BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ LÊ
TIỂU THUYẾT V.S. NAIPAUL
TỪ LÍ THUYẾT ĐA VĂN HOÁ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI, 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ LÊ
TIỂU THUYẾT V.S. NAIPAUL
TỪ LÍ THUYẾT ĐA VĂN HOÁ
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 9.22.02.42
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn: GS.TS. LÊ HUY BẮC
HÀ NỘI, 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận án xin cam đoan:
- Luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi;
- Những số liệu và tài liệu được trích dẫn trong đây là trung thực;
- Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được
công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 12 tháng 1 năm 2022
Tác giả luận án
Đinh Thị Lê
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Lê Huy Bắc -
người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để tôi
có thể hoàn thành luận án này.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn - Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội đặc biệt là các thầy cô ở bộ môn Văn học nước ngoài,
các thầy cô và nhà khoa học thuộc các đơn vị công tác khác như: Viện Văn
học, Hội Khoa học Tâm lí – Giáo dục Việt Nam, Trường Đại học Vinh... đã
chỉ bảo, góp ý, cung cấp cho tôi những tài liệu quý giá trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, bạn bè, đồng nghiệp Trường quốc
tế Liên hợp quốc, UNIS Hà nội với sứ mệnh truyền cảm hứng học tập và nghiên
cứu suốt đời.
Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu nặng tới gia đình, những người thân,
bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ
học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 12 tháng 1 năm 2022
Tác giả luận án
Đinh Thị Lê
iii
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC .............................................................................................................. iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ...................................................................................... v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ................................................................................ vi
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ........................................ 7
1.1. Nghiên cứu văn học từ lí thuyết Đa văn hoá ...................................................... 7
1.1.1. Văn hoá và hướng phê bình văn học từ văn hoá .............................................. 7
1.1.2. Đa văn hoá, từ các nhà dân tộc học đầu thế kỉ XX đến nay .......................... 10
1.1.3. Đa văn hoá trong văn học .............................................................................. 19
1.1.4. Đa văn hoá từ Edward Said đến Stuart Hall, Doreen Massey và Ander Hanberger ................................................................................................................. 22
1.2. Nghiên cứu về V.S. Naipaul từ lí thuyết Đa văn hoá ....................................... 32 1.2.1. Tài liệu tiếng Việt .......................................................................................... 32
1.2.2. Tài liệu tiếng Anh .......................................................................................... 34 Tiểu kết .................................................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: KHÔNG GIAN, THỜI GIAN TRONG TIỂU THUYẾT
V.S.NAIPAUL NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐA VĂN HOÁ .................................... 42
2.1. Không gian nhìn từ lí thuyết Đa văn hoá .......................................................... 43
2.1.1. Không gian sinh hoạt đậm chất truyền thống đa dạng của Trinidad và Tobbago ....... 44
2.1.2. Không gian văn hoá lịch sử đầy biến động của châu Phi .............................. 49
2.1.3. Không gian lữ thứ tại vương quốc Anh ......................................................... 55
2.2. Thời gian nhìn từ lí thuyết Đa văn hoá ............................................................. 66
2.2.1. Thời gian gắn với hành trình đi tìm bản ngã .................................................. 67 2.2.2. Thời gian lịch sử và những va chạm văn hoá ................................................ 70 2.2.3. Thời gian ngưng đọng và những trăn trở thời cuộc ....................................... 72 Tiểu kết .................................................................................................................... 80 CHƯƠNG 3: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT V.S.NAIPAUL NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐA VĂN HOÁ .............................................................. 81
3.1. Cội rễ Đa văn hoá trong thế giới nhân vật ........................................................ 81
3.2. Kiểu nhân vật hoà nhập .................................................................................... 88
3.2.1. Bà Tulsi – đại diện cho sự dung hợp tôn giáo ............................................... 88
iv
3.2.2. Những đứa con dòng họ Tulsi – vâng lời và phục tùng ................................. 90
3.2. Kiểu nhân vật dấn thân - chủ động đi tìm bản ngã ........................................... 93
3.2.1. Nhân vật Tôi trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và sự nghiệp ..... 94
3.2.2. Nhân vật ông Biswas trong cuộc đấu tranh tìm kiếm bản ngã ...................... 99
3.2.3. Nhân vật Indar trong hành trình truy tìm bản thể ........................................ 103
3.3. Kiểu nhân vật bên lề ....................................................................................... 105
3.3.1. Salim, người quan sát ngoại đạo .................................................................. 106
3.3.2. Cha Huisman, kẻ đứng ngoài “đeo” mặt nạ ................................................. 110
Tiểu kết .................................................................................................................. 113
CHƯƠNG 4: BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT V.S.NAIPAUL GẮN
VỚI BA MÔ HÌNH ĐA VĂN HOÁ ................................................................... 114
4.1. Biểu tượng – sự kết tinh Đa văn hoá .............................................................. 114
4.1.1. Khái niệm biểu tượng .................................................................................. 114
4.1.2. Quan điểm tiếp cận biểu tượng trong tiểu thuyết Naipaul .......................... 116 4.2. Các biểu tượng trong tiểu thuyết V.S. Naipaul ............................................... 120
4.2.1. Dòng sông – biểu tượng của quá trình đồng hoá văn hoá ........................... 120 4.2.2. Ngôi nhà – biểu tượng của sự pha trộn văn hoá .......................................... 125
4.2.3. Bức tranh và khu vườn – biểu tượng của sự chung sống văn hoá ............... 132 Tiểu kết .................................................................................................................. 146
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 152
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Thống kê tần số sử dụng từ chỉ màu sắc trong tiểu thuyết Bí ẩn khi tới ...... 58
Bảng 2.2: Những ngôi nhà gắn với mốc sự kiện trong cuộc đời ông Biswas ............... 68
Bảng 3.1: Hệ thống một số nhân vật tiêu biểu trong ba cuốn tiểu thuyết của V.S. Naipaul
– Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas, Khúc quanh của dòng sông, Bí ẩn khi tới ...... 85
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Sơ đồ hệ thống văn chương trích dẫn từ Lí thuyết đa hệ thống trong nghiên
cứu văn hoá, văn chương của Even-Zohar. ............................................................... 9
Hình 1.2: Sơ đồ mô tả (a) đa văn hóa, (b) liên văn hóa và (c) giao thoa văn hóa (phỏng
theo Schriefer, 2018). ............................................................................................... 17
Hình 4.2: Ba mô hình Đa văn hoá của Anders Hanberger ...................................... 31
Hình 2.1: Cấu trúc năm phần của tiểu thuyết Bí ẩn khi tới của V.S. Naipaul ......... 61
Hình 2.2: Thứ tự xuất hiện của những ngôi nhà ông Biswas đã sinh sống trong
Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas. ............................................................. 67
Hình 3.1: Mô hình các chiều kích của bản thể đa văn hoá, phỏng theo Fitzsimmons 2013 .... 89
Hình 4.3: Mối quan hệ giữa bản ngã “cái tôi”, vô thức và ý thức (theo Clare Cooper, 1974) ...... 101
Hình 4.1: Bức tranh Bí ẩn của sự đến và buổi chiều của Giorgio de Chirico (1912) ............. 134
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Phê bình văn học từ các lí thuyết văn hoá là một phương pháp tiếp cận khoa
học, logic, nhằm đào sâu tìm hiểu quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, mở
rộng giới hạn của văn bản và sự vẫy gọi người đọc. Khuynh hướng phê bình này
bắt nguồn từ những năm 1950 với trường phái Birmingham, Anh và trường phái
Frankfurt, Đức rồi lan rộng ra khắp thế giới. Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình
nghiên cứu đã triển khai, vận dụng phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn
văn hoá. Điều này đã chứng minh cơ sở khoa học và tính đúng đắn của phương
pháp, như Đỗ Lai Thuý đã nhận định: “Nếu văn học có chức năng phản ánh hiện
thực thì cũng không thể phản ánh trực tiếp được, mà chỉ có thể thông qua lăng
kính văn hoá, thông qua bộ lọc của các giá trị văn hoá” [1].
Trong dòng chảy không ngừng của văn hoá, luôn tồn tại sự vận động, giao
lưu giữa các nền văn hoá, tạo nên thuộc tính tất yếu là Đa văn hoá và Liên văn
hoá. Có thể nói, tính đa văn hóa xuất hiện từ rất sớm trong văn chương bởi bản
thân kí hiệu ngôn ngữ của nhân loại đã bao hàm nhiều đặc tính đa văn hóa. Do
đó, bản chất của nghiên cứu văn chương là “nghiên cứu kí hiệu ngôn từ, một dạng
kí hiệu đặc thù, kí hiệu thẩm mĩ liên văn hoá, đa tầng bậc” [2,328]. Chính vì vậy,
nghiên cứu tác giả, tác phẩm, hay hiện tượng văn chương qua lí thuyết liên ngành
Đa văn hoá, một hướng đi đầy triển vọng trong nghiên cứu phê bình. Lí thuyết Đa
văn hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc tri nhận một đặc tính đa dạng, giao thoa
giữa các nền văn hoá, các mã văn hoá, góp phần làm sáng tỏ cội nguồn sáng tạo
văn chương. Thêm vào đó, việc tiếp cận tác phẩm văn chương từ góc nhìn đa văn
hoá là cần thiết vì nó chính là sự kiểm chứng của việc thực hành lí thuyết đa văn
hoá, mở ra một một cái nhìn đa chiều về xã hội xung quanh, cũng như những tài
năng văn chương vĩ đại, và trên hết là sự vận động của văn học thế giới.
V.S. Naipaul (1934-2018) là nhà văn Anh gốc Trinidad, tiêu biểu cho dòng
văn học đa văn hoá và văn học hậu thuộc địa. V.S. Naipaul (tên đầy đủ là
Vidiadhar Surajprasad Naipaul) được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải thưởng
Nobel văn học vào năm 2001 vì những cống hiến sáng tạo suốt đời cho nhân loại:
những tác phẩm văn chương đa văn hoá, bao gồm cả tiểu thuyết, tiểu luận, du kí
và hồi kí khai thác một phần lịch sử bị lãng quên, và ảnh hưởng của chủ nghĩa
2
thực dân đối với các dân tộc cựu thuộc địa. Những tác phẩm của ông “buộc chúng
ta phải thấy sự hiện diện của lịch sử những dân tộc bị đàn áp” [3]. Ngoài ra, ông
còn được vinh danh ở rất nhiều giải thưởng lớn khác như: giải John Rhys cho Gã
tẩm quất bí hiểm, giải W. H. Smith cho Những kẻ bắt chước, giải Booker cho tiểu
thuyết Ở một nhà nước tự do), giải Jerusalem năm 1983, giải T.S. Eliot năm 1986,
giải Somerset Maugham, giải Hawthornden. Năm 1989, ông được trao tặng Thập
tự giá Ba Ngôi (Trinity Cross), danh hiệu quốc gia cao quý nhất của Trinidad và
Tobago. Ông được nữ hoàng Anh phong tước hiệp sĩ năm 1990 và đặc biệt giải
Nobel Văn học năm 2001 đã ghi nhận những đóng góp của V.S. Naipaul đối với
văn chương nhân loại.
Bản thân con người V.S. Naipaul là đa văn hóa: sinh ra ở Trinidad, thuộc
địa đồn điền cũ của Anh, và lớn lên trong một gia đình Bàlamôn truyền thống
đậm chất văn hoá Ấn Độ, rồi được học bổng tại Đại học Oxford và chịu ảnh
hưởng của nền giáo dục và văn hoá Anh. Nguồn gốc xuất thân, nền giáo dục
và môi trường sống của nhà văn chịu ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các
nền văn hoá: văn hoá Caribe pha trộn đặc trưng của những người nhập cư;
văn hoá phương Đông phong phú, đậm tính chất nông nghiệp lâu đời bắt
nguồn từ nền văn minh sông Ấn; và văn hoá phương Tây đề cao cá nhân, coi
trọng lối tư duy duy lí. Sự tổng hoà của tất cả các nền văn hoá đó tạo nên một
cảm quan đa văn hoá độc đáo của một nhà văn luôn đau đáu đi tìm cái tôi, cái
cảm giác mình thuộc về một nơi nào đó. Hơn nữa, sự mẫn tiệp của một nhà
văn tài năng, luôn trăn trở trước thời cuộc có thể là lí do chính khiến tính đa
văn hóa trong tác phẩm của ông được thể hiện rất sắc sảo, vượt lên giới hạn
thời gian và không gian, thể hiện được những vấn đề thời sự, mang tầm nhân
loại. Trong cuộc trò chuyện với Roland Bryden năm 1973, ông đã đề cập đến
nền tảng đa văn hoá khi “xem xét bản chất của xã hội quê hương tôi, xem xét
bản chất của thế giới mà tôi đã bước vào và thế giới mà tôi phải nhìn vào, tôi
không thể là một tiểu thuyết gia chuyên nghiệp theo nghĩa cũ” [3,367-370].
Điều này góp phần không nhỏ để hình thành sự độc đáo, khác lạ trong con
người và sự nghiệp của nhà văn. Tìm hiểu tính đa văn hoá trong các tiểu
thuyết của ông chính là tìm hiểu những giá trị văn hoá phong phú, kết tinh
qua nội dung và nghệ thuật sáng tác của nhà văn. Điều đó sẽ góp phần không
3
nhỏ trong việc nghiên cứu V.S. Naipaul đồng thời khẳng định tính khoa học
của lí thuyết Đa văn hoá.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, đến thời điểm của luận án, mới có hai tác phẩm
của ông được chuyển ngữ là tiểu thuyết Khúc quanh của dòng sông và cuốn Bước
vào thế giới Hồi giáo cùng một số bài giới thiệu ngắn về tác giả trên các báo, tạp
chí. Tính đến nay, các tác phẩm của V.S. Naipaul chưa được đưa vào nghiên cứu
và giảng dạy, cũng như chưa có công trình nghiên cứu nào về V.S. Naipaul hay
nghiên cứu văn học từ góc nhìn Đa văn hoá.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết V.S.
Naipaul từ lí thuyết đa văn hoá.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Lựa chọn đề tài này, luận án đặt ra những mục đích cơ bản sau đây:
❶ Giới thuyết lí thuyết Đa văn hoá. Chứng minh tính đúng đắn của lí
thuyết Đa văn hoá trong nghiên cứu văn chương, góp phần vào các
nghiên cứu liên ngành, nhằm đào sâu thêm các lớp nghĩa của tác phẩm
từ điểm nhìn Đa văn hoá.
❷ Tổng quan về tình hình nghiên cứu tiểu thuyết V.S. Naipaul từ tài liệu
trong nước và nước ngoài, từ đó kế thừa, phát triển những kết quả đã có
để tìm ra nét đặc trưng đa văn hoá trong tiểu thuyết của nhà văn.
❸ Chỉ rõ tính đa văn hoá trong các tiểu thuyết của V.S. Naipaul ở các
phương diện cụ thể: không gian, thời gian, thế giới nhân vật và biểu
tượng. Dựa trên cơ sở đó, tác giả luận án tìm ra những nét riêng của nhà
văn, thế giới quan và nhân sinh quan của ông, đồng thời làm nổi bật chiều
sâu tư tưởng của tác phẩm.
Để đạt tới mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ cụ thể của luận án là:
- Xác lập một cách hiểu thống nhất về khái niệm Đa văn hoá. Trên cơ sở của
ba mô hình Đa văn hoá, luận án chứng minh tiểu thuyết của V.S. Naipaul
mang tính Đa văn hoá rõ nét.
- Đối với các tài liệu nghiên cứu V.S. Naipaul từ tiếng nước ngoài, khảo sát,
thống kê để tìm ra những khuynh hướng nghiên cứu về V.S. Naipaul trên
thế giới. Trong các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, chỉ ra các bài giới thiệu,
công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4
- Phân tích ba tiểu thuyết của V.S. Naipaul ở phương diện không gian, thời
gian, nhân vật và biểu tượng từ ba lí thuyết Đa văn hoá sau:
o Thuyết căn tính và nơi chốn/không gian (identity and place) của
Doreen Massey.
o Thuyết về căn tính bất định (unfixed identity) của Stuart Hall. o Ba mô hình Đa văn hoá của Anders Hanberger.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trong mười lăm cuốn tiểu thuyết của V.S. Naipaul, luận án tập trung khảo
• A House for Mr. Biswas (Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas, 1961)
• A Bend in the river (Khúc quanh của dòng sông, 1979)
• The Enigma of Arrival (Bí ẩn khi tới, 1987).
cứu ba tác phẩm sau:
Đây là đại diện cho ba mốc sáng tác trong văn nghiệp của V.S Naipaul. Ngôi
nhà của ông Biswas, xuất bản năm 1961, là cuốn tiểu thuyết thứ tư của V.S.
Naipaul nhưng là tác phẩm đầu tiên thành công vang dội, lần đầu đánh dấu sự ghi
nhận của giới phê bình khắp thế giới, là “một trong những tiểu thuyết hậu thuộc
địa vĩ đại nhất viết bằng Tiếng Anh” [5]. Cuốn Khúc quanh của dòng sông, xuất
bản năm 1979, mang dấu ấn của độ chín trong tài năng sáng tác của nhà văn ở
tuổi 45, được ngợi ca là đỉnh cao của văn chương hậu thuộc địa, phản ánh những
cộng đồng xã hội thiểu số, đứng ngoài lề của thế giới phát triển. Bí ẩn khi tới, ra
mắt độc giả năm 1987, là cuốn tiểu thuyết tổng kết lại 35 năm sáng tác của chính
nhà văn, đánh dấu sự trưởng thành trong nhận thức về nghiệp viết, về bản thân,
về nhân thế và độ chín của một tài năng văn chương. Chính vì thế mà tác phẩm
này đã được lưu giữ trong thư viện Nobel của Viện Hàn lâm Thuỵ Điển. Vì thế,
ba cuốn tiểu thuyết đặt trong các bối cảnh, thời gian khác nhau sẽ giúp chúng ta
nhìn nhận về V.S.Naipaul một cách đa chiều và toàn diện hơn.
Luận án sử dụng bản nguyên tác tiếng Anh của cả ba tiểu thuyết Khúc quanh
của dòng sông, Ngôi nhà dành cho ông Biswas và Bí ẩn khi tới. Bởi V.S. Naipaul
được vinh danh là bậc thầy sử dụng ngôn ngữ Anh (cho dù ông không phải là
người Anh). Riêng cuốn tiểu thuyết Khúc quanh của dòng sông có bản dịch tiếng
Việt của Cao Việt Dũng, tuy nhiên, chúng tôi vẫn dùng bản nguyên gốc tiếng Anh
cho các trích dẫn.
5
Khi nghiên cứu ba tác phẩm tiêu biểu trên, chúng tôi nhận thấy các đặc trưng
đa văn hóa xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul. Vì vậy nếu thiếu
đi những phông nền kiến thức văn hóa, thiếu đi một điểm nhìn đa diện thì quá trình
tiếp nhận cái hay, cái đẹp trong tác phẩm của V.S. Naipaul sẽ mất đi ít nhiều giá
trị. Hướng tiếp cận đa văn hoá, do đó, có thể khơi mở ý nghĩa chiều sâu của tác
phẩm, để có cái nhìn bao quát, toàn diện và đa chiều về nhà văn, tác phẩm và sự
vận động liên tục của dòng chảy văn hoá, và “một nền tảng để suy nghĩ về cuộc
đời” [6] như nhận định của cựu tổng thống Mĩ Barack Obama khi trả lời phỏng vấn
của tạp chí New York Times. Với hi vọng khẳng định cách tiếp cận văn học qua
các đối thoại đa văn hoá, hướng đến giá trị nhân văn sâu sắc, chúng tôi mong muốn
góp phần giới thiệu những cách tân tiểu thuyết V.S. Naipaul trong dòng văn học
thế giới nửa sau thế kỉ XX. Từ đó, đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết của V.S.
Naipaul từ lí thuyết Đa văn hoá. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ tìm hiểu không
gian, thời gian, nhân vật và biểu tượng để làm nổi bật đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu, luận án sử dụng phương
pháp tiếp cận chủ đạo là từ góc nhìn văn hoá, cụ thể là lí thuyết Đa văn hoá. Tác
phẩm được đặt trong không gian văn hóa mà tác phẩm ra đời, chỉ ra sự chi phối của
các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, tri thức khoa học của thời đại
đến tư tưởng, và tác phẩm của nhà văn, nghĩa là tìm ra các nền tảng văn hóa lịch sử
giao thoa lẫn nhau, ảnh hưởng đến tư tưởng và nghệ thuật sáng tác của nhà văn.
Luận án kết hợp sử dụng một số phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu văn
học, như sau:
• Phương pháp tiểu sử: Khảo sát những sự kiện chính trong cuộc đời
tác giả và gia đình, lấy đó làm cơ sở để cắt nghĩa những lớp hình
tượng thẩm mĩ mang tính tư tưởng, văn hóa trong tác phẩm.
• Phương pháp khảo sát, thống kê: Thu thập số liệu như tần suất xuất
hiện của một số từ, cụm từ, nhằm chứng minh cho luận điểm và làm
rõ dụng ý sáng tác của tác giả.
• Phương pháp liên ngành: Đặt tiểu thuyết V.S. Naipaul trong các lí
thuyết đa văn hóa liên ngành với thi pháp học, để từ đó làm rõ các đặc
trưng đa văn hoá của tác phẩm.
6
• Phương pháp phân tích - tổng hợp: phân tích văn bản và các yếu tố nội
dung, nghệ thuật để qua đó, tổng hợp, khái quát tính đa văn hoá trong tác
phẩm của V.S. Naipaul nhằm nêu bật cái riêng, độc đáo của nhà văn.
Bên cạnh đó, luận án có sử dụng thao tác so sánh, đối chiếu các tiểu thuyết
của V.S. Naipaul với nhau và với các tác phẩm đồng đại, lịch đại để thấy được sự
tương đồng cũng như điểm khác biệt, từ đó chỉ ra phong cách sáng tác đặc trưng
của nhà văn.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình tiếng Việt đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và
chuyên sâu phân tích những đặc trưng đa văn hóa trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul
dựa trên nguyên tác tiếng Anh. Luận án tìm hiểu không gian và thời gian nhìn từ lí
thuyết căn tính và nơi chốn của Doreen Massey, thế giới nhân vật nhìn từ thuyết bản
thể bất định của Stuart Hall và biểu tượng đa văn hoá gắn với ba mô hình Đa văn hoá
của Anders Hanberger. Từ đó, tác giả luận án khẳng định những giá trị Đa văn hoá
trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul đã tạo nên nét độc đáo của nhà văn này.
Về phương diện lí luận, nghiên cứu tiểu thuyết của V.S. Naipaul từ lí thuyết
Đa văn hoá, luận án góp phần giải mã một hiện tượng văn học độc đáo của thế kỉ
XX, XXI, cũng như khẳng định những cống hiến của nhà văn từng giành giải
thưởng Nobel văn học này.
Về phương diện thực tiễn, luận án là công trình đi sâu khai thác lí thuyết Đa
văn hoá và tác phẩm của V.S. Naipaul, từ đó có thể tạo cơ sở cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về V.S. Naipaul.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Chương 2: Không gian và thời gian trong tiểu thuyết V.S. Naipaul nhìn từ lí
thuyết Đa văn hoá
Chương 3: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết V.S. Naipaul nhìn từ lí thuyết
Đa văn hoá
Chương 4: Biểu tượng trong tiểu thuyết V.S. Naipaul gắn với ba mô hình
Đa văn hoá
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. Nghiên cứu văn học từ lí thuyết Đa văn hoá
1.1.1. Văn hoá và hướng phê bình văn học từ văn hoá
Để hiểu định nghĩa Đa văn hoá, trước hết ta cần đi tìm khái niệm văn hoá.
Đây là một thuật ngữ có nội hàm rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực như truyền thông,
tôn giáo, hành vi ứng xử, nghệ thuật,… trong đó mỗi định nghĩa phản ánh một cách
nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Thuật ngữ văn hoá, xuất phát từ tiếng Latinh là
“cultura”, bắt nguồn từ “cultus” nghĩa là canh tác, gieo trồng ruộng đất (cultus agri) và
gieo trồng tinh thần (cultus animi) rồi chuyển nghĩa để tạo ra “culture” từ thế kỉ 18 ở
phương Tây. Kể từ đó đến nay, định nghĩa văn hoá đã phát triển theo nhiều chiều
hướng đa dạng, “có đến hàng trăm, từ các trường phái nhân văn như Dilthey, Casirrer,
Arnold, T. Eliot… đến trường phái thực chứng như Taylor, Malinowski, Boas,
Kroeber, Benedict, Durkheim…” [7,15]. Trong số hàng trăm định nghĩa ấy, thì định
nghĩa đóng vai trò nền móng cho khoa học về nhân chủng của Edward Burnett Tylor
trong cuốn sách Văn hoá nguyên thuỷ (Primitive culture) xuất bản năm 1871, là định
nghĩa được công nhận rộng rãi nhất, khẳng định văn hoá “một phức hệ bao gồm kiến
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán, và bất cứ năng lực nào khác
của con người với tư cách là một thành viên của xã hội” [8,1]. Như vậy, văn hoá chính
là một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và hệ thống giá trị, truyền
thống và đức tin được bảo tồn theo truyền thống.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm chỉ ra bốn
đặc trưng cơ bản của khái niệm văn hoá: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh
và tính lịch sử. Từ bốn thuộc tính đó, văn hoá được định nghĩa là “một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình” [9,27]. Tựu trung, các định nghĩa trên đều thống nhất
ở những đặc điểm phổ quát của văn hoá là: tính hệ thống, tính đa dạng và tính kế
thừa. Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi hiểu văn hoá là một hệ thống
hay tập hợp các giá trị và chuẩn mực của một cộng đồng, và có tính phát triển, kế
thừa theo thời gian. Do vậy, văn hoá có chức năng tổ chức xã hội, chức năng thúc
8
đẩy xã hội và chức năng giáo dục trong sự phát triển, tương tác, giao thoa, dẫn
đến Đa văn hoá và Liên văn hoá…
Sự ra đời và phát triển của mỗi loại hình nghệ thuật đều gắn với những đặc
trưng, bản sắc riêng. Tuy vậy, dưới góc nhìn so sánh liên ngành, có thể thấy các
lĩnh vực ấy có mối liên hệ mật thiết với nhau; thậm chí, chúng không ngừng phá
vỡ đường biên để giao thoa, thâm nhập vào nhau. Giữa văn chương và văn hoá
cũng có một mối duyên lâu đời và gần gũi như vậy.
Việc tiếp cận và phê bình văn học từ hướng văn hoá không phải là mới,
không thể không kể đến trường phái phê bình văn hoá lịch sử của nhà nghiên
cứu người Pháp, Hippolyte Taine (1828-1893), trong đó ông đã coi ba nhân tố
quy định tính chất của tác phẩm văn chương bao gồm: chủng tộc, môi trường và
thời điểm. Trong một thời đại nhất định, tất cả các sáng tác văn học không nằm
ngoài sự chi phối của ba yếu tố trên. Các trường phái nghiên cứu văn hoá đã trở
thành một hiện tượng toàn cầu, khởi đầu với trường phái Birmingham ở Anh,
đại diện là Rochard Hoggart và Stuart Hall, trong khoảng thập niên 60, 70 của
thế kỉ trước. Nhóm Birmingham đưa ra các quan điểm phê bình cho việc phân
tích, diễn giải và phê bình các di sản văn hoá, kết hợp với lí thuyết xã hội học
và so sánh bối cảnh khi phê bình văn học các văn bản văn hoá. Hướng nghiên
cứu này ở Đức có trường phái Frankfurt, và ở Pháp có Roland Barthes vào những
năm 1970.
Một lí thuyết khác đáng chú ý trong nghiên cứu văn chương và văn hoá là lí
thuyết đa hệ thống hoặc Lí thuyết hệ thống đa hợp (Polysystem theories). Đây là
lí thuyết xuất phát từ ý tưởng về một nền văn hoá động, do giáo sư Itamar Even-
Zohar làm việc tại đại học Tel Aviv, Israel đề xuất. Khi đề cập tới thuộc tính / sở
hữu chung của đa hệ thống, ông cho rằng khái niệm về hệ thống là khái niệm năng
động, không thuần nhất, “nhấn mạnh tính đa bội của các giao cắt và sau đó là tính
phức tạp hơn của kết cấu đi kèm” [10,31]. Trong đó, sự sắc nhạy của cái đa tạp
trong văn hoá được thể hiện rõ nhất trong một cộng đồng dùng ba hoặc đa ngôn
ngữ. Trong phạm vi văn chương, thì đó là khi cộng đồng sở hữu hai hoặc nhiều
hơn hai “nền văn học”.
Theo quan điểm của Zohar, trong đa hệ thống luôn tồn tại nhiều hệ thống
không đồng đẳng mà phân tầng bậc. Ông chỉ ra rằng “Cuộc đấu tranh vĩnh cửu giữa
9
các cơ tầng khác nhau, tạo nên trạng thái đồng đại (động) của hệ thống. Chính chiến
thắng của cơ tầng này đối với cơ tầng kia sẽ tạo nên sự thay đổi trên trục lịch đại”
[10,87]. Trong cuốn Polysystem studies xuất bản năm 1990, ông đã mượn sơ đồ giao
tiếp của Roman Jakobson để vẽ lại sơ đồ hệ thống văn chương bao gồm các hoạt
động văn chương và mối quan hệ giữa chúng như sau:
Kho thể tài (quy tắc)
Hình 1.1: Sơ đồ hệ thống văn chương trích dẫn từ Lí thuyết đa hệ thống
trong nghiên cứu văn hoá, văn chương của Even-Zohar.
Một trong những đóng góp chính của lí thuyết đa hệ thống là chuyển mối
quan tâm từ nền văn hóa nguồn (gốc) sang nền văn hóa tiếp nhận (đích) bằng cách
truy tìm những cơ chế chọn lọc các tác phẩm cũng như những chuẩn mực dịch
thuật. Lí thuyết đa hệ thống của Evan-Zohar đã phân tích các tập hợp quan hệ
trong văn học và ngôn ngữ, được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu văn học và
văn hóa, đặc biệt ở Tây Ban Nha và Trung Quốc. Học giả người Mĩ Edwin
Gentzler cũng ủng hộ lí thuyết này trong nghiên cứu dịch thuật [11,85]. Như vậy
lí thuyết của Evan-Zohar nghiêng về phương thức tiếp cận đối tượng, là mô thức
tư duy hướng tới đối tượng. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi có tìm
hiểu lí thuyết này nhưng thấy chưa thực sự phù hợp với nghiên cứu Đa văn hoá
trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul bởi lẽ Đa văn hoá thuộc về đặc tính của văn
hóa nhiều hơn.
Hướng phê bình văn học từ văn hoá đã được công nhận rộng rãi, nhờ
tính khoa học và chân xác trong việc nhìn nhận, đánh giá một tác phẩm văn học.
Mỗi tác phẩm là “một chỉnh thể của nghệ thuật ngôn từ tái hiện đời sống tinh thần
của các dân tộc, như là một trong những sản phẩm kết tinh cao nhất của văn hoá
một tộc người, một đất nước” [12,11]. Trong bài Tiếp cận văn học từ hệ thống
văn hoá, Đỗ Lai Thuý đã chỉ ra các ưu điểm của phương pháp này là “dẫn nhà phê
bình (cũng như người đọc) đi từ cái đã biết đến cái chưa biết, từ cái biết nhiều đến cái
biết ít, từ cái toàn thể đến cái bộ phận bằng con đường loại suy khoa học” [1]. Ở Việt
10
Nam đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu văn chương theo hướng này, như
Nguyễn Du và Truyện Kiều của Trương Tửu, Từ góc nhìn văn hoá đến các mã nghệ
thuật trong văn bản cổ đại Việt Nam của Nguyễn Huệ Chi, Tiếp cận Truyện Kiều từ
góc nhìn văn hoá của Lê Nguyên Cẩn, Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hoá của Đỗ
Lai Thuý, Phương pháp tiếp cận văn hoá trong nghiên cứu giảng dạy văn học của
Trần Nho Thìn, Mã văn hoá trong tác phẩm của James Joyce của Nguyễn Linh Chi,…
Đa văn hóa là thuộc tính bản chất, quy luật trong sự phát triển của loài
người. Có thể nói, từ thuở bình minh của nhân loại đã luôn tồn tại nhiều chủng
tộc, nhiều nền văn hoá, và sự tiếp xúc, giao lưu giữa các nền văn hóa là điều không
tránh khỏi, nhất là khi xuất hiện những cuộc di cư. Giao thoa văn hoá và đa dạng
văn hoá là quy luật tất yếu của sự vận động xã hội, và trở thành điều kiện cần thiết
cho phát triển, thậm chí cho sự sinh tồn của con người, bởi vì “con người không
phải là một hòn đảo, không chỉ là tự mình; mỗi người là một phần của lục địa,
một phần của tổng thể” [13,108].
Để trả lời cho câu hỏi liệu có đa văn hoá trong các nền văn minh cổ đại
không, hai nhà khoa học Vladimiras và Liudmila đã truy nguyên dấu vết của đa
văn hóa từ những chính sách sát nhập hai nền văn hoá Ba Tư và Macedon của
Alexander Đại đế [14,33-49]. Alexander Đại đế vừa áp đặt văn hóa của người
Macedonia (Hi Lạp) vào các vùng lãnh thổ bị chinh phục, nhưng cũng đồng thời
chấp nhận phong tục của người dân địa phương. Kết quả là Đa văn hóa xuất hiện
như một hiện tượng xã hội trong lịch sử của Đế chế La Mã (Imperium Romanum),
vào thời hoàng kim của Rome, luôn tồn tại nhiều dân tộc và bộ lạc khác nhau với
các phong tục và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau chung sống. Người La Mã đã sử
dụng viện trợ của người nước ngoài, trong đó có nô lệ, và vẫn tiếp tục chính sách
hai nền văn hoá song song: Hi Lạp và La Mã.
1.1.2. Đa văn hoá, từ các nhà dân tộc học đầu thế kỉ XX đến nay
Về mặt lịch sử của thuật ngữ, Đa văn hóa đã manh nha xuất hiện từ giữa
thế kỉ XVIII khi các nhà sử học Đức giới thuyết khái niệm về sự khác biệt và đa
dạng tồn tại trong một nền văn hóa. Các nhà sử học có tiếng như Johann Gottfried
von Herder (1744-1803) và Leopold von Ranke (1795-1886) đã đặt câu hỏi về tư
duy Khai sáng của những tiến bộ từ thời kì đen tối đến thời văn minh, thông qua
đa dạng văn hoá. Cũng giống như các nhà tư tưởng Khai sáng khác, tin vào một
11
thời đại mới của nhân tính, lí tính, tự do, và có thể áp dụng tư duy có hệ thống
cho mọi hoạt động của con người, họ lập luận rằng lịch sử loài người được cấu
thành từ các nền văn hóa rời rạc và không đồng nhất, nhưng mỗi nền văn hóa có
những giá trị riêng, chuẩn mực đạo đức và thẩm mĩ và cấu trúc chính trị và kinh
tế riêng. Do vậy, mỗi nền văn hóa vừa là một tổng thể vừa là một cấu trúc toàn
vẹn riêng. Theo Nicholas Journet, trên thế giới, các xã hội đa văn hoá luôn chiếm
ưu thế so với xã hội được coi là thuần nhất về mặt văn hóa, với tỷ lệ 90:10 [15].
