VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Thế Bắc
THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Hà Nội, năm 2023
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Thế Bắc
THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
2. PGS. TS. CAO KIM LAN
Hà Nội, năm 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực và không
trùng lặp với công trình nào của người khác, các thông tin trích dẫn trong
luận án đều có xuất xứ rõ ràng và được chỉ rõ nguồn trích dẫn.
Hà Nội, tháng 10 năm 2023
Tác giả luận án
Nguyễn Thế Bắc
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều
của các tập thể và cá nhân.
Tôi xin cảm ơn lãnh đạo, giảng viên, cán bộ, nhân viên các cơ
quan: Học viện Khoa học xã hội; Viện Văn học; Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam đã tận tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi học
tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo các cơ quan: Ban Tuyên giáo
Trung ương; Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương;
Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật; các đồng nghiệp, bằng hữu
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên, khích lệ tôi học tập, nghiên cứu
và thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc đối với
PGS. TS. Phan Trọng Thưởng và PGS. TS. Cao Kim Lan đã quan tâm, tận
tình hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu đề tài luận án, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận án này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối gia đình đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi, là nguồn động viên và là chỗ dựa tinh thần vững chắc để tôi yên
tâm học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2023
Tác giả luận án
Nguyễn Thế Bắc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 3
2.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
5. Đóng góp mới về khoa học .......................................................................... 6
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn ......................................................................... 6
7. Cấu trúc của luận án ................................................................................... 7
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 8
1.1. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở nước ngoài ........................ 8
1.2. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở trong nước ...................... 21
1.2.1. Giai đoạn trước 1945 ......................................................................... 21
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 ................................................................ 23
1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay................................................................... 25
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 41
Chương 2: SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA
THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM ................................... 43
2.1. Nguồn gốc và những yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại
truyện trinh thám Việt Nam ......................................................................... 44
2.1.1. Bối cảnh lịch sử-xã hội, văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX 44
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại truyện trinh thám
Việt Nam ...................................................................................................... 50
2.1.2.1. Nhu cầu tinh thần của xã hội và công chúng đương thời .......... 50
2.1.2.2. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Tây ........................... 52
2.1.2.3. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Đông ......................... 54
2.1.2.4. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học truyền thống Việt Nam .......... 56
2.1.2.5. Ảnh hưởng của xuất bản, báo chí ............................................... 58
2.2. Các giai đoạn phát triển thể loại truyện trinh thám Việt Nam .......... 59
2.2.1. Giai đoạn hình thành và phát triển thể loại từ đầu thế kỉ XX đến
1945 ............................................................................................................. 59
2.2.2. Giai đoạn biến đổi mô hình thể loại từ 1945 đến 1986 ..................... 65
2.2.3. Giai đoạn đổi mới, cách tân thể loại từ 1986 đến nay ....................... 67
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 69
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM .............. 71
3.1. Sự hỗn dung, giao thoa thể loại ............................................................. 71
3.1.1. Yếu tố truyền kì trong truyện trinh thám Việt Nam .......................... 71
3.1.2. Yếu tố kinh dị, đường rừng trong truyện trinh thám Việt Nam ........ 74
3.1.3. Yếu tố kiếm hiệp trong truyện trinh thám Việt Nam ........................ 77
3.2. Đặc điểm một số thủ pháp nghệ thuật .................................................. 79
3.2.1. Về đề tài ............................................................................................. 79
3.2.2. Về cốt truyện...................................................................................... 84
3.2.3. Về nhân vật ........................................................................................ 92
3.2.4. Về không gian, thời gian nghệ thuật................................................ 100
3.3. Vấn đề hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật ................................................. 105
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 112
Chương 4: XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ
LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 114
4.1. Những yếu tố chi phối sự vận động và phát triển thể loại ................ 114
4.1.1. Quan niệm mới về chức năng giải trí của văn học và nhu cầu của
công chúng hiện nay .................................................................................. 114
4.1.2. Sự đa dạng, phong phú của chất liệu đời sống ................................ 119
4.1.3. Đội ngũ tác giả có đam mê, khát vọng ............................................ 121
4.1.4. Sự phát triển của báo chí, kênh phát hành và một số loại hình
nghệ thuật gần gũi với truyện trinh thám .................................................. 127
4.1.5. Sự giao lưu, hội nhập quốc tế .......................................................... 132
4.2. Xu hướng vận động, phát triển của thể loại ....................................... 135
4.2.1. Xu hướng truyện trinh thám kinh dị ................................................ 135
4.2.2. Xu hướng truyện trinh thám lịch sử ................................................ 138
4.2.3. Xu hướng truyện trinh thám hình sự ............................................... 141
Tiểu kết chương 4 ......................................................................................... 147
KẾT LUẬN ................................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152
PHỤ LỤC...................................................................................................... 172
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện trinh thám hiện đại là thể loại văn học được hình thành ở phương
Tây từ giữa thế kỉ XIX với sự đặt nền móng của nhà văn Mĩ Egar Poe bằng
truyện trinh thám Vụ giết người ở phố Morgue ra đời năm 1841 và nhanh
chóng trở thành một thể loại phát triển mạnh ở nhiều nước như Mĩ, Anh,
Pháp, v.v… Tuy nhiên, cả một thời gian dài, thể loại này chỉ được xem là văn
học giải trí, văn học hạng hai, là cận văn học và ít nhận được sự quan tâm của
giới nghiên cứu. Mãi về sau, từ thập kỉ 70 của thế kỉ XX, khi mà tiểu thuyết
trinh thám phát triển ở đỉnh cao và nhu cầu đọc truyện trinh thám trở thành
một hiện tượng xã hội quan trọng, đặc biệt là sự ảnh hưởng của thể loại này
đối với văn chương tiểu thuyết, các nhà nghiên cứu phương Tây mới đặt vấn
đề nghiên cứu truyện trinh thám một cách nghiêm túc.
Ở Việt Nam, cuộc xâm chiếm và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
đã khiến lịch sử, xã hội, văn hóa Việt Nam có sự chuyển biến sâu sắc. Trên
lĩnh vực văn hóa, sự gặp gỡ văn hóa Đông-Tây đã khiến văn hóa Việt Nam
dần thoát khỏi cái bóng văn hóa Trung Hoa để bắt đầu mở rộng tiếp xúc với
văn hóa phương Tây, chủ yếu là văn hóa Pháp, từ đầu thế kỉ XX. Sự giao
thoa, gặp gỡ Đông-Tây khiến nền văn học Việt Nam có sự vận động và phát
triển theo hướng hiện đại hoá, dẫn đến sự xuất hiện nhiều thể loại mới, trong
đó có thể loại truyện trinh thám. Từ khi ra đời ở thời điểm đầu thế kỉ XX,
truyện trinh thám Việt Nam cũng đã nhanh chóng ghi dấu ấn của mình trong
nền văn học dân tộc. Đây là thể loại văn học mới ở Việt Nam, song đã có quá
trình phát triển, có thành tựu, có đội ngũ tác giả, hệ thống tác phẩm và được
ghi nhận, đánh giá trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam.
1
Trong lịch sử nghiên cứu văn học nước ta, truyện trinh thám cũng là thể
loại văn học từng được giới nghiên cứu quan tâm bàn đến nhưng mới chỉ là
bước đầu, còn tản mạn, thiếu tập trung, chưa có tính hệ thống, được thể hiện
qua một vài hội thảo quy mô nhỏ, một số bài viết được in trên báo, tạp chí,
những lời tựa ở những cuốn sách, một vài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
hoặc được đề cập đến trong một số công trình liên quan.
Mặc dù đã có sự quan tâm bàn đến thể loại này ở nước ta như một sự nỗ
lực của giới nghiên cứu, lí luận, phê bình nhằm đưa đến một cái nhìn khách
quan, công bằng hơn về vai trò, vị trí của thể loại truyện trinh thám trong văn
học Việt Nam nhưng hiện nay vẫn còn khá nhiều vấn đề đặt ra đối với thể loại
truyện trinh thám Việt Nam như: vấn đề nguồn gốc, quá trình ảnh hưởng, đặc
trưng thể loại, thi pháp thể loại, bản chất thẩm mĩ của thể loại, thành tựu của
thể loại, v.v…
Về mặt lịch sử, thông qua việc tiếp thu thể loại truyện trinh thám phương
Tây kết hợp với truyện vụ án phương Đông và các thể loại của văn học truyền
thống như truyện truyền kì, truyện kiếm hiệp, truyện kinh dị, v.v… truyện
trinh thám Việt Nam ra đời, đem đến cho người đọc món ăn tinh thần hấp
dẫn. Ra đời, phát triển và có những dấu ấn nhất định ở nửa đầu thế kỉ XX,
truyện trinh thám Việt Nam nửa sau thế kỉ XX bị lắng xuống do các tác động
của lịch sử-xã hội và văn học. Tuy nhiên, ngày nay, truyện trinh thám Việt
Nam đang có dấu hiệu phát triển trở lại thành một hiện tượng văn học với đội
ngũ tác giả trẻ tài năng và nhiều khát vọng. Cùng với đó, một thế hệ công
chúng mới đang hình thành và có nhu cầu mới về văn học khiến thể loại
truyện trinh thám trở thành nhu cầu khách quan của văn học. Đặc biệt, từ
1986 trở lại đây, do ảnh hưởng của nền kinh tế mở cửa và giao lưu văn hóa
quốc tế, ở nước ta, nhu cầu đọc truyện trinh thám cũng nhiều hơn. Không chỉ
đọc truyện trinh thám nước ngoài được dịch, độc giả nước ta còn có nhu cầu
2
đọc truyện trinh thám Việt Nam. Vì thế mà những tác phẩm truyện trinh thám
Việt Nam tiếp tục ra đời, không những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa,
tạo nên sự phát triển đa dạng cho nền văn học nước nhà mà còn đóng góp lớn
vào đời sống giải trí và công cuộc bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ gìn trật tự xã
hội. Hiện nay, tuy không nhiều tác giả, tác phẩm truyện trinh thám nhưng
những tác phẩm trinh thám ra đời đều đặn những năm gần đây đã cho thấy
dấu hiệu trở lại của thể loại này, đồng thời cũng cho thấy sức sống tiềm tàng
của truyện trinh thám trong dòng chảy chung của văn học dân tộc.
Dưới ánh sáng của các thành tựu nghiên văn học và các thông tin cập
nhật về văn học, nhất là văn học thế giới, truyện trinh thám đang có nhu cầu
được nghiên cứu lí giải một cách hệ thống, đầy đủ hơn.
Với những lí do trên, đề tài nghiên cứu Thể loại truyện trinh thám trong
văn học Việt Nam hiện đại mà chúng tôi lựa chọn làm đề tài nghiên cứu thực
hiện luận án vừa có tính lịch sử, tính khoa học, vừa có tính thời sự cấp thiết
không chỉ đối với giới nghiên cứu mà còn đối với giới sáng tác, tiếp nhận và
thưởng thức văn học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thể loại truyện trinh thám Việt Nam từ hướng tiếp
cận lịch sử văn học nhằm dựng nên diện mạo của một thể loại văn học có
nguồn gốc phương Tây nhưng đã xuất hiện, hình thành và phát triển, có thành
tựu nhất định trong bối cảnh đặc thù của Việt Nam.
Luận án cũng nhằm đánh giá và dự báo về khả năng phát triển và xu
hướng vận động của thể loại truyện trinh thám trong dòng chảy văn học Việt
Nam hiện nay và tương lai, đóng góp thêm cơ sở khoa học cho việc nghiên
cứu sự vận động của văn học Việt Nam nói chung trong quá trình đổi mới,
giao lưu hội nhập với văn học thế giới.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu, luận án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu
cơ bản là triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ để đưa ra được những kết
luận khoa học, cụ thể:
- Tìm hiểu, phân tích cơ sở lí luận và thực tiễn để lí giải sự ra đời và quá
trình vận động, phát triển của thể loại truyện trinh thám trong nền văn học
Việt Nam.
- Chỉ ra những quan niệm, đặc trưng thể loại truyện trinh thám nói chung
và truyện trinh thám Việt Nam nói riêng.
- Đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, khoa học về vị trí, vai
trò của thể loại này đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Hệ thống hoá những đặc điểm tiêu biểu của thể loại truyện trinh thám
Việt Nam.
- Trên cơ sở thực tiễn đời sống văn học và các nhân tố ảnh hưởng, đánh
giá xu hướng vận động, nhận định và dự báo về tương lai phát triển của thể
loại truyện trinh thám Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Để có thể nhận diện được tiến trình phát triển của thể loại truyện trinh
thám Việt Nam, đối tượng khảo sát và nghiên cứu của luận án bao gồm toàn
bộ các tác phẩm văn học trinh thám trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại,
từ khi bắt đầu hình thành thể loại văn học này ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX
cho đến nay. Song song với việc khảo sát tác phẩm, luận án cũng tiến hành
xem xét đội ngũ tác giả như một trong những nhân tố quan trọng nhằm chỉ ra
sự hình thành và vận động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam từ điểm
nhìn lịch sử văn học.
4
Luận án cũng nghiên cứu những nhân tố tác động đến thể loại truyện
trinh thám Việt Nam như: lịch sử-xã hội, văn hoá, văn học, công chúng-bạn
đọc văn học, v.v…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu một cách hệ thống tình hình nghiên cứu, quá
trình hình thành, vận động và phát triển, đặc điểm và xu hướng vận động của
thể loại truyện trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay, luận án phải
tiếp cận với một khối lượng tác phẩm trinh thám khá lớn. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ cho phép, trên cái nền chung đó, đối với từng nội dung cụ thể,
chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu sâu những tác giả, tác phẩm truyện
trinh thám tiêu biểu trong mỗi giai đoạn phát triển của thể loại này từ khi
chúng ra đời đến nay.
Luận án chỉ nghiên cứu, khảo sát những tác giả, tác phẩm truyện trinh
thám của Việt Nam và ở Việt Nam. Những truyện trinh thám dịch và những
truyện trinh thám tiếng Việt Nam được phát hành ở nước ngoài chỉ để tham
khảo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp văn hoá-lịch sử: để nghiên cứu yếu tố văn hoá-lịch sử tác
động đến sự hình thành và vận động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam
trong các giai đoạn phát triển.
- Phương pháp loại hình: để nghiên cứu, lí giải, phân tích những đặc
trưng thể loại và đặc điểm truyện trinh thám Việt Nam.
- Phương pháp so sánh: để thấy sự tương đồng và dị biệt giữa truyện
trinh thám Việt Nam với truyện trinh thám thế giới.
5
- Phương pháp xã hội học: để nghiên cứu tác động xã hội từ công chúng
và người đọc đối với thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
- Phương pháp liên ngành: để có hệ tham chiếu, tham khảo đầy đủ, rộng
rãi với các lĩnh vực, loại hình khác như điện ảnh, sân khấu, v.v...
Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các thao tác như: khảo sát, thống kê, phân
tích, so sánh, tổng hợp, v.v… để hỗ trợ các phương pháp nêu trên trong quá
trình nghiên cứu đề tài luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học
Kế thừa những nghiên cứu đi trước, dựa trên cơ sở lí thuyết loại hình và
lịch sử-văn hóa, từ kết quả nghiên cứu lịch sử và thi pháp thể loại, luận án là
công trình nghiên cứu một cách hệ thống về thể loại truyện trinh thám Việt
Nam từ góc nhìn lịch sử văn học.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ quy luật hình thành,
vận động, các giai đoạn phát triển, những thành tựu cơ bản, xu hướng vận
động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam trong các giai đoạn; đánh giá và
dự báo xu hướng vận động của thể loại truyện trinh thám Việt Nam hiện nay
và tương lai.
Luận án góp phần làm sáng rõ, khẳng định đặc trưng chung thể loại
truyện trinh thám và đặc điểm truyện trinh thám Việt Nam; đánh giá khách
quan những đóng góp, vị trí, vai trò của thể loại truyện trinh thám đối với sự
vận động, đa dạng hóa, hiện đại hóa văn học Việt Nam.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Không chỉ góp phần làm sáng tỏ hơn những đóng góp của thể loại truyện
trinh thám đối với quá trình phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại,
luận án còn là sự đóng góp quan trọng đối với việc khẳng định đặc trưng thể
loại truyện trinh thám và đặc điểm thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
6
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nhận diện rõ sự hình thành,
quy luật vận động, những thành tựu cũng như đặc điểm, xu hướng vận động
của thể loại truyện trinh thám trong văn học Việt Nam hiện đại. Với những
phân tích, đánh giá một cách cụ thể và toàn diện về thể loại truyện trinh thám
trong văn học Việt Nam hiện đại, luận án có thể trở thành nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho giới nghiên cứu, giảng dạy và học tập cũng như giới sáng
tác và công chúng thưởng thức văn học Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung của luận án được cấu trúc
thành 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
- Chương 2: Sự ra đời và các giai đoạn phát triển thể loại truyện trinh
thám Việt Nam.
- Chương 3: Đặc điểm truyện trinh thám Việt Nam.
- Chương 4: Xu hướng vận động và phát triển của thể loại truyện trinh
thám Việt Nam hiện nay.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở nước ngoài
Nguồn gốc thực sự của truyện trinh thám hiện đại ẩn chứa trong báo chí
phổ biến vào đầu thế kỉ XIX ở phương Tây, nơi các vụ án, quá trình điều tra
trở thành nguồn cứ liệu hấp dẫn cho loại hình kể chuyện này phát triển mạnh
mẽ. Nhà văn Mĩ Edgar Allan Poe được coi là cha đẻ thể loại trinh thám đã
quan niệm truyện trinh thám là “một thể loại văn học duy lí, một trò chơi trí
tuệ” [183]. Trong sáng tác của ông, mỗi cốt truyện đều bắt đầu bằng một vụ
án đặt ra những “thách thức” khiến người thám tử phải vận dụng đầu óc xét
đoán và phương pháp suy luận khoa học để tìm ra thủ phạm, làm sáng tỏ bí
mật. Ở Vụ án đường Morgue và Lá thư bị mất, tác giả Edgar Poe đã miêu tả
một cách tỉ mỉ quá trình điều tra của thám tử bằng “một sự nhận dạng trí tuệ
trong cách suy luận của chúng ta với cách suy luận của đối phương chúng ta”
[183, tr.454] để tìm ra thủ phạm vụ giết người và vụ mất cắp lá thư. Quá trình
ấy như một “trò chơi trí tuệ” mà người chiến thắng là người biết “bước vào
đầu óc địch thủ, đồng nhất với hắn và thường chỉ bằng nháy mắt là anh ta phát
hiện ra cách độc nhất, một cách mà đôi khi đơn giản đến vô lí, là thu hút địch
thủ vào một tính toán sai lầm” [183, tr.637]. Nhân vật thám tử Charles Dupin
trong truyện của Edgar Poe được xây dựng trở thành một mẫu hình thám tử
chuyên nghiệp đầu tiên trong văn học.
Trong Edgar Poe và truyện ngắn, nhà văn kiệt xuất của văn chương Mĩ -
Latinh thế kỉ XX Jorge Luis Borges đã từng đánh giá giá trị của truyện trinh
thám và chỉ ra bản chất, đặc trưng của thể loại này: “Văn học của chúng ta
đang hướng về sự hỗn loạn, v.v… Trong thời kì hỗn loạn ấy, có một thứ vẫn
giữ, giữ một cách khiêm tốn, những giá trị truyền thống: đó là truyện trinh
8
thám […] ta không thể hình dung một truyện trinh thám không có phần mở
đầu và cởi nút” [19, tr.707], tức là ông đã khẳng định vai trò của hành trình
điều tra vụ án trong truyện trinh thám. Khi phân tích truyện trinh thám của
Edgar Poe, tác giả Jorge Luis Borges đã nhận xét: truyện trinh thám “là một
thể loại văn học lí trí, một thể loại kì ảo, v.v… nhưng đó là thể loại kì ảo có
nguồn gốc từ trí tuệ chứ không phải chỉ bằng tưởng tượng. Truyện trinh thám
có nguồn gốc từ cả hai thứ đó, dĩ nhiên, nhưng trước hết phải bằng trí tuệ”
[19, tr.699]. Ông cũng khẳng định sự thành danh của Edgar Poe ở thể loại này
đến mức đánh giá Edgar Poe là người không chỉ sáng tạo ra truyện trinh thám
mà qua truyện trinh thám của mình, Edgar Poe sáng tạo ra một lớp công
Ngày nay có một loại độc giả đặc biệt, những độc giả của truyện trinh thám.
Những độc giả này – mà người ta gặp ở mọi nước trên thế giới, với số
lượng hàng triệu – chính là những độc giả của Edgar Poe […] độc giả
truyện trinh thám là một độc giả hoàn toàn không mê tín và vừa đọc vừa
nghi ngờ, một nỗi nghi ngờ đặc biệt […]. Truyện trinh thám đã tạo nên một
loại độc giả đặc biệt. Đó là điều người ta thường quên khi đánh giá tác
phẩm của Edgar Poe; bởi vì nếu như Edgar Poe đã sáng tạo ra truyện trinh
thám thì ông đồng thời cũng sáng tạo ra độc giả của truyện trinh thám
chúng riêng, đồng thời đó cũng là độc giả của truyện trinh thám nói chung:
[17].
Với bài viết Twenty Rules for Writing Detective Stories (Hai mươi quy
tắc của tiểu thuyết trinh thám), (The American Magazine, September, 1928),
nhà văn Mĩ S.S Van Dine đã đưa ra 20 quy tắc viết tiểu thuyết trinh thám. Ở
quy tắc thứ 5, S.S Van Dine nhấn mạnh: “Thủ phạm phải được xác định bằng
những suy luận logic, không phải do ngẫu nhiên hay trùng hợp hoặc thú tội
không có động cơ” [51]. Điều đó cho thấy tác giả khẳng định tính lí trí, logic
trong quá trình xét đoán của thám tử trong quá trình đi tìm thủ phạm.
9
Năm 1978, Tzvetan Todorov có công trình Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh
Đào và Lê Hồng Sâm dịch, NXB Đại học Sư phạm, 2014). Trong công trình
này, tác giả nghiên cứu và trình bày ở mục 1: Loại hình của tiểu thuyết trinh
thám. Ở đây, Todorov đã đánh giá và rút gọn 20 quy tắc viết tiểu thuyết trinh
1. Cuốn tiểu thuyết phải có nhiều nhất là một thám tử và một thủ phạm, và ít
nhất là một nạn nhân (một xác chết).
2. Thủ phạm không được là một tội phạm chuyên nghiệp; không được là
thám tử; phải giết người vì lí do riêng của cá nhân.
3. Ái tình không có chỗ trong tiểu thuyết trinh thám.
4. Thủ phạm phải có một tầm quan trọng nào đó:
a. Trong đời: không phải là một nam hay nữ hầu phòng.
b. Trong sách: là một trong các nhân vật chính.
5. Mọi sự đều phải được giải thích một cách duy lí; cái kì ảo không được
chấp nhận ở đây.
6. Không có chỗ cho miêu tả cũng như phân tích tâm lí.
7. Với các thông tin về truyện, cần tuân thủ sự đối ứng sau: “tác giả: độc
giả = tội phạm: thám tử”.
8. Cần tránh các tình thế và các giải pháp tầm thường tẻ nhạt [204, tr.17-
thám mà S. S Van Dine đã nêu thành mấy điểm sau:
18].
Cũng trong công trình Thi pháp văn xuôi, Tzvetan Todorov đã thể hiện
Tiểu thuyết trinh thám có những chuẩn mực của nó; làm “tốt hơn” những gì
mà các chuẩn mực ấy đòi hỏi, là đồng thời làm “kém đi”: người nào muốn
làm cho tiểu thuyết trinh thám “hay hơn”, là người đó đang làm “văn
chương”, chứ không phải tiểu thuyết trinh thám. Tiểu thuyết trinh thám
tuyệt nhất không phải là cuốn tiểu thuyết vi phạm quy tắc của thể loại, mà là
cuốn tiểu thuyết tuân theo những quy tắc này: Không có hoa lan cho cô
Blandish là hiện thân của thể loại, chứ không phải một sự vượt quá thể loại
quan niệm về thể loại tiểu thuyết trinh thám:
[204, tr.9].
10
Mặc dù thừa nhận về hạn chế và khó khăn trong việc nghiên cứu văn chương
theo hướng nghiên cứu thể loại nhưng ông cũng khẳng định văn học trinh
thám thuộc lĩnh vực văn học quần chúng, việc xem xét các thể trong dòng văn
học này không hề khó khăn: “Vậy việc làm rõ các thể ở bên trong tiểu thuyết
trinh thám xem ra tương đối dễ. Nhưng muốn thế, cần phải bắt đầu bằng sự
miêu tả các “loại”, như vậy cũng có nghĩa là bắt đầu bằng sự xác định giới
hạn của chúng” [204, tr.9-10].
Theo Tzvetan Todorov, truyện trinh thám có ba kiểu loại chính: tiểu
thuyết ẩn ngữ, tiểu thuyết đen và tiểu thuyết phiêu lưu. Đồng thời, ông cũng
chỉ ra sự khác nhau và những đặc trưng cơ bản của từng loại trinh thám đó.
Ông quan niệm truyện trinh thám là một kiểu loại văn học đặc thù, nó cần
được đánh giá theo những tiêu chí thích hợp.
Qua công trình Thi pháp văn xuôi, ta thấy nhà nghiên cứu Tzvetan
Todorov đã tập trung xác định những đặc trưng thể loại và phân loại truyện
trinh thám dựa trên những tiêu chí cụ thể, nhất quán và khoa học.
Ở cuốn Tiểu thuyết phiêu lưu, Tiểu thuyết trinh thám và Tiểu thuyết lãng
mạn (Adventure, Mystery and Romance, Univercity of Chicago Press, 1976),
nhà nghiên cứu người Mĩ G. John Cawelti cho rằng tiểu thuyết trinh thám là
một thể loại độc lập với tiểu thuyết phiêu lưu và tiểu thuyết lãng mạn. G. John
Cawelti cũng đã có nhận định về mô hình và vị thế của thể loại truyện trinh
thám, được Laura Behling đồng tình và dẫn lại: “Truyện trinh thám cổ điển
đòi hỏi bốn vai cơ bản: nạn nhân, tội phạm, thám tử và những người có nguy
cơ bị đe dọa bởi tội ác” [229, tr.34]; “Truyện trinh thám không chỉ là một hình
thức nghệ thuật vui vẻ đối với bạn đọc thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX mà
còn tạo ra một sự giải thoát lâm thời trước hồ nghi và tội lỗi khởi phát từ
những đổi thay quá lớn của văn hóa” [229, tr.34]. Đó là mô hình nhân vật tiểu
thuyết trinh thám khá gần gũi với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, đồng
11
thời nhận định đó cũng cho thấy G. John Cawelti không chỉ phân loại truyện
trinh thám mà còn xác định mô hình nhân vật và đánh giá cao vị thế, vai trò,
chức năng của thể loại này.
Trong Black novel – Tiểu thuyết đen (tiếng Nga: Черный роман, 1975)
của Rainov, nhà nghiên cứu Fosca cũng cho rằng: “Có thể định nghĩa tiểu
thuyết trinh thám như một câu chuyện kể về sự săn đuổi con người [...] mà
trong đó được sử dụng tiến trình xét đoán đặc biệt, cho phép lí giải những sự
kiện bề ngoài không đáng kể để từ chúng có thể có được một kết luận nhất
định […] Thiếu điều đó […] sẽ không là tiểu thuyết trinh thám” [240]. Nhận
định trên cho thấy, với Fosca, cốt lõi làm nên đặc trưng của thể loại trinh
thám là ở “tiến trình xét đoán đặc biệt” chứ không phải nội dung của truyện
có tính hình sự hay không có tính hình sự, cũng có nghĩa là ông nhấn mạnh
đến tính trí tuệ, khoa học của truyện trinh thám.
Trong khi đó, ở cuốn Tiểu thuyết trinh thám (tiếng Pháp: Le Roman
Policier, 1997), tác giả Vanoncini đã quan niệm về một mô hình truyện trinh
thám bao gồm ba yếu tố chính: nạn nhân - thủ phạm - người điều tra (thám tử)
khi cho rằng: “Nội dung trinh thám được bố trí theo chiều dài một trục trung
tâm của biện giải, người điều tra tiến lên theo đó từ bí mật ban đầu thường
gắn với nạn nhân của một vụ sát hại cho đến bước giải quyết thường là sự
nhận biết kẻ sát nhân” [217]. Điều này cũng gần gũi với quan niệm về truyện
trinh thám của các nhà văn, các nhà nghiên cứu khác. Ở tác phẩm này,
Vanoncini cũng đã phân loại và đánh giá các khuynh hướng tiểu thuyết trinh
thám, mà tiêu biểu là khuynh hướng tiểu thuyết đen và tiểu thuyết kinh dị.
Theo đó, dù tiểu thuyết trinh thám có nhiều khuynh hướng nhưng phát triển
theo khuynh hướng nào thì tiểu thuyết trinh thám vẫn xoay quanh mô hình
nhân vật nạn nhân-thủ phạm-người điều tra. Nhận định đó cho thấy Vanoncini
cũng xác định mô hình nhân vật cốt lõi của truyện trinh thám tương tự với
12
quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khác, như quan điểm của Velerdi nêu
Tác giả giới thiệu thám tử, tội ác, vài bằng chứng và mối nghi ngờ. Cao
trào của câu chuyện xuất hiện khi thám tử công bố tên tội phạm và lí giải
làm cách nào mà bí ẩn ấy được giải quyết. Truyện trinh thám là loại truyện
xoay quanh một bí ẩn cần khám phá, trong đó nhất định có một tên tội phạm
và có một hành trình điều tra phá án [244].
trong Plot, cheracter & setting: a study of mystery & detective fiction:
Bên cạnh những nghiên cứu nhằm định hình trinh thám như một thể loại
văn học đại chúng hấp dẫn gắn liền với các vấn đề như: truyện trinh thám là
gì, những nguyên tắc tổ chức kết cấu truyện trinh thám, các yếu tố đặc trưng
và mô hình phổ biến của truyện trinh thám, những nghiên cứu về thể loại này
trên thế giới tiếp tục mở rộng ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau.
Trong Trinh thám và giới hạn: vài lưu ý về hư cấu văn chương hậu hiện
đại (The Detective and the Boundary: Some Notes on the Postmodern
Literary Imagination, 1972), William Spanos đã dựa trên những sáng tác của
Edgar Poe và Conan Doyle để khái quát các nguyên tắc điều tra để giải quyết
Cách giải quyết vấn đề trong các truyện trinh thám thường rất lôi cuốn và
hồi hộp bởi vì nó dựa vào sự quan sát nhạy bén, dựa vào các tư chất đặc
biệt và một số yếu tố khác […]. Sự giải quyết vấn đề ở đây dựa vào những
điều chắc chắn mà khoa học và tâm lí học có thể chứng minh được theo
phương pháp quy nạp – một quá trình suy luận về mối quan hệ giữa các sự
kiện rời rạc, từ đó đưa ra một lời giải thích hợp lí cho những bí ẩn, tội ác có
vẻ như tồn tại một cách ngẫu nhiên [243, tr.150].
các nghi vấn trong truyện trinh thám:
Quan điểm đó của William Spanos dường như đã khái quát khá toàn diện
bản chất đặc trưng của truyện trinh thám: đi tìm bí ẩn, điều tra để tìm ra tội
phạm (“cuối cùng các tội ác cũng được làm sáng tỏ”) bằng suy luận logic
khoa học (“dựa vào sự quan sát nhạy bén, dựa vào các tư chất đặc biệt và một
13
số yếu tố khác […] qua các suy luận chặt chẽ”, hấp dẫn (“rất lôi cuốn và hồi
hộp”) và được độc giả chấp nhận sự hợp lí (“đưa ra một lời giải thích hợp lí
cho những bí ẩn, tội ác”).
Nhà nghiên cứu người Nga Bogamil Rainov, trong công trình Black
novel – Tiểu thuyết đen (tiếng Nga: Черный роман, 1975), đã gọi các dạng
tiểu thuyết về tội phạm là tiểu thuyết đen. Ông cho rằng trong sự phát triển
của mình, tiểu thuyết trinh thám đã gạt bỏ và phá vỡ hầu như tất cả mọi phép
tắc đã cố quy định và hạn chế đặc thù của nó, tuy vậy nó vẫn giữ một nét chủ
yếu: sự trần thuật văn học gắn liền một cách không thay đổi với sự phạm tội.
Ông phân tích tội phạm như một chất liệu cốt yếu. Ông cũng cho rằng tiểu
thuyết tình báo-phản gián như một hình thức của tiểu thuyết trinh thám [240].
Lấy truyện trinh thám làm đối tượng đối sánh khi nghiên cứu văn học
trong bối cảnh Chủ nghĩa hậu hiện đại và tiểu thuyết hậu hiện đại xuất hiện,
một số nhà nghiên cứu đã đánh giá về truyện trinh thám, và từ đó hình thành
khái niệm, xây dựng mô hình phản trinh thám. Hans Bertens, trong “Truyện
trinh thám”, Chủ nghĩa hậu hiện đại quốc tế: lí thuyết và thực tiễn văn học
("The detective", International Postmodernism: Theory and Literary
Practice, 1997), đã dẫn lại quan điểm về sự phân biệt tiểu thuyết hiện đại và
hậu hiện đại của Brian McHale trong Tiểu thuyết hậu hiện đại. Dù không nói
đến một cách trực tiếp nhưng McHale đã gián tiếp nói về mối quan hệ giữa
tiểu thuyết trinh thám với Chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại khi cho rằng tiểu
thuyết khoa học là đại diện của Chủ nghĩa hậu hiện đại, cũng như tiểu thuyết
trinh thám là đại diện Chủ nghĩa hiện đại [227]. Như thế, theo McHale, tiểu
thuyết trinh thám gắn với Chủ nghĩa hiện đại, tiểu thuyết hiện đại và tiểu
thuyết trinh thám có mối quan hệ trực tiếp với nhau, và để nghiên cứu tiểu
thuyết hậu hiện đại thì cần bắt đầu từ tiểu thuyết (trinh thám) hiện đại. Trong
khi đó, nhà nghiên cứu Michael Holquist lại cho rằng tiểu thuyết hiện đại
14
thuộc về khu vực văn học bậc cao, ngược lại, tiểu thuyết trinh thám thuộc về
khu vực văn học bậc thấp. Nhận định của Michael Holquist cho thấy ông
đánh giá thấp vị trí của thể loại truyện trinh thám. Từ đó Michael Holquist
đưa ra thuật ngữ “truyện trinh thám siêu hình” như một bước hình thành khái
niệm “truyện trinh thám hậu hiện đại” [227] với sự phá vỡ khả năng nhận
thức luận. Từ truyện trinh thám, William Spanos đưa ra thuật ngữ “phản trinh
thám” (anti-detective) trong bài viết Thám tử và giới hạn: vài lưu ý về hư cấu
Mô hình lí tưởng của hư cấu văn chương hậu hiện đại là truyện phản trinh
thám (và tương tự, câu chuyện phản phân tâm học) với mục đích tối hậu là
gợi lên sự cần thiết của hành trình kiếm tìm và/ hoặc điều trị phân tâm học,
rồi vô hiệu hóa nó một cách triệt để bằng cách từ chối khả năng làm sáng tỏ
tội ác [243, tr.154].
văn chương hậu hiện đại khi ông cho rằng:
William Spanos khẳng định phản trinh thám đi ngược lại nguyên tắc xây
dựng tác phẩm theo quan hệ nhân-quả với cấu trúc ba phần: mở đầu, trung
tâm, kết thúc.
Vào năm 1997, trong công trình Lí thuyết và thực hành tiểu thuyết trinh
thám cổ điển – Những đóng góp cho việc nghiên cứu văn hóa đại chúng
(Theory and Practice of Classic Detective Fiction - Contributions to the Study
of Popular Culture), Jerome H. Delamater và Ruth Prigozy đã kết hợp các
phương pháp tiếp cận lí thuyết và thực tiễn nhằm khám phá tiểu thuyết trinh
thám cổ điển từ nhiều quan điểm đương đại. Với sự đa dạng trong cách tiếp
cận, những bài tiểu luận của tuyển tập này hướng đến việc "thẩm vấn cách thể
loại phản ánh thái độ văn hóa và xã hội", góp phần giúp người đọc nâng cao
khả năng thích ứng với những thách thức của cuộc sống hàng ngày, cung cấp
một sự thay thế vai trò của thám tử như một người điều tra và phân xử "sự
thật" trong cuộc sống đời thường. Trong công trình này, các tác giả cũng
hướng đến xem xét bản chất khán giả của tiểu thuyết trinh thám cũng như
15
điều tra khảo sát về vai trò của thám tử. Và để tiếp cận các bình diện này một
cách thuyết phục, nghiên cứu này cũng sử dụng một ứng dụng của tâm lí học
quan hệ để khảo sát đối tượng. Thêm nữa, từ những phân tích phê bình văn
học gần đây, các tác giả cho rằng tiểu thuyết trinh thám truyền thống chứa
mầm mống của sự lật đổ chính nó.
Bước sang thế kỉ XXI, công trình Nghệ thuật của tiểu thuyết trinh thám
(The Art of Detective Fiction, 2000) do Warren Chernaik, Martin Swales,
Robert Vilain chủ biên đã tập trung vào khai thác những đặc trưng riêng của
tiểu thuyết trinh thám. Ở đó, người ta nhận ra rằng, trong tay của nhiều nhà
văn vĩ đại, việc vén màn bí ẩn chỉ là một phần trong một dự án phức tạp. Ở
tiểu thuyết trinh thám còn nhiều điều khác cũng được làm sáng tỏ. Đó là niềm
tin vào một thế giới có thể giải thích được một cách hợp lí, vào lực lượng có
lợi, có trật tự của văn hóa và nền văn minh. Các tác giả của cuốn sách này đã
cho thấy rằng, là một thể loại mang những khả năng đặc thù, trinh thám có
khả năng kết hợp tối ưu sự hấp dẫn phổ biến của nó với khả năng gây xáo
trộn, khiêu khích và thách thức người đọc. Các bài tiểu luận trong công trình
đều tôn vinh và tìm cách giải thích độ bền đáng kinh ngạc của truyện trinh
thám với tư cách là một thể loại tự sự. Chúng có phạm vi rộng rãi, có thể áp
dụng nhiều cách tiếp cận lí thuyết và độ phổ biến của loại tiểu thuyết này
cũng rất lớn, bao gồm tiểu thuyết trinh thám bằng các ngôn ngữ khác ngoài
tiếng Anh.
Tiếp theo, trong công trình Khám phá xã hội: Trật tự và rối loạn trong
tiểu thuyết trinh thám sau năm 1970 (Detecting the Social: Order and
Disorder in Post-1970s Detective Fiction, 2019) của Mary Evans, Sarah
Moore và Hazel Johnstone, các tác giả của cuốn sách đã phân tích những cách
thức mà tiểu thuyết trinh thám đầu thế kỉ XXI cung cấp sự hiểu biết về thế
giới đương đại ngày càng phức tạp và cũng thường xuyên gây khó khăn – khi
16
nhìn từ góc độ xã hội học, với tư cách là một ngành học, liệu chúng ta có thể
học được gì từ đó. Đối với ngành xã hội học thông thường, khi tiếp cận một
tiểu thuyết thường hướng đến việc hiểu được giá trị của nó đối với những
cách thức mà nó có thể minh họa, phóng to hoặc giúp làm rõ một lí thuyết xã
hội cụ thể, những tác động của nó như thế nào đối với độc giả. Ở đây, Evans,
Moore và Johnstone đề xuất một cách tiếp cận khác và chứng minh rằng bằng
cách lấy một cụm tiểu thuyết trinh thám như đối tượng khảo sát chính, chúng
ta có thể nhận ra chúng có thể tiết lộ những ý tưởng lí thuyết chưa được xác
định, nhưng quan trọng hơn, về ý nghĩa của việc trở thành một cá nhân trong
thế kỉ XXI. Cụ thể hơn, các tác giả cho rằng tiểu thuyết trinh thám trong bốn
mươi năm qua (được xác định từ năm 1970) đã làm sáng tỏ những tác động
của sự cô lập và chia cắt đô thị, sự tàng hình của quyền lực thể chế, sự bất an
về tài chính và sự thất bại của các cơ quan công quyền trong việc bảo vệ
người dân. Khi làm như vậy, thể loại tiểu thuyết này vạch ra những lỗi, những
lỗ hổng trong sự sắp xếp xã hội của chúng ta, khắc phục nỗi sợ hãi tập thể của
chúng ta và ghi lại tâm trạng bất an hoảng loạn của con người. Bằng cách lôi
cuốn những câu chuyện trinh thám theo cách này, cuốn sách xem xét lại
những ý tưởng về lời hứa và mục đích của xã hội học.
Công trình nghiên cứu về tiểu thuyết trinh thám gần đây nhất là cuốn
Tiểu thuyết tội phạm xuyên quốc gia: Tính di động, biên giới và điều tra
(Transnational Crime Fiction: Mobility, Borders And Detection, 2020) của
Maarit Piipponen, Helen Mäntymäki và Marinella Rodi-Risberg. Tập trung
vào việc khảo sát các câu chuyện tội phạm đương đại từ các khu vực khác
nhau trên thế giới, các bài tiểu luận trong tuyển tập này khám phá sự di
chuyển của tội phạm, xem xét tội phạm và điều tra viên qua những biên giới/
ranh giới xã hội, văn hóa và quốc gia. Các tiểu luận chỉ ra rằng những giao cắt
biên giới như vậy phản ánh những chuyển đổi văn hóa xã hội gần đây và
17
những lo lắng về địa chính trị nhằm tạo ra hình ảnh về các xã hội tạo thành
mạng lưới và liên kết với nhau, nơi tội phạm không dễ bị kiềm chế. Cuốn
sách phân tích sâu hơn ý nghĩa văn hóa xã hội và tình cảm rộng lớn hơn của
văn bản tội phạm bằng cách kiểm tra tính di chuyển toàn cầu của thể loại này
qua các nền văn hóa, ngôn ngữ và phương tiện truyền thông. Bằng việc nhấn
mạnh phạm vi tiếp cận toàn cầu và tính di động của thể loại tội phạm, tuyển
tập này đã phân tích các kiểu loại và sự thể hiện tính di động trong các câu
chuyện tội phạm bằng văn học và hình ảnh, mời gọi so sánh giữa các văn bản,
tội phạm và tính di động trong những bối cảnh địa lí đa dạng. Cuối cùng,
tuyển tập hiểu tính di động như một đối tượng nghiên cứu và một lăng kính
quan trọng mà qua đó có thể kiểm tra những biến đổi trong thế giới toàn cầu
hóa của chúng ta.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng truyện trinh thám ra đời và phát triển
khá mạnh ở phương Tây những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX và cho
đến nay vẫn đang nhận được sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu, lí giải của các
nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình.
Ở một số nước phương Đông khác như Nhật Bản, Trung Quốc, hiện
tượng tiếp thu văn hóa phương Tây nói chung và tiểu thuyết trinh thám nói
riêng cũng ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển của thể loại văn học trinh thám
ở mỗi nước. Chẳng hạn, trong bài viết có tính chất tổng kết về sự phát triển
của truyện trinh thám ở Trung Quốc Xu hướng phát triển của tiểu thuyết trinh
thám Trung Quốc (中国侦探小说的发展趋势), tác giả Anna Huang đã cho
thấy rằng, Trung Quốc từ khi bước sang thời kì mới, tiểu thuyết trinh thám
Trung Quốc cũng mở ra một thời kì thịnh vượng mới. Chỉ trong vòng mười
năm, số lượng và chất lượng của tiểu thuyết trinh thám đã phát triển nhảy vọt.
Nếu so sánh với hai thời kì cực thịnh từ những năm 1930-1940 và những năm
1950-1960 sau khi thành lập Tân Trung Hoa, các giai đoạn phát triển tiểu
18
thuyết trinh thám của Trung Quốc có cả những điểm tương đồng và khác biệt.
Giống nhau ở chỗ "đều lấy một số lượng lớn các bản dịch tiểu thuyết trinh
thám nước ngoài làm khúc dạo đầu, đều lấy tiểu thuyết trinh thám nước ngoài
làm tài liệu tham khảo nghệ thuật, đều lấy cuộc sống hiện thực của Trung
Quốc làm nguồn sáng tác, cùng khám phá các trinh thám trên đất của cuộc
sống hiện thực Trung Quốc" [245]. Trên con đường nghệ thuật của tiểu thuyết
trinh thám, điểm khác biệt là hệ quy chiếu nghệ thuật mà tác giả tiểu thuyết
trinh thám sở hữu trong thời đại mới rộng lớn và phức tạp hơn bao giờ hết.
Chính đời sống xã hội phức tạp trong thời đại mới đã cung cấp cho các tác giả
tiểu thuyết trinh thám những chất liệu sáng tạo phong phú. Chính vì vậy, theo
Anna Huang, "sự tìm tòi nghệ thuật của các nhà văn trinh thám trong thời đại
mới mang tính nguyên bản và dân tộc hơn bao giờ hết" [245]. Thậm chí, tác
giả này còn khẳng định rằng, các nhà văn thời đại mới của Trung Quốc "đang
đối mặt với một thế giới nghệ thuật đa sắc hơn của tiểu thuyết trinh thám
nước ngoài" [245]. Ngoài những cuốn tiểu thuyết trinh thám cổ điển phương
Tây vẫn có sức hút khó cưỡng khi được dịch sang tiếng Trung bởi "tâm lí hồi
hộp, gay cấn, kinh dị" của chúng thì điều đặc biệt đáng chú ý là vào thời điểm
này, tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản đã xuất hiện trên giá sách của các nhà
văn viết tiểu thuyết trinh thám Trung Quốc với tần suất hoạt động chưa từng
có. Chính khí chất phương Đông cùng mối quan tâm nghiêm túc đến đời sống
xã hội và sự từ bỏ tâm lí game thuần túy của một số tác phẩm phương Tây đã
giúp các nhà văn Trung Quốc tìm thấy sự phù hợp của mình trong hệ quy
chiếu của tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Nhiều nhà văn Trung Quốc đã
thừa nhận có "học hỏi và vay mượn từ tiểu thuyết kì bí của Nhật Bản". Mặc
dù đối với nhiều nhà văn Trung Quốc, các tác phẩm của Conan Doyle rất li kì
nhưng chúng thiếu tính xã hội, họ bị thu hút bởi các tiểu thuyết bí ẩn xã hội
19
của Nhật Bản. Thực ra điều này cũng gây không ít khó khăn cho các nhà văn
Trung Quốc khi họ vấp phải thói quen đánh giá cao tinh thần dân tộc.
Người đọc Trung Quốc cũng thích truyện trinh thám và đánh giá cao
truyện trinh thám nội địa. Trong bài viết Mười tiểu thuyết trinh thám hay nhất
(中国推理小说排行榜前十名每部都很经典, 发布时间): “Đối với những người hâm
của Trung Quốc, mỗi cuốn đều là một tác phẩm kinh điển
mộ truyện trinh thám, tiểu thuyết trinh thám là thứ họ yêu thích nhất. Ở đất
nước rộng lớn này không thiếu những cuốn tiểu thuyết trinh thám xuất sắc”
[246].
Tiếp tục nhìn về trinh thám phương Đông, trong cuốn Giết người hiện
đại nhất: tiểu thuyết trinh thám và văn hóa Nhật Bản (Murder Most Modern:
Detective Fiction and Japanese Culture, 2008), Sari Kawana đã cho thấy tiểu
thuyết trinh thám thường hoạt động dưới chiêu bài giải trí đại chúng để khiến
độc giả có thể hiểu rộng rãi trước những câu hỏi đạo đức truyền thống phức
tạp và những tình huống khó xử về luân lí đạo đức đương thời. Đây được coi
là nghiên cứu dài hơi đầu tiên về tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản trong việc
xác định sự nổi lên của thể loại này ở một quốc gia phương Đông hiện đại.
Sari Kawana khám phá sự tương tác giữa đặc trưng của một thể loại phổ biến
và những diễn ngôn rộng hơn về tính hiện đại, dân tộc và đạo đức luân lí được
lưu truyền vào thời điểm quan trọng này trong lịch sử Nhật Bản. Tác giả đã
đối chiếu các tác phẩm tiếng Nhật của Edogawa Ranpo, Unno Juza, Oguri
Mushitaro và những người khác với các tác phẩm tiếng Anh của Edgar Allan
Poe, Dashiell Hammett và Agatha Christie để cho thấy cách các tác giả tiểu
thuyết trinh thám Nhật Bản sử dụng thể loại trinh thám để phổ biến ý tưởng
của họ về một số khía cạnh đáng kinh ngạc nhất của cuộc sống hiện đại: sự
phát triển của đô thị hóa, việc bảo vệ và vi phạm quyền riêng tư, tội phạm hóa
tình dục bất thường, sự mất nhân tính trong nghiên cứu khoa học và sự khủng
20
khiếp của chiến tranh toàn diện. Cách tiếp cận so sánh của Sari Kawana cho
thấy cách các tác giả Nhật Bản thuộc thể loại này đã nhấn mạnh các vấn đề xã
hội quan trọng thu hút sự chú ý của những độc giả tìm kiếm cảm giác mạnh,
trong khi né tránh con mắt của các nhà kiểm duyệt chính phủ.
Như vậy, những nghiên cứu về thể loại truyện trinh thám đã có một lịch
sử khá phong phú mà sự khảo sát thống kê của chúng tôi có lẽ chưa tiếp cận
hết được. Tuy nhiên, từ những công trình tiêu biểu đã nói ở trên, có thể nhận
thấy những chuyển đổi rõ rệt trong việc tiếp cận với thể loại văn học này, từ
việc xác định đặc trưng thể loại đến nghiên cứu kĩ thuật kể, và hiện nay việc
nghiên cứu truyện trinh thám được kết hợp với rất nhiều vấn đề thuộc về lịch
sử, văn hóa và xã hội. Sự kết hợp này là tất yếu của khuynh hướng nghiên cứu
liên ngành, xuyên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn.
1.2. Tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở trong nước
1.2.1. Giai đoạn trước 1945
Một mặt tiếp thu từ văn học phương Tây, mặt khác là kế thừa văn học
truyền thống, truyện trinh thám xuất hiện ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX. Mặc
dù sự ra đời thể loại này tương đối muộn so với các nước phương Tây nhưng
cũng có dấu ấn nhất định trong quá trình hiện đại hóa văn học nước nhà. Cũng
bởi ra đời muộn nên những nghiên cứu về truyện trinh thám ở nước ta không
nhiều. Ngoài những lời phát biểu, lời giới thiệu sách của một số tác giả, có thể
khẳng định Vũ Ngọc Phan là người đầu tiên nghiên cứu về truyện trinh thám
Việt Nam và đề cập trong công trình Nhà văn hiện đại, tập 2 (1989). Khi viết
về văn xuôi Thế Lữ, ở phần đánh giá về truyện trinh thám của Thế Lữ, tác giả
Vũ Ngọc Phan đã có nhận định: “Trong tiểu thuyết trinh thám, hay nhất là
những lời nghị luận của nhà trinh thám theo diễn dịch pháp, nghĩa là do một
nguyên lí chung mà suy luận ra và đoán định được những sự thực riêng”
[168]. Cũng theo tác giả Vũ Ngọc Phan thì Thế Lữ, Phạm Cao Củng và Bùi
21
Huy Phồn là các nhà văn trinh thám đầu tiên trong văn học Việt Nam. Từ đó,
ở nước ta, quan niệm về truyện trinh thám cũng dần được định hình. Nhà
nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đặc biệt chú ý đến Phạm Cao Củng. Theo tác giả,
Phạm Cao Củng là nhà văn tiêu biểu nhất trong số những cây bút theo đuổi thể
loại văn học này. Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Trong các tiểu thuyết trinh thám của
Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và Phạm Cao Củng, chỉ có tiểu thuyết của Phạm Cao
Củng là có phần đặc sắc hơn, các truyện trinh thám của Bùi Huy Phồn mang tính
chất “hoạt kê”... cách điều tra, phán đoán sự việc mà ông miêu tả trong truyện
còn đơn giản, nhiều yếu tố ngẫu nhiên, vô lí” [168, tr.53]. Có thể thấy Vũ Ngọc
Phan đã đánh giá cao sự sáng tạo của Phạm Cao Củng trong việc tiếp biến
một thể loại văn học có nguồn gốc từ phương Tây. Còn đối với Thế Lữ, Vũ
Ngọc Phan cho rằng “loại truyện trinh thám của Thế Lữ chưa thành công”
[168, tr.54].
