

phẩm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

201. Phan Trọng Thưởng. 1997. “Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong”,

Tạo chí Văn học, số 7.

202. Diệp Thị Thanh Thuý. 2018. “Tiểu thuyết trinh thám của nhà văn

Phú Đức trong dòng chảy tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đầu thế kỉ XX”,

-tham-cua-nha-van-Phu-Duc-trong-dong-chay-tieu-thuyet-trinh-tham-Viet-

Nam-dau-the-ky-XX.html>, (23/10/2019).

203. Nguyễn Xuân Thuỷ. 2016. Sát thủ online, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí

Minh.

204. Tzvetan Todorov. 2014 (tái bản). Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh

Đào, Lê Hồng Sâm dịch), Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.

205. Trần Thị Trâm. 1994. “Vai trò của báo chí trong sự phát triển văn

học dân tộc đầu thế kỉ XX”,Tạp chí Văn học, số 6.

167

206. Cao Vũ Trân. 2004. “Georges Simenon và tiểu thuyết trinh thám

Pháp thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 10.

207. Ngọc Trung. 2014. “Tiểu thuyết trinh thám Pháp đang trỗi dậy”,

,

(23/5/2018).

208. Nguyễn Văn Trung. 2006. “Về các loại truyện viết bằng chữ quốc

ngữ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ở Việt Nam”, Văn xuôi Nam bộ nửa đầu

thế kỉ XX, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.

209. Nguyễn Đình Tú. 2002. Hồ sơ một tử tù, Nxb Công an Nhân dân,

Hà Nội.

210. Nguyễn Sơn Tùng. 1984. Miền đất lạ, Nxb Lao động, Hà Nội.

211. Nguyễn Sơn Tùng. 1987. Hoa hồng trắng, Nxb Lao động, Hà Nội.

212. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Một mình nơi đất khách, Sở Văn hóa-

Thông tin An Giang.

213. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Viên đạn ngược chiều, Sở Văn hóa-Thông

tin An Giang.

214. Văn nghệ Quân đội. 2020. “Tác giả trinh thám Đức Anh: Như thế

nghĩa là tôi đã chào sân thành công rồi!”,

duc-anh-nhu-the-nghia-la-toi-da-chao-san-thanh-cong-roi-1255.html>,

(12/8/2020).

215. Trần Thị Vân. 2017. “Một vài đặc điểm tiểu thuyết trinh thám kinh

dị của Di Li”,

dac-diem-tieu-thuyet-trinh-tham-kinh-di-cua-di-li-9917_6665.html>,

(22/10/2019).

168

216. VOV. 2016. “3 tác giả truyện hình sự, trinh thám nặng lòng với

công chúng”,

tham-nang-long-voi-cong-chung-502867.vov>, (3/6/2022).

217. André Vanoncini. 1997. Tiểu thuyết trinh thám, Nxb Đại học Đồng

tháp.

218. Thiết Vũ. 1987. Dạ khúc, Nxb Lao động, Hà Nội.

219. Hoàng Yến. 2022. Dưới cánh đại bàng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

220. Wikipedia tiếng Việt, “Tiểu thuyết trinh thám”,

, (16/9/2020).

221. Nguyễn Xớn. 2008. “Truyện trinh thám – nhìn từ hiện tượng”,

hien-tuong.html>, (23/5/2018).

222. Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2006. “Phú Đức – Một mẫu nhà văn Nam

Bộ đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, tr. 19-23.

223. Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2015. “Nghĩ về việc nghiên cứu văn học

ở Sài Gòn-Nam Bộ”. Tạp chí Khoa học Xã hội (Viện KHXH Vùng Nam Bộ),

số 9+10 (205+206)/ 2015, tr. 97-102.

224. Zing. 2016. “Văn học trinh thám Việt Nam: Hồi sinh hay tiếp tục

yểu mệnh?”,

hay-tiep-tuc-yeu-menh-a140426.html?>, (01/11/2018).

* Tiếng Anh

225. Meyer Howard Abrams. 1999. A glossary of Literrary terms, Heinle

& Heinle Editor.

226. Maurice Bennett. 1983. "The Detective Fiction of Poe and Borges",

Comparative Literature 35:3, Duke University Press on behalf of the

University of Oregon, pg. 262-275.

169

227. Hans Bertens. 1997. "The detective" International Postmodernism:

Theory and Literary Practice, John Benjamins Publishing, pg. 195-203.

228. Brigid Brophy. 1965. "Detective Fiction: A Modern Myth of

Violence?” The Hudson Review 18:1, The Hudson Review, 11-30.

229. John Cawelti. 1976. Adventure, Mystery and Romance: Formula

Stories as Art and Popular Culture, University of Chicago Press.

230. Raymond Chandler. 1944. The Simple Art of Murder, The Atlandtic

Monthli.