Bởi vậy, đa dạng văn hóa là khởi nguồn của bản sắc, của đổi mới và sáng tạo,
giúp liên kết mọi người trên thế giới. Nó là động lực thúc đẩy phát triển, không
chỉ tăng trưởng kinh tế, mà còn làm phong phú hơn cuộc sống trí tuệ, tình cảm,
đạo đức và tinh thần. Tuy nhiên, sự đa dạng đó chưa được gọi tên thành một thuật
ngữ, một khái niệm mang tính chủ nghĩa (trong tiếng Anh là ISM,
Multiculturalism) cho đến năm 1941, nó mới xuất hiện lần đầu trên tờ New York
Herald Tribune, với ý nghĩa “chống lại chủ nghĩa dân tộc, định kiến và hành vi
mang tính dân tộc, ủng hộ cách sống đa văn hóa” [16]. Đến năm 1965, Đa văn
hóa được mở rộng thành chủ nghĩa Đa văn hóa trong Báo cáo sơ bộ của Ủy ban
Hoàng gia về song ngữ và đa văn hóa của Canada, trong bối cảnh các phong trào
đấu tranh đòi quyền dân chủ dâng cao.
Ban đầu Đa văn hoá thường gắn với môi trường xã hội Bắc Mỹ, nhưng đến
năm 1973 của tờ Stornoway Gazette của Scotland đã mở rộng nghĩa thuật ngữ,
ứng dụng vào bất kì môi trường xã hội nào tồn tại các yếu tố văn hóa đa dạng.
Khi dòng người di cư, nhập cư ngày càng tăng cùng với sự xuất hiện của các nhóm
tôn giáo, các xu hướng tính dục, phong trào đấu tranh đòi giữ gìn bản sắc văn hoá
thiểu số, đòi bình đẳng giới, phản đối chủ nghĩa nhất nguyên, và sự đồng hoá hay
cào bằng các giá trị văn hoá ngày càng nhân rộng, thì vấn đề đa văn hoá của xã
hội phải được thừa nhận. Chính quyền liên bang ở Ottawa đã công khai thừa nhận
Đa văn hóa trong hiến pháp năm 1982. Sau Canada, chính sách đa văn hoá nhanh
chóng được thông qua ở hầu hết các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu.
Từ đó trở đi, chủ nghĩa Đa văn hoá ngày càng được nhân rộng, đem lại một môi
trường giao tiếp đa chiều, nơi những tư tưởng, giá trị của tất cả các nền văn hoá
đều có tiếng nói riêng của mình. Như vậy chính các phong trào dân chủ đã hình
thành nên tiền đề thứ nhất cho sự ra đời của Đa văn hoá.
12
Tiền đề thứ hai cho sự xuất hiện thuật ngữ chủ nghĩa Đa văn hoá đương đại là
làn sóng di cư tăng nhanh cả phạm vi và tốc độ. Theo số liệu thống kê của Liên Hợp
Quốc, số lượng người di cư đến nước ngoài để tìm việc làm, đoàn tụ gia đình, học tập,
mua nhà hay trốn chạy... chỉ tính riêng ở châu Âu từ năm 1990 đến 2015 đã tăng 1,55
lần, cán mốc hơn 76 triệu người dân di cư. Trung bình, cứ 7 công dân châu Âu thì có
một người nhập cư. Như vậy, cuộc di cư quốc tế không ngừng nhân rộng đã tạo
nên hiện tượng đa văn hóa toàn cầu.
Thứ ba, với quan điểm phản đối văn hoá bá quyền của “phương Tây”, “châu
Âu”, các nhà văn hoá học và nhân chủng học bắt đầu quan tâm hơn đến những
giá trị văn hoá thiểu số, nhất là kể từ khi cuốn chuyên luận nhân học Tư duy
nguyên thuỷ (Mind of Primitive Man) của Franz Boas ra đời vào năm 1911.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cuốn sách tạo điểm xuất phát cho chủ nghĩa Đa
văn hóa và thuyết tương đối văn hóa (cultural relativisim). Boas khẳng định sự
bình đẳng của các nền văn hoá, không phân cao thấp, mà chỉ có sự khác biệt.
Cuốn sách đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà nhân chủng học và các công
trình nghiên cứu Đa văn hoá sau này.
Ngoài ra, không thể không kể đến xu hướng toàn cầu hoá (globalization)
diễn ra sôi động trên các mặt của đời sống xã hội, tư tưởng “toàn cầu” liên đới
trước hết đến các lĩnh vực kinh tế, khoa học – kĩ thuật, sau đó là giao lưu văn hoá,
chính trị và văn học. Trong bài báo bàn về Toàn cầu hoá văn hoá và đa dạng văn
hoá, Nguyễn Văn Dân đã đặt ra câu hỏi: Có toàn cầu hoá văn hoá và văn hoá toàn
cầu không? Để trả lời cho câu hỏi đó, nhà nghiên cứu đã lập luận những cơ sở
nhân văn chủ yếu của toàn cầu hoá văn hoá và điều kiện quan trọng hình thành
văn hoá toàn cầu. Dựa trên các tiền đề đó, sự đa dạng văn hoá là “có ý nghĩa thời
đại và ý nghĩa thực tiễn của nó chứ không phải là một thứ hàng bày mẫu để chiêm
ngưỡng; nó là di sản sinh động của loài người chứ không phải là di tích đông cứng
dùng để trưng bày trong viện bảo tàng” [17]. Báo cáo của UNESCO năm 2009
chuyên về các vấn đề đa văn hóa cũng cho rằng hệ quả của xu hướng toàn cầu
hóa hiện nay chính là ngày càng có nhiều nhu cầu cần phải thắt chặt quan hệ giữa
các cộng đồng đại diện cho các nền văn hóa khác nhau. Như vậy, có ba tiền đề
chính cho sự ra đời của học thuyết đa văn hóa hay chủ nghĩa Đa văn hóa: phong
trào dân chủ, làn sóng di cư và xu hướng toàn cầu hóa.
13
Từ lịch sử hình thành và các tiền đề cho sự xuất hiện thuật ngữ, ta có thể
thấy việc giới thuyết khái niệm Đa văn hoá là một công việc không hề dễ dàng,
bởi nội hàm thuật ngữ quá rộng, hàm chứa nhiều nét nghĩa, từ các góc nhìn của
các lĩnh vực khác nhau. Thiết nghĩ, cũng cần xem xét lịch sử phát triển và các xu
hướng nghiên cứu đa văn hoá trên thế giới. Trong cuốn Hoàng hôn của đa văn
hóa? Những phát hiện từ khắp châu Âu, Bevelanders và Taras cho rằng lịch sử
các nghiên cứu về đa văn hoá có thể chia thành ba giai đoạn. Trong giai đoạn đầu
của thập niên 1960 và 1970, xu hướng chung là nghiên cứu đa văn hoá trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa di dân. Sang những năm 1980, trọng
tâm nghiên cứu là sự hội nhập của người lao động di cư. Vào thập niên 1990, các
nghiên cứu Đa văn hoá tập trung hơn vào việc thay đổi chính sách nhập cư, cũng
như các trường hợp đặc biệt của người tị nạn và đoàn tụ gia đình [18]. Theo nhận
định của Judith Squires, chủ nghĩa Đa văn hoá đã “trở thành chủ đề của thời đại,
không chỉ đối với các thuyết gia chính trị, mà còn đối với các nhà lí thuyết xã hội,
xã hội học, khoa học chính trị và giáo dục học” [19,114].
Tựu trung lại, chúng tôi tạm chia cách hiểu khái niệm theo hai hướng chính.
Hướng thứ nhất là Đa văn hoá theo quan điểm của xã hội học và ngôn ngữ
hàng ngày, đồng nghĩa với “đa nguyên dân tộc”, “đa nguyên văn hoá”; hai thuật
ngữ thường được sử dụng thay thế cho nhau, khi nói đến các nhóm dân tộc khác
nhau hợp tác và tham gia đối thoại với nhau mà không đánh mất bản sắc riêng của
mình. Từ điển Khoa học xã hội của nhà xuất bản Oxford, do Craig Calhoune biên
tập, đã định nghĩa thuật ngữ ở khía cạnh thuật ngữ mô tả, “đa văn hóa đề cập đến
sự chung sống của những người có nhiều bản sắc văn hóa trong một nhà nước, xã
hội hoặc cộng đồng chung”. Còn ở khía cạnh quy phạm, nó gắn liền với “niềm tin
rằng chủng tộc, sắc tộc và các nhóm khác nhau nên duy trì các nền văn hóa đặc
biệt của họ trong xã hội nhưng vẫn sống với sự khoan dung và tôn trọng lẫn nhau”
[20,323]. Theo cách hiểu này, Đa văn hóa bao hàm sự chấp nhận những cái khác
biệt, như trong tín ngưỡng và văn hóa dân tộc và tiệm cận dần đến việc xóa bỏ
hoàn toàn sự phân biệt chủng tộc. Có nghĩa là Đa văn hóa bao gồm các nguyên
tắc dân chủ như công bằng xã hội, bình đẳng, tự do, và tôn trọng phẩm giá con
người. Đây cũng là quan điểm của rất nhiều học giả theo hướng đa nguyên
(Pluralism) về chủng tộc và sắc tộc như Fowers & Richardson (1996) [21]; Gay
14
(2000) Watson (2002) và rất gần với định nghĩa Đa văn hoá của Từ điển
Cambridge về “các nền văn hóa khác nhau trong một xã hội nên được coi trọng”
[22]. Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội và Tổ chức Thư viện (IFLA) là cơ quan
quốc tế hàng đầu đại diện cho các dịch vụ thư viện và thông tin cũng đưa ra một
cách định nghĩa Đa văn hoá theo hướng “là sự chung sống của các nền văn hóa
đa dạng, trong đó văn hóa bao gồm các nhóm chủng tộc, tôn giáo hoặc văn hóa
và được thể hiện qua các hành vi phong tục, các giả định và giá trị văn hóa, các
kiểu tư duy và phong cách giao tiếp” [23]. Mở rộng định nghĩa này, nhà nghiên
cứu Tariq Modood, trong cuốn sách Chủ nghĩa Đa văn hóa: Một ý tưởng văn
minh, xuất bản năm 2007, cũng khẳng định rằng Đa văn hóa là một phương thức
hội nhập, khác với đồng hóa, hội nhập cá nhân và chủ nghĩa quốc tế. Đa văn hoá
dựa trên giá trị dân chủ cốt lõi của tự do, bình đẳng, và tình huynh đệ hoặc sự
thống nhất. Vì vậy, chủ nghĩa Đa văn hóa trở thành một chiến lược ngày càng cần
thiết cho các cá nhân, các nhóm trong quá trình hội nhập [24].
Một cách định nghĩa Đa văn hoá phổ biến nữa là từ quan điểm chính trị,
Đa văn hóa có liên quan chặt chẽ với bản sắc, sự khác biệt về chính trị, và các
chính sách liên quan đến các cộng đồng người nhập cư, các cộng đồng dân tộc
thiểu số, các nhóm bên lề, liên quan đến lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị.
Theo Bách khoa toàn thư Britannica, chủ nghĩa Đa văn hoá được hiểu là “các nền
văn hóa, chủng tộc và sắc tộc, đặc biệt là các nhóm thiểu số, xứng đáng được thừa
nhận đặc biệt về sự khác biệt của họ trong một nền văn hóa chính trị thống trị” [25].
Như vậy, cách hiểu này nghiêng về phía bảo vệ quyền lợi của những cộng đồng văn
hoá “ngoại biên” “bên lề”, tức là Đa văn hóa đã vượt ra khỏi chủ nghĩa đa nguyên,
mong muốn tạo ra xã hội mới thực tế từ các nhóm thiểu số bị gạt ra bên lề (Appiah,
1997 [26,30-35]; Gay, 1983 [27,560-563]; Goldberg, 1994 [28,113-137]; Nieto,
1999 [29,191-215], Sleeter & Montecinos, 1999 [30,113-137]. Từ quan điểm này
(Banks, 1991 [31]; Donaldson, 2001 [32], chủ nghĩa Đa văn hóa thúc đẩy công bằng
xã hội, tiếp cận bình đẳng và cơ hội cho thiểu số và các nhóm bị áp bức khác.
Nói một cách tổng quát, Đa văn hóa có thể định nghĩa dựa trên ý tưởng về
đa nguyên văn hóa, bình đẳng giữa tất cả các nhóm và tôn trọng sự đa dạng văn
hóa, nhưng cũng có thể giới thuyết khái niệm dựa vào lợi ích của nhóm thiểu số.
Trong luận án này, chúng tôi sẽ sử dụng định nghĩa Đa văn hoá theo cách hiểu
15
thứ nhất, trong bối cảnh xã hội đa chủng tộc, tôn giáo, văn hoá có thể chung
sống hoà bình và bình đẳng; ở đó con người có thể duy trì bản sắc, tự hào về
tổ tiên, truyền thống và có cảm giác gắn bó máu thịt với nơi mình thuộc về.
Đồng thời Đa văn hoá cũng bao hàm sự vận động, đấu tranh liên tục của
những giá trị văn hoá trung tâm - bên lề. Định nghĩa này sẽ góp phần giải quyết
vấn đề nghiên cứu và tiếp cận các tác phẩm văn chương như tiểu thuyết của V.S.
Naipaul, bởi lẽ ông là một nhà văn tha hương, viết về Đa văn hoá với một nỗi
niềm đau đáu đi tìm cái Tôi, để đến cuối cùng nhận ra rằng, nếu không có gốc rễ,
con người ta chỉ sống một “nửa đời”.
Từ khái niệm Đa văn hoá trên, đã xuất hiện những khía cạnh đa chiều cần
thảo luận trong nội hàm khái niệm. Thứ nhất, Đa văn hoá là vấn đề nội tại của
một nền văn hoá hay là vấn đề phái sinh của sự cấy ghép? Xét theo định nghĩa
của UNESCO, văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn và trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Như vậy, văn hoá
không chỉ là một cá thể đơn lẻ mà là một hệ thống động trong môi trường tương
tác, một tập hợp bao gồm nhiều bộ phận liên quan mật thiết đến nhau, trong đó
có truyền thống, giá trị, đức tin, văn học, nghệ thuật. Nhà nghiên cứu văn hoá nổi
tiếng thế giới, Will Kymlica đã từng định nghĩa về một nền văn hóa “cung cấp
cho các thành viên của mình những cách sống có ý nghĩa trong nhiều hoạt động
của con người, bao gồm đời sống xã hội, giáo dục, tôn giáo, giải trí và kinh tế,
bao gồm cả lĩnh vực công và tư” [33,76]. Do đó, có thể thấy được tính nội tại của
Đa văn hoá trong quá trình tương tác các yếu tố trong cùng một nền văn hoá, chứ
không đơn thuần là sản phẩm của tác động giữa các nền văn hoá khác nhau.
Thứ hai, Đa văn hoá là vấn đề đồng đại hay lịch đại? Có người xem Đa văn
hoá thuộc về phạm trù không gian, đồng đại, có nghĩa văn hoá Việt Nam, cùng
tồn tại song song với văn hoá Lào hay Nhật Bản… Trong khi đó, cũng có thể xem
xét tính đa văn hoá trong bình diện thời gian. Có nghĩa là văn hoá Việt Nam thế
kỉ XX khác với thế kỉ XV hay XVIII. Vậy nên Đa văn hoá có thể xét ở khía cạnh
khác biệt hoặc tương đồng của đối tượng theo cả đồng đại và lịch đại. Việc nghiên
cứu một tác phẩm văn chương từ Đa văn hoá cũng có thể xét trong mối quan hệ
với các tác phẩm của cùng thời kì, cũng như các sáng tác trước đó của cùng tác
16
giả hoặc một tác giả khác, để từ đó mở rộng ý nghĩa thông điệp cũng như các giá
trị nhân sinh mà nhà văn muốn gửi gắm.
Thứ ba, ta cũng cần xem xét một cách cẩn trọng khái niệm đa văn hóa theo cả
nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, Đa văn hoá đề cập đến một không gian
xã hội, trong đó những người khác nhau về truyền thống, ngôn ngữ, tôn giáo chung
sống cùng nhau, tôn trọng và duy trì bản sắc văn hoá của mình. Đa văn hóa gắn liền
với sự đa dạng trong xã hội hiện tại, sự đan xen nhiều yếu tố chủng tộc, ngôn ngữ và
văn hoá, sự dịch chuyển từ đồng hóa văn hóa độc tôn sang nền văn hoá đa nguyên.
Cùng quan điểm đó, Trần Đình Sử khi nghiên cứu về bản chất đa dạng của văn hoá
thì cho rằng: “Văn hóa ngoại biên của các quần thể dân cư là biểu hiện nổi bất của
tính đa dạng và hình thức biểu hiện trong một nền văn hóa dân tộc” [34]. Theo nghĩa
hẹp, Đa văn hoá được nhà lí luận chính trị người Anh, Bhikhu Parekh đưa ra một
định nghĩa một cách đơn giản hơn “không phải là một học thuyết chính trị hay một
vấn đề triết học, mà là một cách nhìn cuộc sống của con người” [35,336]. Đây là một
cách nhìn tuy giản dị, dễ hiểu nhưng có tầm bao quát, bởi Đa văn hoá cũng có thể
coi là đa điểm nhìn, hay thêm một cách nhìn khác về sự vật, hiện tượng.
Cũng cần phân biệt khái niệm Đa văn hoá (multiculturalism) với các khái
niệm gần gũi như Liên văn hoá (Interculturality) và Giao thoa văn hoá (Cross-
Culture). Đều là hệ quả tất yếu của sự bùng nổ của kỉ nguyên kết nối công nghệ,
truyền thông, dư thừa thông tin, xoá nhoà ranh giới giữa các quốc gia, sự lên ngôi
của tư tưởng “thế giới phẳng” hay “thế giới là một ngôi làng”, nhưng hai thuật
ngữ Đa văn hoá với Liên văn hoá có những khác biệt nhất định. Nếu Đa văn hoá
nhấn mạnh hơn đến sự tham gia đồng thời của nhiều yếu tố, nhiều khía cạnh của
các nền văn hoá khác nhau thì Liên văn hoá nghiêng về khía cạnh tương liên, đối
thoại với các giá trị văn hoá. Theo Lê Huy Bắc, sự phân biệt hai khái niệm này
của văn học nằm trong quá trình tiếp nhận, từ phía người đọc và từ các nhà nghiên
cứu. Đa văn hoá trong tác phẩm sẽ chuyển thành Liên văn hoá khi được tiếp nhận.
Văn hoá trong tác phẩm, khi chưa đến với người đọc thì ở trạng thái “tĩnh”, khi
tiếp xúc với người đọc thì nó chuyển sang trạng thái “động”, trạng thái “tương
tác” để tạo nghĩa. Đối với người nghiên cứu, thì khi muốn chỉ ra các thuộc tính
đa văn hoá của một tác phẩm, phải vận dụng vốn hiểu biết của mình để phân biệt
biểu hiện văn hoá đó thuộc lớp văn hoá nào, thuộc thời đại hay quốc gia nào và
17
“ưu tiên tìm “số lượng”, xem có bao nhiêu “nghĩa - kí hiệu” hay tầng bậc văn hoá
ẩn trong tác phẩm; còn liên văn hoá là thiên về việc đi tìm “nghĩa - tạo sinh” của
kí hiệu văn hoá đó trong khả năng tiếp nhận” [36]. Vậy nên, liên hay đa văn hoá
cũng chỉ là cách nhìn từ các góc độ khác nhau của cùng một vấn đề. Từ đây, ta có
thể tạm khái quát, khi nào muốn giải trung tâm thì người ta dùng Đa văn hoá, còn
khi nào muốn nhấn mạnh sự tương liên, quá trình “lai ghép” như lí thuyết của
Bhabha, thì ta dùng Liên văn hoá. Tính lai ghép trong tâm lí học và văn học gắn
liền với tên tuổi của lí thuyết gia về hậu thuộc địa, Homi Bhabha (1949). Ông phát
triển tư tưởng của Edward Said về “các nền văn hóa có sự lai tạp và không đồng
nhất [cộng] và phụ thuộc lẫn nhau, do đó, sự lai tạo có thể được xem không chỉ là
kết quả của toàn cầu hóa, nhập cư và thuộc địa, mà là một tình huống liên tục tiếp
diễn (constant circumstance) trong sự phát triển của mọi nền văn hóa” [36,347].
Giao thoa văn hoá thiên về việc so sánh và hoà trộn các nền văn hóa khác
nhau. Trong giao thoa văn hóa, người ta thừa nhận sự khác biệt, và có thể dẫn đến
sự thay đổi cá nhân, nhưng không phải là sự biến đổi tập thể. Trong các xã hội
giao thoa văn hóa, một nền văn hóa thường được coi là tiêu chuẩn và tất cả các
nền văn hóa khác được so sánh hoặc đối lập với văn hóa thống trị. Sơ đồ sau đây
sẽ khái quát sự khác biệt giữa ba thuật ngữ này [38].
Hình 1.2: Sơ đồ mô tả (a) đa văn hóa, (b) liên văn hóa và (c) giao thoa văn
hóa (phỏng theo Schriefer, 2018).
Một thuật ngữ khác cũng dễ gây nhầm lẫn với Đa văn hoá, là Chủ nghĩa đa
nguyên (Pluralism). Đa văn hoá liên quan đến sự duy trì, hỗ trợ sự khác biệt của
các nhóm dân tộc và / hoặc văn hóa, như định nghĩa của từ điển Oxford thiên về
18
các đặc điểm của một xã hội đa văn hóa; hay chính sách hỗ trợ, gìn giữ bản sắc
riêng biệt của các nhóm văn hóa trong một xã hội, như “việc thực hành coi trọng
tất cả các nền văn hóa trong một xã hội” [16]. Trong khi đó, đặc trưng của chủ
nghĩa đa nguyên là sự khoan dung và chấp nhận thụ động hơn, theo như định nghĩa
của thuật ngữ này, “sự hiện diện hoặc khoan dung tính đa dạng của các nhóm dân
tộc hoặc văn hóa trong một xã hội hoặc nhà nước; (chủ trương) khoan dung hoặc
chấp nhận sự cùng tồn tại của các quan điểm, giá trị, văn hóa khác nhau...
Chủ nghĩa Đa văn hoá có ý nghĩa, tầm quan trọng, ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực của đời sống nhân loại. Trong một vài thập niên trở lại đây, cùng với quá
trình toàn cầu hoá, thuật ngữ đa văn hoá là một từ khoá tìm kiếm phổ biến và là
đề tài cho nhiều thảo luận mang tầm vĩ mô từ chính sách hội nhập, chế độ phúc
lợi cho người nhập cư, cho đến giáo dục và nghệ thuật. Đây là một lí thuyết đa
ngành và liên ngành, có khả năng ứng dụng cao, phù hợp với bối cảnh toàn cầu
hoá và các làn sóng di cư đang định hình và tái cấu trúc xã hội. Theo Blum, nếu
chủ nghĩa chống phân biệt chủng tộc tập trung vào việc đối xử bất công và sự
phản kháng thì Chủ nghĩa Đa văn hoá làm nổi bật đời sống văn hóa, biểu hiện và
thành tựu văn hóa [39,14]. Các nghiên cứu triết học, xã hội học, nhân chủng học,
tâm lí học xã hội, khoa học chính trị, phương pháp giảng dạy, nghiên cứu văn hoá,
nghiên cứu chủ nghĩa hậu thực dân, trong những năm gần đây, đều có ít nhiều
liên quan đến lí thuyết này. Nhận thức được tầm quan trọng của đa dạng văn hoá
trong các vấn đề toàn cầu và mục đích phát triển của nhân loại, UNESCO đã chính
thức lấy ngày 21/5 hàng năm là Ngày Thế giới về Đa dạng văn hoá vì Đối thoại
và Phát triển. Trong tuyên bố lần 31, ngày 02/11/2001, UNESCO đã thông qua
tuyên ngôn thế giới về đa dạng văn hoá, trong đó điều 1 đã nêu rõ vai trò của đa
văn hoá là “khởi nguồn cho giao lưu, đổi mới, và sáng tạo, đa dạng văn hoá cũng
cần thiết đối với nhân loại như đa dạng sinh học đối với tự nhiên và do đó “đa
dạng văn hoá chính là tài sản chung của nhân loại” [40] và là một trong những
căn nguyên của sự phát triển. Điều này đặc biệt đúng với các quốc gia đa sắc tộc,
như Australia, Canada, Mỹ... Với hơn 50 triệu người nhập cư trong suốt thế kỉ
qua, nước Mĩ đã chứng kiến làn sóng di dân nhiều nhất thế giới; do đó chính sách
văn hoá nhất nguyên không còn phù hợp. Nhiều nhà giáo dục học của Mĩ ý thức
về sự đa dạng của “bát trộn salad” (salad bowl) hay “nồi lẩu” (melting pot), đã
19
nghiên cứu về đa văn hoá trong môi trường giáo dục nhằm xây dựng chương trình
học phù hợp với người học đến từ nhiều nền văn hoá khác nhau. Nhà nghiên cứu
Williams cho rằng công nhận giáo dục đa văn hóa không chỉ là sự công nhận các
khía cạnh đời sống văn hóa thực tế của một nhóm (ví dụ như nghệ thuật và văn
học Mĩ gốc Phi) mà còn phải đồng thời thừa nhận quá trình lệ thuộc và kinh
nghiệm lẫn nhau giữa các nền văn hoá [41,18-41]. Đặc biệt, trong hệ thống giáo
dục đó, không thể không kể đến dòng văn học đa văn hoá. Tác giả Mingshui Cai
trong cuốn Văn học đa văn hóa cho trẻ em và thanh niên: Những suy ngẫm về các
vấn đề quan trọng đã khẳng định vị trí của văn chương đa văn hóa dành cho học
sinh phổ thông đóng vài trò then chốt trong chương trình giảng dạy [42].
Tóm lại, đa văn hoá là thuật ngữ ra đời và phát triển ở các nước phương Tây
trước tiên, sau đó lan rộng ra khắp thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Đa văn hoá bao gồm ý thức về căn tính, nhu cầu được công nhận bản sắc và duy trì
sự khác biệt. Đa văn hoá là một cách để hiểu, để diễn đạt và thể chế hoá căn tính
trong một xã hội đa dạng sắc tộc. Đây là một thuật ngữ mang tính liên ngành, có
tính ứng dụng cao, đặc biệt là trong khoa học nhân văn như văn hoá và văn học.
1.1.3. Đa văn hoá trong văn học
Từ câu hỏi về Đa văn hoá như trên, có thể suy ra đây là đặc tính xuất hiện
từ văn học phương Tây cổ đại, như Hi Lạp và La Mã. Tuy vậy, đặc trưng này
ngày càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết trong văn học thế kỉ XX, đánh dấu một
kỉ nguyên toàn cầu hoá. Trong đó, những tư tưởng nhất nguyên, những định kiến
về một nền văn hoá bá quyền phải dần dần nhường chỗ cho sự lên ngôi của tư
tưởng thế giới phẳng hay thế giới là một ngôi làng. Nhờ đó, văn chương được
tiếp nhận rộng rãi hơn qua mạng Internet, qua các kênh truyền thông quảng bá,
và nhất là các văn bản số hoá. Thứ hai, ngày càng có nhiều các trường phái hiện
đại và hậu hiện đại, giải cấu trúc, phân tích những đổ vỡ cũng như tính đan xen
của nhiều lớp diễn ngôn trong văn bản. Người đọc tiếp nhận văn bản từ những
điểm mù văn hoá, từ chủ nghĩa tự kỉ trung tâm sẽ không đào sâu được các lớp
nghĩa tiềm tàng của ngôn từ, rất dễ bỏ qua những cái độc đáo trong sự sáng tạo
của nhà văn. Lí thuyết Đa văn hoá như định nghĩa của từ điển Oxford là “sự hiện
diện hoặc hỗ trợ cho sự hiện diện của một số nhóm văn hóa hoặc dân tộc riêng
biệt trong một xã hội” [16] đã mở ra một hướng đi mới khi tìm tòi những giá trị
20
văn hoá pha trộn trong tác phẩm văn học, đồng thời thúc đẩy độc giả phải luôn
chấp nhận, tôn trọng các giá trị đó trước khi tìm kiếm những đối thoại văn hoá.
Trong bài báo Toàn cầu hoá và xu hướng đa văn hoá, liên văn hoá trong văn học
(nhìn từ văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI), Thái Phan Vàng Anh cũng cho rằng:
“Trong văn học, đa văn hóa và liên văn hóa là một xu thế không thể khác khi các nhà
văn chuyển từ việc nhận thức đời sống chỉ từ góc nhìn dân tộc tính sang một cái nhìn
đa chiều hơn, ưu tiên hướng đến đến những giá trị mang tầm nhân loại” [43].
Một tiền đề nữa cho tính đa văn hoá trong văn học chính là xã hội học văn
học, bổ sung thêm cách tiếp cận văn học từ bên ngoài như vai trò của nhà văn
trong xã hội và yếu tố văn học trong quá trình sáng tác của nhà văn. Nghiên cứu
văn chương đa văn hoá đã mở rộng nội hàm của lí thuyết này, không chỉ dừng lại
ở các nhóm thiểu số, văn hoá ngoại biên, mà theo Botelho và Rudman (2009),
thực chất đặc trưng của văn chương là tính đa văn hoá, bởi lẽ “tất cả các sáng tác
đều chứa đựng trong mình yếu tố đa dạng văn hoá” [45]. Trong bài báo Truyện
của tôi, truyện của bạn, truyện chúng ta: Sự kết nối và các vấn đề văn hoá trong
văn học thiếu nhi năm 2011, các nhà nghiên cứu Williams và Christensen nhận
định rằng tuy nhìn từ bên ngoài, những người cùng chủng tộc, cùng dân tộc có vẻ
giống nhau, nhưng trên thực tế, họ có bản sắc văn hoá riêng biệt [46,52-57]. Nếu
xét từ góc độ này, bản thân tác giả đã luôn tiềm ẩn tính đa văn hoá trong sáng tác,
văn bản, do đó, chịu sự chi phối của thuộc tính này và khi tiếp nhận, người đọc
lại là một bản thể văn hoá khác trong quá trình đối thoại với văn bản. Những tác
phẩm trong dòng văn học đa văn hoá (multicultural literature) mô tả cuộc sống,
văn hoá, tín ngưỡng của các vùng miền khác nhau trên khắp thế giới, thoát khỏi
tính khuôn mẫu, khái quát hoá văn hoá của một nhóm người trong xã hội. Dòng
văn học này có thể giúp người đọc “nuôi dưỡng sự tôn trọng, đồng cảm, và chấp
nhận” [47,88-92] thúc đẩy tính tương tác giữa các nền văn hoá. “Những câu
chuyện miêu tả sự đa dạng văn hoá sẽ giúp chúng ta nhận ra rằng chủng tộc không
phải là rào cản, mà tạo nên vẻ đẹp muôn màu của thế giới đa văn hoá”. Theo Lê
Huy Bắc, “tính đa văn hoá của văn học là cây cầu nối những giá trị nhân văn qua
mọi không gian và thời gian nếu tác phẩm đạt đến đỉnh cao về giá trị nghệ thuật
và tư tưởng” [48]. Nghiên cứu trường hợp của Smith (1995) trên các sinh viên
người Mĩ gốc Phi cũng khẳng định quan điểm này, qua việc tiếp nhận văn học sẽ
21
hứng thú hơn nhiều nếu đọc văn bản liên quan đến nền văn hoá có liên quan đến
cá nhân. Agosto cũng có cùng quan điểm khi cho rằng các khái niệm quen thuộc
(concepts) trong văn học đa văn hoá “tạo nên cảm giác an toàn, thân quen, sự tự
tin, giúp cho việc học tập diễn ra dễ dàng hơn” [49,27-31].
Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu văn hoá, và lí thuyết nghiên cứu đa
văn hóa, lí thuyết hậu thuộc địa chính là tiền đề mở đường cho lí thuyết nghiên
cứu văn học thông qua đa văn hóa. Văn học, nằm trong “tổng thể (văn hoá),
một hệ thống bao gồm những yếu tố như ngôn ngữ, phong tục tập quán, luật pháp,
tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn...” [1]. Văn học, do
vậy, vừa là một sản phẩm của văn hoá, vừa mang bản sắc văn hoá và đặc trưng
đa văn hoá. Đi tìm các biểu hiện của đa văn hóa trong sáng tác, để từ đó tìm ra
bản sắc đa văn hóa, vượt lên trên biên giới quốc gia và vùng lãnh thổ, thiết nghĩ
là một việc làm cần thiết. Đa văn hoá làm cho nội dung tác phẩm thêm giàu đẹp,
phong phú, đa tầng bậc các lớp nghĩa kí hiệu và đặc biệt là tiếp cận với lượng độc
giả lớn hơn. Theo nhà nghiên cứu Ashok Chaskar trong cuốn Chủ nghĩa Đa văn
hoá trong tiểu thuyết Ấn Độ sáng tác bằng tiếng Anh, thì tiểu thuyết có vai trò lớn
hơn so với các loại hình văn học khác trong việc phản ánh cuộc sống con người
và văn hoá xã hội, do đó, thành công của một tiểu thuyết gia phụ thuộc vào chiều
sâu mà anh ta phản ánh được cái căn cốt văn hoá của xã hội trong sáng tác của
mình [50]. Một minh chứng tiêu biểu là tiểu thuyết gia Canada trong thế kỉ XX,
Mordecai Richler, với các sáng tác nhấn mạnh tầm quan trọng của người nhập cư
và sự đa dạng sắc tộc của cư dân bản địa. Các nhân vật như Noah Adler trong tiểu
thuyết Con trai của một anh hùng bé nhỏ hơn (Son of a Smaller Hero) của ông
đều đại diện cho các nhóm văn hóa thiểu số, luôn phải đấu tranh để thoát khỏi
những ràng buộc, áp đặt của cộng đồng đa số bao quanh mình. Bản thân tác giả
là người Do Thái; tiểu thuyết của Richler là tấm gương phản chiếu đa nguyên văn
hóa và các hình thức đa văn hóa khác nhau ở cả mặt tích cực cũng như tiêu cực,
giúp người đọc có một cái nhìn đa chiều về người nhập cư. Điều này cũng trùng
khớp với nhận định: “Một quốc gia mà chỉ thừa nhận có văn hóa chủ lưu, đánh
mất sự đa dạng văn hóa thì cũng có nghĩa là đánh mất năng lực sáng tạo mới của
nền văn hóa. Một nền văn hóa đơn nhất, đơn điệu là không thích hợp với sự sinh
tồn, phát triển của xã hội hiện đại” [51].