Nhà văn Khái Hưng, trong Lời giới thiệu Vàng và máu (1934) đã nhận
xét về hiện tượng kết hợp “bút pháp” phương Tây và phương Đông ở các
Tôi vẫn mong mỏi sẽ có nhà văn dung hợp được văn Thái Tây với văn Á
Đông, để gây một lối văn viết theo óc khoa học mà vẫn giữ được thi vị của
văn Tàu.
Nhà văn đó ngày nay đã có: chính là bạn Nguyễn Thế Lữ, thi sĩ trong Tự lực
văn đoàn.
Thực vậy, tác giả những truyện “Vàng và máu” và “Một đêm trăng” đã tỏ
ra có óc khoa học của Edgar Poe và tâm hồn thi sĩ của Bồ Tùng Linh [104,
truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ, và cũng là “mong mỏi” của nhà văn:
tr.14].
Đưa ra đánh giá này, Khái Hưng dường như chỉ căn cứ vào các truyện
trinh thám kinh dị của Thế Lữ ở giai đoạn đầu (Vàng và máu, Một đêm trăng
xuất hiện vào năm 1934). Thực ra, khái quát như vậy về Thế Lữ là chưa đầy
22
đủ bởi ông còn có cả loạt truyện trinh thám suy luận xuất hiện từ năm 1937
mà tiêu biểu nhất là series truyện về nhân vật thám tử Lê Phong.
Trong “Lời giới thiệu” tập truyện ngắn Tiếng hú ban đêm của Thế Lữ,
Dương Quảng Hàm lại có cái nhìn khác về tác phẩm Vàng và máu, Bên đường
thiên lôi của Thế Lữ. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến “chủ đích” của tác giả khi
Ông thường công kích những điều mê tín dị đoan. Muốn đạt chủ đích ấy, ông
đặt những câu chuyện có vẻ rất rùng rợn làm cho người đọc ghê sợ, rồi đến
đoạn kết, ông đem cái lẽ khoa học ra mà giải thích các việc đã xảy ra một cách
rất đơn giản, tự nhiên. Chính vì thế, các câu chuyện có sức hấp dẫn kì lạ, làm
cho người đọc thích thú [88, tr.9].
sáng tác truyện trinh thám kinh dị:
Điều đó cho thấy Dương Quảng Hàm đã đánh giá cao Thế Lữ ở thể loại
truyện trinh thám.
Ở giai đoạn này, mặc dù có biểu dương sự sáng tạo của nhà văn Việt Nam
trong việc tiếp thu thể loại văn học phương Tây nhưng các nhà nghiên cứu chưa
thực sự coi trọng giá trị của truyện trinh thám Việt Nam.
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965), tác giả Phạm Thế
Ngũ đã dành 11 trang đánh giá về mảng truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh
thám của Thế Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho
Thơ mới còn có một Thế Lữ văn xuôi đặc sắc. Tuy nhiên, truyện trinh thám của
Tiểu thuyết của ông cao quá, lấy làm truyện những điều lạ quá, làm nhân vật
những người hiếm quá […]. Cao quá cả ở cách viết săn sóc chải chuốt, cách
lập luận khoa học tỉ mỉ, vì vậy không phổ biến trong độc giả trung bình [...].
Các tác phẩm trinh thám của ông có nhiều tình tiết phi lí, không gian và thời
gian truyện ngắn và hẹp một cách khiên cưỡng [154, tr.214].
Thế Lữ cũng có nhược điểm:
23
Phạm Thế Ngũ cho rằng “thể loại tiểu thuyết này ngay bản chất của nó,
không có lợi thú văn học lắm” [154, tr.214].
Trong Thế Lữ - Về tác gia và tác phẩm do Phạm Đình Ân giới thiệu và
tuyển chọn, Lê Huy Oanh đã đi sâu tìm hiểu nghệ thuật xây dựng cốt
truyện và nghệ thuật kể chuyện trong truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ
với bài viết Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong “Vàng và máu” và kết
Chính nhờ tài kể chuyện của tác giả mà “Vàng và máu” đã là một tác
phẩm lớn […]. Tất cả những tình tiết, những yếu tố gây tò mò, gây cảm
giác mạnh, gây xúc động đều được đặt trong một thứ tự hợp lí […] với
“Vàng và máu”, ông đáng được coi là một trong những tiểu thuyết gia
đại tài của xứ sở chúng ta [4, tr.426].
luận:
Bên cạnh các tác giả truyện trinh thám gốc miền Bắc như Thế Lữ, Phạm
Cao Củng, Bùi Huy Phồn; một tác giả miền Nam là Phú Đức cũng được nhắc
đến. Các tác giả Thượng Sỹ, Vũ Bằng, Ngọa Long trong Văn nghiệp Phú Đức –
Tiểu thuyết gia một thời nổi tiếng ở Nam Bộ đã đề cập đến nhiều vấn đề trong
sáng tác của nhà văn Phú Đức và khẳng định: “Chỉ với cái tên tác giả Phú Đức là
đủ đảm bảo, đủ lôi kéo bạn đọc rồi; nhưng phải nhìn nhận là trong tất cả tiểu
thuyết của Phú Đức thì chỉ có bộ Châu về hiệp phố là hay hơn hết” [189, tr.25].
Có thể thấy rằng, tình hình nghiên cứu truyện trinh thám ở giai đoạn này
không được sôi nổi bởi sáng tác truyện trinh thám không phát triển, bị gián đoạn
do sự thay đổi về mối quan tâm của nhà văn và thị hiếu bạn đọc trong điều kiện
kháng chiến, cả nước hướng đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
nước nhà. Dòng văn học cách mạng phát triển với tư cách là dòng chủ lưu. Trên
phương diện lí luận văn học và mĩ học, hệ thống chức năng văn học chỉ chú
trọng đến chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, mà xem nhẹ, thậm chí không
thừa nhận chức năng giải trí. Với khuynh hướng cách mạng, sử thi, nhà văn
hướng đến phản ánh cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ và anh dũng của nhân
24
dân ta, biến văn học thành một vũ khí đấu tranh cách mạng, v.v… Và dĩ nhiên,
trong hoàn cảnh đó thì sự quan tâm của các nhà nghiên cứu giai đoạn này ít
hướng đến truyện trinh thám là tất yếu.
1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ kết thúc thắng lợi, non
song thu về một mối, đời sống văn học có sự thay đổi. Nhà văn, bạn đọc và các
nhà nghiên cứu, phê bình cũng có sự dịch chuyển sự quan tâm đến những vấn
đề, những đề tài, thể loại và nhu cầu thẩm mĩ mới, trong đó có sự đòi hỏi giá trị
giải trí của văn học. Vì thế, nhiều người có sự quan tâm nhiều hơn đến thể loại
truyện trinh thám.
Tác giả Vũ Đức Phúc, trong một bài viết với tựa đề Truyện trinh thám
(1981), đã dành nhiều trang giới thiệu lịch sử hình thành truyện trinh thám thế
giới với những tác gia tiêu biểu như Honoré de Balzac, Charles Dickens, E.Allan
Poe, v.v… Theo tác giả, điều đáng kể trong truyện trinh thám chính là hiện thực
xã hội (tư bản) mà nhà văn đã tập trung phản ánh, mô tả với tinh thần phê phán.
Đánh giá về truyện trinh thám Việt Nam, nhà nghiên cứu cho rằng: “Truyện
trinh thám có ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội” [179, tr.36].
Trong “Lời giới thiệu” cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, nhà
nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung đã phân chia truyện của Thế Lữ chi tiết hơn,
tác giả viết: “Ông được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị [...] rồi loại truyện
tình lãng mạn đường rừng [...] và nhất là truyện trinh thám, ông là một trong
những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở nước ta” [115, tr.423]. Ông xếp
sáng tác của Thế Lữ thành nhiều nhóm khác nhau, trong đó đáng chú ý là truyện
kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng. Nguyễn Hoành Khung đánh giá
về văn nghiệp của Thế Lữ ở cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám:
Thành công nhất của nhà văn vẫn là truyện trinh thám. Đồng thời, tác giả cũng
nhận định về thể loại truyện trinh thám Việt Nam: Chính cái “phụ đề” ghi bên
25
cạnh tên truyện Truyện trinh thám An Nam của nhà văn Nguyễn Công Hoan cho
thấy cái nhìn khắt khe về thể loại truyện trinh thám Việt Nam của nhà văn hiện
thực Nguyễn Công Hoan. Bình luận về truyện ngắn này, Nguyễn Hoành Khung
cho rằng thiên truyện thường được xem như một ngón đòn “đả kích khá trúng
thứ văn chương” hiện đại, “lai căng toàn những chuyện li kì rẻ tiền” [114, tr.7].
Nhà văn Bùi Huy Phồn, trong “Đôi lời tâm sự cùng bạn đọc” in trong tác
Trong những năm cuối thập kỉ 20 đầu thập kỉ 30, bên cạnh những tiểu thuyết...
chứa chan lòng yêu nước thương nòi, chúng ta còn bị một thứ bịnh dịch điên
loạn về các loại truyện phong thần, kiếm hiệp, dao bay, trinh thám... tung ra từ
bốn phương tám hướng để ngu dân, đầu độc đông đảo thanh niên hồi bấy giờ,
thứ bịnh dịch cũng không kém phần nguy hiểm như các thứ truyện trinh thám
rẻ tiền, truyện về những vụ án hình sự đương ăn dỗ tiền và mê hoặc con em
chúng ta ngày nay [174, tr. 6].
phẩm Lá huyết thư (tái bản năm 1989) nhận định:
Điều đó cho thấy tác giả đã không ghi nhận những đóng góp của thể loại
truyện trinh thám đối với sự phát triển văn học dân tộc và đối với đời sống văn
hóa, xã hội ở nước ta.
Có lẽ truyện trinh thám Việt Nam được nghiên cứu một cách khách quan,
khoa học hơn là từ khi đất nước bước vào thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế
(1986). Đây cũng là lúc các nhà nghiên cứu bắt đầu có sự thay đổi trong cách
nhìn nhận, đánh giá lại về các hiện tượng văn học. Ít thấy những lời phê phán
gay gắt đối với thể loại truyện trinh thám như trước đây; thậm chí có những tác
giả đặt lại vấn đề, xác định lại vai trò, vị trí của truyện trinh thám trong đời sống
văn học. Trong bối cảnh đó, xuất hiện rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu
về các vấn đề liên quan đến thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng với bài viết Thế Lữ nghệ sĩ hai lần
tiên phong đã nhận xét:
26
Chỉ sau khi tập “Mấy vần thơ” ra đời được ít lâu, Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh
vực văn xuôi, với hai sở trường là tiểu thuyết li kì rùng rợn và tiểu thuyết trinh
thám như: “Vàng và máu” (Đời nay-1937), “Bên đường thiên lôi” (Đời nay-
1936); “Mai Hương và Lê Phong” (Đời nay-1937), “Gói thuốc lá” (Đời nay-
1940). Với “Vàng và máu” (tiểu thuyết kinh dị), ông có thể được coi là tác giả
đạt đỉnh cao nghệ thuật của loại truyện này. Điều đáng chú ý là sự thay đổi thể
loại ở Thế Lữ đồng thời cũng kéo theo cả thế giới nghệ thuật trong sáng tác
của ông. Nếu như ở Thơ mới ông thích cõi tiên, ở truyện trinh thám ông thích
cõi đời thì ở truyện li kì, rùng rợn, ông thích cõi âm [201, tr.13].
Nhận định này cho thấy nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng đã quan tâm
đánh giá và ghi nhận vị trí, vai trò, đóng góp của Thế Lữ ở các lĩnh vực sáng tác
khác nhau đối với nền văn học, trong đó có sự đóng góp của ông ở thể loại
truyện trinh thám.
Đánh giá của Hoàng Minh Châu cũng gần với nhận định trên khi tác giả
Bài học tình yêu cho rằng: “Nhưng có lẽ các nhà văn hiện nay và cả độc giả,
nếu có dịp đọc lại những truyện trinh thám của Thế Lữ - nhà thơ, ắt sẽ ngạc
nhiên mà kêu rằng: viết truyện trinh thám được như ông không phải dễ!” [26,
tr.28]. Đó là sự ghi nhận thành công của Thế Lữ khi viết truyện trinh thám.
Trong bộ sách Truyện truyền kì Việt Nam (2009), trên cơ sở nhận diện
quá trình phát triển và những điểm gần gũi giữa truyện truyền kì truyền thống
với truyện trinh thám, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã xếp một số truyện
trinh thám của Thế Lữ vào truyện truyền kì. Điều đó cho thấy ít nhiều quan
điểm của ông về bản chất, đặc trưng thể loại của truyện trinh thám Việt Nam:
có sự gần gũi, kế thừa, đan xen, hỗn dung nhiều thể loại.
Với Tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đầu tiên (2013), nhà nghiên cứu
Nam Chi đã nhận định sâu sắc về nghệ thuật viết truyện trinh thám của Thế
Lữ. Tác giả cho rằng: “Thế Lữ viết truyện trinh thám, truyện li kì dù hay dù
dở đều phải hợp lí… hợp lí trong tình tiết thì phải thuận lí trong câu văn. Thế
27
Lữ đã đưa vào trong tiểu thuyết Việt Nam cấu trúc câu văn Tây phương, minh
bạch khúc chiết mà vẫn giữ được dáng dấp mềm mại của câu nói Việt Nam”
[30]. Nhận định đó phần nào cho thấy phát hiện sự cách tân và truyền thống
trong truyện trinh thám của Thế Lữ.
Với bài viết Thế Lữ và năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe
(2012), tác giả Hoàng Kim Oanh đã so sánh, chứng minh truyện trinh thám
của Thế Lữ chịu ảnh hưởng mẫu hình của nhà văn Mĩ Edgar Poe và kết luận:
“Chất duy lí khoa học phương Tây được quyện lẫn với tính chất ma quái
huyền bí của Bồ Tùng Linh và cái kì ảo hoang đường của truyện truyền kì dân
gian Việt Nam là thành màu sắc truyện trinh thám Thế Lữ” [165].
Nhà nghiên cứu, phê bình Đỗ Lai Thúy khẳng định “Thế Lữ là người
khởi điểm của những khởi điểm”, tên tuổi của ông gắn liền với quá trình hiện
đại hóa văn học Việt Nam và ông cũng là một trong những người đặt nền
móng cho thể loại truyện trinh thám Việt Nam. Tác giả Hoài Anh cho rằng:
“Thế Lữ cả thơ và truyện đều có hơi hướng Poe, nặng về duy mĩ mà không
đau khổ đến mức bệnh hoạn, tuyệt vọng như Baudelaire” [9, tr.13].
Tiếp tục đề cao mảng truyện trinh thám của Thế Lữ, nhà nghiên cứu Lê
Loại sáng tác này cho ta thấy một Thế Lữ có tài quan sát, có óc quan sát
sắc bén, có trí tưởng tượng dồi dào, cho nên dù ít đề cập đến vấn đề gì quan
trọng về xã hội và nhân sinh, nó vẫn được đón nhận và được tìm đọc một
cách lí thú. Cho đến nay, trong lịch sử văn học Việt Nam, không thấy có tên
tuổi nào đáng được xếp cạnh Thế Lữ trong loại sáng tác khá độc đáo này
Đình Kỵ đã nhận xét:
[118, tr.55-56].
Ở bài viết Cuộc kì ngộ giữa Phạm Cao Củng và Trình Tiểu Thanh – Hai
tác giả trinh thám nửa đầu thế kỉ XX (2001), nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu
đã so sánh kết cấu truyện của nhà văn Việt Nam Phạm Cao Củng và nhà văn
Trung Quốc Trình Tiểu Thanh. Tác giả cho rằng:
28
Có thể nói đây là sự gặp gỡ đầu tiên giữa Trình Tiểu Thanh và Phạm Cao
Củng – hai tiểu thuyết gia trinh thám không hề quen biết, không hề có thông
tin gì nhau – về kết cấu của truyện trinh thám. Tiếp đó hai ông cũng gặp gỡ
nhau ở chỗ xây dựng nhân vật chính là một thám tử có trình độ vận dụng lí
luận học và óc quan sát để phân tích sự việc, gỡ dần ra đầu mối chính [27,
tr. 28].
Tác giả Thy Ngọc, trong Truy tìm truyện trinh thám Việt Nam (2013),
cho rằng: “Phạm Cao Củng dù là học hỏi phương Tây, nhưng ông ấy cũng
biết “thổi” cho nhân vật một tính cách Việt, tâm hồn Việt, đời sống Việt cùng
những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông, như trọng nghĩa khí, tình
cảm, đạo đức, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao” [153]. Gần
với ý kiến trên của Thy Ngọc, trong “Vài dòng hồi tưởng…” mở đầu Hồi ký
Phạm Cao Củng, Phạm Tú Châu đã dẫn lại đánh giá của Vũ Ngọc Phan trong
Cái đặc biệt mà người ta thấy ở tiểu thuyết trinh thám suy luận của Phạm
Cao Củng là những nhân vật và khung cảnh do ông sáng tạo đều có tính
chất Việt Nam hợp với trình độ người Việt Nam ta hiện thời, không như mấy
nhà tiểu thuyết trinh thám khác đi nhặt những mẩu chuyện li kì của Tây
phương rồi cố gò ép vào những khung cảnh lai Việt lai Pháp [43, tr.12].
Nhà văn hiện đại:
Đó là những sự đánh giá cao tinh thần Việt hóa truyện trinh thám của
Phạm Cao Củng.
Ở “Về các loại truyện viết bằng chữ quốc ngữ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX ở Việt Nam” trong công trình Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX
(2006), Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Truyện trinh thám Nam Bộ phát triển
rất sớm, ảnh hưởng truyện kì án võ hiệp của Trung Quốc và phù hợp với tính
cách của người dân Nam Bộ nên được hưởng ứng rất rộng rãi” [208, tr.137].
Với nhận định và nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung
đã có cái nhìn rất mới về văn học Nam Bộ, trong đó có tiểu thuyết trinh thám.
29
Nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang, trong bài Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ
cuối thế kỉ XIX đến 1945 - Thành tựu và triển vọng nghiên cứu (2006), đã
khái quát, giới thiệu về diện mạo của các tác giả, tác phẩm truyện trinh thám ở
miền Nam những năm đầu thế kỉ XX, và đã khẳng định: “Những phát hiện
gần đây cho thấy Biến Ngũ Nhy mới là nhà văn trinh thám đầu tiên và sớm
nhất của Việt Nam” [75]. Đây là nhận định có tính thuyết phục và khá mới
mẻ, khi trước đây các nhà nghiên cứu thường coi Thế Lữ và Phạm Cao Củng
là những người khai mở thể loại này ở Việt Nam.
Với bài viết Phú Đức - Một mẫu hình nhà văn Nam Bộ đặc biệt đầu thế
kỉ XX (2006), tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã phân tích khá chi tiết về
cách đặt nhan đề, cách xây dựng nhân vật trong truyện trinh thám của Phú
Đức và kết luận “nhân vật trong truyện trinh thám của Phú Đức còn hơi
gượng” [222, tr.19-23].
Trong bài Bửu Đình, nhà tiểu thuyết Nam Bộ (2009), các tác giả Lê Tiến
Màu sắc trinh thám trong tiểu thuyết Bửu Đình in đậm ở tình huống truyện,
còn ở tình tiết truyện thì màu sắc này không rõ nét như các tác phẩm trinh
thám […] so với những tác phẩm trinh thám khác thì tính trinh thám của
Bửu Đình chỉ dừng lại ở mức độ khởi đầu… tình tiết trong tiểu thuyết trinh
thám của Bửu Đình không đạt đến độ chín muồi của nghệ thuật tiểu thuyết
trinh thám [73].
Dũng-Hồ Khánh Vân cho rằng:
Trong công trình Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
(2004), các tác giả Nguyễn Kim Anh (Chủ biên), Hà Thanh Vân, Nguyễn Thị
Tác phẩm “Kim thời dị sử” của Biến Ngũ Nhy được coi là cuốn tiểu thuyết
trinh thám đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại, nó mang dáng dấp của
một tiểu thuyết phương Tây hiện đại và giá trị của nó trong văn học sử đã
được ghi nhận và thành quả của Biến Ngũ Nhy, người đi tiên phong mở
Trúc Bạch cho rằng:
30
đường trong lãnh vực này đã được một số cây bút sau ông như Phú Đức,
Nam Đình Nguyễn Thế Phương, Sơn Vương, v.v… ở Nam Bộ và Thế Lữ,
Phạm Cao Củng, v.v… ở miền Bắc nối tiếp [10, tr.163].
Nhận định này đã có sự gặp gỡ với nhận định của nhà nghiên cứu Đoàn
Lê Giang.
Cũng trong công trình Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
(2004), Hà Thanh Vân cho rằng Nam Đình Nguyễn Thế Phương “có công xây
dựng một dòng tiểu thuyết trinh thám, võ hiệp, kì tình, phiêu lưu mạo hiểm,
làm phong phú thêm bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc của tiểu thuyết Nam
Bộ đầu thế kỉ XX” cùng với Biến Ngũ Nhy, Phú Đức và một số tác giả khác,
Tiểu thuyết Nam Đình Nguyễn Thế Phương hầu hết thuộc thể loại trinh
thám li kì, hấp dẫn. Yếu tố li kì và hiện đại được ông nhấn mạnh. Và phong
cách viết của ông rất gần với nhà văn Phú Đức, tuy nhiên văn phong không
thật sắc sảo, dường như những tiểu thuyết này được viết để đăng báo dài kì,
ông không mấy quan tâm trau chuốt ngôn từ […] nhiều chi tiết còn bất hợp
lí, tỏ ra dễ dãi, không thuyết phục người đọc [10, tr.439].
và đánh giá về nghệ thuật viết truyện trinh thám của tác giả này:
Bài viết Lê Hoằng Mưu – Nhà văn của những thử nghiệm táo bạo thế kỉ
XX (2006), nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn đã đánh giá: “Các tác phẩm chính
của Lê Hoằng Mưu hầu hết đều thuộc thể loại trinh thám hấp dẫn và li kì”
[161, tr.26-35]; “Trước 1945, Châu về hiệp phố của Phú Đức có lẽ là bộ tiểu
thuyết được độc giả Nam Kì say mê nhất, và là bộ tiểu thuyết có độ dài kỉ lục
mà chưa tác phẩm nào có thể vượt qua. Tác phẩm được khởi đăng trên Trung
lập báo năm 1926” [161, tr.37].
Do những cách ngăn về địa lí và những đặc thù về lịch sử, nên văn học sử
Việt Nam dường như vẫn còn bỏ sót hoặc “làm lơ” các nhà văn tiền phong
có nhiều đóng góp vào thể loại văn học trinh thám, viễn tưởng, phiêu lưu ở
Nam Bộ đầu thế kỉ 20 […]. Nam Đình luôn pha trộn giữa chất trinh thám và
Ở Văn học trinh thám ở Nam Bộ đầu thế kỉ 20 (2018), Lý Đợi cho rằng:
31
ái tình, văn phong mộc mạc, nhưng tình tiết khá hấp dẫn, bạn đọc vẫn còn
nhớ “Vô oan trái”, “Huyết lệ hoa”, “Chén thuốc độc” [63].
Những nhận định như thế đã khái quát, ghi nhận những đóng góp của
các nhà văn Nam Bộ ở thể loại truyện trinh thám.
Trong lời giới thiệu bài viết Thời vàng son của tiểu thuyết trinh thám
(2009) của Trần Thanh Hà có dẫn nhận định của Cao Việt Dũng: “Nếu coi
những cuốn truyện hình sự vẫn được bán hoặc cho thuê đầy rẫy trên thị
trường hiện nay là truyện trinh thám thì bạn đã hạ thấp thể loại này, những
người hâm mộ chân chính của văn học trinh thám đích thực sẽ dễ dàng kể ra
nền tảng trinh thám của vô số tác phẩm lớn, cả văn học lẫn điện ảnh” [81]. Đó
là sự đánh giá và ghi nhận giá trị, vị trí của văn học trinh thám nước ta một
cách khá thỏa đáng.
Tháng 3/2010, Toạ đàm Văn học trinh thám có phải là văn học? do
Công ty Nhã Nam tổ chức, nhiều ý kiến phát biểu, thảo luận về truyện trinh
thám như: “Làm sao không nể, đọc và hồi hộp như quả bom nổ chậm”
(Nguyễn Minh Hoàng); “Tôi nghĩ, trong tương lai, văn học hiện đại trinh thám
Việt Nam sẽ phát triển vì rõ ràng, qua lịch sử, chúng ta đã có những nhân vật
tình báo, điệp báo lẫy lừng tầm cỡ thế giới nể phục như Phạm Xuân Ẩn, Vũ
Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, v.v… thì tại sao chúng ta không có những tác
phẩm văn học hay, độc đáo về họ?”; “Tôi nghĩ rằng văn học trinh thám gần gũi
với tuổi trẻ vì những ước mơ thám hiểm, chinh phục cái mới” (Trương Văn
Dân), v.v… [147]. Đó là những ý kiến không chỉ đề cập đến đặc trưng thể
loại, vai trò của truyện trinh thám mà còn nhấn mạnh những đóng góp của
truyện trinh thám là một thể loại văn học đích thực; đánh giá về tiềm năng phát
triển truyện trinh thám ở nước ta, v.v… Mặc dù có một số ý kiến nhận định,
đánh giá chưa thống nhất nhưng Toạ đàm đã đem đến cho độc giả những cái
nhìn mới cùng sự quan tâm đặc biệt về thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
32
Tác giả Yên Ba, với bài viết Văn học trinh thám Việt Nam: từ thám tử Kỳ
Sách trinh thám ở Việt Nam không có một lịch sử lâu dài. Lý do là vì chữ quốc
ngữ mãi đến những năm đầu tiên của thế kỉ 20 mới dần được truyền bá và hoàn
thiện, theo đó văn học chữ quốc ngữ cũng mới được hình thành […] Có thể coi
cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học trinh thám Việt Nam chính là “Vết tay
trên trần”, dày hơn 100 trang, xuất bản năm 1936, tác giả là Phạm Cao Củng.
Đây có lẽ cũng là tác gia trinh thám đầu tiên của Việt Nam, bởi ngoài “Vết tay
trên trần”, Phạm Cao Củng còn viết khoảng 20 tiểu thuyết và truyện ngắn
mang màu sắc trinh thám, như “Gia tài nhà họ Đặng” (1937), “Chiếc tất
nhuộm bùn” (1938), “Người một mắt” (1940), “Kỳ Phát giết người” (1941),
“Nhà sư thọt” (1941), “Đám cưới Kỳ Phát” (1942), “Bóng người áo tím”
(1942), “Một cái Tết rùng rợn của Kỳ Phát” (1945)... Ngoài ra còn có những
tác phẩm pha trộn giữa màu sắc mạo hiểm với trinh thám như “Máu đỏ lòng
son” (1937), “Hàm răng mài nhọn” (1942), “Chiếc gối đẫm máu” (1942),
“Bàn tay sáu ngón” (1950), “Người chó sói” (1950) [125].
Phát đến điệp viên Nguyễn Thành Luân được Nhị Linh thuật lại, cho rằng:
Vấn đề thể loại cũng thu hút được nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu,
phê bình. Tác giả Thy Ngọc đã băn khoăn: “Cái gọi là “dòng văn học trinh
thám Việt Nam” chỉ là một vạch rất đỗi mờ nhòe và đứt gãy trong lịch sử văn
học nước nhà” [153]. Nhà văn Trần Thanh Hà nhận định: “Ảnh hưởng trực
tiếp của văn hóa phương Tây, một số nhà văn đã mô phỏng các cốt truyện
hình sự-điều tra trong truyện trinh thám nước ngoài, làm manh nha một thể
loại mới: tiểu thuyết trinh thám Việt Nam” [81]. Trong Bỏ trống văn học trinh
thám, kì ảo Việt, Báo Thanh Niên Online cho rằng: “Không có nhiều tác phẩm
văn học thuộc thể loại trinh thám, kì ảo, đời sống văn học Việt đang bỏ trống
sân chơi này cho dòng sách truyện trinh thám, kì ảo của văn học thế giới ào ạt
tràn vào” [197].
Trong Tiếng hú ban đêm – Tập truyện ngắn của Thế Lữ, Ngô Văn Giá có
nhận định về vai trò của thể loại trinh thám trong đời sống khá thuyết phục:
33
“Ngày nay nhìn vào những mảng văn học này, chúng ta rộng lòng hơn khi đón
nó và trên thực tế sẽ bổ ích cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc với những tác phẩm
văn học mà ở đó không phải lúc nào cũng chăm chăm đi tìm bằng được ý nghĩa
xã hội một cách thô thiển và vị tất đã thấy!” [74, tr.13].
Toạ đàm Văn học trinh thám Việt Nam và tiểu thuyết trinh thám của Di
Li diễn ra tại Trung tâm Văn hoá Pháp Việt ngày 18/01/2016, cũng là dịp Di
Li ra mắt cuốn trinh thám Câu lạc bộ số 7. Cuộc toạ đàm thu hút sự quan tâm
của nhiều độc giả, người thích truyện trinh thám đến tham dự. Tại toạ đàm
này, các học giả, nhà văn, độc giả và báo giới đã thảo luận nhiều vấn đề về
truyện trinh thám: truyện trinh thám Việt Nam có đặc điểm gì, nó ra đời khi
nào, gương mặt trinh thám tiêu biểu có những ai, thời gian qua thể loại này
phát triển ra sao, v.v…? Nhà văn Di Li cùng với việc giới thiệu tiểu thuyết
trinh thám Câu lạc bộ số 7 của mình cũng chia sẻ rằng chị viết truyện trinh
thám vì từ nhỏ đã thích đọc sách và rất thích đọc tiểu thuyết trinh thám nước
ngoài và đương nhiên không thể không đọc Thế Lữ, Phạm Cao Củng của
nước ta. Điều này phần nào nói lên rằng nhà văn trinh thám Việt Nam một
phần tiếp thu, ảnh hưởng truyện trinh thám nước ngoài nhưng cũng luôn có
tinh thần tiếp nối truyền thống trinh thám Việt Nam, cho dù truyện trinh thám
Việt Nam ra đời muộn hơn so với phương Tây.
Cũng trong năm 2016, ngày 30/11, Khoa Văn học - Học viện Khoa học
xã hội đã tổ chức Hội thảo khoa học Văn học trinh thám ở Việt Nam – Lí luận
và thực tiễn. Hội thảo đã thảo luận từ những vấn đề chung về quan niệm, đặc
trưng thể loại đến những trường hợp tác giả, tác phẩm truyện trinh thám cụ
thể. Đặc biệt, Hội thảo đặt ra những vấn đề về nguồn gốc, về diện mạo và
tương lai của thể loại này. Một số tham luận trình bày tại Hội thảo đã đặt ra
được các vấn đề và được các nhà khoa học, các đại biểu thảo luận sôi nổi như
các tham luận: Văn học trinh thám Đông Tây – một vài điểm nhìn tham chiếu
34
của Nguyễn Thị Thuý Hạnh, Quan niệm về truyện trinh thám và sự ra đời
truyện trinh thám của Thế Lữ trong nền văn học Việt Nam của Nguyễn Thế
Bắc, Trinh thám của Di Li – “người mở đường” dũng cảm của Trần Thị Vân,
Nhân vật trong tiểu thuyết phản trinh thám của Đặng Thị Bích Hồng, v.v…
Không ít ý kiến còn băn khoăn trong bối cảnh văn học trinh thám thế giới
hiện nay, văn học trinh thám Việt Nam đứng ở đâu, có hay không một dòng
riêng văn học trinh thám Việt Nam giữa nguồn chung văn học trinh thám thế
giới, tương lai phát triển của thể loại này như thế nào, v.v…? Tuy nhiên, cơ
bản ý kiến cho rằng việc nghiên cứu văn học trinh thám như một thể loại là
cần thiết và chắc chắn ẩn chứa nhiều điều thú vị. Chủ đề, cũng là những vấn
đề đặt ra, của Hội thảo này cho thấy thể loại truyện trinh thám ngày càng thu
hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, lí luận, phê bình và độc giả văn học.
Ngày 25/11/2018, nhân sự kiện tái bản bộ sách Thám tử Kỳ Phát của
Phạm Cao Củng, một toạ đàm về truyện trinh thám diễn ra tại phố sách Hà
Nội với chủ đề Đánh thức trinh thám Việt đã khái quát lịch sử hình thành
trinh thám Việt. Tại toạ đàm, Phạm Xuân Thạch chia sẻ: “Chúng tôi làm phê
bình nên hay để ý tới những cuộc tranh luận: cuộc tranh luận của nhóm Tự
lực văn đoàn (là những người chuyên viết tiểu thuyết kĩ thuật cao) với những
nhà văn thuộc nhóm Tân Dân (nhóm văn học tiêu thụ, vì Tân Dân có tờ Tiểu
thuyết Thứ Năm, Tiểu thuyết Thứ Bảy, hệ thống xuất bản của họ xuất bản rất
nhiều trinh thám, võ hiệp). Trong cuộc tranh luận đó, truyện trinh thám, võ
hiệp luôn luôn bị coi là ba xu, thấp kém” [92]; nhưng hiện nay, “mảnh đất của
trinh thám luôn rộng mở, điều quan trọng là nhà văn có ý thức cao về nghề
hay không” [92]. Những nhận định đó một mặt đã khái quát, đánh giá về thực
trạng đời sống của truyện trinh thám Việt Nam, một mặt thể hiện niềm tin về
tương lai của thể loại này.
35
Gần đây nhất, tại Hà Nội có hai cuộc toạ đàm về truyện trinh thám được
tổ chức ở hai tháng liền nhau (tháng 9/2022 và tháng 10/2022), cho thấy sự
quan tâm về truyện trinh thám ngày một nhiều hơn:
Ngày 9/9/2022, Hội Nhà văn Việt Nam, Công ti Linh Lan Books, Công
ti Lien Viet Books, Truyền hình Kĩ thuật số trả tiền K+ đồng chủ trì tổ chức
Toạ đàm Văn học trinh thám hiện đại – giao thoa Đông và Tây đã thu hút
được nhiều ý kiến thảo luận của các độc giả, các nhà lí luận, phê bình văn
học, các nhà văn, các phóng viên báo chí xoay quanh những vấn đề: lí giải tại
sao văn học trinh thám Việt Nam vẫn còn non trẻ, sự khác nhau giữa văn học
trinh thám Đông và Tây, giữa văn học trinh thám hiện đại và truyền thống,
khả năng khai thác thế mạnh của thể loại đối với những nhà văn Việt Nam
trong sáng tác của họ.
Ngày 25/10/2022, Toạ đàm Trinh thám Pháp và Việt qua góc nhìn của
các nhà văn nổi danh được Thư viện quốc gia Việt Nam, Viện Pháp tại Việt
Nam và Công ty Văn hoá và truyền thông Nhã Nam đồng tổ chức. Tôi tham
dự và trao đổi với các diễn giả tại toạ đàm là nhà văn trinh thám Pháp Michel
Bussi, Đại sứ Pháp tại Việt Nam – nhà văn Nicolas Warnery, nhà văn trinh
thám Việt Nam Di Li. Các diễn giả đã chia sẻ về lí do viết truyện trinh thám,
những khó khăn khi viết truyện trinh thám, cách thức viết truyện trinh thám
để thành công, sự phát triển và thành công của các nhà văn trinh thám Pháp,
Sự bí ẩn cuốn hút chúng ta và tiểu thuyết trinh thám khiến chúng ta biết
được cuộc sống có nhiều điều cuốn hút. Truyện giúp ta tái hiện được những
gì là hơi thở của cuộc sống qua tài miêu tả của nhà văn. Khán giả hiện nay
rất khó tính nên cần những truyện hấp dẫn hơn nhưng vẫn phải gắn với hơi
thở cuộc sống chứ không phải là những câu chuyện ở tận vũ trụ.
sự nỗ lực của các nhà văn Việt Nam, v.v… Nhà văn Nicolas Warnery chia sẻ:
Các diễn giả đều cho rằng một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn,
thành công khi viết truyện trinh thám hiện nay là truyện “phải bám sát đời
36
sống”, “mang dấu ấn bản sắc văn hoá vùng miền”, “cần có sự quan tâm đến
đời sống xã hội với những nghèo đói, tham nhũng, bất công”, “viết tiểu thuyết
trinh thám về ngay những điều ở đất nước của mình sẽ hay hơn”, v.v...
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình
nghiên cứu, phê bình, sưu tầm và giới thiệu tác phẩm ít nhiều liên quan đến
các tác giả và tác phẩm truyện trinh thám như: Văn học Nam Bộ đầu thế kỉ XX
(1900-1945) (1988) của Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp; Phác thảo
quan hệ văn học Pháp và văn học Việt Nam hiện đại (1988) của Hoàng Nhân;
Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX (1999) do Cao Xuân Mĩ sưu tầm, Mai
Quốc Liên giới thiệu; Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (2000) của
Nguyễn Đăng Mạnh; Báo chí với văn học giai đoạn 1932-1945 (2001) của Lê
Thị Đức Hạnh; Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (2002) của Mai Quốc
Liên (Chủ biên), Nguyễn Văn Lưu và Nguyễn Cừ (Sưu tầm, biên soạn), Lược
khảo văn học Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại (2005) của Bùi Đức Tịnh;
Văn học miền Nam nơi miền đất mới (2007) của Nguyễn Q. Thắng, v.v… Tuy
những công trình này không bàn sâu về truyện trinh thám Việt Nam nhưng
cũng đã nhắc đến thể loại này trong mối quan hệ với thể loại khác, trong lịch
sử văn học, v.v… có liên quan đến vấn đề nghiên cứu trong đề tài luận án.
Cũng đã có một số luận án, luận văn đề cập đến những vấn đề liên quan
thể loại này trong văn học Việt Nam, như các luận án: Sự hình thành và vận
động của thể loại tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối
thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX (1993) của Tôn Thất Dụng; Đóng góp của văn
học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và tiến trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam (2001) của Lê Ngọc Thúy; Quá trình hiện đại hóa tiểu
thuyết Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX (2001) của Cao Thị
Xuân Mĩ; Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX (2008) của
Võ Văn Nhơn,v.v… đặt trinh thám trong các thể loại tiểu thuyết để đánh giá
37
về tiểu thuyết văn xuôi Nam Bộ và quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết Việt
Nam; Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX- Từ đặc trưng thể loại
(2006) của Nguyễn Thành Khánh đã khái quát diện mạo, đánh giá một số đặc
điểm hình tượng nghệ thuật, cốt truyện và phương thức trần thuật của truyện
trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Các luận văn: Nhận diện tiểu thuyết
trinh thám Việt Nam (2005) của Trần Thanh Hà, Tiểu thuyết trinh thám - kinh
dị của Di Li (2017) của Nguyễn Thị Lĩnh đã khái quát và đánh giá, phân tích
một số đặc điểm về cốt truyện, tình huống, nhân vật, không gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li; Truyện trinh thám
của Thế Lữ (2016) của Nguyễn Thế Bắc đã phân tích, đánh giá quy luật vận
động văn học dẫn đến sự ra đời và những đặc điểm nội dung, nghệ thuật, các
yếu tố truyền thống và cách tân trong truyện trinh thám của Thế Lữ; Tiểu
thuyết trinh thám của Di Li (Qua “Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bộ số 7”)
(2017) của Vũ Thị Thủy đã khái quát về tiểu thuyết trinh thám của Di Li,
phân tích cốt truyện và nhân vật, điểm nhìn và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu
thuyết trinh thám của Di Li. Những luận văn, luận án này cho thấy đã có ngày
càng nhiều hơn sự quan tâm nghiên cứu ở những góc độ và mức độ khác nhau
về truyện trinh thám ở Việt Nam.
So với giai đoạn trước, những công trình nghiên cứu từ sau năm 1986 về
truyện trinh thám đã có nhiều thay đổi. Các tác giả nghiên cứu truyện trinh
thám với cái nhìn khá mới mẻ, cởi mở theo tinh thần đổi mới. Tuy có những
quan điểm gần gũi nhưng cũng có những quan niệm, ý kiến trái chiều, trong
đó có cả những đánh giá cực đoan đối với truyện trinh thám. Điều đó chứng
tỏ còn nhiều khoảng trống trong nghiên cứu đòi hỏi chúng ta cần tìm hiểu,
trao đổi bằng cách nhìn khoa học, khách quan đối với thể loại văn học này.
Như vậy, hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu về thể loại truyện trinh thám
Việt Nam của giới chuyên môn ở nửa đầu thế kỉ XX còn ít, còn thiếu những
38
chuyên luận, những công trình lớn, mang tính hệ thống; hầu hết chỉ là các bài
báo, những lời giới thiệu sách, những nhận xét xen kẽ trong các công trình
nghiên cứu liên quan. Việc nghiên cứu sâu về phương diện thể loại truyện
trinh thám hầu như chưa được đặt ra. Trong giới chuyên môn vẫn tồn tại
những định kiến khá nặng nề đối với thể loại này.
Tuy nhiên, tình hình nghiên cứu thể loại này có nhiều thay đổi ở nửa sau
thế kỉ XX. Đặc biệt là từ thời điểm đất nước đổi mới, bước vào quá trình hội
nhập quốc tế đến nay, những vấn đề liên quan đến thể loại truyện trinh thám đã
được nhìn nhận lại một cách khách quan hơn. Các nhà nghiên cứu và độc giả
đã có cái nhìn cởi mở hơn về thể loại này. Truyện trinh thám được xem là một
thể loại hấp dẫn, có triển vọng và có những đóng góp đáng ghi nhận đối với
tiến trình vận động và phát triển văn học Việt Nam hiện đại.
Sang đầu thế kỉ XXI, việc nghiên cứu thể loại truyện trinh thám đã có
những thay đổi mang tính “đột phá”, có nhiều phát hiện mới mẻ. Các kết quả
nghiên cứu truyện trinh thám đã nhiều hơn, sâu hơn, công bằng, khách quan
hơn ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Mặc dù vậy, nghiên cứu một cách tổng thể
và hệ thống về thể loại truyện trinh thám từ khi nó xuất hiện cho đến nay trên
tinh thần cập nhật tri thức khoa học, với cái nhìn mới mẻ, khách quan vẫn còn
là một khoảng trống đòi hỏi các nhà nghiên cứu hiện nay giải quyết.
Tìm hiểu về quá trình nghiên cứu truyện trinh thám Việt Nam, theo
chúng tôi, một số vấn đề cơ bản của thể loại đã ít nhiều có sự gặp gỡ trong
nhận định, đánh giá của giới nghiên cứu:
Thứ nhất, về quan niệm: mặc dù có sự quan tâm chú ý nhiều ít khác nhau
đến các yếu tố trong truyện trinh thám nhưng các nhà văn, các học giả nước
ngoài cũng như của các nhà văn, các học giả trong nước đều coi truyện trinh
thám là một thể loại văn học duy lí, kết cấu cốt truyện và các tình tiết, nhân
vật, v.v… đều xoay quanh sự khám phá bí mật liên quan đến vụ án, thường
39
liên quan đến tội ác, pháp luật, để cuối cùng mở được bức màn bí mật, tìm ra
được thủ phạm của vụ án bằng quá trình xét đoán khoa học chứ không hề nhờ
sự huyền bí hay tình cờ, ngẫu nhiên; thuyết phục người đọc bằng lối miêu tả
một cách tỉ mỉ, trình bày một cách logic khoa học, duy lí và gay cấn, hấp dẫn.
Thứ hai, về nguồn gốc, xuất xứ truyện trinh thám Việt Nam: trên cơ sở
mô phỏng truyện truyện trinh thám phương Tây và truyện vụ án Trung Quốc,
kết hợp với một số yếu tố của văn học truyền thống, các nhà văn đầu thế kỉ
XX đã tạo ra một thể loại văn học mới, đó là truyện trinh thám Việt Nam. Thể
loại truyện trinh thám Việt Nam có những nét đặc thù, cả về nội dung lẫn hình
thức; có quy luật vận động riêng. Do ảnh hưởng hoàn cảnh lịch sử-xã hội Việt
Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX, nó hình thành một cách nhanh chóng, góp phần
thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Thứ ba, về thành tựu: Thế Lữ, Phạm Cao Củng được xem là hai nhà văn
thành công nhất về thể loại này. Các truyện trinh thám của Thế Lữ và Phạm
Cao Củng đều ảnh hưởng truyện trinh thám cổ điển của nhà văn trinh thám
Mĩ Adgar Allan Poe, nhà văn Anh Conan Doyle trong việc xây dựng hình
tượng nhân vật thám tử. Đồng thời, sự đóng góp của nhiều nhà văn như Phú
Đức, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu, Nam Đình Nguyễn Thế Phương, Bửu
Đình, Bùi Huy Phồn, v.v… với các truyện mang màu sắc khác nhau (trinh
thám hành động, trinh thám vụ án, trinh thám ái tình, trinh thám võ hiệp,…)
đã làm nên diện mạo cho thể loại truyện trinh thám với những thành tựu và
đóng góp không nhỏ đối với nền văn học nước ta đầu thế kỉ XX.
Tuy nhiên, truyện trinh thám Việt Nam là một đối tượng được giới
nghiên cứu nhìn nhận rất khác nhau. Xuất phát từ đó, chúng tôi thấy rằng
nhiều vấn đề về thể loại này cần được giới chuyên môn quan tâm và tiếp tục
tìm hiểu, giải quyết:
40
Một là, sự khác biệt trong việc đánh giá vị trí, vai trò, tầm ảnh hưởng của
văn học trinh thám đối đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam nói chung, đối
với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nói riêng. Ở đây có hai xu hướng
đánh giá hoàn toàn trái ngược nhau. Mặc dù càng về sau, xu hướng khẳng
định càng tỏ ra vượt trội, song do chỗ phần lớn các công trình nghiên cứu chỉ
mới dừng lại ở việc phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, chưa có
những công trình đánh giá một cách đầy đủ, hệ thống về thể loại nên những
nhận định chưa tạo được sức thuyết phục cao.
Hai là, hầu như các nhà nghiên cứu đều khẳng định nguồn gốc của
truyện trinh thám Việt Nam khởi phát từ tiểu thuyết trinh thám phương Tây,
truyện vụ án Trung Quốc nhưng về cơ bản vẫn chỉ là những nhận định chung
chung, chưa có sự đối chiếu, so sánh, chứng minh thật chi tiết, đầy đủ. Không
thể phủ nhận sự ảnh hưởng của truyện trinh thám phương Tây, truyện vụ án
Trung Quốc đối với trinh thám Việt Nam, song ảnh hưởng như thế nào, chi
phối đến đâu, biểu hiện ra sao, phần tiếp thu, tiếp biến, sáng tạo của nhà văn
nước ta như thế nào?, v.v… vẫn là những câu hỏi chưa được trả lời đầy đủ.
Ba là, một số vấn đề lí luận thể loại vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát
như: nội hàm khái niệm, đặc trưng, bản chất thể loại truyện trinh thám Việt
Nam; tác giả, tác phẩm truyện trinh thám Việt Nam đầu tiên; thành tựu của
thể loại này đạt được đến đâu?, v.v… Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, trong
khi đi tìm câu trả lời cho các vấn đề trên đã nảy sinh không ít sự nhầm lẫn dẫn
đến những ngộ nhận về nguồn gốc, đặc trưng thể loại so với các thể loại khác
như truyện truyền kì, truyện kinh dị, truyện kiếm hiệp, truyện khoa học viễn
tưởng, v.v… khiến cho việc tìm hiểu về thể loại gặp không ít khó khăn.
Tiểu kết chương 1
Truyện trinh thám là một thể loại đã nhận được sự quan tâm tìm hiểu, lí
giải của không ít nhà văn, nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình trong và ngoài
41
nước. Điều đó đã phần nào cho thấy lí do tồn tại cũng như vị trí, vai trò của
thể loại này đối với đời sống xã hội nói chung và đời sống văn học nói riêng.
Mặc dù đã được các nhà chuyên môn đề cập đến, nghiên cứu, lí giải
nhưng xung quanh những vấn đề mấu chốt của thể loại trinh thám Việt Nam
vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu rất khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu để
nhận thức một cách đầy đủ, khoa học và hệ thống hơn về thể loại truyện trinh
thám trong nền văn học Việt Nam là một vấn đề rất cần thiết đặt ra cho giới
chuyên môn hiện nay.
Từ việc tổng quan tình hình nghiên cứu về thể loại truyện trinh thám nói
chung và thể loại truyện trinh thám Việt Nam nói riêng, chúng tôi có cơ sở
khoa học và thực tiễn để xác định những vấn đề mà luận án sẽ tập trung giải
quyết cũng như hướng tiếp cận vấn đề, triển khai luận án một cách hệ thống,
khoa học, phù hợp và thiết thực. Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu,
luận án hướng đến việc tiếp tục giải quyết một số vấn đề cơ bản: thuật ngữ,
khái niệm thể loại truyện trinh thám; nguồn gốc, những tiền đề dẫn đến sự ra
đời và các giai đoạn phát triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam; đặc
trưng thể loại truyện trinh thám; một số đặc điểm của thể loại truyện trinh
thám Việt Nam; vai trò, vị trí, những đóng góp, xu hướng vận động và phát
triển của thể loại này trong văn học Việt Nam hiện đại.
Trước một lịch sử vấn đề khá phức tạp như vậy, để đạt được mục tiêu
nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xác định hướng tiếp cận sẽ nghiêng về lịch sử
thể loại. Tuy luận án không đặt vấn đề đi sâu vào thi pháp thể loại nhưng để
làm rõ tiến trình và đặc điểm thể loại này, ở một số luận điểm, chúng tôi vẫn
đề cập đến ở phạm vi có thể và cần thiết.
42
Chương 2
SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
“Truyện trinh thám” là một thuật ngữ xuất phát từ tiếng Pháp: “Roman
détective” (Tiểu thuyết trinh thám), “Littérature policiere” (Văn học cảnh sát);
hay “Roman policier” (Truyện cảnh sát). Trong tiếng Anh, người ta dùng các
thuật ngữ: “Detective novel-Detective fiction” (Tiểu thuyết trinh thám),
“Mystery novel” (Tiểu thuyết kì bí), “Crime novel” (Tiểu thuyết tội phạm),
“Suspense novel” (Tiểu thuyết li kì/ hồi hộp), “Fiction noir novel” (Tiểu
thuyết hư cấu), “Thriller novel” (Tiểu thuyết giật gân) để chỉ thể loại truyện
trinh thám.
Ở Việt Nam, do hiểu bản chất thể loại chưa rõ ràng, nhiều khi hiểu chưa
đầy đủ về bản chất thể loại nên có người xếp truyện trinh thám, truyện truyền
kì, truyện chí dị, chí quái, truyện đường rừng vào một loại; nhưng có người
lại coi đó là những thể loại khác nhau. Chẳng hạn như nhà nghiên cứu
Nguyễn Huệ Chi tuyển chọn các truyện in thành cuốn Truyện truyền kì Việt
Nam mà trong đó có Vàng và máu của Thế Lữ; Truyện Thần Hổ, Ai hát giữa
rừng khuya (Tchya); Trên đỉnh non Tản của Nguyễn Tuân. Trong khi đó, ở
nhiều cuốn sách khác lại xếp Vàng và máu vào loại sách truyện trinh thám;
Truyện Thần Hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Tchya) và Trên đỉnh non Tản của
Nguyễn Tuân vào loại sách truyện đường rừng, truyện chí dị. Điều này đã
phần nào nói lên sự phức tạp, sự gần gũi và đan xen giữa truyện trinh thám
với các thể loại khác.
Về dung lượng, cách gọi thể loại văn xuôi này cũng là một vấn đề còn
khác nhau về phân loại, tên gọi như các thuật ngữ nêu ở trên: tiểu thuyết,
truyện ngắn, truyện. Về nội dung này, chúng tôi tán thành với quan niệm của
43
Phạm Đình Ân cho rằng ở những năm đầu của thế kỉ XX, khi văn xuôi nghệ
thuật viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện thì tiểu thuyết và truyện ngắn chưa
được phân biệt một cách rõ ràng theo quan niệm hiện đại, và vì thế, khi nói
đến một thể loại cụ thể thì dùng khái niệm “truyện” để chỉ tất cả các thể loại
văn xuôi. Ở luận án này, chúng tôi cũng sử dụng thuật ngữ “Truyện trinh
thám” thay cho nhiều cách gọi khác nhau kể trên để chỉ tất cả các sáng tác văn
xuôi có nội dung điều tra, phá án bằng tư duy logic khoa học, bằng trí tuệ.