231. Urszula Clark. 2007. “Discourse Stylistics and Detective Fiction: a

case study”. “https://core.ac.uk/download/187080000.pdf”, (03/11/2020).

232. Jerome Delamater, Ruth Prigozy. 1997. Theory and practice of

classic detective fiction, Praeger Publishing House.

233. S.S Van Dine. 1928. “Twenty Rules for Writing Detective Stories

Archived”, The American Magazine, September 1928.

234. S.S Van Dine. 1976. "Twenty Rules for Writing Detective Stories",

The Art of the Mystery Story, ed, Howard Haycraft (New York: Bibloand

Tannen).

235. Elana Gomel. 1995. "Mystery, Apocalipse and Utopia: The Case of

the Ontological Detective Story”, Science Fiction Studies 22:3, SF-TH Inc,

pg. 343-356.

236. Anna Huang. 1996. “The development trend of Chinese detective

novel”, Journal of Tianjin Normal University, Fifth Issue, 1996.

237. Stephen Knight. 1980. Form and Ideology in Crime Fiction,

Bloomington: Indiana University Press.

238. Larry N. Landrum. 1999. American Mystery and Dectective Novels:

A Rerence Guide, Greenwood Publishing Group.

170

239. Ellen O'Gorman. 1999. “Detective Fiction and Historical

Narrative”, Greece & Rome 46:1, Cambridge University Press, pg. 19-26.

240. Bogamil Rainov. 1975. Black novel (Русский: Черный роман),

Moscow.

241. Gary Scharnhorst and Thomas Quirk. 2010. “Crime and Detective

Fiction”, Research guide to American Literature Realism and Regionalism

1865-1914, Maple Press, York, pg. 32-37.

242. Stephen Soitos. 1996. The Blues Detective: A Study of African

American Detective Fiction, University of Massachusetts Press.

243. William Spanos. 1972. “The detective and the boundary: some

notes on the postmodern literary imagination”, Boundary 2, Duke University

Press. Octobre, pg.147-168.

244. Patrick Velardi. 1989. “Plot, character & setting: a study of mystery

& detective fiction”, ,

(22/8/2019).

* Tiếng Trung

245. 宋安娜, 泽新.1996.“中国侦探小说的发展趋势, 天津师大学报,

一九九六年第五期.

246. 巴拉排行榜.2019.“中国推理小说排行榜前十名每部都很经典,

发布时间, , (03/11/2020).

171

PHỤ LỤC

Danh mục truyện trinh thám Việt Nam dùng để khảo sát

(Xếp theo thời gian tác phẩm ra đời và theo tên tác giả)

1. Biến Ngũ Nhy. 1921. Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, đăng

trên Công luận báo (từ 10/1917), in thành sách năm 1921 (Imp. Moderne L.

Hesloury S.Moutégout Sài Gòn)

2. Biến Ngũ Nhy. 1918-1921, Một người ăn cắp bạc nhà nước, Mục

“Mật thám truyện”, Công luận báo

3. Biến Ngũ Nhy. 1918-1921. Kim thời dị sử - Chủ nợ bất nhơn, Mục

“Mật thám truyện”, Công luận báo

4. Tuấn Anh. 1925. Bí mật phi thường, S. Impr. Xưa Nay

5. Tuấn Anh. 1925. Cái rương bí mật, S. Impr. Nguyễn Văn Viết

6. Nguyễn Chánh Sắt. 1925. Gái trả thù cha, :S.: Impr. J. Nguyễn Văn

Viết

7. Dương Minh Đạt. 1927. Anh hùng ba mặt (Bí mật phi thường), NXB

Xưa và Nay, Sài Gòn

8. Dương Minh Đạt. 1927. Bình vỡ gương tan, Nxb Xưa và Nay, Sài

Gòn

9. Lê Hoằng Mưu. 1926. Đầu tóc mượn, S.: Impr. De.I’Union

10. Lê Hoằng Mưu. 1929. Đêm rốt của người tội tử hình (4 quyển), Nhà

in Lưu Đức Phương, Sài Gòn (Khởi đăng trên Lục tỉnh tân văn – từ số 2076

(16/7/1925) đến số 2182 (22/11/1925))

11. Lê Hoằng Mưu. 1931. Người bán ngọc (4 quyển), Nhà in Lưu Đức

Phương, Sài Gòn

12. Bửu Đình. 2001 (tái bản, ra đời năm 1930). Mảnh trăng thu, Nxb

Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.

172

13. Bửu Đình. 1989 (tái bản, ra đời năm 1931). Cậu Tám Lọ, Nxb Tổng

hợp, Tỉnh Tiền Giang.