22
Cách tiếp cận văn chương từ các “ngữ cảnh bao quanh văn chương, những
tác nhân đã làm văn chương trở nên đa diện” đã mở ra một hướng đi thiết thực và
“một trong những nhu cầu nghiên cứu văn học chính là được trình bày một đối
thoại văn hóa” theo quan điểm của Trần Ngọc Vương [52]. Có lẽ vì thế mà nguồn
tài liệu tiếng Anh liên quan đến mối tương quan giữa văn học và đa văn hoá cũng
rất đa dạng, như 2.168 cuốn sách, 1.184 bài báo chuyên ngành, theo thống kê của
trang questia.com - một kho lưu trữ kĩ thuật số các sách và bài báo có định hướng
học thuật. Trong nguồn tài liệu này đáng chú ý có cuốn Bách khoa toàn thư về
Chủ nghĩa Đa văn hóa - tập 4, do Susan Auerbach chủ biên, xuất bản năm 1994,
nghiên cứu dân tộc học, quan hệ dân tộc, quan hệ chủng tộc [53]. Trong cuốn
Bách khoa toàn thư về Chủ nghĩa Đa văn hoá – tập 8, dày hơn 2000 trang, tác giả
tiếp tục trình bày lí thuyết dưới dạng đề mục theo bảng chữ cái, bàn về một loạt
vấn đề liên quan đến cuộc sống đời thường của người dân Mĩ như chiến tranh
Việt Nam, quyền bầu cử năm 1982… [54]. Ngoài ra, cuốn Văn học Hoa Kì trong
quá trình thành hình: Từ chủ nghĩa Đa văn hóa đến chủ nghĩa thế giới vào cuối
thế kỉ XX của tác giả Patell xuất bản tại Nhà xuất bản Đại học New York năm
2014, luận bàn về văn học Mỹ, tập trung vào các tác giả từ các dân tộc thiểu số,
phê bình đa văn hóa trong văn học [55].
1.1.4. Đa văn hoá từ Edward Said đến Stuart Hall, Doreen Massey và Ander
Hanberger
Vậy tình hình nghiên cứu văn chương từ lí thuyết Đa văn hoá trên thế
giới đang diễn ra như nào? Chúng tôi nhận thấy quá trình tìm tòi, khám phá các
biểu hiện đa văn hóa trong các tác phẩm cho đến thời điểm hiện tại có phương
pháp phân tích văn bản Đa văn hoá dựa trên các quan điểm của các nhà tư tưởng
có ảnh hưởng nhất trong thuyết Đa văn hoá như Stuart Hall, Charles Taylor và
Will Kymlicka, Avtar Brah, Arjun Appadurai, Benedict Anderson, Stephen
Greenblatt, C.W.Watson, Peter McLaren, David Theo Goldberg, Edward Said,
Tariq Modood, và một vài nhà nghiên cứu khác. Trong khuôn khổ luận án, chúng
tôi sẽ trình bày vắn tắt một số lí thuyết gia có ít nhiều ảnh hưởng nhất đến chủ
nghĩa Đa văn hoá: Edward Said – Đông phương luận và Jasbir Jain – sự lạc
lõng và đa văn hoá. Sau đó, chúng tôi sẽ đi sâu vào các lí thuyết Đa văn hoá có
khả năng ứng dụng nhiều nhất khi tìm hiểu tiểu thuyết của V.S. Naipaul.
23
Thứ nhất, không thể không kể đến tầm ảnh hưởng quan trọng của lí thuyết hậu
thuộc địa của Edward Said đối với việc nghiên cứu văn chương. Nếu xét đến hoàn
cảnh lịch sử và xã hội của các quốc gia từng bị thực dân cai trị, đa văn hóa là một vấn
đề lịch sử thuộc địa và các xung đột về bản sắc. Sau khi giành được độc lập, thì việc áp
dụng các lí thuyết phương Tây vào bối cảnh xã hội, văn hoá bản xứ đã không còn phù
hợp. Một mặt, người ta bắt đầu có một cách kiến giải văn học đặc biệt của các nước
thuộc địa cũ, là qua lí thuyết hậu thực dân, dưới ảnh hưởng của hình thức diễn ngôn của
Edward Said trong cuốn sách nổi tiếng Đông phương luận (Orientalism). Tác giả định
nghĩa “phương Đông” như một “cái khác” (other) so với “phương Tây”. Cái khác ở đây
hàm nghĩa cả sự khác biệt lẫn bản sắc. Said nhấn mạnh “Một trong những tiến bộ vĩ đại
của lí luận văn hoá hiện đại là người ta đã nhận thức được – và hầu như cả thế giới đã
thừa nhận rằng – mọi nền văn hoá đều có tính lai ghép và không thuần nhất” [56,xxv].
Tác giả khẳng định chủ nghĩa Đa văn hoá là hệ quả tất yếu của lịch sử thực dân – thuộc
địa, đã trở thành như một đặc điểm của đời sống, lịch sử, văn hoá và văn học. Do đó,
phương Tây không nên bỏ qua vị trí văn hóa đặc biệt của những nền văn hoá khác;
những người không phải là người phương Tây không nên được định nghĩa là Khác
(Other) và các nền văn hoá nên chung sống hòa hợp với nhau. Thời kì thuộc địa đã tạo
ra môi trường chung sống cho các nền văn hóa khác nhau; tuy nhiên, từ đó cũng phát
sinh các mâu thuẫn của sự khác biệt giữa Phương Đông (the Orient) và phương Tây (the
Occident). Ở phương Tây, nhiều người đã hình thành một định kiến về các nền văn hoá
phương Đông đều giống nhau, đồng nhất và thấp kém hơn so với phương Tây.
Sự khác biệt Đông - Tây được phản ánh trong triết học và chính trị, và khơi gợi
cảm hứng sáng tác của khá nhiều nhà văn về phong cách sống, chuẩn mực xã hội,
thói quen hàng ngày và quan điểm của người phương Đông. Trong cách nhìn nhận
một tác giả hậu thuộc địa, thì Đông Phương luận sẽ phần nào làm sáng rõ tư tưởng,
phong cách sáng tác có “tính lai ghép” hay “thuần nhất”. Mặt khác, cũng có thể áp
dụng lí thuyết này trong việc nghiên cứu lịch sử và tình hình tiếp nhận các tên tuổi
lớn như James Joyce, William Faulkner,… tại các nước thuộc địa, theo một cách
toàn cầu; nghĩa là, không chỉ đánh giá ông từ điểm nhìn của phương Tây, mà còn từ
điểm nhìn của các quốc gia/ vùng lãnh thổ thuộc địa. Các góc nhìn đa chiều đó sẽ
gợi mở nhiều hướng đánh giá tác giả, tác phẩm và người đọc mới mẻ và phù hợp
hơn với bối cảnh toàn cầu hoá.
24
Thứ hai, lí thuyết Đa văn hoá cũng có thể cung cấp một chìa khoá giải mã
cảm quan sáng tác của những tác giả với đề tài tha hương. Trong một thế giới toàn
cầu hoá, đa thanh, tiềm tàng rất nhiều bất ổn về chính trị và kinh tế, xã hội, con
người dễ cảm thấy cô độc, lạc lõng, tách biệt khi sống cuộc đời tha hương, vượt
qua biên giới lãnh thổ và những lằn ranh văn hoá. Tác giả Jasbir Jain đã viết trong
cuốn sách Sự lạc lõng và đa văn hóa (Dislocations and multiculturalism): “những
kí ức về văn hóa có xu hướng xuất hiện nhiều lần và thiết lập mối liên hệ với tương
lai; không cho người ta nắm bắt mối quan hệ với quá khứ. Lịch sử chi phối các mối
quan hệ quyền lực và can thiệp vào việc xây dựng hiện tại” [57, xii]. Cuốn sách đặt
ra câu hỏi nhức nhối của thời đại: liệu người di cư có mối liên hệ nào với quê nhà
và với quốc gia đang cư trú? Những biến đổi về văn hoá, chính trị khi định cư ở
Châu Phi, Fiji, quần đảo Caribe, Anh, Mỹ, Canada, Pakistan và Bangladesh, đã
thay đổi quan điểm và quan điểm của họ như thế nào? Trả lời những câu hỏi trên
sẽ làm sáng rõ nguyên nhân của những chấn thương tinh thần, nỗi buồn tha hương
và mặc cảm lưu lạc thường trực trong sáng tác của Joseph Conrad, V.S. Nailpaul
và nhiều nhà văn di cư khác, như câu chuyện của những người Trinidad ngây thơ
giữa thủ đô London trong cuốn tiểu thuyết Những người Luân Đôn cô đơn của
Samuel Dickson Selvon, hay số phận đen tối của Mustafa Sa’eed trong Mùa di cư
lên phía Bắc của nhà văn Sudan, Tayeb Salib. Như vậy, có thể thấy lí thuyết Đa
văn hoá đã cung cấp một mô hình khung cơ sở cho một số nghiên cứu văn chương
trên thế giới, chứng tỏ đây là một nghiên cứu liên ngành đầy triển vọng.
Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt ba mô hình Đa văn hoá có khả năng ứng
dụng cao trong quá trình đọc văn bản của V.S. Naipaul: thuyết căn tính và nơi chốn
của Doreen Massey, thuyết về bản thể bất định của Stuart Hall và ba mô hình Đa văn
hoá của Anders Hanberger.
Doreen Massey – Căn tính và nơi chốn
Doreen Massey (1944-2016) là một nhà khoa học xã hội và địa lí học người
Anh, chuyên gia nghiên cứu về địa lí mác xít, địa lí nữ quyền và địa văn hóa. Các
lĩnh vực nghiên cứu chính của Massey là toàn cầu hóa, sự bất bình đẳng trong phát
triển các khu vực, các thành phố và giới thuyết lại khái niệm về địa điểm. Trải nghiệm
của bà cũng rất phong phú, là giảng viên trường Đại học Mở, trường đại học công
lập lớn nhất nước Anh và cũng có kinh nghiệm làm việc ở Nicaragua, Nam Phi và
25
Venezuela. Những nghiên cứu của bà về không gian, địa điểm và quyền lực có tầm
ảnh hưởng lớn trong một loạt các ngành và lĩnh vực nghiên cứu liên quan.
Một công trình nghiên cứu nổi tiếng của Doreen Masey là cuốn Không gian,
Địa điểm và Giới tính (Space, Place and Gender), xuất bản năm 1994. Cuốn sách
được sắp xếp xoay quanh ba chủ đề đã nêu trong nhan đề, đào sâu tìm hiểu sự
phát triển của các ý tưởng về bản chất xã hội của không gian và địa điểm và mối
liên hệ của cả hai vấn đề với giới tính và các cuộc tranh luận trong chủ nghĩa nữ
quyền. Bắt đầu từ nền kinh tế và cấu trúc xã hội của quá trình sản xuất, tác giả
đưa ra một khái niệm rộng hơn về không gian như là sản phẩm của các mối quan
hệ xã hội giao thoa. Ngược lại, chính điều này dẫn đến khái niệm “địa điểm” về
cơ bản là cởi mở và lai tạp, luôn mang tính tạm thời và ẩn chứa nhiều tranh chấp.
Những chủ đề này được đặt trong những suy tư về bản sắc trong cả chủ nghĩa nữ
quyền và nghiên cứu văn hóa, gợi mở các hướng nghiên cứu liên ngành giữa địa
lí, lí thuyết xã hội, nghiên cứu phụ nữ và nghiên cứu văn hóa.
Trong một nỗ lực giới thuyết các khái niệm về không gian và địa điểm trong
các mối quan hệ xã hội, Doreen Massey tập trung vào từng khía cạnh như Không
gian và Mối quan hệ xã hội, Địa điểm và Bản sắc, và Không gian, Địa điểm và
Giới tính. Bằng khả năng tư duy khúc chiết và ngôn từ rõ ràng, Doreen Massey
muốn truyền tải đến độc giả các các lớp đan xen, giao hoà giữa các cặp phạm trù:
giới tính với giai cấp, kinh tế với văn hóa, nữ tính với nam tính, địa phương với
toàn cầu, không gian với thời gian,... Trong đó, bà đặc biệt quan tâm đến khái
niệm về căn tính và địa điểm, tính độc đáo và tầm quan trọng của địa điểm trong
việc hình thành bản sắc cá nhân.
Thuật ngữ “identity” trong tiếng Anh có thể dịch sang tiếng Việt với nghĩa
chung là cá tính, đặc tính, nét để nhận biết, nhận dạng, hoặc nhận diện một ai đó
hoặc một vật gì. Khi xét theo nét nghĩa, thuật ngữ này sẽ có hai cách hiểu: là bản
sắc hoặc căn tính. Trong lí thuyết của Doreen Massey, chúng tôi sẽ dùng nghĩa
“căn tính” bởi khái niệm của bà liên quan đến gốc rễ, căn nguyên sâu xa của bản
sắc gắn liền với địa điểm. Khái niệm Đa văn hóa của chuyên gia về địa văn hoá -
Doreen Massey bao gồm khái niệm về căn tính và địa điểm, những ràng buộc với
gốc rễ truyền thống có thể dẫn đến một căn tính tương đối ổn định. Nguyên do là
mỗi nơi không phải chỉ có bản sắc duy nhất, mà chứa đầy những mâu thuẫn nội
26
bộ; xung đột về những gì đã qua tức là di sản, và xung đột là nền tảng của sự phát
triển hiện tại, và là tương lai. Do đó, không thể phủ nhận tính độc đáo và tầm quan
trọng của địa điểm.
Trong cuốn sách Không gian, địa điểm và giới tính, Doreen Massey cho rằng
“sự hạn chế di chuyển trong một không gian, sự cố gắng kí gửi / giam cầm ở một nơi
cụ thể” sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những hạn chế về căn tính. Địa điểm theo cách hiểu
của Massey, không phải là một số khái niệm tĩnh của sự tồn tại, mà là một bội số của
rất nhiều tác động, chịu ảnh hưởng của những mối quan hệ, đàm phán, và quyền lực.
“Cái đặc biệt của một địa điểm không phải là sự lãng mạn của một tập hợp bản sắc có
sẵn hay là sự vĩnh cửu của những ngọn đồi” [58]. Bà cho rằng một địa điểm trở nên
đặc biệt chính là nhờ vào rất nhiều yếu tố đan xen: lịch sử và địa lí của những thứ cùng
tồn tại, và là nơi chứng kiến cuộc đàm phán giữa con người và sự vật. Minh chứng rõ
nét cho luận điểm này là Keswick - một thị trấn ở Lake District, Vương quốc Anh -
một thị trấn gắn liền với những ngọn đồi nhấp nhô, thơ mộng, trước kia rất phát triển
nông nghiệp và giờ là du lịch. Khi đến thăm Keswick, Massey phát hiện ra rằng điều
đặc biệt ở nơi này, và tất cả những nơi khác, là ‘tính đồng nhất’ (throwntogetherness)
của nó - cách mà các yếu tố đa dạng vượt qua các phạm trù tự nhiên hoặc xã hội để
nuôi dưỡng một điều cụ thể ‘ở đây và bây giờ’ (here and now).
Tư tưởng này của Doreen Massey gợi nhắc đến “điều kiện hậu hiện đại” ngày
nay, đặc biệt là ở các nước phương Tây phát triển, theo Lyotard, người ta có thể
“nghe reggae, xem một bộ phim viễn tây, ăn đồ McDonald vào bữa trưa và dùng
ẩm thực địa phương vào bữa tối, dùng nước hoa Paris ở Tokyo và mặc quần áo
retro ở Hồng Kông” [59,3] nhưng mỗi một địa điểm sẽ cảm nhận về ý nghĩa của
văn hóa toàn cầu này theo các cách khác nhau. Quan niệm của con người về một
địa điểm không chỉ đơn giản là từ bên trong chính địa điểm đó, từ lịch sử, địa lí mà
bao trùm cả chiều từ ngoài không gian đó, các hoạt động, mối quan hệ liên kết giữa
nơi này và nơi khác. Nói cách khác, khi xem một địa điểm cụ thể, chúng ta phải xét
trên quy mô ảnh hưởng lớn hơn, trong mối quan hệ đa chiều hơn.
Ngoài ra, trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Không gian khoa học xã
hội, Doreen Massey nhấn mạnh tầm quan trọng của không gian trong cuộc
sống con người. Bà khẳng định “không gian không phải là một bề mặt phẳng
mà chúng ta đi qua; Raymond Williams đã nói về điều này: khi chúng ta đi
27
tàu qua một quang cảnh - ta không đi qua một bề mặt phẳng chết chóc mà là
không gian: ta đang cắt ngang qua vô số câu chuyện đang diễn ra. Vì vậy,
thay vì không gian là bề mặt phẳng này, nó giống như một cái gối nhỏ, giắt
ghim hàng triệu câu chuyện: nếu ta dừng lại ở bất kì điểm nào trong chuyến
đi đó, ta sẽ có một ngôi nhà với một câu chuyện. Raymond Williams đã nói
về việc nhìn ra cửa sổ xe lửa và có người phụ nữ này đang rửa một cái sàng,
rồi anh tăng tốc và mãi mãi trong tâm trí anh, cô ấy bị mắc kẹt lại ở khoảnh
khắc đó. Nhưng trên thực tế, tất nhiên, người phụ nữ đó đang bận làm một
việc khác, đó là một câu chuyện. Có thể ngày mai cô ấy sẽ đi xa để gặp em
gái, nhưng thực sự trước khi đi, cô ấy cần rửa sạch cái sàng vì đã có ý định
làm điều đó từ lâu rồi. Vì vậy, tôi muốn xem không gian như một phần cắt
qua vô số câu chuyện mà tất cả chúng ta đang sống tại bất kì thời điểm nào.
Không gian và thời gian trở nên kết nối mật thiết” [60].
Như vậy, qua ví dụ của thị trấn Keswick – một địa điểm tĩnh và hành trình
của đoàn tàu - một loại chuyển động, Doreen Massey muốn giới thuyết lại khái
niệm không gian, nhằm tạo nên sự thay đổi trong cách nhìn nhận của mọi người
về khái niệm này. Đồng quan điểm này với Massey là Marcus Doel trong cuốn
Địa lí theo chủ nghĩa hậu cấu trúc: Nghệ thuật dị hóa của khoa học không gian.
Dựa trên lí thuyết của một loạt các nhà hậu cấu trúc, Doel lập luận rằng “tốt hơn
là tiếp cận không gian như một động từ hơn là một danh từ” [61]. Trong tiếng
Anh, từ “space” vừa là danh từ có nghĩa là khoảng trống, khoảng cách giữa hai
hay nhiều vật hoặc điểm, vừa là động từ mang nghĩa đặt cách nhau hay chèn
khoảng trống. Doel cho rằng hiểu theo nghĩa của động từ, thì thuật ngữ Space là
một hành động, một sự kiện, một cách tồn tại.
Từ quan điểm “Địa điểm không chỉ có căn tính duy nhất và độc đáo mà ẩn
chứa nhiều mâu thuẫn nội bộ” (internal conflicts) [58,155], Massey đưa ra ví dụ
về London Docklands một bến tàu cũ nằm ở nội thành phía đông và đông nam
thủ đô nước Anh, từng có thời nằm trong Cảng Luân Đôn, bến cảng vận chuyển
lớn nhất thế giới. Nơi đây là minh chứng rõ nét cho một địa điểm ẩn chứa nhiều
mâu thuẫn: mâu thuẫn nằm trong quá khứ của nó như nào (bản chất của “di sản”),
mâu thuẫn về sự phát triển hiện tại nên như thế nào, mâu thuẫn trong những gì có
thể là tương lai của nó.
28
Nếu soi chiếu lí thuyết này của Massey vào các nhà văn xê dịch, hoặc hậu thuộc
địa như V.S. Naipaul, Salman Rushdie hay Chinua Achebe, có thể thấy nhiều điểm
liên quan đến bản sắc và cảm quan không gian – thời gian của các tác giả này.
Stuart Hall - Thuyết về bản thể bất định
Stuart McPhail Hall (1932-2014) là một nhà xã hội học, nhà lí luận văn hóa
và nhà hoạt động chính trị người Anh gốc Jamaica. Ông dành cả đời để nghiên
cứu văn hoá, và cùng với Richard Hoggart và Raymond Williams, sáng lập của
trường phái tư tưởng Nghiên cứu Văn hóa Anh hoặc trường phái Nghiên cứu Văn
hóa Birmingham.
Stuart Hall được mệnh danh là “bố già của Chủ nghĩa Đa văn hóa” bởi những
quan điểm mang tính lí thuyết của ông đã đặt nền tảng cho các nghiên cứu văn hóa
theo trường phái Âu – Mỹ, và có khả năng ứng dụng liên ngành rộng rãi. Tên tuổi
của ông gắn liền với khái niệm về các lí thuyết về chủng tộc, giai cấp và bản sắc
văn hoá (cultural identity). Khi con người cảm thấy mông lung, bất an về nơi mình
sống, về cách hoà nhập với xã hội và cách để được chấp nhận, thì đó là lúc họ nghĩ
đến bản sắc. Đặc biệt là trong kỉ nguyên toàn cầu hoá với những mảnh vỡ đa dạng
chủng tộc, văn hoá, xã hội, giai cấp, giới tính… thì ý thức về cái Tôi ngày càng mạnh
mẽ. Đó là một cái Tôi bị choán ngợp trong không gian và thời gian đa chiều, một cái
Tôi cô đơn, xa lạ, luôn đau đáu nỗi niềm đi tìm bản sắc cá nhân.
Theo Stuart Hall, có ít nhất hai cách khác nhau về “bản sắc văn hóa”. Thứ
nhất, đó là nền văn hóa chung, giống như văn hoá dân tộc, “một loại tập thể, ‘một
bản ngã thực sự’, ẩn bên trong nhiều ‘bản thể’ khác, hời hợt hơn hoặc bị áp đặt
giả tạo, mà những người có chung lịch sử và tổ tiên cùng nắm giữ” [62]. Ví dụ
như bản sắc văn hoá Caribe của cộng đồng người da màu được khám phá và thể
hiện thông qua hình ảnh điện ảnh. Khái niệm này về bản sắc văn hóa đóng vai trò
quan trọng trong tất cả các cuộc đấu tranh hậu thuộc địa, vốn đã định hình lại thế
giới của chúng ta một cách sâu sắc. Nó quyết định cách nhìn của các “nhà thơ như
Aimee Ceasire và Leopold Senghor, và của nền chính trị Liên Phi, vào đầu thế kỉ
này. Nó tiếp tục là một lực lượng rất mạnh mẽ và sáng tạo trong các hình thức đại
diện mới nổi giữa các dân tộc bị gạt ra ngoài lề xã hội cho đến nay” [63,223].
Tuy nhiên, có một cái nhìn thứ hai về bản sắc văn hóa. Người ta không thể
nói mãi và dứt khoát về “một trải nghiệm, một bản sắc”, mà không tránh khỏi
29
những đứt gãy và không liên tục của lịch sử. Bản sắc văn hóa vừa là vấn đề của
tương lai (becoming) vừa là cái hiện hữu (being). Nó không phải là một cái gì đó
đã tồn tại trong quá khứ mà vượt lên địa điểm, thời gian, lịch sử và văn hóa, biến
đổi không ngừng. “Không bị cố định vĩnh viễn trong một quá khứ thiết yếu nào
đó, chúng phải chịu sự “chơi” (play) liên tục của lịch sử, văn hóa và quyền lực”
[63,225]. Như vậy, bản sắc hay danh tính là những cái tên mà con người đặt cho
những cách định vị khác nhau và định vị bản thân trong những câu chuyện của
quá khứ. Điều đó có nghĩa là bản sắc của mỗi cá nhân không thể tạo ra trong môi
trường cô lập, thiếu đi sự tương tác với những cá thể khác trong công việc, gia
đình, cộng đồng hay nằm ngoài bối cảnh lịch sử của thời đại. Không có bản sắc
nào là cố định, hay vĩnh viễn mà luôn trong quá trình biến đổi liên tục cùng với
các hệ thống văn hóa xung quanh chúng ta.
Trên cơ sở đó, thuyết bản thể bất định (unfixed identity) của Hall ra đời.
Ông cho rằng khái niệm bản sắc liên quan đến ba loại chủ thể: chủ thể giác ngộ
(enlightenment subject), bản thể logic xã hội (sociological subject) và chủ thể hậu
hiện đại (postmodern subject). Chủ thể giác ngộ là con người có khả năng nhận
biết, tập trung, lập luận và hành động. Chủ thể logic xã hội là con người tư duy
về các giá trị, ý nghĩa, biểu tượng của thế giới xung quanh. Chủ thể hậu hiện đại
là chủ thể tồn tại nhiều bản sắc, tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, và không thống
nhất. Trong mỗi con người chúng ta luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn, theo nhiều
hướng khác nhau, nên bản sắc cũng luôn trong quá trình vận động.
Mở rộng hơn nữa, trong một bài báo đăng trên tờ The Guardians năm 2000,
Hall bàn về khái niệm “thuộc về một nơi nào đó”, như các tộc người thiểu số
“không chỉ trở thành công dân có quyền bình đẳng mà còn là một phần không thể
thiếu trong văn hóa quốc gia, thì ý nghĩa của thuật ngữ “Người Anh” sẽ phải bao
hàm nhiều hơn về kinh nghiệm, giá trị và khát vọng của họ” [90]. Do vậy, những
người dân tộc thiểu số ở Anh tự nhận mình là người Anh gốc đen hoặc người Anh
gốc Á. Tác giả cho rằng nếu họ coi mình là người Anh, có nghĩa là đánh đồng họ
với người Anh bản địa, làm cho nước Anh trở thành một xã hội đa văn hóa, đa
sắc tộc. Những người nhập cư không thể cảm cách cảm của người Anh, không
thể bị đóng khuôn trong hai chữ “người Anh” nên họ nhận là “Người da đen ở
Anh” hay “Người Anh gốc Á”. Bản thân ông sinh ra và trải qua thời thơ ấu và
30
thời niên thiếu trong một gia đình trung lưu ở Jamaica, rồi di cư sang Anh, nên
những bài viết của ông xuất phát từ những trải nghiệm, những câu chuyện kể chân
thực và sống động.
Trong bài tiểu luận của ông năm xuất bản năm 1996 với tựa đề “Bản sắc văn
hóa và cộng đồng li hương” (Cultural Identity and Diaspora) [63], có ba luận điểm
về bản sắc:
❶ Bản sắc văn hóa là “một loại chân ngã (one true self)... của một cộng
đồng người có chung lịch sử và tổ tiên” [63,223].
❷ Bản sắc văn hóa là “những cách thức khác nhau mà chúng ta định vị, và
định vị bản thân trong những câu chuyện của quá khứ” [63, 225].
❸ Bản sắc “dung hoà (chứ không loại bỏ) các sự khác biệt trong quá trình lai
tạp” [63,235].
Như vậy, thuyết Bản thể bất định của Stuart Hall sẽ mở ra những hướng đi triển
vọng trong nghiên cứu bản sắc của thế giới nhân vật, đặc biệt là các tác phẩm hậu
thuộc địa.
Anders Hanberger – Ba mô hình Đa văn hoá
Anders Hanberger là Giáo sư chuyên ngành Đánh giá (Evaluation) và giám
đốc nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Đánh giá Umeå, Đại học Umeå, Hà
Lan. Các lĩnh vực nghiên cứu của ông bao gồm nghiên cứu phân tích và đánh giá
chính sách công, quản trị, hệ thống và phương pháp luận đánh giá. Ông có rất
nhiều bài báo, công trình nghiên cứu đặc biệt về vai trò của đánh giá trong quản
trị công, trong đó những mô hình đánh giá của ông có tiếng nói trên các tạp chí
khoa học uy tín. Bởi vậy, dù ông có khá ít nghiên cứu về Đa văn hoá, chúng tôi
nhận thấy ba mô hình Đa văn hoá của ông vẫn có khả năng ứng dụng trong các
nghiên cứu văn chương, nhờ tính hàm súc và khoa học. Hơn nữa, “trong tác phẩm
văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà
văn” [64,20], vậy nên mối quan hệ liên ngành giữa văn học và xã hội học (các
nghiên cứu của Anders Hanberger) sẽ có ý nghĩa nhất định.
Trong bài báo in năm 2010 với tiêu đề Nhận thức Đa văn hóa trong đánh giá:
khó khăn và thách thức [65,177-191], Anders Hanberger thảo luận ý nghĩa của Đa
văn hóa trong đánh giá (Evaluation) và những chính sách cũng như chương trình
hướng tới nhận thức Đa văn hóa. Ông đề cập đến các khái niệm khác nhau về đa
31
văn hóa, liên quan đến việc đánh giá Đa văn hóa, cách hiểu về Đa văn hóa và cách
xác định năng lực Đa văn hóa (Multicultural competence) trong đánh giá. Ông cho
rằng một người đánh giá có năng lực Đa văn hóa cần nắm rõ các chuẩn mực văn
hoá thiểu số và đa số và các mô hình Đa văn hóa. Từ đó, ông đưa ra các tiêu chí để
đánh giá mức độ Đa văn hóa của các chính sách và chương trình, thảo luận về các
tiêu chí liên quan đến khung đánh giá áp dụng trên một chương trình chống xâm
phạm danh dự ở Thuỵ Điển, nhằm minh họa cách sử dụng và diễn giải các tiêu chí.
Từ công trình nghiên cứu này của Anders Hanberger, chúng tôi nhận thấy có một
hướng ứng dụng có triển vọng trong việc nghiên cứu hệ thống biểu tượng trong tiểu
thuyết của V.S. Naipaul từ ba mô hình Đa văn hoá mà Hanberger đã đề xuất.
Anders Hanberger cho rằng trong các xã hội Đa văn hoá tồn tại ba mô
hình chính: Sự đồng hoá văn hoá (Cultural assimilation), Sự pha trộn văn hoá
(Cultural amalgamation) và Sự chung sống văn hoá (Cultural coexistence),
như hình vẽ 4.2. sau đây:
Hình 4.2: Ba mô hình Đa văn hoá của Anders Hanberger
Liên quan đến diễn ngôn về chủ nghĩa đa văn hóa, Anders Hanberger đã phân
biệt ba khái niệm hoặc ba kiểu Đa văn hóa hay hội nhập đa văn hóa như hình 4.2.
Trong đó, mô hình đầu tiên - Sự đồng hóa văn hóa chỉ một môi trường xã hội nơi
các nền văn hóa thiểu số dần dần được đồng hóa hoặc kết hợp với văn hóa đa số.
Các dân tộc thiểu số phải tuân theo nền văn hóa đa số đồng thời vẫn giữ được một
số nét văn hóa nhất định. Mặc dù nhiều người sẽ cho rằng sự đồng hoá không thể
xếp vào Đa văn hóa, nhưng Anders Hanberger lập luận rằng trong quá trình đồng
hoá, các nhóm thiểu số vẫn có thể được duy trì các chuẩn mực và tập quán văn hóa
đặc sắc của mình miễn là không huỷ hoại văn hóa số đông. Điều kiện tiên quyết
của một mô hình Đa văn hóa là tự do trong cách lựa chọn văn hóa. Ngoại trừ các
chính sách đồng hoá hà khắc và tàn bạo, thì cũng tồn tại một số chính sách đồng
hóa có tính Đa văn hóa, mang tính nhân văn hơn, vẫn phát huy bản sắc văn hóa,
32
ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số. Vì thế,
sự đồng hoá ở một góc độ nhất định cũng có thể là một mô hình Đa văn hoá.
Mô hình thứ hai, mô hình hỗn hợp văn hóa, miêu tả việc hợp nhất giá trị văn
hóa của các dân tộc với nhau. Mô hình này chứa đựng những giá trị cơ bản, phổ
quát nhất định mà tất cả các nền văn hóa (đa số và thiểu số) chấp nhận và cho
rằng như vậy sẽ đảm bảo công bằng, dựa trên cơ sở quyền con người và luật pháp
quốc tế. Hỗn hợp văn hoá trong trường hợp này có nghĩa là sự hợp nhất một số
giá trị từ nền văn hóa đa số (ví dụ: sự bình đẳng), một số giá trị từ nền văn hóa
thiểu số (ví dụ: tôn trọng truyền thống văn hóa) và các giá trị mới củng cố sự hợp
nhất giữa các nền văn hóa (ví dụ: sự đa dạng). Các nền văn hóa thiểu số và đa số
nuôi cấy trộn lẫn, hỗn hợp và được chuyển thành một nền văn hóa lai ghép mới
(hybrid culture). Đồng thời, cũng cần khẳng định rằng các nền văn hóa thiểu số
vẫn giữ được đặc điểm riêng, thể hiện qua những vòng tròn nhỏ nằm trên đường
ngoại vi của vòng tròn lớn, đại diện cho nền văn hóa đa dạng mới.
Trong mô hình thứ ba, Sự chung sống văn hóa, có thể thấy sự hòa nhập ở
mức độ tối thiểu so với hai mô hình trên. Các nền văn hóa thiểu số được phép
phát triển mạnh mẽ mà không bị hòa nhập hoặc hòa tan với nền văn hóa đa số. Có
thể hình dung ở đây một số hình thức khế ước xã hội giữa văn hóa đa số và thiểu
số, dẫn đến sự bảo tồn và phát huy quyền làm chủ của nhóm thiểu số, từ đó các
nền văn hóa có thể tồn tại song song. Các chính sách và chương trình công nhận
và gìn giữ các giá trị văn hoá thiểu số (ví dụ như người nhập cư, người bản địa)
là những ví dụ tiêu biểu cho mô hình này. Chính vì thế, các giá trị văn hoá chung
sống bên cạnh nhau, trên đường biên của vòng tròn lớn.
Tóm lại, từ ba “khung lí thuyết” Đa văn hoá: nơi chốn và căn tính của Doreen
Massey, bản thể bất định của Stuart Hall và ba mô hình Đa văn hoá của Anders
Hanberger, chúng tôi sẽ ứng dụng những luận điểm của các tác giả để chứng minh
tính đa văn hoá trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul ở khía cạnh về bản sắc, căn
tính và không – thời gian và biểu tượng ở các chương sau.