Xuất phát từ bản chất nội dung và nghệ thuật của thể loại văn xuôi và
những quan niệm về thể loại này, chúng tôi cho rằng: “Truyện trinh thám” là
một thuật ngữ chỉ những sáng tác văn xuôi mà nội dung và nghệ thuật của
những sáng tác ấy mang tính duy lí, có kết cấu, cốt truyện và các tình tiết,
nhân vật v.v… xoay quanh sự khám phá bí mật liên quan đến vụ án để giải
mã những bí mật trong vụ án, tìm ra được thủ phạm của vụ án bằng quá trình
xét đoán khoa học, logic; thuyết phục người đọc bằng việc miêu tả một cách tỉ
mỉ, trình bày một cách logic khoa học, duy lí và ngôn ngữ kể chuyện tạo được
sự gay cấn, hồi hộp, hấp dẫn người đọc. Truyện trinh thám Việt Nam là
những tác phẩm như thế, được nhà văn Việt Nam sáng tác ở Việt Nam (không
bao gồm những truyện trinh thám dịch và những truyện trinh thám tiếng Việt
được phát hành ở nước ngoài).
2.1. Nguồn gốc và những yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại truyện
trinh thám Việt Nam
2.1.1. Bối cảnh lịch sử-xã hội, văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỉ
XX
Sự xâm lược của thực dân Pháp từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX khiến
cho xã hội, văn hóa Việt Nam có sự biến đổi sâu sắc. Năm 1858, thực dân
Pháp nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng, chính thức tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lược đất nước ta. Sau gần nửa thế kỉ bình định về quân sự, thực dân Pháp
44
đã thôn tính hoàn toàn, biến đất nước ta thành một nước thực dân nửa phong
kiến. Từ đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thuộc địa
một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đối
với đất nước ta. Từ đây, thực dân Pháp thực sự khai thác thuộc địa về kinh tế.
Hai cuộc khai thác thuộc địa của chúng (lần thứ nhất từ năm 1897 đến năm
1914; lần thứ hai từ năm 1919 đến năm 1929) nhằm vơ vét tài nguyên, bóc lột
nhân công, mở mang thị trường đã khiến cho xã hội Việt Nam có những biến
đổi sâu sắc. Quá trình đô thị hóa, sự ra đời các thành phố công nghiệp, đô thị,
thị trấn diễn ra ở nhiều nơi. Cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng có sự thay đổi
lớn: bên cạnh những tầng lớp, giai cấp cũ như nông dân, địa chủ, những giai
cấp, tầng lớp xã hội mới như tư sản, tiểu tư sản, công nhân, dân nghèo thành
thị, viên chức, học sinh, sinh viên xuất hiện ngày càng nhiều. Những giai tầng
mới ra đời tạo ra một lớp công chúng mới của văn học có đời sống tinh thần
và thị hiếu mới. Điều này tác động đến văn hóa, văn học, làm nảy sinh đòi hỏi
một thứ văn chương mới. Đồng thời làm xuất hiện những chủ thể sáng tạo
nghệ thuật mới đại diện cho tiếng nói khác nhau trong xã hội.
Cùng với sự biến đổi về kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội, tình hình giáo
dục, đời sống tư tưởng, văn hóa và tâm lí ở Việt Nam cũng có nhiều chuyển
biến. Thực dân Pháp chủ trương nhanh chóng xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục
Nho học, thay vào đó là sự mở rộng hệ thống giáo dục Pháp-Việt, mở ra nhiều
trường học và chia thành hai bộ phận: các trường Pháp chuyên dạy học sinh
Pháp theo chương trình “Chính quốc”, các trường Pháp-Việt chuyên dạy
người Việt theo chương trình “Bản xứ”. Việc làm này của thực dân Pháp, bên
cạnh mục đích giáo dục phục vụ sự cai trị, thôn tính, khai thác, bóc lột của họ,
nó cũng đã tạo ra tầng lớp trí thức Tây học, có sự tiếp cận với văn hóa, văn
học Pháp và phương Tây. Từ trường học Pháp-Việt và bối cảnh xã hội chung,
nhiều thành tựu khoa học kĩ thuật, nghệ thuật và văn hóa gắn với các trào lưu
45
tư tưởng mới từ phương Tây thông qua sách báo nước ngoài đã tràn vào trong
nước, thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Á-
Âu, Đông-Tây ở Việt Nam. Việc in ấn, xuất bản và giới thiệu các công trình
về khoa học tự nhiên, về triết học, luật học của các học giả phương Tây đã
góp phần làm thay đổi phương pháp tư duy, nghiên cứu. Phương pháp tư duy
duy lí tồn tại bên cạnh lối tư duy duy cảm được hình thành trong một số trí
thức tân học, tác động mạnh đến quan niệm nhân sinh và nghệ thuật của nghệ
sĩ Việt Nam. Đặc biệt, đến thời kì này, viết văn cũng được coi là một nghề,
tuy còn rất chật vật, khó khăn. Vì thế, việc sáng tác của nhà văn trở nên có
tính chuyên nghiệp.
Như trên vừa nói, đây là thời kì giao lưu văn hóa Đông-Tây diễn ra
mạnh mẽ. Nếu trong suốt mười thế kỉ văn học trung đại, Việt Nam chỉ giao
lưu với văn hóa, văn học phương Đông mà chủ yếu là văn hóa, văn học Trung
Hoa thì từ đầu thế kỉ XX, Việt Nam mở rộng giao lưu với văn hóa, văn học
Pháp và qua đó giao lưu với văn hóa, văn học phương Tây. Đây là bước
chuyển biến sâu sắc vì trước đó sự giao lưu của Việt Nam chỉ mang tính khu
vực, còn từ đầu thế kỉ XX có giao lưu với văn hóa Pháp và phương Tây là
Việt Nam đã bước ra phạm vi giao lưu thế giới. Nhờ đó mà văn hóa, văn học
Việt Nam có điều kiện để giao lưu, tiếp nhận và tiếp biến văn hóa, văn học
của phương Tây và bắt đầu trở thành một bộ phận trong văn hóa, văn học thế
giới.
Lịch sử chính trị-xã hội, văn hóa và văn học, nghệ thuật luôn có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Thời đại nào thì văn học ấy. Sự
biến động của tình hình lịch sử-văn hóa-xã hội Việt Nam những năm đầu thế
kỉ XX đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của văn học Việt Nam. Trong
khuôn khổ của luận án, chúng tôi phác thảo bối cảnh văn học Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 để lí giải nguyên nhân
46
tác động dẫn đến sự ra đời thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam. Đây là thời
kì rất quan trọng trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử văn học nói riêng.
Trước hết có thể thấy, từ đầu thế kỉ XX, trong nhiều lĩnh vực, từ hành
chính công vụ đến văn chương nghệ thuật; chữ Hán, chữ Nôm đã được thay
thế bằng chữ quốc ngữ. Sự phát triển rộng rãi của chữ quốc ngữ đã tạo điều
kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc với sách báo. Nhu cầu văn hóa của lớp
công chúng mới làm nảy sinh những hoạt động kinh doanh văn hóa, làm cho
nghề in, nghề xuất bản, nghề làm báo theo kĩ thuật hiện đại phát triển khá
mạnh. Chính sự phát triển ấy, đặc biệt là sự phát triển của báo chí đã làm chỗ
dựa cho sự phát triển của văn học.
Từ đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam bắt đầu phát triển theo hướng hiện
đại hóa, dần dần thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới
theo hình thức văn học phương Tây, hội nhập với nền văn học thế giới. Đây là
giai đoạn có sự đan xen cũ-mới trong văn học, cái mới đang hình thành và cái
cũ vẫn chưa mất đi ở nhiều yếu tố của văn học. Trong khi sáng tác của những
cây bút Hán học như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế đã có những đổi mới về nội dung tư
tưởng nhưng thể loại, ngôn ngữ, thi pháp, văn tự vẫn thuộc phạm trù văn học
trung đại thì những cây bút tân học lại có những sáng tác mới với quan niệm
văn học, mục đích sáng tác, quan niệm thẩm mĩ, thể loại, thi pháp, văn tự
mới. Lúc này, chữ quốc ngữ đã xuất hiện và được phổ biến ngày càng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn chương nghệ thuật. Cùng với chữ quốc
ngữ, báo chí và phong trào dịch thuật phát triển. Nhiều tác phẩm tiểu thuyết
cổ điển, tiểu thuyết và kịch Pháp, Tân thư Trung Quốc, Nhật Bản được dịch
và có tác động quan trọng tới việc hình thành và phát triển văn xuôi chữ quốc
ngữ ở Việt Nam. Đầu thế kỉ XX, nhiều tác phẩm văn xuôi bằng chữ quốc ngữ
ra đời. Đến giai đoạn 1920-1930, quá trình hiện đại hóa nền văn học đã đạt
47
được những thành tựu đáng kể. Với những tác phẩm ở các thể loại, nhiều tác
giả đã khẳng định được tài năng và sức sáng tạo qua những sáng tác của mình
như: truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học; tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh; thơ của Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải; kịch của Vũ Đình
Long, Vi Huyền Đắc, v.v… Để rồi nền văn học của ta hoàn tất quá trình hiện
đại hóa ở giai đoạn 1930-1945. Đến giai đoạn này, nền văn học nước nhà đã
có sự cách tân sâu sắc trên mọi thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện ngắn và
thơ; ngay cả những thể loại mới như kịch nói, phóng sự, phê bình văn học đều
khẳng định được sự cách tân so với văn học trung đại. Sau giai đoạn giao
thời, từ năm 1930 đến năm 1945, nền văn học Việt Nam gắn liền với sự
chuyển động trong đà quay rất nhanh. Chỉ trong 15 năm, văn học đã thực sự
bước vào quỹ đạo văn học hiện đại với nét nổi bật của tư duy nghệ thuật là
“tôi nhìn thế giới bằng con mắt của riêng tôi”, thế giới được phản ánh qua
cảm quan của người nghệ sĩ.
Sự phát triển mạnh mẽ và lớn lao về số lượng tác giả và tác phẩm; sự
hình thành và đổi mới theo hướng hiện đại ở các thể loại văn học; sự vận
động với nhiều bộ phận, xu hướng văn học và độ kết tinh ở nhiều tác giả, tác
phẩm tiêu biểu như đã khái quát ở trên cho thấy văn học Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến năm 1945 có sự phát triển nhanh chóng trong lịch sử văn học dân
tộc. Chưa bao giờ nền văn học của ta lại có sự xuất hiện một thế hệ nhà văn,
nhà thơ tài năng đông đảo và đạt được những thành tựu to lớn gắn với sự hoàn
thiện về các thể loại văn học như trong thời kì này.
Văn xuôi đạt được những thành tựu ở tất cả các thể loại: từ tiểu thuyết,
truyện ngắn cho đến phóng sự, bút kí, tùy bút, kịch nói, lí luận và phê bình
văn học.
Mặc dù tiểu thuyết quốc ngữ trước năm 1930 xuất hiện chưa nhiều, kết
cấu, cốt truyện còn đơn giản, thậm chí có một số chỉ là phỏng tác theo cốt
48
truyện của tiểu thuyết phương Tây hoặc chưa thoát được kiểu kết cấu chương
hồi, ngôn ngữ chưa mang tính nghệ thuật cao nhưng đã là tín hiệu khai mở sự
phát triển của thể loại này. Để rồi từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, thể
loại này đã phát triển phong phú, có sự đổi mới sâu sắc và đạt được thành tựu
lớn lao. Tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm xuất sắc
của Nhất Linh, Khái Hưng đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới.
Tiếp đó, từ năm 1936, những tên tuổi lớn của tiểu thuyết hiện thực như Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, v.v… đã thực sự đưa
công cuộc cách tân tiểu thuyết nước nhà lên một tầm cao mới.
Cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn cũng phát triển mạnh mẽ, nhanh
chóng. Đặc biệt, chỉ sau hơn mười năm, từ năm 1930 đến năm 1945, trong
nền văn học của chúng ta đã xuất hiện nhiều truyện ngắn đặc sắc, có những
truyện được coi là kiệt tác. Chưa bao giờ truyện ngắn nước ta lại đơm hoa
kết trái muôn sắc muôn hương như ở giai đoạn 1930-1945 mà nó kết tinh ở
những sáng tác truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan; truyện
ngắn trữ tình của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh; truyện ngắn phong
tục của Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân; và Nam Cao với những truyện ngắn
viết về người nông dân và người trí thức nghèo, mang tư tưởng sâu sắc, có
ý nghĩa khái quát rộng lớn với những trang miêu tả, phân tích tâm lí đạt
đến trình độ nghệ thuật cao. Ở giai đoạn này, ngoài vị trí người đi tiên
phong của phong trào Thơ mới, Thế Lữ cũng là cây bút có những thành tựu
truyện ngắn xuất sắc, nhất là ở những sáng tác truyện kinh dị, truyện trinh
thám.
Ở thời kì này, nền văn học nước ta cũng đã ghi nhận thành tựu của một
số thể loại văn xuôi mới xuất hiện như: phóng sự; tùy bút, bút kí; lí luận, phê
bình văn học. Ra đời từ đầu những năm 30, thể loại phóng sự đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận trong những sáng tác của Tam Lang, Trọng
49
Lang, Ngô Tất Tố, Lê Văn Hiến, v.v… và nhất là những sáng tác của “Ông
vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng. Đặc biệt, sự phát triển và liên tiếp
xuất hiện những tác phẩm phóng sự điều tra với yếu tố sự kiện, vụ án, điều tra
đã có tác động lớn đến sự phát triển thể loại truyện trinh thám Việt Nam đầu
thế kỉ XX.
Có thể khẳng định rằng, nhờ sự kế thừa tinh hoa truyền thống văn học
dân tộc, nhờ sự giao lưu, ảnh hưởng, tiếp thu văn hóa, văn học Phương tây,
nền văn học nước ta đã bước vào quá trình hiện đại hóa từ đầu thế kỉ XX đến
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Mặc dù còn những hạn chế không tránh
khỏi nhưng nền văn học dân tộc đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn.
Ở thể loại văn học nào cũng phát triển nhanh và mạnh, ở thể loại nào cũng ghi
nhận được nhiều tác giả, tác phẩm xuất sắc, trong đó có những tác phẩm xứng
đáng là kiệt tác. Đóng góp vào sự phát triển và những thành tựu to lớn ở các
thể loại có sự tham gia đóng góp của các nhà văn viết truyện trinh thám.
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời thể loại truyện trinh thám
Việt Nam
2.1.2.1. Nhu cầu tinh thần của xã hội và công chúng đương thời
Thực tế trong đời sống xã hội từ cổ xưa cho đến ngày nay, con người
luôn hướng đến sự văn minh và khát vọng đời sống công bằng. Những cách
hành xử của con người trái với đạo đức hay pháp luật vẫn thường thấy ở bất
kì thời đại nào, ở bất kì xã hội nào. Để thực hiện khát vọng công bằng, người
ta đấu tranh nhằm loại bỏ, chế ngự hay cải biến tội ác bằng nhiều biện pháp
khác nhau, trong đó có việc phản ánh tội ác và sự trừng phạt tội ác trong
những sáng tác văn chương. Ước mơ về công lí từng là ước mơ ngàn đời của
con người Việt Nam, được thể hiện đa dạng và phong phú trong văn học Việt
Nam, nhất là trong văn học dân gian: ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyện
truyền kì, v.v…
50
Hơn nữa, bản chất đời sống tinh thần của con người là luôn có khát vọng
kiếm tìm sự thật. Chính khát vọng kiếm tìm sự thật của con người là một yếu
tố nguồn cội để truyện trinh thám ra đời, bởi bản chất của thể loại truyện trinh
thám là thể loại đi tìm sự thật: nêu lên vụ án, tất nhiên trong đó có nạn nhân,
và quá trình đi giải mã sự thật về nạn nhân, sự thật về thủ phạm, sự thật về lí
do, mục đích, cách thức gây án của kẻ thủ ác bằng việc sử dụng lí trí, tư duy
logic, sự hiểu biết của thám tử/ người điều tra.
Sự hiếu kì, muốn khám phá những điều mới lạ, những điều bí ẩn là một
tâm lí phổ biến của người Á Đông, và đó cũng là một đặc điểm nổi bật của
người Việt Nam. Truyện Bí mật trong văn học dân gian Việt Nam là một ví
dụ nói lên rõ điều này. Vì thế, chắc không có thể loại văn học nào thích hợp
hơn thể loại truyện trinh thám trong việc khơi gợi trí tò mò, sự hiếu kì, thích
khám phá cái lạ (cái chưa biết, cái cần làm sáng rõ). Bởi vậy, ở chiều ngược
lại, tâm lí hiếu kì của người Việt Nam cũng là nguồn gốc, là nguyên nhân, là
xúc tác cho sự xuất hiện thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Người Việt Nam là người sáng tạo và đồng thời là người tiếp nhận,
thưởng thức, là bạn đọc, là công chúng của văn học, cả văn học dân gian và
văn học viết. Họ có nhu cầu nhận thức, nhu cầu giáo dục, nhu cầu thẩm mĩ,
nhu cầu giải trí từ những tác phẩm văn học. Mỗi thể loại văn học có thế mạnh
riêng trong việc đáp ứng những nhu cầu đó của bạn đọc, của công chúng. Thể
loại truyện trinh thám có khả năng đáp ứng những nhu cầu đó nhưng đặc biệt
có thế mạnh trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của bạn đọc, của công chúng.
Xã hội càng hiện đại thì nhu cầu giải trí của con người, của bạn đọc càng cao.
Vì thế, nhu cầu của công chúng cũng là một yếu tố ảnh hưởng, tác động, thúc
đẩy sự ra đời thể loại truyện trinh thám Việt Nam trong nền văn học Việt
Nam hiện đại.
51
Đầu thế kỉ XX, cùng với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
ở đất nước ta là quá trình đô thị hóa diễn ra, tác động không chỉ đối với đời
sống xã hội, dân sinh mà còn tác động mạnh đến đời sống văn học. Hàng loạt
đô thị ra đời ở nhiều nơi trên cả nước với những thành phố, thị trấn xuất hiện,
làm xuất hiện giai tầng mới: bên cạnh những tầng lớp, giai cấp cũ như nông
dân, địa chủ; những giai cấp, tầng lớp xã hội mới như tư sản, tiểu tư sản, công
nhân, dân nghèo thành thị, viên chức, học sinh, sinh viên xuất hiện ngày càng
nhiều. Đặc biệt, những tầng lớp thị dân là lớp công chúng mới của văn học,
họ có đời sống tinh thần và thị hiếu mới, đòi hỏi một thứ văn chương mới. Và
đương nhiên, để đáp ứng những yêu cầu văn chương mới đó thì phải có
những chủ thể sáng tạo nghệ thuật mới. Trong nhu cầu đời sống tinh thần của
thị dân đầu thế kỉ XX thì giải trí là một nhu cầu rất lớn, và truyện trinh thám
ra đời từ yêu cầu đó của công chúng. Truyện trinh thám ra đời cùng với quá
trình đô thị hoá và sự xuất hiện thị dân ở nước ta đầu thế kỉ XX.
2.1.2.2. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Tây
Nguồn gốc sâu xa của truyện trinh thám có thể tìm thấy dạng sơ khai
trong những hình thức văn chương cổ xưa của phương Tây. Những câu
chuyện trong thần thoại Hi Lạp, trong kịch, trong Kinh Thánh đã chứa đựng ở
đó những yếu tố của truyện trinh thám. Ngay từ truyện Oedipus làm vua trong
thần thoại Hi Lạp được Sophocles (496-406 TCN) xây dựng thành vở bi kịch
cùng tên cũng đã xuất hiện những tình tiết tìm hiểu, điều tra để tìm ra sự thật.
Tại thành Thebes xinh đẹp, đức vua Laius cùng hoàng hậu Jocaste kết hôn đã
lâu mà chưa có con. Họ bèn đến đền thờ thần Apolllo để cầu tự. Thần phán
rằng họ sẽ có con trai nhưng đứa con ấy khi lớn lên sẽ giết cha, lấy mẹ. Để
tránh tai hoạ ấy, khi đứa bé vừa chào đời, Laius sai người giết nó. Xót thương
đứa trẻ vô tội, người hầu trao nó cho một người chăn cừu xứ Corynth. Vì
không có con nên vua xứ này nhận đứa trẻ làm con nuôi. Một ngày kia, tin
52
đồn Oedipus không phải là con ruột của nhà vua tới tai chàng, chàng đến đền
thờ thần Apollo tìm lời giải đáp. Thế nhưng thay vì giải đáp, thần Apollo lại
phán sau này chàng sẽ giết cha và lấy mẹ. Sợ hãi tột độ, Oedipus rời Corynth
đi về phía Thebes để tránh hậu họa của lời sấm truyền ấy. Tại một ngã ba
đường, vì xích mích với một đoàn người nên chàng giết chết đoàn người ấy,
trong đó có một ông già và đó chính là vua Laius – cha đẻ của chàng. Ở
Thebes lúc này đang mắc phải một tai hoạ là có một con quái vật đưa ra một
câu đố nếu không giải được câu đố của nó thì mỗi ngày nó sẽ ăn thịt một
người. Oedipus giải được câu đố, quái vật chết, chàng lên làm vua, lấy Jocaste
làm vợ mà không hề biết đó chính hoàng hậu của vua Laius và là mẹ đẻ của
chàng. Ít lâu sau, thành Thebes xảy ra dịch bệnh. Trong quá trình đi tìm
nguồn gốc của dịch bệnh, Oedipus khám phá ra thân phận thật sự của mình.
Chàng hiểu rằng chính chàng là nguyên nhân dẫn tới dịch bệnh bởi sự trừng
phạt đối với tội giết cha, lấy mẹ của chàng. Cuối cùng, Oedipus ân hận và tự
chọc mù hai mắt rồi rời bỏ ngai vàng.
Tuy nhiên, truyện trinh thám hiện đại trên thế giới mới chỉ xuất hiện
khoảng những năm đầu thế kỉ XIX, gần như đồng thời ở nhiều nước phương
Tây. Nhà văn Mĩ Edgar Poe (1809- 1849) được coi là người khai sinh ra thể
loại này. Hàng loạt truyện của ông như: Vụ án ở đường Morgue, Bức thư bị
mất cắp, Bí mật của Marie Roget, v.v… đã được coi là hình mẫu đầu tiên của
truyện trinh thám. Nhà văn đã xây dựng được nhân vật thám tử tài danh
Charles Auguste Dupi, gây được ấn tượng sâu sắc bởi nhân vật này đã trở
thành mẫu hình thám tử chuyên nghiệp đầu tiên trong văn học. Sau Edgar
Poe, dường như nền văn học thế giới đã có sự nở rộ thể loại này. Các nước
Anh, Mĩ, Pháp có văn chương trinh thám phát triển nhất, sau đó lan rộng ra
các nước Đức, Hà Lan, Nga, v.v… với những nhà văn tiêu biểu gắn với tên
những hình tượng nhân vật nổi tiếng như các nhà văn Anh: Charles Dickens
53
(1812-1870) với nhân vật thanh tra Bucket, Conan Doyle (1859-1930) với
nhân vật thám tử siêu hạng Sherlock Holmes, Agatha Christie (1890-1976)
với hình tượng thám tử Hoecull Poirot; nhà văn Mĩ S.S Van Dine (1888-
1939) với nhân vật thám tử Philo Vance; nhà văn Nga Dostoevsky (1821-
1881), v.v… Đặc biệt là sau sự khai mở về thể loại này của nhà văn Mĩ Edgar
Poe, đến đầu thế kỉ XX, truyện trinh thám phát triển bùng nổ mạnh mẽ với tốc
độ nhanh chóng ở phương Tây, được thể hiện ở số lượng lớn tác giả, tác phẩm
và số lượng xuất bản truyện trinh thám ở nhiều nước như: Anh, Mĩ, Pháp,
Đức, Hà Lan, Nga, v.v...
Trong khi đó, cuộc ngoại xâm của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ
đến lịch sử văn hóa, xã hội Việt Nam. Nó tạo ra mối quan hệ tiếp xúc giữa hai
nền văn hóa Á-Âu và Đông-Tây ở nước ta. Sự tiếp xúc ấy đã khiến cho nền
văn chương của ta thoát dần khỏi sự ảnh hưởng mang tính chế định của văn
hóa, văn học phương Đông để từng bước hiện đại hóa nền văn học nước nhà.
Ngay từ đầu thế kỉ XX, nhiều thể loại văn học mới từ phương Tây du nhập và
xuất hiện ở Việt Nam, trong đó có truyện trinh thám.
2.1.2.3. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học phương Đông
Không chỉ chịu ảnh hưởng, tiếp thu và tiếp biến những giá trị của văn
hóa-văn học phương Tây mà văn học Việt Nam cũng tiếp nhận những ảnh
hưởng của văn hóa-văn học phương Đông. Sự tiếp thu, ảnh hưởng đó cũng đã
phần nào cho thấy nguồn gốc ảnh hưởng đối với truyện trinh thám trong nền
văn học Việt Nam hiện đại. Trong Kinh Phật, câu chuyện liên quan đến tội ác
và sự trừng phạt được thể hiện ở quan niệm luân hồi, nhân quả, báo ứng.
Thực chất đó cũng là khát vọng công bằng, khát vọng sự thật được phơi bày,
thậm chí sự thật ở kiếp này được phơi bày ở kiếp khác. Mà khát vọng kiếm
tìm sự thật là một mục đích không thể thiếu của truyện trinh thám.
54
Trong văn học cổ đại Ả Rập có tác phẩm Nghìn lẻ một đêm với các câu
chuyện hàng ngày Scheherazate kể cho đức vua nghe. Trong các câu chuyện
kể của nàng Scheherazate có truyện Ba trái táo có chứa những yếu tố trinh
thám với sự xuất hiện hành động tội ác một cách bí ẩn: Một hôm, nhà vua báo
cho tể tướng Giafar phải có mặt ở cung điện vào tối hôm sau để cùng nhà vua
đi một vòng xung quanh thành phố để nghe ngóng xem dư luận nhân dân ra
sao và nhất là để biết xem họ có điều gì không được hài lòng với những pháp
quan của nhà vua mà điều chỉnh cách cai trị của mình. Tể tướng cùng với thái
giám Mesrour và nhà vua cải trang để không ai nhận biết và cùng ra khỏi
cung điện. Họ gặp một ông lão đánh cá, ông lão than phiền mình là người
nghèo khổ nhất trong cái nghề này. Theo lời hứa của nhà vua là ông lão đánh
cá quay lại kéo lưới ở sông một lần nữa và nhà vua cho lão một trăm đồng
sequins để đổi lấy bất cứ cái gì ông lão kéo lên được. Lão đánh cá quên hết
mệt nhọc trong ngày, cùng với Hoàng đế và Tể tướng Giafar và Mesrour quay
lại sông Tigre, lão buông lưới rồi kéo lên được một chiếc hòm đóng kín khá
nặng. Hoàng đế tức thì bảo Tể tướng đưa cho lão đủ một trăm đồng sequins
và cho lão về. Mesrour theo lệnh Hoàng đế vác chiếc hòm về hoàng cung.
Hoàng đế nôn nóng biết trong đó có gì, lập tức hòm được mở ra với nhiều
tầng gói buộc, mọi người đều kinh hãi khi thấy thân thể một phụ nữ trẻ bị chặt
ra làm nhiều mảnh. Nhà vua giận dữ với sự phạm tội sát nhân của kẻ nào đó
và yêu cầu Tể tướng phải mau chóng tìm ra được kẻ sát nhân để trả thù cho
người phụ nữ, nếu không tìm được hung thủ thì Hoàng đế sẽ treo cổ Tể tướng.
Tể tướng xin Hoàng đế cho ông thời gian để tiến hành cuộc điều tra. Ông lệnh
cho các quan hành pháp làm một cuộc săn lùng hung thủ và đã tìm ra kẻ giết
chết người phụ nữ trẻ là chồng nàng: vì ghen tuông mà hung thủ sát hại vợ
mình.
55
Trong sự ảnh hưởng tiếp nhận và tiếp biến những giá trị của văn học
phương Đông mà chủ yếu là từ nền văn học Trung Hoa cổ điển, văn học Việt
Nam cũng chịu ảnh hưởng và tiếp nhận nhiều yếu tố trinh thám trong văn học
Trung Hoa. Những thần thoại, truyện truyền kì, truyện phiêu lưu, võ hiệp,
truyện công đường, truyện trinh thám Trung Quốc thực sự trở thành chất xúc
tác cho sự ra đời truyện trinh thám trong văn học Việt Nam hiện đại. Đầu thế
kỉ XX, văn học dịch ở nước ta đã phát triển. Ngoài những tác phẩm văn học
phương Tây, tiểu thuyết Trung Quốc cũng được dịch nhiều, trong đó có nhiều
truyện mang yếu tố trinh thám. Theo khảo cứu của tác giả Nhan Bảo được thể
hiện trong bài viết Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học
Việt Nam, ở phần “Thư mục các dịch phẩm tiểu thuyết bình dân Trung Quốc
sang chữ quốc ngữ”, tác giả đã thống kê được 360 dịch phẩm được xuất bản
chủ yếu ở Sài Gòn và Hà Nội, nhiều nhất ở thập niên 20-30 của thế kỉ XX,
trong đó có nhiều truyện mang đậm yếu tố trinh thám như: Bao Công kì án,
Bao Công tra Quách Hòa án, Bao Công nghĩa hiệp chính sử kì thư, Long đồ
công án, Nữ báo phục thù, Thiếu lâm trường hận, Võ Tắc Thiên tứ đại kì án,
Chung Nam huyết hận, v.v… Những dịch phẩm ấy đã tạo nên sự ảnh hưởng
của tiểu thuyết Trung Quốc đến văn học Việt Nam nói chung và truyện trinh
thám Việt Nam nói riêng. Đây cũng là một yếu tố tác động, có ảnh hưởng đến
sự ra đời truyện trinh thám trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
2.1.2.4. Ảnh hưởng của văn hóa-văn học truyền thống Việt Nam
Như một quy luật, truyện trinh thám Việt Nam còn có gốc gác từ những
truyện kể dân gian Việt Nam trong truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện truyền
kì. Nhiều yếu của truyện trinh thám đã xuất hiện trong các tác phẩm văn học
dân gian. Đó là hành động Trọng Thủy thực hiện âm mưu của vua cha Triệu
Đà, hắn ngụy trang, lừa gạt công chúa Mị Châu và vua An Dương Vương để
trở thành nội gián và lấy cắp lẫy nỏ thần của An Dương Vương; hỏi Mị Châu
56
chỉ dấu để tìm nàng khi phải li tán nếu hai nước thất hòa ở truyền thuyết
Chuyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy. Hay những chi tiết cốt
truyện Tấm Cám là tội ác với âm mưu và hành động giết chết Tấm của mụ dì
ghẻ, là sự lừa gạt của mẹ con Cám đối với Tấm và đức vua, là hành động đức
vua tìm chủ nhân của chiếc hài mà quân lính nhặt được để cưới làm vợ, là sự
hồi sinh qua nhiều kiếp của Tấm để dõi theo hành động và vạch trần tội ác
của mẹ con Cám, là chỉ dấu với miếng trầu têm cánh phượng để đức vua nhận
ra và tìm được Tấm sau nhiều kiếp hồi sinh mà đón nàng về cung. Ở truyện
Trạng Quỳnh thì đó là sự thông minh, sắc sảo và sự phán đoán tài tình của
Trạng Quỳnh. Phán đoán được tâm địa và tính cách của nhà vua sẽ giết mình
nên Trạng Quỳnh cũng đã lập mưu để vua chịu sự trừng phạt, tự nếm thuốc
độc dùng để giết Trạng Quỳnh mà tự chết. Trí thông minh, óc phán đoán của
Trạng Quỳnh, tội ác và sự trừng phạt là những yếu tố rất rõ về nguồn gốc của
truyện trinh thám.
Truyện truyền kì mang rất nhiều những yếu tố li kì, hấp dẫn người đọc
bằng nhiều tình tiết kì ảo. Truyện truyền kì có nhiều yếu tố gần gũi với truyện
trinh thám. Không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi khi
biên soạn cuốn Truyện truyền kì Việt Nam lại xếp một số truyện của Thế Lữ
(Vàng và máu, Một đêm trăng, Ma xuống thang gác) vào công trình này, mặc
dù một số nhà nghiên cứu khác lại xếp những truyện đó của Thế Lữ vào loại
truyện trinh thám.
Mặc dù là thể loại được du nhập từ phương Tây nhưng một trong những
yếu tố làm nên sức sống của thể loại truyện trinh thám là sự li kì, hấp dẫn
trong việc điều tra đi tìm sự thật. Mà sự li kì, hấp dẫn lại có nhiều trong
truyện truyền kì truyền thống của văn học Việt Nam. Ta có thể thấy điều đó
trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và truyện truyền kì của nhiều tác giả
khác cũng như truyện truyền kì khuyết danh. Chính những yếu tố li kì trong
57
truyện truyền kì cũng đã tác động, ảnh hưởng nhiều trong những truyện trinh
thám Việt Nam.
2.1.2.5. Ảnh hưởng của xuất bản, báo chí
Báo chí, xuất bản gắn chặt với in ấn. Đầu thế kỉ XX, theo con đường
xâm lược và thôn tính Việt Nam, thực dân Pháp đã đưa công nghệ in phương
Tây vào Việt Nam. Nhờ sự xuất hiện và phát triển công nghệ in ấn mà báo
chí, xuất bản cũng phát triển. Nhiều tài liệu, sách báo được in, xuất bản ở
nước ta, trong đó có sách báo văn chương nghệ thuật. Nhờ sự phát triển của
báo chí, xuất bản mà văn học được phổ biến rộng rãi, tạo được đội ngũ độc
giả đông đảo cho văn học, trong đó có truyện trinh thám, cả truyện trinh thám
dịch và những sáng tác mới của Việt Nam.
Báo chí phát triển là chất xúc tác để văn học phát triển, trong đó có thể
loại truyện trinh thám. Chỉ trong khoảng 20 năm đầu thế kỉ XX đã có khoảng
hơn 20 tờ báo tiếng Việt xuất bản trong cả nước, gồm các tờ như: Gia Định
báo (1865-1910), Nhật trình Nam Kì (1883-?), Thông loại khóa trình (1888-
1889), Đại Nam Đăng cổ tùng báo (1892-1907), Phan Yên báo (1898-
1899), Nông cổ mín đàm (1901-1924), Đại Việt tân báo (1905-1908), Nhật
báo tỉnh (1905-?), Lục tỉnh tân văn (1907-1944), Nam Kì địa phận (1908-
1943), An Hà nhật báo (1917-1933), Đông Dương tạp chí (1913-
1919), Trung Bắc tân văn (1913-1941), Công luận báo (1916-1939), Nam
trung nhật báo (1917-1921), Nam Phong tạp chí (1917-1934), Nam Việt tế
gia nhật báo (1917-1918), Đại Việt tập chí (1/1918-7/1918), Nữ Giới
Chung (2/1918-7/1918), Quốc dân diễn đàn (10/1918-10/1919), Đèn nhà
Nam (12/1918-1/1919), v.v..., và tính đến năm 1945 có khoảng hơn 150 tờ
báo (gồm cả báo tiếng Pháp) ở Việt Nam (Theo khảo sát của Huỳnh Văn
Tòng). Nhờ báo chí ra đời với nhiều hoạt động sôi nổi mà đời sống văn
chương cũng trở nên sôi nổi hơn. Ở nước ta đầu thế kỉ XX, đời sống văn
58
chương chủ yếu diễn ra trên báo chí: văn chương được viết ra và in trên báo
chí rồi sau đó mới được tập hợp in thành sách, và nhờ đó mà độc giả báo chí
cũng trở thành lượng độc giả lớn cho văn chương. Đặc biệt, báo chí còn là nơi
phổ biến nhiều tác phẩm văn học nước ngoài được dịch tại nước ta, trong đó
có truyện trinh thám. Từ năm 1929, Nguyễn Cổn đã dịch một cuốn trinh thám
Anh qua tiếng Trung, rồi sau đó có nhiều tác phẩm khác được dịch. Vũ Ngọc
Phan và Nhất Linh đều đã từng phân tích tiểu thuyết trinh thám. Báo chí cũng
góp phần không nhỏ đối với việc phổ biến, đưa trinh thám vào tâm trí độc giả
đương thời. Chỉ không lâu sau đó, nhà văn Việt Nam đã bắt đầu viết trinh
thám, và sau một giai đoạn chập chững đã xuất hiện mấy cây bút xuất sắc như
Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và nhất là Phạm Cao Củng.
Như vậy, thật khó mà xác định được nguồn gốc của truyện trinh thám
Việt Nam một cách rành rẽ, rõ ràng. Từ nguồn gốc và những yếu tố ảnh
hưởng, trong một bối cảnh lịch sử-xã hội, văn hoá, văn học đầu thế kỉ XX
nhiều thay đổi, có sự giao thoa văn hoá Đông-Tây, vận động theo hướng hiện
đại hoá, truyện trinh thám đã hình thành, phát triển, trở thành một thể loại
trong nền văn học Việt Nam, vừa mang những đặc trưng của thể loại vừa
mang những đặc điểm của Việt Nam.
2.2. Các giai đoạn phát triển thể loại truyện trinh thám Việt Nam
2.2.1. Giai đoạn hình thành và phát triển thể loại từ đầu thế kỉ XX đến
1945
Ở Việt Nam, truyện trinh thám xuất hiện muộn so với các nước phương
Tây và so với một số thể loại khác ở nước ta. Trong môi trường giao thoa văn
hóa Pháp-Việt, một số truyện trinh thám nước ngoài được dịch và in ở nước
ta. Về cơ bản, nhờ sự giao thoa văn hóa mà có sự manh nha thể loại truyện
trinh thám với việc một số nhà văn Việt Nam mô phỏng truyện phiêu lưu,
truyện trinh thám phương Tây, đưa motif phiêu lưu, hình sự - điều tra vào tác
59
phẩm của mình. Bửu Đình là một trong số những nhà văn có sự đóng góp như
thế đối với sự ra đời truyện trinh thám Việt Nam. Tác phẩm Mảnh trăng thu
của ông mặc dù được in trên Báo Phụ nữ tân văn số 40 ngày 20/02/1930 với
chú thích là “ái tình tiểu thuyết” nhưng khác với những thiên tiểu thuyết diễm
tình khác chỉ mô tả tình yêu, những đau khổ và đấu tranh để đi đến tự do yêu
đương, tác giả Bửu Đình đã đưa vào cốt truyện một câu chuyện vụ án với cái
chết của nhân vật người chồng Thuần Phong trong đêm tân hôn, người vợ
Kiều Tiên đã quyết tâm tìm ra kẻ giết chồng mình. Được sự giúp đỡ của nhiều
người như Thành Trai, Minh Đường, cuối cùng họ đã tìm ra được thủ phạm
giết Thuần Phong, đồng thời làm sáng tỏ thân phận cô em gái của Kiều Tiên
tên là Kiều Nga, vạch mặt sự gian tà của Nguyễn Viết Sung, Bẩy Lộng, v.v…
Rõ ràng, nhiều yếu tố trinh thám của văn học hiện đại đã xuất hiện trong tác
phẩm này của Bửu Đình.
Sau đó, từ nửa sau thập niên 30 của thế kỉ XX, truyện trinh thám đã
không còn xa lạ với người Việt Nam và đã có sự xuất hiện những nhà văn
chuyên viết hoặc viết nhiều truyện trinh thám. Tiêu biểu và thành danh ở thể
loại này là Phạm Cao Củng, Thế Lữ và Bùi Huy Phồn ở miền Bắc; Bửu Đình,
Phú Đức, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu, Nam Đình Nguyễn Thế Phương,
v.v… ở miền Nam.
Ở miền Bắc, Thế Lữ và Phạm Cao Củng là những tác giả mở đầu xây
dựng truyện trinh thám hiện đại, tạo cho trinh thám trở thành một thể loại độc
lập trong loại hình văn học phiêu lưu ở Việt Nam. Thế Lữ tuy là “nghệ sĩ hai
lần tiên phong” (ở Thơ mới và kịch) nhưng cũng đã có công lớn đối với sự
hình thành truyện trinh thám hiện đại Việt Nam. Ông là một trong hai người
(cùng với Phạm Cao Củng) mở đầu thể loại trinh thám hiện đại Việt Nam
bằng một số truyện trinh thám hấp dẫn, gây ấn tượng sâu sắc. Hàng loạt
truyện trinh thám của Thế Lữ ra đời: Vàng và máu (1934), Ba hồi kinh dị, Một
60
chuyện ghê gớm (1936), Lê Phong làm thơ (1936), Lê Phong phóng viên
(1937), Những nét chữ (1939), Mai Hương - Lê Phong (1939), Đòn hẹn
(1939), Gói thuốc lá (1940), v.v… Đặc biệt là Thế Lữ rất thành công khi xây
dựng nhân vật thám tử Lê Phong – một phóng viên trinh thám hào hoa, phong
nhã, thông minh, tài trí trong một series truyện trinh thám của ông. Đồng thời,
tác giả Phạm Cao Củng cũng đã cho ra đời một series truyện trinh thám với
gần 20 cuốn sách, tiêu biểu như Vết tay trên trần (1936), đặc biệt là ông đã
ghi dấu ấn đậm nét với sự thành công khi xây dựng được hình tượng nhân vật
thám tử tài danh Kỳ Phát trong một chuỗi sáng tác như: Kho tàng họ Đặng
(1937), Một cái tết rùng rợn của Kỳ Phát (1937), Chiếc tất nhuộm bùn
(1938), Ba viên ngọc bích (1938), Người một mắt (1940), Nhà sư thọt (1941),
Kỳ Phát giết người (1941), Bóng người áo tím (1942), Đám cưới Kỳ Phát
(1942), Hàm răng mài nhọn (1942), Đôi hoa tai của bà chúa (1942), Chiếc
gối đẫm máu (1942), Một đám cưới rùng rợn của Kỳ Phát (1945), v.v… Bùi
Huy Phồn cũng được tác giả Vũ Ngọc Phan nhắc đến trong Nhà văn hiện đại
với tư cách là nhà văn viết truyện trinh thám. Ông có những sáng tác truyện
trinh thám như Lá huyết thư (1932), Tờ di chúc của dòng họ Trần Thạch
(1941), Gan dạ đàn bà (1942), Mối thù truyền nghiệp (1942), Lá thư màu
thiên thanh (1943), Món quà năm mới (1943).
Ở miền Nam, các tác giả Bửu Đình, Phú Đức, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng
Mưu, Nam Đình Nguyễn Thế Phương cũng cho ra mắt nhiều truyện trinh
thám, góp phần làm phong phú, đa dạng và sôi nổi hơn đời sống văn học.
Được đánh giá là người có công mở đầu cho truyện trinh thám Việt Nam, từ
năm 1917, Biến Ngũ Nhy đã giữ mục “Mật thám truyện” trên Công Luận báo,
chuyên dịch các tác phẩm trinh thám nước ngoài ra tiếng Việt. Đồng thời ông
cũng viết truyện trinh thám Kim thời dị sử-Ba Lâu ròng nghề đạo tặc (in trên
Công Luận báo từ 1917 đến 1920) được một số nhà nghiên cứu cho là tác
61
phẩm truyện trinh thám hiện đại sớm nhất ở Việt Nam. Tác phẩm thu hút sự
quan tâm đón nhận nồng nhiệt của công chúng do phù hợp với thị hiếu thẩm
mĩ người Việt và được văn giới đánh giá rất cao bởi tính hiện đại của nó. Sau
tác phẩm này, Biến Ngũ Nhy còn có Một người ăn cắp bạc nhà nước (1921),
Chủ nợ bất nhơn (1921). Sau Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, tiểu
thuyết trinh thám đã nở rộ ở miền Nam với hàng loạt tác giả với những tác
phẩm trinh thám ra đời, nhất là ở giai đoạn 1930-1945: Nguyễn Chánh Sắt có
Gái trả thù cha (1920); Lê Hoằng Mưu có Đầu tóc mượn (1926), Đêm rốt của
người tội tử hình (1929), Người bán ngọc (1931); Phú Đức có Châu về hiệp
phố (1926), Tôi có tội (1929), Lửa lòng (1929), Trường tình huyết lệ (1930),
Căn nhà bí mật (1930); Nam Đình Nguyễn Thế Phương có Huyết lệ hoa
(1928), Bó hoa lài (1930), Vô oan trái (1931), Giọt lệ má hồng (1932), Khép
cửa phòng thu (1933), Chén thuốc độc (1934); Sơn Vương có Bát cơm chan
máu (1929), Chén cơm lạt của người thất nghiệp (1931), Tướng cướp hào
hoa (1931); Bửu Đình có Mảnh trăng thu (1930), Cậu Tám Lọ (1931), v.v...
Về nội dung, nhiều truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn này phản ánh
về một đời sống xã hội những năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt ở thập niên 30-40
ở nước ta. Lối sống phương Tây tràn vào và đã tạo sự ảnh hưởng lớn đến đời
sống xã hội ta. Trong xã hội, xuất hiện nhiều con người ích kỉ, tham lam, trở
thành căn nguyên cho những hoạt động tội phạm xuất hiện. Vì đời sống vật
chất mà con người sẵn sàng vi phạm pháp luật, họ đi buôn lậu súng, buôn lậu
thuốc phiện (Lê Phong phóng viên). Vì tiền bạc, của cải mà một người trí thức
du học ở Pháp về như Lương Hữu lại đem sự hiểu biết khoa học tinh vi để
giết bác sĩ Đoàn nhằm chiếm đoạt pho sách y học chứa đựng bí mật nơi giấu
của (Mai Hương và Lê Phong). Vì tiền bạc mà Thạc rắp tâm giết chết người
bạn thân thiết ở cùng để chiếm đoạt tấm vé số trúng giải độc đắc của Đường
(Gói thuốc lá)... Thậm chí, trong xã hội ấy còn có cả sự xuất hiện những hội
62
đảng bí mật đầy mờ ám như “hội kín” mà Mai đã từng tham gia (Những nét
chữ), Đảng Tam Sơn có những hoạt động giết người tinh vi nhất (Đòn hẹn)…
trong những truyện trinh thám của Thế Lữ. Những câu chuyện như thế còn
được thể hiện khá phổ biến trong những truyện trinh thám của các nhà văn
khác: Nhân vật Tâm giết bố vợ để chiếm đoạt tài sản (Nhà Sư Thọt – Phạm
Cao Củng), Hương sơ Nguyễn Viết Sung bắt cóc, đánh tráo trẻ con vào nhà
giàu để mong nhờ cậy về sau (Mảnh trăng thu - Bửu Đình), vì lòng tham mà
Phan Kì Hổ cho đồng bọn giết chết người bạn (Châu về hiệp phố - Phú Đức);
sự trả thù của Đảng Thất Viên (Đám cưới Kỳ Phát - Phạm Cao Củng), vì thù
hận mà Lâm Ngục giết Nùng Cao (Vết tay trên trần - Phạm Cao Củng), Năm
Nhỏ vì muốm có tiền mà bán đứng chồng cho cảnh sát (Ba Lâu ròng nghề
đạo tặc - Biến Ngũ Nhy), Lường-Duỳn giết chết Đào Ngung vì ghen với tình
địch (Lê Phong phóng viên - Thế Lữ), Hồ Quốc Thanh căm giận vợ phản bội
mà giết chết tên đầy tớ và người vợ một cách dã man (Người bán ngọc -
Phạm Cao Củng), v.v…
Những ảnh hưởng từ phương Tây đến xã hội Việt Nam một cách mạnh
mẽ khiến cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi, đời sống sinh hoạt trong xã
hội đương thời khá phong phú và có nhiều sự mới mẻ, khác xa so với đời
sống sinh hoạt trong xã hội truyền thống trước đó. Điều này cũng được các
tác giả truyện trinh thám phản ánh khá rõ trong những tác phẩm của mình.
Thực dân Pháp xâm lược, khai thác thuộc địa ở nước ta làm biến đổi cơ cấu,
thành phần xã hội. Trong xã hội có sự xuất hiện các giai tầng mới, tầng lớp trí
thức kiểu mới đã xuất hiện với đủ hạng người tốt-xấu được thể hiện khá phổ biến
trong truyện trinh thám. Chẳng hạn trong truyện trinh thám của Thế Lữ, Đào
Đăng Khương, Đỗ Lăng trong Những nét chữ; bác sĩ Trần Thế Đoàn, Lương
Hữu trong Mai Hương và Lê Phong; Lê Phong, Mai Hương, Đinh Võ Thạc, Văn
Bình, Huy trong Gói thuốc lá và nhiều tác phẩm khác thuộc các giai tầng mới.
63
Một bộ máy chính quyền và những cơ quan mới trong xã hội đương thời đã xuất
hiện. Đó là Sở Cảnh sát, nơi làm việc của viên cẩm trong Lê Phong phóng viên;
Sở Liêm phóng, là cơ quan của thanh tra mật thám Mai Trung và nhà thương
Phủ Doãn, nơi Lê Phong giăng bẫy bắt được Đinh Võ Thạc trong Gói thuốc lá;
là Báo Thời Thế, cơ quan của phóng viên Lê Phong, trong hàng loạt truyện và có
cả đoàn văn hóa kháng chiến trong Tay đại bợm, v.v… đã phản ánh một đời
sống xã hội rất rõ nét.
Sự thay đổi sinh hoạt xã hội do tác động, ảnh hưởng từ phương Tây còn
được thể hiện ở nhiều hoạt động, nhiều việc làm hiện đại gắn với đời sống của
con người. Trong Mai Hương và Lê Phong có việc đào tạo và học tập ở
trường Cao đẳng để có một bác sĩ Đoàn tài giỏi do các vị Giáo sư giảng dạy.
Ở Gói thuốc lá có sự ấp ủ công trình nghiên cứu của Đường. Hay các nhân
vật Thạc, Huy, Lê Phong và Văn Bình đi xem chiếu bóng ở rạp và phóng viên
Lê Phong có thói quen hút thuốc lá như một cách thức để thư gian mỗi khi
suy nghĩ. Ở Mai Hương và Lê Phong, một người phụ nữ như phóng viên Mai
Hương cũng lái ô tô chạy nhanh khiến Lê Phong cũng không thể theo kịp khi
theo dõi cô, hay cảnh sinh hoạt đầy bí ẩn, tối tăm ở các tiệm hút trên phố Mã
Mây mà quá trình điều tra Lê Phong đã phát hiện ra: “Đến phố Mã Mây anh
bảo xe ngừng, rồi xuống cắm đầu chạy như thằng điên về phía tiệm hút thuốc
phiện” [131, tr.141-143]. Ở Đòn hẹn lại hiện lên một xã hội với sự tấp nập
bên trước chợ Hôm mà cái chết của Nguyễn Bồng do Đảng Tam Sơn ám sát
bên tàu điện. Nơi ở và sự tính toán hành vi phạm tội, những phương tiện để
phạm tội của tội phạm và cách thức, phương tiện điều tra của thám tử-người điều
tra trong nhiều tác phẩm của các tác giả trinh thám đã cho thấy đời sống đã biến
đổi theo hướng hiện đại hơn của xã hội đầu thế kỉ XX. Quả là những ảnh hưởng
từ phương Tây đến đất nước đã tạo ra một xã hội có nhiều hoạt động phong
phú, mới mẻ, hiện đại nhưng mặt trái là sự tác động ấy cũng tạo ra một xã hội
64
lộn xộn, tình hình an ninh, trật tự xã hội có nhiều bất ổn với những hoạt động
tội phạm được các nhà văn thể hiện trong truyện trinh thám của mình.
2.2.2. Giai đoạn biến đổi mô hình thể loại từ 1945 đến 1986
Sau 1945, truyện trinh thám Việt Nam có sự dịch chuyển mô hình thể
loại. Lịch sử đất nước giai đoạn này có sự vận động và biến đổi: cả dân tộc
phải đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Trong
suốt 30 năm trường kì kháng chiến, đội ngũ văn nghệ sĩ hết lòng phục vụ sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, họ là những nghệ sĩ-chiến sĩ. Trong văn học,
với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, bám sát thực tiễn đất nước
trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại, các nhà văn hướng ngòi bút của mình vào
phản ánh hai cuộc kháng chiến đầy gian khổ với những hi sinh, mất mát, đâu
thương nhưng vô cùng anh dũng và hào hùng của nhân dân ta; đồng thời phản
ánh sự tàn ác của bọn thực dân, đế quốc bằng nền văn học cách mạng.