14. Phú Đức. 1926. Châu về hiệp phố, Nxb Xưa và Nay

15. Phú Đức. 2003 (tái bản, ra đời năm 1929). Tôi có tội, Nxb Tổng hợp,

Tiền Giang

16. Phú Đức. 1929. Lửa lòng, Báo Công Luận

17. Phú Đức. 1930. Trường tình huyết lệ, Báo Công Luận.

18. Phú Đức. 1930. Căn nhà bí mật, Báo Công Luận.

19. Việt Đông. 1932. Trường huyết chiến (4 tập), Nhà in Đức Lưu

Phương, S.96 trang

20. Việt Đông. 1932. Ngọc nát hoa tươi (4 tập), Nhà in Đức Lưu Phương

21. Nguyễn Thế Phương. 1934. Chén thuốc độc, S.: Impr. Bảo Tồn

22. Nguyễn Thế Phương. 1934. Khép cửa phòng thu, S.: Impr. Phạm

Đình Khương

23. Nguyễn Thế Phương. 1934. Giọt lệ má hồng, S.: Impr. Tín Đức thư

24. Thúy Am. 1936. Anh hùng tương ngộ, Imprimerie Tân Dân Thư

Quán, HN

25. Thúy Am. 1937. Cái hầm bí mật, Imprimerie Tân Dân Thư Quán

26. Thúy Am. 1937. Người hay ma, Imprimerie Tân Dân Thư Quán

27. Nguyễn Ngọc Cầm. 1933. Mũi tên thù, H. Impr. Nam Mỹ

28. Nguyễn Ngọc Cầm.1939. Oan thù, Nxb Viễn Đông

29. Nguyễn Ngọc Cầm.1939. Dao bang, H.: Viễn Đông công ty

30. Trương Xuân. 1939. Bác sĩ Mai Anh, H.: Cấp tiến văn đoàn

31. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Chiếc hộp sắt và chín mạng người, H.: á

Châu

32. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Người thiếu nữ kì dị, H.: á Châu

173

33. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Món nợ kì khôi, H.: á Châu (S87.1704)

34. Bùi Huy Phồn. 1989 (tái bản, ra đời năm 1932). Lá huyết thư, Nxb

Thanh Niên, Hà Nội

35. Bùi Huy Phồn. 1941. Gan dạ đàn bà, H.: Hàn Thuyên

36. Bùi Huy Phồn. 1942. Mối thù truyền nghiệp, H.: Impr Hàn Thuyên

37. Bùi Huy Phồn. 1941. Tờ di chúc của dòng họ Trần Thạch, Nxb Hàn

Thuyên, Hà Nội.

38. Bùi Huy Phồn. 1943. Lá thư màu thiên thanh, H.: Impr Hàn Thuyên

39. Bùi Huy Phồn. 1943. Món quà năm mới, H.: Impr Hàn Thuyên

40. Bùi Huy Phồn. 1943. Hai giờ đêm nay, Impr. Hàn Thuyên

41. Thế Lữ. 1936. “Lê Phong làm thơ” , Tạp chí Ngày nay, tập 24, 25.

42. Phạm Cao Củng.1942. Hàm răng mài nhọn, Khuê Văn xuất bản

43. Phạm Cao Củng.1942. Chiếc gối đẫm máu, Khuê Văn xuất bản

44. Phạm Cao Củng.1943. Một nhà trinh thám, H.: Đời Mới.

45. Phạm Cao Củng.1945. Một cái tết rùng rợn của Kì Phát, Khuê Văn

xuất bản

46. Phạm Cao Củng. 1945. Ông già bí mật, H.: Khuê Văn

47. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản, ra đời năm 1938). Vết tay trên trần,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

48. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Chiếc tất nhuộm bùn (Chiếc tất

nhuộm bùn (ra đời năm 1938), Kho tàng họ Đặng (ra đời năm 1937)), Nxb

Công an nhân dân.

49. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Nhà sư thọt (Nhà sư thọt (ra đời

năm 1941), Người một mắt (ra đời năm 1940)), Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội.

174

50. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Đám cưới Kỳ Phát (Đám cưới Kỳ

Phát (ra đời năm 1942), Đôi hoa tai của bà chúa (ra đời năm 1942)), Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

51. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Kỳ Phát giết người (Kỳ Phát giết

người (ra đời năm 1941), Bóng người áo tím (ra đời năm 1942), Nxb Công an

nhân dân.

52. Phạm Cao Củng. 1951. Bọn người săn ngọc, Huyền Nga xuất bản

53. Phạm Cao Củng. 1951. Hai người lên máy chém, Huyền Nga xuất

bản

54. Thế Lữ. 1963 (tái bản, ra đời năm 1937). Lê Phong phóng viên, Nxb

Ngày nay, Sài Gòn.