1.2. Nghiên cứu về V.S. Naipaul từ lí thuyết Đa văn hoá
1.2.1. Tài liệu tiếng Việt
Tuy V.S. Naipaul là một tên tuổi lớn của văn học Anh nói riêng, và văn học thế
giới nói chung, từng đạt giải thưởng Nobel danh giá nhưng tại Việt Nam, tên tuổi và
33
sáng tác của ông chưa được biết đến rộng rãi. Các tác phẩm của V.S. Naipaul chưa
được đưa vào nghiên cứu và giảng dạy. Vì thế, đây là một khó khăn không nhỏ cho
chúng tôi khi đi tìm hiểu lịch sử vấn đề. Tính đến thời điểm thực hiện luận án, nguồn
tài liệu tiếng Việt mà chúng tôi thu thập được về V.S. Naipaul khá hiếm hoi, và nhất
là nghiên cứu tiểu thuyết của ông nhìn từ lí thuyết Đa văn hoá gần như không có.
Tình hình tiếp nhận V.S. Naipaul tại Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại
mới dừng lại ở hai cuốn sách của ông được dịch sang tiếng Việt cùng một vài bài
rải rác trên các báo, tạp chí giới thiệu tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của ông khi
nhận giải thưởng Nobel văn học 2001 và lúc ông qua đời. Trong đó, đáng chú ý
có bài viết trên báo Văn nghệ quân đội ngày 13/08/2018 với tiêu đề Tác giả đoạt
giải Nobel – V.S. Naipaul qua đời ở tuổi 85 tóm tắt tiểu sử của nhà văn; hay bài
viết Quà tặng của nhà văn đăng trên The Guardian, được dịch trên trang điện tử
của báo Đà Nẵng, đưa ra một số quan điểm vắn tắt về V.S. Naipaul từ giáo sư
Amitava Kumar và Geordie Greig, biên tập viên của một trong những tờ báo lớn
nhất nước Anh, tờ Daily Mail.
Trong bài dịch phỏng vấn nhà văn với tiêu đề V.S. Naipaul: Maupassant là
nhà văn vĩ đại do Literary Review thực hiện và báo điện tử Vnexpress dịch, V.S.
Naipaul đã đưa ra quan điểm cá nhân của ông về phong cách sáng tác của các tác
giả nổi tiếng như Dicken, Jane Austen, Maupassant… Ông cho rằng điều kiện cần
để có thể nhận định về một nền văn hoá hay một nhà văn nào đó chính là “trí khôn
và vốn sống” [66]. Bài diễn từ nhận giải T.S. Eliot, có nhan đề là Làm nhà văn
trên tạp chí Văn nghệ quân đội, số 903, cuối tháng 10 năm 2018 do Nguyễn Huy
Hoàng dịch, cũng gợi mở nhiều khía cạnh thú vị về con người, tư tưởng, quan
điểm và quá trình sáng tác của V.S. Naipaul. Nhà văn chia sẻ những suy tư, trăn
trở về những thay đổi trong suy nghĩ về “những lạc thú văn chương và tự sự”,
những bí ẩn trong quá trình sáng tạo, những băn khoăn về cách dùng từ như
“vườn, nhà, đồn điền, người làm vườn, tài sản” bởi chúng có những nét nghĩa hàm
ẩn đối với người Anh khác với ông, một người xuất thân từ mảnh đất thuộc địa
nông nghiệp, Trinidad. Từ những cách biệt trong phông văn hoá như thế, ông tự
nhủ: “Sao tôi có thể viết một cách trung thực hay công bằng nếu chính những từ
mà tôi dùng, với những ý nghĩa riêng tư đối với tôi, với độc giả bên ngoài lại
mang những mối liên hệ của nền văn chương lâu đời hơn?” [67].
34
1.2.2. Tài liệu tiếng Anh
Việc khảo sát các công trình nghiên cứu về V.S. Naipaul đến thời điểm này,
chúng tôi chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu từ tiếng Anh. Theo thống kê của Từ
điển bách khoa Columbia, “các tác phẩm của V.S. Naipaul được nghiên cứu rộng
rãi trên khắp thế giới” [68], bởi ngoài tài năng bậc thầy về phong cách văn xuôi
tiếng Anh, ông được coi là nhà văn của sự lạc lõng, lưu vong và những vấn đề
hậu thuộc địa. Các công trình nghiên cứu về con người và sự nghiệp của V.S.
Naipaul trên thế giới khá đa dạng, một số tác phẩm của ông được giới thiệu trong
chương trình văn ở bậc phổ thông và đại học, như cuốn V.S. Naipaul nằm trong
bộ sách về 41 tiểu thuyết gia hiện đại của Bruce King, do nhà xuất bản Macmillan
phát hành năm 2003 [69]. Các cuốn tiểu thuyết và các bài tiểu luận có phong cách
điêu luyện và am tường tâm lí học, ông thường tập trung vào thời thơ ấu, quá trình
viết văn và những chuyến đi khắp các châu lục.
Nếu sắp xếp theo trục thời gian lịch đại, các nghiên cứu về văn nghiệp của
V.S. Naipaul có thể tạm chia thành ba giai đoạn chính: 1950-1970, 1970-2000,
và 2000-2018; tương ứng với các công trình nghiên cứu về ông. Trong thời gian
1950 đến 1970, V.S. Naipaul cho ra mắt ba cuốn sách, đó là The Mystic Masseur
(1957), The Suffrage of Elvira (1958) và Miguel Street (1959), trong đó The
Mystic Masseur đã nhận được giải thưởng tưởng niệm John Llewellyn Rhys.
Trong thời gian 1950 đến 1970, thế giới mới bắt đầu chú ý đến cái tên V.S.
Naipaul, nên hầu như không có nghiên cứu chuyên sâu nào về các tác phẩm của
ông trong giai đoạn này. Chỉ có một vài cuốn phê bình giới thiệu tác giả, tác phẩm
một cách ngắn gọn, chứ chưa diễn giải và phân tích các tác phẩm của ông.
Trong giai đoạn thứ hai từ 1970 đến 2000, tên tuổi của V.S. Naipaul đã thu
hút sự chú ý của độc giả và giới phê bình. Chuyên khảo đầu tiên về V.S. Naipaul
là cuốn V.S. Naipaul: Giới thiệu tác phẩm của nhà phê bình người Mỹ, Paul
Theroux xuất bản ở London vào năm 1972. Cuốn sách này giới thiệu tương đối
toàn diện về cuộc đời của V.S. Naipaul và các tác phẩm của ông, có thể được xem
là một trong những công trình tiên phong trong nghiên cứu về V.S. Naipaul [70].
Tiếp theo, là các công trình nghiên cứu khác bổ sung các diễn giải về V.S.
Naipaul. Một trong những những cuốn quan trọng nhất là cuốn V.S. Naipaul của
Bruce King xuất bản năm 1993. Trong sách này, Bruce King dành nhiều lời khen
35
ngợi cho thành tựu văn học của V.S. Naipaul và phân tích tổng hợp các nền văn
hóa thể hiện trong các tác phẩm của V.S. Naipaul [71]. Liên tiếp sau đó là các
cuốn phê bình như V.S. Naipaul của Michael Thorpe, năm 1976, cuốn V.S.
Naipaul: một cách đọc tài liệu (V.S. Naipaul: A material reading) của Selwyn
Reginald Cudjoe ra mắt năm 1988. Khẳng định vị trí quan trọng của ông trong
văn học Anh ngày nay, tác giả Cudjoe đã nêu vấn đề tìm hiểu quan điểm cũng
như cách viết của nhà văn hậu hiện thực. Cùng thời gian đó có rất nhiều bài phê
bình tạp chí, điển hình như năm 1998 một bài báo có tựa đề Ngôi nhà mà Jack
không xây dựng: Chiến lược đọc văn bản “Bí ẩn khi tới” của V.S. Naipaul của
Tarantino, phân tích cách nhà văn miêu tả phong cảnh và sự kiện trong Bí ẩn khi
tới, khám phá phong cách thể hiện trực tiếp và gián tiếp trong các tác phẩm của
V.S. Naipaul [72,169-184]. Bên cạnh những đánh giá cao từ giới phê bình, V.S.
Naipaul cũng vấp phải sự công kích, phê phán. Từ năm 1970 đến năm 2000, V.S.
Naipaul và các tác phẩm của ông đã trở thành mục tiêu của những lời chỉ trích
gay gắt. Ông bị coi là “kẻ lừa đảo đáng khinh bỉ của chủ nghĩa tân thực dân (neo-
colonialism)” [73,155] và là “một nhà tiên tri lạnh lùng và châm biếm” [74,30].
Hầu hết các quan điểm của các nhà phê bình từ các nước đang phát triển thì chỉ
trích, không đồng tình với quan điểm của ông. Còn trong con mắt của các nhà phê
bình phương Tây, V.S. Naipaul đã xây dựng được văn phong mô tả xã hội và con
người của Thế giới thứ ba một cách đáng tin cậy và khách quan.
Trong giai đoạn thứ ba, từ sau năm 2000 trở đi, đặc biệt là sau khi nhận
được giải thưởng Nobel Văn học năm 2001, tên tuổi V.S. Naipaul đã được công
nhận trên toàn thế giới, là nhà văn xuất sắc với một tài năng văn chương vĩ đại.
Từ đó, ngày càng có nhiều nhà phê bình tham gia nghiên cứu về V.S. Naipaul và
các tác phẩm của ông từ những quan điểm và lí thuyết đa dạng. Một trong các
hướng nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của V.S. Naipaul là từ quan điểm hậu
thực dân. Năm 2003, Bruce King tái bản có bổ sung cuốn V.S. Naipaul lần 2. So
với bản đầu tiên của mình, King phân tích sâu hơn về tiểu thuyết V.S. Naipaul
trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 2001. Cuốn sách mô tả các đặc điểm đa văn
hóa được thể hiện trong bối cảnh hậu thuộc địa của các tác phẩm, chỉ ra rằng V.S.
Naipaul tập trung vào “cá nhân trong các xã hội thuộc địa”, trong khi nhiều nhà
văn hậu thuộc địa lại chủ yếu “quan tâm đến các ý tưởng và các nhóm người”
36
[69,28]. Đồng tình với quan điểm đó của King, trong cuốn Những người lạ của
V.S. Naipaul, xuất bản năm 2003, Dagmar Barnouw (2003) tiếp tục thảo luận về
đa nguyên văn hóa và giá trị văn hóa trong tác phẩm của V.S. Naipaul, mà theo
tác giả, là “thử thách quan trọng và khó khăn nhất đối với thời hiện đại [75,1].
Một trong những chuyên khảo mới nhất liên quan đến bản sắc và văn hóa trong
các tác phẩm của V.S. Naipaul, là cuốn Quan điểm triết học trong tiểu thuyết của
V.S. Naipaul (Philosophic Vision in the Novels of V.S. Naipaul), của tác giả của
Ganjewar, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2008 [76,26].
Có thể thấy, V.S. Naipaul có một sự nghiệp văn chương đồ sộ, được thế
giới ghi nhận với rất nhiều công trình nghiên cứu không thể không nhắc tới con
người và sáng tác của ông. Qua số lượng lớn các bài phê bình, phân tích, mổ xẻ
tác phẩm, phong cách sáng tác, trích dẫn tác phẩm của V.S. Naipaul trên diễn
đàn văn học thế giới, có thể thấy Nailpaul nổi lên một nhà văn có tài năng đặc
biệt, có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ nhà văn và độc giả. Theo thống kê
của trang questia.com, nghiên cứu về nhà văn và tác phẩm của V.S. Naipaul tính
đến thời điểm tháng 12/2020 có 724 cuốn sách, 877 bài báo, tạp chí chuyên
ngành và 3 mục trong từ điển bách khoa toàn thư. Trong số hàng nghìn đề này,
chúng tôi tạm thời thống kê các chủ đề được nghiên cứu về V.S. Naipaul chủ
yếu bao gồm: dòng văn học Caribe, chủ nghĩa thuộc địa, chủ nghĩa hậu thuộc
địa, nhà văn lưu vong, người nhập cư, phê bình văn chương xa xứ (diaspora
criticism), du kí…
Tuy nhiên, để phục vụ cho mục đích chính của luận án, là tìm hiểu tiểu thuyết
của ông từ lí thuyết Đa văn hoá, chúng tôi chỉ tập trung quan tâm đến các bài viết có
liên quan hoặc có tính gợi mở hướng nghiên cứu của luận án. Trong đó, nếu sắp xếp
theo hướng nghiên cứu về V.S. Naipaul, có thể tạm chia thành bốn hướng nghiên
cứu nổi bật: dòng văn học hậu thuộc địa, văn học so sánh; hướng nghiên cứu tiểu
sử; những cách tân nghệ thuật; vấn đề căn tính, đa văn hoá (multicultural literature).
Thứ nhất, tên tuổi V.S. Naipaul thường xuyên được xếp vào dòng văn học
hậu thuộc địa cùng các nhà văn khác. Đáng chú ý có cuốn Hậu đế quốc: Scott,
V.S. Naipaul và Rushdie (After Empire: Scott, V.S. Naipaul and Rushdie của
Michael Gorra, chuyên về lịch sử và phê bình văn học Anh - Ấn, quá trình giải thực
dân (decolonialization) và chủ nghĩa đế quốc (imperialism), Ấn Độ trong văn
37
chương của ba tác giả nổi bật [77]. Hay cuốn Hiệp ước thế giới truyện: Kinh tế học
và tự truyện hậu thuộc địa (The storyworld Accord: Econarratology and
Postcolonial Narratives) của Erin James in tại nhà xuất bản Đại học Nebraska,
2015 tập trung vào phê bình và diễn giải văn học Caribe (viết bằng tiếng Anh) theo
hướng lịch sử và phê bình sinh thái, chủ nghĩa hậu thực dân trong văn chương,
trong đó chương 4 là về Thị giác và các nhân vật trong các cuốn sách du kí của V.S.
Naipaul [78,122-165]. Thêm vào đó là một số bài tạp chí chuyên ngành tập trung
vào việc so sánh giữa V.S. Naipaul và các nhà văn hậu thuộc địa khác như bài của
tác giả Catherine Lanone, Đàm phán mâu thuẫn thuộc địa: những cảnh quan tiêu
cực trong sáng tác của E.M. Foster và V.S. Naipaul (Negotiating Colonial
Contradition: E.M. Foster’s and V.S. Naipaul’s Negative Landscapes) năm 2011
và Weihsin Gui Tự sự hậu di sản: Di cư và lí thuyết du lịch V.S. Naipaul trong
“Bí ẩn khi tới” (Post-heritage narratives: Migrancy and travelling theory in V.S.
Naipaul’s The Enigma of Arrival) và “Quả của cây chanh” (Fruit of the Lemon)
của Andrea Levy năm 2012. Các nghiên cứu so sánh giữa V.S. Naipaul và các nhà
văn khác như E. M. Forster, Andrea Levy,... cũng mở ra một hướng đi đầy triển vọng
cho việc nghiên cứu. Cuốn tiểu luận Người li hương và đa văn hóa: lịch sử vấn đề
và những bước tiến mới của Monika Fludernik tổng hợp, chia thành hai khía cạnh:
chủ nghĩa li hương kiểu cũ và kiểu mới. Tác giả so sánh tác phẩm Một Ngôi nhà
dành cho ông Biswas của V.S. Naipaul và hai tác phẩm của nhà văn khác, nhằm chỉ
ra những đặc điểm của loại tiểu thuyết này có sự hiện diện của thế hệ những người
xa quê lâu dài [79]. Các nghiên cứu trên đều có điểm chung là khẳng định những
đóng góp của V.S. Naipaul trong việc phản ánh hiện thực bi thảm của các xã hội hậu
thuộc địa, quá trình lai ghép và tính da dạng văn hoá.
Một mảng nghiên cứu nữa đáng chú ý là nghiên cứu V.S. Naipaul từ hướng
phê bình tiểu sử nhằm chỉ ra mối quan hệ giữa nhà văn, tác phẩm và thời đại. Tác
giả Mahabir viết bài V.S. Naipaul: Tuổi thơ và kí ức (V.S. Naipaul: Childhood and
Memory) trên Tạp chí Văn học Caribe năm 2008, chứng minh rằng mối quan hệ của
V.S. Naipaul với cha mình và trải nghiệm thời thơ ấu có ảnh hưởng lớn đối với motif
trốn thoát trong hầu hết các sáng tác của ông [80,16]. Trong cuốn bình giảng tái bản
có bổ sung năm 2003, tựa đề V.S. Naipaul, Bruce King phân tích tiểu thuyết của V.S.
Naipaul ở khía cạnh cấu trúc, tầm quan trọng và phong cách viết của tác giả, đặt
38
trong bối cảnh xã hội, chính trị, thuộc địa và hậu thuộc địa. King nhận thấy V.S.
Naipaul đã có những cách tân sáng tạo cho văn học cổ điển phương Tây và Ấn Độ ở
Tây Ấn và sau đó mở rộng ra cả thế giới để trở thành một nhà văn tầm cỡ quốc tế,
bao quát các chủ đề về Caribe, Anh, Ấn Độ, Châu Phi, Hoa Kì, Argentina và Hồi
giáo đương đại. Có thể thấy, chính sự tiếp xúc với các xã hội đa văn hóa đã trang bị
cho nhà văn V.S. Naipaul một nhận thức và cảm quan đa văn hoá, thể hiện rõ nét
trong các sáng tác của ông, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết.
Hướng nghiên cứu thứ ba về V.S. Naipaul là những cách tân nghệ thuật.
Nghệ thuật tự sự của V.S. Naipaul cũng thu hút rất nhiều cuộc phê bình thảo luận.
Chẳng hạn, cuốn Quyền lực và quyền tác giả trong các tác phẩm của V.S. Naipaul
do Imraan Coovadia xuất bản năm 2009, tập trung vào các đặc điểm tu từ trong tác
phẩm của ông như: motif ám chỉ và nghệ thuật châm biếm lạnh lùng [81,4] khi phản
ánh các vấn đề thuộc địa. Tác giả lập luận rằng các xã hội hậu thuộc địa trong các
cuốn tiểu thuyết như Khúc quanh dòng sông hoặc Du kích quân có sự tồn tại mong
manh của quyền lực mới thành hình. Bên cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu cũng ca
ngợi tài năng ngôn từ của V.S. Naipaul. Từng theo học chuyên ngành lịch sử ngôn
ngữ Anh tại đại học Oxford, V.S. Naipaul là một nhà văn có kiến thức uyên thâm,
dày dặn kinh nghiệm viết đặc biệt là lối dùng từ. Ông từng phải viết thư cho tổng
biên tập của Nhà xuất bản Knopf là Sonny Mehta, khi chỉnh sửa bản thảo cuốn Ngã
rẽ ở phía Nam (A Turn in the South) của ông quá đà, theo các quy tắc quý tộc kiểu
Pháp: “Vinh quang của tiếng Anh là nó không có các quy tắc quý tộc: đó là ngôn
ngữ được tạo nên bởi những người viết. Tôi có tên trên sách của mình. Tôi chịu trách
nhiệm về cách lắp ghép từ ngữ. Đó là một lí do tại sao tôi trở thành một nhà văn”
[82]. Lúc sinh thời, tên tuổi V.S. Naipaul đã từng được tờ The New York Times – tờ
thời báo danh tiếng của Mĩ ca ngợi: “là tiểu thuyết gia hàng đầu trưởng thành từ vùng
Caribe, là một bậc thầy về văn xuôi Anh đương đại nổi tiếng …”. Tuy không phải là
người Anh gốc nhưng nghệ thuật ngôn từ của V.S. Naipaul đã khiến cả người Anh
cũng thán phục. Lối viết của ông giản dị nhưng chính xác và tinh tế. Ông lựa chọn
từ ngữ đa dạng, linh hoạt, biến đổi để phù hợp với nhân vật và hoàn cảnh. Ngôn ngữ
trần thuật của V.S. Naipaul rất phong phú, đan xen như một bản hợp âm nhiều chất
giọng; từ ngôn ngữ hài hước của vùng Trinidad, đến phong cách triết lí trong những
sáng tác sau này về thế giới rộng lớn, về cuộc đời và những chuyến đi.
39
Bên cạnh đó, với mong muốn hiểu được căn nguyên, cội nguồn của những
đặc trưng đa văn hoá trong tiểu thuyết của nhà văn này, chúng tôi tập trung vào
cuốn phê bình nghiên cứu về nhà văn V.S. Naipaul có nhan đề là V.S. Naipaul:
Sự dịch chuyển và tự truyện của Judith Levy, xem xét tác phẩm của V.S. Naipaul
dưới góc nhìn hậu thuộc địa, và khám phá ảnh hưởng của các quan điểm của nhà
văn đối với của văn bản. Qua việc đi sâu phân tích năm tác phẩm mà V.S. Naipaul
trải nghiệm các phong cách khác nhau trong suốt sự nghiệp sáng tác, nghiên cứu
đã chỉ ra ảnh hưởng của văn hoá đối với sự lựa chọn về thể loại và cách kể chuyện,
cụ thể là sự dịch chuyển văn hoá và cách viết tự truyện, theo ranh giới thể loại và
lí thuyết phân tích tâm lí học Lacan [83].
Về chủ đề đa văn hóa trong sáng tác của V.S. Naipaul, nhiều nhà nghiên cứu chủ
yếu khai thác quá trình tìm kiếm bản sắc của ông, trong đó nhiều cuốn nhắc tới đóng
góp của V.S. Naipaul trong dòng văn học lưu vong. Trong cuốn Sự chuyển dịch của
dòng văn học lưu vong: Tiểu thuyết của V.S. Naipaul (Diasporic Transformations:
Novels of V.S. Naipaul), Sanjiv Kumar đi sâu vào nghiên cứu hành trình trải nghiệm
của bản thân tác giả. Cuốn sách khảo cứu những trải nghiệm trưởng thành và sự mẫn
tiệp của một người nghệ sĩ đã định hình sự nghiệp sáng tác của ông: sự am tường, nhạy
cảm của nhà văn khi lớn lên trên mảnh đất không bình thường mà ông coi chỉ là “một
chấm nhỏ xíu trên bản đồ thế giới” rồi trong cuộc phiêu lưu đầy đam mê, rong ruổi
khắp thế giới, văn chương của V.S. Naipaul hướng vào việc tìm hiểu và khám phá
những bí ẩn của cuộc sống lưu vong. Dựa trên khung lí thuyết của Homi K. Bhabha,
các tác phẩm của ông phần nào lột tả được những mâu thuẫn giằng xé, sự bắt chước
và cảm giác chơi vơi, lạc lõng của những người sống xa tổ quốc, những người nhận ra
mình đã đánh mất nửa cuộc đời vì mất đi bản sắc văn hoá của chính mình.
Đáng chú ý có một số công trình nghiên cứu nhằm giải mã tác phẩm của V.S.
Naipaul trong quá trình đi tìm kiếm bản ngã, như các bài báo chuyên ngành về các tác
phẩm Half a Life (Nửa đời) và Magic Seeds (Hạt giống ma thuật) của các nhà nghiên cứu
Yurong Wang và Li Lin [84,187-191]; hay Sự hoài niệm qua lăng kính lưu vong trong
cuốn “Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas” của V.S. Naipaul của tác giả Ghanshyam Pal
[85]. Trong cuốn Tình huống hậu thuộc địa trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul
(Postcolonial Situation in the Novels of V.S. Naipaul) của Mohan có chương ba nhắc tới
sự hòa tan văn hoá và việc tìm kiếm bản ngã trong tập truyện Miguel Street và Một Ngôi
40
nhà dành cho ông Biswas, chương bốn nghiên cứu về xã hội hậu thuộc địa và những
nghịch lí về tự do trong tác phẩm Những kẻ bắt chước và Ở một đất nước tự do” [86].
Bài báo V.S. Naipaul, Tôn giáo và “Mặt nạ châu Phi”: Sự giao thoa giữa
tôn giáo và văn học trong thời kì hậu thuộc địa (V.S. Naipaul, Religion, and “The
Masque of Africa”: Intersections of Religion and Literature in the Postcolony)
của Leslie R. James đi sâu khai thác mối quan hệ giữa tôn giáo, xã hội và các sáng
tác đầu tay cho đến sáng tác gần nhất của V.S. Naipaul, và diễn từ Nobel; từ đó
chỉ ra mối tương quan giữa chính trị và tôn giáo qua ở các quốc gia châu Phi mới
giành được độc lập. Mối quan hệ giữa tôn giáo và văn chương cũng không nằm
ngoài vòng xoáy của xã hội đó [87].
Về luận án tiến sĩ tính đến thời điểm này, có khá nhiều luận án tập trung vào chủ
đề văn hoá trong các tác phẩm của ông như Xung đột văn hóa trong các tác phẩm của
V.S. Naipaul của Babuguna [88] và Những hình ảnh của một người di cư Ấn Độ trong
tiểu thuyết V.S. Naipaul của Poolsawas [89], hay Cuộc tìm kiếm bản sắc trong thế giới
hư cấu của V.S. Naipaul của Khedkar. Đặc biệt có luận án của Shankar Anita khảo sát
Chủ nghĩa Đa văn hóa trong các chuyến đi của V.S. Naipaul [90]. Chương 1 nghiên
cứu cảm thức di dân và biệt xứ như một sự khởi nguồn cho tính Đa văn hoá. Chương
2 bàn về chủ nghĩa Đa văn hoá và những hé lộ về thái độ của một nhà văn bên lề; vì
dù có gốc gác Tây Ấn, sinh ra ở Trinidad, V.S. Naipaul chỉ mang trong mình phần nào
môi trường văn hoá Anh, và luôn khắc khoải tìm một nơi mình thực sự cảm thấy là
nhà. Chương 3 của luận án đi sâu tìm hiểu phong cách sáng tác của nhà văn, từ đó,
luận án chứng minh sự tồn tại bên lề của các cộng đồng qua các trang du kí của ông.
Tuy nhiên, luận án mới dừng lại ở việc tìm hiểu căn nguyên và lí giải tính Đa văn hoá
trong các cuốn sách du kí của V.S. Naipaul mà chưa phân tích sâu những biểu hiện Đa
văn hoá trong các cuốn sách đó.
Có thể nhận ra điểm chung giữa các cuốn sách, luận án trên là chủ đề văn hoá,
Đa văn hoá khá đậm nét trong các sáng tác của V.S. Naipaul. Bởi thế, đây là một
hướng nghiên cứu nhiều triển vọng, mở ra những cách tiếp cận đa chiều tác phẩm
của V.S. Naipaul trên khắp thế giới. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu có thể đọc các tiểu
thuyết của V.S. Naipaul với từ lí thuyết Đa văn hoá hay cụ thể hơn là diễn giải, luận
bàn các phạm trù thi pháp học như không gian, thời gian, nhân vật từ góc nhìn Đa
văn hoá hay không?
41
Tiểu kết
Tóm lại, hướng phê bình văn học từ văn hoá và Đa văn hoá đã gợi mở những
thuộc tính Đa văn hoá trong lịch sử và văn chương nhân loại. Đa văn hoá xuất
phát từ ba tiền đề chính: phong trào dân chủ, làn sóng di cư và xu hướng toàn cầu
hoá. Khái niệm Đa văn hoá có nhiều cách hiểu: từ quan điểm xã hội học và ngôn
ngữ thường nhật, từ quan điểm triết học chính trị… Trong luận án này, chúng tôi
hiểu Đa văn hoá là sự chung sống bình đẳng giữa các giá trị văn hoá trong bối
cảnh xã hội đa chủng tộc, tôn giáo, văn hoá đồng thời cũng bao hàm sự vận
động, đấu tranh liên tục của những giá trị văn hoá trung tâm - bên lề.
Đa văn hoá có thể xem xét ở cả hai khía cạnh: đồng đại và lịch đại. Đa văn
hoá hướng tới quá trình “giải trung tâm”, trong khi Liên văn hoá nhấn mạnh sự
tương liên, còn Giao thoa văn hoá có sự pha trộn, tiếp biến các hệ giá trị văn hoá
khác nhau. Cách tiếp cận văn chương từ Đa văn hoá là một hướng nghiên cứu khả
thi trên thế giới, với nhiều công trình lí thuyết Đa văn hoá như Đông phương luận
của Edward Said, Sự lạc lõng và Đa văn hoá của Jasbir Jain, và nhiều lí thuyết
gia Đa văn hoá nổi tiếng như Stuart Hall, Charles Taylor, Will Kimlicka… Trong
đó, có ba cơ sở lí thuyết Đa văn hoá khả dĩ có thể ứng dụng để nghiên cứu tiểu
thuyết của V.S. Naupaul là Thuyết căn tính và nơi chốn của Doreen Massey,
Thuyết bản thể bất định của Stuart Hall và ba mô hình Đa văn hoá của Anders
Hanberger. Chúng tôi nhận thấy ứng dụng khung lí thuyết Đa văn hoá có thể mở
ra nhiều triển vọng mới trong nghiên cứu văn chương, đặc biệt là các tác giả của
dòng văn học li hương, văn học hậu thuộc địa như V.S. Naipaul.
Tên tuổi của V.S. Naipaul đã được thế giới công nhận với rất nhiều giáo
trình, công trình nghiên cứu từ góc nhìn văn hoá. Lí thuyết Đa văn hoá chính là
một chìa khoá giải mã bản sắc văn hoá hậu thuộc địa và những xung đột văn hoá.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về các sáng tác của ông tại Việt Nam chưa
nhận được sự đầu tư nghiên cứu xứng đáng. Vì vậy, luận án tập trung khai thác
các giá trị văn hoá trong ba tiểu thuyết của ông từ lí thuyết Đa văn hoá.
42
CHƯƠNG 2
KHÔNG GIAN, THỜI GIAN TRONG TIỂU THUYẾT V.S.NAIPAUL
NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐA VĂN HOÁ
Nghiên cứu không gian và thời gian trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul từ
góc nhìn Đa văn hoá thực chất là nghiên cứu phạm trù không gian, thời gian đa
dạng phản ánh giá trị tinh thần, tư tưởng của nhiều nền văn hoá phong phú, giao
thoa và hoà nhập. Từ đó ta thấy bản vị không gian và thời gian đa văn hóa trong
tiểu thuyết gắn liền với thế giới quan và nhân sinh quan của nhà văn, tạo nên nét
riêng biệt, lôi cuốn độc giả trên khắp thế giới.
Trong văn chương, hệ toạ độ không, thời gian gắn bó chặt chẽ, tạo nên bối
cảnh của tác phẩm, và theo định nghĩa của Trần Đình Sử: “chính là hình thức để
con người cảm nhận thế giới và con người” [91,104]. Trong cuốn Thi pháp ca
dao, thời gian và không gian được định nghĩa “là những mặt của hiện thực khách
quan được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Thời gian, không gian một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện
nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng
hệ thống nghệ thuật” [92,287]. Do đó, muốn làm rõ đặc trưng đa văn hoá trong
tiểu thuyết của V.S. Naipaul thì không thể không lí giải bối cảnh, “khoảng không
bao la trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người” [93,633]
để từ đó “chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, mà còn
bộc lộ những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả” [94,135].
Thêm nữa, cả hai đất nước mà V.S. Naipaul sinh sống đều mang đậm bản sắc đa
văn hoá của nhiều dân tộc lai ghép, pha trộn với nhau. Cộng hoà Trinidad và
Tobago là đất nước của những người di cư, trong đó có hai nhóm dân tộc chính
chiếm 80% dân số là người gốc Phi và người gốc Ấn, 20% còn lại là người gốc
Âu, Trung Hoa, Ả Rập, Syria, Lyban. Sự đa dạng tôn giáo và văn hoá khiến cho
đất nước này có nhiều lễ hội trong suốt năm. Trong khi đó, vương quốc Anh đã
có một lịch sử lâu đời hoà trộn các nền văn hoá Briton, La Mã, Saxon, Viking và
Norman. Kể từ những năm 1950, dòng người nhập cư từ các nước Hồi giáo, Ấn
Độ, Đông Nam Á đến Anh đã bổ sung thêm các đặc trưng tôn giáo và văn hoá
vào bức tranh văn hoá toàn cảnh của vương quốc Anh.
43
Bên cạnh đó, việc tìm hiểu hình thức tổ chức thời gian cũng góp phần không
nhỏ trong việc làm rõ cảm quan Đa văn hoá của tiểu thuyết gia, bởi nó “phản ánh
sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kì lịch sử, từng giai đoạn phát
triển, nó cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về phương thức tồn tại của
con người trong thế giới” [95,273]. Trong chương này, chúng tôi sẽ ứng dụng ba
trong số bốn luận điểm trong lí thuyết về căn tính và nơi chốn của Doreen Massey,
nhà nghiên cứu địa văn hoá nổi tiếng để tìm hiểu không gian tiểu thuyết của V.S.
Naipaul, và một luận điểm để tìm hiểu thời gian trong tác phẩm. Trong quá trình
ứng dụng lí thuyết, rất khó phân biệt rạch ròi luận điểm nào phù hợp với tác phẩm
nào, bởi vì có nhiều điểm giao cắt, những lát gối chồng lên nhau trong quá trình
phân tích. Tuy nhiên, để làm rõ tính khả thi của các luận điểm của lí thuyết ứng
dụng, chúng tôi sẽ tạm chia mỗi luận điểm tương ứng với một mục nghiên cứu, dựa
trên câu hỏi: luận điểm này có liên quan / thích đáng nhiều nhất với tác phẩm nào?
2.1. Không gian nhìn từ lí thuyết Đa văn hoá
Trong thi pháp học, không gian “có tác dụng mô hình hoá các mối liên hệ
của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự” [95,162]. Thế
giới mô hình hoá đó được tạo nên bằng cảm quan sáng tác, được nhìn qua lăng
kính của riêng biệt của từng tác giả. Đối với V.S. Naipaul, ông là con người luôn
trăn trở với bản sắc cái tôi của một người di cư, những cú sốc văn hoá, do vậy
những không gian văn hoá được tái hiện trong tác phẩm của ông một cách công
phu và đa dạng: từ nơi ông sinh ra và lớn lên, đến quê cha đất tổ và nơi ông sống
và làm việc trong hầu hết quãng đời mình. Việc di cư và quá trình thay đổi tâm lí,
lối sống giữa các không gian đa văn hóa là một trong những yếu tố tạo nên sức
hấp dẫn cho tiểu thuyết của V.S. Naipaul. Nhà văn đã xây dựng thành công một
không gian tiểu thuyết đa dạng, phong phú, đậm chất truyền thống lai ghép của
cộng đồng gốc Ấn tại Trinidad và Tobago, một không gian văn hoá châu Phi trước
những biến động lịch sử, và một thị trấn, làng mạc của nước Anh đã đi qua thời
hoàng kim của những quý tộc, chủ đất giàu có. Nếu soi chiếu các chiều kích không
gian đó qua lăng kính của lí thuyết Đa văn hoá của Doreen Massey, ta sẽ thấy
được chiều sâu tư tưởng nghệ thuật của V.S. Naipaul, một nhà văn tài năng và
tâm huyết, suốt đời cống hiến những trang viết “lịch sử của các dân tộc bị đàn áp”
và đóng góp tiếng nói không nhỏ cho các nền văn hoá “bên lề”.