Cuộc kháng chiến vệ quốc trường kì đã thu hút toàn dân tộc tham gia với
tình cảm yêu nước nồng nàn, với trách nhiệm công dân cao cả, với lòng căm
thù giặc sâu sắc nhằm đấu tranh chống kẻ thù xâm lược trong suốt 30 năm. Vì
vậy, nhu cầu đọc và tiếp nhận văn học của công chúng-nhân dân ta cũng chỉ
tập trung hướng đến những tác phẩm văn học cách mạng cổ vũ quá trình đấu
tranh của nhân dân ta; lên án sự phi nghĩa, độc ác của kẻ thù xâm lược. Do đó,
văn học giải trí, trong đó có truyện trinh thám thuần tuý, về cơ bản, không có
vị trí cả trong sáng tác lẫn trong tiếp nhận. Nhưng nói như thế không có nghĩa
là thể loại truyện trinh thám không xuất hiện ở giai đoạn này, mà nó có sự vận
động, biến đổi mô hình thể loại phù hợp với hiện thực đời sống đương thời.
Không còn là mô hình truyện trinh thám truyền thống như giai đoạn trước
1945, truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn này phát triển ở dạng truyện tình
báo-phản gián, điều tra-vụ án. Đây là những dạng loại của thể loại truyện
trinh thám, sử dụng các thủ pháp nghệ thuật truyện trinh thám, bám sát hiện
65
thực, thường lấy nguyên mẫu trong đời sống đấu tranh của nhân dân – ở đây
chủ yếu là những người hoạt động cách mạng, hoạt động tình báo và chiến
đấu để tiêu diệt kẻ thù, đấu tranh trấn át tội phạm để bảo vệ đất nước, để “giữ
bình yên cuộc sống” cho nhân dân. Nhân vật trong những truyện ở dạng loại
này không là những thám tử mà là những nhân vật tình báo, là những nhân vật
công an.
Truyện tình báo, phản gián được coi là một bộ phận của văn học chiến
tranh, đi vào phản ánh đời sống khác của chiến tranh là cuộc chiến bí mật,
thầm lặng mà các chiến sĩ tình báo, trinh sát đã tiến hành để đưa tới thắng lợi
chung của cả nước trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Chúng ta có thể kể đến những truyện trinh thám Việt Nam xuất hiện
dưới dạng truyện tình báo - phản gián như: Cất vó, X30 phá lưới, Tấm bản đồ
thất lạc, Đi tìm cái chết, Lần theo chuỗi hạt (Đặng Thanh); Toạ độ bí mật,
Mũi tên mười bảy (Phạm Thanh Đàm); Bản án tử hình (Nguyễn Khắc Thứ);
Miền đất lạ, Hoa hồng trắng (Nguyễn Sơn Tùng). v.v… Đó là cuộc đấu tranh
chống gián điệp ở miền Bắc những năm 1960 (Nhóm rắn lục - Văn Phan); là
hoạt động chiến đấu trong lòng địch của Vũ Ngọc Nhạ (Ông cố vấn - Hữu
Mai); là công an phá vụ án gián điệp (Đêm yên tĩnh - Hữu Mai); hoạt động
của nhà tình báo Nguyên Vũ (Điệp viên giữa sa mạc lửa - Nhị Hồ); hoạt động
tình báo trong lòng địch của Nguyễn Thành Luân (Ván bài lật ngửa – Nguyễn
Trường Thiên Lý). Chủ yếu lấy đề tài cuộc chiến tình báo, phản gián trong
chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, truyện trinh thám tình báo, phản gián đã
phản ánh một phần hiện thực chiến tranh của nhân dân ta chống lại kẻ thù
xâm lược.
Sau 1975, cuộc cách mạng giải phóng miền Nam thắng lợi, đất nước
hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi vào xây dựng đất
nước sau chiến tranh. Tuy đất nước đã có hoà bình nhưng trật tự xã hội có
66
phần bất ổn, tình hình tội phạm ngày càng gia tăng trong đời sống xã hội.
Trong bối cảnh ấy, truyện trinh thám điều tra - vụ án ra đời, phản ánh thực
trạng tội phạm và cuộc chiến đấu chống tội phạm của lực lượng cảnh sát, an
ninh. Đời sống xã hội và quá trình điều tra phá án của lực lượng cảnh sát, an
ninh được thể hiện sinh động, nhiều góc khuất của xã hội được phơi bày trong
những tác phẩm trinh thám điều tra-vụ án: Hồ sơ chưa kết thúc (Phùng Thiên
Tân) phản ánh một số vụ án bắt cóc tống tiền và sát hại nhằm vào các nghệ sĩ,
trí thức ở Sài Gòn sau ngày giải phóng miền Nam; ở Người không mang họ
(Xuân Đức) là quá trình nhân vật Nguyễn Viết Lãm dấn thân vào con đường
phiêu lãng, vô tình giết người, gặp những tình huống bất công và muốn trả thù
đời bằng bạo lực, hắn trượt dài trong tội lỗi, để rồi cuối cùng hắn cũng bị các
chiến sĩ công an điều tra ra, bị bắt và không thoát khỏi sự trừng trị của pháp
luật, v.v…
2.2.3. Giai đoạn đổi mới, cách tân thể loại từ 1986 đến nay
Sau 1986, cùng với sự phát triển nhanh của xã hội là sự nảy sinh nhiều
vấn đề mới trong xã hội hiện đại, trong đó có vấn đề bất ổn định an ninh trật
tự xã hội. Tình hình tội phạm ngày càng gia tăng so với giai đoạn trước, các
hoạt động tội phạm ngày càng tinh vi trong thủ đoạn gây án và cuộc đấu tranh
để trấn áp tội phạm của lực lượng an ninh, cảnh sát ngày càng cam go, quyết
liệt. Vì thế, truyện trinh thám điều tra-vụ án tiếp tục phát triển ở nửa cuối thập
niên 80 và thập niên 90 của thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI với
những tác phẩm tiêu biểu: Hồ sơ một tử tù (Nguyễn Đình Tú) là câu chuyện
về tướng cướp Phạm Bạch Đàn bị bắt và bị kết án tử hình; Cổ cồn trắng
(Nguyễn Như Phong) là cuộc điều tra, quá trình chiến đấu của công an với
loại tội phạm maphia với sự phạm tội có tổ chức trong vụ án Năm Cam. Qua
câu chuyện điều tra vụ án, truyện đã phản ánh hiện thực phát triển phức tạp
của tội phạm có tổ chức và cuộc đấu tranh để chống lại loại tội phạm này.
67
Đồng thời, ở đó còn phản ánh cả cuộc đấu tranh để làm trong sạch nội bộ lực
lượng công an. Đời sống sinh động và đầy phức tạp của xã hội đã được phản
ánh trong nhiều truyện trinh thám điều tra-vụ án khác như: Phía sau tội ác,
Đối mặt kẻ tử tù (Đắc Trung), Khớp hẹn (Văn Phan), Nữ hoàng đá đỏ (Thái
Chí Thanh), Kế hoạch J.96 (Trần Tử Văn); Bản án tử hình (Nguyễn Khắc
Thứ); Bí mật cuộc đời (Nguyễn Như Phong). Qua đó, nhiều vấn đề bức xúc
trong đời sống xã hội được phơi bày; sự anh dũng, mưu trí, quả cảm, hành
động vì sự ổn định xã hội và sự bình yên của Tổ quốc mà lực lượng an ninh,
công an đã làm được thể hiện, rất đáng ghi nhận và ngợi ca.
Khoảng hơn chục năm trở lại đây, truyện trinh thám hình sự, trinh thám
kinh dị, trinh thám lịch sử phát triển và trở thành xu hướng phát triển của
truyện trinh thám Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến những tác giả, tác phẩm
tiêu biểu như: Trại Hoa Đỏ, Câu lạc bộ số 7 của Di Li; Ổ buôn người, Âm
mưu thay não, Mật mã Champa của Giản Tư Hải; Cái chết cô ca sĩ trẻ của
Nguyễn Thanh Hoàng; Sát thủ Online của Nguyễn Xuân Thủy; Phiên bản, Cô
Mặc Sầu của Nguyễn Đình Tú; Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng, Thảm kịch trắng
của Kim Tam Long; Đảo bạo bệnh của Đức Anh, v.v… Câu lạc bộ số 7 của
Di Li tập trung vào đề tài chưa từng được đề cập đến trong văn học: giới tính
thứ tư. Ở đó diễn ra năm vụ án mạng tưởng chừng chỉ là những tai nạn thông
thường nếu như nạn nhân là các thiếu nữ xinh đẹp không có cùng một điểm
chung là trước khi chết đều bước chân lên chiếc taxi mang nhãn hiệu Hoa
Sen, v.v… Các truyện của Giản Tư Hải lại phản ánh các khía cạnh khác nhau
của đời sống xã hội: Ổ buôn người phản ánh vấn đề đang nhức nhối của xã
hội hiện đại ngày nay là tình hình tội phạm buôn người xuyên quốc gia và sự
tinh vi của các đường dây tội phạm; Âm mưu thay não phản ánh về tội phạm
khủng bố thời hiện đai; Mật mã Champa lại dùng câu chuyện mật mã tìm kho
68
báu để phản ánh tội phạm tà giáo của Hội kín. Ở Cái chết cô ca sĩ trẻ lại cho
thấy tội phạm giết người mà nạn nhân là các nghệ sĩ, v.v…
Cùng với việc khai thác đề tài hình sự để phát triển dòng truyện trinh
thám hình sự, nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng phong phú của độc
giả, từ đầu thế kỉ XXI đến nay, một số nhà văn đã viết truyện trinh thám hình
sự-kinh dị. Ở dòng truyện trinh thám này có thể kể đến Di Li với Trại Hoa
Đỏ, Kim Tam Long với bộ ba “truyện trắng”: Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng,
Thảm kịch trắng, Đức Anh với Đảo Bạo bệnh. Nhìn chung các tác giả đã phát
huy được khả năng hư cấu, tưởng tượng của mình; phát huy được nhiều yếu
tố kinh dị trong truyện trinh thám kinh dị Việt Nam giai đoạn đầu và truyện
kinh dị trong văn học truyền thống của dân tộc, v.v… để tạo nên sức hấp dẫn
cho tác phẩm.
Đề tài lịch sử có sức hấp dẫn đối với văn học mọi thời đại. Từ đầu thế kỉ
XXI đến nay, đề tài lịch sử cũng trở nên hấp dẫn đối với các nhà văn trinh
thám. Trong xu hướng viết về lịch sử của văn học nói chung, thể loại truyện
trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay cũng có những tác giả, tác
phẩm viết về đề tài lịch sử. Ở dòng truyện trinh thám lịch sử, có thể kể đến
Mật mã Champa (2016), Minh Mạng mật chỉ (2018), Thiên địa Hội An Nam
của Giản Tư Hải, Dưới cánh đại bàng (2022) của Hoàng Yến.
Với nhiều tác giả và tác phẩm trinh thám Việt Nam xuất hiện từ đầu thế
kỉ XXI đến nay, có thể xem đây là dấu hiệu cho thấy thể loại này đang có sự
hồi sinh ở nước ta.
Tiểu kết chương 2
Từ nguồn gốc và những yếu tố ảnh hưởng, với nhiều lí do khác nhau: từ
nhu cầu tinh thần của xã hội và công chúng, từ giá trị truyền thống và hiện đại
của văn hóa - văn học Đông - Tây, từ văn hóa - văn học truyền thống của dân
tộc, với sự nỗ lực của các nhà văn, truyện trinh thám Việt Nam ra đời từ
69
những năm đầu thế kỉ XX, từng bước hình thành những đặc trưng thẩm mĩ cơ
bản và phát triển cùng các thể loại khác trong nền văn học Việt Nam.
Tuy ra đời muộn so với các nước phương Tây nhưng thể loại truyện trinh
thám Việt Nam đã có thành tựu đáng ghi nhận. Ngay khi ra đời ở những năm
đầu thế kỉ XX, truyện trinh thám Việt Nam đã nhanh chóng phát triển nở rộ
với đội ngũ tác giả, tác phẩm đông đảo, hình thành đặc trưng thể loại, tạo nên
trào lưu sáng tác và công chúng mới trong nền văn học dân tộc. Với sự xuất
hiện và bước đầu đạt được những thành tựu nhất định, truyện trinh thám đã
góp phần làm phong phú, đa dạng hoá nền văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX,
góp phần đưa nền văn học dân tộc tiến sâu vào con đường hiện đại hóa và hội
nhập với nền văn hóa, văn học thế giới.
Trong quá trình hành thành, do tác động của nhiều yếu tố lịch sử-xã hội,
văn hoá, văn học, truyện trinh thám Việt Nam đã phải trải qua những giai
đoạn phát triển thăng trầm: ra đời và nở rộ ở giai đoạn đầu thế kỉ XX, gián
đoạn và có sự chuyển dịch mô hình thể loại ở giai đoạn 1945-1986, phát triển
trở lại từ 1986 đến nay. Những năm gần đây, thể loại truyện trinh thám Việt
Nam có những dấu hiệu hồi sinh mạnh mẽ, thể hiện sức sống tiềm tàng của
thể loại.
Dù hướng đến giải trí là chủ yếu nhưng những dấu ấn về tình hình đời
sống xã hội nước ta qua các giai đoạn đã phần nào được thể hiện trong truyện
trinh thám, qua đó, thể hiện khát vọng kiếm tìm và bảo vệ chân lí và công lí,
đem lại công bằng xã hội, hướng tới cái thiện, cái đẹp và luôn gắn liền với
đạo đức. Thượng tôn pháp luật, đề cao công lí, biểu dương các hành động cao
đẹp, đem đến giá trị đạo đức, nhân văn, có tính giáo dục sâu sắc là những giá
trị nội dung tư tưởng tiêu biểu xuyên suốt trong các giai đoạn phát triển của
truyện trinh thám Việt Nam.
70
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
Trong những năm gần đây, có không ít tác phẩm truyện trinh thám Việt
Nam được sưu tầm, được tái bản và những tác phẩm mới được sáng tác để
đáp ứng nhu cầu của độc giả; mặt khác, đã có những cuộc hội thảo được tổ
chức, những công trình nghiên cứu, khảo luận về văn học trinh thám được
công bố. Đó là sự nỗ lực trong việc đưa đến một cái nhìn khách quan, công
bằng hơn về vai trò và vị trí của thể loại truyện trinh thám trong văn học Việt
Nam. Ở chương này, chúng tôi nghiên cứu để làm rõ hơn một số đặc điểm của
truyện trinh thám Việt Nam.
3.1. Sự hỗn dung, giao thoa thể loại
Trong thực tế văn học có những trường hợp một tác phẩm nhưng được
xếp vào nhiều loại khác nhau, như: trường hợp Vàng và máu (Thế Lữ) có thể
gọi là truyện đường rừng-kinh dị-trinh thám; Truyện Thần Hổ, Ai hát giữa
rừng khuya (Tchya), Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân) được xếp vào truyện
đường rừng-kinh dị, thậm chí những tác phẩm này còn được nhà nghiên cứu
Nguyễn Huệ Chi tuyển chọn trong cuốn Truyện truyền kì Việt Nam. Vì thế, ta
có thể thấy bản thân các tác phẩm văn học đã chứa những yếu tố hỗn dung các
thể loại. Việc phân tách để tìm các yếu tố của các thể loại trong truyện trinh
thám chỉ mang ý nghĩa tương đối nhằm làm rõ đặc trưng, đặc điểm thể loại
truyện trinh thám ở Việt Nam.
3.1.1. Yếu tố truyền kì trong truyện trinh thám Việt Nam
Truyện truyền kì là thể văn tự sự có nguồn gốc từ truyện dân gian, sử
dụng những yếu tố hoang đường, kì ảo để phản ánh hiện thực cuộc sống.
Những yếu tố hoang đường, kì ảo này không phải là dạng nhân vật Bụt, Tiên
với vai trò là nhân vật chức năng như trong truyện cổ tích thần kì, cũng không
71
phải là lực lượng tự nhiên được nhân hóa như trong truyện thần thoại. Sự
tham gia của yếu tố thần kì, hoang đường trong truyện truyền kì phần lớn ở
trong hình thức các nhân vật con người kết hợp với dạng nhân vật ma, quỷ, hồ
li, vật hóa người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể loại truyền kì đã manh
nha xuất hiện từ buổi đầu của văn học viết trong những tác phẩm ghi chép các
chuyện kì lạ được lưu truyền trong dân gian như Lĩnh Nam chích quái (tương
truyền của Trần Thế Pháp), Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên), sau đó phát
triển mạnh và đạt đến đỉnh cao với những sáng tác Thánh Tông di thảo (tương
truyền của Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân
phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Tân truyền kì lục
(Phạm Quý Thích), Thính văn dị lục (Khuyết danh), Việt Nam kì phùng dị lục
(Khuyết danh). Về nghệ thuật, ta dễ dàng bắt gặp trong những sáng tác truyền
kì những câu chuyện mang cốt truyện dân gian hoặc dã sử, các motif quen
thuộc trong truyện dân gian. Và có không ít những truyện truyền kì vốn là
những truyện dân gian được sáng tạo lại. Ở truyện truyền kì ta dễ dàng thấy
sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và những yếu tố hoang đường, kì ảo.
Cùng với không gian huyền ảo, bên cạnh những con người phàm trần là
những nhân vật không thuộc về thế giới người như tinh vật, yêu ma, thần tiên.
Từ Thánh Tông di thảo đến Lan Trì kiến văn lục, ta đều có thể bắt gặp những
nhân vật siêu nhiên trong một thế giới ảo huyền.
Mặc dù ra đời muộn, chịu sự ảnh hưởng và kế thừa các yếu tố của truyện
trinh thám phương Tây và truyện kiếm hiệp, truyện công án phương Đông,
nhưng truyện trinh thám Việt Nam đã bám rễ vào cái nôi văn hóa dân tộc với
các thể loại văn học truyền thống, trong đó có truyện truyền kì. Chúng ta có
thể tìm thấy nhiều yếu tố của truyện truyền kì trong truyện trinh thám Việt
Nam. Những yếu tố kì ảo trong các truyện truyền kì được các nhà văn trinh
thám Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo để làm tăng sức gợi cảm, hấp dẫn
72
cho câu chuyện mà vẫn không làm mất đi yếu tố hiện thực gắn với tính logic,
khoa học – yếu tố bản chất của truyện trinh thám. Các chi tiết kì ảo xuất hiện
phổ biến trong truyện trinh thám Việt Nam. Vàng và máu (Thế Lữ) là câu
chuyện kể về sự giải mã của quan Châu Nga Lộc về cái chết của mọi người
khi đến hang Thần trên núi Văn Dú và tìm ra kho báu do quan Tàu để của.
Cốt truyện li kì nhưng lại có một giải kết khoa học. Cái hang lớn trên núi Văn
Dú là nơi chứa những tai họa ghê gớm – ai vào đó cũng chết, là nguồn gốc
của những chuyện khủng khiếp, kinh hoàng gắn với những câu chuyện đồn
thổi về thần linh, ma quái, khiến ai nấy đều sợ mà tránh xa. Truyện có vẻ quái
đản, rùng rợn nhưng không quá thần bí khi giải kết của truyện là sự lí giải
khoa học bằng trí tuệ sáng suốt của con người: cái chết của tất cả những
người vào hang trước đó không hề do thần linh, ma quỷ gì hết, mà là do
những viên đá được tẩm thuốc độc bởi tên quan Tàu tạo nên để bảo vệ kho
báu khi chúng để của trong hang thần trên núi Văn Dú.
Tương tự như thế, kiểu xây dựng những chi tiết, khung cảnh kì ảo, hoang
đường rồi cuối cùng đều được hóa giải, được giải thích có cơ sở logic, khoa
học được thể hiện nhiều ở các tác phẩm: Lê Phong phóng viên, Đòn hẹn, Gói
thuốc lá (Thế Lữ); Vết tay trên trần, Con ma cây vả, Kho tàng họ Đặng,
Chiếc gối đẫm máu, Ông già buôn xác chết, Buổi diễn tất niên của người hổ,
Cái tết của người đã chết, Một cái tết rùng rợn của Kỳ Phát, Kỳ Phát giết
người, Bóng người áo tím… (Phạm Cao Củng); Tờ di chúc của dòng họ Trần
Thạch, Lá huyết thư (Bùi Huy Phồn); Mảnh trăng thu (Bửu Đình); Căn nhà bí
mật (Phú Đức); Người bán ngọc (Lê Hoàng Mưu); Kim thời dị sử - Ba Lâu
ròng nghề đạo tặc, Kim thời dị sử - Chủ nợ bất nhơn (Biến Ngũ Nhy); Một
mình nơi đất khách, Miền đất lạ (Nguyễn Sơn Tùng); Câu lạc bộ số 7, Trại
Hoa Đỏ (Di Li); Mật mã Cham Pa, Minh mạng mật chỉ (Giản Tư Hải); Nỗi
ám ảnh tuổi thơ (Nguyễn Thanh Hoàng); Ngôi mộ bí mật (Vũ Khúc), v.v…
73
3.1.2. Yếu tố kinh dị, đường rừng trong truyện trinh thám Việt Nam
Truyện kinh dị là loại truyện để lại ấn tượng rùng rợn, sợ hãi đối với
người đọc thông qua những câu chuyện về cái khác thường. Để tạo được điều
đó, nhân vật trong truyện kinh dị thường là những nhân vật kì bí, huyễn hoặc
như hồn ma bóng quỷ, được đặt trong những sự cố, sự kiện đặc biệt diễn ra
bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của con người và được kể bằng giọng ma mị,
huyền bí. Không gian trong truyện kinh dị nổi bật nhất là không gian kì bí,
linh thiêng. Giọng điệu ma quái đã trở thành một nét đặc trưng nghệ thuật của
thể loại này.
Truyện đường rừng lại là loại truyện có sự kết hợp giữa yếu tố lãng mạn
với yếu tố hiện thực và sẵn sàng dung nạp yếu tố truyền kì, ma quái, viết về
miền núi dưới hình thức phiêu lưu, đầy màu sắc truyền kì và kinh dị, có khả
năng khơi dậy tính hiếu kì, kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Không
gian chủ yếu của truyện là không gian núi rừng thâm u, kì bí. Thời gian trong
những câu chuyện thường diễn ra vào ban đêm nên mọi sự nguy hiểm như
rình rập xung quanh con người. Nhân vật của truyện được hiện lên gắn với
các yếu tố thần kì, ma quái, có sự biến hóa và kinh dị. Các nhà văn viết truyện
đường rừng thường tạo ra những yếu tố li kì, xây dựng một thế giới núi rừng
hoang vu và bí ẩn, gợi cho người đọc sự rùng rợn, ghê sợ. Hàng loạt truyện
đường rừng trong văn học Việt Nam như: Rừng khuya, Mọi rợ, Tiếng gọi của
rừng thẳm, Hồng thầu, Suối Đàn, Đỉnh non Thần, Dấu ngựa trên sương,
Chiếc nỏ cánh dâu, Người hóa hổ, Gò thần (Lan Khai); Trại Bồ Tùng Linh,
Tiếng hú ban đêm, Cái đầu lâu, Một chuyện ghê gớm (Thế Lữ); Thần Hổ, Ai
hát giữa rừng khuya, Kho vàng Sầm Sơn, Tình sơn nữ (TchyA Đái Đức
Tuấn), v.v… chứa đựng nhiều chi tiết kì ảo, li kì, hoang đường. Nhìn chung,
những truyện đường rừng thường gợi lên một thế giới huyền bí, linh thiêng,
74
đầy hiểm nguy và bất trắc, vừa gợi trí tò mò khám phá vừa gây cảm giác ghê
sợ cho người đọc.
Cũng như sự kế thừa, phát huy các yếu tố kì ảo của truyện truyền kì,
truyện trinh thám Việt Nam kế thừa các yếu tố kinh dị, sự bí hiểm hoang vu
của truyện kinh dị, truyện đường rừng nhằm tạo ấn tượng rùng rợn, kinh hãi,
ghê sợ đối với người đọc, qua đó làm tăng tính hấp dẫn và xúc cảm của độc
giả. Ví dụ một vài trường hợp điển hình: Trong truyện trinh thám của Thế Lữ,
chỉ với âm thanh lảnh lót rồi mất hút của tiếng viên sỏi ném xuống hang thần
Văn Dú, tiếng “Kòi… kia...” từ vách núi vang vọng trong không gian, thây
người chết treo trên cây đại trước cửa hang thần Văn Dú, không gian núi
“Văn Dú hiện ra một vẻ riêng oai linh và màu nhiệm” (Vàng và máu); lời thư
đe dọa Lê Phong của đảng Tam Sơn đã trở thành hiện thực như một lời tiên
tri, quá trình điều tra của Lê Phong với sự rượt đuổi theo Mai Hương một
cách li kì (Đòn Hẹn); hình ảnh cái chết của Đường đầy bí ẩn và rùng rợn
trong sự phát hiện đầy ngạc nhiên và hoảng sợ của Huy: “Bỗng Huy kêu lên
một tiếng rất ngắn, nhưng ghê gớm; một tiếng kinh dị dữ dội […]. Huy vừa
chợt trông thấy trên lưng Đường một con dao cắm ngập tới chuôi, trong một
khoảng máu đẫm sau áo” (Gói thuốc lá), v.v… đã đủ tạo nên sự rùng rơn, ghê
sợ nhưng hấp dẫn bạn đọc dõi theo câu chuyện. Ở truyện của Phạm Cao Củng
thì những yếu tố kinh dị, rùng rợn xuất hiện qua những chi tiết Kỳ Phát phát
hiện cảnh lão già bị đâm chết khi “tay sát nhân đâm trúng ngực lão từ bao giờ,
một nhát dao ngập đến cán” (Kỳ Phát giết người), là dòng máu trên cầu thang
(Bóng người áo tím), là cánh tay đen và chi tiết ông châu Nùng Cao chém
Lâm Nục với “lưỡi dao sáng loáng vừa hạ, khúc tay từ bàn đến khuỷu đã rơi
xuống bên mâm rượu, máu chảy chan hòa, v.v… Lâm Nục kinh sợ, hoảng
chạy. Nùng Cao như điên như cuồng, tay cầm chiếc lọ, tay nắm khúc xương
tay đẫm máu, khanh khách cả cười” (Vết tay trên trần), là không gian như
75
huyền bí nơi cụ Lang Sặt sống bên cạnh xác người chết trong nhà cụ đã nhiều
năm (Ông già buôn xác chết) và nhiều chi tiết trong các truyện Con ma cây
vả, Ba đốt ngón tay, Chiếc tất nhuộm bùn, Kho tàng họ Đặng, v.v… Đó còn
là âm mưu và hành động giết hại chú rể Thuần Phong của Nguyễn Viết Sung
trong Mảnh trăng thu (Bửu Đình); sự nham hiểm, độc ác của Phan Kỳ Hổ với
hành động đốt nhà, giết vợ Lâm Nghĩa Sĩ trong Châu về hiệp phố (Phú Đức);
sự trả thù của quan đô đốc Hồ Quốc Thanh rất dã man, khủng khiếp khi sát
hại đứa đầy tớ, hắn “chém Đào Anh một đao rồi đá thây văng xuống ao làm
cho máu nhuộm hồ nước” [150] trong Người bán ngọc (Lê Hoằng Mưu); một
xác chết kinh quái đưa vào bệnh viện Việt Đức trong Ổ buôn người (Giản Tư
Hải), v.v... Nhà văn trinh thám gần đây như Di Li cũng sử dụng nhiều yếu tố
kì bí, ma mị và giàu sức ám ảnh trong tiểu thuyết trinh thám-kinh dị của mình.
Với Trại Hoa Đỏ, đó là các chi tiết chiếc xe của vợ chồng Trần Hoàng Lưu xô
vào con chó rừng mà ngay sau đó lại không thấy xác con vật đâu, là bóng ma
người đàn bà áo đen “mặt đầy lỗ thủng, bụng ngập máu” luôn hiện diện trong
những giấc mơ của Diên Vĩ, là lời nguyền về những cô gái của dòng họ
Quách lúc nào cũng chịu một kết thúc bất hạnh – tự tử, là tiếng sáo luôn lặp
lại một điệu duy nhất dẫn dắt Diên Vĩ đi trong ma mị, tiếng sáo mà chỉ cô và
bé Bảo nghe thấy mà mỗi lần xuất hiện đều báo hiệu có một việc chẳng lành.
Trong Câu lạc bộ số 7, ngay chương đầu tiên “Đêm Halloween” đã gợi cho
người đọc cảm giác ma mị khi theo bước chân Mĩ Anh vào quán bar được
trang trí theo kiểu rùng rợn để hút khách, sự xuất hiện thoắt ẩn thoắt hiện của
bóng áo đen, là những vụ giết người, những ám ảnh ma quái không giải thích
được, là người bạn gái của Vũ Phương Đăng mới chết và ảo giác về cô ở khắp
mọi nơi trong phòng ngủ, trên chùa, trong đoạn chat với người chết. Không
chỉ đối với các truyện trinh thám của Thế Lữ, Phạm Cao Củng, Biến Ngũ
Nhy, Lê Hoằng Mưu ở đầu thế kỉ XX, hay truyện trinh thám của Giản Tư Hải,
76
Di Li từ đầu thế kỉ XXI đến nay, mà hầu hết các truyện trinh thám Việt Nam,
dù nhiều dù ít, đều sử dụng yếu tố kinh dị, kì ảo của truyện kinh dị, truyện
đường rừng để tạo cho bạn đọc những xúc cảm ghê sợ, rùng rợn và bị hấp
dẫn, cuốn hút theo những trang truyện.
3.1.3. Yếu tố kiếm hiệp trong truyện trinh thám Việt Nam
Truyện kiếm hiệp hay còn có cách gọi khác là truyện võ hiệp, truyện
chưởng là một thể loại có nguồn gốc từ Trung Hoa, nói về những cuộc phiêu
du của những hiệp khách trên giang hồ. Nhân vật chính là những võ sĩ hành
hiệp, thường được gọi là hiệp khách. Hành động của hiệp khách thường mang
tinh thần trượng nghĩa, nghĩa hiệp, có bản lĩnh phi thường, trừ gian, diệt bạo,
cứu khổ cứu nạn. Tính cách phổ biến của hiệp khách là vị tha, công bằng, tự
lập, trung thành, dũng cảm, đáng tin, không màng tiền bạc và danh lợi.
Nhân vật Kỳ Phát trở thành thám tử rất tình cờ, chỉ vì “ham mê đọc
truyện trinh thám” mà muốn làm thám tử. Kỳ Phát thường cộng tác với bạn là
thanh tra Trúc Lâm, thuộc Sở Liêm phóng (Mật thám) Hà Nội, và tất cả các
vụ án do Kỳ Phát tìm ra thủ phạm đều đem tặng cho Trúc Lâm lĩnh công và
lập danh. Phóng viên Lê Phong sau khi khám phá ra bí mật vụ án “thì chỉ có
việc mau mau về nhà báo cắm đầu mà viết bài tường thuật và đợi đến một vụ
án mạng li kì hơn”; Thành Trai là “một cử nhân Luật, từng du học ở Pháp”,
điều tra vụ án nhằm tìm cách minh oan em gái, con chú chàng, là Kiều Tiên
(Mảnh trăng thu); Hoàng Ngọc Ẩn, Đỗ Hiếu Liêm (Châu về hiệp phố) vì cảm
mến nghĩa tình mà ra tay giúp đỡ nàng Lệ Thủy và những kẻ thế cô; Quan
Châu Nga Lộc (Vàng và máu) vì địa vị, trách nhiệm nên tham gia làm sáng tỏ
vụ án. Các nhân vật thám tử Việt Nam thực hiện việc điều tra với tinh thần
nghĩa hiệp, không vì danh lợi bản thân. Đây là một nét đặc trưng trong việc
xây dựng kiểu nhân vật thám tử Việt Nam. Nó không hoàn toàn theo khuôn
mẫu như trong truyện trinh thám cổ điển phương Tây. Bởi lẽ, ở Phương Tây,
77
nghề thám tử hình thành và phát triển mạnh trong xã hội tư bản do nhu cầu
thực tế, khi đời sống ở các thành thị phát triển sẽ kéo theo nhiều mặt trái của
nó, nghề thám tử trở nên cần thiết và được trả công. Nhưng đối với xã hội
Việt Nam, trong thực tế, nghề thám tử chưa được xã hội công nhận.
Dù được xây dựng thành nhân vật thám tử trong nhiều truyện hay chỉ là
nhân vật điều tra trong một truyện, các nhà văn trinh thám Việt Nam vẫn luôn
xây dựng nhân vật điều tra - thám tử trong những tác phẩm của mình vừa có
võ công, bản lĩnh, vừa có trí tuệ thông minh, có tư duy logic trong điều tra vụ
án, vừa thể hiện tinh thần nghĩa khí của hiệp khách trong truyện kiếm hiệp.
Họ hành động vì những mục đích cao đẹp mà không màng danh lợi cho bản
thân. Thám tử Lê Phong trong series truyện trinh thám của Thế Lữ, thám tử
Kỳ Phát trong series truyện trinh thám của Phạm Cao Củng và những nhân
vật điều tra trong các tác phẩm của các nhà văn trinh thám đều là người tài
đức, nghĩa hiệp, tự nguyện tham gia điều tra vụ án, trở thành thám tử do muốn
đem lại chính nghĩa, công bằng cho xã hội như Lê Phong, Mai Hương (trong
series truyện của Thế Lữ); Kỳ Phát (trong series truyện của Phạm Cao Củng);
Thành Trai, Hàng Tâm (Mảnh trăng thu); Hoàng Ngọc Ẩn, Lệ Thủy, Bách Si
Ma (Châu về hợp phố); Tấn Phước (Giọt lệ má hồng), Tám Huỳnh Kỳ (Bàn
tay sáu ngón); Tám Lọ (Cậu Tám Lọ), Sáu Do, Đường Gòong (Nhà sư thọt),
Ba Lâu (Ba Lâu ròng nghề đạo tặc), v.v…
Có thể nói, trí tuệ, tài năng, sự tinh thông võ nghệ, tinh thần thượng võ,
nghĩa hiệp và luôn hành động vì sự công bằng, vì sự tốt đẹp của xã hội, không
màng danh lợi cá nhân của nhân vật thám tử - người điều tra trong truyện
trinh thám Việt Nam chính là những yếu tố của truyện kiếm hiệp được các
nhà văn trinh thám Việt Nam tiếp thu sáng tạo và đưa vào những tác phẩm
của mình. Những nhân vật mang phẩm chất, phong cách nhân vật kiếm hiệp
78
trong truyện trinh thám Việt Nam đã làm tăng giá trị nhân văn và sức hấp dẫn
cho truyện.
3.2. Đặc điểm một số thủ pháp nghệ thuật
Viết được một tác phẩm trinh thám hấp dẫn bạn đọc là công việc không
hề dễ dàng. Trái lại, nó đòi hỏi nhà văn phải thực sự nắm vững nghệ thuật viết
truyện, phải tinh thông trong sử dụng các thủ pháp nghệ thuật phù hợp để
truyện trở nên hấp dẫn người đọc và mang đặc trưng thể loại. Xem xét trên
phương diện thủ pháp nghệ thuật, chúng tôi thấy các nhà văn trinh thám Việt
Nam đã nỗ lực và đạt được hiệu quả nhất định trong sử dụng kết hợp một số
thủ pháp nghệ thuật. Ở đây chúng tôi xin được tập trung vào các đặc điểm về
đề tài, cốt truyện, nhân vật và không gian, thời gian nghệ thuật của truyện
trinh thám Việt Nam.
3.2.1. Về đề tài
Một truyện trinh thám thường xoay quanh một vụ án, một án mạng và
quá trình điều tra của thám tử, người điều tra bí mật để tìm nguyên nhân, cách
thức và người phạm tội. Việc lựa chọn đề tài phù hợp rất cần thiết đối với việc
thu hút sự quan tâm của người đọc. Trong mỗi bối cảnh lịch sử-xã hội-văn
học khác nhau thì người đọc lại có sự quan tâm đến phạm vi phản ánh đời
sống trong tác phẩm văn học khác nhau. Nhà văn lựa chọn được đề tài phù
hợp với thể loại và thời đại sẽ tạo được sự quan tâm của công chúng, bạn đọc.
Bên cạnh những đề tài quen thuộc giống như truyện trinh thám phương Tây
(chiến tranh, khủng bố, giết người hàng loạt, tình dục, tình báo, điệp viên, tôn
giáo, pháp y, thám tử, v.v…), truyện trinh thám Việt Nam khá đa dạng về đề
tài, lựa chọn được một số đề tài gần gũi với đời sống xã hội Việt Nam, tạo
nên nét riêng của thể loại này trong nền văn học Việt Nam.
Trong thế giới truyện trinh thám Việt Nam có nhiều mảnh ghép đời sống
chứa những bí ẩn cần khám phá, gắn với những đề tài gần gũi trong đời sống
79
xã hội Việt Nam. Đó là những câu chuyện về bí mật cái chết gắn với đề tài đi
tìm kho báu; những vụ án mạng gắn liền với câu chuyện tình ở đề tài tình yêu;
những vụ buôn lậu, những vụ án liên quan đến sự chiếm đoạt tài sản, những
án mạng gắn với đề tài an ninh, trật tự xã hội; và có cả bí mật về một vụ trộm
chỉ nhằm khẳng định tài năng “qua mặt” của “thủ phạm” gắn với đề tài cách
mạng, v.v… ở truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Mặc dù ở nửa
sau thế kỉ XX, truyện trinh thám Việt Nam trở nên trầm lắng nhưng ở ngã rẽ
mới với các tiểu loại, truyện trinh thám Việt Nam đã chủ yếu hướng đến đề tài
tình báo, phản gián, hình sự nhằm phản ánh đời sống xã hội Việt Nam trong
giai đoạn đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đặc biệt là ở những
năm sau chiến tranh đến hết thế kỉ XX. Từ đầu thế kỉ XXI đến nay, trong bối
cảnh mới, truyện trinh thám Việt Nam cũng bắt kịp thời đại, đi vào khai thác
những đề tài mới gắn liền với đời sống xã hội hiện nay: truyện trinh thám gắn
với đề tài môi sinh, dịch bệnh; đề tài lịch sử, văn hoá; đề tài khoa học viễn
tưởng bên cạnh đề tài an ninh, trật tự xã hội, v.v…
Đặc biệt, một số đề tài xa lạ với thể loại truyện trinh thám phương Tây
đã được khai thác và thể hiện một cách khéo léo, hiệu quả trong truyện trinh
thám Việt Nam:
Trước đây ta thường thấy đề tài đi tìm kho báu trong truyện cổ tích,
truyện truyền kì thì bây giờ ta lại thấy trong truyện trinh thám Việt Nam.
Truyện Vàng và máu của Thế Lữ kể về câu chuyện Tàu để của trong một
hang từ lâu đã nổi tiếng với những chuyện kì quái, chết chóc. Một hôm có hai
người Thổ mạo hiểm đến đây và đã gặp một người chết treo cổ ở cửa hang,
một người vào hang rồi chạy ra và cũng bị chết ngay ở cửa hang, trên tay cầm
một mảnh giấy có chữ Hán. Người còn lại cầm mảnh giấy chạy về trình với
quan Châu Nga Lộc. Nhờ giải mã ký tự trong mảnh giấy đó mà quan Châu
biết hang Văn Dú là nơi một viên quan Tàu nhà Minh để của. Ông đã đem gia
80
nhân đến hang thần tìm lấy của. Trong khi tìm lấy của ở hang, quan Châu Nga
Lộc có óc phán xét thông minh và đã giải mã được những dòng chữ trên mảnh
giấy, lấy được hết vàng trong hang và làm rõ bí mật nguyên nhân dẫn đến cái
chết của những người đến trước là bởi những tảng đá bị viên quan Tàu quết
thuốc độc để giữ của. Kho tàng họ Đặng của Phạm Cao Củng kể về câu
chuyện chàng thám tử Kỳ Phát dùng tài trí để giải mã chiếc đĩa cổ và bức di
chúc của ông tổ họ Đặng, cùng giúp cho 3 người họ Đặng tìm ra kho báu:
“Trong hầm ngổn ngang không biết bao nhiêu là thoi vàng bạc […] không
biết bao nhiêu là châu ngọc. Viên nhỏ, viên to, miếng mầu hồng, hòn màu
biếc, dưới ánh sáng đèn pin, đống châu báu sáng loà phản ra muôn ánh hào
quang” [44]. Cũng vẫn đề tài đi tìm kho báu, Giản Tư Hải đã kể câu chuyện
về những mật mã bằng chữ Phạn khắc trên bia đá chỉ đường đến kho báu của
người Champa cổ xưa mà nhà khảo cổ người Pháp Paul Morierre phát hiện ra,
rồi ông đến đó và bị giết chết. Nhưng trước khi chết, ông đã để lại một mật
mã. Dựa vào mật mã đó, Kì Phương (học trò Paul Morierre) cùng Thi Nga
(con gái Paul Morierre) và Simha (người buôn đồ cổ) đi tìm kho báu Naga nơi
thánh địa Mỹ Sơn của người Champa cổ trong Mật mã Champa. Thiên địa
Hội An Nam của Giản Tư Hải kể về câu chuyện quân Pháp đánh quét những
hội kín từ phương Bắc tràn xuống An Nam thời nhà Nguyễn, trong đó có
Thiên địa Hội An Nam. Những tài liệu của Thiên Địa Hội An Nam, trong đó
có cuốn Kinh Phật, được cho là manh mối kho báu bí ẩn ở An Nam thời
Nguyễn và thời Trần đang trong tay Thiên Địa Hội An Nam nên người Pháp
thực hiện cuộc truy lùng, càn quét Thiên Địa Hội ở nước thuộc địa An Nam,
bắt giữ tù binh đưa về Hoàng thành Thăng Long, tìm mọi cách để chiếm đoạt
và giải mã tài liệu đó để tìm kho báu. Truyện Trại Hoa Đỏ của Di Li cũng kể
về âm mưu đi tìm và chiếm đoạt kho báu của Trần Hoàng Lưu. Vì nghe được
lời tương truyền chỉ cần hiến tế cô gái trinh trong dòng họ Quách sẽ tìm được
81
kho báu khổng lồ của nhà họ Quách mà Trần Hoàng Lưu đã gây nên bao tội
ác, giết chết bao người, v.v…
Một đề tài gần như không thấy trong truyện trinh thám phương Tây là đề
tài cách mạng, đề tài kháng chiến nhưng ta lại thấy đề tài này trong truyện
trinh thám Việt Nam. Tay đại bợm là một truyện khai thác đề tài kháng chiến.
Câu chuyện xoay quanh một vụ lấy trộm “giả vờ” của cả Hống với chủ ý lấy
trộm của hắn là để mời được mọi người đến nhà mà phục tài của hắn để giúp
hắn hoàn lương, giúp hắn thực hiện được tâm nguyện “được làm một công
việc xứng đáng với khả năng ra vào những nơi quân giặc đóng, do thám
những vị trí rất kín của chúng nó, hoặc nữa, lọt vào tận bản doanh của nó, lấy
những tài liệu về cho bộ đội mình” [132]. Mặc dù có gián đoạn về thời gian
do hoàn cảnh lịch sử nhưng có lẽ Tay đại bợm của Thế Lữ là những trang viết
đầu tiên gợi nên những cảm hứng viết truyện trinh thám chính trị - truyện
phản gián, tình báo phát triển sau này như: X30 phá lưới (1976) của Đặng
Thanh là câu chuyện kể về hoạt động tình báo của nhân vật có biệt danh X.30;
Ván bài lật ngửa (1976) của Nguyễn Trường thiên Lý kể về hoạt động tình
báo đầy nguy hiểm “Giữa biển giáo rừng gươm” và lí tưởng yêu nước của
nhân vật Đại tá Nguyễn Thành Luân; Miền đất lạ (1977) của Nguyễn Sơn
Tùng kể về hoạt động tình báo của nhân vật Bảo Trung; Giữa sa mạc lửa
(1986) của Nhị Hồ kể về hoạt động tình báo của điệp viên Nguyên Vũ khi
lặng lẽ, khôn khéo và mưu trí dũng cảm tìm hiểu các âm mưu của Mĩ, Pháp,
góp sức bảo vệ các lực lượng kháng chiến, lực lượng yêu nước. Tương tự như
vậy, các tác phẩm Kế hoạch Anpha (1983) của Lê Chấn, Câu lạc bộ chính
khách (1986) của Lê Tri Kỷ, Ông cố vấn (1988) của Hữu Mai đều viết về hoạt
động tình báo đầy hiểm nguy nhưng rất mưu trí, dũng cảm, gắn với lòng yêu
nước của các chiến sĩ tình báo, v.v…
82
Truyện trinh thám Việt Nam còn khai thác đề tài tình ái, thi văn mà vẫn
gay cấn, hấp dẫn và thuyết phục người đọc. Trong các truyện của Thế Lữ,
Những nét chữ có cốt truyện dẫn dắt về một sự việc có sự phạm tội mà thủ
phạm vô tình giết người và cũng không hề biết mình phạm tội chỉ vì yêu và
muốn được yêu. Đào Đăng Khương phục tài xét đoán của Lê Phong nên đã
đến gặp và nhờ anh điều tra về cái chết của em gái mình là Mai. Nhờ sự phân
tích, xét đoán tài tình những nét chữ trong bài thơ Lên núi cảm tác mà Lê
Phong khám phá ra thủ phạm. Đỗ Lăng là bạn của Khương, vì yêu Mai nên
Đỗ Lăng đã giả làm gái để được gần gũi Mai. Mai không biết, cô chơi thân và
tâm sự nhiều chuyện với Lăng, trong đó có cả việc cô đã tham gia một hội
kín, sau không thấy phù hợp nên cô đã xin ra và hội kín đó cũng tan. Chuyện
không có gì ghê gớm nhưng sẵn đầu óc giàu tưởng tượng, yếu đuối và bị ám
ảnh bởi những chuyện trả thù đọc được trên sách báo nên Mai thường xuyên
lo sợ. Mỗi lúc như thế, Đỗ Lăng lại tìm cách giải thích, động viên, an ủi làm
cho Mai yên lòng. Càng ngày Đỗ Lăng càng yêu Mai. Một hôm, Đỗ Lăng viết
thư thú nhận mình là con trai và bày tỏ tình yêu của mình với Mai. Mai tỏ ra
dửng dưng, không còn thân thiết với Đỗ Lăng như trước. Luyến tiếc những
ngày được gần gũi Mai, Đỗ Lăng viết một bài thơ đặc biệt theo lối của hội kín
mà Mai đã từng kể, với nội dung khép Mai vào tội phản bội và bị xử chết,
những mong làm cho Mai lo sợ mà tìm đến mình để được an ủi như trước.
Nào ngờ, vì quá sợ, Mai đã tự tử. Chỉ đến khi nghe Lê Phong giải thích mọi
việc, Đỗ Lăng mới biết được sự thật, anh vô cùng đau khổ và hối hận vì trò
đùa quái ác của mình.
Đó là sự khám phá ra hung thủ khôn khéo, không ai ngờ tới của vụ án
giết chết Đào Ngung chính là Lường Duỳn do hắn ghen khi phát hiện Đào
Ngung mà trước hắn tưởng là em vợ mình nhưng thực chất là tình địch của
hắn trong Lê Phong phóng viên. Hay là câu chuyện về sự rượt đuổi như trò
83
chơi ú tim của chàng phóng viên Lê Phong hào hoa, phong nhã, tài năng, có
khả năng xét đoán và óc phân tích khoa học với người con gái kiều diễm,
thông minh Mai Hương trong Mai Hương và Lê Phong. Cả hai người cùng
điều tra về cái chết của bác sĩ Trần Thế Đoàn ngay trong buổi lễ phát bằng,
ngay tại hội trường, bên cạnh nhiều người mà không ai hay biết về cái chết
của Đoàn. Mai Hương đã khiến Lê Phong tưởng cô là hung thủ và mải miết
truy đuổi, điều tra theo mục đích của cô ta. Nhờ đó mà họ tìm được hung thủ
giết Trần Thế Đoàn. Mai Hương bày tỏ tâm nguyện được làm nữ phóng viên
cho Báo Thời Thế và được Lê Phong chấp thuận, họ trở thành cộng sự tâm
đắc với nhau. Có thể nói, đề tài tình ái, thi văn vừa mới lạ so với truyện trinh
thám phương Tây, vừa gần gũi đời sống vừa bao quát được sự phản ánh đời
sống của truyện trinh thám Việt Nam.
3.2.2. Về cốt truyện
Nói về cốt truyện trinh thám, nhà văn Mĩ Edgar Allan Poe (1809-1849)
đã có nhiều truyện trinh thám mà những sáng tác đó luôn có cốt truyện điều
tra và nhân vật chính là thám tử. Mỗi cốt truyện của ông đều bắt đầu bằng một
vụ án, đặt ra những nghi vấn khiến người thám tử phải vận dụng đầu óc xét
đoán và phương pháp suy luận khoa học để tìm ra thủ phạm, làm sáng tỏ bí
mật. Trong thực tế, một cốt truyện trinh thám bao giờ cũng gắn liền với vụ án
mà ở đó có thủ phạm gây ra vụ án và sự điều tra để tìm ra thủ phạm đó. Vụ án
thường được đưa ra ở ngay đầu tác phẩm để người điều tra đi tìm lời giải. Quá
trình đi tìm lời giải ấy của người điều tra/ thám tử sẽ dẫn dắt người đọc cùng
suy luận, cùng phán đoán cho đến khi sự thật được phơi bày, bí mật vụ án
được mở ra và kẻ phạm tội với hành vi gây án hiện rõ. Như vậy, trung tâm
của cốt truyện là vụ án và quá trình điều tra để tìm ra bí mật của vụ án, tìm ra
thủ phạm và cách thức, quá trình phạm tội của thủ phạm. Do đó, sự thật và
hành trình kiếm tìm sự thật chính là hạt nhân của truyện trinh thám.
84
Việc điều tra phát hiện tội phạm là cả quá trình đấu trí căng thẳng, gay
cấn. Điều này, một mặt tạo điều kiện để bộc lộ tâm lí nhân vật; mặt khác,
cung cấp dữ liệu để thúc đẩy câu chuyện phát triển. Khi đọc tác phẩm, người
đọc thường bị cuốn theo diễn biến sự kiện, nảy sinh trạng thái lo lắng, sợ hãi.
Chỉ có tư duy phán đoán và suy luận để giải đáp điều bí ẩn mới là mục tiêu,
nhiệm vụ của truyện trinh thám. Nói cách khác, cái đích của truyện trinh thám
không phải mô tả tội ác, tội phạm mà là điều tra tìm kiếm sự thật bị che giấu
để tìm ra tội phạm và cách thức gây án của chúng. Trong truyện trinh thám,
việc điều tra bí mật của cái chết thường xuyên được đặt ra. Bởi cái chết không
xuất hiện một cách phi lí, tình cờ, mà cái chết ở đây như đã có sắp đặt, có sự
chuẩn bị trước. Trước một cái chết, nhân vật thám tử, người điều tra tiến hành
cuộc điều tra, thế nhưng càng mở rộng diện tìm hiểu thì bí hiểm càng lúc càng
tăng.
Truyện trinh thám Việt Nam dựa trên những đề tài gần gũi để xây dựng
nên cốt truyện phù hợp với tâm lí tiếp nhận của độc giả Việt Nam. Chẳng hạn,
trong Lê Phong phóng viên, mọi tình tiết đều xoay quanh vụ án mất hai chục
bạc ở Tòa soạn Báo Thời Thế. Qua điều tra, Lê Phong đã làm cho kẻ ăn cắp
(chính là người thợ in) phải cúi đầu nhận tội. Sự kiện này là tâm điểm của câu
chuyện. Tuy nhiên, Lê Phong còn cảm thấy tiếc bởi tính chất đơn giản, quy
mô hạn chế, không có gì đáng gọi là một vụ chấn động. Chàng nghĩ: “Tiếc
rằng chỉ mất có hai chục bạc thôi! Giá là một cái án mạng thì thú quá” [130].
Ở truyện Gói thuốc lá của Thế Lữ, điều quan trọng nhất là những bí ẩn xung
quanh một vụ giết người. Trong khi hầu hết mọi người đều cho rằng Nông An
Tăng là thủ phạm giết Đường, Lê Phong không tin điều đó. Chàng cho rằng
tên Thổ Nông An Tăng là một người không liên quan, không phải là hung thủ.