55. Thế Lữ. 1996 (tái bản, ra đời năm 1939). Đòn hẹn – Gói thuốc lá,

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

56. Thế Lữ. 2000 (tái bản, ra đời năm 1934). Vàng và máu, Nxb Văn

học, Hà Nội.

57. Thế Lữ. 2003 (tái bản, ra đời năm 1939). Mai Hương - Lê Phong,

Nxb Văn học, Hà Nội.

58. Tô Nguyệt Đình. 2002 (tái bản, ra đời năm 1949). Bộ áo cà sa

nhuộm máu, Nxb Văn nghệ TP. HCM

59. Đặng Thanh. 2003 (tái bản, ra đời năm 1976). X30 phá lưới, Nxb

Công an Nhân dân

60. Đặng Thanh. 1984. Tấm bản đồ thất lạc, Nxb Thuận Hóa

61. Xuân Đức. 1985. Người không mang họ, Nxb Công an nhân dân

62. Phùng Thiên Tân. 1985. Hồ sơ chưa kết thúc, Nxb Công an Nhân

dân

63. Hữu Mai. 2004 (tái bản, ra đời năm 1987). Ông cố vấn (2 tập), Nxb

Công an Nhân dân

175

64. Hữu Mai. 2001. Đêm yên tĩnh, Nxb Công an Nhân dân

65. Nguyễn Sơn Tùng. 1987. Hoa hồng trắng, Nxb Lao động

66. Nguyễn Sơn Tùng. 1984. Miền đất lạ, Nxb Lao động

67. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Viên đạn ngược chiều, Sở văn hóa thông

tin An Giang

68. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Một mình nơi đất khách, Sở văn hóa thông

tin An Giang

69. Nguyễn Trường Thiên Lí. 1988. Ván bài lật ngửa, Nxb Tổng hợp

Hậu Gang

70. Thiết Vũ. 1987. Dạ khúc, Nxb Lao động

71. Văn Phan. 1990. Khớp hẹn, Nxb Công an Nhân dân

72. Thái Chí Thanh. 1994. Nữ hoàng đá đỏ, Nxb Công an Nhân dân

73. Bùi Anh Tấn. 1999. Một thế giới không có đàn bà, Nxb Công an

Nhân dân

74. Đắc Đình Trung. 2002. Hồ Sơ một tử tù, Nxb Công an Nhân dân

75. Nguyễn Như Phong. 2002. Cổ cồn trắng, Nxb Công an Nhân dân

76. Nguyễn Như Phong. 2005. Bí mật những cuộc đời, Nxb Công an

Nhân dân

77. Giản Tư Hải. 2011. Âm mưu thay não, Nxb Văn học

78. Giản Tư Hải. 2011. Ổ buôn người, Nxb Công an Nhân dân

79. Giản Tư Hải. 2011. Minh Mạng mật chỉ, Nxb Thanh niên

80. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Nỗi ám ảnh tuổi thơ, Gia Lai: Hồng

Bàng

81. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Li-Ta xinh đẹp, Nxb Hồng Bàng

82. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Kẻ sát nhân không bao giờ bị bắt, Nxb

Hồng Bàng

83. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Cái chết cô ca sĩ trẻ, Nxb Hồng Bàng

176

84. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Tên sát nhân có tài mở khóa, Nxb

Hồng Bàng

85. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Căn phòng khóa trái, Nxb Hồng Bàng

86. Nguyễn Thanh Hoàng. 2016. Cuộc truy lùng nghiệt ngã, Nxb Hồng

Bàng

87. Nguyễn Xuân Thuỷ. 2016. Sát thủ online, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh

88. Giản Tư Hải. 2018. Mật mã Cham Pa, Nxb Thanh niên

89. Giản Tư Hải. 2021. Đại dịch kép, NXB Thanh niên

90. Giản Tư Hải. 2021. Thiên Địa Hội An Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

91. Di Li. 2016. Câu lạc bộ số 7, Nxb Lao động

92. Di Li. 2018. Trại Hoa Đỏ, Nxb Lao động

93. Đức Anh. 2019. Tường lửa, Nxb Hội Nhà văn

94. Đức Anh. 2019. Thiên thần mù sương, Nxb Văn học

95. Đức Anh. 2019. Đảo bạo bệnh, Nxb Công an nhân dân

96. Kim Tam Long. 2018. Mặt nạ trắng, Nxb Hội Nhà văn

97. Kim Tam Long. 2020. Ẩn ức trắng, Nxb Dân trí

98. Kim Tam Long. 2022. Thảm kịch trắng, Nxb Dân trí

99. Nguyễn Dương Quỳnh. 2018. Thăm thẳm mùa hè, Nxb Hội Nhà văn

100. Hoàng Yến. 2022. Dưới cánh đại bàng, Nxb Phụ nữ Việt Nam

177