44
V.S. Naupaul viết rất nhiều về nước Anh, nơi mình đang sống, về sự tàn lụi
của một thời vàng son của khu dinh thự ở Wiltshires, về một Trinidad với những
kỉ niệm tuổi thơ. Lí thuyết về nơi chốn và căn tính của Massey, theo chúng tôi, có
thể là một hướng nghiên cứu đầy triển vọng cho những cảm quan về không gian
đa văn hoá và cái Tôi của nhà văn. Ba điểm chính trong lí thuyết Đa văn hoá của
Massey có khả năng ứng dụng cao khi nghiên cứu không gian tiểu thuyết V.S.
Naipaul bao gồm:
❶ Địa điểm (place) không chỉ có một bản sắc riêng biệt mà là tổng hoà của
nhiều bản sắc.
❷ Địa điểm không đóng băng trong một thời điểm mà là cả một quá trình.
❸ Địa điểm không có rào chắn ngăn giữa cái “bên trong” và “bên ngoài”.
2.1.1. Không gian sinh hoạt đậm chất truyền thống đa dạng của Trinidad và
Tobbago
Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của V.S.
Naipaul phản ánh thực tế xã hội và tôn giáo của cộng đồng người Ấn Độ nhập cư ở
Caribe, đưa tên tuổi của V.S. Naipaul lên văn đàn thế giới. Cuốn truyện được Thư
viện Hiện đại (Modern Library) - một nhà xuất bản sách có uy tín của Mỹ, thành lập
từ năm 1917, xếp vào danh mục 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất của thế kỉ XX.
Nội dung cuốn tiểu thuyết xoay quanh cuộc đời của ông Mohun Biswas, nhân vật
chính mà nhà văn xây dựng từ chính hình mẫu cha mình, ông Seepersad V.S.
Naipaul, trong hành trình kiếm tìm tự do và một ngôi nhà riêng cho bản thân.
Để đi tìm chất truyền thống đa dạng của tiểu thuyết, không thể không kể đến
lịch sử của quốc đảo Trinidad và Tobago. Trước thế kỉ XV, chỉ có người
Arawak và Caribe bản địa sinh sống tại đây, sau đó là thời kì thuộc địa của Hà
Lan, Pháp, cho đến khi người Anh giành quyền kiểm soát Trinidad vào năm 1797,
phần lớn dân số của nó là nô lệ gốc Phi làm việc trên các đồn điền mía. Sau khi
Đế quốc Anh bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1833, hòn đảo chuyển hướng sang sản
xuất ca cao và hơn 100.000 công nhân từ Ấn Độ đã đến hòn đảo này làm việc
theo hợp đồng có thời hạn nhưng trên thực tế, họ đều bị buộc phải ở lại. Sang đầu
thế kỉ XX, hoạt động kinh tế chủ yếu của Trinidad là khai thác dầu và trở thành
nơi giàu có nhất vùng Caribe. Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng chia rẽ và bất bình
đẳng đặc biệt là giữa hai cộng đồng lớn nhất là người gốc Ấn Độ và châu Phi.
45
Năm 1948, Đạo luật Quốc tịch Anh trao quyền công dân cho tất cả những người
sống trong các thuộc địa của Anh, dẫn đến làn sóng di cư khá lớn (nhân vật Owad
và Anand trong tiểu thuyết đi du học trong khoảng thời gian này) thay đổi cấu
trúc xã hội ở Caribe. Với một lịch sử thực dân – thuộc địa như vậy, không khó
nhận thấy bối cảnh sáng tác của cuốn tiểu thuyết là một không gian văn hoá đậm
đà bản sắc, đa dạng sắc màu và là tổng hoà của đa giá trị văn hoá.
Không gian trong Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas là kiểu không gian
sinh hoạt gắn liền với cộng đồng người Trinidad gốc Ấn trải dài từ những ngôi
nhà bằng đất đến những vũng trâu lầy của những ngôi làng người nhập cư gốc
Ấn, và vùng trồng cây ca cao ở phía Bắc, đến những ống máng nước rỉ sét, những
con hẻm giữa các khu nhà ở khu ổ chuột của thủ đô Port of Spain. Đó là một
không gian sặc sỡ sắc màu của những con diều vào các buổi chiều hè ở Arwacad
“khi gió bắt đầu nổi lên từ những ngọn đồi thổi về phía bắc, trong nhiều dặm xung
quanh đầy những con diều sặc sỡ với những cái đuôi dài vút xuống và uốn éo như
những con nòng nọc trên bầu trời trong vắt bên trên đồng bằng” [96,193]. Ông
Biswas mơ đến một ngày không xa, trong hai hoặc ba năm nữa, hai cha con ông
(ông và Anand) sẽ thả diều cùng nhau. Thả diều là một nét đẹp dân gian truyền
thống của cộng đồng ở Arwacad, giúp mọi người gần gũi nhau hơn đồng thời
cũng tạo nên một bức tranh không gian rộng lớn với bầu trời trong xanh và lộng
gió biển Caribe. Đó là rất nhiều bữa ăn tập thể theo phong tục của đạo Hindu, mà
ở đó người ta kiêng kị tỏi và thậm chí cả hành tây vì nó được coi là tamasik bhojan
– một loại thực phẩm dễ khiến cơ thể con người sinh nhiệt, rồi gây ra sự nóng
nảy, tức giận và tính khí thô kệch.
Từ bối cảnh mở đầu cuốn tiểu thuyết, ta có thể thấy hầu hết các gia đình Ấn
Độ ở đây rất có tinh thần gìn giữ, nâng niu, trân trọng tín ngưỡng của tổ tiên xa
xưa. Dù đi xa quê hương và cách xa những tập tục văn hóa của quê cha đất tổ mấy
thế hệ nhưng họ vẫn thực hiện các nghi thức tôn giáo để bày tỏ lòng thành kính
thần linh. Lễ cúng tế của cả dân thường và tầng lớp thượng lưu đều phải tuân thủ
Hindu giáo, trong đó “Đấng Tối cao có thể tiếp cận qua nhiều con đường như Tri
thức (Dnyana), Sự sùng tín (Bhakti), Hành động (Karma) và Sự kiểm soát tâm linh
(Yoga) [97,25]. Sự hiện diện của những đạo sĩ Bà la môn (một nhánh của Hinđu
giáo) trong khi tiến hành lễ nghi tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng. Ví dụ như
46
trong nhà Hanuman, Hari là thầy duy nhất, người hướng dẫn gia đình Tulsis cầu
nguyện, và tiến hành các nghi lễ tôn giáo nên tất cả mọi người đều phải nghe theo.
Hari được coi như thầy cúng chính thức của lễ puja hàng sáng và tối rất quan trọng.
Khi ông mất, những người đàn ông và trẻ em trai phải thực hiện nghi lễ puja, và
đôi khi Anand phải làm việc đó. “Anh rửa các di ảnh, đặt hoa tươi trên điện thờ,
tìm niềm vui nho nhỏ bằng cách cố gắng cắm cuống hoa vào khuỷu tay hay giữa
cằm và ngực của thần. Anh bôi bột đàn hương tươi lên trán các vị thần, trên những
viên sỏi màu đen, hồng và vàng mịn, và trên trán của chính mình; thắp sáng long
não, cầm ngọn lửa bằng tay phải đi quanh ngôi đền trong khi tay trái cố gắng rung
chuông; thổi vào vỏ ốc xà cừ” [96,415]. Có thể thấy trong không gian xã hội nhập
cư đó, mỗi gia đình Ấn đều có mối liên hệ chặt chẽ với các đạo sĩ, thầy cúng, người
hướng dẫn thực hiện các nghi thức và cúng lễ vật cho các vị thần theo đúng tục lệ.
Xuyên suốt toàn bộ cuốn tiểu thuyết, tác giả đã lồng ghép rất tự nhiên các nghi thức
tôn giáo vào mạch truyện như: lễ cúng mụ vào ngày thứ chín sau khi sinh em bé,
lễ động thổ ban phước khi làm móng nhà và táng thức Sati theo đạo Hindu cổ: nếu
người chồng chết trước, góa phụ phải tự nhảy vào giàn hỏa thiêu theo chồng. Trong
tất cả các tục lệ đó, luôn xuất hiện hình ảnh của đạo sĩ. Điều này có thể bắt rễ từ
niềm tin của người Ấn, từ sử thi Ấn Độ, với những “nhân vật đạo sĩ có số lượng
lớn và vai trò đặc biệt quan trọng” [98,140]. Như vậy, một số tín ngưỡng, niềm tin
Ấn giáo đậm nét vẫn tồn tại trong cộng đồng nhập cư ở Trinidad, tạo nên một bầu
không khí văn hoá đặc sắc, đa dạng của quốc đảo này.
Không gian văn hoá cũng được tái hiện rõ nét qua những hủ tục trọng nam
khinh nữ và niềm tin về thế giới ma quỷ đem đến điều chẳng lành. Chẳng hạn
những điều cấm kị trong đạo Hinđu là nữ giới không được chạm vào những “Trái
bí ngô đầu tiên, quả bí đầu tiên của gia đình Tulsi được mọi người hân hoan chào
đón. Và vì, một điều cấm kị của đạo Hinđu mà không ai nhớ vì sao, phụ nữ bị
cấm bổ đôi quả bí ngô, nên người ta mời một người đàn ông bổ nó. Và người đàn
ông đó là W.C. Tuttle” [96,406]. Hủ tục trọng nam khinh nữ đã trở thành vấn nạn
ở Ấn Độ, và ở bên kia bán cầu trái đất, trong cộng đồng Ấn di cư vẫn tồn tại sự
phân biệt đối xử như vậy. Kể cả với những dị tật bẩm sinh của trẻ con như nhân
vật Biswas ra đời với sáu ngón tay cũng bị coi là điềm gở, và người mẹ mới sinh
giữa đêm hôm khuya khoắt, vắng vẻ phải đi “hái lá xương rồng về, cắt dọc thân lá
47
và treo lên mỗi cửa một chuỗi, mỗi cửa sổ, mỗi lỗ hở, để ma quỷ không thể vào trong
lều” [96,15-16]. Cả làng cùng tin vào điềm báo rằng cậu bé sẽ “đoạt mạng cha mẹ
mình”, nhất là khi bố của Biswas chết đuối khi nhảy xuống hồ nước tìm con. Hủ tục,
tập quán nặng nề đi kèm với đói nghèo đã tạo nên một bầu không khí mê tín dị đoan
bao trùm những mái lều tranh của khu người Ấn nhập cư, giống như khu vườn đầy
cờ quạt đỏ và trắng đã cũ mèm của gia đình ông thầy Jairam sau các nghi lễ đậm màu
sắc tôn giáo. Hủ tục được nhìn dưới con mắt của nhân vật ông Biswas, một gharjamai
– người đàn ông ở rể và bị coi là ăn bám nhà mẹ vợ lại càng được tái hiện rõ nét
và sâu sắc hơn bao giờ hết, bời văn hoá truyền thống Ấn cũng như theo suy nghĩ
Á Đông, luôn coi nam giới là trụ cột chính của gia đình.
Với một cốt truyện đơn giản về ba thế hệ trong một gia đình, diễn ra trong
một bối cảnh trải rộng khắp đất nước Trinidad và Tobago, tác phẩm đã khắc họa
được một phần của bức tranh độc đáo về đạo Hinđu tại một đảo quốc ở Nam Mỹ.
Đây là những minh chứng rõ nhất cho quan điểm của nhà nghiên cứu Barnouw cho
rằng “là một người gốc Tây Ấn được giáo dục ở Anh, V.S. Naipaul luôn cố gắng
tìm hiểu và ghi lại những vấn đề của các nền văn hoá khác qua những khó khăn
trong quá tìm hiểu gốc gác đa sắc tộc của chính mình” [75,1]. Câu chuyện đã góp
phần vào việc nhận diện không gian văn hóa và bức tranh phong phú, đa dạng về
cuộc sống của người dân nhập cư gốc Ấn. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì bất cứ
lí thuyết văn hoá nào cũng có thể sử dụng để soi chiếu vào tác phẩm. Tuy vậy, nếu
đọc kỹ, ta sẽ thấy sự biến thiên và giao thoa liên tục giữa các giá trị văn hoá, đòi
hỏi một cách nhìn nhận đa chiều hơn, chẳng hạn như lí thuyết Đa văn hoá.
Nếu xét theo lí thuyết của Doreen Massey thì không gian văn hoá cộng đồng
trong Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas đã thực sự là một không gian không có
rào chắn ngăn giữa cái “bên trong” và “bên ngoài” bởi ở đó, các nhân vật luôn
trong quá trình đấu tranh để tìm điểm dung hoà giữa những tín ngưỡng và truyền
thống ông cha với những đổi thay của lịch sử trong một xã hội đa dạng chủng tộc
và tôn giáo. Cũng giống như tập truyện ngắn Phố Miguel, cuốn tiểu thuyết Một
Ngôi nhà dành cho ông Biswas cũng phản ánh một “xã hội đa chủng tộc và đa
văn hóa bao gồm người da màu, người Trung Quốc, người Anh và người Tây Ban
Nha và những đức tin, thói quen và thái độ của họ đặc trưng cho những ảnh hưởng
của chủ nghĩa thực dân” [99,280]. Điều đó thể hiện rõ nét nhất qua sự thay đổi
48
những phong tục, tập quán của cộng đồng người Ấn nhập cư, đặc biệt là táng thức
theo lễ Hindu ở vùng biển Caribe dưới ảnh hưởng của sự giao thoa văn hoá. Trong
đám ma của cụ thân sinh ra Biswas, thi thể người chết không được hỏa táng theo
đúng phong tục vì “Việc hỏa táng bị cấm và Raghu phải được chôn cất” [96,32].
Tuy nhiên, đến cuối truyện, khi ông Biswas chết, xác ông được hỏa táng bởi “việc
hỏa táng, một trong số ít được Sở Y tế cho phép, được tiến hành trên bờ suối bùn
và thu hút khá đông mọi người” [96,590]. Trong quan niệm của người Hindu, cái
chết trong Phạn ngữ là “dehanta” nghĩa là “sự kết thúc của xác phàm”, và chỉ bằng
cách hoả táng cơ thể - vật chứa tạm thời của linh hồn, bằng ngọn lửa của giàn
thiêu thì linh hồn sẽ được giải thoát hoàn toàn khỏi các ràng buộc của cõi trần. Rõ
ràng, trong cộng đồng Ấn nhập cư, phong tục hoả táng này đã trải qua khá nhiều
thay đổi, có lúc bị cấm, có lúc được cho phép nhưng là “số ít” chứng tỏ sự chấp
nhận dần dần những cái “bên ngoài” của người bản địa.
Trong một xã hội được ví như “bát trộn salad” thì cái tồn tại “bên trong” và
những giá trị văn hoá du nhập từ “bên ngoài” đã được tái hiện thành công qua ngòi
bút của V.S. Naipaul, những tục lệ đi theo cả cuộc đời của người Hinđu. V.S. Naipaul
không trực tiếp phê phán những tục lệ này, mà qua những suy nghĩ, hành động và
lời nói của nhân vật, ta có thể thấy một phần sự thật: cuộc sống đã thay đổi, thời gian
và sự tiếp cận, giao thoa giữa những nền văn hóa sẽ thử thách niềm tin và tín ngưỡng
của các cộng đồng. Một số phong tục trước kia có thể là phù hợp, thì nay đã trở nên
lỗi thời, và thậm chí trở thành hủ tục. Những truyền thống này phản ánh rõ nét cuộc
sống đa văn hóa Hinđu, Tin lành và đạo Hồi ở Trinidad và Tobago những năm giữa
thế kỉ XX, mà nếu thiếu đi những hiểu biết về không gian đa văn hoá đó, độc giả “sẽ
thấy cuốn sách và các nhân vật trong đó quá lập dị” [100,590].
Tóm lại, không gian chủ đạo trong tiểu thuyết Một Ngôi nhà dành cho ông
Biswas là kiểu không gian sinh hoạt của các giá trị truyền thống: lễ hội, tín ngưỡng,
các hủ tục của một cộng đồng dân cư Trinidad gốc Ấn. Tuy nhiên, vì địa điểm
“không có rào chắn giữa cái “bên trong” và “bên ngoài” nên những giá trị văn hoá
đó luôn có sự đấu tranh với cái mới, cái ngoại lai trong quá trình hội nhập, kết hợp
văn hoá đa dạng nhất là ở đảo quốc đa chủng tộc như Trinidad và Tobago. Chúng
tôi sẽ tìm hiểu sâu hơn về quá trình này khi nghiên cứu biểu tượng ngôi nhà gắn với
mô hình pha trộn văn hoá ở chương 4.
49
2.1.2. Không gian văn hoá lịch sử đầy biến động của châu Phi
Viết về châu Phi, nhà báo nổi tiếng người Ba Lan, Ryszard Kapuscinski nhận
định, đây là một “lục địa quá lớn để có thể mô tả. Đó là một đại dương thực sự, một
hành tinh riêng biệt, một vũ trụ đa dạng, vô cùng phong phú” [101,14]. Đó là kết
luận sau hơn 40 năm chu du khắp lục địa này, đúc rút lại qua cuốn Bóng của mặt
trời: cuộc sống Phi châu của tôi (Shadow of the Sun: My African Life) xuất bản năm
1998. Không nói quá khi châu Phi là một thế giới hoàn toàn lạ lẫm, “vô phương thấu
hiểu” với nhiều người bên ngoài bởi vì tài liệu viết về lục địa này cũng khá hạn chế,
nhất là từ văn học. Mãi đến năm 1899, kiệt tác Giữa lòng tăm tối của Joseph Conrad
mới khai thác thành công đề tài châu Phi trong một chuyến hành trình ngược sông
và ngược dòng vào “lòng tăm tối” của sự sống, của con người. “Đi ngược con sông
ấy giống như đi ngược về thuở hồng hoang của thế giới, khi thực vật tung hoành
khắp địa cầu và đại thụ là chúa tể. Một dòng chảy trống rỗng, một sự im lặng vĩ đại
và một cánh rừng không thể xuyên qua” [102,51]. Các địa điểm xuất hiện trong câu
chuyện là nhà nước tự do Congo ở Trung Phi và dòng sông Thames của Vương quốc
Anh. Lấy bối cảnh là chuyến phiêu lưu của nhân vật Marlow, dựa trên chính hành
trình của tác giả vào năm 1890, câu chuyện là lời tố cáo tội ác của thực dân khi khai
phá nền văn minh ở lục địa đen, qua điểm nhìn của một người châu Âu, ưa thích chu
du, khám phá thế giới. “Thực dân không những đã chinh phục được lãnh thổ mà còn
thực dân hóa văn hóa bằng cách thay thế các nghi thức và niềm tin của văn hóa bản
địa bằng các giá trị, cách cai quản, luật pháp và đức tin” [103,188]. Cho dù ách thực
dân đã đi vào lịch sử, nhưng di sản họ để lại vẫn tồn tại trong nền văn hoá của các
nước thuộc địa cũ, ảnh hưởng không nhỏ đến bản sắc của mỗi cá nhân.
Trong suốt thế kỉ XX, tiếp theo Conrad, cũng có rất ít nhà văn lựa chọn khai
thác đề tài châu Phi cho đến V.S. Naipaul với Khúc quanh của dòng sông. Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng cuốn tiểu thuyết là một góc nhìn khác đầy u ám, bi quan
về châu Phi, nhưng có một thực tế không thể phủ nhận: cuốn tiểu thuyết đã dẫn
dắt người đọc khám phá một châu Phi mới lạ, hậu thực dân, một châu Phi sau
những khủng hoảng chính trị và xung đột văn hoá, một châu Phi “đa chủng tộc,
đa ngôn ngữ, đa tôn giáo và hỗn loạn” [104,39].
Nếu soi chiếu chiều không gian đặc sắc này theo lí thuyết về nơi chốn và căn
tính của Doreen Massey, không khó nhận ra điểm tương trùng đầy thú vị. Massey
50
cho rằng khái niệm địa điểm bao hàm các mối tương giao xã hội (social interaction)
“không đóng băng trong một thời điểm mà là cả một quá trình” [58,155]. Bằng
việc xây dựng một không gian văn hoá đan xen cả quá khứ lẫn hiện tại, V.S. Naipaul
đã tái hiện được một châu Phi xưa và nay, “một quá trình” được đan cài khéo léo
qua cách nhìn và quan điểm sống của người dân. Một điểm thú vị là có lẽ là bản
thân V.S. Naipaul đã từng phát biểu về Joseph Conrad “sáu mươi năm trước, trong
thời kì hòa bình vĩ đại - đã ở khắp mọi nơi trước tôi. Không phải với tư cách một
người có chính nghĩa, mà là một người đàn ông, như trong Nostromo, có một tầm
nhìn về những nửa thế giới như những nơi liên tục trong quá trình kiến tạo và hoàn
thiện…” [105]. Qua góc nhìn của người kể là Salim, một nhân vật đa văn hoá, V.S.
Naipaul đã tái hiện không gian một quốc gia châu Phi với đủ gam màu sáng tối,
quá khứ, hiện tại, buồn vui, bình yên lẫn bất ổn, khâm phục lẫn chê trách.
Đặc biệt, trong bối cảnh hậu thực dân, không gian lịch sử đầy biến động
đã được tác giả xây dựng hết sức công phu. Cộng hòa Dân chủ Congo từng là
thuộc địa của Bỉ, giành được độc lập vào ngày 30 tháng 6 năm 1960 dưới quyền
của thủ tướng Patrice Lumumba. Nhưng các cuộc đấu tranh ly khai đã nổ ra giữa
miền nam Kasai và Katanga, dần phát triển thành cuộc chính biến lớn - cuộc
khủng hoảng Congo. Joseph Mobutu, tổng tham mưu trưởng của Quân đội quốc
gia (ANC), đã lật đổ Lumumba và trở thành tổng thống vào năm 1965 với sự hậu
thuẫn của Bỉ và Hoa Kì [106,169-182]. Nhà nghiên cứu Nazua Idris cho rằng nhân
vật “Người Đàn ông Vĩ đại” (Big Man) vô danh trong tiểu thuyết, là lấy từ hình
mẫu ngoài đời của Tướng Mobutu và bối cảnh được mô tả trong cuốn tiểu thuyết
có rất nhiều điểm tương đồng với tình hình xã hội chính trị dưới chế độ của
Mobutu. Trong lịch sử, Mobutu tiếp quản quyền lực của Congo khi Thủ tướng
không kiểm soát được các cuộc đấu tranh và xung đột bộ tộc vào thời điểm đó.
Tương tự, trong tiểu thuyết, “Người Đàn ông Vĩ đại” lên cầm quyền và bắt đầu
kiểm soát các cuộc nổi dậy diễn ra trên khắp đất nước. Vị Tổng thống mới này đã
tạo ra Miền mới (New Domain) và kết quả là có không gian văn hoá tồn tại song
song: không gian Miền mới và không gian của thị trấn.
Không gian thứ nhất - “Miền mới” là một bản sao của Châu Âu, với những
tòa nhà cao tầng đầy màu sắc, trường đại học …; nơi mà người ta làm mọi thứ
theo kiểu Âu, nơi có những “thứ đồ rất đắt, không thuộc về những thứ bạn có thể
51
kiếm được tại thị trấn”. Do vậy, không gian mang màu sắc lãng mạn, sang trọng,
sôi nổi với những bữa tiệc do Raymond, người đại diện cho “Người Đàn ông Vĩ
đại” và Yvette tổ chức và những buổi hội thảo khoa học, tranh luận hàn lâm trong
phòng học của toà nhà bách khoa. Đó là nơi những người như Raymond say mê
nghiên cứu các chính sách giúp việc cho Tổng thống mới, là nơi Indar toả sáng
với những bài giảng, ý tưởng lớn về một châu Phi tân kì, và những người trẻ tuổi
như Ferdinand say sưa, chăm chú đón nhận những tư tưởng, kiến thức, thái độ
mới mẻ. Mặc dù bị hấp dẫn bởi những vinh quang và niềm phấn khích xã hội của
Miền mới, nhân vật Tôi, Salim vẫn cảm nhận được sự bất an lơ lửng trong không
khí, bởi những tư tưởng mới, những quan điểm có phần giả dối, khi chính Indar
lúc trước không đánh giá cao châu Phi, giờ lại đang trở thành một diễn giả về châu
Phi. Indar đã từng khuyên Salim phải “dẫm chân lên quá khứ. Thoạt đầu giống
như bước trên khu vườn, rồi sau đó giống như bước trên mặt đất” [107,70]. Như
vậy, không gian Miền mới dường như có vẻ tách biệt với cuộc sống bên ngoài, đó
là không gian mang tính học thuật hàn lâm, của những tư tưởng tranh biện, của
sự háo hức nhiệt huyết kiến tạo nên một châu Phi mới dưới sự khai sáng của chủ
nghĩa dân tộc tiến bộ mà Tổng thống đang theo đuổi. Nó tạo nên một bong bóng
quyền năng, dễ khiến người ta cảm thấy bản thân mình kì vĩ và cao hơn tất cả, và
rồi chìm đắm trong mộng tưởng cũng như những nhục cảm ngọt ngào. Cuộc tình
vụng trộm giữa Salim và Yvette bắt đầu manh nha trong bầu không khí như thế.
Đó là những cảm xúc lãng mạn gợi lên từ những nốt nhạc êm ái, từ tiếng hát du
dương của ca sĩ Joan Baez nổi tiếng của Mĩ và từ ánh sáng mờ mờ của những
ngọn đèn. Như vậy, ở một khía cạnh nào đó, không gian Miền mới có thể được ví
với phần nổi của “tảng băng trôi”, với những lí thuyết có phần hão huyền, những
ảo vọng không tưởng, bởi ngay khi Salim bước chân ra khỏi Miền mới, anh cảm
nhận rõ được một cuộc sống khác, thực hơn, đó chính là Thị trấn.
Không gian thứ hai là Thị trấn có cửa hàng của Salim. Trước đây, thị trấn
đã từng là vùng đất bị người Ả Rập chiếm đóng, sau đó là thuộc địa của châu Âu,
rồi giành được độc lập. Trải qua những biến động đó, mất mát sau những cuộc
tranh chấp đụng độ, nó trở thành một “thị trấn ma” đổ nát, đến nỗi với người mới
đến tiếp quản như Salim cũng phải thốt lên “ở đây chẳng có gì giống với một cuộc
sống xã hội con người. Những người trở về không được chào đón. Họ đã bị cắt
52
đứt khỏi mối dây liên hệ; họ không biết các sự việc đã diễn ra như thế nào”
[107,17]. Ở thị trấn ma đó là những toà nhà, công trình thực dân xây dựng đã đổ
gục, “Bệ cột xiêu vẹo, rào chắn bảo vệ nham nhở, đèn báo mực nước nát tương
và bị vứt lỏng chỏng. Đống đổ nát đúng là đống đổ nát, không hề có ý định nào
vực chúng dậy” [107,18]. Những con phố mới đều được đặt tên mới, một cách
qua loa, vì người ta mong muốn “quét sạch được kí ức về kẻ xâm lược.” Thị trấn,
do đó, trở thành một địa điểm nằm kẹt giữa hiện tại đầy hiểm nguy và quá khứ
ngoan cường của chính nó. Không gian thị trấn được khắc hoạ thông qua điểm
nhìn và diễn biến tâm trạng của Salim. Salim giống như Indar, là con người của
hai thế giới, một thế giới là Khu, và bước ra khỏi Miền mới để về Thị trấn, anh
nhận ra mình đang quay trở lại thế giới thực, chứ không phải viển vông sách vở
như cách định nghĩa châu Phi trong Miền mới. Salim cảm thấy an tâm khi “nhìn
lại những túp lều, từng đống từng đống, những đống rác, cảm thấy sự hiện diện
của dòng sông và cánh rừng chung quanh (giờ đây chúng có ý nghĩa nhiều hơn
một cảnh trí), nhìn thấy những tốp người rách rưới bên ngoài những nơi uống
rượu, những bếp lửa lều trại trên hè phố ở trung tâm thị trấn” [107,75]. Bao trùm
lên không gian thị trấn là sự hỗn loạn và bạo lực, là sự ngu dốt, nghèo đói và sự
tha hoá của con người, nhưng ẩn sâu trong không gian sinh hoạt ấy vẫn ánh lên
vẻ đẹp của những phong tục truyền thống của người dân bản địa, mà phải là một
nhà văn am tường về văn hoá mới có thể tái hiện thành công được.
Đó là một châu Phi hậu thực dân, một mảnh đất giàu truyền thống bộ tộc,
với những nét đẹp của lối sống tập thể từ bao đời nay và “ở đây không ai có thể
sống mà không thuộc về một bộ lạc nào đó, và Ferdinand, vẫn theo tục lệ bộ lạc,
đã được nhận vào bộ lạc của mẹ nó” [107,23]. Những người dân châu Phi bên
khúc quanh của dòng sông, sống bằng nghề bán hàng rong trên những chiếc xuồng
nhỏ bé, gắn bó cuộc đời mình với những dòng kênh. Đến người kể chuyện, nhân
vật Salim, cũng nhận thức được một mối ràng buộc với vùng đất đã thành hình
“tôi vẫn luôn có thể đi - dù chưa hề biết sẽ đi đâu. Và rồi tôi thấy là mình không
thể đi. Tôi phải ở lại” [107,18]. Văn hoá cộng đồng luôn hiện diện khắp nơi.
Ở vùng đất ấy, những sinh hoạt tập thể, những phong tục tập quán đã ăn sâu
vào tiềm thức của người dân, từ đó, hình thành nên tín ngưỡng và niềm tin. Tư
tưởng chủ đạo là sự kính trọng, ngưỡng vọng tổ tiên. “Mọi người ở đây đều biết
53
rằng mình đang được tổ tiên dõi nhìn từ trên cao, những người hiện đang sống
vĩnh hằng tại một tầng trời cao hơn, và sự lướt qua trái đất của họ không hề bị
lãng quên, mà được lưu giữ hết sức cẩn thận, đó chính là một phần trong sự hiện
diện của cánh rừng” [107,8]. Thế giới tâm linh hiện hữu trong sự hài hoà với thiên
nhiên chính là một nét độc đáo trong bản sắc các dân tộc sinh sống ở châu Phi,
một vùng đất hoang sơ còn nhiều bí ẩn đối với thế giới bên ngoài. Những người
dân lam lũ vùng cây bụi vẫn tin vào vai trò của phù thuỷ, chẳng hạn như Zabeth
là một phù thuỷ, có mùi đặc trưng của các thứ dầu xoa lên cơ thể. “Những người
phụ nữ khác sử dụng nước hoa và toả mùi hấp dẫn, thứ dầu xoa của Zabeth lại
cảnh báo và ngăn chặn. Cô đã được bảo vệ. Cô biết điều đó, và những người khác
cũng biết thế” [107,8]. Đức tin đóng vai trò quan trọng, trở thành một sợi chỉ nối
giữa các thế hệ. Khi cha mẹ của Salim gửi đồ cho con trai, thì đó là gừng, nước
sốt và gia vị từ người mẹ, và một bức ảnh từ người cha về địa điểm linh thiêng ở
Gujarat, nhưng được trình bày theo lối hiện đại “Đó là cách cha tôi muốn nói,
hiện đại như tôi thì cũng phải quay lại với lòng tin thôi” [107,21]. Lòng tin là thứ
mà cha của Salim muốn gửi gắm đến con mình: cuộc sống dù đổi thay, nhưng con
người không thể sống thiếu đi đức tin của mình. Trong không gian văn hoá ấy,
con người sống giản dị và thành thực. Dù cho thời thế có đổi thay, từ thời người
A rập còn cai quản, đến lúc người châu Âu tới và đi, nhưng “có rất ít thay đổi
trong cách suy nghĩ của người dân. Họ vẫn vẽ hình những con mắt to ở mũi thuyền
để cầu may mắn, và các ngư dân có thể trở nên rất giận dữ, thậm chí hăng máu,
nếu một người khách nào đó chụp hình họ - nghĩa là đang buộc họ phải rời khỏi
linh hồn của mình” Mọi người ở đây vẫn sống như thế, không hề có sự phân biệt
rạch ròi giữa quá khứ và hiện tại, và đối với họ chỉ có sự hiện hữu của hiện tại. Ý
nghĩa cuộc sống đối với họ đơn giản là “ánh sáng của bình minh vẫn luôn phải
nhường chỗ cho bóng đêm, và con người luôn sống trong hoàng hôn vĩnh hằng”
[107,10]. Tín ngưỡng dân gian hướng về tổ tiên cùng với quan điểm sống bình dị,
một cách tự nhiên của người bản địa châu Phi đã tạo nên một căn tính đặc biệt
cho không gian tiểu thuyết Khúc quanh của dòng sông.
Không gian đa văn hoá cũng được tái hiện rõ nhất qua các phong tục tập
quán đa dạng, chẳng hạn như tục lệ trẻ con phải quỳ gối trước những người lớn lần
đầu tiên gặp mặt, để thể hiện sự tôn trọng. “Đó là một tập quán trải dài từ những
54
vương quốc trong rừng ra đến phía Đông. Nhưng nó là một tập quán của vùng cây
bụi” [107,23]. Đó là thói quen của những người châu Phi sống lẩn khuất trong đám
cây bụi dọc bờ sông. Tập tục đó khá xa lạ với Salim, một nhân vật xuất thân từ tầng
lớp cao hơn, có gia đình theo đạo Hồi “khác với những người Arập và Hồi giáo
khác ở bờ biển, còn về tập quán và thói quen chúng tôi gần với những người Hindu
vùng Tây bắc Ấn Độ hơn” [107,9]. Sự hoà trộn các dân tộc tại quốc gia châu Phi,
tuy V.S. Naipaul không nhắc đến tên, song nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính là
Congo, đã tạo nên một không gian đa văn hoá độc đáo cho cuốn tiểu thuyết.