Với phương pháp điều tra riêng của mình, Lê Phong đã nhanh chóng giải mã
được điều khó tin, hóa giải bí ẩn chỉ trong vòng 24 giờ. Hóa ra kẻ giết người
85
là Thạc (bạn Đường và Lê Phong) chứ không phải là người Thổ Nông An
Tăng. Bí mật vụ án trong Mảnh trăng thu (Bửu Đình) cũng có ý nghĩa tương
tự, nghĩa là trở thành “câu đố” được đưa ra để nhà điều tra “giải đố”. Các câu
đố ở đây là: Ai giết Thuần Phong? Thuần Phong chết thì có lợi cho ai? Ai là
thủ phạm trong vụ hai chiếc nhẫn bị mất cắp của bà Cai? Tất cả trở thành
mạch chính của câu chuyện. Tìm được lời giải đáp này thì câu chuyện kết
thúc, thám tử Thành Trai chiêm nghiệm: “Phàm trong những sự bí mật thì dầu
một chút gì xem có hơi khác thường cũng phải cho là lạ, mà cần phải suy nghĩ
cho ra lẽ, vì sao mà có? Có để làm gì? Nhưng con mắt đã quen xem xét sự bí
mật, sự lạnh lùng, hễ thấy có sự gì khác thường là chăm chú vào ngay” [60].
Trong triển khai cốt truyện, đặt nghi vấn để gây chú ý, tò mò của bạn
đọc là một thủ pháp nghệ thuật thường thấy trong truyện trinh thám Việt
Nam. Đặc trưng của truyện trinh thám chính là đặt ra nghi vấn và quá trình
tìm ra bí mật làm lời giải những nghi vấn ấy, tìm ra kẻ phạm tội với hành tung
tội ác của chúng. Đồng thời, bản chất tâm lí xã hội của con người là luôn tò
mò, hiếu kì, và vì thế, các nhà văn trinh thám Việt Nam luôn luôn bám sát đặc
trưng thể loại, tạo ra những nghi vấn xoay quanh vụ án; và truyện trinh thám
thường mở đầu bằng một vụ án, một vụ giết người bí hiểm ngay từ đầu truyện
để tạo sự chú ý, gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc. Từ vụ án được nêu ra
ngay từ đầu truyện, các nhà văn tiếp tục xây dựng hàng loạt những tình tiết để
tạo ra những nghi vấn tiếp theo cho bạn đọc về: hung thủ gây án là ai, nguyên
nhân hắn gây án, động cơ gây án và cách thức thủ phạm gây án, v.v… để thu
hút sự chú ý, sự phán đoán của bạn đọc. Sự dẫn dắt người đọc lần theo quá
trình điều tra của thám tử - người điều tra nhằm giải mã những bí mật bằng
nhiều tình tiết li kì, bất ngờ, khó có thể đoán trước mà truyện trinh tham có
khả năng kích thích người đọc “nhập cuộc” cùng khám phá bí mật được đặt ra
trong truyện. Truyện Vàng và máu được bắt đầu bằng câu chuyện về hang
86
Thần trên núi Văn Dú chứa những tai họa ghê gớm, ai vào đó cũng chết,
người chết treo trên cây ở cửa hang, nhiều người chết trong hang và người
Thổ già cũng chết tức tưởi ngay sau khi bước ra khỏi hang. Bao nhiêu bí mật
ẩn chứa trong những cái chết ấy mà độc giả muốn biết. Truyện Gói thuốc lá
gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc nhờ việc mở đầu bằng cái chết bí hiểm
của nhân vật Đường với một con dao cắm ngập tới chuôi ở sau lưng và tấm
danh thiếp úp trước mặt với dòng chữ bí hiểm X.A.E.X.I.G. Sự bí hiểm ấy đã
tạo sự chú ý và cuốn hút người đọc muốn tìm câu trả lời: dòng chữ ấy có ý
nghĩa gì, ai là người giết Đường và giết nhằm mục đích gì?, v.v... Những cái
chết tức tưởi của những cô gái trẻ liên tục xuất hiện và cùng có chung một đặc
điểm là trước khi chết họ đều lên chiếc xe taxi hãng Hoa Sen đã đặt ra nghi
vấn không thể có một sự trùng hợp kì lạ đến thế, khiến người đọc phải chú ý
dõi theo quá trình đi tìm lời giải bí mật cái chết của họ trong Câu lạc bộ số 7
của Di Li. Một vụ tai nạn đáng ngờ xảy ra tại “đèo Hốc, km 47 Hà Nội - Lạng
Sơn” [84, tr.9] với tang vật ban đầu là “một chiếc xe BMW màu đen to kềnh
đang chổng bốn vó lên trời” [84, tr.11], một chiếc váy hồng, trong túi chiếc
váy có mẩu giấy có dòng chữ “Phan Thị Hà Vi. Tuổi 19. Trú tại L… Thái
Hà” [84, tr.12], “một một thứ đồ lót phụ nữ” [84, tr.11] đã đặt ra một nghi vấn
như cảnh sát Long nghĩ rằng “nếu vụ tai nạn đơn thuần người ta sẽ không bao
giờ phiền đến cơ quan chống tội phạm đặc biệt của anh. Nó phải là một vụ án
hóc búa và bí hiểm vượt qua khả năng của những cơ quan điều tra khác” [84,
tr.11] cũng là đặt ra sự chú ý, sự nghi vấn cho bạn đọc để kích thích họ cùng
tìm lời giải trong Ổ buôn người của Giản Tư Hải. Những cái chết xuất hiện
ngay đầu truyện với những chi tiết, những manh mối ban đầu trong nhiều
truyện trinh thám của Phạm Cao Củng, Thế Lữ, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng
Mưu, v.v… ở đầu thế kỉ XX, hay trong truyện của Di Li, Giản Tư Hải, Kim
Tam Long, Đức Anh, Nguyễn Dương Quỳnh, Hoàng Yến, v.v… những năm
87
gần đây đã thực sự tạo được sự chú ý của bạn đọc, đặt ra những nghi vấn để
cuốn hút người đọc cùng những thám tử/ người điều tra đi giải mã những bí
mật về vụ án được nêu trong truyện, v.v… Có thể nói, việc tạo nghi vấn, gây
sự chú ý, tò mò đối với độc giả là một thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu mà cách
nhà văn trinh thám Việt Nam sử dụng để tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn trong quá
trình triển khai cốt truyện.
Tình huống truyện cũng là một yếu tố quan trọng để triển khai cốt truyện
và góp phần làm nên thành công trong sáng tác tự sự của nhà văn. Chẳng
những góp phần khắc họa tính cách nhân vật mà tình huống truyện còn phản
ánh được hơi thở cuộc sống, mang đến những cảm giác đặc biệt cho người
đọc. Đối với truyện trinh thám, tình huống truyện càng trở nên quan trọng để
tạo kịch tính, tạo sự bất ngờ – một yếu tố quan trọng để làm nên sự thành
công của truyện trinh thám. Chính vì thế mà các nhà văn viết truyện trinh
thám Việt Nam rất dụng công và cũng thành công trong nghệ thuật xây dựng
tình huống truyện. Người đọc đã thực sự bị lôi cuốn vào tình huống truyện
độc đáo trong những sáng tác truyện trinh thám: chẳng hạn, trong Vàng và
máu, tình huống được đẩy lên cao trào khi quan Châu Nga Lộc dẫn thục hạ
vào hang tìm kho báu. Ai cũng hồi hộp lo sợ, quan Châu và ngay cả bạn đọc
cũng hồi hộp lo sợ, vì trước đó chưa ai thoát chết khi vào hang. Với truyện
Mai Hương và Lê Phong, Đòn hẹn, tác giả lại tạo một tình huống nhầm lẫn,
phóng viên Lê Phong phải lừa, và người đọc cũng phán đoán sai, để đi đến
một cái kết bất ngờ. Ở Mai Hương và Lê Phong, cái chết của bác sĩ Trần Thế
Đoàn gắn với manh mối và sự ẩn hiện của Mai Hương khiến Lê Phong tập
trung hướng điều tra vào Mai Hương. Cuộc điều tra như một trò chơi ú tim
mà Lê Phong là người bị động, sự chủ động thuộc về Mai Hương. Không chỉ
Lê Phong mà cả bạn đọc, ai cũng nghĩ thủ phạm là người con gái kiều diễm
Mai Hương. Liên tiếp những tình huống bất ngờ xảy ra trong cuộc điều tra.
88
Để rồi kết thúc truyện, hung thủ lại là Lương Hữu, người giết Đoàn vì muốn
chiếm pho sách y học mà trong đó chứa mật mã nơi cất giấu của. Ở Đòn hẹn,
tình huống đẩy sự gay cấn lên cao điểm chính là tình huống Lê Phong bị sập
bẫy của Đảng Tam Sơn. Anh bị bắt, bị giam giữ, không thoát được và ai cũng
nghĩ Lê Phong sẽ bị thủ tiêu. Nhưng kết thúc truyện lại là một điều khiến ai
nấy đều “ngã ngửa người ra”, quá bất ngờ: hóa ra, đó là Đảng Tam Sơn giả do
Mai Hương dựng nên màn kịch để bảo vệ Lê Phong thoát khỏi sự ám sát của
Đảng Tam Sơn thật. Truyện Gói thuốc lá, nhà văn dẫn dắt người đọc đến
những tình huống xoay quanh cái chết của Đường bên một tấm thiếp mang
những con chữ bí mật X.A.E.X.I.G. Những chứng cứ đều đẩy những người
điều tra như Mai Trung, Kỳ Phương và ngay cả bạn đọc đều hướng đến Nông
An Tăng. Sự gay cấn được đẩy lên cao trào khi Nông An Tăng đấm Bình xây
xẩm mặt mày để bỏ chạy. Đến đây, ai cũng như khẳng định chắc chắn hung
thủ không ai khác là Tăng. Nhưng chỉ có Lê Phong, với tài quan sát và óc
phân tích khoa học, anh vẫn không tin hung thủ là Tăng. Từ đó nhà văn tiếp
tục dẫn dắt và hấp dẫn người đọc bằng tình huống độc đáo giầu kịch tính, đầy
gay cấn, bất ngờ khi Lê Phong lên kế hoạch bắt hung thủ ở nhà thương Phủ
Doãn. Anh đóng vai người sẽ bị giết, nằm trùm khăn trên giường trong bệnh
viện để chờ sự ra tay của hung thủ. Một nhát dao đâm mạnh trúng ngực Lê
Phong đã khiến bạn đọc thót tim vì nghĩ Lê Phong đã bị sát hại. Nhưng bạn
đọc thở phào và thán phục: Lê Phong không chết vì anh đệm trong ngực tệp
giấy bản dày ngót một gang tay; hung thủ bị bắt và đó không phải là Nông An
Tăng mà là Đinh Võ Thạc – người bạn thân thiết cùng ở với Đường, vì muốn
chiếm đoạt tấm vé số trúng giải độc đắc mà Thạc đã giết Đường. Số của tấm
vé trúng thưởng là 015097 được mã hóa bằng chữ X.A.E.X.I.G mà Lê Phong
giải mã để tìm ra hung thủ. Dường như ở tác phẩm truyện trinh thám nào của
các nhà văn Việt Nam, chúng ta cũng có thể tìm thấy những tình huống truyện
89
độc đáo, tạo ra sự li kì, sinh động cho tác phẩm, kích thích được trí tò mò và
khơi gợi được cảm xúc của độc giả, làm cho truyện trinh thám có sức hấp dẫn
đặc biệt đối với bạn đọc, nhất là những người ưa khám phá.
Để tạo ấn tượng, tăng cảm giác rùng rợn, li kì khi triển khai cốt truyện,
truyện trinh thám Việt Nam đã sử dụng các chi tiết gây hiệu quả nghệ thuật
đắt giá để vừa làm mềm hoá, làm chậm nhịp độ chuyện kể, vừa tạo cảm giác
hồi hộp, rùng rợn, tăng xúc cảm cho người đọc. Nhiều chi tiết được sử dụng
trong truyện trinh thám Việt Nam như chìa khoá mở bức màn bí mật của câu
chuyện, tạo sức thuyết phục cao bằng sự logic, khoa học, hợp lí, như: chi tiết
vết tay trên trần trong Vết tay trên trần của Phạm Cao Củng giúp Kỳ Phát
phát hiện ra nguyên nhân và người giết Nùng Cao là âm mưu trả thù của Lâm
Nục; chi tiết viên đá tẩm thuốc độc trong Vàng và máu của Thế Lữ giải thích
về cái chết của những người vào hang Thần trên núi Văn Dú; chi tiết Đinh Võ
Thạc giật mình khi Lê Phong đòi gói thuốc lá mặc dù Thạc không cầm của Lê
Phong trong Gói thuốc lá của Thế Lữ đã làm lộ ra kẻ giết Đường chính là
Đinh Võ Thạc chứ không phải người Thổ Nông An Tăng như ban đầu nhiều
người nghĩ; chi tiết tìm hiểu được về lai lịch của Trần Hoàng Lưu đã giúp
Phan Đăng Bách hoá giải cái chết của nhiều người bởi chính chồng của Diên
Vĩ – tên Trần Hoàng Lưu trong Trại Hoa Đỏ của Di Li; chi tiết những con số
và chữ mật mã đã giúp Kỳ Phương giải mã được mật chỉ thời Minh Mạng,
giúp anh và cả đội tìm ra kho báu, thoát khỏi hang trong Minh Mạng mật chỉ
của Giản Tư Hải: “Kỳ Phương vẫn chưa tỉnh hẳn để tin rằng có ngày mình lại
góp sức khai quật được một di sản quý hiếm theo cách ngoạn mục như vậy.
Hạm đội Hoàng Sa trứ danh triều Nguyễn – một kho báu lịch sử vô giá, một
di sản quân sự hiếm hoi tưởng như thất truyền đã chính thức trở về đất mẹ”
[83, tr.468]; chi tiết phân tích logic về động cơ gây án cùng những dấu hiệu
phát hiện bằng chứng từ việc livestream của Hoàng đã khiến Quân và Nguyên
90
tìm ra hung thủ giết chết Vương chính là Hoàng (dù yêu quý và kính trọng tài
năng, lòng tốt của bạn mình là bác sĩ Hoàng), hoá giải lời nguyền, sự đồn
đoán về sự báo thù, báo oán truyền kiếp của kẻ mang mặt nạ trắng trong Mặt
nạ trắng của Kim Tam Long.
Truyện trinh thám Việt Nam có cách dẫn chuyện, lối kể chuyện khá linh
hoạt. Cùng một cốt truyện quen thuộc của thể loại là vụ án - quá trình điều tra
- tìm ra hung thủ - bí mật vụ án được làm sáng tỏ, nhưng các nhà văn trinh
thám Việt Nam lại có nhiều cách dẫn, cách kể khác nhau để triển khai cốt
truyện: có thể là một sự giới thiệu trực tiếp vụ án rồi kể theo trình tự thời gian
trong nhiều truyện trinh thám đầu thế kỉ XX như truyện của Phạm Cao Củng,
Thế Lữ, Phú Đức, Bửu Đình, Thuý Am, Tô Nguyệt Đình; có thể là lối dẫn
truyện bằng bối cảnh để tạo cảm giác, tạo không khí trinh thám rồi vụ án mới
được đưa ra và lối kể chậm theo trật tự tuyến tính thời gian, cũng có khi là sự
đan xen giữa lối kể chuyện theo trật tự tuyến tính với lối kể theo dòng ý thức
của nhân vật trong nhiều truyện trinh thám cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI.
Nhưng có lẽ bởi đặc trưng của thể loại truyện trinh thám là đặt ra “câu đố” về
bí mật vụ án (vụ án là kết quả được đưa ra trước), rồi thám tử/ người điều tra
mới truy tìm thủ phạm, nguyên nhân, cách thức gây án của hung thủ, v.v…
nên hầu hết truyện trinh thám Việt Nam được hiện lên qua nghệ thuật kể
chuyện đảo thời gian và lối dẫn chuyện li kì, đánh lừa người đọc để dẫn đến
một cái kết bất ngờ, giải toả những nghi vấn, giải toả cảm xúc nhiều khi là sự
lo âu, sự căng thẳng của độc giả để phán đoán tìm ra thủ phạm cùng thám tử/
người điều tra, khiến độc giả được thoả mãn nhu cầu kiếm tìm sự thật, kiếm
tìm chân lí, và trực tiếp là thoả mãn nhu cầu giải trí của bạn đọc. Có thể nói,
các thủ pháp dẫn chuyện, kể chuyện của các nhà văn trinh thám Việt Nam có
những nét riêng khá độc đáo, tạo được sự hấp dẫn cho truyện kể.
91
Bên cạnh những thành công nhất định trong triển khai cốt truyện, nhiều
truyện trinh thám Việt Nam có cốt truyện đơn giản khiến người đọc dễ đoán
được cái kết của câu chuyện ngay khi đọc phần đầu truyện. Mặt khác, trong
quá trình triển khai cốt truyện, một số nhà văn muốn sử dụng các thủ pháp
nghệ thuật hiện đại để tạo sự mới lạ nhưng kĩ thuật vận dụng chưa nhuyễn nên
kết cấu bị rời rạc, khó theo dõi. Ví dụ như Tường lửa của Đức Anh được tác
giả dùng thủ pháp lồng ghép, phân mảnh nhưng kết cấu đó lại tạo nên sự rời
rạc, khó theo dõi, nhịp kể chậm, không tạo được sự gay cấn cần thiết để hấp
dẫn người đọc. Trong khi đó, một trong những đặc điểm quan trọng của
truyện trinh thám là phải tạo được kịch tính, bất ngờ và sự logic chặt chẽ. Hạn
chế này có lẽ phần nào do sự ảnh hưởng của lối tư duy lí tính không cao và
phông kiến thức chuyên ngành, liên ngành, nhất là những kiến thức khoa học,
kiến thức pháp lí của tác giả trinh thám Việt Nam còn hạn chế.
3.2.3. Về nhân vật
Trong truyện trinh thám, nhân vật thám tử/ người điều tra và thủ phạm
luôn tồn tại song hành, và đương nhiên có cả nhân vật nạn nhân. Tuy nhiên,
nhân vật người điều tra, thám tử được tập trung thể hiện và là nhân vật trung
tâm của truyện trinh thám. Bởi vì nhân vật thủ phạm là nhân vật luôn được
giấu đi để nhân vật thám tử, người điều tra truy tìm. Khi nhân vật thủ phạm
xuất hiện cũng là lúc sự thật đã được phơi bày và câu chuyện kết thức, hết
truyện. Còn nhân vật nạn nhân thường được xây dựng mờ nhạt chỉ như là cái
cớ cho câu chuyện. Do đó, nhân vật thám tử, người điều tra luôn xuất hiện
xuyên suốt truyện và trở thành yếu tố trung tâm, giữ vai trò quyết định sự tồn
tại một truyện trinh thám. Vì vậy, ở luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu
nhân vật trung tâm của truyện trinh thám Việt Nam là nhân vật thám tử, người
điều tra, không đi sâu vào phân tích nhân vật thủ phạm và nhân vật nạn nhân
hay những nhân vật khác.
92
Tâm điểm của tác phẩm trinh thám chính là nhân vật thám tử, người điều
tra, người theo dõi, người phát hiện tội phạm. Tìm hiểu quá trình điều tra tội
ác cũng chính là tìm hiểu về nhân vật thám tử, người điều tra. Thám tử, người
điều tra giữ vai trò chính trong cốt truyện trinh thám. Khi vụ án xuất hiện và
đi vào bế tắc, khi việc truy tìm bí mật như đi vào ngõ cụt thì bằng sự quan sát
tỉ mỉ, bằng những suy luận logic, bằng phán đoán xác thực mà thám tử, người
điều tra tìm ra thủ phạm một cách thuyết phục và hết sức bất ngờ. Nếu không
có nhân vật người điều tra, thám tử thì tác phẩm không được xem là truyện
trinh thám. Điều này được S. S.Van Dine chỉ rõ: “Tiểu thuyết trinh thám bắt
buộc phải có một thám tử. Và một thám tử sẽ không phải là một thám tử nếu
anh ta không phá án. Nhiệm vụ của anh ta là tập hợp các manh mối cuối cùng
sẽ dẫn tới người đã tham gia vào hoạt động mờ ám trong chương đầu tiên của
cuốn sách; và nếu thám tử không đưa ra được những kết luận của mình thông
qua một sự phân tích những manh mối, anh ta sẽ chẳng thể giải quyết được
khó khăn của anh ta hơn là một cậu học trò tìm được câu trả lời giấu đằng sau
bài tập số học” [51]. Nhân vật thám tử, người điều tra có thể là một nhân viên
của bộ máy công quyền, là thành viên của lực lượng cảnh sát, công an hoặc
cũng có thể là một người hoạt động độc lập kiểu thám tử tư. Trong lịch sử
truyện trinh thám thế giới, có những nhân vật thám tử nổi tiếng đến mức từ
chỗ một hình tượng văn học được hư cấu đã trở thành một thứ điển phạm,
danh tiếng nhân vật lẫy lừng, quen thuộc với độc giả không khác gì một người
có thật ở đời, như các nhân vật: Sherlock Holmes trong truyện của Conan
Doyle, Charles Dupin trong truyện của Edgar Poe, Hercule Poirot trong
truyện của Agatha Christie, v.v...
Trong truyện trinh thám Việt Nam, tuỳ thuộc vào sự vận động của thể
loại trong từng giai đoạn mà nhân vật thám tử - người điều tra có thể là thám
tử chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư, là nhân viên mật thám, là nhân vật tình báo
93
hay là một cảnh sát, một nhân viên an ninh, v.v… Nhìn chung nhân vật thám
tử/ người điều tra trong truyện trinh thám Việt Nam khá đa dạng. Chúng ta
thấy những nhân vật thám tử như Lê Phong trong truyện trinh thám của Thế
Lữ, Kì Phát trong truyện trinh thám của Phạm Cao Củng; các nhân vật công
quyền như Quan Phủ Trang Tử Minh trong Người bán ngọc của Lê Hoằng
Mưu, Quan Châu Nga Lộc trong Vàng và máu của Thế Lữ, thanh tra Trúc
Lâm trong truyện trinh thám của Phạm Cao Củng; các nhân vật tình báo như:
Nguyễn Thành Luân trong Ván bài lật ngửa của Nguyễn Trường Thiên Lí,
Hai Long trong Ông cố vấn của Hữu Mai; các nhân vật công an, cảnh sát sát
như: người chiến sĩ an ninh trong Dạ khúc của Thiết Vũ, Hà Phan trong Ổ
buôn người của Giản Tư Hải, Phan Đăng Bách trong Câu lạc bộ số 7 của Di
Li, v.v…
Trong truyện trinh thám Việt Nam, thám tử - người điều tra là nhân vật
có niềm đam mê và không vụ lợi trong công việc. Ý thức công việc và lòng
yêu nghề trở thành một phẩm chất không thể thiếu của nhân vật thám tử,
người điều tra. Họ hành động xuất phát từ sở thích, sự đam mê, yêu cầu của
công việc hoặc ngẫu nhiên, ví như lời tâm sự của nhân vật Kỳ Phát trong
truyện trinh thám của Phạm Cao Củng: “Tôi đã học đủ nghề để phòng khi
dùng đến, nhưng tôi vẫn làm việc ở một ấp trên trung du, vừa trông coi đồn
điền, vừa dạy học thêm, cốt để tự nuôi sống, còn nghề trinh thám kia, thì khi
nào có dịp tôi mới đem ra mà áp dụng, coi như là một trò giải trí mà thôi... vì
vậy tôi chẳng phải là một tay trinh thám nhà nghề” [47; tr.24]. Kỳ Phát luôn
tỏ ra thờ ơ với mọi thứ không liên quan đến vụ án và trong khi điều tra, anh
luôn giữ thái độ tỉnh táo, cần mẫn của một thám tử chuyên nghiệp. Nhân vật
thám tử Lê Phong trong truyện của Thế Lữ cũng vậy, anh là phóng viên của
Báo Thời Thế. Khi được cử đi tường thuật vụ án, qua những việc điều tra cụ
thể, từ việc khám phá vụ buôn lậu ở Lạng Thương đến các vụ giết người, các
94
băng đảng bí mật ở Hà Nội, v.v… lòng say mê cùng bản năng nghề nghiệp
của chàng được bộc lộ rất rõ. Lê Phong bộc bạch: “Tôi không làm phóng viên
nữa thì đời tôi không còn gì”. Chính vì vậy, hoạt động thám tử, công việc điều
tra phá án trở thành lẽ sống, mục đích cuộc đời của chàng nên Lê Phong
nghiên cứu rất sâu những kĩ thuật cần thiết cho việc phá án. Chàng rất giỏi
trong việc giải các loại mật mã, cũng là bậc thầy về cải trang. Với một chiếc
kính lúp, Lê Phong có thể suy đoán nhân dạng của thủ phạm chỉ từ những dấu
vết đơn giản mà hung thủ vô tình để lại hiện trường như vết chân, vết giày
dép, vết bánh xe, tàn thuốc, v.v… Lê Phong cũng rất tài tình trong việc nhận
xét về cảm xúc của người đối diện. Chàng có thể xoa dịu và làm an lòng
những người đang gặp khủng hoảng về tâm lí (Gói thuốc lá). Lê Phong với
những tính cách nổi bật thông minh, hào hoa, đa cảm, lãng mạn đã tạo nên
dấu ấn truyện trinh thám của Thế Lữ trong lòng người đọc. Hình tượng thám
tử Lê Phong là sự pha trộn giữa nhân vật thám tử trong truyện trinh thám suy
luận kết hợp với truyện trinh thám hành động, lãng mạn.
Ngoài những nhân vật thám tử chuyên nghiệp còn có thám tử nghiệp dư.
Họ là những người vì hoàn cảnh riêng hoặc cũng có thể chỉ vì sở thích mà làm
thám tử. Thám tử Đỗ Hiếu Liêm (Châu về hiệp phố) làm việc ở Sở Mật thám
để tìm cơ hội bắt bọn cướp Thanh Long để trả thù cho cha mẹ. Quan Phủ
Trang Tử Minh (Người bán ngọc) là “một vị minh quan, giữ mực công bình,
không chịu vị tình xử đoản”, điều tra vụ án Tô Thường Hậu để tìm ra nguyên
nhân sâu xa của vụ án mà xử người có tội. Quan Châu Nga Lộc (Vàng và
máu) “là một người Thổ vào dạng trí thức. Những điều mà dân quê mê tín
như những việc bí hiểm trong hang Thần, ông vẫn ngờ là chuyện huyền hoặc
cả”, cho nên ông đã can đảm khám phá thực chất sự linh thiêng của hang
Thần trên núi Văn Dú. Thám tử Thành Trai, Minh Đường, Tám Lọ (Mảnh
95
trăng thu) điều tra làm sáng tỏ vụ án đã trải qua năm năm trời để tìm cách
minh oan cho Kiều Tiên bị mang tiếng oan giết chồng, v.v…
Nhân vật thám tử, người điều tra trong truyện trinh thám Việt Nam vừa
giống vừa khác so với mẫu hình nhân vật thám tử trong truyện trinh thám
phương Tây. Mẫu hình nhân vật trong truyện trinh thám Việt Nam là các
thám tử, người điều tra thông minh, có tài suy luận logic, phản ứng nhanh
nhạy trong các tình huống, có lòng nhân hậu, kiên quyết đấu tranh để đòi lại
lẽ công bằng và có phong thái, nhân dạng mang đặc điểm người Việt Nam.
Người đọc không thể nhầm lẫn thám tử Kỳ Phát với tầm người cao và gầy,
vận âu phục, khuôn mặt sáng ngời, nhất là đôi mắt với chàng thám tử phương
Tây Sherlock Holmes đội mũ dạ, vận đồ đen, ngậm tẩu thuốc khi suy luận,
điều tra phá án.
Tuy nhân vật thám tử, người điều tra trong truyện trinh thám Việt Nam
thông minh, có tài suy luận logic, phản ứng nhanh nhạy trong các tình huống,
giỏi võ thuật, có lòng nhân hậu, kiên quyết đấu tranh để đòi lại lẽ công bằng
nhưng những suy luận của họ vẫn đơn giản. Đối với nhân vật thám tử, người
điều tra chỉ tư duy logic, suy đoán dựa trên quy luật cuộc sống không thôi, dù
sắc sảo đến mấy thì vẫn chưa đủ để phá án. Nhân vật thám tử, người điều tra
trong truyện trinh thám Việt Nam bên cạnh suy lí còn biết kết hợp với trí
tưởng tượng và cả mưu mẹo trong quá trình điều tra. Đây cũng chính là một
đặc điểm của nhân vật thám tử, người điều tra trong truyện trinh thám Việt
Nam. Dùng mưu trí, mẹo mực, tháo vát, đồng thời cũng có gì đó mang tính
chất láu lỉnh, tinh khôn để giải quyết các tình huống là một lối ứng xử mang
đậm dấu ấn tính cách của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói
riêng. Chẳng hạn, để kiểm tra sự suy đoán của mình, Lê Phong đã bộc bạch
với Mai Hương rằng mình đã dùng mẹo nhỏ là đòi Thạc gói thuốc lá để thử
96
tâm lí của Thạc, mặc dù Thạc không mượn chàng, nhờ đó mà xác định chính
xác Thạc là hung thủ giết Đường:
Thạc: “Anh trả tôi gói thuốc lá chứ? Gói thuốc lá anh mượn từ lúc ngồi
xem xi-nê kia mà!”. Thạc hình như chợt nhớ ra, lấy gói thuốc lá trả tôi, và
tôi hiểu rằng mưu của tôi đã thành. Vì thực ra thì trong lúc ngồi ở nhà chiếu
bóng, tôi có cho Thạc mượng gói thuốc lá nào đâu [137, tr.203-204].
Tôi lại nghĩ ra được một mẹo nhỏ, và sau đó mười phút, tôi đến gần bảo
Thám tử Lê Phong muốn giấu những giấy má quan trọng không bị lọt vào tay
bọn Tam Sơn quỷ quyệt, đã bảo thằng Biên “lấy những tờ giấy trong hộp bỏ
vào những phong bì dùng rồi […]. Không cất đâu hết. Để nó cả trên bàn nhà
ngoài […]. Phải, nhét nó vào ngăn để thư hoặc ngăn kéo nhưng không cần
khóa […]. Những chỗ hở như thế là chỗ giấu kín nhất đó. Vì đó là những chỗ
chúng nó không thèm để tâm đến nhất” [134, tr.50], v.v…
Đặc điểm nổi bật nhất của nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt
Nam là những con người tài đức kết hợp với tinh thần nghĩa hiệp, không vụ
lợi cho bản thân. Kỳ Phát thường cộng tác với bạn là thanh tra Trúc Lâm ở Sở
Liêm phóng (Mật thám) Hà Nội, và tất cả các vụ án do Kỳ Phát tìm ra thủ
phạm đều đem tặng cho Trúc Lâm lĩnh công và lập danh. Phóng viên Lê
Phong sau khi khám phá ra bí mật vụ án thì nhanh chóng về viết bài và chờ
đợi khám phá vụ án khác; Hoàng Ngọc Ẩn, Đỗ Hiếu Liêm (trong Châu về
hiệp phố) vì cảm mến nghĩa tình mà ra tay giúp đỡ nàng Lệ Thủy và những kẻ
thế cô; Quan Châu Nga Lộc vì địa vị, trách nhiệm nên tham gia làm sáng tỏ
vụ án, v.v…
Xuất phát từ phương Tây với các nhân vật thám tử đầy lí trí, tư duy suy
luận luôn bám theo quá trình phá án, nhưng ở truyện trinh thám Việt Nam,
các nhân vật thám tử một mặt mang trong mình tư duy logic, bản lĩnh và lí trí,
mặt khác lại rất giàu cảm xúc, hào hoa, lãng mạn. Thám tử Lê Phong trong
truyện trinh thám của Thế Lữ điển hình cho mẫu thanh niên hào hoa, lãng
97
mạn, nghĩa hiệp và say mê phiêu lưu. Chàng luôn lãng mạn, nhiều khi ngồi
mơ màng ngắm làn khói thuốc do mình nhả ra. Chàng cũng dễ xúc động trước
cái đẹp và si tình, không thiếu những lần chăm chú dõi theo những nhân vật
nữ xinh đẹp, thậm chí là “say nắng” trước Mai Hương. Kể từ lần đầu gặp gỡ
Mai Hương, anh đã có những biểu hiện tâm lí không bình thường, bắt đầu “ấp
úng”, “bối rối”, “nói những lời ngớ ngẩn, vô nghĩa” và bị chinh phục bởi vẻ
đẹp của người thiếu nữ yêu kiều Mai Hương. Bên cạnh câu chuyện điều tra vụ
án, Thế Lữ đã xây dựng nên một câu chuyện tình của Lê Phong. Kỳ Phát
trong truyện trinh thám của Phạm Cao Củng như thần người trước “một thiếu
nữ chừng 18 tuổi, người nhỏ nhắn nhưng cân đối, nước da trắng hồng […] có
đôi mắt huyền rất đẹp, đen tuyền và trong sáng thông minh, lanh lẹn vô cùng”
[45, tr.19] đã thốt lên: “Chà, đôi mắt huyền đẹp quá” [45, tr.19], rồi chàng
“suy nghĩ ngẩn ngơ, lơ đãng nhìn về phía toa tầu thiếu nữ vừa lên” [45, tr.19].
Nguyễn Thành Luân trong Ván bài lật ngửa được thể hiện với tâm lí khá
phong phú, là một điệp viên nhưng anh cũng rất giàu cảm xúc, hay cảm động.
Rất nhiều lần anh khóc, khóc khi người đồng đội là Ngọc bị bắt và bị bắn chết
mà anh không cứu được, khi nghe tin Lục chết ở Nha Trang, khi con trai bị
bắt, khi gặp Saroyan ở Mĩ. Nguyễn Thành Luân cũng rất đa cảm, đa tình, hào
hoa. Anh luôn được phụ nữ yêu và giúp đỡ, anh cũng được người đồng đội là
Dung thắp lên ngọn lửa tình yêu. Hai Long trong Ông cố vấn cũng đầy tâm
trạng, cảm xúc khi bị đồng đội nghi ngờ phản bội. Trái tim anh cũng luôn có
những khoảng rung động như cảm xúc của anh trong nỗi nhớ Hà Nội. Nhân
vật người chiến sĩ an ninh trong Dạ khúc, giữa một quốc gia xa lạ, khi thử
thách sống chết cận kề, ngoài ý nghĩ về nhiệm vụ, thấp thoáng trong anh hình
bóng một người con gái đang chờ anh. Ta còn thấy tình cảm của Hà Phan
thầm thương trộm nhớ cô gái Hà Vi mà anh giải cứu được trước nạn buôn
người trong Ổ buôn người của Giản Tư Hải. Nhân vật thiếu tá Phan Đăng
98
Bách trong Câu lạc bộ số 7 của Di Li khi đứng trước người yêu cũng rụt rè,
ấp úng, v.v…
Các nhà văn trinh thám Việt Nam thường tạo ngôn ngữ nhân vật với lối
nói dung dị, lời ăn tiếng nói đặc trưng vùng miền, sử dụng ngôn ngữ đời
thường, thể hiện “tính chất Việt” của nhân vật. Trong các truyện trinh thám
xuất bản ở miền Bắc, người đọc cảm nhận được sự chân thật và gần gũi qua
những ngôn từ địa phương trong lời nhân vật: “Tôi mới đến ở sau này, nên
không biết, anh ạ”, “Phát đấy ư con? Con đóng cửa lại rồi đứng đây thầy
bảo”, “Thằng ông mãnh, mày chạy đâu mà như bố chết thế”, “Bạn tôi chỉ
chiếc đèn cầy trên bàn mà bảo”, “Chính cái ô kia nó dẫn tôi từ bà cụ đến
chàng trẻ tuổi”, v.v… Với những truyện trinh thám miền Nam, người đọc
thấy những câu văn vừa gần gũi vừa chân thực theo ngôn ngữ địa phương
trong lời nhân vật: “Chúng bây đừng chợp rợp mà tao bắn nát óc bây giờ”,
“Lối này coi bộ khá hơn trước nhiều”, “Chàng lật đật bấm chuông kêu bồi,
biểu mau mau chạy đi rước thầy thuốc”, “Ê chú, nới chơn cho dài thêm một
chút mà, xe chạy như rùa bò biết bao giờ tới chốn”, “Nên ráng sức bình sanh
mà đánh”, “thiên hạ đi coi dập diều mỗi khi pháo xẹt lên trời”, “Mi khai thiệt
hết đầu dây mối nhợ ta nghe”, v.v… Khác với ngôn ngữ nhân vật trong truyện
trinh thám phương Tây thường trung hoà cảm xúc, ngắn gọn, gắn với lối tư
duy lí tính và lối sống hiện đại phương Tây; ngôn ngữ nhân vật trong nhiều
truyện trinh thám Việt Nam thiếu sự trung hoà cảm xúc cần thiết. Bên cạnh
những lợi thế về đặc điểm ngôn ngữ tiếng Việt có khả năng diễn đạt một cách
tinh tế, gợi cảm, tác động đến tâm trạng, cảm xúc người đọc một cách mạnh
mẽ, gợi những xúc cảm cần thiết như sự bất ngờ, sự rùng rợn, sự hồi hộp, sự
lo âu, v.v… thì đặc điểm giàu cảm xúc, mang tính biểu cảm cao của ngôn ngữ
tiếng Việt lại trở thành rào cản làm giảm sự bất ngờ, kịch tính của truyện –
một yếu tố rất quan trọng để làm nên tính hấp dẫn của truyện trinh thám.
99
Chúng ta có thể tìm thấy đặc điểm này trong hầu hết các truyện trinh thám
nước ta, từ truyện trinh thám của Thế Lữ, Phạm Cao Củng, Biến Ngũ Nhy, Lê
Hoằng Mưu, v.v… ở đầu thế kỉ XX đến truyện trinh thám của Di Li, Giản Tư
Hải, Kim Tam Long, Đức Anh, Nguyễn Dương Quỳnh, Hoàng Yến từ đầu thế
kỉ XXI đến nay. Đây vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của ngôn ngữ truyện
trinh thám Việt Nam nói chung và ngôn ngữ nhân vật trong truyện trinh thám
nói riêng: một mặt, nó tạo được sự gần gũi, quen thuộc trong tiếp nhận của
bạn đọc Việt Nam; mặt khác, chính sắc thái biểu cảm, giàu cảm xúc của ngôn
ngữ đã làm hạn chế yếu tố bất ngờ của truyện – một yếu tố đặc trưng quan
trọng của truyện trinh thám.
Tuy đã có thành công nhất định trong xây dựng nhân vật thám tử, người
điều tra nhưng đa số nhân vật truyện trinh thám Việt Nam chưa thực sự được
khắc hoạ tính cách rõ nét nên chưa tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng độc
giả. Các nhân vật được xây dựng thuộc một số kiểu nhân vật truyện trinh
thám Việt Nam (nhân vật thám tử, nhân vật công an, nhân vật tình báo)
thường giống nhau, chưa thực sự có nét riêng nổi bật để tạo ấn tượng: có sự
giống nhau giữa nhân vật thám tử Lê Phong trong truyện của Thế Lữ với nhân
vật Kỳ Phát trong truyện của Phạm Cao Củng; giữa nhân vật Phan Đăng Bách
trong truyện của Di Li với nhân vật Quân trong truyện của Kim Tam Long;
giữa nhân vật Kỳ Phương với nhân vật Trần Phách và Hà Phan trong truyện
của Giản Tư Hải, v.v…
3.2.4. Về không gian, thời gian nghệ thuật
Trong tác phẩm nghệ thuật, việc xử lí không gian, thời gian là một yếu tố
vô cùng quan trọng đối với việc thành công của tác phẩm. Bởi vì không gian
nghệ thuật, thời gian nghệ thuật chính là nơi, là lúc để nhân vật tồn tại và
hành động, đồng thời là phương tiện để tái hiện đời sống. Không có ai trong
đời sống lại không có một không gian và thời gian tồn tại nhất định, cũng như
100
không có nhân vật nào lại tồn tại ngoài không gian nghệ thuật, thời gian nghệ
thuật cụ thể trong tác phẩm. Ở truyện trinh thám Việt Nam, không gian nghệ
thuật đã góp phần “định danh”, thể hiện đặc điểm bản sắc Việt của truyện.
Có một điều đặc biệt là không gian trong nhiều truyện trinh thám Việt
Nam được xây dựng là không gian hẹp, không gian thuần Việt, gắn liền với
đời sống người Việt Nam. Trong truyện trinh thám của Thế Lữ, không gian
chủ yếu là không gian ở Hà Nội. Những địa chỉ, địa danh gắn với tên những
con đường, những ngôi nhà ở Hà Nội xuất hiện dày đặc trong những vụ án và
quá trình điều tra vụ án; và không gian những nơi đó cứ dần hiện lên qua sự
miêu tả chi tiết của nhà văn. Không gian trong Gói thuốc lá rất cụ thể nơi
Đường bị giết: “Đến trước căn nhà hai tầng số 44 bis phố Richaud, ba người
cùng dừng lại. Đêm đã khuya. Đèn trên gác đã tắt. Hai cửa sổ mở ra đường
hai khung lớn tối đen” [137, tr.5]; trong mảnh giấy manh mối gán tội cho
Nông An Tăng có ghi: “Hắn đang xuống Hà Nội, Điền He… 143 bis D” [137,
tr.61]. Nơi diễn ra màn kịch mà Lê Phong dựng nên để bắt hung thủ và mời
Mai Trung và Kỳ Phương đến chứng kiến cũng là ở nhà thương Phủ Doãn:
“Tên Thổ vẫn chưa ra khỏi Hà Nội […] mời các ông lại nhà thương Phủ Doãn
tối hôm nay cùng với một cái khóa tay chắc chắn để đón lấy tên hung thủ mà
tôi sẽ nộp tận tay các ông” [137, tr.165]. Trong Mai Hương và Lê Phong, Lê
Phong điều tra, rượt đuổi Mai Hương theo vết dầu anh đánh dấu vào xe Mai
Hương trên những cung đường vòng vo: “Đến phố Jean Soler, vết dầu lại
chạy thẳng rồi rẽ về đường Gambetta. Gần hết đường Gambetta, xe anh lại
chậm lại lần thứ hai để xem xét […] đến chỗ rẽ sang tay trái, lối xuống Cống
Vọng anh thấy vết bánh xe sát lên rất rõ” [131, tr.41]. Vẫn là không gian bám
theo Mai Hương: “Qua phố Hàng Buồm đến phố Mã Mây… Xe hơi băng
băng chạy trên con đường nhựa bóng loáng. Qua Hàng Bún, rẽ lên đường
Quán Thánh, rẽ sang Hàng Cót, Hàng Bông, Cửa Nam qua ga rồi cứ thế chạy
101
thẳng mãi” [131, tr.176]. Ở Đòn hẹn ta cũng thấy không gian xảy ra cái chết
của Nguyễn Bồng: “Chiếc xe điện từ lối Bờ Hồ vừa đứng lại ở trước chợ
Hôm […] Phong đang mải nhìn đi, bỗng nhiên nghe có những tiếng kêu thất thanh
của tất cả mọi người, và- việc xảy ra đột ngột lạ lùng- về phía bên kia, dưới bánh xe
vừa ngừng, anh thấy một người đàn ông quần áo nâu nằm chết trên đường sắt”
[134, tr.9], sau đó “Chiếc xe điện lúc nãy chạy đã lâu. Phố Huế lại giữ vẻ tấp nập
thản nhiên thường ngày và trên chỗ tai nạn xảy ra chỉ còn một vết máu rửa
chưa sạch hẳn” [134, tr.23]. Cứ thế, tác giả tạo nên một không gian động, một
không gian rượt đuổi, vừa làm tăng sự bí ẩn và kịch tính cho câu chuyện vừa
tạo cho người đọc thấy những địa danh, những không gian quen thuộc ở Hà
Nội nên không gian ấy đã lôi cuốn, hấp dẫn sự chú ý của độc giả.
Không chỉ là không gian phố thị, các tác giả trinh thám Việt Nam xây
dựng không gian rừng núi, không gian tự nhiên, v.v... cũng rất quen thuộc,
gần gũi với đời sống, mang bản sắc Việt Nam. Đó là hang Thần trên núi Văn
Dú vừa linh thiêng, ghê sợ, vừa đầy bí ẩn (Vàng và máu); là hang động trong
cổ miếu giữa rừng già (Kho tàng họ Đặng); là căn phòng tối tăm, đầy khói
thuốc phiện cùng con rắn hổ mang của Ông Phán (Ông Phán nghiện); là “căn
phòng lịch sự, yên tĩnh và sang trọng nhưng đầy những điều kì lạ” (Mai
Hương - Lê Phong); là “căn phòng khóa kín” mà Nùng Cao bị giết một cách
bí ẩn (Vết tay trên trần), và căn phòng “chật hẹp, bốn bề bít kín như bưng,
buồng chỉ có một lỗ trống bằng hai bàn tay” mà Bá Vy đã giam giữ Kỳ Phát
(Kho tàng nhà họ Đặng); là hang và đường hầm trong Minh Mạng mật chỉ
của Giản Tư Hải; là động đá ẩn chứa những bí mật gia đình họ Quách trong
Trại Hoa Đỏ của Di Li, v.v… Có thể thấy, các nhà văn đã bám rất sát thực tế
đời sống để sáng tạo nên những hình tượng không gian đặc thù của truyện trinh
thám Việt Nam, khác hẳn với không gian hoành tráng ở những thành phố lớn
trong truyện trinh thám phương Tây. Không gian đó vừa đảm bảo cho sự phát
102
triển hợp lí của câu chuyện vừa in đậm dấu ấn văn hóa, xã hội, đời sống sinh
hoạt của Việt Nam.
Trong truyện trinh thám Việt Nam, các nhà văn viết truyện trinh thám
cũng chú ý nhiều đến không gian đường rừng. Đây dường như là sự ảnh
hưởng từ truyện truyền kì, truyện đường rừng trong văn học truyền thống Việt
Nam. Chính điều này đã làm tăng thêm tính lãng mạn, chất kì ảo, hấp dẫn và
mang đặc điểm riêng của truyện trinh thám Việt Nam so với phương Tây. Đặc
trưng của không gian đường rừng trong truyện trinh thám không phải ở nét
thơ mộng, lãng mạn mà là những cảnh trí rùng rợn, u ám, lạ lẫm, bí ẩn, nhiều
bất trắc, thường là tai họa. Thế nên, trong các truyện trinh thám Việt Nam,
khung cảnh thường được mô tả bằng một cái nhìn đầy vẻ huyền bí. Không
gian ấy hứa hẹn nhiều thứ bất ngờ, những điều li kì, rùng rợn đến khó tin. Môi
trường tự nhiên hoang dã ở miền núi có tác dụng kích thích trí tưởng tượng,
khơi gợi cảm giác lo lắng pha lẫn thích thú của người đọc. Trong Vàng và
máu: “Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía cũng như các
ngày ủ dột âm u, Văn Dú lại hiện ra với một vẻ riêng oai linh và màu nhiệm
[…] họ còn sợ hãi Văn Dú như một vật có tri giác, có quyền phép làm hại
người […] ai nói tới Văn Dú là một sự gở lạ” [138, tr.19-20].
Truyện trinh thám Việt Nam có các yếu tố kì ảo, kinh dị, ma mị trong
xây dựng không gian nghệ thuật, trong miêu tả âm thanh, ánh sáng, v.v...
Điều này đã tạo được hiệu quả nghệ thuật cao trong việc tạo ra sự hồi hộp, lo
sợ, cảm giác rùng rợn, những cung bậc cảm xúc của người đọc. Bạn đọc sẽ
cảm thấy rùng rợn đến ớn lạnh khi âm thanh tiếng “còi…kia…” vọng đập vào
vách núi giữa nơi thâm u hoang vắng của núi rừng được phát ra từ người phát
hiện xác chết và chỉ tay về hình ảnh một xác chết treo cổ mặt thâm đen với
lưỡi thè ra thật kinh khủng trong Vàng và máu của Thế Lữ. Bạn đọc sẽ cảm
thấy quay cuồng, hoang mang, lo sợ với cảm giác bị rượt đuổi khi lọt vào mê
103
cung và không tìm ra lối thoát cùng với nhân vật Diên Vĩ, hay những âm
thanh lách cách trong hang động, hình ảnh con chó mực chết giữa đường
trong lúc chập choạng tối nơi núi rừng heo hút mà chồng Diên Vĩ lái xe va
phải trong Trại Hoa Đỏ của Di Li; cảm thấy sợ hãi với hình ảnh kẻ sát nhân
mặt nạ trắng thoắt ẩn thoắt hiện nơi miếu hoang cạnh nghĩa địa gắn với những
câu chuyện giết người báo thù nhiều kiếp trong Mặt nạ trắng của Kim Tam
Long; cảm thấy khủng khiếp, rùng rợn trước hình ảnh một thi thể cụt đầu và
một bộ não đỏ hon hỏn trong bể dung dịch thí nghiệm mà Giáo sư Tôn Thất
Sắc dẫn kẻ mặt nạ vào coi ở phòng thí nghiệm ngột ngạt thâm u trong Âm
mưu thay não của Giản Tư Hải; cảm thấy rùng mình trước căn bệnh lạ cướp
đi hình hài, sinh mạng của nhiều người trong Đảo bạo bệnh của Đức Anh,
v.v… Để cho câu chuyện li kì, làm tăng sự thu hút, hấp dẫn và gợi cảm giác
hồi hộp cho người đọc, tác giả truyện trinh thám Việt Nam sử dụng nhiều
không gian bóng tối, không gian bí ẩn, những âm thanh tạo cảm giác trong
nhiều tác phẩm. Đó là không gian rậm rạp nơi cửa hang tối om và âm thanh
tiếng những giọt nước tí tách nhỏ giọt vọng ngân trong hang Thần trên núi
Văn Dú (Vàng và máu); không gian dò xét của Lê Phong trong Mai Hương và
Lê Phong với “những căn buồng đóng ván lên tới trần, kín mít và tối om” hay
không gian sào huyệt của Đảng Tam Sơn với “một căn phòng kín đáo hiện
đang là nơi giam giữ Lê Phong” cùng tiếng “kẹt kẹt” của cánh cửa từ phòng
hầm này sang phòng hầm khác đầy vòng vo ngóc ngách; không gian mênh
mông hoang vu lặng lẽ trong đêm tối mờ ảo với những bóng người Mán lủi
thủi ẩn hiện ở Trại Hoa Đỏ khi gia đình Diên Vĩ về nghỉ cuối tuần nơi núi
rừng miền sơn cước trong Trại Hoa Đỏ của Di Li; không gian lắt léo, bí hiểm
trong Mật mã Champa của Giản Tư Hải; những không gian kì bí lúc tranh tối
tranh sáng nơi miếu hoang, nơi nghĩa địa trong series truyện trắng của Kim
Tam Long, v.v… Tất cả những không gian ấy được dựng nên bởi các nhà văn
104
trinh thám Việt Nam muốn tạo ra một sự bí hiểm khiến cho người đọc có cảm
giác hồi hộp, lo âu, sợ hãi, và cũng chính điều đó kích thích trí tò mò khiến
bạn đọc bị cuốn hút theo diễn biến câu chuyện.
Không chỉ là không gian nghệ thuật, các nhà văn trinh thám Việt Nam
còn chú ý đến việc xây dựng thời gian nghệ thuật rất hiệu quả: chủ yếu là thời
gian ban đêm, gắn thời gian khách quan với thời gian tâm lí để gợi cảm xúc
của các nhân vật. Đặc biệt, thời gian tâm lí không chỉ diễn tả sự hồi hộp chờ
đợi từng giây, từng phút của nhân vật mà nó khiến độc giả cũng hồi hộp, lo
lắng, ngóng chờ theo từng bước đi của thời gian. Thời gian ấy đã tạo nên kịch
tính để thu hút độc giả, khiến độc giả được sống với số phận, với tâm trạng và
diễn biến tâm lí của nhân vật. Bạn đọc có cảm giác thời gian chậm chạp trôi
trong sự nín thở, rón rén chờ đợi hung thủ xuất hiện như chính cảm giác của
Lê Phong chờ đợi hung thủ xuất hiện ở nhà thương Phủ Doãn trong truyện
của Thế Lữ, hay thời gian rất chậm diễn tả sự chần chờ của Phan Đăng Bách
khi chưa tìm được manh mối phá án trong Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7
của Di Li; thời gian gấp gáp, dồn dập như cuộc rượt đuổi của Lê Phong bám
theo Mai Hương trong Lê Phong phóng viên của Thế Lữ; hay thời gian nhanh
gấp trong Ổ buôn người và Âm mưu thay não của Giản Tư Hải, v.v…
Thủ pháp nghệ thuật xây dựng thời gian nghệ thuật độc đáo kết hợp với
bối cảnh không gian nghệ thuật độc đáo đã tạo ra một thế giới không-thời
gian cho nhân vật bộc lộ phẩm chất và tính cách, tạo nên kịch tính, gợi nên
những xúc cảm phong phú, đồng thời tạo nên một sức hút, sức lôi cuốn lớn
đối với bạn đọc.
3.3. Vấn đề hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật
Truyện trinh thám Việt Nam sử dụng nhiều yếu tố nghệ thuật để kích
thích sự tò mò, khát khao của độc giả cùng thám tử, người điều tra khám phá
những bí mật của vụ án và tạo được những hiệu ứng thẩm mĩ: người đọc được
105
giải toả tâm lí lo lắng, hồi hộp, sợ hãi; được thoả trí tò mò; được giải đáp
những hoài nghi ám ảnh; được sáng tỏ về nhận thức, v.v… Khi kết thúc
truyện trinh thám, bao giờ các nhà văn trinh thám cũng dùng sự duy lí và tư
duy logic của thám tử, người điều tra làm cơ sở để tìm ra thủ phạm, làm sáng
tỏ bí mật về vụ án. Điều đó khiến bạn đọc cảm thấy thỏa mãn khi nhu cầu
kiếm tìm sự thật của họ đã có kết quả: tìm ra được thủ phạm của vụ án và
những bí mật của câu chuyện được làm sáng tỏ. Những tình tiết li kì, tư duy
logic kết hợp với cách giải thích khoa học khiến cho các vụ án trong truyện
trinh thám Việt Nam lúc đầu tưởng như mơ hồ, khó hiểu và bế tắc nhưng về
sau lại được giải thích một cách hợp tình, hợp lí khiến người đọc phải thích
thú và thán phục. Như vậy, truyện trinh thám Việt Nam đã giúp bạn đọc thoả
mãn nhu cầu giải trí của mình.
Bản chất của con người luôn có tính hiếu kì, sự tò mò, muốn khám phá,
kiến tìm sự thật, kiếm tìm chân lí, khát vọng thực thi công lí. Bằng những yếu
tố đặc trưng thể loại và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, truyện trinh thám
Việt Nam bao giờ cũng đưa bạn đọc tham gia vào cuộc kiếm tìm sự thật, giải
mã những bí ẩn của vụ án bằng những suy luận logic, lí trí, khoa học và
thuyết phục. Ví dụ: kết thúc truyện Trại Hoa Đỏ của Di Li là tìm ra hung thủ
giết chết bao người lại là kẻ không ai ngờ tới, đó là Trần Hoàng Lưu chủ Trại
Hoa Đỏ, hắn gây án do sự tham lam, ích kỉ, muốn giữ bí mật xuất thân và mối
quan hệ gia đình đầy bi kịch và phức tạp của hắn; kết thúc Mặt nạ trắng của
Kim Tam Long là tìm ra hung thủ giết người lại là một bác sĩ rất giỏi tên
Hoàng, giải toả những nghi ngờ về lời đồn đoán ghê sợ về sự báo thù truyền
kiếp của nhân vật bí ẩn Mặt Nạ Trắng; kết thúc Đảo bạo bệnh của Đức Anh
tìm ra hung thủ giết chết cụ Lường chính là lão Sùng; trong nhiều truyện của
Thế Lữ: kết thúc Vàng và máu đã chỉ ra những cái chết của bao người ở hang
thần Văn Dú không phải do thần linh ma quái mà là do tội ác của bọn Tàu khi
106
chúng tẩm thuốc độc lên những viên đá đặt trong hang để giữ của mà chúng
vơ vét được của dân ta; Gói thuốc lá kết thúc là sự tìm ra kẻ giết Đường chính
là Thạc chứ không phải Nông An Tăng; Lê Phong đã tìm ra hung thủ giết Đào
Ngung chính là Lường-Duỳn (Lê Phong phóng viên); người giết chết Trần
Thế Đoàn chính là Lương Hữu (Lê Phong và Mai Hương), v.v… Như mọi
truyện trinh thám nói chung, truyện trinh thám Việt Nam cũng kết thúc bằng
sự tìm ra hung thủ gây án, tìm ra những điều bí mật về vụ án và kẻ gây án
phải chịu sự trừng trị. Điều đó đã làm thỏa mãn khát vọng khám phá, kiếm
tìm chân lí, kiến tìm sự thật và khát vọng thực thi công lí của bạn đọc.
Truyện trinh thám Việt Nam không chỉ thiên về lí trí mà còn hướng đến
khẳng định giá trị đạo đức, giá trị nhân văn, khẳng định công lí. Những khát
khao kiếm tìm sự thật của con người từ truyện trinh thám thực chất chính là
khát khao kiếm tìm bản chất của cái thiện và cái ác để từ đó thể hiện thái độ
đối với con người, đối với các hiện tượng trong đời sống xã hội. Kiếm tìm cái
thiện, cái đẹp để trân trọng, ngợi ca và tìm ra cái ác, cái xấu để phê phán, lên
án, trừng trị. Truyện trinh thám đã làm thỏa mãn bạn đọc khi họ kiếm tìm
được sự thực, kiếm tìm được chân lí để bộc lộ thái độ yêu-ghét; trân trọng,
ngợi ca hay lên án, phê phán một cách phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp
luật, v.v… Chính vì thế, truyện trinh thám thực sự có ý nghĩa tác động để lan
tỏa, phát triển giá trị nhân văn. Ngày nay người ta đặt ra nhiều vấn đề đối với
văn học về cái ác. Truyện trinh thám nói chung và truyện trinh thám Việt
Nam nói riêng là một thể loại tiêu biểu của văn học về cái ác. Giống như bi
kịch phản ánh về cái ác, kết thúc câu chuyện trong bi kịch cũng là những cái
chết, là sự thảm khốc, là những mất mát, đau thương của con người do cái
xấu, cái ác gây nên. Hiệu ứng thẩm mĩ mà truyện trinh thám tạo ra cũng như
hiệu ứng thẩm mĩ của bi kịch, hài kịch hay chính kịch là đều tìm ra cái xấu,
cái ác và cái thiện, cái chính nghĩa để mà lên án, tố cáo cái ác, cái xấu trong bi
107
kịch; để mà cất tiếng cười mỉa mai, chế giễu cái xấu, cái ác trong hài kịch; và
để khẳng định, ngợi ca điều chính nghĩa, ngợi ca cái đẹp, cái thiện, cái tốt
trong chính kịch. Trong truyện trinh thám, cái xấu, cái ác cuối cùng cũng phải
hiển lộ, hung thủ vụ án bao giờ cũng bị phơi bày, bị bắt, bị trừng trị, v.v…
Truyện trinh thám cũng giống như bi kịch, nó cho bạn đọc thấy rõ về cái xấu,
cái ác nhưng không phải để bi luỵ hay để làm theo hoặc ủng hộ, ngợi ca nó;
mà là để ghê sợ mà lên án, phê phán, tránh xa, loại trừ cái xấu, cái ác. Và như
vậy, truyện trinh thám cũng như bi kịch có ý nghĩa góp phần thanh lọc tâm
hồn con người.
Truyện trinh thám Việt Nam cũng có sự mở rộng biên độ đến với những
loại hình nghệ thuật khác. Trong nghệ thuật, sự giao thoa giữa các loại hình là
khá phổ biến: sự giao thoa giữa văn học với sân khấu, điện ảnh; giữa hội hoạ
với điêu khắc, kiến trúc; giữa thơ ca với âm nhạc, hội hoạ; giữa hội hoạ với
sân khấu; giữa điện ảnh với âm nhạc, v.v… Chỉ nói riêng về sự giao thoa giữa
văn học với điện ảnh, sân khấu, chúng ta cũng thấy rất nhiều tác phẩm văn
học nổi tiếng được chuyển thể, được dàn dựng thành những tác phẩm sân
khấu, điện ảnh kinh điển. Thậm chí có những tác phẩm văn học được chuyển
thể, được dàn dựng thành nhiều phiên bản điện ảnh, sân khấu, nhạc kịch; và
có những tác phẩm điện ảnh được chuyển thể từ một nhóm tác phẩm văn học.
Đồng thời, nhiều yếu tố của các loại hình nghệ thuật ấy cũng ảnh hưởng, được
sử dụng trong những tác phẩm văn học. Trên thế giới, những tác phẩm như
tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell; series truyện Sherlock
Holmes của Conan Doyle; tiểu thuyết Anna Karenina, Chiến tranh và hòa
bình của L.Tolstoy; tiểu thuyết Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov,
Lũ người quỷ ám của Dostoyevsky; tiểu thuyết Sông đông êm đềm, truyện vừa
Số phận con người của Sholokhov; tiểu thuyết Những người khốn khổ, Nhà
thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo; tiểu thuyết Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây
108
Du Ký của Ngô Thừa Ân, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Hồng
Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, v.v… được chuyển thể thành tác phẩm điện
ảnh kinh điển; nhiều vở kịch kinh điển của Molière, của Shakespeare được
dàn dựng thành các tác phẩm sân khấu nổi tiếng: Lão hà tiện, Người bệnh
tưởng, Đạo đức giả của Molière; Romeo và Juliet, Hamlet, Antony và
Cleopatra, Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành
Venice của Shakespeare. Ở Việt Nam cũng có nhiều tác phẩm điện ảnh được
chuyển thể từ tác phẩm văn học như: Mùa len trâu được chuyển thể từ truyện
ngắn cùng tên của Sơn Nam, Đêm hội Long Trì được chuyển thể từ tiểu
thuyết cùng tên của Nguyễn Huy Tưởng, Làng Vũ Đại ngày ấy được chuyển
thể từ 3 truyện Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao, Đảo của dân
ngụ cư được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Đỗ Phước Tiến, Đất
phương Nam được chuyển thể từ tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn
Giỏi, Vợ chồng A Phủ được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Tô Hoài, Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của
Nguyễn Nhật Ánh, Xin hãy tin em được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của
Nguyễn Thị Thu Huệ, v.v… Nhiều tác phẩm sân khấu được dàn dựng và công
chiếu từ những tác phẩm văn học kịch như: Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta, Hồn
Trương Ba-Da Hàng Thịt, Lời thề thứ 9 của Lưu Quang; Trước giờ chiến
thắng, Chị Nhàn, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm; Quẫn, Đêm
trắng, Hội thề của Lộng Chương; Bạch đàn liễu của Xuân Trình; và gần đây
có một số tiểu thuyết của Nguyễn Thế Kỉ được chuyển thể thành kịch và một
số vở kịch của tác giả này được dàn dựng thành những vở diễn sân khấu như:
Chuyện tình Khau Vai, Hừng đông, 2 tập đầu tiểu thuyết Nước non vạn dặm:
Nợ nước non và Lênh đênh bốn biển, Thầy Ba Đợi, Hoa lửa Truông Bồn, Mai
Hắc Đế, Ngàn năm mây trắng, Gò Rồng Ấp, v.v…
109
Không nằm ngoài quy luật chung đó, nhiều tác phẩm văn học trinh thám
cũng được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh. Trên thế giới, có thể kể đến
một số phim trinh thám tiêu biểu được chuyển thể từ truyện trinh thám như:
phim Anh Sherlock dựa trên bộ truyện trinh thám nổi tiếng Sherlock Holmes
của Conan Doyle; phim Pháp The Innocent – Người vô tội được chuyển thể từ
tiểu thuyết Tell No One của Harlan Coben; phim Mĩ The Alienist – Nhà tâm
thần học dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Caleb Carr; phim Nhật Bản Hung
thủ giấu mặt được chuyển thể từ tiểu thuyết Phía sau nghi can X của Kaigo
Higashino; phim Trung Quốc Đề thi đẫm máu được chuyển thể từ tiểu thuyết
cùng tên của Lôi Mễ, v.v… Nhờ cốt truyện và những yếu tố mang đặc điểm
nghệ thuật điện ảnh trong những tác phẩm văn học đấy đã khiến các nhà làm
phim lựa chọn để chuyển thể và dàn dựng thành những bộ phim hay, hấp dẫn
người xem.
Do ra đời muộn và chịu sự tác động của hoàn cảnh lịch sử đất nước nên
truyện trinh thám Việt Nam tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng
thể loại này chưa có những tác phẩm kinh điển để dựng thành phim như
truyện trinh thám Anh, Pháp, Mĩ, Nhật Bản, Trung Quốc. Nói như vậy không
có nghĩa là truyện trinh thám Việt Nam không có sự kết nối với điện ảnh để
mở rộng biên độ. Tuy chưa nhiều nhưng cũng đã có một số truyện trinh thám,
truyện tình báo-phản gián nước ta được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh
khá thành công và hấp dẫn như: phim Ván bài lật ngửa được chuyển thể từ
tiểu thuyết cùng tên của Nguyễn Trường Thiên Lý; phim X.30 phá lưới được
chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Đặng Thanh, phim Ông cố vấn được
chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Hữu Mai, phim Chiến hạm nổ tung
được chuyển thể từ tiểu thuyết Câu lạc bộ chính khách của Lê Tri Kỷ; nhiều
phần trong loạt phim truyền hình Cảnh sát hình sự được chuyển thể từ tiểu
thuyết của Nguyễn Như Phong, Phùng Thiên Tân, Bùi Anh Tấn, Nguyễn
110
Đình Tú, Vũ Quang Vinh, Nguyễn Thanh Hoàng, Đào Trung Hiếu; gần đây
có phim Trại Hoa Đỏ của Victo Vũ được chuyển thể từ tiểu thuyết trinh thám
cùng tên của Di Li, v.v… Ở chiều ngược lại, nhiều đặc điểm của các thể loại
văn học khác, loại hình nghệ thuật khác đã được các tác giả trinh thám Việt
Nam sử dụng trong tác phẩm của mình: những âm thanh, tiếng động, bố cục
không gian, ánh sáng, v.v… đặc trưng của điện ảnh xuất hiện nhiều trong các
truyện trinh thám Việt Nam, nhờ đó làm tăng hiệu quả nghệ thuật, làm cho
truyện trinh thám trở nên gay cấn, tạo được sự hồi hộp, kịch tính, hấp dẫn
người đọc và thu hút sự quan tâm, chú ý của các nhà biên kịch, các đạo diễn
để chuyển thể và dàn dựng thành phim.
Trong mối quan hệ với những lĩnh vực nghệ thuật, những hoạt động văn
hoá, văn nghệ, một mặt, thể loại truyện trinh thám Việt Nam chịu sự tác động,
ảnh hưởng, tiếp thu từ các loại hình nghệ thuật và các hoạt động văn hoá, văn
nghệ để phát triển; mặt khác, nó cũng có tác động, ảnh hưởng trở lại, có ý
nghĩa đóng góp, thúc đẩy các loại hình nghệ thuật, các hoạt động văn hoá, văn
nghệ phát triển. Đây là những tín hiệu ban đầu về hiệu ứng nghệ thuật của
truyện trinh thám Việt Nam đối với các loại hình nghệ thuật, những hoạt động
văn hoá, văn nghệ nước ta những năm gần đây. Tuy chưa phải là phát triển
mạnh mẽ nhưng cùng với những tác phẩm trinh thám tiêu biểu đầu thế kỉ XX,
sự xuất hiện nhiều hơn giai đoạn trước những tác giả, tác phẩm trinh thám
Việt Nam trong những năm gần đây đã khiến cho hoạt động in ấn, xuất bản có
nhiều lựa chọn và bớt “yên ắng” hơn, có công ti sách lựa chọn phát triển
mảng sách trinh thám là một trong hai dòng sách chính trong chiến lược phát
triển kinh doanh của công ti mình như LinhLanbook. Hoạt động báo chí
truyền thông, lí luận, phê bình có thêm đề tài để khai thác: series truyện trinh
thám của Phạm Cao Củng được tái bản thành 1 bộ 5 cuốn; truyện trinh thám
của Di Li được tái bản mấy lần; khoảng 5 năm trở lại đây, Kim Tam Long cho
111
ra mắt liên tiếp 3 tác phẩm trinh thám; Giản Tư Hải xuất bản 5 tiểu thuyết
trinh thám, Đức Anh xuất bản 2 cuốn trinh thám, v.v… và đều được truyền
thông khá sôi nổi bằng sự kiện ra mắt sách và nhiều đài báo đưa tin; có những
bài lí luận phê bình về những tác giả, tác phẩm đó. Không những thế, những
truyện trinh thám Việt Nam ra đời và được xuất bản liên tiếp những năm gần
đây cũng tạo sự chú ý, tác động đến các lĩnh vực nghệ thuật như âm nhạc,
điện ảnh. Khi điện ảnh chú ý và khai thác truyện trinh thám Việt Nam để xây
dựng kịch bản và dựng thành phim thì nghệ thuật âm nhạc ở mảng nhạc phim,
nghệ thuật truyền hình cũng được xây dựng phát triển theo. Truyện trinh thám
Trại Hoa Đỏ của Di Li có hiệu ứng nghệ thuật đối với điện ảnh, tạo sự chú ý
của các nhà làm phim, được Victor Vũ kết hợp với Truyền hình kĩ thuật số trả
tiền K+ chuyển thể và dựng thành phim cùng tên, đã ra rạp tháng 7/2022, là
bộ phim có chất lượng, thu hút được khán giả. Như nhà văn Di Li giới thiệu
thì truyện trinh thám Hầm tuyết của chị cũng đã được K+ ký hợp đồng mua
bản quyền, đang chuyển thể kịch bản và sẽ dựng thành phim trong thời gian
tới, v.v… Đó là những ví dụ cho thấy những hiệu ứng nghệ thuật tích cực của
truyện trinh thám Việt Nam đối với các loại hình nghệ thuật khác; đối với các
hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật những năm gần đây.
Như vậy, truyện trinh thám Việt Nam đã có sự mở rộng biên độ, tạo
được hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật tích cực. Đây là một đặc điểm nghệ thuật
khá tiêu biểu, vừa cho thấy những đặc điểm chung của thể loại truyện trinh
thám vừa thể hiện đặc điểm riêng của truyện trinh thám Việt Nam.
Tiểu kết chương 3
Truyện trinh thám Việt Nam vừa mang bản chất, đặc trưng của thể
loại truyện trinh thám nói chung vừa mang những đặc điểm riêng của Việt
Nam. Trước hết, truyện trinh thám Việt Nam luôn mang những yếu tố đặc
trưng chung của thể loại: vụ án và quá trình điều tra vụ án là trung tâm của
112
cốt truyện; thám tử - người điều tra và thủ phạm gây án là nhân vật trung
tâm; sự suy lí theo logic khoa học là phương tiện để điều tra phá án, bí mật
vụ án được tìm ra; câu chuyện được kể một cách hấp dẫn, v.v…
Ngoài những yếu tố đặc trưng chung của thể loại, truyện trinh thám
Việt Nam có những đặc điểm riêng: có sự hỗn dung, giao thoa thể loại.
Trong truyện trinh thám Việt Nam có những yếu tố truyền kì, kinh dị,
đường rừng, kiếm hiệp, v.v... Các thủ pháp nghệ thuật mang những đặc
điểm riêng của truyện trinh thám Việt Nam: đề tài, cốt truyện, nhân vật,
không gian, thời gian nghệ thuật đều rất gần gũi, thuần Việt, phù hợp với
tâm lí tiếp nhận của độc giả Việt Nam. Nhờ những yếu tố đặc trưng thể loại
kết hợp với những đặc điểm riêng và sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hiệu
quả mà truyện trinh thám Việt Nam đã có hiệu ứng thẩm mĩ-nghệ thuật tích
cực, khẳng định được giá trị của thể loại trong nền văn học Việt Nam hiện
đại.
Giá trị riêng khác, độc đáo của truyện trinh thám Việt Nam chính là ở
thể loại này có sự kết hợp giữa dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện
đại. Đây cũng là cơ sở tạo nên sức sống, sự thu hút, hấp dẫn độc giả trong
nước của thể loại truyện trinh thám Việt Nam. Đồng thời, yếu tố hiện đại
vừa giúp truyện trinh thám Việt Nam bám sát với đời sống vừa là cầu nối
để thể loại này bắt nhịp với văn chương trinh thám hiện đại thế giới, cho dù
sự phát triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam so với truyện trinh
thám thế giới vẫn còn một khoảng cách khá xa.
113
Chương 4
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Những yếu tố chi phối sự vận động và phát triển thể loại
4.1.1. Quan niệm mới về chức năng giải trí của văn học và nhu cầu
của công chúng hiện nay
Ngày nay, quan niệm mới về chức năng văn học đã trả lại cho văn học
một chức năng quan trọng nhưng bấy lâu bị lãng quên trong nghiên cứu văn
học: chức năng giải trí. Văn học không chỉ có chức năng giáo dục, chức năng
nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng giao tiếp, mà từ khởi thuỷ trong
văn học dân gian, văn học đã mang chức năng giải trí. Trong văn học viết tự
cổ chí kim, chức năng này của văn học cũng luôn luôn tồn tại, chỉ có điều
trước đây trong nghiên cứu văn học, nó chưa được gọi tên.
Thời trung đại, người ta quan niệm văn học chủ yếu là để nói chí, tỏ
lòng, giáo huấn đạo lí: “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí”. Về sau, trong
nghiên cứu lí luận văn học, người ta có nhấn mạnh đến các chức năng cụ thể
như: chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng giáo dục. Chức
năng giải trí của văn học dường như không được nhắc đến hoặc rất ít khi được
nhắc đến. Ngay trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, ở phần
Lí luận văn học, cũng không hề có chức năng giải trí của văn học, mà giới
thiệu các chức năng: 1) Chức năng nhận thức; 2) Chức năng giáo dục; 3)
Chức năng thẩm mĩ; 4) Chức năng giao tiếp.
Những năm gần đây người ta đã thừa nhận, gọi tên chức năng giải trí
của văn học một cách rõ ràng. Khi đó, giá trị giải trí của văn học được ghi
nhận và đề cao (như những chức năng khác). Và đương nhiên, một số thể loại
văn học được coi là có thế mạnh trong việc thực hiện chức năng giải trí, đem
114
lại giá trị giải trí đối với người đọc được quan tâm hơn, có điều kiện để phát
triển hơn, trong đó truyện trinh thám là thể loại tiêu biểu của văn học giải trí.
Về nhu cầu của công chúng hiện nay, truyện trinh thám đã có một lượng
độc giả khá lớn và ngày càng gia tăng. Họ bao gồm cả công chúng bạn đọc
giải trí lẫn người đọc nghiên cứu, phê bình. Đây là một yếu tố rất quan trọng
quyết định đến sự phát triển của thể loại. Bởi vì người đọc quyết định sự sinh
- tử đối với bất kì một thể loại văn học hay một tác phẩm văn học nào: tác
phẩm văn học ra đời mà không có bạn đọc thì tác phẩm ấy chỉ tồn tại dưới
dạng văn bản, không có sức sống. Nhà văn sáng tạo tác phẩm cũng nhằm
hướng đến phục vụ công chúng, nếu sáng tác ra tác phẩm mà không có công
chúng bạn đọc thì khái niệm “nhà văn” đó cũng sẽ không tồn tại. Hiện nay,
độc giả nước ta vẫn “có nhu cầu” đọc truyện trinh thám, và tất nhiên, trong đó
có truyện trinh thám Việt Nam.
Bằng sự nỗ lực và phát huy năng lực bản thân, các nhà văn trinh thám trẻ
Việt Nam đã biết tận dụng những lợi thế trong bối cảnh thời đại công nghệ
4.0 để đưa tác phẩm của mình đến bạn đọc một cách nhanh nhất, rộng nhất để
thu hút độc giả, họ kiến tạo và xác lập một thế hệ độc giả cho chính tác phẩm
của mình. Với tâm thế bình đẳng với công chúng văn học ngày nay, truyện
trinh thám trở thành một thể loại dễ kích thích bạn đọc trao đổi, thảo luận với
nhau. Và cũng từ nền tảng mạng xã hội, nhà văn có thể được nghe trực tiếp
nhiều tiếng nói phản biện, chia sẻ hoặc góp ý về nhiều khía cạnh của tác
phẩm: từ cách xây dựng nhân vật đến những tình tiết, từ cách “đánh lừa” độc
giả đến sự logic của câu chuyện, từ giọng văn và nhịp văn đến khả năng làm
tăng sự kịch tính trong truyện và tăng sự hồi hộp, xúc cảm cho người đọc,
v.v… Vì vậy, tận dụng lợi thế sự phát triển các mạng xã hội, nhiều hội nhóm
trên nền tảng công nghệ mạng xã hội có chung sở thích, có chung sự quan tâm
và có nhu cầu trao đổi, thảo luận, giới thiệu về truyện trinh thám được lập
115
nên. Trang trinh thám “https://trangtrinhtham.wordpress.com/” là của những
người thích truyện trinh thám giới thiệu truyện trinh thám mới theo các mục
rất phong phú: Đọc truyện trinh thám, Kho sách trinh thám, Trinh thám theo
nước, Trinh thám theo thể loại, Trinh thám theo đề tài, Sách đoạt giải thưởng,
Tác giả, Tác phẩm, v.v… Trang trinh thám này là trang mở, vì thế nó đã trở
thành một diễn đàn rộng, thu hút sự tham gia và tương tác sôi nổi của công
chúng bạn đọc yêu thích thể loại này. Đặc biệt, Nhóm Facebook Hội thích
truyện trinh thám có gần 40 nghìn thành viên là người Việt Nam tham gia; họ
trao đổi, thảo luận, giới thiệu, phê bình về truyện trinh thám. Sự tương tác
giữa các thành viên trong nhóm diễn ra thường xuyên, cập nhật, rất sôi nổi.
Có thể nói, họ là công chúng trung thành của truyện trinh thám nói chung và
truyện trinh thám Việt Nam nói riêng. Trên diễn đàn này, ngoài việc giới
thiệu những tác phẩm mà họ đã đọc, sự trao đổi, phê bình về tác giả, tác
phẩm, v.v… họ còn chia sẻ sự quan tâm, sự mong muốn, sự chờ đợi, sự khích
lệ, v.v… đối với truyện trinh thám nói chung và truyện trinh thám Việt Nam
nói riêng. Thông qua kênh tương tác này, các nhà văn cũng nắm bắt được nhu
cầu, thị hiếu của công chúng một cách cập nhật, kịp thời để có hướng đi phù
hợp trong quá trình sáng tạo tác phẩm trinh thám để phục vụ công chúng, qua
đó làm giàu thêm, nhiều hơn công chúng bạn đọc yêu thích tác phẩm của
mình, yêu thích truyện trinh thám. Chính lớp công chúng bạn đọc đông đảo đã
tạo ra hiệu ứng, kích thích các nhà văn sáng tác nhiều hơn, cho ra đời những
truyện trinh thám thuần Việt để trước hết phục vụ nhu cầu, thị hiếu của công
chúng trong nước.
Không những đọc sách trinh thám điện tử qua internet, trên những mạng
xã hội như facebook, zalo, hay những trang điện tử website, những blog,
v.v… hoặc những trao đổi, bình luận, chia sẻ trên những nền tảng công nghệ
này, lượng công chúng bạn đọc tiếp cận, đọc truyện trinh thám bằng cách đọc
116
truyền thống (đọc sách in) cũng rất đông đảo. Thông qua những trao đổi, giới
thiệu truyện trinh thám của thành viên các hội nhóm, các website, các blog,
v.v…; đông đảo độc giả yêu thích, say mê đọc truyện trinh thám bằng sách in,
thậm chí có nhiều người còn thích đọc và sưu tập sách trinh thám theo chủ đề,
theo tác giả, theo vùng địa lí. Gần 40 nghìn thành viên trong Nhóm facebook
Hội Thích truyện trinh thám là gần 40 nghìn độc giả trong nước trung thành,
yêu thích và thường xuyên đọc truyện trinh thám. Đây là số lượng không nhỏ,
là một lượng công chúng lớn có nhu cầu, có đòi hỏi, có chờ đợi, có thị hiếu
đọc truyện trinh thám, trong đó, họ có tình cảm và mong đợi nhiều ở truyện
trinh thám Việt Nam.
Hoạt động của các nhà sách, các nhà xuất bản hiện nay thực chất là hoạt
động kinh doanh sách. Để doanh thu có lãi, họ phải nắm bắt thị trường, nắm
bắt nhu cầu của bạn đọc đối với mỗi loại sách. Thậm chí, trước khi một ấn
phẩm sách được xuất bản để đưa ra thị trường, công tác truyền thông PR được
thực hiện khá bài bản trên các nền tảng công nghệ số. Thông qua đó, họ nắm
bắt, thống kê lượng khách hàng-độc giả để in ấn, xuất bản những loại sách
nào, cuốn sách nào đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của độc giả. Không phải ngẫu
nhiên mà trong những năm gần đây, các nhà xuất bản, các nhà sách, các công
ty sách đã xuất bản, đưa ra thị trường hàng trăm đầu sách trinh thám mỗi năm,
trong đó có truyện trinh thám Việt Nam. Điều đó cho thấy nhu cầu của bạn
đọc trong nước đối với truyện trinh thám ngày càng lớn, và cũng có nghĩa là
thể loại này đang thu hút được độc giả trong nước. Như một quy luật, có cầu
ắt có cung, độc giả có nhu cầu thì nhà xuất bản, nhà sách sẽ in và nhà văn sẽ
sáng tác để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của độc giả.
Không chỉ là độc giả thưởng thức thông thường, sách trinh thám còn thu
hút sự quan tâm của bạn đọc là công chúng làm nghiên cứu, phê bình. Họ là
đối tượng “độc giả tinh tuyển”. Những năm gần đây, truyện trinh thám đã
117
nhận được sự quan tâm ngày càng nhiều hơn của giới nghiên cứu, phê bình.
Họ có nhu cầu tìm đọc truyện trinh thám nói chung, trong đó không ít người
có nhu cầu đọc truyện trinh thám Việt Nam để thưởng thức và nghiên cứu,
phê bình. Lượng bài viết và các hoạt động nghiên cứu, phê bình truyện trinh
thám Việt Nam được đăng trên báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình; lượng
luận văn, luận án nghiên cứu về truyện trinh thám Việt Nam ngày càng xuất
hiện nhiều những năm gần đây. Không chỉ đọc, nghiên cứu tác phẩm mà
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình còn thường xuyên giao lưu, tương tác, trao
đổi với các tác giả trinh thám trong nước. Thông qua đó, họ hiểu rõ hơn về tác
giả, tác phẩm, những thành tựu và hạn chế của thể loại này để hoạt động phê
bình được tích cực hơn, hiệu quả hơn. Và như thế, những độc giả này có tác
động trở lại rất mạnh mẽ đối với hoạt động sáng tác của các nhà văn trinh
thám Việt Nam. Đồng thời, thông qua sự tương tác đó, các nhà văn trinh thám
cũng nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của công chúng, những ý kiến của giới lí
luận, phê bình văn học, từ đó có thể có những điều chỉnh khi sáng tác những
tác phẩm mới nhằm nâng cao chất lượng sáng tác, đáp ứng được nhu cầu mới
của công chúng. Vì vậy, góp phần thúc đẩy sự phát triển thể loại này trong
dòng chảy văn học dân tộc.
Tuy nhiên, công chúng truyện trinh thám Việt Nam ngày nay cũng có
những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của thể loại. Mặc dù công chúng
độc giả truyện trinh thám ngày càng tăng lên trong những năm gần đây nhưng
so với công chúng của các thể loại văn học khác như truyện ngôn tình, truyện
viễn tưởng, truyện kiếp hiệp, v.v… thì lượng công chúng của truyện trinh
thám vẫn là ít; hơn nữa, trong số lượng công chúng còn ít đấy của thể loại
truyện trinh thám thì đa phần lại là công chúng độc giả yêu thích truyện trinh
thám nước ngoài. Điều này, ở một góc độ nào đó, nó vừa là động lực thúc đẩy
vừa là rào cản quá trình phát triển của truyện trinh thám Việt Nam. Nó là
118
động lực thúc đẩy sự phát triển của thể loại này khi các nhà văn trinh thám
Việt Nam nhìn thấy tiềm năng công chúng của thể loại nhưng còn nghiêng về
truyện trinh thám nước ngoài thì họ càng phải nỗ lực hơn trong sáng tạo để có
những tác phẩm hay, đủ sức thu hút công chúng yêu thích thể loại nghiên về
phía truyện trinh thám Việt Nam. Nó là rào cản khi lượng công chúng không
nhiều, họ lại luôn đối sánh với truyện trinh thám nước ngoài (những nước có
truyền thống và thế mạnh về thể loại này) thì rất có thể sẽ làm giảm ý chí, sự
đam mê và khát vọng của các nhà văn trinh thám Việt Nam. Với bất cứ thể
loại nào, thiếu độc giả thì thể loại đó cũng khó phát triển.
4.1.2. Sự đa dạng, phong phú của chất liệu đời sống
Trước hết, bản chất của truyện trinh thám là quá trình đi tìm thủ phạm
trong các vụ án và quá trình điều tra của thám tử - người điều tra để tìm ra
hung thủ và nguyên nhân, phương thức gây án. Trong khi đó, sự đa dạng,
phong phú của đời sống xã hội ngày nay đã trở thành chất liệu đời sống rất
phù hợp với đặc trưng thể loại, có thể trở thành những đề tài, chủ đề để các
nhà văn trinh thám khai thác, viết nên những tác phẩm trinh thám vừa mang
bản chất thể loại vừa mang những đặc điểm riêng Việt Nam. Không thể phủ
nhận đời sống xã hội nước ta ngày càng phát triển, nhưng đi cùng với nó cũng
còn không ít những bất cập, hạn chế, trong đó tình hình tội phạm còn nhiều và
diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi, đòi hỏi sự đấu tranh quyết liệt, mưu trí
và khôn khéo mới có thể làm giảm được những vụ án. Nhiều vụ án rất li kì, bí
ẩn, thủ phạm thực hiện hành vi gây án một cách tinh vi, không dễ gì đấu tranh
triệt phá được, và các vụ án diễn ra ở hầu khắp các lĩnh vực đời sống. Hằng
ngày hằng giờ chúng ta vẫn được tiếp nhận từ các phương tiện thông tin đại
chúng về những vụ giết người, cướp của, bạo hành và ngược đãi trẻ em, buôn
bán trái phép chất ma tuý, buôn bán người, buôn bán hàng lậu qua biên giới,
đòi nợ thuê, v.v… thậm chí còn xuất hiện nhiều vụ thảm sát xảy ra ở nhiều
119
địa phương mà chúng ta chỉ cần gõ từ khoá các vụ án này, ngay lập tức
Google sẽ cho ta kết quả thông tin về vụ án trên các phương tiện truyền thông
số: vụ án thảm sát cả gia đình một tiệm vàng ở Bắc Giang (2011), vụ con rể
giết cả nhà vợ ở Tiền Giang (2014), vụ thảm sát 4 người trên lán rừng ở Nghệ
An (2015), vụ thảm sát 6 người xảy ra ở Bình Phước (2015), vụ thảm sát 4
người ở Yên Bái (2015), vụ thảm sát 5 người ở Thái Nguyên (2019). Có thể
thấy thủ đoạn tinh vi và nhiều tình tiết rùng rợn trong vụ án đôi vợ chồng sát
hại, đốt xác chủ nợ ở Hải Dương năm 2020 là một minh chứng về sự dã man,
phức tạp của tình hình tội phạm hiện nay mà các nhà văn có thể khai thác để
Vào khoảng 9h sáng 28/11/2020, anh C. rời nhà, nói với gia đình đến nhà
Cao Tài Năng đòi nợ. Tại căn nhà số 126 Nguyễn Thượng Mẫn, phường
Bình Hàn, TP. Hải Dương, Năng bất ngờ từ phía sau dùng gậy gỗ đánh liên
tiếp nhiều nhát trúng đầu anh C. khiến nạn nhân chết tại chỗ […]. Ngay
trong đêm, hai vợ chồng dùng ô tô chuyển xác nạn nhân ra chôn ở bờ sông
Kim Sơn, thuộc khu 9, phường Thanh Bình, TP. Hải Dương mà Năng đã
đào sẵn hố từ chiều. Để tránh người khác phát hiện, Năng ra chỗ chôn xác
nạn nhân trồng cây để che dấu vết đào bới mới […]. Tối 8/2/2021, sau
nhiều tháng gây án, lo sợ bị người khác phát hiện thi thể, Năng cùng vợ
mua khoảng 6,5 lít xăng, đào xác nạn nhân lên chất củi, gỗ rồi châm lửa
đốt. Đốt xong, vợ chồng này bỏ tro, xương của nạn nhân vào túi nylon mang
vứt nhiều nơi để phi tang [109].
viết truyện trinh thám:
Nói như nhà văn trinh thám Di Li: “Tội ác ở Việt Nam ngày càng dày
đặc hơn, man rợ hơn, tinh vi hơn, nhưng lại vì những lí do ngày càng trở nên
giản đơn hơn. Đó là xu hướng tất yếu song hành cùng với sự phát triển của
dân số, đô thị và kinh tế. Những gì tôi viết trong tiểu thuyết chỉ đơn thuần
phản ánh hiện thực mà thôi” [100].
Nhiều vụ án điển hình với sự móc nối, câu kết của nhiều cá nhân, tổ
chức để thực hiện các hành vi phạm tội một cách tinh vi nhằm qua mắt các cơ
120
quan chức năng, nghiệp vụ xảy ra mấy năm gần đây cũng cho thấy sự phức
tạp của tình hình an ninh trật tự. Chỉ riêng các đại án kinh tế, tham nhũng gần
đây cũng có thể trở thành một đề tài hấp dẫn cho các tác giả trinh thám khai
khác để viết nên những tác phẩm hấp dẫn bạn đọc, như: vụ án Công ty Nhật
Cường, vụ án Công ty Việt Á, các vụ án xảy ra ở một số bệnh viện và nhiều
CDC các tỉnh/ thành phố, vụ án xảy ra tại một số đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh
Cảnh sát biển Việt Nam và Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, các vụ án liên
quan đến các tập đoàn: FLC, Tân Hoàng Minh; vụ án “Chuyến bay giải cứu”,
v.v… Tại phiên thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực nhằm kiểm điểm, đánh giá kết quả hoạt động năm 2021 và
Trong năm 2021, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tăng cường kiểm tra,
giám sát, thi hành kỉ luật đối với 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm
trái (tăng 132 đảng viên so với năm 2020).
Trong năm 2021, cả nước đã khởi tố, điều tra 390 vụ án/1.011 bị can về các
tội tham nhũng, chức vụ. Các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ
đạo, từ sau phiên họp thứ 19 đến nay, đã khởi tố 10 vụ án/40 bị can; kết
thúc điều tra 15 vụ án/150 bị can; truy tố 16 vụ án/164 bị can; xét xử sơ
thẩm 21 vụ án/179 bị cáo, xét xử phúc thẩm 13 vụ án/74 bị cáo [107].
cho ý kiến về chương trình công tác năm 2022 của Ban Chỉ đạo đã thông tin:
Chính tính chất hình sự (gắn liền với tội phạm, sự phạm tội và hình phạt)
của các vụ án đã là chất liệu đời sống phong phú, phù hợp với bản chất thể
loại truyện trinh thám, trở thành một yếu tố tác động khiến các nhà văn trinh
thám có thể khai thác để trở thành đề tài cho sáng tác của mình để phát triển
hơn nữa thể loại này ở nước ta.
4.1.3. Đội ngũ tác giả có đam mê, khát vọng
Một trong những yếu tố được coi là thuận lợi cho sự phát triển thể loại
truyện trinh thám ở Việt Nam là năng lực và khát vọng của đội ngũ tác giả trẻ
xuất hiện gần đây. Tạm gác lại những gì chưa làm được, chúng ta cũng cần
121
ghi nhận những nỗ lực, khả năng sáng tạo và khát vọng đưa truyện trinh thám
Việt Nam phát triển với những dấu ấn riêng của các nhà văn Việt Nam. Và
thực tế đã cho thấy những tác giả trinh thám Việt Nam đầu thế kỉ XXI đã có
những đóng góp đáng kể trong việc kế thừa trinh thám trong nước ở những
giai đoạn trước, kế thừa những yếu tố độc đáo trong văn học dân tộc, tiếp thu
và tiếp biến những thành tựu trinh thám các nước để tạo ra những tác phẩm
trinh thám thuần Việt, mang dấu ấn phong cách riêng của tác giả. Chúng ta
gặp một Di Li với trinh thám kinh dị đầy ma mị, đậm chất truyền kì trong
Trại Hoa Đỏ, nhưng lại mới mẻ, hiện đại trong Câu lạc bộ số 7; một trinh
thám Giản Tư Hải đầy huyền bí gắn với văn hoá cổ xưa trong Bí mật Chăm
Pa và Minh Mạng mật chỉ, Thiên địa Hội An Nam, nhưng lại đậm chất hiện
đại trong Ổ buôn người và nhất là Âm mưu thay não, đề cập đến vấn đề môi
sinh, dịch bệnh rất thời sự trong Đại dịch kép; một trinh thám Kim Tam Long
kinh dị và ma mị trong series “truyện trắng”: Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng,
Thảm kịch trắng; một trinh thám Đức Anh kì ảo, viễn tưởng trong Tường lửa,
Thiên thần mù sương, nhưng lại rất hiện thực và logic trong Đảo bạo bệnh;
một trinh thám Nguyễn Dương Quỳnh khá chặt chẽ và lớp lang về đề tài đồng
tính trong Thăm thẳm mùa hè, v.v… Họ là thế hệ nhà văn trẻ, có khả năng
tiếp cận công nghệ hiện đại, có năng lực ngoại ngữ nên dễ dàng tiếp cận cái
mới, nhiều người biết tiếp thu, vận dụng và tiếp biến cả những lí thuyết sáng
tác mới, hiện đại vào trong sáng tác, làm cho sáng tác của họ ngày càng trở
nên chuyên nghiệp.
Những điều trên đã thể hiện năng lực của các nhà văn trinh thám trẻ, họ
có thể tiếp tục làm đầy đặn thêm cho nền văn học trinh thám nước ta. Năng
lực của họ được xuất phát, được trau dồi từ khát vọng trong nghiệp viết của
họ. Họ là những nhà văn trẻ có niềm đam mê truyện trinh thám, dám vượt qua
những thử thách, có khát vọng cống hiến cho nền văn học nước nhà bằng
122
những tác phẩm trinh thám để làm đầy thêm, làm “hồi sinh” và tạo những dấu
ấn mới ở thể loại này.
Nhà văn Giản Tư Hải (sinh năm 1977, quê ở Thanh Chương - Nghệ An,
học Đại học Kiến trúc Hà Nội, sống và làm việc ở Trung Quốc, nhưng lại có
niềm đam mê viết truyện trinh thám) từng chia sẻ: “Với riêng tôi, văn học
trinh thám là niềm đam mê, nó kì bí và lôi cuốn tôi mãnh liệt. Sau này, nếu
viết đề tài khác như lịch sử, tình yêu hay thiếu nhi, thì tôi cũng phải lồng
trong một bộ khung trinh thám mới có cảm hứng để viết" [102].
Di Li (sinh năm 1978 tại Hà Nội, học Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và Đại
học Sư phạm Hà Nội, là giảng viên Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch
Hà Nội) cũng là người thích truyện trinh thám từ nhỏ. Niềm đam mê đọc
truyện trinh thám từ nhỏ đã dẫn cô đến viết truyện trinh thám, cô chia sẻ: “Từ
hồi nhỏ, tôi hầu như chỉ đọc thể loại giả tưởng và trinh thám luôn chiếm một
vị trí trang trọng trên giá sách của tôi. Một ngày nọ, tôi nghĩ rằng mình cũng
có thể viết một cuốn như vậy và tôi bắt tay vào thử thách mới. Cứ thế, thể loại
trinh thám cuốn hút tôi cho đến tận bây giờ” [103]; “Tôi viết trước tiên vì yêu
thích đã. Tôi tin rằng người ta không thể làm tốt công việc nếu không yêu
thích việc đó. Nếu bạn đến nhà tôi, sẽ thấy giăng hàng một giá sách “khủng”
là bộ sưu tập tất cả những tiểu thuyết trinh thám Đông, Tây, kim, cổ đã lọt
vào mắt tôi. Cho đến giờ tôi vẫn có cảm giác háo hức là đi cho nhanh, làm
cho mau xong việc để còn được đọc nốt cuốn trinh thám đang dang dở.
Không có thể loại văn học nào tạo được cho tôi cảm xúc đó ngoài truyện trinh
thám” [100]; “Văn học trinh thám ở Việt Nam đã có từ trước năm 45 nhưng
đấy mới là những tác phẩm sơ khai, mang âm hưởng khai mở. Tôi thích Vàng
và máu của Thế Lữ bởi một cảm xúc đặc biệt. Nhưng nó chưa đặc thù. Điều
đó cũng dễ hiểu thôi bởi vì Châu Á không phải nơi phát triển dòng văn học
trinh thám. Và người phương Tây có lợi thế khi khoa học hình sự của họ phát
123
triển hơn. Còn với riêng tôi, đây là một sở thích. Và thích đọc gì thì tôi cũng
thích viết thứ đó. Hi vọng góp phần làm cho văn học Việt Nam trọn vẹn hơn”
[50]. Sau thành công với Trại Hoa Đỏ, khi giới thiệu Câu lạc bộ số 7, Di Li
bày tỏ: “Tôi kì vọng nó vượt trội so với Trại Hoa Đỏ. Tôi không so sánh với
tác phẩm, tác giả nào trên thế giới cả. Mong độc giả đón nhận nó như một
bước tiến của tôi. Tôi đã đầu tư công sức trong 6 năm. Nếu Trại Hoa Đỏ là
một sự thử nghiệm thì với Câu lạc bộ số 7 tôi đã hình thành rõ rệt tư duy trinh
thám, dù chưa thực sự hài lòng sau khi viết xong” [50]. Để viết nên những tác
phẩm trinh thám, hình sự, Di Li đã vượt qua không biết bao nhiêu trở ngại:
"Từ một người lơ ngơ không biết gì về hình sự, tội phạm, tôi đã phải tìm đọc
rất nhiều tài liệu như những sinh viên Đại học An ninh và Cảnh sát. Thậm chí
tôi phải tìm mua những “phao thi ruột mèo nhỏ" ở các tiệm phô-tô gần trường
cảnh sát để tìm hiểu về những kiến thức mình cần biết. Đôi khi đọc cả 1.000
trang tài liệu chỉ để viết có 3 dòng. Đến bây giờ tôi có kiến thức giống như 1
bác sĩ pháp y” [216]. Rõ ràng, với những gì nhà văn chia sẻ và bằng thực tế
những sáng tác của mình, Di Li đã cho thấy sức sáng tạo, sự kiên trì, niềm
đam mê và khát vọng của cô dành cho thể loại trinh thám Việt là rất lớn.
Đức Anh (sinh năm 1993 tại Kostroma - Cộng hoà Liên bang Nga, sống
và làm việc tại Hà Nội) lại xác định rất rõ việc viết truyện trinh thám của
mình là đến với truyện trinh thám bằng con đường thuần Việt để rèn luyện
mình: “Tôi không nghĩ mình quá phù hợp với văn học trinh thám, tuy nhiên
đây là cơ hội để tôi rèn giũa khả năng kể chuyện và tìm một lối nhỏ đi vào
văn chương. Tường lửa tôi viết với ý thức muốn tạo ra một cái gì tương tự
Dennis Lehane, mà không cần phải vay mượn chi tiết nào […]. Tôi chịu ảnh
hưởng lớn của một nhà văn mới mất là Carlos Ruiz Zafon, người đã tạo ra
những tác phẩm trinh thám mà ngay cả những độc giả không bao giờ ưa văn
học trinh thám cũng yêu thích và thán phục. Nhiều người bảo tôi viết như văn
124
học dịch chính vì đây. Sau này nhờ các phản hồi, tôi nhận ra cần phải thuần
Việt hơn. Thật may tôi cũng có vốn đọc văn học Việt không quá tệ. Đọc nhiều
văn học Việt, tôi lại càng thấy con đường của tiếng Việt mới là đúng đắn”
[214]; “Tôi lựa chọn thể loại tâm lí hồi hộp. Việt Nam rất khó có những cảnh
đuổi nhau, bắn nhau ầm ầm như trinh thám Mĩ. Khi đã chọn được thể loại, tôi
sẽ tìm các tác giả gây cảm hứng cho mình. Tôi chịu ảnh hưởng của Melinda
Leigh hay Dennis Lehane. Chúng ta đã biết tới Dennis Lehane qua một số tác
phẩm như Đảo kinh hoàng đã được chuyển thể thành phim. Ngoài ra, có một
số tác phẩm khác dạy cho tôi cách đan xen thời gian trong các cảnh, ví dụ
Jeffery Deaver, còn một số tác giả khác lại dạy cho tôi cách xây dựng nhân
vật thám tử như là Robert Dugoni” [77].
Là người ít “tuyên ngôn nghệ thuật” khi viết truyện trinh thám, ít nói về
quá trình sáng tác và những tác phẩm trinh thám của mình nhưng Kim Tam
Long đã cho thấy sự “bén duyên” một cách tình cờ với truyện trinh thám và
đã theo đuổi nó với mong muốn tạo được dấu ấn đậm nét trong trinh thám
Việt. Bằng một series “truyện trắng” liên tiếp ra mắt bạn đọc trong một thời
gian ngắn gần đây, từ năm 2018 đến nay, cứ cách một năm thì tác giả này lại
cho ra đời một truyện trinh thám (Mặt nạ trắng, 2018; Ẩn ức trắng, 2020;
Thảm kịch trắng, 2022), đang viết truyện trinh thám kinh dị Bí ẩn đêm trăng
huyết, đã cho thấy niềm đam mê theo đuổi thể loại này của nhà văn.
Nhà văn Nguyễn Xuân Thủy, sinh năm 1977 tại Phú Thọ, là tác giả của
tiểu thuyết Sát thủ Online – tác phẩm đoạt Giải A cuộc thi của Bộ Công an, đã
được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập cùng tên, phát sóng trên
VTV3. Mới đây nhất, anh đã tiếp tục trở lại với đề tài tâm lí hình sự bằng tiểu
thuyết Có tiếng người trong gió, cuốn sách vừa ra mắt đã gây chú ý bởi giọng
văn kể chuyện và lần đầu tiên nạn mổ sống cướp tạng được đưa vào tiểu
thuyết Việt Nam. Nguyễn Xuân Thuỷ tâm sự: "Tôi hay đi các nhà tù, trại
125
giam để tìm ra những cốt truyện, ở những nơi đó tôi chứng kiến nhiều cảnh
rất xót xa, nhìn những em nhỏ vị thành niên đeo cặp kính cận kể về hành động
phạm tội của mình rất hồn nhiên – “Sống trong thế giới ảo, giết người ở thế
giới thật”. Tôi luôn muốn tìm kiếm sự thánh thiện trong sâu thẳm của mỗi con
người, dù họ là tội phạm giết người" [216]. Nguyễn Xuân Thủy cũng là nhà
văn trăn trở đào xới những hiện thực xã hội nhức bỏng đang là tâm điểm chú
ý của cộng đồng. Trong Sát thủ Online và Có tiếng người trong gió, thủ pháp
khai thác tâm lí nhân vật được coi là điểm mạnh của tác giả. Nguyễn Xuân
Thủy khẳng định: “Viết tiểu thuyết trinh thám hình sự cũng giống như việc
anh phải làm “thám tử” cho chính những trang viết của mình” [216].