Tưởng như sau khi giành độc lập, thị trấn “của chúng tôi” theo cách gọi của
nhân vật Salim, sẽ phát triển theo con đường của độc lập, tự do, dân chủ, nhưng
những biến cố, xung đột vẫn liên tiếp xảy ra. Lúc đầu chỉ là đội Vệ binh trẻ rã đám
“các sĩ quan không có tiền lương, họ không cần công việc chính thức nào cả, họ có
thể bị đuổi khỏi thị trấn và gửi trả về vùng cây bụi để làm công việc xây dựng tại đó”
[107,127]. Nhưng rồi người ta mất niềm tin vào chính quyền mới khi cảnh sát và
quan chức bắt đầu tham nhũng, hạch sách. Dân chúng nổi dậy và “không là những
vụ đánh lộn và giết nhau như kịch trên hè phố mỗi tối nữa, mà là cuộc tấn công định
kì, hàng đêm vào nhiều khu vực khác nhau tại các trụ sở cảnh sát và bản thân các
cảnh sát cùng các quan chức và thợ xây.” Sau đó, mọi việc lại lắng xuống khi cảnh
sát bắt bớ, giải tán những đám biểu tình và trung tâm thị trấn trở lại yên bình một
cách tạm thời, theo cảm nhận của Salim. Tuy vậy, cuộc sống của thị trấn lại rối tung
lên khi Tổng thống bắt đầu quốc hữu hoá, tước đi tài sản của tất cả những người nước
ngoài. Cửa hiệu của Salim bị chuyển cho Citizen Theotime, và Salim được ở lại với
vai trò người làm thuê, ngôi nhà của Raymond và Yvette có chủ mới, một người
châu Phi. Salim xót xa nhận ra biết bao nhiêu đổi thay đã đến với một vùng đất này,
“Một khu rừng ở bên khúc quanh của dòng sông, một nơi gặp gỡ, một nơi định cư
của người A rập, một tiền đồn của châu Âu, một ngoại ô kiểu châu Âu, một sự đổ
nát giống như là sự đổ nát của một nền văn minh đã chết, một Miền lấp lánh của
châu Phi mới” [107,158]. Cả thị trấn và Miền mới đều thay đổi theo chiều hướng bất
ổn, đầy bạo lực, thậm chí cả hành quyết và giết chóc. Không gian tiểu thuyết khép
lại với hình ảnh của con tàu chở Salim xuôi dòng sông, trong ánh sáng chơi vơi,
những bụi lan nước và những phận người lênh đênh không biết về đâu, những tiếng
súng và không khí đầy bướm đêm và những loài côn trùng biết bay “trắng toát trong
55
ánh sáng trắng”. Những con bướm phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho những số phận
bé nhỏ, vô danh trong sự chuyển vần của lịch sử. Có thể thấy không gian tiểu thuyết
đã góp phần chứng minh tài năng của “ một bậc thầy về phong cảnh hư cấu, V.S.
Naipaul đã cho ta thấy một tinh thần rất Tolstoy trong hệ thống những nhân vật và
công cuộc kiếm tìm chính nghĩa xã hội” [108].
Như vậy, với việc kiến tạo hai không gian văn hoá gần như đối lập nhau,
phải chăng V.S. Naipaul đang ngầm tạo nên đất sống cho những nhân vật của cả
hai thế giới như Salim, hay ông đang đặt người đọc vào những ẩn số của cuộc
sống hiện tại? Liệu con người có thực sự thoát khỏi cái bóng của quá khứ, rũ bỏ
thế giới cũ để đến với cái mới? Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận, quy
mô và cách thức tổ chức không gian đa chiều của V.S. Naipaul đã góp phần không
nhỏ trong việc phản ánh hiện thực lịch sử đầy biến động của châu Phi, đồng thời
cũng thể hiện tài năng bậc thầy trong việc kiến tạo không gian tiểu thuyết. Không
gian đặc biệt đó đã góp phần tạo nên một góc nhìn đáng lo ngại về thế giới hậu
thuộc địa trong một kiệt tác văn học hậu thuộc địa đầy lôi cuốn và được vinh dự
nhận Giải thưởng Booker năm 1979.
2.1.3. Không gian lữ thứ tại vương quốc Anh
Từ xa xưa trong lịch sử Trung Hoa, các nhà nho sĩ, trí thức thường được bổ
nhiệm làm quan, hoặc cầm quân nơi biên ải. Khi bị tách ra khỏi môi trường gia
đình, làng xóm quen thuộc, những trí thức đời Đường thường bộc lộ một nỗi niềm
khắc khoải chung: cảm thức li biệt. Có lẽ bởi vậy mà các áng thơ tiễn biệt, biên
tái và sơn thuỷ đều thấm đẫm sắc màu của không gian lữ thứ, một không gian
thẩm mĩ đặc biệt, nơi thi nhân gửi gắm tâm trạng sầu lữ thứ, sầu biệt ly, những
hoài niệm, xúc cảm mơ hồ, mênh mang, da diết, như Mạnh Hạo Nhiên với Tảo
hàn giang thượng hữu hoài:
Nhớ quê mắt lệ dần vơi / Cánh buồm cô độc góc trời tha phương
Đến không gian tha hương trong thơ trung đại Việt Nam, con người nhỏ bé,
cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người cũng có những vần thơ trữ tình man mác
trong một khoảnh khắc hoàng hôn: Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ / Lấy ai mà
kể nỗi hàn ôn? (Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan).
Hiện đại hơn là Huy Cận với Lửa thiêng, mà theo nhận xét của Bùi Giáng, thì “tình
yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian” là những cảm hứng nổi bật nhất. Lữ thứ, theo Hán
56
Việt từ điển, là “nhà trọ bên đường” ám chỉ chỗ tạm nghỉ lại của người đi đường xa, với
nét nghĩa thường dùng để chỉ nơi đất khách, quê người” [109,529]. Như vậy, không gian
lữ thứ có thể hiểu là không gian tái hiện lại cuộc sống viễn xứ, ẩn chứa những tâm tình,
suy tư của nhà văn, nhà thơ trước thời cuộc. Từ khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy
không gian tiểu thuyết Bí ẩn khi tới của V.S. Naipaul có thể xếp vào loại không gian lữ
thứ, bởi cuốn tiểu thuyết ra đời năm 1987, nghĩa là sau hơn 30 năm sống tại vương quốc
Anh, nhà văn nhận ra những cảm xúc đặc biệt của mình cho mảnh đất mình đang sống,
và cả những tâm tư khi quay trở lại quê hương Trinidad. Để chứng minh cho nhận định
này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích hai kiểu không gian xuất hiện trong tiểu thuyết: không
gian lữ thứ của quá trình trải nghiệm, khám phá tại nước Anh và không gian quê nhà
bình yên của tuổi thơ. Trong đó, không gian thứ nhất được tác giả chú trọng xây dựng
hơn, bởi bối cảnh chính của câu chuyện vẫn là vương quốc Anh. Những trang viết về
Trinidad, tuy không nhiều, nhưng cũng phần nào thể hiện những hoài niệm, những niềm
đau khi nhớ tới quê hương bản quán, và góp phần làm nổi bật không gian lữ thứ.
Để hiểu được không gian lữ thứ, trước hết, không thể không nhắc tới con
người nhà văn của V.S. Naipaul tại thời điểm sáng tác, năm 1987, bởi lẽ cuốn tiểu
thuyết gần như tái hiện chân thực nhất cuộc sống, tâm tư, tình cảm của nhà văn.
Dường như V.S. Naipaul đang trải lòng mình lên trang giấy, với những ưu tư, từ
lúc còn một thiếu niên mới lớn, quen thuộc với cuộc sống và con người ở quê nhà
trên đảo Trinidad, đến lúc có cơ hội mở rộng tâm trí và tầm nhìn ở cựu đế quốc
Anh. Ở phương Tây là lúc nhà văn nhận ra sự khác biệt văn hoá của bản thân, phải
đối mặt với vấn đề của sự thích nghi và lai ghép văn hóa. Đây cũng chính là những
khía cạnh của lí thuyết hậu thuộc địa được đề cập tới trong cuốn Vị trí của Văn hoá
(Location of Culture) của Homi Bhabha, bao gồm: sự lai ghép (hibridity), sự mâu
thuẫn trong tư tưởng (ambivalence), cái khác biệt (otherness), sự khác biệt văn hóa
(cultural difference) và sự bắt chước (mimicry). Con người đa văn hóa của V.S.
Naipaul, có thể được nhìn nhận từ bản sắc lai ghép: hưởng nền giáo dục ở đất nước
mẹ đẻ và nước Anh là ngôi nhà thứ hai của ông. Ngay cả Trinidad cũng là một vùng
đất xa lạ đối với ông. Ông không cảm thấy thực sự gắn bó với bất cứ nơi nào, do
đó, tất cả những nơi ông từng sống tạo nên một bản sắc lai ghép cho một tài năng
văn học lưu vong. Trong Bí ẩn khi tới (1987), nhân vật chính cố gắng khám phá
bản sắc của chính mình bằng công việc viết lách. Dần dần, ông nhận ra sự lai ghép,
57
khác biệt văn hoá và tình thế tiến thoái lưỡng nan của một nhà văn di cư. Cuốn tiểu
thuyết đã phần nào tái hiện những mâu thuẫn giằng xé nội tâm của nhân vật Tôi,
những chấn thương văn hoá của một người Trinidad nhập cư vào Anh và những
ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân ở thời điểm hậu thuộc địa.
Không gian lữ thứ trong tiểu thuyết có sự kết hợp tài tình, đan cài khéo léo giữa
không gian thiên nhiên và không gian tâm trạng. Thứ nhất, không gian thiên nhiên
trong tác phẩm được V.S. Naipaul bố cục như một bức tranh phong cảnh rộng, có điểm
nhấn, thu hút tâm trí của người đọc, có sự cân đối của đường nét nhằm phác hoạ cảnh
vật một cách hiệu quả nhất. Chẳng hạn như hình ảnh của toà nhà cổ bằng đá nằm trong
bãi cỏ trước nhà tác giả “được bao phủ bởi cây thường xuân, và cây thường xuân dày
đặc... Tòa nhà có hình vuông và mái hình kim tự tháp. Mái nhà này dường như được
mở ra ở phía trên cùng, và trên cái mái này, trên bốn cái cột, là một mái nhà thứ hai
cũng hình kim tự tháp thu nhỏ” [110,48]. Phép phối cảnh này khá giống với kĩ thuật
vẽ ba chiều của các hoạ sỹ, bắt đầu từ cạnh thẳng đứng gần nhất là toà nhà, rồi đến
những cạnh ngang của mái, tạo nên chiều sâu của tổng thể bức tranh. Nhà văn dường
như đã trở thành một hoạ sĩ tỉ mẩn kì công dựng bố cục cho nhũng bức hoạ giản dị,
nhưng sâu sắc. Dù là một toà nhà hay một khu vườn, V.S. Naipaul cũng tái hiện rõ nét
những điểm nhấn, mảng nhấn trong bố cục của một bức tranh phong cảnh tinh xảo, có
các lớp rõ ràng: tiền cảnh, trung cảnh, hậu cảnh. “Ngôi nhà tranh giờ quá yên tĩnh; khu
vườn nhỏ một thời có hàng rào bao quanh gọn ghẽ, điểm xuyết hoa hồng nhỏ khi hè
sang, thì giờ đây hoang tàn. Và trong sự yên tĩnh bao trùm, trên ngọn đồi phía bên kia,
ở dưới thung lũng, nơi một con đường vắt ngang đồng cỏ cũ kỹ dẫn đến một tòa nhà
trang trại nhỏ bị bỏ hoang, tất cả đều tối đen và rỉ sét trong một mảnh đất bé xíu...”
[110,80-81]. Đây là một kiểu bố cục tối ưu, tạo cảm giác gần, xa rất rõ, tôn lên nét đẹp
yên bình, trữ tình của làng cảnh, giống như cách nhìn nhận của hoạ sĩ nổi tiếng về
tranh phong cảnh của nước Anh, John Constable, hoặc gợi ta nhớ đến một Victor
Hugo, “miêu tả trận chiến Waterloo trong Những người khốn khổ, sáng tạo như một
họa sĩ, bằng phương tiện ngôn từ, tạo nên tính sử thi” [111,934]. Cái Đẹp trong bố cục
của hội hoạ và văn chương đã nhập làm một, tạo nên một điểm giao thoa độc đáo của
cuốn tiểu thuyết nói riêng và lối viết đặc sắc của V.S. Naipaul.
Thêm vào đó, Bí ẩn khi tới cũng đã thành công trong việc truyền tải đến người
đọc bầu không khí làng quê nước Anh thông qua những suy ngẫm của người kể
58
trên hành trình ban đầu của mình từ Trinidad đến Anh. Nếu như ai đó mong chờ
một cốt truyện kịch tính, như chuyện ngoại tình của nhân vật Bray, chắc hẳn sẽ rất
thất vọng, bởi cuốn tiểu thuyết chỉ xoay quanh “người kể chuyện ở ngôi thứ nhất
mô tả khung cảnh của chuyến đi bộ theo thông lệ của anh ta, rồi chú ý những rặng
thủy tùng, đồng cỏ nước và đồng bằng rải rác” của vùng Salisbury” [112].
Từ đó, một thế giới hư cấu được V.S. Naipaul tạo nên, giống như của James
Joyce và Marcel Proust. Trong thế giới đó, quan niệm về sự sống, về vòng tuần
hoàn của các mùa, của cuộc đời hiện lên rõ nét qua những mảng màu sắc của vùng
Wiltshire. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả rất nhiều màu sắc trong Bí
ẩn khi tới. Màu sắc là một trong những đặc thù của ngôn ngữ hội họa; người hoạ
sĩ cần nắm vững và vận dụng những lí thuyết về quang học, quy luật bổ túc của các
màu trong vòng tròn quang phổ một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt nhằm lột tả được
đúng màu của thiên nhiên muôn hình muôn vẻ. Với V.S. Naipaul, ông đã tạo nên
một tổng thể hài hoà với nhiều khám phá tài tình về gam màu như một thầy phù
thuỷ ngôn từ và đồng thời, ông cũng là người có kiến thức và say mê hội hoạ. Bí
ẩn khi tới là một bản vẽ hợp nhất của không gian đa sắc màu, có sự kết hợp hài
hoà của cả màu cơ bản, màu thứ yếu và màu trung tính, xuất hiện dày đặc như
trong bảng thống kê sau của chúng tôi.
Bảng 2.1: Thống kê tần số sử dụng từ chỉ màu sắc trong “Bí ẩn khi tới”
Từ chỉ màu sắc Số lần xuất hiện Tỉ lệ trên bảng 436 màu
Màu cơ bản Vàng 17 3.9%
Đỏ 36 8.3%
Lam 32 7.3%
Màu bổ túc Tím 2 0.5%
Lục 88 20.2%
Cam 7 1.6%
Màu trung tính Xám 46 10.6%
Nâu 31 7.1%
Màu vô sắc Đen 96 22.0%
Trắng 81 18.6%
Tổng số màu 436 lần 100%
59
Từ bảng thống kê trên, ta thấy những gam màu buồn như đen, xanh lục và
trắng xuất hiện nhiều, thành màu chủ đạo trong bức tranh phong cảnh của V.S.
Naipaul, góp phần không nhỏ vào việc miêu tả tâm trạng u hoài, mệt mỏi của nhân
vật trong cuốn tiểu thuyết tưởng nhớ hai người em đã quá cố. Điểm đặc biệt trong
cách phác hoạ của V.S. Naipaul là các gam màu trong các bức hoạ ngôn từ của ông
có cả sắc tố, sắc độ đậm nhạt, sắc loại khó gọi tên mà đặt tên theo liên tưởng, như
màu rỉ sét, màu đá vôi trắng đục, hay màu xám lạ, như màu da của người du mục,
màu sáp của trái cây giả… Phải có con mắt quan sát tài tình của người hoạ sĩ và sự
tinh tế khi chú ý đến từng khoảnh khắc của sự thay đổi, nhà văn mới có thể tạo nên
một bảng màu sống động, chân thực đến vậy.
Đọc Bí ẩn khi tới, độc giả có cảm giác được song hành cùng nhà văn, du ngoạn
chầm chậm vào từng câu, từng chữ đầy thơ và hoạ. Dường như V.S. Naipaul muốn
tái hiện một bức tranh thung lũng Wiltshire theo mỗi bước chân mình, từng thân cây,
từng bờ giậu, từng cái lá, từng bông tuyết được ông chăm chút một cách kiên nhẫn,
say sưa phác hoạ từng đường nét, như một hoạ sĩ tài ba và điêu luyện. Đó là một
nước Anh của những trang viên, dòng sông và bờ suối đẹp đến ngỡ ngàng, dưới con
mắt của một nhà văn đang tìm về ‘tuổi thơ thứ hai’ của mình ở mảnh đất Wiltshire.
“Mùa xuân hoặc mùa hè - khi một đám cỏ màu xanh nhạt nổi lên như một màn sương
màu xanh phía trên bãi cỏ lốm đốm hoa cúc nhỏ. Và luôn luôn có dòng sông. Đó là
dòng sông, với vẻ đẹp lộng lẫy của cây sậy và cỏ dại và dòng nước chảy và phản
chiếu thay đổi” [110,209]. Trong lao động nghệ thuật của nhà văn, ông đã luôn lao
tâm khổ tứ, sao cho nắm bắt được những cái hồn của những bông tuyết rơi trên những
ngọn đồi, hay đứng yên rất lâu trên cây cầu mục nát để bí mật quan sát một con nai
nhỏ, say sưa ngắm nhìn thần sắc của đôi mắt nai, và bằng một thứ ngôn ngữ dung dị,
mang đậm dấu ấn hội hoạ mang đến cho độc giả một bức tranh có một không hai về
nước Anh hiện tại, và về Trinidad của tuổi thơ ông. Có thể nói, sự sáng tạo ngôn từ
chân thực, giản dị nhưng giàu sức gợi, giàu màu sắc tạo hình đã tạo nên những dấu
ấn riêng biệt trong phong cách viết của V.S. Naipaul, như nhà phê bình Boehmer của
Đại học Oxford từng nhận định về Bí ẩn khi tới là “đã minh chứng một cách xuất sắc
rằng tất cả chúng ta đều thay đổi bởi sự giao thoa tinh tế giữa đất đai và ngôn ngữ,…
và là một tấm gương phản chiếu cần thiết cho thời đại chúng ta” [114].
Nhưng ẩn sau bức tranh điền viên lãng mạn tuyệt đẹp ấy là chiều sâu của
60
không gian tâm tưởng của người khách du sống tha hương. Trong Giáo trình
Văn học so sánh, Hồ Á Mẫn đã chỉ ra việc văn học vay mượn ý thức không gian
của hội hoạ, khi các nhà văn, nhà thơ “muốn phá vỡ trật tự của thời gian truyền
thống… đảo lộn thời gian để cho mọi người qua không gian hiểu được tác phẩm”
[113,274]. Điều này hoàn toàn đúng với dòng chảy thời gian tự sự trong Bí ẩn khi
tới. Nếu đặt theo trật tự thời gian tuyến tính thì câu chuyện sẽ trải dài theo các mốc
thời gian của một cuộc hành trình, từ nơi này đến nơi khác, từ thuộc địa Trinidad
của Anh đến vùng nông thôn cổ xưa của nước Anh của một người Ấn Độ trẻ đến
châu Âu với ước mơ trở thành nhà văn. Tuy nhiên, các tình tiết trong Bí ẩn khi tới
có thể không tuân theo trật tự ấy, mà theo một bố cục không gian hoàn hảo – không
gian tâm tưởng. Một điểm thú vị là chính V.S. Naipaul cũng từng viết về cái chết
của tiểu thuyết thế kỉ XIX. Đến với Bí ẩn khi tới, độc giả dễ dàng nhận ra mô hình
kể chuyện mẫu mực của cốt truyện truyền thống đã bị phá vỡ. Cuốn tiểu thuyết
không tập trung vào tình tiết hay hành động, mà đưa người đọc vào một miền lãng
du của những tâm tưởng thiền định, giác ngộ, với những mối liên hệ đầy tính triết
lí và suy tư về ý nghĩa bí ẩn của những con người và sự việc xung quanh. Theo
phương thức kết cấu này, cốt truyện là được tạo nên từ sự lắp ghép những mảnh vỡ
hiện thực, và mảnh vụn của kí ức, của suy tư đa chiều, vậy nên ta cũng cần hiểu về
bố cục truyện kể trước khi đi sâu tìm hiểu không gian tâm tưởng.
Cấu trúc truyện kể của Bí ẩn khi tới được chia thành 5 phần, sắp xếp theo
chiều không gian từ ngoại biên, tiến dần vào trung tâm là khu dinh thự, rồi lại di
chuyển ra ngoài. Phần mở đầu có tên là Khu vườn của Jack, một khu vườn biểu
tượng, gợi nhớ đến vườn địa đàng Eden, một thiên đường đã mất. Jack là người
cả đời gắn bó với khu vườn của mình, cho đến khi không còn đủ sức khỏe để tiếp
tục công việc. Khu vườn bị bỏ hoang với những dây leo bám chằng chịt, rồi Jack
chết. Những người chủ mới đến đến bê tông hóa toàn bộ khu vườn của anh. Những
ý nghĩ về sự hữu hạn của thời gian, về mối dây liên hệ của Jack với đất đai dường
như đã bị thời gian thử thách và thay đổi. Một thế giới mới bắt đầu. Người kể
chuyện – nhà văn trải qua giai đoạn âu sầu, và bắt đầu phần thứ hai với tên gọi
Hành trình. Hành trình là khoảng thời gian từ lúc tác giả còn nhỏ đến trước phần
1. Như vậy, đây là khúc dạo đầu phá vỡ tuyến tính tiến triển của thời gian, cũng
là trung tâm cảm xúc, cấu trúc và chủ đề của tác phẩm. Phần hai kể lại hành trình
61
sáng tác văn học của V.S. Naipaul, với những bỡ ngỡ ban đầu, nhận thức sai lầm,
trải nghiệm cách chấp nhận bản thân và sửa đổi bản thảo bị từ chối. Phần ba, Dây
trường xuân tập trung vào mối quan hệ giữa nhà văn và ông chủ nhà, người lái xe
riêng, rồi liên hệ với khu vườn của Jack. Phần bốn xoay quanh Alan, nhà văn khác
trong tiểu thuyết, một người gốc Anh với những kiến thức uyên thâm về bối cảnh,
được sử dụng như một thước đo so sánh cho nhà văn, nhưng rồi những ý định của
Alan chỉ dừng lại là ý định, và không có cuốn sách nào của Alan được xuất bản.
Cuốn tiểu thuyết kết thúc với một sự đổi thay đầy bất ngờ và khó khăn: sự ra đi
của em gái người kể chuyện ở quê nhà và ông về dự tang lễ. Phần cuối cùng là
câu chuyện của cá nhân tác giả, tương ứng và tiếp nối phần thứ hai. Cuốn tiểu
thuyết là một sự tổng kết, chiêm nghiệm về sự thay đổi của một con người và cách
trở thành một nhà văn. Nếu nhìn thoáng qua trên bề mặt thì mạch truyện có vẻ rời
rạc, đứt quãng, nhưng ẩn sau tất cả những mẩu chuyện không đầu không cuối,
chính là những dòng chảy của cảm xúc và suy tư của tác giả trước thời cuộc.
Không có tuyến tính; trong thực tế tất cả các tuyến tính đã bị phá vỡ với sự lặp đi
lặp lại của những kí ức xuất hiện theo trật tự xoắn ốc. Phần đầu tiên dẫn đến phần
thứ hai và thứ ba. Phần thứ tư là đối trọng với phần thứ hai. Phần thứ ba và thứ
năm là sự tiếp nối của phần hai.
Hình 2.1: Cấu trúc năm phần của tiểu thuyết Bí ẩn khi tới của V.S. Naipaul
Hai điểm ổn định trong cấu trúc phức tạp này là nhà văn / người kể chuyện
và Khu dinh thự. Từ đó, nhà văn dễ dàng trải lòng mình về những trải nghiệm để
trở thành một nhà văn, và hóa ra ra chính những mệt mỏi và mong muốn đến gần
với cái chết được thể hiện trong thế giới nhỏ bé của ngôi làng ông đang sống. Một
62
phiên bản nước Anh thu nhỏ đang tàn lụi dần như ngôi nhà lớn khu dinh thự đã mất đi
cái hào nhoáng và quyền năng trước kia của nó. Tất cả các nhân vật khác chỉ là các
hình ảnh phản xạ, bị biến dạng hoặc thêm thắt vào; ngay cả câu chuyện về Brenda,
người phụ nữ nông thôn, quá kì vọng vào sắc đẹp và Les, người chồng đã phạm tội
giết vợ, cũng được kể với giọng điệu đều đều, không kịch tính, không quan trọng.
Không gian truyện kể được nhìn dưới một thấu kính vạn hoa, có sự chuyển động, giao
thoa giữa các sự vật với nhau.
Xuyên suốt không gian tâm tưởng của Bí ẩn khi tới chính là những suy tư
trải dài theo mỗi bước chân của người khách tha hương, là những khám phá và thay
đổi nhận thức của tác giả trong thời gian mười năm sống ở vùng nông thôn
Wiltshire nước Anh. Nhà văn đã học cách nhìn ngắm quang cảnh và những đổi
thay khi mùa qua, để rồi khám phá và chiêm nghiệm lại những giá trị của chính bản
thân mình trong mối tương quan với những con người ông đã gặp trên đường đời.
Ông suy ngẫm về quy luật hài hòa của tự nhiên, để rồi nhận ra bí ẩn của sự đốn
ngộ: con người và nhà văn là một. Tác phẩm, vì thế, ẩn chứa một triết lí sâu xa về
cuộc đời và nhân thế.
Không gian lữ thứ cũng được đặt trong mối tương quan với không gian quê
nhà, bởi hình ảnh, phong tục của quê hương vẫn luôn hiện hữu trong tâm tưởng
của người con xa quê. Dọc theo chiều dài cuốn tiểu thuyết, chúng tôi thống kê có
đến 103 lần nhà văn trực tiếp nhắc tới Trinidad, trong đó hầu hết là những câu
ngắn, điểm xuyết vào so sánh, liên hệ với khung cảnh hiện tại. Những hình ảnh
quá khứ xuất hiện theo một lẽ tự nhiên, tràn đầy cảm xúc và tinh tế. Có lần nhân
vật Tôi – nhà văn nhìn thấy những cuộn cỏ vàng ấm trong nhà kho, ông lập tức
nghĩ đến câu chuyện cổ tích kéo sợi rơm thành vàng và thói quen nằm ngủ trên
thảm rơm khô của người châu Âu trước kia. Đồng thời, ông cũng liên hệ lại với
Trinidad, nơi ông sinh ra và lớn lên: “Đây là điều không phải quen thuộc với tôi
vì ở Trinidad, người ta luôn cắt cỏ tươi cho gia súc, cỏ lúc nào cũng xanh mởn,
chứ không khi nào bị vàng hay khô” [110,12]. Rồi khi nhìn thấy nhân vật Jack
bận rộn với những luống rau, nhà văn liên tưởng ngay đến hình ảnh người cha mình
thuở trước: “được rào dây thép, xới đất đen, mềm, tơi xốp dưới gốc cây táo gai
cũ. Hình ảnh này gợi lại những kí ức rất xưa với tôi, về Trinidad, về ngôi nhà nhỏ
mà cha tôi từng xây dựng trên một ngọn đồi và khu vườn mà ông bắt đầu trồng trên
63
vạt rừng cũ: những kí ức cũ về đất đen, ẩm ướt, ấm áp và những cây xanh lớn dần
lên, những bản năng xưa cũ, những niềm vui dạt dào ngày xưa” [110,28]. Đối với
nhân vật Tôi trong tiểu thuyết, việc học cách ngắm nhìn sự thay đổi của mùa qua
mùa cũng đến một cách từ từ, giống như khi ta học một ngôn ngữ thứ hai, hoàn
toàn khác với cách học hỏi khi còn là một đứa trẻ giữa cỏ cây hoa lá của Trinidad.
Một lần khác, trong khung cảnh của một cơn bão tuyết Giáng sinh, tác giả bắt đầu
chú ý đến hình dạng của một bờ tuyết ở bên cạnh lối đi khuất gió của mỗi thân cây,
có một bên sườn nhọn hoắt hiển thị hướng gió thổi; rồi chạnh nhớ đến khí hậu quê
nhà, về bãi biển Trinidad nơi có những dòng suối cạn, nơi nước ngọt hòa lẫn với
nước mặn chảy từ vùng rừng nhiệt đới ra biển. Có lẽ, tất cả những hình ảnh của
Trinidad trong tiểu thuyết, đều gắn với những kỉ niệm trong trẻo, ngây thơ của
chàng trai V.S. Naipaul thuở bé. Bằng một cách tự nhiên và chân thực nhất, những
hình ảnh xuất hiện trong tâm trí đã tạo nên một chất xúc tác văn hoá khiến cho
không gian cảnh vật của nước Anh dường như có chiều sâu hơn, trong mối tương
quan với một không gian văn hoá hoàn toàn khác biệt của đảo quốc châu Mỹ. Phải
là người có tâm hồn tinh tế, sâu sắc, có trải nghiệm phong phú, và đặc biệt là ngòi
bút tài hoa mới tạo nên những chiều không gian đan xen như vậy.
Nếu soi chiếu dưới lí thuyết Đa văn hoá của Doreen Massey, địa điểm luôn
là duy nhất và độc đáo thì không gian tiểu thuyết của rất nhiều nhà văn đã hội
tụ điều kiện này. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh căn tính đa văn
hoá tạo nên cái độc, cái lạ trong không gian lữ thứ của tác phẩm Bí ẩn khi tới.
Không gian trong Bí ẩn khi tới là không gian nước Anh, từ Luân Đôn đến thị trấn
Salisbury gần với khu bãi đá cổ Stonehenge dưới góc nhìn của một người vừa “ở
trong”, vừa “ở ngoài” như V.S. Naipaul nên diễn ngôn thường có khả năng dung
chứa những dị biệt đa dạng, nhất là trong mảng văn học thời hậu thuộc địa. Nhà
văn người Anh, Boehmer đã nhận định về cảnh quan của mảng văn học này “vốn
đã rất đa dạng, trải rộng trên toàn cầu ở bất cứ nơi nào các nhà văn đã vật lộn với
các di sản thuộc địa của việc di cư và chuyển chỗ ở. Nhưng cố nhà văn V.S.
Naipaul đã thành công vang dội trong việc định hình lại toàn bộ địa hình liên quan
đến các sáng tác của mình” [114].
Cái độc đáo thứ nhất là không gian lữ thứ của vương quốc Anh trong Bí ẩn khi
tới là một không gian đa sắc, đa chiều, dung hợp nhiều giá trị văn hoá từ khắp nơi
64
trên thế giới, bên cạnh văn hoá Anh truyền thống, được tái hiện dưới góc nhìn của một
người nhập cư. Không khó để độc giả nhận ra những tập tục rất Ăng-lê như những
phép xã giao lịch sự, nhường chỗ cho người lớn tuổi của “những đứa trẻ lớn hơn, tuy
hơi ồn ào, nhưng nói chung là rất lịch sự. Chúng có thói quen đứng và nhường chỗ
cho người lớn...” [110,34]. Văn hoá giao tiếp rất truyền thống đó của người Âu châu
còn bao hàm nhiều phương thức ứng xử, hành vi, lời nói giữa các nhân vật. Tuy là
nhiều nét văn hoá đó nghiêng về duy lí, nhưng giữa những người Anh vẫn tồn tại
những hành động giao tiếp, trò chuyện và xây dựng mối quan hệ trên sự quan tâm,
lắng nghe có chừng mực. Đó là những bữa trưa thân mật vào ngày chủ nhật của vợ
chồng ông chủ nhà trọ ở thủ đô Luân Đôn, gia đình Harding mời nhân vật Tôi đến ăn
và trò chuyện, ở căn phòng râm mát phía sau nhà, hay khiếu hài hước, dí dỏm của
người quản lí nông trại “dừng xe lại để nói chuyện làm thân - bông đùa rằng ông có
thể cho tôi đi nhờ xe, có lẽ, trong năm mươi mét cuối cùng” [110,26]. Đặc biệt là mối
thân tình giữa chính nhân vật Tôi và ông chủ dinh thự, nhà địa chủ từng có thời có đến
16 người làm vườn. Biết rằng nhân vật Tôi là người gốc Ấn, ông chủ dinh thự (người
hiếm khi xuất hiện do điều kiện sức khoẻ) đã sáng tác các bài thơ về Krishna và Shiva,
rồi nhờ đích bà quản gia Phillips đánh máy và mang đến tặng. “Đó là cử chỉ chào đón
của chủ nhà đối với tôi; và vì vậy, bà Phillips cũng coi nó như vậy, thêm vào cử chỉ sự
tôn kính đáng ngạc nhiên của chính bà đối với hành động làm thơ. Bà Phillips đánh
máy và mang đến nhiều bài thơ hơn. Bà cứ như mối liên kết sống giữa ông chủ nhà và
tôi” [110,212]. Cách đối xử của ông chủ nhà đã khiến nhân vật Tôi cảm thấy có thiện
chí hơn cho dù “chúng tôi đã có sự khởi đầu ở hai nửa đối diện của đế chế và đặc
quyền, và trong các nền văn hóa khác nhau” [110,192]. Như vậy văn hoá nhường ghế
cho người lớn ở nơi công cộng, phong tục mời khách đến ăn trưa, cho đi nhờ xe hay
gửi quà tặng của người dân bản địa đã tạo nên một không gian sinh hoạt rất gần gũi,
thân thiện với một người nhập cư như nhân vật Tôi. Đó cũng là một không gian đan
cài nhiều bản sắc của tất cả những giá trị văn hoá như Ấn Độ - Trinidad (nhân vật Tôi),
Italy (nhân vật Angela)… thể hiện rõ nhất qua không gian ngôi nhà ở phố Earl’s Court
với ông chủ nhà đã trải qua hai thế chiến và “một làn sóng người mới - như tôi, và
những người Á châu khác trong nhà, và Angela và những người Địa trung hải khác”.
Tóm lại, sự tổng hoà của những bản sắc văn hoá của hệ thống nhân vật trong tiểu
thuyết: từ ông chủ nhà ở Luân Đôn, đến ông chủ dinh thự ở Wilshire, từ những người
65
quản gia và làm thuê trong khu dinh thự, từ những đứa trẻ đến những người già, từ
người bản địa đến người nhập cư; tất cả đã hoà thành một không gian đa văn hoá nhiều
màu sắc của nước Anh trong nửa sau của thế kỉ XX.
Một điểm đặc sắc nữa trong bức tranh tâm tưởng của nhân vật Tôi của Bí ẩn
khi tới là nghệ thuật đồng hiện. Nếu như trong hội hoạ, người cầm bút luôn mong
muốn làm chủ không gian, tạo nên một không gian đa chiều có nhiều mặt phẳng hội
tụ, bổ sung cho nhau, gợi lên một tổng thể có chiều sâu tạo hình; thì với V.S. Naipaul,
trong tác phẩm Bí ẩn khi tới, rất nhiều lần, ông cũng đã tạo nên những chiều không
gian đồng hiện. Chẳng hạn như từ không gian khu vườn của Jack và những ngọn đồi
trọc, nhà văn đã gợi lên một không gian lịch sử thời đế chế La Mã, khi người ta dắt
những con ngỗng cổ cao đi bộ suốt từ Gaul đến chợ ở Rome để bán. Rồi theo mạch
liên tưởng, ông liên hệ với vở kịch Vua Lear với đoạn bá tước Kent nói về những
con ngỗng quàng quạc. Nhà văn bắt đầu hiểu một lớp nghĩa mới của từ ngữ vì đồng
bằng Sarum, Đồng bằng Salisbury; Camelot, Winchester - chỉ cách hai mươi dặm,
là những thứ hiện hữu, chứ không phải chỉ trên trang giấy. Ông nhận ra “một điều gì
đó mơ hồ ở vở Vua Lear, mà theo như lời người biên tập, là một điều khó hiểu với
các nhà phê bình” [110,19]. Có thể thấy ranh giới giữa thực và ảo, quá khứ và hiện
tại đã bị lu mờ, mở rộng ra những chiều kích không gian gối chồng lên nhau, thâm
nhập lẫn nhau, gia tăng độ vô tận của không – thời gian. Nhờ vậy mà không gian tiểu
thuyết vừa hiện lên chân thực, sống động, vừa góp phần biểu đạt những tâm tư, chiêm
nghiệm về cuộc đời gắn liền với sự cô đơn, xa lạ của nhà văn xa xứ.