Nhà văn Nguyễn Đình Tú là tác giả của 3 tiểu thuyết hình sự trong số
hơn chục đầu sách đã phát hành: Hồ sơ một tử tù (được chuyển thể thành 11
tập phim trong series Cảnh sát hình sự), Phiên bản (được chuyển thể thành
phim nhựa Hương Ga) và mới đây nhất là Cô Mặc Sầu. Anh từng được báo
chí gọi là "nhà văn của dòng tiểu thuyết tội phạm học". Theo anh, tác phẩm
trinh thám là sự hư cấu dựa trên các nhân vật ngoài đời: "Nhà văn phải có sự
sáng tạo trong tác phẩm để nhân vật ngoài đời trong truyện vừa có những nét
tương đồng lại vừa có nét khác lạ. Nhà văn luôn dựa trên những nhân vật có
thật để hư cấu nên những câu chuyên […] Tôi yêu thích các hoạt động phòng
chống tội phạm nói chung, công việc phá án nói riêng, bởi nó hội tụ đủ các
yếu tố thiện - ác, tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, anh hùng, bội phản, hỉ, nộ, ái, ố,
v.v... của cuộc đời, xét cho cùng đó chính là những mối quan hệ cốt lõi mà
muôn đời con người và văn học quan tâm. Với một nhà văn chuyên nghiệp thì
mọi đề tài chỉ là cái cớ để họ cầm bút trải lòng mình về cuộc đời này thôi”
[216]…
Qua đó có thể thấy, ngoài năng lực, phẩm chất, sự hiểu biết, trình độ
ngoại ngữ làm nên năng lực nhà văn, các nhà văn trinh thám Việt Nam hiện
126
nay còn có những khát vọng, niềm say mê với thể loại này. Đây là một tiền
đề, một yếu tố quan trọng góp phần tác động đến sự phát triển thể loại truyện
trinh thám Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc dù đội ngũ sáng tác truyện trinh thám ở Việt Nam hiện
nay có nhiều hơn so với giai đoạn trước, họ có năng lực, có đam mê và khát
vọng nhưng nhìn chung vẫn còn thưa mỏng; đối với một số tác giả, viết trinh
thám vẫn là quá trình dò đường. Đa số các tác giả trinh thám Việt Nam hiện
nay là những tác giả trẻ, sự trải nghiệm còn ít; vốn sống và tri thức về pháp y,
pháp lí, hình sự, tội phạm học, tâm lí học có phần còn hạn chế; họ không
mạnh về tư duy logic, tư duy duy lí, v.v... mà thể loại truyện trinh thám lại
luôn đòi hỏi điều đó, coi đó là những yếu tố hàng đầu để viết được tác phẩm
trinh thám thành công, hấp dẫn. Đây là rào cản không nhỏ đối với việc thực
hiện đam mê và khát vọng sáng tác của các nhà văn trinh thám Việt Nam hiện
nay. Không những thế, đối với các nhà văn trinh thám Việt Nam, việc Việt
hóa một thể loại văn học thế mạnh của phương Tây là một việc làm không hề
dễ. Mà nếu không Việt hóa được thì truyện trinh thám Việt Nam sẽ trở nên
mờ nhạt, vừa thiếu hấp dẫn vừa thiếu bản sắc riêng, không thể phát triển và
hội nhập với truyện trinh thám thế giới.
4.1.4. Sự phát triển của báo chí, kênh phát hành và một số loại hình
nghệ thuật gần gũi với truyện trinh thám
Ngày nay, báo chí, truyền thông phát triển nên bất kì một sự kiện nào,
thậm chí là đa số sự việc diễn ra trong đời sống xã hội đều được phản ánh một
cách nhanh nhạy; trong đó, các sự kiện văn hoá, văn học, nghệ thuật cũng
được phản ánh đậm nét. Sự phát triển của báo chí, truyền thông có sức tác
động mạnh mẽ đối với đời sống xã hội nói chung và đối với văn học nói
riêng, trong đó có truyện trinh thám.
127
Sự phản ánh cập nhật của báo chí về những vụ án có thể là một nguồn
thông tin hữu ích để các nhà văn hình thành ý tưởng viết truyện trinh thám
của mình. Sự phản ánh của báo chí về các sự kiện ra mắt sách trinh thám, toạ
đàm hay hội thảo về truyện trinh thám diễn ra trong thời gian vừa qua tạo sự
chú ý nhiều hơn của công chúng đến thể loại này.
Tác phẩm truyện trinh thám và những bài viết lí luận, phê bình về thể
loại truyện trinh thám nói chung, truyện trinh thám Việt Nam nói riêng được
giới thiệu, được in trên báo, tạp chí là nguồn cổ vũ, khích lệ các nhà văn Việt
Nam viết truyện trinh thám.
Trong thời đại giao lưu và hội nhập quốc tế, thời đại công nghệ thông tin
phát triển, thời đại số với sự bùng nổ thông tin, nhiều ứng dụng của công nghệ
4.0 được phát huy ở tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong điều kiện đó,
tác phẩm văn học nói chung và truyện trinh thám nói riêng, và đương nhiên
có cả truyện trinh thám Việt Nam, chưa bao giờ có kênh phát hành đa dạng
như hiện nay. Ngoài những kênh in ấn và phát hành truyền thống (sách giấy),
các nhà văn viết truyện trinh thám Việt Nam đã biết sử dụng các nền tảng
công nghệ để phát hành những tác phẩm của mình, khiến những truyện trinh
thám Việt Nam đến với bạn đọc một cách nhanh chóng, rộng rãi và phần nào
tạo được “hiệu ứng” tiếp nhận của bạn đọc: những tác phẩm trinh thám Việt
Nam được số hoá, được xuất bản thành sách điện tử (ebook), được phát hành
trên các trang mạng xã hội như facebook, zalo, tiktok, hay trên các trang web
(website) khá phổ biến. Nhờ những hình thức phát hành hiện đại này, nhiều
kênh phát hành còn có khả năng cho phép bạn đọc và nhà văn tương tác trực
tiếp với nhau; bạn đọc có thể trao đổi, góp ý với nhà văn về nội dung và nghệ
thuật tác phẩm, giúp nhà văn cập nhật được nhu cầu, thị hiếu thẩm mĩ của
công chúng để có thể điều chỉnh cách viết sao cho phù hợp với thị hiếu công
chúng, làm cho tác phẩm hay hơn, hấp dẫn hơn; cho phép bạn đọc có thể tham
128
gia đồng sáng tạo vào tác phẩm; cho phép tác phẩm được “đẩy” vào những tài
khoản công nghệ để tăng lượng bạn đọc, để giới thiệu và kích thích bạn đọc
tiếp nhận tác phẩm truyện trinh thám, v.v... Đây cũng là một nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự phát triển của văn học nói chung, nhất là đối với thể loại
truyện trinh thám Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, mặc dù kênh phát hành ngày nay khá đa dạng, phong phú
trên các nền tảng công nghệ nhưng về cơ bản đó là những kênh phát hành trên
các ứng dụng mạng xã hội, không chính thống. Những kênh này ít mang đến
thu nhập cho tác giả và nhà văn ít có điều kiện vật chất để tái sáng tạo. Những
kênh, những đơn vị xuất bản, phát hành chính thống thì lại rất khắt khe, họ
dựa vào nhiều tiêu chí để xuất bản, phát hành một tác phẩm trinh thám, như:
dựa vào khả năng đem lại doanh thu từ tác phẩm đem lại, mà thị hiếu và nhu
cầu công chúng sẽ quyết định lượng sách trinh thám được bán và đem lại
doanh thu cho các đơn vị xuất bản, trong khi tâm lí, văn hóa, thị hiếu, nhu cầu
của công chúng trong nước nhiều khi không dễ tiêu thụ, tiếp nhận tác phẩm
văn học mà họ cho là “ngoại lai” hoặc do cách viết táo bạo, mới mẻ kiểu
phương Tây. Ví dụ, nhà văn trẻ Nguyễn Dương Quỳnh đã từng chia sẻ quá
trình tìm “bà đỡ” cho truyện trinh thám đầu tay Thăm thẳm mùa hè của cô:
“Nhà văn Việt Nam gặp bất lợi nhiều hơn các nhà văn nước ngoài. Trong khi
xuất bản cuốn trinh thám đầu tiên, mình đã gặp nhiều nhà xuất bản. Trong đó
có một nhà xuất bản đã nói với mình là mặc dù bản thảo này, bạn biên tập rất
thích nhưng vì nó máu me nên khó mà xuất bản được. Đối với nhà văn nước
ngoài, viết như thế này không sao nhưng nhà văn Việt Nam thì sẽ có vấn đề”.
Chỉ khi nào tác phẩm truyện trinh thám Việt Nam thực sự hay, vừa mới mẻ,
hiện đại vừa gần gũi, thuần Việt thì công chúng Việt Nam mới sẵn sàng đón
nhận, và khi đó các đơn vị xuất bản mới sẵn sàng xuất bản và phát hành. Rõ
ràng, truyện trinh thám Việt Nam đã gặp những khó khăn nhất định trong xuất
129
bản, phát hành. Đây cũng là một rào cản làm cho các nhà văn trinh thám nếu
không thực sự say mê và quyết tâm thì sẽ khó theo đuổi sáng tác ở thể loại
này.
Các loại hình nghệ thuật luôn có sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn
nhau. Những năm gần đây, sự phát triển của các loại hình nghệ thuật gần gũi
như sân khấu, điện ảnh, truyền hình, v.v… cũng có tác động không nhỏ đến
thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam, đặc biệt là sự phát triển của điện ảnh.
Nhu cầu giải trí của khán giả bằng phim điện ảnh và phim truyền hình ngày
càng nhiều, trong đó có nhu cầu về phim trinh thám, hình sự. Các cơ quan
quản lí nhà nước về điện ảnh, truyền hình như Cục Điện ảnh thuộc Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch, Hiệp hội Điện ảnh Việt Nam cũng đặt ra mục tiêu
phát triển nền công nghiệp điện ảnh nhằm vừa phát triển nền điện ảnh trong
nước, vừa phát triển kinh tế dựa vào nền điện ảnh “made in” Việt Nam. Nhu
cầu về kịch bản phim đã đặt ra những đòi hỏi mới đối với văn học, trong đó
có đặt ra những đòi hỏi ở thể loại trinh thám: truyện trinh thám trở thành một
đối tượng quan tâm, tìm kiếm của các đạo diễn để chuyển thể thành phim
trinh thám, hình sự. Gần đây, một số phim cảnh sát hình sự được chuyển thể
kịch bản từ những tác phẩm trinh thám hình sự. Bộ Công an cũng thường
xuyên tổ chức cuộc thi sáng tác về đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc
sống thu hút được sự tham gia của nhiều nhà văn với nhiều tác phẩm, trong đó
có những tác phẩm trinh thám hình sự đoạt giải đã được chuyển thành thành
những bộ phim truyền hình hay, hấp dẫn khán giả; tiểu thuyết Sát thủ Online
của Nguyễn Xuân Thủy là tác phẩm đoạt Giải A cuộc thi, đã được chuyển thể
thành phim truyền hình dài tập cùng tên, phát sóng trên VTV3. Đặc biệt, tiểu
thuyết trinh thám Trại Hoa Đỏ của Di Li đã được đạo diễn Victo Vũ chuyển
thể và dựng thành phim truyền hình cùng tên, dài 8 tập, bắt đầu lên sóng độc
quyền trên kênh K+ trong năm 2022; tiểu thuyết trinh thám Câu lạc bộ số 7
130
của nhà văn Di Li mới được tái bản lần 3 và cũng đã được K+ mua bản quyền
để dựng thành phim, dự kiến sản phẩm phim Câu lạc bộ số 7 sẽ lên sóng vào
cuối năm 2023 – đầu năm 2024. Thậm chí tác giả Di Li còn được đặt hàng
viết tiểu thuyết trinh thám Hầm tuyết và cô cũng đã bán xong bản quyền ngay
từ khi viết chương đầu tiên để chuyển thể và dựng thành phim, v.v… Đó là
những minh chứng cho thấy sự phát triển của ngành công nghiệp văn hoá nói
chung, công nghiệp điện ảnh nói riêng đã có tác động trực tiếp, thúc đẩy sự
phát triển của thể loại truyện trinh thám ở nước ta.
Ở thời đại phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kĩ thuật, giao lưu
và hội nhập quốc tế ngày nay, ngành công nghiệp văn hoá được quan tâm và
đầu tư phát triển để góp phần quan trọng vào việc xây dựng đời sống văn hoá,
kinh tế, xã hội, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân.
Trong xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá, các loại hình nghệ
thuật có xu hướng liên kết chặt chẽ, góp phần thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Nhiều sản phẩm văn hoá được xây dựng trên cơ sở kết hợp sáng tạo nhiều loại
hình nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, mĩ thuật, hội hoạ, văn học, v.v… Do
đó, sự phát triển của công nghiệp văn hoá giải trí đã trở thành tiền đề, động
lực phát triển của thể loại truyện trinh thám – một loại hình văn học có thế
mạnh về thực hiện chức năng giải trí – để thể loại này tham gia vào chuỗi sản
xuất, cung ứng sản phẩm công nghiệp văn hoá giải trí, góp phần phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Đón bắt cơ hội này, một số nhà văn
trinh thám đã liên kết với một số cá nhân, tổ chức, đơn vị để viết, phát hành,
đưa tác phẩm trinh thám của mình vào quá trình sản xuất, cung ứng đó; thậm
chí nhận đặt hàng tác phẩm trinh thám để cung cấp cho các đối tác sản xuất
sản phẩm công nghiệp văn hoá là những bộ phim trinh thám, hình sự. Sự liên
kết giữa nhà văn trinh thám Di Li và những bản hợp đồng với các nhà sách,
các đơn vị in, phát hành truyện trinh thám, với các nhà làm phim, với đơn vị
131
sản xuất phim về bản quyền tác phẩm trinh thám để tạo ra những bộ phim
trinh thám, hình sự ăn khách, hấp dẫn người đọc, người xem như trên đã nói
là một ví dụ tiêu biểu về tiềm năng và chiều hướng phát triển của thể loại
truyện trinh thám Việt Nam.
4.1.5. Sự giao lưu, hội nhập quốc tế
Như ở những phần trên đã trình bày, sự ra đời truyện trinh thám Việt
Nam đầu thế kỉ XX, về bản chất, là kết quả của sự tiếp xúc, giao lưu, tiếp thu,
tiếp biến văn hoá, văn học trinh thám phương Tây kết hợp với sự phát huy
truyền thống văn hoá, văn học phương Đông và truyền thống văn hoá, văn
học trong nước. Cái nôi của thể loại trinh thám hiện đại là phương Tây, thể
loại này xuất hiện và trở thành trào lưu văn học trên thế giới trước khi nó ra
đời ở nước ta hàng thế kỉ. Nhờ có truyện trinh thám của các nước từ thế kỉ
XIX mới có truyện trinh thám Việt Nam ở đầu thế kỉ XX. Như thế, sự ra đời
truyện trinh thám Việt Nam là kết quả của sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá, văn
học phương Tây, dù là bằng con đường tự nguyện hay cưỡng bức.
Ngày nay, thể loại truyện trinh thám vẫn đang phát triển mạnh ở các
nước phương Tây như: Anh, Mĩ, Pháp; hay ở các nước châu Á như: Nhật,
Trung Quốc, v.v… Trong bối cảnh giao lưu hội nhập quốc tế của Việt Nam
ngày càng sâu rộng, nhiều truyện trinh thám kinh điển nước ngoài trước đây
có điều kiện thuận lợi để được in, tái bản ở nước ta, và đặc biệt là nhiều tác
phẩm trinh thám mới của các tác giả đương đại ra đời, được in và quảng bá
mạnh mẽ ở Việt Nam. Chính sự giao lưu hội nhập quốc tế của nước ta hiện
nay là điều kiện rất thuận lợi để các nhà văn Việt Nam một lần nữa được trao
đổi, kế thừa, tiếp thu và tiếp biến những tinh hoa văn học trinh thám hiện đại
của các nước để viết nên những tác phẩm trinh thám vừa hiện đại vừa mang
bản sắc Việt Nam. Đồng thời, không khí “nhộn nhịp” của truyện trinh thám
các nước đã tạo được hiệu ứng, sức tác động mạnh mẽ, tạo cảm hứng và khơi
132
dậy khát vọng sáng tạo cho các nhà văn trinh thám Việt Nam: mong muốn
sáng tạo được những tác phẩm trinh thám hay, vừa để khẳng định sự đóng
góp của thể loại vào tiến trình phát triển của văn học nước nhà, vừa để tạo ra
các tác phẩm trinh thám Việt Nam đủ sức vươn ra ngoài lãnh thổ để hoà nhập
vào nền văn học trinh thám thế giới. Cho dù chưa biết khi nào chúng ta mới
sáng tạo được những tác phẩm trinh thám Việt Nam đủ giá trị để sánh vai, hoà
cùng nền trinh thám thế giới nhưng những mong muốn, những khát vọng đó
của các nhà văn trinh thám Việt Nam là cần thiết, là tiền đề cho một thể loại
văn học phát triển.
Có thể nói, hiện nay, với tinh thần đổi mới và hội nhập, một mặt, chúng
ta đã hội nhập với văn học thế giới; mặt khác, chúng ta có điều kiện thuận lợi
trong việc nghiên cứu, dịch thuật, tiếp thu, vận dụng các lí thuyết nước ngoài
vào Việt Nam. So với những thời kì trước, chúng ta có cơ hội để tiếp xúc, tiếp
thu đầy đủ hơn, hệ thống hơn các lí thuyết văn học nước ngoài, nhất là các lí
thuyết ở các nước Âu - Mĩ hiện đại, tạo nên sự phong phú, đa dạng cho hệ
thống lí thuyết văn học, nghệ thuật ở Việt Nam. Trong khi đó, đội ngũ sáng
tác truyện trinh thám hiện nay có khả năng ngoại ngữ, có tư duy hiện đại nên
họ ngày càng chuyên nghiệp trong sáng tác, họ biết tiếp nhận những lí thuyết
sáng tác và vận dụng nó vào trong quá trình sáng tác của mình. Chính những
lí thuyết sáng tác hiện đại, hậu hiện đại đã cho phép các nhà văn trinh thám
Việt Nam có những cách lí giải vấn đề mới mẻ, hiện đại, phi truyền thống mà
vẫn thuyết phục, vẫn hấp dẫn được bạn đọc ngày nay. Và chính sự tiếp thu,
vận dụng các lí thuyết văn học hiện đại, hậu hiện đại có thể sẽ giúp cho truyện
trinh thám Việt Nam vừa mang bản sắc dân tộc vừa hiện đại, vừa góp phần
hiện đại hoá văn học nước nhà vừa đưa thể loại này đến gần hơn với nền văn
học trinh thám thế giới.
133
Mặc dù vậy, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập văn hóa, văn học, nghệ
thuật ngày nay, truyện trinh thám Việt Nam chịu sự cạnh tranh của nhiều thể
loại văn học, nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều hình thức giải trí khác, và với
chính truyện trinh thám nước ngoài. Công chúng tiếp nhận văn học, nghệ
thuật với nhiều mục đích khác nhau: từ nhu cầu giải trí đến nhu cầu nhận
thức, nghiên cứu, v.v… và họ có nhiều lựa chọn đối tượng thưởng thức để
đáp ứng nhu cầu của bản thân. Thị trường văn học rất đa dạng và phong phú
về thể loại, cả văn học trong nước và văn học nước ngoài; chỉ tính riêng văn
xuôi thì công chúng cũng có quá nhiều tác phẩm thuộc đủ các thể loại để lựa
chọn: từ truyện lịch sử, truyện dã sử đến truyện kinh dị, truyện tâm linh; từ
truyện ngôn tình, truyện võ hiệp đến truyện tâm lí, truyện hình sự, v.v… Ngay
ở thể loại truyện trinh thám thì chúng ta cũng thấy truyện trinh thám nước
ngoài tràn ngập trên kệ của các nhà sách. Cùng với văn học, nhiều loại hình
nghệ thuật phát triển nhanh chóng và hiện đại, dễ tiếp nhận; nhiều hình thức
giải trí hấp dẫn đối với công chúng, nhất là lớp công chúng trẻ. Phim điện ảnh
phong phú, đa dạng thể loại, đề tài, cả phim trong nước và phim nước ngoài
được phổ biến rộng rãi từ rạp chiếu phim đến các nền tảng ứng dụng, phim
được phổ biến thông qua các nhà phát hành phim trên các nền tảng ứng dụng
trực tuyến như Netflix, Amazone, Disney, Pops, iQiyi, v.v... Âm nhạc cũng
đủ thể loại: từ nhạc dân gian, nhạc đồng quê đến những thể loại hiện đại du
nhập như Pop, Rock, Jazz, Blues, Dance, v.v… mà công chúng có thể thưởng
thức ở mọi lúc, mọi nơi: từ nhà hát đến các sân khấu ngoài trời, trên các nền
tảng công nghệ số trực tuyến; từ những đĩa nhạc đến các file lưu phát trên
máy tính hay qua USB hoặc các chương trình âm nhạc trên truyền hình.
Những game show giải trí xuất hiện dày đặc trên các đài truyền hình từ trung
ương đến địa phương. Có thể nói, để giành được công chúng cho truyện trinh
thám Việt Nam trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế, có sự cạnh tranh
134
khốc liệt với truyện trinh thám nước ngoài, với các thể loại văn học khác, với
các loại hình nghệ thuật khác và với các hình thức giải trí khác, v.v… là điều
rất khó khăn và không phải nhà văn trinh thám Việt Nam nào cũng đủ sự kiên
trì, nhẫn nại, nỗ lực, say mê, yêu thích và trường sức theo đuổi thể loại sáng
tác truyện trinh thám để góp phần vào sự phát triển thể loại này trong tương
lai.
4.2. Xu hướng vận động, phát triển của thể loại
Văn học luôn có quy luật vận động của nó. Thời đại nào thì văn học đấy.
Đối với mỗi thể loại văn học cũng vậy, nó chịu ảnh hưởng từ sự vận động
khách quan của bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hoá, văn học của thời đại, của
dân tộc. Truyện trinh thám Việt Nam đã phát triển qua các giai đoạn với
những bước thăng trầm, vận động, biến đổi trong nền văn học Việt Nam hiện
đại. Trên cơ sở tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình vận động, phát
triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam hiện nay, khảo sát thể loại
truyện trinh thám Việt Nam với những tác giả, tác phẩm trinh thám đương đại
tiêu biểu, chúng tôi nhận thấy từ đầu thế kỉ XXI đến nay, thể loại này đã và
đang vận động, phát triển sôi nổi hơn và có nhiều tiềm năng để phát triển
trong tương lai. Có thể nhận thấy một số xu hướng vận động và phát triển của
truyện trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay, và cũng là khả năng
xu hướng vận động của thể loại này trong những năm tới, đó là:
4.2.1. Xu hướng truyện trinh thám kinh dị
Đầu thế kỉ XX, truyện trinh thám ra đời ở Việt Nam trên cơ sở tiếp thu,
phỏng theo mô hình truyện trinh thám truyền thống phương Tây, kết hợp với
việc tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá, văn học phương Đông nói chung và văn
hoá, văn học Việt Nam nói riêng. Truyện trinh thám Việt Nam ra đời và phát
triển rực rỡ ở giai đoạn trước 1945 với ba loại chính là truyện trinh thám lãng
mạn, truyện trinh thám suy luận, truyện trinh thám kinh dị. Tuy nhiên, do bối
135
cảnh lịch sử đất nước có sự thay đổi trong các giai đoạn khác nhau mà truyện
trinh thám Việt Nam cũng có sự vận động biến đổi từ mô hình truyện trinh
thám truyền thống sang dạng truyện tình báo, truyện phản gián, truyện điều
tra-vụ án ở giai đoạn 1945-1986.
Từ 1986 đến nay, trong một bối cảnh văn học mới, các tác giả văn học
trinh thám đã tiếp tục kế thừa truyện trinh thám truyền thống trước 1945, phát
triển theo nhiều xu hướng, trong đó có xu hướng kế thừa truyện trinh thám
kinh dị và mô hình truyện trinh thám truyền thống. Không còn là những
truyện tình báo, truyện phản gián, điều tra-vụ án như ở giai đoạn 1945-1986,
truyện trinh thám Việt Nam từ 1986 đến nay đã trở lại với mô hình truyện
trinh thám truyền thống: vụ án (thường có cái chết) - quá trình điều tra của
thám tử-người điều tra - bí mật về vụ án được làm sáng tỏ (hung thủ, nguyên
nhân, cách thức gây án) một cách thuyết phục. Đặc biệt, từ đầu thế kỉ XXI
đến nay, truyện trinh thám Việt Nam có xu hướng phát triển truyện trinh thám
kinh dị, đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân đã khẳng định trong
Truyện trinh thám – Một thể loại văn học: “Gần đây, truyện trinh thám Việt
Nam bắt đầu trở lại theo xu hướng trinh thám kinh dị với tên tuổi của Di Li
(Nguyễn Diệu Linh): Trại Hoa Đỏ, 2009; Câu lạc bộ số 7, 2016… Xu hướng
này cho thấy truyện trinh thám Việt Nam đã hội nhập trở lại với thế giới để
duy trì và phát triển một thể loại truyện trinh thám hiện đại” [49]. Trại Hoa
Đỏ (Di Li) có sự xuất hiện lần lượt cái chết của những người trong gia đình
họ Quách, cái chết của người vợ cả của Lưu và cái chết của Sương ở trại Hoa
Đỏ, nơi nghỉ dưỡng của vợ chồng Trần Hoàng Lưu và Diên Vĩ; cảnh sát hình
sự Phan Đăng Bách đã tiến hành điều tra, nhiều tình tiết đánh lạc hướng điều
tra của anh, nhưng cuối cùng, kết truyện là kết quả Phan Đăng Bách điều tra
ra hung thủ không là ai khác mà chính là Trần Hoàng Lưu – chồng của Diên
Vĩ: vì tham của, tin vào tương truyền chỉ cần hiến tế cô gái đồng trinh nhà họ
136
Quách thì sẽ tìm được kho báu nhà họ Quách, Lưu đã giết người nhà họ
Quách, giết vợ cả, giết Sương để che giấu thân phận bản thân. Câu lạc bộ số 7
(Di Li) mở ra bằng sự mất tích và cái chết của bảy cô gái xinh đẹp, họ có
chung đặc điểm là trước khi chết thì những cô gái này đều lên chiếc xe taxi
hãng Hoa Sen. Cảnh sát hình sự Phan Đăng Bách cùng đồng nghiệp lần theo
dấu vết từ các tài khoản mạng xã hội bí ẩn, dần tiếp cận, tìm ra manh mối về
một hội kín gồm những thành viên tự xưng theo tên của người nổi tiếng như
Đức Phật, Chúa Jesus, Isaac Newton, Chopin, Immanuel Kant, v.v..., nguyên
nhân sâu xa cái chết của bảy thiếu nữ dần được hé lộ, hung thủ cuối cùng
cũng lộ diện, tội ác gây ra bởi tên giáo chủ cùng giáo phái của hắn có tư tưởng
sai lầm, cho rằng ái tình không tồn tại trên thế giới, tình dục là một thứ bẩn
thỉu cần phải thanh lọc nên bọn chúng dựng lên một thánh nhân trinh nữ từ
những bộ phận khác nhau của các cô gái, dẫn đến sự sát hại bảy cô gái trẻ.
Cùng với Di Li là Kim Tam Long với Mặt nạ trắng, là Đức Anh với Đảo
bạo bệnh, v.v… Mặt nạ trắng (Kim Tam Long) cũng bắt đầu câu chuyện
bằng những án mạng xảy ra: cái chết của vợ chồng người thợ rèn tên Ơn, rồi
lần lượt ba gã gây ra vụ án mạng đó cũng bỏ mạng bởi nhiều nhát búa đập nát
đầu. Sự xuất hiện người đeo mặt nạ trắng thoắt ẩn thoắt hiện khiến dân làng
tin rằng đó là hồn ma người thợ rèn tên Ơn quay trở lại báo thù. Mấy chục
năm sau, những vụ án mạng lại xảy ra với cái chết của Giang, vợ chồng ông
Thanh, Vương, xác các nạn nhân được tìm thấy vẫn mang đặc điểm: cái đầu
bị đập vỡ nát, nạn nhân vẫn là người liên quan đến ba gã đàn ông năm xưa đã
sát hại vợ chồng ông thợ rèn tên Ơn. Đang sống cùng gia đình ở nước ngoài,
nhân chuyến trở về Việt Nam làm từ thiện, Hoạ My đã quyết tâm tìm hiểu
nguyên nhân gia đình mình phải trốn chạy khỏi sự truy sát của Mặt Nạ Trắng
trong sự thấp thỏm đối mặt với sự nguy hiểm gắn với lời nguyền: “Hãy nhớ…
Ta sẽ khiến…cho các người, dòng họ…các người phải chịu…những cái
137
chết… đau đớn nhất…” [127, tr.12]. Những cảnh sát hình sự tên Quân,
Nguyên, Lương cùng đồng đội đã điều tra và phát hiện ra sự thật. Kết truyện
là sự phát hiện ra hung thủ giết chết tên Vương chính là người bác sĩ tài năng
tên Hoàng – bạn thân của Quân và Nguyên, vì thù hận mà Hoàng ẩn trong câu
chuyện đồn đoán ma mị tương truyền hồn ma dưới dạng Mặt Nạ Trắng để giết
chết Vương bằng cách dã man nhất.
Truyện Đảo bạo bệnh của Đức Anh là câu truyện về quá trình điều tra
một vụ án trên huyện đảo Đảo Thiên Đường của chiến sĩ an ninh Thanh Đức.
Xen vào câu chuyện điều tra ấy là câu chuyện về một dịch bệnh lạ đầy kinh
hãi bùng phát trên huyện đảo này. Căn bệnh do virus Phantom-X gây ra làm
nhiều người chết và ghê sợ nữa là căn bệnh này có thể khiến con người bị
biến dạng do lão hoá trong một thời gian rất ngắn khi mắc phải. Khó khăn
trong quá trình điều tra tìm manh mối và sự cản trở của dịch bệnh nhưng cuối
cùng Thanh Đức cũng điều tra ra nguyên nhân và hung thủ giết chết bà
Lường, v.v…
Những truyện trinh thám của Giản Tư Hải, Nguyễn Dương Quỳnh,
Hoàng Yến cũng đều xây dựng nhiều chi tiết, nhiều yếu tố kinh dị và theo mô
hình truyện trinh thám truyền thống như thế.
4.2.2. Xu hướng truyện trinh thám lịch sử
Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận nhiều tác phẩm viết về đề tài lịch
sử, có thể kể đến: Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái; Vũ Như Tô,
Đêm hội Long Trì, Bắc Sơn, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng;
Gươm thần Vạn Kiếp, Ấn kiếm trời ban, Cờ lau dựng nước, Uy Viễn tướng
công, Lí Công Uẩn của Ngô Văn Phú; Tám triều vua Lí; Bão táp triều Trần
của Hoàng Quốc Hải; Hồ Quý Li, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh; Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê; Sông Côn mùa lũ
của Nguyễn Mộng Giác; Thông reo Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang,
138
v.v... Trong những năm gần đây, nhiều nhà văn tiếp tục quan tâm đến đề tài
lịch sử và sáng tạo nên những tác phẩm văn học về đề tài này, góp thêm
những cách nhìn, những sự luận giải khác nhau về lịch sử như: Trần Quốc
Toản, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh; Ngô Vương của Phùng Văn Khai;
Hồ Dương của Trường An; Thiệu Bảo Bình Nguyên của Hồng Thái; Từ Dụ
Thái hậu của Trần Thùy Mai; Đức Thánh Trần, Trần Thủ Độ, Trần Nguyên
Hãn của Trần Thanh Cảnh; Hừng Đông, Nước non vạn dặm (tập 1: Nợ nước
non, tập 2: Lênh đênh bốn biển) của Nguyễn Thế Kỷ, v.v… Điều đó cho thấy
sức hấp dẫn của đề tài lịch sử đối với các nhà văn.
Trong xu hướng viết về lịch sử của văn học nói chung, thể loại truyện
trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay cũng có xu hướng viết về đề
này với những tác phẩm như: Mật mã Champa (2016), Minh Mạng mật chỉ
(2018) của Giản Tư Hải, Dưới cánh đại bàng (2022) của Hoàng Yến.
Với Mật mã Champa (2016), Giản Tư Hải khai thác những chi tiết có
thật trong lịch sử, văn hóa Champa khu thánh địa Mỹ Sơn để kể về câu
chuyện giải mã kho báu bí ẩn của người Champa cổ. Khi trùng tu khu Thánh
địa Mỹ Sơn, một nhà khảo cổ người Pháp đã phát hiện ra nhiều mật mã bằng
chữ Phạn và chữ Chăm cổ khắc trên bia đá, tiết lộ các lễ hiến tế người cùng
nhiều vàng bạc, châu báu. Trong quá trình khám phá, nhà khảo cổ Pháp đã bị
sát hại. Trước khi chết, ông đã để lại mật mã. Kỳ Phương là học trò và là đồng
nghiệp của ông, và con gái ông là Thi Nga lần theo manh mối ông để lại và
rơi vào vòng xoáy tội ác. Kỳ Phương phát hiện ra âm mưu giết nhà khảo cổ
người Pháp vừa để hiến tế thần linh vừa để ngăn chặn ông khai quật kho báu
đang bị một hội kín chiếm giữ. Kỳ Phương bị sập bẫy, Thi Nga bị bắt đưa lên
đài tế trong nghi thức man rợ. Vượt qua những hiểm nguy, họ giải mã được
những cái chết khủng khiếp của nhiều người.
139
Trên cơ sở những sự kiện có thật về kho báu của vua Minh Mạng dưới
lòng Đại Nội Huế, Minh Mạng mật chỉ (2018) kể về câu chuyện đi tìm kho
báu. Nhân vật Kỳ Phương là một kiến trúc sư yêu lịch sử, là người chuyên đi
tìm kho báu, được một người bạn dòng dõi hoàng tộc đề nghị tham gia khai
quật và giải mã một thư tịch cổ của vua Minh Mạng để tìm kho báu. Khi vào
cuộc, Kỳ Phương biết mình đang tham gia một nghi lễ bàn giao thần bí giữa
hai thế lực cổ xưa là Hội Đạo sĩ cơ mật và những hậu duệ hoàng tộc. Tuy
nhiên, lễ bàn giao không được thực hiện bởi sự xuất hiện bất ngờ của một
nhân tố bí ẩn. Kỳ Phương muốn rút khỏi đó nhưng không được, anh bị cuốn
vào cuộc đấu tranh giữa hàng loạt các thế lực đối nghịch và trở thành nhân tố
chủ chốt trong cuộc tìm kiếm kho báu. Trải qua bao gian nan, nguy hiểm, Kỳ
Hàng trăm chiến thuyền cổ xưa bọc đồng nhuốm nắng óng ánh nối tiếp
nhau tiến ra cửa biển. Kỳ Phương vẫn chưa tỉnh hẳn để tin rằng có ngày
mình lại góp sức khai quật được một di sản quý hiếm theo cách ngoạn mục
như vậy. Hạm đội Hoàng Sa trứ danh Triều Nguyễn – một kho báu lịch sử
vô giá, một di sản quân sự hiếm hoi tưởng như thất truyền đã chính thức trở
về đất mẹ [83, tr.468].
Phương đã giải mã được mật chỉ của vua Minh Mạng và tìm ra kho báu:
Dưới cánh đại bàng (2022) của Hoàng Yến là tiểu thuyết trinh thám
được hư cấu trên lịch sử, lấy bối cảnh ba mươi năm sau khi vua Lý Thái Tổ
sáng lập triều Lý, dời đô về Thăng Long. Trong trận mưa giông đầu mùa, một
vị thiền sư đã bị sét đánh chết bên dưới gốc cây gạo làng Diên Uẩn. Trên thân
cây sét đánh lộ ra bài sấm truyền giống hệt ba mươi năm về trước. Nhưng lần
này, thay vì tiên đoán sự sụp đổ của Triều Lê, bài sấm lại cảnh báo về sự lụi
tàn của triều Lý. Năm xưa, chính miệng vị thiền sư này đã loan truyền câu
chuyện bạo quân Lê Long Đĩnh, tức Ngọa Triều Hoàng đế, tàn ác róc mía trên
đầu sư phụ của ông ấy. Khắp làng Diên Uẩn bắt đầu nổi lên lời đồn Ngọa
Triều báo oán, người ta cho rằng vị thiền sư kia bị trời phạt vì đã cả gan chuốc
140
ô danh cho thiên tử. Trước nguy cơ bài sấm uy hiếp tới giang sơn Lý triều,
Thánh thượng đã sai Thái tử Nhật Tôn lập tức tới làng Diên Uẩn điều tra và
dập yên lời đồn. Sau khi Nhật Tôn và Thường Kiệt tới làng Diên Uẩn, một
loạt án mạng đã liên tiếp xảy ra. Nạn nhân hầu như đều từng cố ý hoặc vô tình
phỉ báng Ngọa Triều đế, khiến lời đồn càng lúc càng nghiêm trọng. Trong quá
trình tra án, Nhật Tôn dần nhận thấy vị Hoàng đế tiền triều hoàn toàn không
giống một hôn quân.
Đề tài lịch sử vẫn là một đề tài hấp dẫn đối với văn học nói chung và thể
loại truyện trinh thám nói riêng bởi đằng sau bức màn thời gian che phủ còn
bao nhiêu điều bí ẩn về cuộc sống của con người cần được khám phá, cần
được làm sáng tỏ bằng góc nhìn của con người thời hiện đại. Trong những bí
ẩn ấy có biết bao câu chuyện về sự chết chóc, về án mạng, về các vụ án cần
điều tra làm rõ. Vì thế, đề tài lịch sử cũng là vùng đất hứa cho các nhà văn
trinh thám khai thác để viết nên những truyện trinh thám hiện đại, lí giải
những điều bí ẩn trong quá khứ. Và cũng chính vì thế mà truyện trinh thám
lịch sử đã trở thành một xu hướng vận động và phát triển của truyện trinh
thám Việt Nam thời gian vừa qua và sẽ còn phát triển trong tương lai.
4.2.3. Xu hướng truyện trinh thám hình sự
Truyện trinh thám hình sự là một thể loại phản ánh hoạt động điều tra tội
phạm về trật tự, an ninh, xã hội của lực lượng công an. Nhân vật chính trong
truyện trinh thám hình sự không phải là các thám tử như trong truyện trinh
thám truyền thống, không phải là những điệp viên như trong truyện trinh thám
tình báo-phản gián, mà nhân vật trong truyện trinh thám hình sự là các chiến
sĩ công an, các chiến sĩ an ninh, cảnh sát. Trong đời sống xã hội hiện đại vô
cùng phong phú hiện nay luôn tồn tại song hành những vấn đề phúc tạp, mất
an ninh, an toàn, trật tự xã hội. Hàng loạt vụ án ở đủ mọi lĩnh vực vẫn xảy ra
liên tiếp trong đời sống xã hội đã tạo nên tính chất hình sự và trở thành đề tài
141
phù hợp cho thể loại truyện trinh thám khái thác. Sự phát triển loại truyện
trinh thám hình sự Việt Nam trong những năm qua là một xu hướng vận động
tất yếu, phù hợp với đời sống xã hội, bối cảnh lịch sử, bối cảnh văn học và
tính chất của thể loại. Tiêu biểu cho xu hướng truyện trinh thám hình sự có
thể kể đến Giản Tư Hải với Âm mưu thay não, Ổ buôn người; Di Li với Câu
lạc bộ số 7; Kim Tam Long với Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng, Thảm kịch trắng;
Đức Anh với Đảo bạo bệnh, v.v…
Truyện trinh thám hình sự sử dụng những thủ pháp nghệ thuật hậu hiện
đại để hoà nhập với bối cảnh mới của văn học. Trong bối cảnh văn học ngày
nay, những lí thuyết văn học nước ngoài được tiếp thu vào Việt Nam rất đa
dạng và phong phú. Một trong những lí thuyết được tiếp nhận và được vận
dụng nhiều những năm gần đây là chủ nghĩa hậu hiện đại: cả trong lí luận,
phê bình lẫn trong sáng tác văn học. Trong sáng tác văn học, những thủ pháp
hậu hiện đại như châm biếm, phân mảnh, nghịch lí, liên kết văn bản, cóp nhặt,
bóp méo thời gian, v.v… đã được vận dụng ở nhiều thể loại, nhất là ở tiểu
thuyết trong văn học Việt Nam. Đối với thể loại truyện trinh Việt Nam từ đầu
thế kỉ XXI đến nay, các nhà văn cũng tiếp thu, nhận thức và bắt nhịp với lí
thuyết hậu hiện đại, có xu hướng sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hậu hiện
đại trong sáng tác của mình. Đảo bạo bệnh (2020) của Đức Anh có kết cấu
phân mảnh với nhiều câu chuyện về căn bệnh lạ bởi virus Phantom-X gây ra
trên Đảo Thiên Đường, cướp đi sinh mạng của nhiều người, những người
sống sót thì bị biến dạng toàn bộ cơ thể. Đồng thời là câu chuyện về vụ án
xoay quanh cái chết của bà Lường khiến chiến sĩ công an trẻ tuổi Thanh Đức
phải lao vào cuộc điều tra vụ án để tìm câu trả lời: ai là người giết bà Lường,
vì sao và cách nào hung hủ giết bà ấy? Cách kể chuyện còn sử dụng thủ pháp
liên kết văn bản giữa câu chuyện trong tác phẩm của nhà văn với câu chuyện
trong các tác phẩm của mẹ nhân vật “tôi” qua hồi tưởng và kể lại của nhân vật
142
Cận Phương, tạo nên sự đan cài khó phân biệt giữa những câu chuyện trong
tác phẩm Đảo bạo bệnh (2020) của tác giả Đức Anh với tác phẩm Đảo bạo
bệnh mà nhân vật Cận Phương là người lên ý tưởng cốt truyện và mẹ nhân vật
“tôi” là người chấp bút trong tác phẩm của Đức Anh; cuối tác phẩm của nhà
văn Đức Anh là “Thư tác giả” với lời tâm sự của “tôi” nhưng “tôi” lại là
“người bạn quý” của nhân vật trong truyện là Thanh Đức, v.v… vì thế có sự
mờ nhoè giữa truyện trinh thám của Đức Anh với những truyện nằm trong tác
phẩm này. Chúng ta cũng thấy những yếu tố hậu hiện đại trong Âm mưu thay
não (2011) của Giản Tư Hải. Câu chuyện về tội ác khủng bố và bắt cóc gắn
với âm mưu táo tợn, nham hiểm và không tưởng, tưởng chừng như nghịch lí
là “âm mưu thay não” của bọn khủng bố hậu Khơ Me Đỏ. Một cuộc khủng bố
táo tợn diễn ra tại một ngôi đền cổ ở Campuchia, chiếc xe của Viện Quân y
Sisowath bị phục kích, bác sĩ đầu ngành về não của y học Việt Nam là Giáo
sư Tôn Thất Sắc trong chuyến công tác tại Campuchia có mặt trong chiếc xe
đó đã mất tích bí ẩn. Một cuộc điều tra và truy lùng ráo riết của đội đặc nhiệm
Việt Nam do Trần Phách và Hà Phan chỉ huy được tiến hành. Sau những truy
lùng và chịu nhiều tổn thất, nhóm biệt kích đã đột phá sào huyệt khủng bố,
tìm ra sự thật về âm mưu thay não: quân khủng bố hậu Khơ Me Đỏ lừa dối và
cưỡng bức nhà khoa học, bác sĩ đầu ngành về não là Tôn Thất Sắc thực hiện
cuộc phẫu thuật thay bộ não của tên trùm khủng bố Son Sen vào đầu nhà khoa
học, viên Viện trưởng Viện não Nguyễn Khoa Học để có một tên trùm khủng
bố man rợ, khét tiếng Son Sen nguỵ trang trong bộ dạng nhà khoa học
Nguyễn Khoa Học; kẻ trùm khủng bố Khoa Học - Son Sen tiếp tục cưỡng bức
Tôn Thất Sắc thực hiện cuộc phẫu thuật thay não thứ hai là thay não của con
trai hắn vào Thống tướng Hor Bunnarith với âm mưu “cấy mầm mống khủng
bố từ con trai mình vào viên Tư lệnh tối cao để thực hiện kế hoạch khủng bố
động trời của hậu Khơ Me Đỏ. Việc thay não như một câu chuyện khoa học
143
viễn tưởng, tưởng chừng là cái nghịch lí, được nhà văn hư cấu nên và liên kết
trong một diễn biến logic hợp lí, thuyết phục được bạn đọc.
Truyện trinh thám hình sự cũng khai thác tri thức liên ngành để phản ánh
sát đời sống. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học, tri thức
của loài người ở mọi lĩnh vực được tích lũy nhanh chóng theo từng ngày, từng
giờ. Nhờ đó mà loài người có một kho tri thức khổng lồ ở tất cả các lĩnh vực,
các ngành. Vì thế, trong nghiên cứu khoa học chuyên ngành, để có kết quả
nghiên cứu khách quan và khoa học nhất, trong nhiều trường hợp, người ta
phải sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành. Trong nghiên cứu văn học
cũng vậy, rất nhiều trường hợp phải sử dụng phương pháp nghiên cứu liên
ngành mới có thể cắt nghĩa, giải mã được những vấn đề, những hiện tượng
văn học một cách khoa học, khách quan và thuyết phục. Bối cảnh đời sống
của loài người có khoa học phát triển nhanh chóng, tri thức của loài người
dường như không có giới hạn. Vì thế, sáng tác văn học muốn phản ánh đời
sống xã hội, tất nhiên, cũng phải sử dụng, khai thác tri thức liên ngành để
phản ánh cuộc sống một cách hiệu quả hơn, hay hơn, hấp dẫn hơn. Đối với
thể loại truyện trinh thám thì tri thức liên ngành càng trở nên cần thiết để có
được sự chặt chẽ, logic, thuyết phục.
Trong những năm gần đây, truyện trinh thám hình sự Việt Nam có nhiều
trường hợp đã khai thác tri thức liên ngành để phản ánh đời sống một cách
hiệu quả, tạo được sự logic, thuyết phục, hấp dẫn người đọc. Ngoài những tri
thức về điều tra hình sự, tâm lí học, tội phạm học không thể thiếu trong các
tác phẩm trinh thám nói chung, hầu hết truyện trinh thám hình sự Việt Nam từ
đầu thế kỉ XXI đến nay đều sử dụng tri thức liên ngành để phản ánh đời sống.
Những tri thức về y học, sinh học, hóa học, về quân sự đan cài dày đặc trong
Âm mưu thay não (2011) của Giản Tư Hải, làm hiện lên một xã hội hiện đại,
có nhiều chi tiết được hư cấu như khoa học viễn tưởng:
144
Nếu bệnh nhân kia không đến thì cấy bộ não đang đỏ hỏn trước mặt ông
vào đâu đây? […].
Nằm trong dung dịch đặc biệt được bào chế bằng công nghệ nano, não bộ
được tăng cường sức sống khi bị tách khỏi môi trường sống truyền thống
bằng một loại hooc môn kích thích sinh trưởng và hạn chế sự huỷ hoại của
tế bào thần kinh. Tất cả hệ thống trên được kiểm soát và vận hành bởi một
siêu máy tính có độ tin cậy tuyệt đối.
Bể chứa não lại được đặt trên một giá đỡ silicon gắn hệ thống bơm máu
tưới não và được nối với một quả tim nhân tạo đặt bên ngoài […].
Công việc đêm nay của ông chỉ ráp phần não kia vào hộp sọ của một cơ thể
khác. Một núi công việc đang thách thức trước mắt, tuy nhiên, với công
nghệ vi tính hiện đại, sơ đồ mạch máu và dây thần kinh được máy tính chỉ
ra trong mô hình không gian chính xác đến na-nô-mét sẽ hỗ trợ tối đa cho
ông và các nhà vi phẫu, v.v…[82, tr.337].
Đoạn trích sau là sự vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ thuật quân sự hiện
Heng Sovan biết đội đặc nhiệm Para của đại tá Kam Va được hưởng bao
nhiêu trong ngân khố 270 triệu đô la chi cho hiện đại hoá quân đội. Chiếc
trực thăng tối tân này chỉ là một phần nhỏ của kho khí tài mà Para đang có.
[…]. Khi nhận lệnh biệt phái một phân đội 911 cho vệ binh sử dụng, chỉ huy
Heng Sova biết đại tá Kam Va hơi bất ngờ và chẳng lấy làm vui vẻ nhưng
điều đó lại chứng tỏ nguy cơ mà ông ta cảnh báo trước đây về khủng bố là
chính xác.
Trong khi Heng Sovan đang gấp rút truy bắt “tên gián điệp” có nguy cơ bị
ám sát thì cấp trên lại đột ngột triệu tập về gặp Interpol […].
Các vụ án ngày một lớn hơn, dày hơn và anh ta giật mình nghiệm ra cái rốn
của tội phạm quốc tế không phải đâu khác mà chính là Campuchia [82,
đại trong Âm mưu thay não:
tr.363-364].
Được viết trong thời gian đại dịch Covid-19 hoành hành gây những đau
thương chết chóc cho loài người, Đại dịch kép (2021) của Giản Tư Hải đã sử
145
dụng những tri thức về sinh học, về môi trường, về y học, về dịch tễ, về quân
sự, về chiến tranh sinh học, về khủng bố để phản ánh đời sống con người chịu
sự tàn phá của đại dịch kép: virus Regoon và âm mưu khủng bố của tổ chức
thánh chiến giấu mặt âm thầm gieo rắc loại virus để hủy hoại con người nhằm
bá chủ thế giới.
Mật mã Champa và Minh Mạng mật chỉ của Giản Tư Hải không chỉ viết
về đề tài lịch sử mà còn mang đậm tính chất hình sự. Trong những tác phẩm
này, tác giả cũng sử dụng dày đặc những tri thức về văn hóa, về lịch sử, về địa
Người Chăm có câu châm ngôn nổi tiếng: “Cuộc đời là một chuyến đi buôn.
Khi đi tay trắng, khi về trắng tay”; và đạo Phật cũng vậy: “Cát bụi lại trở
về cát bụi”.
“Vâng, những đền tháp, kiến trúc, điêu khắc Champa vẫn trường tồn ngạo
nghễ dưới trời cao. Họ đã đi xa nhưng niềm tin và trí tuệ vẫn gửi lại cho
hậu thế”.
“Người Champa rất lạ. Những kiệt tác nghệ thuật còn đó mà có thấy tên
tuổi nào đâu […]. Họ sáng tạo ra tất cả rồi bỏ lại tất cả đúng như tinh thần
Siva sáng chói. Những chuyến đi buôn tay trắng kia đã làm giàu cho hậu thế
[85, tr.366].
lí, về kiến trúc, nghệ thuật để điều tra và giải mã những bí mật vụ án:
Trên ô tường, hình ảnh mặt rồng dữ tợn lập tức biến mất […]. Viên trung tá
quay phắt sang Kỳ Phương hỏi gấp. “Cái gì? Anh vừa thấy cái gì?”.
Kỳ Phương chỉ vào ô tường. “Tôi cam đoan nhìn thấy một con rồng xuất
hiện chỗ này rồi biến mất”.
Phi chiếu đèn len rồi ngẩn người khi nhận ra ngay trên trần nhà có một con
rồng khổng lồ ẩn hiện trong mây gió. Ông ta không hề biết rằng đó là một
kỉ lục về bức tranh trần lớn nhất Việt Nam có tên “Long vân khế hội” do
nghệ nhân nổi tiếng từ thời Bảo Đại vẽ [83, tr.70].
Hay:
146
Và nhiều chi tiết cho thấy các tác giả sử dụng tri thức khoa học và văn
hóa, xã hội trong Câu lạc bộ số 7 của Di Li; trong Mặt nạ trắng, Ẩn ức trắng,
Thảm kịch trắng của Kim Tam Long, v.v… Có thể nói, sử dụng tri thức liên
ngành để phản ánh đời sống và làm tăng tính thuyết phục, hấp dẫn là một xu
hướng khá phổ biến của truyện trinh thám hình sự Việt Nam hiện nay.
Tiểu kết chương 4
Mặc dù còn những khó khăn, rào cản nhưng trong bối cảnh chung về lịch
sử - xã hội, văn hóa, văn học Việt Nam cũng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tích
cực cho sự phát triển thể loại này: từ sự nhận thức mới về chức năng giải trí của
văn học, sự phong phú của chất liệu đời sống, sự đam mê và giàu khát vọng của
đội ngũ nhà văn, nhu cầu ngày càng lớn của công chúng bạn đọc, đến sự phát
triển những loại hình nghệ thuật gần gũi với thể loại truyện trinh thám, sự phát
triển của báo chí và sự đa dạng kênh phát hành, sự giao lưu hội nhập quốc tế,
v.v… Đây là những điều kiện thuận lợi, tác động trực tiếp, kích thích, thúc đẩy
thể loại truyện trinh thám phát triển.