Không gian tiểu thuyết của V.S. Naipaul đã thể hiện rõ nét tài năng và sự
am tường văn hoá, lịch sử, xã hội của một nhà văn tha hương, luôn trăn trở, suy
tư về việc sống “một nửa cuộc đời”. Sự tổng hoà của tất cả các nền văn hoá tạo
nên một cảm quan đa văn hoá độc đáo của một nhà văn luôn đau đáu đi tìm cái
Tôi, cái cảm giác mình thuộc về một nơi nào đó. V.S. Naipaul giống như một sứ
giả văn hoá, một nhà folklore học đem đến cho độc giả một vốn hiểu biết phong
phú về không chỉ một mà là nhiều nét văn hoá mới lạ. Lồng ghép trong từng câu
chữ là lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán đa dạng và độc đáo, trải dài qua
không gian vật thể và không gian tâm tưởng của ba châu lục: châu Nam Mĩ, châu
Phi và châu Âu, đa dạng ngôn ngữ và chủng tộc, với nhiều biến cố và thăng trầm
của lịch sử. Việc dụng công xây dựng không gian đa chiều, đa dạng qua các cuốn
66
tiểu thuyết là minh chứng rõ nét cho tài quan sát tỉ mỉ, một tâm hồn nhạy cảm và
một phong cách sáng tác rất riêng của V.S. Naipaul.
Việc nghiên cứu không gian tiểu thuyết của V.S. Naipaul theo lí thuyết của
Massey về địa điểm và căn tính là khả dĩ, bởi không gian mà nhà văn dụng công
xây dựng là minh chứng rõ nét cho những luận điểm của lí thuyết: là tổng hoà của
nhiều bản sắc; là cả một quá trình và không có rào chắn ngăn giữa cái “bên trong”
và “bên ngoài”. Dưới góc độ đa văn hoá, việc nghiên cứu địa điểm, không gian
đã phần nào giải mã được các yếu tố chi phối quá trình sáng tạo nghệ thuật của
nhà văn, đồng thời cũng thể hiện cái mẫn tiệp của một nhà văn tài năng, luôn trăn
trở trước thời cuộc. Đây có thể là lí do chính khiến tính đa văn hóa trong tác phẩm
của ông được thể hiện rất sắc sảo, vượt lên cấp độ không gian vật thể, thể hiện
được những vấn đề thời sự, mang tầm nhân loại.
2.2. Thời gian nhìn từ lí thuyết Đa văn hoá
Phạm trù thời gian là một công cụ đo lường theo chiều tuyến tính và khách
quan quá trình tồn tại, vận động và phát triển của mọi sự vật, sự việc trong thế
giới tự nhiên, và có mối quan hệ biện chứng với không gian. Trong chương 2 của
cuốn sách kinh điển về khoa học vũ trụ Lược sử thời gian (A brief history of time),
nhà vật lí nổi tiếng Stephen Hawking đã khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa
thời gian và không gian trong một đối tượng gọi là không gian, thời gian, và “một
sự kiện là một cái gì đó xảy ra ở một điểm đặc biệt trong không gian và ở một
thời điểm đặc biệt. Như vậy, người ta có thể chỉ nó bằng bốn con số hay là bốn
tọa độ” [115,47]. Trong văn học, sự kết hợp giữa thời gian và không gian sẽ tạo
nên một chỉnh thể nghệ thuật, trong đó thời gian là cái “mà ta có thể trải nghiệm
được trong tác phẩm nghệ thuật với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm,
với chiều dài là hiện tại, quá khứ hay tương lai” [91,77]. Xuất phát từ ý thức sáng
tạo nghệ thuật của nhà văn, đến với sự tiếp nhận của độc giả, thời gian trong tiểu
thuyết của V.S. Naipaul rất đa dạng, tạo nên những nhịp điệu riêng cho mỗi tác
phẩm. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi nhận thấy có ba kiểu thời
gian nổi bật: thời gian hồi tưởng, thời gian tâm trạng, thời gian sóng đôi, có
thể tiếp cận dưới lí thuyết của Doreen Massey.
Trong lí thuyết của Massey có luận điểm số 3 về khái niệm địa điểm trong mối
quan hệ nội tại với thời gian. “Địa điểm không chỉ có căn tính duy nhất và độc
67
đáo mà ẩn chứa nhiều mâu thuẫn nội bộ” [58,155]. Từ đó, ta có thể thấy những
mâu thuẫn nội bộ mà Massey chỉ ra có sự tiến triển của một địa điểm không gian
trong chiều kích của thời gian tuyến tính. Bối cảnh sáng tác của ba cuốn tiểu thuyết
trong phạm vi nghiên cứu của luận án đều nằm trong thế kỉ XX, thế kỉ chứng kiến
những biến động mạnh mẽ qua hai cuộc Chiến tranh Thế giới, sự tan rã của chủ nghĩa
thực dân và thuộc địa, tự do hóa kinh tế và chuyển đổi văn hóa xã hội gắn liền với
toàn cầu hóa. Bởi vậy, không gian trong cả ba cuốn tiểu thuyết đều ẩn chứa những
mâu thuẫn nội tại theo dòng thời gian, tuy vậy ở mỗi tác phẩm cách “chọn điểm bắt
đầu và kết thúc, có thể nhanh hay chậm, có thể xuôi hay đảo ngược, có thể chọn điểm
nhìn từ quá khứ, hiện tại, tương lai” [95,78] đều có nét độc đáo riêng.
2.2.1. Thời gian gắn với hành trình đi tìm bản ngã
Trong Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas, thời gian trần thuật chủ yếu là
thời gian tuyến tính gắn liền với hành trình đi tìm bản ngã của nhân vật ông
Biswas, cũng chính là hành trình đi tìm một chốn nương thân – một ngôi nhà để
khẳng định cái Tôi. Câu chuyện được kể lại theo trình tự: hiện tại – quá khứ –
hiện tại, gắn liền với những lần chuyển nhà của nhân vật chính. Mở đầu là hoàn
cảnh của ông Mohun Biswas, một nhà báo ngụ tại phố Sikkim Street, St James,
thủ đô Port of Spain, 10 tuần trước khi qua đời. Sau đó, cuộc đời của ông Biswas
từ khi sinh ra được hé lộ dần, trong đó các mốc quan trọng đều gắn với một ngôi
nhà nào đó. Khép lại cuốn truyện là lễ hoả táng và vợ con ông Biswas quay lại
Căn nhà Hanuman
Nhà ở Chase
Nhà ở Shorthills
Ngôi nhà trên phố Sikkim
Nhà ở Green Vale
Ngôi nhà trên phố Sikkim
Căn hộ Tulsi ở thủ đô Port of Spain
Căn lều tranh vách đất của cha mẹ Biswas
trong tổng trấn, hướng về ngôi nhà rỗng tuếch trên phố Sikkim.
Hình 2.2: Thứ tự xuất hiện của những ngôi nhà ông Biswas đã sinh sống
trong Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas.
Như vậy, nếu xét cả thời gian và không gian nhà thì câu chuyện có kết cấu
đầu cuối tương ứng, tạo nên dư âm bi ai, ám ảnh cho một kiếp người, hay lớn hơn
là bi kịch của cả một cộng đồng. Một điểm đáng chú ý là Một Ngôi nhà dành cho
ông Biswas được xây dựng dựa trên chính hình mẫu người thân của tác giả: bố của
V.S. Naipaul cũng có may mắn được đi học giống ông Biswas và họ ngoại
68
Capildeos của ông cũng có một ngôi nhà là “Ngôi nhà sư tử” ở Chagaunas. Vậy
nên, khi xem xét thời gian của tác phẩm, chúng tôi thiết nghĩ, cũng cần phải đặt
trong bối cảnh lịch sử xã hội lúc đó. Những sự kiện trong Một Ngôi nhà dành cho
Biswas, bắt đầu vào khoảng năm 1900 và kết thúc khoảng trước năm 1950, một
thập kỉ trước khi Trinidad giành được độc lập khỏi sự cai trị của Anh vào năm 1962.
Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh là khoảng năm mươi năm cuối cùng thực dân Anh
cai trị Trinidad, vì thế hành trình tìm kiếm ngôi nhà của ông Biswas có thể nói là
đại diện cho hành trình tìm kiếm tự do, tìm kiếm bản ngã của người dân Trinidad.
Kết cấu vòng tròn của thiên truyện đóng vai trò như là cái khung bền vững để nhà
văn khai triển câu chuyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng
lại để mở một câu chuyện khác. Thời gian dường như truyền tải một thông điệp:
đây mới một chương nhỏ trong lịch sử ngàn đời của cộng đồng người di cư tại các
nước thuộc địa, và cuộc sống luôn sẽ những vòng tròn lặp lại như thế, con người
luôn khát khao tự do và một mái nhà thực sự của mình, và “dành cho” mình.
Đi sâu hơn vào dòng chảy thời gian của tác phẩm, không khó nhận thấy
những mốc quan trọng trong cuộc đời ngắn ngủi, 46 năm của nhân vật chính đều
gắn bó mật thiết với một ngôi nhà. Có lẽ chính vì thế mà V.S. Naipaul đã đặt
tên cho 5/13 chương trong truyện chính là tên của các ngôi nhà, như bảng thống
kê dưới đây:
Bảng 2.2: Những ngôi nhà gắn với mốc sự kiện trong cuộc đời ông Biswas
Ông Biswas ra đời
Ông Biswas bắt đầu viết báo
Ông Biswas đến làm việc và cưới vợ Ông Biswas chuyển việc làm tài xế / giám sát phụ Ông Biswas mua căn nhà đầu tiên
Gia đình ông Biswas và bà Tulsi đi khỏi Arcawas
Ngôi nhà Hanuman
Ngôi nhà tranh vách đất Nhà ở Green Vale (Tiêu đề phần 1 - chương 5) Nhà ở Shorthills (Tiêu đề phần 2 - chương 3) Căn hộ Tulsi ở thủ đô Port of Spain
Ông Biswas bắt đầu tự kinh doanh, sắp có đứa con đầu lòng. Nhà ở Chase (cửa hàng) (Tiêu đề phần 1 - chương 4) Ngôi nhà trên phố Sikkim (Tiêu đề phần 2 - chương 7)
69
Bắt đầu từ căn lều vách đất của các cụ thân sinh Biswas ở một bãi lầy là ngôi
nhà đầu tiên trong cuộc đời ông, một ngôi nhà thôn quê, nhưng vẫn là tài sản gia đình
và là ngôi nhà duy nhất mà ông còn có một số quyền. Trớ trêu thay, khi người ta bắt
đầu phát hiện ra mỏ dầu trong khu vực, bà Bibti, mẹ của Biswas, bị ép bán nhà. Từ
lúc này trở đi, trong con người ông dường như đã mất mát đi gốc rễ, cội nguồn, đánh
mất chính mình và cảm giác ấy càng được củng cố sau mỗi lần chuyển nhà. Ông
Biswas chuyển tới nhà Hanuman House, sau đó là một loạt các nhà: Chase, Green
Vale, Shorthills, căn hộ Tulsi ở thủ đô Port of Spain, cho đến khi cuối cùng đã mua
ngôi nhà của chính ông, nơi ông qua đời tại phố Sikkim. Nhưng cái gì khiến cho ngôi
nhà trở nên quan trọng trong cuộc đời của ông Biswas? Ta cần chú ý từ nhan đề cuốn
tiểu thuyết là Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas (A House for Mr Biswas), với từ
Ngôi nhà (House) được in hoa. Thông thường, mạo từ “a” trong tiếng Anh sẽ đứng
trước một danh từ số ít, đếm được, và mang nghĩa là một. Danh từ phía sau mạo từ,
theo quy tắc ngữ pháp, sẽ không cần viết hoa. Chương 7 của cuốn tiểu thuyết có tiêu
đề là The House, cũng có nghĩa là ngôi nhà đã xác định, nhưng vẫn với chữ Ngôi nhà
viết hoa. Tuy nhiên, ở đây, tác giả đặt tên tác phẩm là A House for Mr. Biswas với
chữ House được viết hoa rất đặc biệt. Phải chăng nhà văn muốn ngầm ám chỉ tầm
quan trọng của một không gian sống đối với nhân vật Biswas? Đến cuối truyện, V.S.
Naipaul đã đặt dấu chấm kết thúc toàn bộ cuốn sách với từ “the house” – “ngôi nhà”
một lần nữa. Kết cấu vòng tròn của không gian “ngôi nhà” như một tứ thơ kết hợp
với bố cục thời gian: hiện tại - quá khứ - hiện tại dường như đã tạo nên một nỗi ám
ảnh khôn nguôi về một nơi trú ngụ từ đầu đến cuối thiên truyện. Chất thơ ẩn khuất
dưới những gam màu buồn của một nhân vật u hoài, mệt mỏi trong hành trình theo
đuổi giấc mơ. Một motif gợi nhắc đến nỗi ám ảnh thời gian trong Đi tìm thời gian đã
mất của Marcel Proust, khi mở đầu và kết thúc đều là thời gian của tình yêu, nghệ
thuật và kí ức. Hay chính hành trình tìm kiếm ngôi nhà của ông Biswas là nỗi đau
đáu của con người muốn khẳng định chủ quyền của bản thân, muốn tìm cách kết nối
với xung quanh trong cái phông nền xã hội hậu thuộc địa khắp châu lục Á và Phi,
mà đại diện cho chế độ thực dân là hình ảnh ngôi nhà chung của đại gia đình Tutsi?
Như vậy, thời gian trong Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas đã góp phần tái
hiện các sự kiện trong cuộc đời của nhân vật, đào sâu thêm thế giới nội tâm đầy
những bi kịch, và những mâu thuẫn hiện sinh trong hành trình khẳng định cái Tôi.
70
Nhịp độ thời gian mang tính chủ quan, diễn ra lúc nhanh, lúc chậm, là “thời gian
của trật tự các sự kiện đã được phân bố lại trong truyện do sắp xếp chủ quan của
người kể chuyện” [116,33]. Có khi thời gian của cả một đời người được cô đọng
trong một câu văn ngắn, như khi nói đến ông ngoại của ông Biswas thì “chính số
phận đã đưa ông từ Ấn Độ đến trại mía đường, khiến ông già đi nhanh chóng, rồi
chết trong một căn lều xiêu vẹo ở vùng đầm lầy” [96,15]. Có khi là một khoảnh
khắc ngắn ngủi nhưng lại được trần thuật tỉ mỉ trong suốt nhiều trang giấy ví dụ
như cơn mưa lớn ở cuối chương 5 (trước Khởi hành – Departure), khi hai bố con
ông Biswas và Anand ở lại căn nhà dột nát và xiêu vẹo trong mưa gió, sấm chớp.
Nhưng ẩn trong dòng chảy thời gian của truyện là những lát cắt của cuộc đời ông
Biswas, men theo những thay đổi trong nhận thức của nhân vật, từ cái tự ngã phát
triển lên thành bản ngã theo thuyết của Freud. Và thời gian gắn với hành trình đi
tìm bản ngã đã góp phần không nhỏ tạo nên giá trị tư tưởng cho tác phẩm.
2.2.2. Thời gian lịch sử và những va chạm văn hoá
Trong cuốn Văn học và thời gian, khái niệm thời gian lịch sử được xác định:
“Văn học thế kỉ XX đã phong phú lên với nhiều hình thức thời gian mới gắn liền
với tư duy liên tưởng chiều sâu văn hoá và ý thức về quá trình lịch sử sôi động của
thế kỉ chúng ta trên lĩnh vực cách mạng xã hội và khoa học kĩ thuật. Chẳng hạn sự xáo
trộn các bình diện thời gian, tăng cường vai trò của thời gian hồi tưởng và thời gian
tâm lí, sự mở rộng khái niệm thời gian lịch sử” [117]. Từ đó, nếu đối chiếu với quan
điểm của Massey về những mâu thuẫn nội tại của địa điểm, có thể nhận ra trong
Khúc quanh của dòng sông, đó chính là thay đổi nhức nhối về mặt lịch sử, xã hội nhức
nhối của “châu lục đen”. Vậy nên, thời gian trong tiểu thuyết là dòng thời gian lịch
sử của những xung đột văn hoá Âu – Phi.
Lấy bối cảnh ở Châu Phi thế kỉ XX tại một quốc gia không được đặt tên,
Khúc quanh của dòng sông là cuộc hành trình của Salim, khi bắt đầu mua một
cửa tiệm ở Trung Phi từ người bạn Nazruddin. Cuộc hành trình đó vượt qua nhiều
thử thách của Salim nằm trong một giai đoạn lịch sử thăng trầm đầy biến động
của một quốc gia châu Phi. Dòng sông chính là dòng lịch sử, và khúc quanh của
dòng sông là lịch sử đang trong quá trình chuyển hướng, giống như những đám
lục bình ngày đêm sinh sôi, trôi nổi từ phía nam lên. Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết,
hình ảnh lục bình đại diện cho cái mới, vẫn tiếp tục xuôi dòng sông, ám chỉ những
71
thay đổi mới trong dòng chảy của lịch sử, đánh dấu một sự phát triển “nhanh hơn
con người có thể phá hủy nó bằng các công cụ họ có” [107,64].
Đầu tiên phải kể đến lịch sử của quốc gia Trung Phi trong cuốn tiểu thuyết
là lịch sử thuộc địa, kết quả của quá trình văn minh hoá của thực dân, ẩn chứa
rất nhiều mâu thuẫn văn hoá nội tại. Trong thời kì thuộc địa, người châu Âu đã
áp đặt ý thức lịch sử của riêng họ lên châu Phi, và nói rộng ra là thế giới. Ngay từ
đầu cuốn tiểu thuyết, Salim đã phát biểu về tất cả những kiến thức lịch sử của dân
tộc và lịch sử của Ấn Độ Dương, là “có được từ những cuốn sách do người châu
Âu viết... Nếu không có người châu Âu, tôi cảm thấy, tất cả quá khứ của chúng ta
sẽ bị cuốn trôi...” [107,11-12]. Chính những người châu Âu đã dạy châu Phi nhìn
mình dưới một ánh sáng mới, từ những con tem có tên là “thuyền buồm A rập”
khiến cho Salim bắt đầu học cách quan sát cảnh vật xung quanh, bởi nó là “cái gì
đó người nước ngoài nhận ra”. Hay bộ sưu tập mặt nạ của ông cha xứ Huismans
cũng vậy. Với hi vọng bảo tồn một “Châu Phi đích thực”, một nơi “sắp chết”, cha
Huismans đã đầu tư sưu tầm các mặt nạ theo kiểu bảo tàng châu Âu. Tuy nhiên,
Salim đã nhận thức được sự giả dối của người châu Âu trong quá trình văn minh
hoá đó, bởi họ vừa có nô lệ, vừa dựng tượng mình như những người làm việc tốt
cho nô lệ. Sự giả dối đó tất yếu dẫn đến những cuộc nổi loạn, phá bỏ những biểu
tượng đế quốc: kéo đổ các bức tượng, đốt nhà thờ, và lật đổ chính quyền; và thậm
chí giết Cha Huismans, người đã từng tuyên bố rằng mình “hiểu” và “yêu” châu
Phi. Thế giới vẫn như thế, nhưng một phần lịch sử cũ đã chết. Ở đây, tại khúc
quanh đặc biệt này của con sông, như lời của Nazruddin nói, lịch sử vẫn “tiếp tục
vận động. Nhiều người đã bị thổi bay. Không có tiền mới, không có tiền thật, và
điều đó làm cho mọi người trở nên tuyệt vọng hơn. Chúng ta đến đây vào một
thời điểm sai lầm. Nhưng đừng để ý đến điều đó. Chúng ta cũng đến sai thời điểm
ở mọi chỗ khác thôi” [107,146]. Sự ám ảnh của thời gian đó bao trùm khắp cuốn
tiểu thuyết, gợi lên những day dứt, trăn trở về sự thay da đổi thịt của một châu Phi
hậu thực dân, sự biến động chính trị khiến hơn một nửa thành phố bên khúc quanh
dòng sông đã bị phá huỷ.
Ngoài ra, những va chạm văn hoá không chỉ tồn tại trong thời kì thuộc địa,
mà còn hiện lên rõ nét trong xã hội hậu thuộc địa. Người dân châu Phi có thể đập
nát những biểu tượng hữu hình của đế quốc, nhưng không dễ dàng thoát khỏi
72
những tàn dư hậu thuộc địa, đặc biệt là cái bóng văn hoá châu Âu, “của những
thành phố khổng lồ, những nhà kho khổng lồ, những toà nhà khổng lồ, những
trường đại học khổng lồ” và là thiên đường chỉ dành cho “những người được ưu tiên
hoặc được thiên phú mới đến được”. Bản thân Salim cũng nhận ra những xáo trộn,
băn khoăn về khái niệm thời gian khi chính mình ở giữa đống đổ nát của thị trấn ma
sau những cuộc bạo loạn. “…ở giữa đống đổ nát thời gian của bạn trở nên vô định.
Bạn cảm thấy như mình là một con ma, đến từ tương lai chứ không phải từ quá khứ.
Bạn cảm thấy cuộc đời bạn và tham vọng của bạn đã sống ở bên ngoài bạn và bạn
đang nhìn vào những phế tích của cuộc đời đó. Bạn đang ở tại một nơi mà tương lai
đã đến và cũng đã đi” [107,17]. Với một chàng trai trẻ quyết tâm thay đổi số phận
như Salim lúc đầu, khi đến thị trấn của Nazzuddin, cũng phải nhận ra những “gánh
nặng của những ngày tháng vô nghĩa. Cuộc sống của tôi không hề bị gì ngăn trở,
nhưng lại chật hẹp hơn bao giờ hết, sự cô đơn của những buổi tối giống như một cơn
đau” [107,19]. Cảm thức thời gian đã bị chi phối bởi cảnh vật xung quanh và tâm
trạng chán chường, mệt mỏi, mất động lực sống của Salim. Salim nhận ra bản chất
thực sự của cuộc đời mình không phải là những thứ Âu hoá như cặp kính rẻ tiền hay
cái máy ảnh đem ra khoe mẽ với Ferdinand, mà “thực sự cuộc đời tôi nằm dưới sự
tầm thường vô vị của những ngày, những đêm của tôi” [107,29]. Tinh thần rối loạn,
đầy âu lo của Salim là hệ quả tất yếu khi sống trong môi trường đầy mâu thuẫn và
biến động như thị trấn bên khúc quanh dòng sông và ở chiều ngược lại, “hình tượng
thời gian cũng đồng thời biểu lộ cách nhìn của con người về thế giới” [95,183]. Mối
tương quan giữa thời gian và quan điểm sống trong một xã hội lịch sử với rất nhiều
biến thiên, đã tạo nên một nhịp điệu rất đặc sắc cho tác phẩm, làm cho người đọc
cảm nhận được sâu sắc nỗi niềm suy tư của nhân vật Tôi trước những va chạm văn
hoá trong hoàn cảnh thuộc địa và hậu thuộc địa. Giải thưởng Nobel mà Viện Hàn
lâm Thụy Điển trao cho ông, chính là nhờ những cống hiến của ông khi viết về những
nền văn hoá đó, những “lịch sử của các dân tộc bị đàn áp” [3], đóng góp tiếng nói
cho các nền văn hoá “bên lề”. Khúc quanh của dòng sông đã thành công trong việc
góp thêm một tiếng nói như vậy.
2.2.3. Thời gian ngưng đọng và những trăn trở thời cuộc
Đến với tiểu thuyết Bí ẩn khi tới, nhân vật Tôi luôn chìm trong những suy tư,
nên thời gian có lúc như một dòng chảy liên tục nhưng có lúc lại bị đứt đoạn với
73
những ngắt quãng. Có những khoảnh khắc, nhân vật Tôi không nhận ra sự thay đổi
của các mùa qua, bởi cảnh vật trước mắt không để lại một ấn tượng rõ ràng đặc biệt
nào. Diễn biến tâm trạng của nhân vật dường như đạt đến một độ sâu nhất định khi
hướng điểm nhìn vào bên trong, lãng quên hoàn toàn thời gian. Dù vậy, thời gian lại
được tác giả nhắc tới nhiều lần trong tác phẩm. Chúng tôi thống kê có đến 461 lần
nhà văn đề cập đến thời gian (time) và gần 300 lần nói đến năm (year). Một đặc điểm
nổi bật mà chúng tôi nhận thấy qua việc đọc kĩ thời gian của tác phẩm chính là tính
ngưng đọng thể hiện rõ trong cả ba khía cạnh: thời gian tuần hoàn của thiên nhiên,
thời gian tâm trạng và thời gian của một đời người, đời văn đầy ưu tư, trăn trở.
Chính nhân vật Tôi cũng khẳng định “đó là một thế giới không thay đổi - hay đối với
người lạ, nó là thế. Tôi thấy vậy khi lần đầu cảm nhận được nó: Một cuộc sống điền
viên, sự chuyển động chậm chạp của thời gian, thời gian chết, cuộc sống riêng tư,
cuộc sống sống trong những ngôi nhà tách biệt khỏi nhau” [110, 32].
Thứ nhất phải kể đến dòng thời gian tâm tưởng của nhân vật Tôi được thể
hiện qua những mâu thuẫn giằng xé nội tâm của một người di cư. Là nhân chứng
sống của một giai đoạn lịch sử hậu đế quốc, người kể chuyện, chính là V.S.
Naipaul, đã đến Anh vào giai đoạn thoái trào của chủ nghĩa thực dân. Ông nhận
ra những thay đổi của dòng lịch sử qua sự lụi tàn, biến mất của những khu vườn,
dinh thự hào nhoáng trước kia, để rồi trong tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc một
thời quá vãng, cuốn truyện cứ thế phát triển theo mạch tâm trạng, theo dòng ý
thức của nhà văn. Có lúc nhân vật Tôi chìm đắm trong những giấc mơ, trong ý
nghĩ về cái chết sự là sự kết thúc của mọi thứ đang rình rập. Có lúc ông lại để tâm
trí trải dài nhiều trang giấy về những kí ức của chuyến bay đầu tiên trong đời, từ
Trinidad đi Puerto Rico đến New York, rồi lên tàu thuỷ đi Southampton, vương
quốc Anh và đêm gala trên tàu. Dường như, những ý nghĩ bất chợt và những liên
tưởng tự do của hồi ức thường xuyên đan cài vào hiện thực đã tạo nên dòng thời
gian bất định, gợi lên những suy ngẫm về cuộc đời. Nhân vật Tôi hồi tưởng lại
thời gian mới đến Anh và cố gắng tìm hiểu London, ông nghĩ đến những kiến
thức về thành phố này mà mình biết đến trong sách vở, rồi nghĩ đến văn hào
Dickens. Ngay sau đó, dòng tâm trạng chảy đến nhiều năm sau, lúc đọc tác phẩm
Dickens ông lại nhận ra một khía cạnh khác của London qua những từ ngữ đơn
giản, khái niệm đơn giản, rồi lại quay trở lại thời gian những ngày đầu ông đến
74
thành phố này, phát hiện ra thú vui thưởng thức điện ảnh đã trở nên trống rỗng,
vô hồn. Dòng ý thức đã tái hiện một chân dung tinh thần phong phú và không
kém phần lôi cuốn người đọc về những triết lí nhân sinh, chẳng hạn như sự thay
đổi. “Tôi sống với ý nghĩ về sự thay đổi, sự thay đổi liên tục, và học được một
cách sâu sắc, rằng mình không phải đau buồn vì nó. Tôi đã học cách loại bỏ
nguyên nhân giản đơn này của rất nhiều nỗi đau của con người. Sự tàn lụi gợi đến
một cái lí tưởng, hoàn hảo trong quá khứ” [110,210]. Đó là một phát hiện lớn
trong cuộc đời của nhà văn, trong một giai đoạn cạn kiệt ý tưởng viết và ám ảnh
về cái chết và sự lụi tàn. Ông nhận ra bản ngã của mình thuộc về “nơi đây” và bây
giờ, trên con đường mòn dạo bộ qua những triền đồi miền quê nước Anh. Sự chấp
nhận những đổi thay của cuộc đời là kết quả của một quá trình không ngừng tìm
kiếm cái Tôi, quá trình “tự rèn luyện bản thân để không cảm thấy đau buồn vì
những điều như thế” và “sự thay đổi là bất biến” [110,178]. Trong chuyến phiêu
lưu tâm tưởng ấy, thời gian là những khoảng mơ hồ, như “nhiều năm sau” “một
ngày chủ nhật, không lâu sau khi tôi tới London” “sau một vài tuần” “rồi một năm
nọ”… tạo nên một khoảng không rộng lớn cho những sự kiện, biến cố, kỉ niệm
của quá khứ đồng thời khắc hoạ được những thất vọng, đổ vỡ của hiện tại. Có thể
nói, dòng thời gian tâm tưởng đã tái hiện thành công những góc độ tâm lí phức
tạp của nhân vật trong một mê cung kí ức và hiện tại đan cài, chìm đắm trong suy
tư khiến thời gian như ngừng trôi.
Một dạng thức thời gian nổi bật nữa trong tác phẩm là vòng tuần hoàn của tạo
hoá. Trong cuốn tiểu thuyết, chúng tôi thống kê có gần 48 lần nhà văn nhắc đến thời
gian của mùa (season), 39 lần nói tới tháng (month), 299 lần nói tới năm (year). Đa
phần trong những mốc thời gian đó liên quan đến những biến đổi của thiên nhiên, cụ
thể là của những khu vườn. Điều này hoàn toàn hợp lí bởi lẽ phần lớn thời gian cuốn
tiểu thuyết đều diễn ra ở Anh, vương quốc của những khu vườn độc đáo và những
con người chuyên nghiệp và say mê vườn tược. Thời gian đầu chuyển đến sống ở
Wiltshire, nhân vật Tôi không có khái niệm phân biệt giữa các giai đoạn của mùa
hoặc mùa này với mùa khác, hay hoa lá đặc trưng của tháng nào. Nhưng với bản tính
thích quan sát và chú ý đến tất cả mọi thứ, ông vẫn cảm thấy rung động bởi vẻ đẹp
của cây và hoa và buổi sáng sớm và buổi tối muộn, để rồi cảm quan về thời gian của
nhân vật Tôi trở nên rõ ràng hơn. Cũng chính nhờ khu vườn của Jack mà nhà văn hiểu
75
biết thêm về các mùa, và nhìn nhận sự vật theo một cách khác trước. Ông để ý màu
sắc của hoa táo nở, giữ lại trong tâm khảm và gắn nó vào một thời điểm cụ thể trong
năm, nhớ tới các loại củ của mùa xuân; việc trồng cây theo mùa như cúc vạn thọ và
dã yên thảo; cây phi yến và đậu cánh chim vào giữa hè. Đặc biệt là sau đợt dưỡng
bệnh, ông ngắm những bông hoa mẫu đơn lần đầu tiên, suy ngẫm về cuộc sống mới
ở Anh, và bắt đầu học cách “gắn chúng với một mùa hay một thời gian trong năm hay
liên hệ với sự xuất hiện của những bông hoa khác hoặc những thay đổi tự nhiên khác”
[110,198]. Đó là cách ông cố gắng hiểu cuộc sống mới, và tìm cách hoà nhập với nó,
với những người như anh chàng làm vườn tên là Jack, là một trong những người biết
cách kỉ niệm mỗi mùa qua theo cách riêng của mình. Nhà văn đã băn khoăn tự hỏi và
thậm chí còn ghen tị với niềm vui của Jack, người đã sống một cuộc đời hài hoà với
các mùa và cảnh quan xung quanh, người đã tạo nên một khu vườn ở rìa đầm lầy và
một trang trại hoang tàn; đã tìm thấy vẻ đẹp lộng lẫy và tổ chức ăn mừng mỗi mùa
qua với các nghi lễ riêng. Vòng tuần hoàn của thiên nhiên – xuân, hạ, thu, đông đã
được cảm nhận qua những rung cảm tinh tế, lắng sâu bằng một ngôn ngữ đẫm chất
thơ, có khi là “các mùa để lại dấu ấn trên những nhánh cây này (cây lê già) theo những
cách khác nhau; và cảnh vật nhìn từ trong nhà tôi ra, rất phong phú. Cây ra quả. Lúc
nào cũng đột ngột; luôn luôn có vẻ đột ngột. Nhưng đối với tôi, chúng không đơn
thuần là trái cây để ăn, hay chỉ một phần nhỏ, vì hoa quả thuộc về trang viên: chúng
là một phần bức tranh thiên nhiên” [110,60]. Cái thần thái của tạo hoá dường như
ngưng đọng lại ở một thời điểm nhất định trong năm. Chẳng hạn như mỗi khi một
đám cỏ màu xanh nhạt nổi lên như một màn sương bên trên bãi cỏ lốm đốm hoa cúc
nhỏ, như “dòng sông, với vẻ đẹp lộng lẫy của lau sậy và cỏ dại và dòng nước chảy và
phản chiếu những đổi thay”. Như vậy, xen lẫn với dòng thời gian tâm trạng, là một
mạch chảy của thời gian các mùa, được cảm nhận qua những khoảnh khắc ngưng
đọng của thiên nhiên, cỏ cây, của những khu vườn, dòng sông… Vòng tuần hoàn của
tạo hoá diễn ra có phần thong thả, được tính bằng năm, bằng mùa và tháng, nhưng
cũng có những phút giây lắng đọng, kéo dài, thể hiện một tâm hồn nhạy cảm và ngòi
bút tài hoa, tinh tế của V.S. Naipaul.