Trong bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa, văn học với rất nhiều thuận lợi, từ
đầu thế kỉ XXI đến nay, thể loại truyện trinh thám đã có sự phát triển mạnh mẽ
trở lại với sự xuất hiện đội ngũ tác giả trẻ khá đông và nhiều tác phẩm ra đời với
những xu hướng vận động, phát triển chủ yếu như: xu hướng kế thừa truyện
trinh thám kinh dị và mô hình truyện trinh thám truyền thống, xu hướng viết về
đề tài lịch sử, xu hướng truyện trinh thám hình sự sử dụng tri thức liên ngành
trong sáng tạo tác phẩm và cách tân theo lối viết hậu hiện đại. Những xu hướng
này đang vận động và có chiều hướng tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Với những đam mê, khát vọng của đội ngũ nhà văn và thực tiễn vận động,
phát triển của thể loại truyện trinh thám từ đầu thế kỉ XXI đến nay, chúng ta có
quyền hi vọng, tin tưởng về tương lai phát triển của thể loại này trong tương lai
bên cạnh những thể loại khác của nền văn học Việt Nam hiện đại.
147
KẾT LUẬN
Kế thừa những nghiên cứu đi trước, trên cơ sở nghiên cứu thể loại từ hướng
tiếp cận lịch sử văn học, chúng tôi thấy truyện trinh thám Việt Nam hiện lên như
một hiện tượng văn học đầu thế kỉ XX. Kể từ đó đến nay, thể loại này đã vận
động và phát triển theo quy luật vận động của văn học nước nhà, phù hợp với bối
cảnh lịch sử - văn hoá, xã hội, văn học dân tộc trong từng giai đoạn. Từ những
kết quả nghiên cứu một cách hệ thống để nhận diện rõ sự hình thành, quy luật
vận động và phát triển, đặc điểm, những yếu tố ảnh hưởng và xu hướng vận
động, phát triển của thể loại truyện trinh thám Việt Nam hiện nay, chúng tôi đi
đến một số kết luận sau:
1. Truyện trinh thám Việt Nam là một thể loại văn học ra đời ở nước ta từ
đầu thế kỉ XX trong bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hoá, văn học cụ thể “buổi giao
thời”. Từ một thể loại bị coi là “ba xu”, bị rẻ rúng, bị coi là “cận văn học”, truyện
trinh thám Việt Nam đã dần khẳng định được chỗ đứng, khẳng định được vị trí,
vai trò của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại, gây được chú ý và nhận
được sự quan tâm, đánh giá, ghi nhận của bạn đọc, của giới nghiên cứu, lí luận,
phê bình về những đóng góp tích cực vào quá trình hiện đại hóa nền văn học dân
tộc, góp phần làm phong phú, đa dạng hơn về thể loại trong nền văn xuôi tự sự
Việt Nam nói riêng và trong nền văn học Việt Nam nói chung.
2. Trong bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa, văn học cụ thể đầu thế kỉ XX
với sự giao thoa và chịu ảnh hưởng, tiếp thu, tiếp biến văn hoá, văn học nước
ngoài, đặc biệt là văn hóa, văn học phương Tây, kết hợp với sự kế thừa truyền
thống văn hóa, văn học phương Đông và truyền thống văn hóa, văn học dân tộc,
v.v… truyện trinh thám Việt Nam đã ra đời và nhanh chóng phát triển, định hình
được thi pháp thể loại. Sự ra đời và nhanh chóng phát triển rực rỡ ở giai đoạn
148
đầu của thể loại truyện trinh thám Việt Nam là một quy luật tất yếu trong quá
trình vận động, phát triển của nền văn học dân tộc.
3. Do ảnh hưởng của lịch sử - xã hội, văn hoá, văn học dân tộc ở những giai
đoạn khác nhau, thể loại truyện trinh thám Việt Nam đã có những bước thăng
trầm trong quá trình phát triển. Nhưng thể loại này cũng có sự vận động theo quy
luật vận động của văn học, có sự biến đổi, phát triển phù hợp với lịch sử - xã hội,
với đặc điểm, bối cảnh văn hoá, văn học dân tộc; phù hợp với nhu cầu và thị hiếu
của công chúng; phù hợp với cơ chế phát triển của thời đại trong mỗi giai đoạn
phát triển của thể loại. Trải qua hàng trăm năm vận động và phát triển, thể loại
truyện trinh thám Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp tích
cực đối với lịch sử phát triển nền văn học Việt Nam hiện đại.
4. Từ một thể loại ra đời trong sự giao thoa văn hoá với các nước, ảnh
hưởng, tiếp thu, tiếp biến truyện trinh thám phương Tây, truyện trinh thám Việt
Nam định hình được thi pháp thể loại, vừa mang bản chất, đặc trưng thể loại
trinh thám nói chung, vừa mang những đặc điểm riêng của Việt Nam. Truyện
trinh thám Việt Nam vừa thể hiện được những vụ án và quá trình điều tra vụ án
của các thám tử - người điều tra để tìm ra thủ phạm, tìm ra logic xảy ra vụ án
bằng lối kể chuyện li kì, rùng rợn, sử dụng kết hợp những thủ pháp nghệ thuật
hiệu quả, tạo được kịch tích và lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, và cuối cùng làm
hài lòng độc giả bằng sự giải thích logic, khoa học, hợp lí những điều xảy ra - đó
là sự trung thành với đặc trưng thể loại trinh thám nói chung. Nhưng truyện trinh
thám Việt Nam cũng thực sự gần gũi, quen thuộc với độc giả Việt Nam ở đề tài,
cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật thuần Việt, và nhất là nó có sự hỗn
dung thể loại với những yếu tố truyền kì, kinh dị, đường rừng, kiếm hiệp, v.v…
để có sự li kì, ma mị mang đậm chất phương Đông. Điều đó nói lên sự tương
đồng và dị biệt giữa truyện trinh thám Việt Nam với truyện trinh thám phương
Tây, với một số thể loại văn xuôi tự sự khác.
149
5. Mặc dù có những bước thăng trầm trong quá trình vận động, phát triển
nhưng thể loại truyện trinh thám Việt Nam có sức sống tiềm tàng. Với nhiều yếu
tố thuận lợi tác động như quan niệm mới về chức năng giải trí của văn học đã đề
cao giá trị giải trí của văn học; sự đa dạng, phong phú của chất liệu đời sống; đội
ngũ tác giả trẻ có đam mê, khát vọng, biết khai thác chất liệu đời sống phong
phú, bắt nhịp với đời sống văn học hiện đại trong bối cảnh giao lưu hội nhập
quốc tế, có sự cách tân, đổi mới trong cách viết; sự phát triển của báo chí, sự đa
đạng kênh phát hành và sự phát triển các loại hình nghệ thuật gần gũi, v.v… thể
loại truyện trinh thám Việt Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay phát triển trở lại với
số lượng lớn tác giả, tác phẩm, vận động theo nhiều xu hướng. Điều đó đã khẳng
định sự nỗ lực, đam mê của các nhà văn, và thể loại truyện trinh thám vẫn còn
nhiều tiềm năng phát triển trên cánh đồng văn chương Việt Nam đương đại.
Tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá, nhận định một thể loại văn học trong cả
một thế kỉ, từ khi truyện trinh thám Việt Nam ra đời cho đến nay, và dự báo
tương lai phát triển của thể loại là một điều không dễ dàng. Đã có khá nhiều
nghiên cứu, nhận định, đánh giá đối tượng này từ những hướng tiếp cận khác
nhau. Không có mục đích giải quyết được mọi vấn đề đặt ra đối với thể loại
truyện trinh thám Việt Nam, chúng tôi chỉ nỗ lực làm hiện lên diện mạo thể loại
này từ hướng tiếp cận lịch sử văn học để làm rõ quy luật vận động, các giai đoạn
phát triển, một số đặc điểm, đóng góp của thể loại truyện trinh thám Việt Nam
đối với quá trình vận động và phát triển nền văn học dân tộc. Đồng thời đánh giá
những nhân tố ảnh hưởng, những tác động tích cực và những khó khăn, rào cản
đối với sự phát triển của thể loại này để dự báo về xu hướng vận động và khả
năng phát triển của thể loại trong thời gian tới.
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Thế Bắc, Xung quanh quan niệm, nguồn gốc truyện trinh
thám và sự ra đời truyện trinh thám của Thế Lữ trong nền văn học Việt Nam,
Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 54, 2-2017, tr.57-63.
2. Nguyễn Thế Bắc, Truyện trinh thám của Thế Lữ: Truyền thống và
cách tân, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 11.2018, tr.24-34.
3. Nguyễn Thế Bắc, Nghệ thuật sử dụng nghiệp vụ báo chí và xử lý
không gian-thời gian trong truyện trinh thám của Thế Lữ, Tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 12 (574), tháng 12-2019, tr.35-43.
4. Nguyễn Thế Bắc, Sự hỗn dung - giao thoa thể loại trong truyện trinh
thám Việt Nam, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 2.2020,
tr.91-96.
5. Nguyễn Thế Bắc, Đặc điểm nghệ thuật truyện trinh thám của Thế Lữ,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3-2020, tr.106-116.
6. Nguyễn Thế Bắc, Một vài giá trị tiêu biểu của thể loại truyện trinh
thám Việt Nam, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 10.2022,
tr.96-105.
7. Nguyễn Thế Bắc, Tiềm năng cho sự phát triển thể loại truyện trinh
thám ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4-2023,
tr.119-128.
8. Nguyễn Thế Bắc, Vài thủ pháp nghệ thuật trong một số truyện trinh
thám Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 1013, tháng 5.2023, tr.97-101.
9. Nguyễn Thế Bắc, Mấy xu hướng vận động của truyện trinh thám Việt
Nam từ đầu thế kỉ XXI đến nay, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ
thuật, số 05.2023, tr.101-106.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tiếng Việt
1. Thúy Am. 1936. Anh hùng tương ngộ, Imprimerie Tân Dân Thư
Quán, Hà Nội.
2. Thúy Am. 1937. Cái hầm bí mật, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, Hà
Nội.
3. Thúy Am. 1937. Người hay ma, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, Hà
Nội.
4. Phạm Đình Ân. 2006. Thế Lữ, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
5. Đức Anh. 2019. Thiên thần mù sương, Nxb Văn học.
6. Đức Anh. 2019. Tường lửa, Nxb Hội Nhà văn.
7. Đức Anh. 2020. Đảo bạo bệnh, Nxb Công an Nhân dân.
8. Đức Anh. 2020. “Trò chơi của khiếm diện: Văn học trinh thám Việt
Nam 20 năm đầu thế kỉ XXI”, cua-khiem-dien-van-hoc-trinh-tham-viet-nam-20-nam-dau-the-ky-xxi/>, (1/7/2020). 9. Hoài Anh. 2001. Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 10. Nguyễn Kim Anh (Chủ biên). 2004. Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 11. Tuấn Anh (1925), Bí mật phi thường, S. Impr Xưa Nay, Sài Gòn. 12. Tuấn Anh (1925), Cái rương bí mật, S. Impr. Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn. 13. Yên Ba (2009), “Sách trinh thám chính trị - mảnh đất màu mỡ”, mau-mo-n2009081402285126.htm>, (23/10/2019). 152 14. Lê Huy Bắc. 2011. “Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại”, Tạp chí Khoa học, số 2, tr.39-45. 15. Bakhtin (Phạm Vĩnh Cư dịch). 1992. Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ VHTTTT-Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 16. Nhan Bảo. 2004. “Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học Việt Nam”, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu Á (từ thế kỉ XVII-thế kỉ XX) (Claudine Salmon biên soạn), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 17. Jorge Luis Borges. 2004. “Về truyện trinh thám [1/2]” (Ngô Tự Lập dịch từ tiếng Pháp), 1973880.html>, (17/10/2019). 18. Jorge Luis Borges. 2004. “Về truyện trinh thám [2/2]” (Ngô Tự Lập dịch từ tiếng Pháp), 1973877. html>, (17/10/2019). 19. Jorge Luis Borges. 2000. “Edgar Poe và truyện trinh thám”, Tuyển tập Edgar Poe, Nxb Văn học, Hà Nội. 20. Nguyễn Ngọc Cầm. 1933. Mũi tên thù, Impr. Nam Mĩ, Hà Nội. 21. Nguyễn Ngọc Cầm. 1939. Dao bang, Viễn Đông Công ti, Hà Nội. 22. Nguyễn Ngọc Cầm. 1939. Oan thù, NXB Viễn Đông, Hà Nội. 23. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Chiếc hộp sắt và chín mạng người, á Châu, Hà Nội. 24. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Món nợ kì khôi, á Châu, Hà Nội. 25. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Người thiếu nữ kì dị, á Châu, Hà Nội. 26. Hoàng Minh Châu. 1993. Bài học tình yêu, Nxb Văn học, Hà Nội. 27. Phạm Tú Châu. 2001. “Cuộc kì ngộ giữa Phạm Cao Củng và Trình Tiểu Thanh – Hai tác giả trinh thám nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số 6, tr.24-32. 153 28. Phạm Tú Châu. 2005. “Phạm Cao Củng, người đầu tiên ở Việt Nam thành danh với tiểu thuyết trinh thám”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1, tr.7-20. 29. Nam Chi. 1991. Thế Lữ, cuộc đời và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 30. Nam Chi. 2013. “Tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đầu tiên”, (19/6/2013). 31. Nguyễn Huệ Chi. 2009. Truyện truyền kì Việt Nam, Quyển ba (Tập V-VI), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 32. Nguyễn Chiến. 2001. “Bản chất tội ác và sự hình thành văn học trinh thám”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1. 33. Agatha Christie. 2002. Cái chết trên mây, Nxb Công an Nhân dân. 34. Lê Đình Cúc. 2000. “Edgar Allan Poe – nhà văn trinh thám và kinh dị xuất sắc”, Tạp chí Văn học, số 342, tr.49-56. 35. Phạm Cao Củng. 1942. Chiếc gối đẫm máu, Khuê Văn xuất bản, Hà Nội. 36. Phạm Cao Củng. 1942. Hàm răng mài nhọn, Khuê Văn xuất bản, Hà Nội. 37. Phạm Cao Củng. 1943. Một nhà trinh thám, Nxb Đời Mới, Hà Nội. 38. Phạm Cao Củng. 1945. Một cái tết rùng rợn của Kỳ Phát, Khuê Văn xuất bản, Hà Nội. 39. Phạm Cao Củng. 1945. Ông già bí mật, Khuê Văn xuất bản, Hà Nội. 40. Phạm Cao Củng. 1951. Bọn người săn ngọc, Huyền Nga xuất bản, Hà Nội. 41. Phạm Cao Củng. 1951. Hai người lên máy chém, Huyền Nga xuất bản, Hà Nội. 154 42. Phạm Cao Củng. 1997 (tái bản). Truyện trinh thám, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 43. Phạm Cao Củng. 2012. Hồi ký Phạm Cao Củng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 44. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Chiếc tất nhuộm bùn (Chiếc tất nhuộm bùn, Kho tàng họ Đặng), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 45. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Đám cưới Kỳ Phát (Đám cưới Kỳ Phát, Đôi hoa tai của bà chúa), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 46. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Kỳ Phát giết người (Kỳ Phát giết người, Bóng người áo tím), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 47. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Nhà sư thọt (Nhà sư thọt, Người một mắt), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 48. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Vết tay trên trần (Vết tay trên trần, Ba viên ngọc bích, Con ma cây vả, Ba đốt ngón tay, Ông già buôn xác chết, Buổi diễn tất niên của người hổ, Quả báo, Cái tết của người đã chết, Bát cơm siếu mẫu), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 49. Nguyễn Văn Dân. 2022. “Truyện trinh thám – Một thể loại văn học”, < http://baovannghe.com.vn/truyen-trinh-tham-mot-the-loai-van-hoc- 26251.html> (01/6/2023) 50. Ý Dịu. 2016. “Nhà văn Di Li: Viết trinh thám vì thích đọc trinh thám”, doc-trinh-tham-20160303235354862.htm> (14/04/2020). 51. SS Van Dine. 1928. “Hai mươi quy tắc viết truyện trinh thám”, (17/9/2020). 52. Conan Doyle. 2019. Sherlock Holmes toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 155 53. Đặng Anh Đào. 1994. “Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt Nam 1930-1945”, Tạp chí Văn học, số 7. 54. Đặng Anh Đào. 2001. “Nữ tác gia hiện nay và truyện trinh thám”, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện nay, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 55. Đặng Anh Đào. 2007. “Truyện trinh thám hiện đại: Hàng ngoại át hàng nội”, ngoai-at-hang-noi-i311179/>, (23/10/2018). 56. Dương Minh Đạt. 1927. Anh hùng ba mặt (Bí mật phi thường), Nxb Xưa và Nay. 57. Dương Minh Đạt. 1927. Bình vỡ gương tan, Nxb Xưa và Nay. 58. Phan Cự Đệ. 1990. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. 59. Bửu Đình. 1989 (tái bản). Cậu Tám Lọ, Nxb Tổng hợp, Tiền Giang. 60. Bửu Đình. 2001 (tái bản). Mảnh trăng thu, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh. 61. Tô Nguyệt Đình. 2002 (tái bản), Bộ áo cà sa nhuộm máu, Nxb Văn nghệ TP. HCM 62. Trịnh Bá Đĩnh. 2002. Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia. 63. Lý Đợi. 2018. “Văn học trinh thám ở Nam bộ đầu thế kỉ 20”, ork&artworkId=10705>, (14/10/2019). 64. Việt Đông. 1932. Ngọc nát hoa tươi (4 tập), Nhà in Đức Lưu Phương. 65. Việt Đông. 1932. Trường huyết chiến (4 tập), Nhà in Đức Lưu Phương. 156 66. Hà Minh Đức. 2021. Thế Lữ - Cung đàn muôn điệu tài hoa, Nxb Thuận Hoá, TP Huế. 67. Phú Đức. 1926. Châu về hiệp phố, Nxb Xưa và Nay. 68. Phú Đức. 1929. Lửa lòng, Báo Công Luận. 69. Phú Đức. 1930. Căn nhà bí mật, Báo Công Luận. 70. Phú Đức. 1930. Trường tình huyết lệ, Báo Công Luận. 71. Phú Đức. 2003 (tái bản). Tôi có tội, Nxb Tổng hợp, Hà Nội. 72. Xuân Đức. 1985. Người không mang họ, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 73. Lê Tiến Dũng-Hồ Khánh Vân. 2009. “Bửu Đình, nhà tiểu thuyết Nam Bộ”, h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/487-bu-inh-nha-tiu-thuyt-nam- b.html>, (12/6/2018). 74. Ngô Văn Giá (Sưu tầm và biên soạn). 1996. Tiếng hú ban đêm, tập truyện ngắn Thế Lữ, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 75. Đoàn Lê Giang. 2006. “Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỉ XIX đến 1945 - Thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7. 76. Hương Giang. 2020. “Tiểu thuyết trinh thám Việt: Cơ hội của các tác giả trẻ”, cua-cac-tac-gia-tre-1030690.vov>, (23/7/2020). 77. Nguyễn Hà. 2022. “Tác giả Đức Anh: 'Tôi tìm hiểu kĩ xem người Việt muốn gì?”, Toi-tim-hieu-ky-xem-nguoi-Viet-muon-gi>, (5/6/2022). 78. Nguyệt Hà. 2018. “Văn học trinh thám Việt Nam: Hồi sinh hay chìm khuất?”, Nam-Hoi-sinh-hay-c79h77im-khuat-i501001/>, (01/11/2019). 157 79. Song Hà. 2009. “Chuyên đề văn học trinh thám (Bài 3): Hướng đi mới”, n20090820082216220 .htm, (23/10/2019). 80. Trần Thanh Hà. 2004. “Truyện trinh thám từ Tây sang Đông”, Văn nghệ Công an, số 9. 81. Trần Thanh Hà. 2009. “Thời vàng son của tiểu thuyết trinh thám Việt Nam”, vang-son-cua-tieu-thuyet-trinh-tham-viet-namn20090814120154441.htm >, (23/10/2019). 82. Giản Tư Hải. 2011. Âm mưu thay não, Nxb Văn học, Hà Nội. 83. Giản Tư Hải. 2011. Minh Mạng mật chỉ, NxbThanh niên, Hà Nội. 84. Giản Tư Hải. 2011. Ổ buôn người, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 85. Giản Tư Hải. 2018. Mật mã Champa, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 86. Giản Tư Hải (2021), Đại dịch kép, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 87. Giản Tư Hải (2021), Thiên địa Hội An Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 88. Dương Quảng Hàm. 1996. “Lời giới thiệu” tập truyện ngắn Tiếng hú ban đêm, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 89. Lê Thị Đức Hạnh. 2002. “Báo chí với văn học giai đoạn 1992-1945”, Nhìn lại văn học Việt Nam Nam thế kỉ XX (Hà Minh Đức chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 90. Trần Hậu. 2005. “Một “nữ hoàng truyện trinh thám” khởi nghiệp từ ngành An ninh”, Báo Văn nghệ Công an, số 18 (118). 91. Mỹ Hiền. 2016. “Hội thảo Khoa học: Văn học trinh thám ở Việt Nam - Lí luận và thực tiễn”, aspx?categoryId= 87&itemId=41098>, (15/6/2018). 158 92. Thu Hiền. 2018. “Tại sao truyện trinh thám Việt Nam bị coi là ba xu, rẻ tiền, thấp kém?”, la-ba-xu-re-tien-thap-kem-post895285.html>, (23/10/2019). 93. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Cái chết cô ca sỹ trẻ, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai. 94. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Căn phòng khóa trái, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai. 95. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Kẻ sát nhân không bao giờ bị bắt, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai. 96. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Li-Ta xinh đẹp, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai. 97. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Nỗi ám ảnh tuổi thơ, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai. 98. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Tên sát nhân có tài mở khóa, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai. 99. Nguyễn Thanh Hoàng. 2016. Cuộc truy lùng nghiệt ngã, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 100. Lê Huệ. 2013. “Nhà văn Di Li: "Hành tung của tôi nhuốm màu trinh thám"”, toi-nhuom-mau-trinh-tham-276939.vov>, (21/12/2021). 101. Nguyễn Thị Ngọc Huệ. 2011. “Phạm trù sự thật trong tiểu thuyết trinh thám”, that-trong-tieu-thuyet-trinh-tham-3840.thml>, (23/5/2018). 102. Minh Hùng. 2022. “Những tác giả trinh thám Việt nổi bật”, (15/7/2022). 159 103. Khánh Huyền. 2022. “Di Li-nữ văn sĩ đam mê viết truyện trinh thám”, dam-me-viet-truyen-trinh-tham-696004>, (3/6/2022). 104. Khái Hưng. 1934. “Lời giới thiệu”, Vàng và máu (Thế Lữ), Nxb Đời nay, Hà Nội. 105. Lưu Thuỷ Hương. 2020. “Bốn thể loại văn chương”, (03/11/2021). 106. Dương Thị Hường. 2013. “Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc - sự dung hợp và đối kháng với phương tây trong lối viết tiểu thuyết trinh thám”, 107. Nguyễn Hưởng. 2022. “10 vụ án trọng điểm trong năm 2022, điển hình vụ Việt Á”, nam-2022-dien-hinh-vu-viet-a-20220128095944026.htm>, (5/2/2022). 108. Asami Ishimochi. 2020. Cánh cửa đóng kín, NXB Thanh Niên, Hà Nội. 109. kenh14.vn. 2021. “Nhìn lại những vụ án rúng động năm 2021: Từ giết người đốt xác man rợ ở Hải Dương đến vụ án thương tâm của bé gái 5 tuổi ở Vũng Tàu”, < https://kenh14.vn/nhin-lai-nhung-vu-an-rung-dong-nam- 2021-tu-giet-nguoi-dot-xac-man-ro-o-hai-duong-den-vu-an-thuong-tam-cua- be-gai-5-tuoi-o-vung-tau-20211218224255299.chn>, (21/12/2021). 110. Lan Khai (Trần Mạnh Tiến sưu tầm, biên soạn, giới thiệu). 2010. Lan Khai tuyển tập, Tập 1, NXB Văn học, Hà Nội. 111. Lan Khai (Trần Mạnh Tiến sưu tầm, biên soạn, giới thiệu). 2010. Lan Khai tuyển tập, Tập 2, NXB Văn học, Hà Nội. 160 112. Lan Khai (Trần Mạnh Tiến, Nguyễn Thanh Trường sưu tầm, nghiên cứu và tuyển chọn). 2004. Truyện đường rừng (Tác phẩm và chuyên khảo), NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 113. Nguyễn Vi Khanh. 2012. “Cái chết trong văn chương: từ siêu hình, lãng mạn đến kinh dị và trinh thám”, component/k2/30-nhung-goc-nhin-vanhoa/4940-cai-chet-trong-van-chuong- tu-sieu-hinh-lang-man-den-kinh-di-va-trinh-tham>, (28/10/2019). 114. Nguyễn Hoành Khung. 1973. Văn học Việt Nam 1930-1945, Tập I, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 115. Nguyễn Hoành Khung. 1989. “Lời giới thiệu”, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 116. Huỳnh Thị Hoa Kỳ. 1996. “Tiểu thuyết trinh thám”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 203. 117. Lê Kỳ. 2018. “Nhận diện truyện trinh thám Việt Nam”, vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/phe-binh-van-nghe/nhan-dien- truyen-trinh-tham-viet-nam-12735_8054.html>, (18/10/2019). 118. Lê Đình Kỵ. 1983. “Lời giới thiệu”, Tuyển tập Thế Lữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 119. Cao Kim Lan. 2020. Ma thuật của truyện kể, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 120. Nguyễn Lân. 2000. Từ điển và từ ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 121. Di Li. 2016. Câu lạc bộ số 7, Nxb Lao động, Hà Nội. 122. Di Li. 2018. Trại Hoa Đỏ, Nxb Lao động, Hà Nội. 123. Vũ Bội Liêu. 2000. Những sự gặp gỡ của phương Đông và phương Tây trong ngôn ngữ và văn chương, Nxb Văn học-Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông-Tây, Hà Nội. 161 124. Bồ Tùng Linh. 2012. Liêu trai chí dị, NXB Văn học, Hà Nội. 125. Nhị Linh. 2010. “Từ Kỳ Phát đến Nguyễn Thành Luân qua Yên Ba”, luan-qua-yen.html>, (5/10/2019). 126. Lan Lộc. 2018. “Đánh thức dòng truyện trinh thám”, 728944.htm>, (23/10/2019). 127. Kim Tam Long. 2018. Mặt nạ trắng, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội. 128. Kim Tam Long. 2020. Ẩn ức trăng, Nxb Dân trí, Hà Nội. 129. Kim Tam Long. 2012. Thảm kịch trắng, Nxb Dân trí, Hà Nội. 130. Thế Lữ. 1963 (tái bản). Lê Phong phóng viên, Nxb Ngày nay, Hà Nội. 131. Thế Lữ. 1989 (tái bản). Mai Hương và Lê Phong, Nxb Tổng hợp An Giang. 132. Thế Lữ. 1989 (tái bản). Tây đại bợm, Nxb Đồng Tháp. 133. Thế Lữ. 1996 (tái bản). Đòn hẹn-Gói thuốc lá, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 134. Thế Lữ. 1996 (tái bản). Đòn hẹn (tái bản), Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 135. Thế Lữ. 1996 (tái bản). Tiếng hú ban đêm (Tập truyện ngắn), Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 136. Thế Lữ. 1997 (tái bản). Truyện ngắn , Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 137. Thế Lữ. 1999 (tái bản). Gói thuốc lá, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 138. Thế Lữ. 2000 (tái bản). Vàng và máu, Nxb Văn học, Hà Nội. 139. Thế Lữ. 2003 (tái bản). Mai Hương-Lê Phong, Nxb Văn học, Hà Nội. 162 140. Thế Lữ. 1936. “Lê Phong làm thơ”, Tạp chí Ngày nay, Tập 24-25. 141. Nguyễn Trường Thiên Lý. 1988 (tái bản). Ván bài lật ngửa, Nxb Tổng hợp Hậu Gang 142. Hoàng Tố Mai. 2002. “Edgar Allan Poe”, Tạp chí Văn học, số 361, tr.53-60. 143. Hữu Mai. 2001. Đêm yên tĩnh, Nxb Công an Nhân dân Nxb, Hà Nội. 144. Hữu Mai. 2004. “Tôi với truyện trinh thám”, Văn nghệ Công an, số 9. 145. Hữu Mai. 2004 (tái bản). Ông cố vấn (2 tập), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 146. Nguyễn Đăng Mạnh. 1997. “Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số 5. 147. Nguyễn Hữu Hồng Minh. 2010. “Thời hoàng kim của văn chương trinh thám?”, tham-post266263.html>, (10/9/2019). 148. Lê Hoằng Mưu. 1926. Đầu tóc mượn, Impr. De.I’Union 149. Lê Hoằng Mưu. 1929. Đêm rốt của người tội tử hình (4 quyển), Nhà in Lưu Đức Phương. 150. Lê Hoằng Mưu. 1931. Người bán ngọc (4 quyển), Nhà in Lưu Đức Phương. 151. Nguyễn Phong Nam. 2015. Truyện truyền kì Việt Nam – Đặc điểm hình thái-văn hoá & lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội. 152. Phan Ngọc. 1993. “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt Nam trong giai đoạn 1932-1940”, Tạp chí Văn học, số 4. 163 153. Thy Ngọc. 2013. “Truy tìm truyện trinh thám Việt”, http://www.dilivn.com/tin-van-nghe/244-truy-tim-truyn-trinh-tham-viet-nam (21.09.2013). 154. Phạm Thế Ngũ. 1988. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Nxb Đồng Tháp. 155. Thao Nguyễn (Tuyển chọn). 2013. Thế Lữ - Cây đàn muôn điệu, Nxb Văn hoá-Thông tin, Hà Nội. 156. Vương Trí Nhàn. 2000. Những lời bàn về tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XX-1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 157. Vương Trí Nhàn (Biên soạn). 1996. Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 158. Hoàng Nhân. 1998. Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Mũi Cà Mau. 159. Trần Thị Mai Nhi. 1994. Văn học hiện đại Việt Nam - Giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 160. Nhiều tác giả. 2002. Kinh thánh trọn bộ Tân ước và Cựu ước, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 161. Võ Văn Nhơn. 2006. “Lê Hoàng Mưu – Nhà văn của những thử nghiệm táo bạo thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số 7. 162. Biến Ngũ Nhy (1918-1921), “Kim thời dị sử - Chủ nợ bất nhơn”, Mục “Mật thám truyện”, Công luận báo. 163. Biến Ngũ Nhy (1918-1921), “Một người ăn cắp bạc nhà nước”, Mục “Mật thám truyện”, Công luận báo. 164. Biến Ngũ Nhy. 1921. Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, Imp. Moderne L. Hesloury S.Moutégout Sài Gòn. 164 165. Hoàng Kim Oanh. 2012. “Thế Lữ và năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe”, (7/1/2016). 166. Thuỵ Oanh. 2016. “Văn học trinh thám Việt Nam dưới con mắt của giới chuyên môn”, con-mat-cua-gioi-chuyen-mon-post620363.html>, (13/4/2018). 167. Văn Phan. 1990. Khớp hẹn, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 168. Vũ Ngọc Phan. 1989. Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 169. Bùi Huy Phồn. 1941. Gan dạ đàn bà, Impr. Hàn Thuyên 170. Bùi Huy Phồn. 1941. Tờ di chúc của dòng họ Trần Thạch, Impr. Hàn Thuyên. 171. Bùi Huy Phồn. 1942. Mối thù truyền nghiệp, Impr. Hàn Thuyên 172. Bùi Huy Phồn. 1943. Lá thư màu thiên thanh, Impr. Hàn Thuyên 173. Bùi Huy Phồn. 1943. Món quà năm mới, Impr. Hàn Thuyên 174. Bùi Huy Phồn. 1989. Lá huyết thư, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 175. Bùi Huy Phồn. 1943. Hai giờ đêm nay, Impr. Hàn Thuyên 176. Nguyễn Như Phong. 2002. Cổ cồn trắng, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 177. Nguyễn Như Phong. 2005. Bí mật những cuộc đời, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 178. Thế Phong. 1974. Lược sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, Nxb Vàng Son. 179. Vũ Đức Phúc. 1981. “Truyện trinh thám”, Tạp chí Văn học, số 6. 180. Nguyễn Thế Phương. 1934. Chén thuốc độc, Impr. Bảo Tồn. 181. Nguyễn Thế Phương. 1934. Giọt lệ má hồng, Impr. Tín Đức thư xã. 165 182. Nguyễn Thế Phương. 1934. Khép cửa phòng thu, Impr. Phạm Đình Khương. 183. Edgar Poe. 2000 (tái bản). Tuyển tập Edgar Poe, Nxb Văn học, Hà Nội. 184. Edgar Poe. 2002 (tái bản). Tuyển tập truyện ngắn Edgar Poe, Nxb Văn học, Hà Nội. 185. Hoa Quỳnh. 2016. “Truyện trinh thám Việt Nam đang hồi sinh?”, htm>, (13/4/2018). 186. Nguyễn Dương Quỳnh. 2018. Thăm thẳm mùa hè, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 187. Claudine Salmon (Biên soạn). 2004. Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỉ XVII – thế kỉ XX), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 188. Nguyễn Chánh Sắt. 1925. Gái trả thù cha, Impr. J. Nguyễn Văn Viết. 189. Thượng Sỹ, Vũ Bằng, Ngọa Long. 1971. “Văn nghiệp Phú Đức – Tiểu thuyết gia một thời nổi tiếng ở Nam bộ”, Tạp chí Văn học, số 9. 190. Phùng Thiên Tân. 1985. Hồ sơ chưa kết thúc, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 191. Bùi Anh Tấn. 1999. Một thế giới không có đàn bà, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 192. Nguyễn Hồng Thái, Trần Hoàng Thiên Kim, Trần Thiện Khanh (2020), Sáng tạo văn học về đề tài công an nhân dân, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 193. Nguyễn Quyết Thắng. 1990. “Bình minh của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam”, Tạp chí Bách khoa, số 1, tr.44-49. 194. Đặng Thanh. 1984. Tấm bản đồ thất lạc, Nxb Thuận Hóa. 166 195. Đặng Thanh. 2003 (tái bản). X30 phá lưới, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 196. Thái Chí Thanh. 1994. Nữ hoàng đá đỏ, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 197. Thanh Niên Online. 2010. “Bỏ trống văn học trinh thám, kì ảo Việt”, < https://thanhnien.vn/bo-trong-van-hoc-trinh-tham-ky-ao-viet-post205 209.html>, (25/8/2018). 198. Nguyễn Thành. 1997. “Những đóng góp của Thế Lữ về truyện ngắn”, Tạp chí Cửa Việt, số 37. 199. Nguyễn Quang Thiều. 1995. Kẻ ám sát cánh đồng, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 200. Phan Trọng Thưởng. 2001. Văn chương - tiến trình tác giả, tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 201. Phan Trọng Thưởng. 1997. “Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong”, Tạo chí Văn học, số 7. 202. Diệp Thị Thanh Thuý. 2018. “Tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Phú Đức trong dòng chảy tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đầu thế kỉ XX”, -tham-cua-nha-van-Phu-Duc-trong-dong-chay-tieu-thuyet-trinh-tham-Viet- Nam-dau-the-ky-XX.html>, (23/10/2019). 203. Nguyễn Xuân Thuỷ. 2016. Sát thủ online, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 204. Tzvetan Todorov. 2014 (tái bản). Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch), Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội. 205. Trần Thị Trâm. 1994. “Vai trò của báo chí trong sự phát triển văn học dân tộc đầu thế kỉ XX”,Tạp chí Văn học, số 6. 167 206. Cao Vũ Trân. 2004. “Georges Simenon và tiểu thuyết trinh thám Pháp thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 10. 207. Ngọc Trung. 2014. “Tiểu thuyết trinh thám Pháp đang trỗi dậy”, (23/5/2018). 208. Nguyễn Văn Trung. 2006. “Về các loại truyện viết bằng chữ quốc ngữ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ở Việt Nam”, Văn xuôi Nam bộ nửa đầu thế kỉ XX, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh. 209. Nguyễn Đình Tú. 2002. Hồ sơ một tử tù, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 210. Nguyễn Sơn Tùng. 1984. Miền đất lạ, Nxb Lao động, Hà Nội. 211. Nguyễn Sơn Tùng. 1987. Hoa hồng trắng, Nxb Lao động, Hà Nội. 212. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Một mình nơi đất khách, Sở Văn hóa- Thông tin An Giang. 213. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Viên đạn ngược chiều, Sở Văn hóa-Thông tin An Giang. 214. Văn nghệ Quân đội. 2020. “Tác giả trinh thám Đức Anh: Như thế nghĩa là tôi đã chào sân thành công rồi!”, duc-anh-nhu-the-nghia-la-toi-da-chao-san-thanh-cong-roi-1255.html>, (12/8/2020). 215. Trần Thị Vân. 2017. “Một vài đặc điểm tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li”, dac-diem-tieu-thuyet-trinh-tham-kinh-di-cua-di-li-9917_6665.html>, (22/10/2019). 168 216. VOV. 2016. “3 tác giả truyện hình sự, trinh thám nặng lòng với công chúng”, tham-nang-long-voi-cong-chung-502867.vov>, (3/6/2022). 217. André Vanoncini. 1997. Tiểu thuyết trinh thám, Nxb Đại học Đồng tháp. 218. Thiết Vũ. 1987. Dạ khúc, Nxb Lao động, Hà Nội. 219. Hoàng Yến. 2022. Dưới cánh đại bàng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 220. Wikipedia tiếng Việt, “Tiểu thuyết trinh thám”, 221. Nguyễn Xớn. 2008. “Truyện trinh thám – nhìn từ hiện tượng”, hien-tuong.html>, (23/5/2018). 222. Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2006. “Phú Đức – Một mẫu nhà văn Nam Bộ đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, tr. 19-23. 223. Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2015. “Nghĩ về việc nghiên cứu văn học ở Sài Gòn-Nam Bộ”. Tạp chí Khoa học Xã hội (Viện KHXH Vùng Nam Bộ), số 9+10 (205+206)/ 2015, tr. 97-102. 224. Zing. 2016. “Văn học trinh thám Việt Nam: Hồi sinh hay tiếp tục yểu mệnh?”, hay-tiep-tuc-yeu-menh-a140426.html?>, (01/11/2018). * Tiếng Anh 225. Meyer Howard Abrams. 1999. A glossary of Literrary terms, Heinle & Heinle Editor. 226. Maurice Bennett. 1983. "The Detective Fiction of Poe and Borges", Comparative Literature 35:3, Duke University Press on behalf of the University of Oregon, pg. 262-275. 169 227. Hans Bertens. 1997. "The detective" International Postmodernism: Theory and Literary Practice, John Benjamins Publishing, pg. 195-203. 228. Brigid Brophy. 1965. "Detective Fiction: A Modern Myth of Violence?” The Hudson Review 18:1, The Hudson Review, 11-30. 229. John Cawelti. 1976. Adventure, Mystery and Romance: Formula Stories as Art and Popular Culture, University of Chicago Press. 230. Raymond Chandler. 1944. The Simple Art of Murder, The Atlandtic Monthli. 231. Urszula Clark. 2007. “Discourse Stylistics and Detective Fiction: a case study”. “https://core.ac.uk/download/187080000.pdf”, (03/11/2020). 232. Jerome Delamater, Ruth Prigozy. 1997. Theory and practice of classic detective fiction, Praeger Publishing House. 233. S.S Van Dine. 1928. “Twenty Rules for Writing Detective Stories Archived”, The American Magazine, September 1928. 234. S.S Van Dine. 1976. "Twenty Rules for Writing Detective Stories", The Art of the Mystery Story, ed, Howard Haycraft (New York: Bibloand Tannen). 235. Elana Gomel. 1995. "Mystery, Apocalipse and Utopia: The Case of the Ontological Detective Story”, Science Fiction Studies 22:3, SF-TH Inc, pg. 343-356. 236. Anna Huang. 1996. “The development trend of Chinese detective novel”, Journal of Tianjin Normal University, Fifth Issue, 1996. 237. Stephen Knight. 1980. Form and Ideology in Crime Fiction, Bloomington: Indiana University Press. 238. Larry N. Landrum. 1999. American Mystery and Dectective Novels: A Rerence Guide, Greenwood Publishing Group. 170 239. Ellen O'Gorman. 1999. “Detective Fiction and Historical Narrative”, Greece & Rome 46:1, Cambridge University Press, pg. 19-26. 240. Bogamil Rainov. 1975. Black novel (Русский: Черный роман), Moscow. 241. Gary Scharnhorst and Thomas Quirk. 2010. “Crime and Detective Fiction”, Research guide to American Literature Realism and Regionalism 1865-1914, Maple Press, York, pg. 32-37. 242. Stephen Soitos. 1996. The Blues Detective: A Study of African American Detective Fiction, University of Massachusetts Press. 243. William Spanos. 1972. “The detective and the boundary: some notes on the postmodern literary imagination”, Boundary 2, Duke University Press. Octobre, pg.147-168. 244. Patrick Velardi. 1989. “Plot, character & setting: a study of mystery & detective fiction”, (22/8/2019). * Tiếng Trung 245. 宋安娜, 泽新.1996.“中国侦探小说的发展趋势, 天津师大学报, 一九九六年第五期. 246. 巴拉排行榜.2019.“中国推理小说排行榜前十名每部都很经典, 发布时间, 171 PHỤ LỤC Danh mục truyện trinh thám Việt Nam dùng để khảo sát (Xếp theo thời gian tác phẩm ra đời và theo tên tác giả) 1. Biến Ngũ Nhy. 1921. Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, đăng trên Công luận báo (từ 10/1917), in thành sách năm 1921 (Imp. Moderne L. Hesloury S.Moutégout Sài Gòn) 2. Biến Ngũ Nhy. 1918-1921, Một người ăn cắp bạc nhà nước, Mục “Mật thám truyện”, Công luận báo 3. Biến Ngũ Nhy. 1918-1921. Kim thời dị sử - Chủ nợ bất nhơn, Mục “Mật thám truyện”, Công luận báo 4. Tuấn Anh. 1925. Bí mật phi thường, S. Impr. Xưa Nay 5. Tuấn Anh. 1925. Cái rương bí mật, S. Impr. Nguyễn Văn Viết 6. Nguyễn Chánh Sắt. 1925. Gái trả thù cha, :S.: Impr. J. Nguyễn Văn Viết 7. Dương Minh Đạt. 1927. Anh hùng ba mặt (Bí mật phi thường), NXB Xưa và Nay, Sài Gòn 8. Dương Minh Đạt. 1927. Bình vỡ gương tan, Nxb Xưa và Nay, Sài Gòn 9. Lê Hoằng Mưu. 1926. Đầu tóc mượn, S.: Impr. De.I’Union 10. Lê Hoằng Mưu. 1929. Đêm rốt của người tội tử hình (4 quyển), Nhà in Lưu Đức Phương, Sài Gòn (Khởi đăng trên Lục tỉnh tân văn – từ số 2076 (16/7/1925) đến số 2182 (22/11/1925)) 11. Lê Hoằng Mưu. 1931. Người bán ngọc (4 quyển), Nhà in Lưu Đức Phương, Sài Gòn 12. Bửu Đình. 2001 (tái bản, ra đời năm 1930). Mảnh trăng thu, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh. 172 13. Bửu Đình. 1989 (tái bản, ra đời năm 1931). Cậu Tám Lọ, Nxb Tổng hợp, Tỉnh Tiền Giang. 14. Phú Đức. 1926. Châu về hiệp phố, Nxb Xưa và Nay 15. Phú Đức. 2003 (tái bản, ra đời năm 1929). Tôi có tội, Nxb Tổng hợp, Tiền Giang 16. Phú Đức. 1929. Lửa lòng, Báo Công Luận 17. Phú Đức. 1930. Trường tình huyết lệ, Báo Công Luận. 18. Phú Đức. 1930. Căn nhà bí mật, Báo Công Luận. 19. Việt Đông. 1932. Trường huyết chiến (4 tập), Nhà in Đức Lưu Phương, S.96 trang 20. Việt Đông. 1932. Ngọc nát hoa tươi (4 tập), Nhà in Đức Lưu Phương 21. Nguyễn Thế Phương. 1934. Chén thuốc độc, S.: Impr. Bảo Tồn 22. Nguyễn Thế Phương. 1934. Khép cửa phòng thu, S.: Impr. Phạm Đình Khương 23. Nguyễn Thế Phương. 1934. Giọt lệ má hồng, S.: Impr. Tín Đức thư xã 24. Thúy Am. 1936. Anh hùng tương ngộ, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, HN 25. Thúy Am. 1937. Cái hầm bí mật, Imprimerie Tân Dân Thư Quán 26. Thúy Am. 1937. Người hay ma, Imprimerie Tân Dân Thư Quán 27. Nguyễn Ngọc Cầm. 1933. Mũi tên thù, H. Impr. Nam Mỹ 28. Nguyễn Ngọc Cầm.1939. Oan thù, Nxb Viễn Đông 29. Nguyễn Ngọc Cầm.1939. Dao bang, H.: Viễn Đông công ty 30. Trương Xuân. 1939. Bác sĩ Mai Anh, H.: Cấp tiến văn đoàn 31. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Chiếc hộp sắt và chín mạng người, H.: á Châu 32. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Người thiếu nữ kì dị, H.: á Châu 173 33. Nguyễn Ngọc Cầm. 1942. Món nợ kì khôi, H.: á Châu (S87.1704) 34. Bùi Huy Phồn. 1989 (tái bản, ra đời năm 1932). Lá huyết thư, Nxb Thanh Niên, Hà Nội 35. Bùi Huy Phồn. 1941. Gan dạ đàn bà, H.: Hàn Thuyên 36. Bùi Huy Phồn. 1942. Mối thù truyền nghiệp, H.: Impr Hàn Thuyên 37. Bùi Huy Phồn. 1941. Tờ di chúc của dòng họ Trần Thạch, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. 38. Bùi Huy Phồn. 1943. Lá thư màu thiên thanh, H.: Impr Hàn Thuyên 39. Bùi Huy Phồn. 1943. Món quà năm mới, H.: Impr Hàn Thuyên 40. Bùi Huy Phồn. 1943. Hai giờ đêm nay, Impr. Hàn Thuyên 41. Thế Lữ. 1936. “Lê Phong làm thơ” , Tạp chí Ngày nay, tập 24, 25. 42. Phạm Cao Củng.1942. Hàm răng mài nhọn, Khuê Văn xuất bản 43. Phạm Cao Củng.1942. Chiếc gối đẫm máu, Khuê Văn xuất bản 44. Phạm Cao Củng.1943. Một nhà trinh thám, H.: Đời Mới. 45. Phạm Cao Củng.1945. Một cái tết rùng rợn của Kì Phát, Khuê Văn xuất bản 46. Phạm Cao Củng. 1945. Ông già bí mật, H.: Khuê Văn 47. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản, ra đời năm 1938). Vết tay trên trần, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 48. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Chiếc tất nhuộm bùn (Chiếc tất nhuộm bùn (ra đời năm 1938), Kho tàng họ Đặng (ra đời năm 1937)), Nxb Công an nhân dân. 49. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Nhà sư thọt (Nhà sư thọt (ra đời năm 1941), Người một mắt (ra đời năm 1940)), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 174 50. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Đám cưới Kỳ Phát (Đám cưới Kỳ Phát (ra đời năm 1942), Đôi hoa tai của bà chúa (ra đời năm 1942)), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 51. Phạm Cao Củng. 2018 (tái bản). Kỳ Phát giết người (Kỳ Phát giết người (ra đời năm 1941), Bóng người áo tím (ra đời năm 1942), Nxb Công an nhân dân. 52. Phạm Cao Củng. 1951. Bọn người săn ngọc, Huyền Nga xuất bản 53. Phạm Cao Củng. 1951. Hai người lên máy chém, Huyền Nga xuất bản 54. Thế Lữ. 1963 (tái bản, ra đời năm 1937). Lê Phong phóng viên, Nxb Ngày nay, Sài Gòn. 55. Thế Lữ. 1996 (tái bản, ra đời năm 1939). Đòn hẹn – Gói thuốc lá, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 56. Thế Lữ. 2000 (tái bản, ra đời năm 1934). Vàng và máu, Nxb Văn học, Hà Nội. 57. Thế Lữ. 2003 (tái bản, ra đời năm 1939). Mai Hương - Lê Phong, Nxb Văn học, Hà Nội. 58. Tô Nguyệt Đình. 2002 (tái bản, ra đời năm 1949). Bộ áo cà sa nhuộm máu, Nxb Văn nghệ TP. HCM 59. Đặng Thanh. 2003 (tái bản, ra đời năm 1976). X30 phá lưới, Nxb Công an Nhân dân 60. Đặng Thanh. 1984. Tấm bản đồ thất lạc, Nxb Thuận Hóa 61. Xuân Đức. 1985. Người không mang họ, Nxb Công an nhân dân 62. Phùng Thiên Tân. 1985. Hồ sơ chưa kết thúc, Nxb Công an Nhân dân 63. Hữu Mai. 2004 (tái bản, ra đời năm 1987). Ông cố vấn (2 tập), Nxb Công an Nhân dân 175 64. Hữu Mai. 2001. Đêm yên tĩnh, Nxb Công an Nhân dân 65. Nguyễn Sơn Tùng. 1987. Hoa hồng trắng, Nxb Lao động 66. Nguyễn Sơn Tùng. 1984. Miền đất lạ, Nxb Lao động 67. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Viên đạn ngược chiều, Sở văn hóa thông tin An Giang 68. Nguyễn Sơn Tùng. 1988. Một mình nơi đất khách, Sở văn hóa thông tin An Giang 69. Nguyễn Trường Thiên Lí. 1988. Ván bài lật ngửa, Nxb Tổng hợp Hậu Gang 70. Thiết Vũ. 1987. Dạ khúc, Nxb Lao động 71. Văn Phan. 1990. Khớp hẹn, Nxb Công an Nhân dân 72. Thái Chí Thanh. 1994. Nữ hoàng đá đỏ, Nxb Công an Nhân dân 73. Bùi Anh Tấn. 1999. Một thế giới không có đàn bà, Nxb Công an Nhân dân 74. Đắc Đình Trung. 2002. Hồ Sơ một tử tù, Nxb Công an Nhân dân 75. Nguyễn Như Phong. 2002. Cổ cồn trắng, Nxb Công an Nhân dân 76. Nguyễn Như Phong. 2005. Bí mật những cuộc đời, Nxb Công an Nhân dân 77. Giản Tư Hải. 2011. Âm mưu thay não, Nxb Văn học 78. Giản Tư Hải. 2011. Ổ buôn người, Nxb Công an Nhân dân 79. Giản Tư Hải. 2011. Minh Mạng mật chỉ, Nxb Thanh niên 80. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Nỗi ám ảnh tuổi thơ, Gia Lai: Hồng Bàng 81. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Li-Ta xinh đẹp, Nxb Hồng Bàng 82. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Kẻ sát nhân không bao giờ bị bắt, Nxb Hồng Bàng 83. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Cái chết cô ca sĩ trẻ, Nxb Hồng Bàng 176 84. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Tên sát nhân có tài mở khóa, Nxb Hồng Bàng 85. Nguyễn Thanh Hoàng. 2012. Căn phòng khóa trái, Nxb Hồng Bàng 86. Nguyễn Thanh Hoàng. 2016. Cuộc truy lùng nghiệt ngã, Nxb Hồng Bàng 87. Nguyễn Xuân Thuỷ. 2016. Sát thủ online, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh 88. Giản Tư Hải. 2018. Mật mã Cham Pa, Nxb Thanh niên 89. Giản Tư Hải. 2021. Đại dịch kép, NXB Thanh niên 90. Giản Tư Hải. 2021. Thiên Địa Hội An Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 91. Di Li. 2016. Câu lạc bộ số 7, Nxb Lao động 92. Di Li. 2018. Trại Hoa Đỏ, Nxb Lao động 93. Đức Anh. 2019. Tường lửa, Nxb Hội Nhà văn 94. Đức Anh. 2019. Thiên thần mù sương, Nxb Văn học 95. Đức Anh. 2019. Đảo bạo bệnh, Nxb Công an nhân dân 96. Kim Tam Long. 2018. Mặt nạ trắng, Nxb Hội Nhà văn 97. Kim Tam Long. 2020. Ẩn ức trắng, Nxb Dân trí 98. Kim Tam Long. 2022. Thảm kịch trắng, Nxb Dân trí 99. Nguyễn Dương Quỳnh. 2018. Thăm thẳm mùa hè, Nxb Hội Nhà văn 100. Hoàng Yến. 2022. Dưới cánh đại bàng, Nxb Phụ nữ Việt Nam 177