Bên cạnh cảm thức về thời gian trôi qua các năm và các mùa, vòng tròn thời
gian của tạo hoá có lẽ cũng được cảm nhận qua chính kết cấu của tác phẩm. Trong
tiểu thuyết, có rất nhiều lần V.S. Naipaul mô tả về một cảnh quan, tòa nhà và khu
76
vườn mục nát, đến mức độc giả cảm thấy hơi quá, lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, có thể
thấy một ý đồ sáng tác của tác giả ở cuốn tiểu thuyết về vòng đời, chủ yếu là những
đổi thay, suy tàn và cái chết, rồi tái sinh. Phần mở đầu đầy chất thơ là khu vườn
của Jack. Phần tiếp theo, “Hành trình”, với bức tranh của hoạ sĩ De Chirico Bí ẩn
như sự đến, ẩn dụ cho chính cuộc đời của V.S. Naipaul: là một người nhập cư,
người lạ, người ngoài cuộc, ông không bao giờ có thể quay trở lại “con tàu” ban
đầu. Đến phần “Dây thường xuân”, dường như kéo lê tâm trí của người đọc, khi
chủ nhà của nhân vật Tôi (tức là ông chủ sở hữu trang viên) về già, gần như nghỉ
dưỡng bên trong trang viên. Khu điền trang và người làm trở thành nạn nhân của
sự suy tàn, bỏ bê và mất mát không thể tránh khỏi. Giọng điệu của phần này là tràn
đầy nỗi buồn, bất lực, từ góc nhìn của người ngoài cuộc. Phần 4 được tác giả đặt
tên là Những con quạ, những con chim mất nhà khi những cây du chết, buộc chúng
phải chuyển sang những cây khác, như vậy hi vọng về sự sống vẫn còn nhen nhóm.
Phần cuối cùng, Lễ tiễn đưa khép lại cuốn truyện bằng những chiêm nghiệm về cái
chết. Như vậy, với bố cục 5 phần bắt đầu từ khu vườn, đến hành trình, đến dây
thường xuân, những con quạ, rồi lễ tang của người em gái, dễ thấy một kết cấu thời
gian luân chuyển, có khởi đầu, có kết thúc rất phù hợp khi khắc hoạ những nỗi
niềm, suy tư và hoài niệm của nhân vật Tôi trước thời cuộc.
Ngoài ra, một khía cạnh thời gian khác cũng tạo nên sức gợi lớn cho tiểu
thuyết, chính là thời gian hữu hạn của đời người. Nội dung truyện đã bao quát
gần như trọn vẹn cuộc đời của nhân vật Jack, nhân vật ông chủ dinh thự và nhân
vật Tôi. Đối với Jack, cuộc đời của anh gắn liền với sự hiện diện của khu vườn.
Cho dù phải sống trong sự bất an về công việc, về ngôi nhà đang ở, nhưng Jack
vẫn đầu tư thời gian gìn giữ khu vườn của mình rất công phu: đào xới luống rau
và hoa và giữ cho đất đai màu mỡ. Nhà văn đã rất tinh tế khi nói về “Jack được
neo đậu bởi các mùa và công sức lao động tương ứng trong khu vườn của mình”
[110,222]. Từ “neo đậu” (bản gốc tiếng Anh là anchored) gắn kết với các mùa
thời gian gợi lên một cuộc sống tạm trên trần gian, một sự neo đậu rất Á đông,
một góc nhìn độc đáo, mới lạ trong văn học phương Tây. Jack đã tạo ra một cuộc
sống, một thế giới cho riêng mình, nhưng thế giới đó lại quá quý giá, quá khác
biệt, nên khi anh ra đi những người làm vườn khác cũng không thay thế được vị
trí của anh. Ngôi nhà của anh cũng sang tên đổi chủ, và nhà văn xót xa nhận ra
77
“khi công nhân thay thế anh ta đi, chỉ khi đó tôi mới thấy sự vất vả thực sự của
những con người làm việc hoặc sinh sống trên mảnh đất này” [110,93].
Thứ hai là nhân vật ông chủ nhà của tác giả, một nhân vật không được đặt
tên, ít đối thoại, được nhìn qua lăng kính của tác giả, là đại diện cho ngày tàn của
đế chế. Trang viên mà ông địa chủ được thừa kế, từng nằm trong một phần của
cải hoàng gia, giờ đã mục nát, bê trễ, thiếu đi bàn tay chăm sóc. Ông chủ nhà thời
trai trẻ từng là một hoạ sĩ, nhưng con đường nghệ thuật của ông không bao giờ
phát triển. Ông chọn cách sống ẩn dật trong trang viên, không đi ra ngoài, thậm
chí còn không đến London, nhưng cũng không làm gì đối với mảnh đất cha ông
truyền lại. Trong một trạng thái trầm cảm, ông để cho cuộc đời lặng lẽ trôi qua
trong khu trang viên đóng cổng thường xuyên và khu vườn cỏ mọc um tùm, để
mặc trang viên cho ông bà quản gia Phillips, cho người làm vườn tên Pitton. Chính
vì thế mà khu vườn trước kia có đến 16 người làm giờ chỉ còn một, gia tài nhà
cửa, đất đai của ông cha để lại cũng bị bỏ mặc. Những đặc quyền về thu nhập,
nhà cửa, người hầu, đất đai đã khiến ông chủ nhà của nhân vật tôi trở thành một
người “vô công và vô dụng”, để những dây thường xuân ngập tràn vườn tược,
đồng cỏ nước hoang dại, ngập rác với nhiều cây liễu đổ và lau sậy loà xoà. Người
đọc không thể không đặt câu hỏi liệu sự xuất hiện của khu vườn bí mật (hidden
garden) phải chăng là ẩn dụ cho cuộc đời của nhân vật ông chủ nhà? Một mùa hè,
ông chủ nhà ra lệnh mở cửa và dọn dẹp khu vườn bí mật này, khiến tất cả mọi
người đều thốt lên ngạc nhiên vì có một khu vườn như vậy tồn tại phía sau gara
chính, có cả một đài phun nước lát gạch đẹp đẽ đã bị lãng quên. Nhưng rồi, vì
không ai biết cần làm gì, nên khu vườn lại được đóng lại, bao phủ một lần nữa
bởi những lá và quả sồi. Cánh cửa của khu vườn bí mật khép lại, cũng chính là
cánh cửa khép lại cuộc đời ẩn dật của ông chủ nhà, trong sự lãng quên và lụi tàn,
trong cái bình yên và an toàn của trang viên ngày càng mong manh.
Thời gian đời người cũng được tái hiện một lần nữa ở cuối tác phẩm, với lễ
tang của em gái tác giả và cả gia đình đoàn tụ. Nhà văn nhớ lại quãng đời lưu lạc
của mình, nhớ đến lễ hoả táng của người cha, rồi suy ngẫm về cuộc đời của người
em gái, Sati. Sati đã sống cả đời ở Trinidad, đã chứng kiến những thay đổi chính
trị hồi năm 1956, sự nguy hiểm của đường phố, gần như là một cuộc cách mạng
và tình trạng hỗn loạn năm 1970. Cuộc đời của Sati có thể nói là cuộc đời bình
78
yên và một thành công. Khi nhận được tin về sự ra đi của cô, nhân vật Tôi đã bày
ra hết những tấm ảnh chụp gia đình, tập trung suy nghĩ về Sati trong khoảng lặng.
Đó là người phụ nữ đã đi hết cuộc đời và “một cách đau đớn, cái chết đã chạm
đến những bức ảnh chụp thời trẻ. Tôi nhìn những bức ảnh mình bày ra trước mặt
và nghĩ về Sati nhiều hơn những gì tôi từng nghĩ về em”. Nhân vật Tôi coi việc
tập trung vào con người đó, cuộc đời đó là một cách vinh danh người đã khuất.
Lễ tang khép lại phần cuối của cuốn tiểu thuyết, cũng là sự đánh dấu cái kết của
một đời người, đồng thời cũng mở ra một chương mới cho cuộc đời nhà văn, khi
ông bắt tay vào viết chính cuốn tiểu thuyết này. Bởi lẽ đó, cái chết dù mang theo
nỗi đau, nhưng không hề bi luỵ, mà như một phần của vòng quay sinh – lão –
bệnh – tử. Cuộc đời của Sati khép lại, nhưng người chồng và người con trai vẫn
luôn nhớ đến cô, và mong ước được gặp cô lần nữa ở thế giới bên kia. Thời gian
đời người có lẽ không còn là hữu hạn, mà ở một quan niệm khác, một tôn giáo
khác như đạo Hindu, sẽ là những vòng luân hồi, tái sinh.
Ở góc độ thời gian, có thể nhận thấy kết cấu tiểu thuyết là sự lồng ghép các
vòng đời với nhau: vòng đời của khu vườn, của khu điền trang, và vòng đời của
con người. Nhà văn nhận ra vòng đời (cycle) của cảnh vật một cách rõ ràng, ông
thậm chí nói đến vòng đời khá nhiều lần trong tác phẩm (17 lần). Đó có thể là vòng
đời của một ngôi nhà “Với việc xây dựng một ngôi nhà lớn nơi mà có lẽ trong nhiều
thế kỉ, đã từng là những ngôi nhà tranh hoặc nhà ở của người nông dân hoặc lao
động nông thôn, một vòng đời đã qua” [110,91]. Hay cũng có thể là chu kì cuộc
sống với chính tác giả, trên mảnh đất của trang viên; “một chu kì khác là cuộc sống
trên trang trại, trong các căn nhà nông trang; một chu kì khác là cuộc đời của vợ
Jack” [110,94]. Những chu kì, vòng thời gian đan xen, hoà quyện, tạo nên một cảm
thức thời gian rất độc đáo, lôi cuốn người đọc. Đến cuối tiểu thuyết, nhà văn đưa
ra những chiêm nghiệm sâu sắc về con người và thời gian “Con người cần lịch sử;
nó giúp họ biết xem họ là ai. Nhưng lịch sử, giống như sự thánh thiện, có thể cư trú
trong trái tim; chỉ cần có cái gì đó ở đấy là đủ” [110,353]. Những vòng đời khép
lại, lịch sử của các dân tộc cũng như dừng lại, “cư trú trong trái tim” mỗi người.
Thời gian “luôn mang tính cảm xúc (tâm lí) và tính quan niệm, do đó đầy tính chủ
quan”, phản ánh cách cảm nhận, miêu tả thời gian độc đáo của mỗi tác giả. Có thể
thấy, Bí ẩn khi tới không chỉ là một áng văn xuôi về vẻ đẹp vùng nông thôn nước
79
Anh trong vòng tuần hoàn của thiên nhiên, mà trên hết là một cuốn truyện đầy suy
tư về nhân thế và văn nghiệp. Ấn tượng để lại trong người đọc về một câu chuyện
hầu như không có truyện, mà như một dòng chảy tự sự của nhân vật Tôi trong một
trục thời gian ước lệ đan cài những mâu thuẫn nội tâm của chính tác giả. Thời gian
đã được đong đếm “bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp đi lặp lại đều đặn
của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa
này, mùa khác... tạo nên nhịp điệu tác phẩm” [95,272]. Trong một cuốn tiểu thuyết
nằm giữa lằn ranh của hư cấu và phi hư cấu, chứa đầy những câu văn đẫm chất thơ
và những chuyển động chầm chậm của cuộc sống, V.S. Naipaul đã thành công
dựng lên một không, thời gian đậm chất Thiền, chứ không còn gói gọn trong những
năm 1980 ở một miền quê nước Anh.
Đến với ba cuốn tiểu thuyết trên của V.S. Naipaul, độc giả có thể cảm nhận
được cách tái hiện thời gian rất riêng, không lẫn với bất kì nhà văn nào khác. Tuỳ
theo dụng ý của tác giả, mà thời gian trong tác phẩm lại được tái hiện một cách
khác nhau. Đó là thời gian cuộc đời của ông Biswas như một hành trình đi tìm
bản ngã, thời gian lịch sử đầy hỗn loạn của một quốc gia châu Phi cùng những va
chạm văn hoá, hay vòng thời gian ngưng đọng với những mâu thuẫn nội tâm của
nhân vật. Sự dụng công xây dựng những khoảng thời gian ấy đã giúp nhà văn
truyền tải được nhiều thông điệp mới mẻ, hấp dẫn độc giả trên khắp thế giới.
80
Tiểu kết
Bản vị không – thời gian Đa văn hoá trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul gắn
liền với thế giới quan và chiều sâu cảm quan của tác giả. V.S. Naipaul là một nhà
văn có khả năng quan sát đặc biệt, nhìn thấy các sự việc ở những góc độ độc đáo,
chính vì vậy mà không gian, thời gian trong tác phẩm của ông cũng rất đặc sắc,
nhất là khi soi chiếu dưới lí thuyết về căn tính và nơi chốn của Doreen Massey.
Không gian sinh hoạt đậm chất truyền thống của Trinidad và Tobbago trong
tác phẩm Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas thực sự là không gian dung hoà
giữa cái bên trong và bên ngoài. Trong khi đó, không gian văn hoá lịch sử đầy
biến động của châu Phi của tiểu thuyết Khúc quanh của dòng sông được tái hiện
trong một quá trình đan xen giữa quá khứ và hiện tại, giữa Miền mới và Thị trấn.
Đến với tiểu thuyết Bí ẩn khi tới, không gian nhuốm màu lữ thứ, được tái hiện
qua không gian viễn xứ và không gian quê nhà, không gian thiên nhiên và không
gian tâm tưởng tạo nên một địa điểm “duy nhất và độc đáo” dưới lí thuyết của
Doreen Massey.
Thời gian trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul cũng rất đa dạng, tạo nên nhịp
điệu cho mỗi tác phẩm. Đó là thời gian gắn với hành trình đi tìm bản ngã trong
Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas, thời gian lịch sử và những va chạm văn hoá
hậu thuộc địa trong Khúc quanh của dòng sông, thời gian ngưng đọng và những
trăn trở thời cuộc trong Bí ẩn khi tới. Tất cả những chiều kích thời gian đó góp
phần xây dựng nên một địa điểm không chỉ có căn tính độc đáo mà ẩn chứa nhiều
mâu thuẫn nội bộ theo quan điểm của Doreen Massey.
Như vậy, việc nghiên cứu phạm trù không, thời gian qua ba cuốn tiểu thuyết
từ lí thuyết Đa văn hoá cũng giúp khám phá sự thay đổi trong nhận thức, tri giác
của nhà văn về thế giới, đồng thời thể hiện cảm quan Đa văn hoá trong sáng tạo
nghệ thuật. Khởi di từ dự cảm mẫn tiệp của người nghệ sĩ, không gian và thời
gian tiểu thuyết giao thoa trong những tư tưởng và cảm xúc, tạo nên một thế giới
nghệ thuật độc đáo, một phông nền đa văn hoá để truyền tải những thông điệp
văn chương.
81
CHƯƠNG 3
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT V.S.NAIPAUL
NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐA VĂN HOÁ
Con người vừa là nguồn cảm hứng, vừa là đối tượng của văn học. Nhân vật
văn học là “một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ” có chức năng cơ bản là khái
quát tính cách của con người. “Vì tính cách là kết tinh của môi trường nên nhân
vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các thế giới khác nhau của đời sống”
[95,202]. Nói như vậy, không thể nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong một tác
phẩm văn chương mà thiếu đi bước tìm hiểu nhân vật văn học, và đối với tiểu
thuyết, thì đó là thế giới mà nhà văn đã dày công xây dựng, tổ chức theo một cấu
trúc, quy luật riêng. Đó là một thế giới toàn diện bao gồm hệ thống các nhân vật
trong những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên
và vũ trụ. Với mong muốn đi tìm căn tính đa văn hoá trong tiểu thuyết của V.S.
Naipaul, trong chương này chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu Đa văn hoá qua thế
giới nhân vật để làm sáng rõ hai câu hỏi.
❶ Thứ nhất, liệu có tồn tại tính đa văn hoá trong hệ thống nhân vật của tiểu
thuyết của V.S. Naipaul hay không? Nếu có, tính đa văn hoá thể hiện qua những
khía cạnh nào trong hệ thống nhân vật ấy?
❷ Thứ hai, ở những khía cạnh ấy, cần soi chiếu lí thuyết Đa văn hoá nào
để góp phần làm nổi bật đặc trưng đa văn hoá của tác phẩm?
3.1. Cội rễ Đa văn hoá trong thế giới nhân vật
Để trả lời cho câu hỏi thứ nhất, trước hết, chúng tôi tìm hiểu về con
người và phong cách sáng tác của nhà văn. Bản thân V.S. Naipaul xê dịch
nhiều và chiêm nghiệm nhiều, chứng kiến cuộc sống đa dạng và kì lạ ở nhiều
nơi vào những thời điểm khác nhau. Từ năm 18 tuổi, ông nhận được học bổng
của chính phủ, rời Trinidad sang Anh học tại Đại học Oxford. Sau khi tốt
nghiệp đại học, ông làm biên tập viên cho chương trình “Tiếng nói Caribe”
của BBC và tạp chí văn học The New Statesman (Chính khách mới). Sau đó
là một V.S. Naipaul của rất nhiều chuyến đi khắp các châu Mĩ, Phi, Á, Âu.
Từ những chuyến đi đầu những năm 1960, tới vùng biển Caribe và châu Phi,
nhằm hiểu hơn về lịch sử của người di dân Ấn Độ và chủ đề thuộc địa, ông
82
đã cho ra mắt độc giả hơn 20 cuốn sách bao gồm tiểu thuyết, sách lịch sử, tập
truyện ngắn, tiểu luận và du kí. Ngay từ thời kì đầu mới tập trở thành nhà văn,
V.S. Naipaul đã ý thức việc viết văn trước hết phải một người ghi chép lại sự
việc, con người để rồi biến những điều đó thành một thứ văn chương nghiêm
túc, sâu sắc. Với quan niệm rằng nghề văn phải có óc quan sát, ghi chép cần
mẫn, có mục đích, ông mua một cuốn tập nhỏ, một cái bút chì và ghi lại tất
cả những đặc điểm cũng như những đoạn hội thoại với tài xế taxi, hành khách
đi cùng, người làm ở nhà trọ, bạn bè đại học…; các cuộc gặp gỡ khác nhau,
tất cả những thứ này đều được ghi chép lại, trở thành “chất liệu sáng tác đô
thị” và sau đó đi vào tác phẩm. Xã hội thu nhỏ trong cuốn tiểu thuyết Ngôi
nhà dành cho ông Biswas, Bí ẩn khi tới và Khúc quanh của dòng sông là
những con người đến từ nhiều quốc gia, mang theo những đặc trưng văn hoá
tâm linh, ẩm thực, và phong tục tập quán từ chính những quan sát, ghi chép
thực tế đó của V.S. Naipaul.
Thêm vào đó, theo cách nói của Beaujour, bức chân dung tự truyện của mỗi
nhà văn đều nhằm trả lời câu hỏi “Tôi là ai?”. Câu trả lời mang tính triệt để nhất: tôi
chính là phong cách, là viết và là văn bản. Người viết tự truyện, như V.S. Naipaul
hay Rushdie, đều muốn được nhớ đến cuộc đời mà họ từng sống, ít nhiều như trong
câu chuyện họ kể. “Bức chân dung tự hoạ không gì khác chính là văn bản của anh
ta: anh ta sẽ tồn tại thông qua nó, hoặc hoàn toàn không tồn tại” [118,343]. Điều này
hoàn toàn đúng với hai cuốn tiểu thuyết mang tính tự truyện như Ngôi nhà dành cho
ông Biswas hay Bí ẩn khi tới, khi người đọc có cảm giác chính V.S. Naipaul đang
hiện hữu trong tác phẩm một cách chân thực và sống động, như V.S. Naipaul từng
nói rằng cuộc đời ông nằm trọn trong các cuốn sách ông đã viết.
Hơn nữa, trong một cuộc phỏng vấn, với Bernard Levin, V.S. Naipaul đã
giải thích quan điểm của mình về bản sắc đa văn hóa: “Tôi không nghĩ ai trong
chúng ta có thể tuyên bố rằng chúng ta đến từ một cộng đồng bộ lạc duy nhất và
khép kín. Chúng ta đều là những tế bào nhỏ bị bắn phá (bombarded cells), phải
vậy không? Nhiều điều xảy ra tạo nên con người chúng ta như này, và ai cũng
sống với tất cả những thứ đã tạo nên con người mình” [1119,98]. Nguyên gốc
tiếng Anh, V.S. Naipaul dùng từ “bombarded cells”, trong đó “bombarded” là từ
phái sinh của từ động từ gốc “bomb”, nên “bombarded” được hiểu là “bị tấn công
83
liên tục bằng bom, mìn, lựu đạn”. Đây là một động từ mang nét nghĩa mạnh của
chiến tranh, bom đạn, và nhà văn sử dụng để ẩn dụ cho những biến thiên của cuộc
sống, đã khiến cho cuộc đời mỗi con người bị “bắn phá” trôi dạt đến những vùng
đất mới, hoà nhập, thay đổi văn hoá. Hình ảnh ẩn dụ “các tế bào bị bắn phá” đó
phần nào thể hiện chính những trải nghiệm của nhà văn với hoàn cảnh xuất thân
đặc biệt. Chính hội đồng giải thưởng Nobel danh giá cũng đã nhận xét về V.S.
Naipaul là “một nhà văn tầm cỡ quốc tế có trình độ rất cao, và thực tế là chính
bản thân ông cũng xuất phát từ sự thiếu gốc rễ nguồn cội: ông không hài lòng về
sự nghèo nàn về văn hóa và tinh thần của Trinidad, ông cảm thấy bị xa lạ với Ấn
Độ, và ở Anh, ông không thể tạo nên mối dây liên hệ với các giá trị truyền thống
của nơi từng là cường quốc thực dân” [122].
Có thể thấy hoàn cảnh xuất thân và lớn lên rồi sống trong những môi trường
đa dạng văn hoá như vậy đã tạo nên một cá tính độc đáo của các nhân vật trong tiểu
thuyết của V.S. Naipaul: những con người luôn trăn trở, suy tư về cái Tôi và cái Ta
trong một thế giới đầy biến động. Trong các sáng tác của V.S. Naipaul luôn thường
trực cảm giác khám phá được một cái mới sau mỗi chuyến đi, phản ánh cuộc sống
của người dân bản địa một cách đầy đủ và phong phú. Ông tìm kiếm chất liệu sáng
tác từ trong chính những chuyến đi thực tế khắp các châu lục, bởi những chuyến đi
đó “sớm trở thành một sự kích thích cần thiết đối với tôi. Nó mở rộng tầm nhìn thế
giới của tôi; nó cho tôi thấy một thế giới đang thay đổi và đưa tôi ra khỏi cái vỏ
thuộc địa của chính mình; nó đã thay thế cho những trải nghiệm trưởng thành - kiến
thức sâu sắc về một xã hội - mà nguồn gốc xuất thân và bản chất cuộc sống đã phủ
nhận tôi… Tôi học được cách nhìn riêng của mình” [120,11].
Bằng sự mẫn tiệp của một nhà văn, cảm giác chân thực của một người
di cư và khả năng quan sát tinh tế, V.S. Naipaul đã nhận ra sự đa dạng của
mỗi cá thể trong một thế giới đa văn hóa và đưa họ vào trong câu chuyện của
chính mình. Cảm hứng sáng tác của ông đến từ cuộc sống thường nhật, từ
những người dưng ông gặp trong cuộc hành trình dài lần đầu trong đời đi qua
New York, Southampton, London, Oxford, rồi đến những chuyến đi thực tế
đến khắp nơi trên thế giới. Tóm lại, cái Tôi đa văn hoá của V.S. Naipaul là
kết quả của rất nhiều chuyến đi, để có thêm kiến thức, và cảm hứng sáng tác
nhưng trên hết, đó là để hiểu chính con người mình. Ở điểm này, với một
84
người chỉ có một nền văn hóa (như V.S. Naipaul) cũng có thể trở thành một
công dân toàn cầu nhờ những chuyến chu du khắp thế giới “để hiểu ta là ai
có nghĩa là phải hiểu ta đang ở đâu. Ta luôn mang theo trong mình cốt lõi của
thế giới… Trung tâm và biên giới, nhà cửa và những nơi khác, đã được lập
bản đồ cho chúng ta… Địa điểm, hành trình: giúp chúng ta biết vị trí, tương
lai của chúng ta” [121].
Như vậy, các nhân vật của V.S. Naipaul thường có nguồn gốc xuất thân
đa văn hoá, cộng với sở thích du lịch, khám phá qua những chuyến đi, giống
như chính con người tác giả khi sáng tác dựa trên hiện thực khách quan và
nêu lên quan điểm về Đa văn hoá, là các yếu tố chính tạo nên tính đa văn hoá
trong thế giới nhân vật của tiểu thuyết.
Ở bước tiếp theo, chúng tôi tiến hành lập bảng khảo sát tính Đa văn hoá
qua nguồn gốc xuất thân và môi trường sống của các nhân vật. Trong các
tiểu thuyết của V.S. Naipaul không khó nhận ra một phông nền văn hoá đa
chủng tộc, đa tầng lớp đan xen, pha trộn vào nhau như một tấm thảm đa sắc,
với những gam màu rực rỡ nắng Trinidad, màu xám ẩm ướt của màn mưa mù
nước Anh và màu đậm đà, tương phản của văn hoá Ấn Độ. Nhân vật trong
các cuốn tiểu thuyết của V.S. Naipaul thường là những người có xuất thân
phức tạp; mỗi người thường là tổng hoà của nhiều nguồn gốc văn hoá khác
nhau. Từ những nhân vật chính bao gồm: nhân vật Mohun Biswas khi chuyển
đến sống ở Greenvale, nhân vật Tôi trong Bí ẩn khi tới xuất thân từ Trinidad
nhưng sang Anh sinh sống và học tập, cho đến nhân vật Salim, gốc Ấn theo
đạo Hồi, nhưng chuyển đến sống ở Trung Phi; đến hầu hết các nhân vật phụ
xuất hiện trong ba cuốn tiểu thuyết đều có nguồn gốc xuất thân và môi trường
sinh sống đa văn hoá. Do đó, tính đa văn hoá là một đặc điểm nội tại trong hệ
thống nhân vật trong các tiểu thuyết của V.S. Naipaul. Qua bảng khảo sát sau,
có thể thấy toàn bộ các nhân vật, trừ người làm vườn tên Jack, đều là những
người chuyển dịch, di cư trong cả 3 tác phẩm. Có nhân vật chỉ di cư từ tỉnh
này sang tỉnh khác (bà Tulsi, ông bà Phillips, Ferdinand, Metty), cũng có
những nhân vật di cư xuyên quốc gia (Angela) và thậm chí là xuyên lục địa
(Anand, Indar, Raymond, cha Huisman)…
85
Bảng 3.1: Hệ thống nhân vật tiêu biểu trong ba tiểu thuyết của V.S. Naipaul –
Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas, Khúc quanh của dòng sông, Bí ẩn khi tới
Nhân vật
Xuất thân
Môi trường sống
Tiểu thuyết
Mohun Biswas, nhân vật chính
Căn lều tranh ở vùng nông thôn Trinidad
Nhà Hanuman
Shama Vợ của ông Biswas
7 lần chuyển nhà, lên thủ đô Những ngôi nhà tạm bợ của ông Biswas, nhà trên phố Sikkim.
Sinh ra trong nhà Hanuman
Lên thủ đô, đi du học, trở về nuôi cả gia đình
Lên thủ đô, đi du học,
Sinh ra trong nhà Hanuman
Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas
Sống trong nhà Hanuman, ở thị trấn Arwacas
Savi Con gái lớn của ông bà Biswas Anand - Con trai duy nhất của ông bà Biswas, em của Savi Bà Tulsi Mẹ vợ của ông Biswas Goá chồng, có 2 con trai và 14 con gái Owad Con trai của bà Tulsi
Sống trong nhà Hanuman, ở thị trấn Arwacas, sau đó chuyển đến thủ đô Port of Spain. Đi du học ở Anh, trở về thủ đô
Một quốc gia Trung Phi
Salim Nhân vật chính
Indar, bạn thưở niên thiếu của Salim
Sinh ra trong nhà Hanuman Gốc Ấn theo đạo Hồi ở một quốc gia bên bờ biển Đông Phi Gốc Ấn theo đạo Hồi ở một quốc gia bên bờ biển Đông Phi
Sang Anh du học, về một quốc gia Trung Phi, rồi quay trở lại Anh
Người Bỉ
Một quốc gia Trung Phi
Khúc quanh của dòng sông
Nước Bỉ
Một quốc gia Trung Phi
Một quốc gia Trung Phi
Thành phố thủ đô
Raymond (và vợ Yvette) - Nhà sử học và là cựu cố vấn cho Tổng thống Cha Huismans Cha xứ Metty Trợ lí của Salim Ferdinand Con trai của Zabeth
Nhân vật Tôi
Vương quốc Anh
Jack
Pitton
Miền quê Wiltshire, Anh
Bí ẩn khi tới
Angela
London, Anh
Ông bà Phillips
Miền quê Wiltshire, Anh
Một quốc gia bên bờ biển Đông Phi Vùng cây bụi xa xôi hẻo lánh Nước cộng hoà Trinidad và Tobago Gốc rễ ở Wiltshire, Anh Miền quê Wiltshire, Anh Có thời gian phục vụ trong quân ngũ Miền Nam nước Ý Thành thị, từng làm việc cho một khu điền trang khác
86
Từ bảng trên có thể thấy rõ nét sự đa dạng, phong phú trong thế giới nhân
vật của V.S. Naipaul, như những “tế bào nhỏ bị bắn phá” trong một xã hội đa
chủng tộc, đa chiều văn hoá. Hoàn cảnh chung của các nhân vật đã phần nào phản
ánh hệ quả của những vỉa tầng văn hoá dày đặc trong tác phẩm. Thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết V.S. Naipaul là thế giới của hầu hết những con người di cư, trốn
chạy từ Châu Phi hoặc Ấn Độ đến Tây Ấn, đến Anh, hoặc những người châu Âu
lạc lõng giữa một châu Phi xa lạ. Có nhà nghiên cứu cho rằng thậm chí sau ba
trăm năm, đối với những người nhập cư, không có một cộng đồng nào hoặc không
có hệ thống các giá trị nào mà các nhân vật này có thể bén rễ. Đồng thời, sự di cư
và chuyển dịch địa điểm của các nhân vật sẽ quyết định căn tính đa văn hoá của
mỗi cá nhân và có thể là cả cộng đồng.
Thêm nữa, có thể dễ dàng nhận thấy một tuýp nhân vật ưa dịch chuyển, thích
khám phá qua các sáng tác của V.S. Naipaul. Nhân vật Mohun Biswas chuyển
nhà đến 7 lần trong suốt cuốn truyện, thậm chí, chuyển từ vùng nông thôn ra thủ
đô Port of Spain. Nhân vật Salim cũng phiêu lưu khi chọn cách đi sâu vào lục địa
châu Phi để mạo hiểm kinh doanh, rồi cũng chu du sang Anh, trở về, và trốn chạy
trên một chiếc tàu hơi nước. Trong Bí ẩn khi tới, nhân vật Tôi, chính là bản thân
tác giả cũng là người di chuyển rất nhiều: ngoài việc di chuyển từ Trinidad sang
Anh, là chuyến đi Tây Ban Nha hồi tháng Giêng, trong một khu nghỉ mát trượt
tuyết gần Madrid; ở Ấn Độ, ở Simla vào tháng 12 và ở dãy núi cao Himalaya hồi
tháng Tám… và chuyến đi thăm nhà xuất bản ở Đông Berlin, bảo tàng ở Tây
Berlin, rồi ở cuối truyện là chuyến bay về Trinidad dự lễ tang em gái. Vậy nên
tính đa văn hoá là một đặc điểm nội tại trong thế giới nhân vật của V.S. Naipaul,
khi họ sinh ra, lớn lên, sinh sống trong môi trường đa văn hoá, đều sẽ chịu ít nhiều
ảnh hưởng và tác động của môi trường đó.
Câu hỏi thứ hai là từ những khía cạnh đó, vậy ta cần soi chiếu lí thuyết Đa
văn hoá nào để góp phần làm nổi bật đặc trưng đa văn hoá của tác phẩm? Chúng
tôi dựa trên những đặc điểm nhân vật như trên và tiến hành đọc tài liệu về đa văn
hoá nhằm chọn lọc một lí thuyết xác đáng nhất, khả dĩ khi phân tích hệ thống
nhân vật từ nhiều nền văn hoá khác nhau và đam mê xê dịch. Sau khi cân nhắc
giữa Lí thuyết du hành (Travelling Theory) của nhà phê bình văn hóa nổi tiếng
Edward Said và thuyết Căn tính văn hoá và sự li hương (Cultural Identity and
87
Diaspora) của Stuart Hall, và chúng tôi quyết định chọn quan điểm của Hall làm
điểm tựa lí thuyết cho nghiên cứu chương 3 vì hai lẽ. Thứ nhất, lí thuyết của Said
đề cập đến không gian và địa lí trong văn học và suy xét sự khác biệt trong các
hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Trong một bài luận về Lí thuyết du hành, trong thế
giới, trong văn bản và trong phê bình, ông đi sâu khám phá các ý tưởng hoặc lí
thuyết có thể “du hành - từ người này sang người khác, từ tình huống này sang
hoàn cảnh khác, từ thời kì này sang thời kì khác” mặc dù “sự luân chuyển ý tưởng”
có những hình thức khác nhau, bao gồm “ở một mức độ nào đó được biến đổi bởi
những cách sử dụng mới và vị trí mới của nó trong thời gian và địa điểm mới”
[122,226]. Tuy nhiên, bản thân Edward Said là người chống lại khái niệm đa văn
hóa trong xã hội thuộc địa, bởi ông bảo vệ quan điểm rằng những người dân thuộc
địa bị coi thường, bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị coi là thấp kém. Thêm vào đó,
Edward Said đã từng công kích cuốn tiểu thuyết Bí ẩn khi tới của V.S. Naipaul là
“thù địch với Hồi giáo, với người Ả Rập”. Do vậy, chúng tôi không sử dụng lí
thuyết du hành của Said cho chương này.
Thứ hai là quan điểm của Stuart Hall về căn tính văn hoá và cảnh li hương
có nhiều điểm phù hợp để nghiên cứu căn tính của người tha hương hơn. Trong
bài tiểu luận của ông xuất bản năm 1996 với tựa đề “Bản sắc văn hóa và cộng
đồng li hương” (Cultural Identity and Diaspora) [63], chúng tôi chọn lọc ba luận
điểm có khả năng giúp định hình và khám phá những nét đặc trưng đa văn hoá
của các nhân vật như sau:
❶ Bản sắc văn hóa là “một loại chân ngã (one true self)... của một cộng
đồng người có chung lịch sử và tổ tiên” [63,223]. Theo quan điểm này, bản sắc
văn hóa cung cấp một “hệ quy chiếu ổn định, bất biến và liên tục” qua những
thăng trầm, biến thiên lịch sử. Đó là quan điểm sống của những con người nhập
cuộc, hoà mình vào bản sắc chung của cộng đồng văn hoá.
❷ Cách hiểu thứ hai, ưu việt hơn, cho rằng các bản sắc văn hóa “trải qua sự
biến đổi liên tục” trong suốt lịch sử vì chúng “chịu sự “xoay vần” liên tục của lịch
sử, văn hóa và quyền lực”. Bản sắc văn hóa là “những cách thức khác nhau mà chúng
ta định vị, và định vị bản thân trong những câu chuyện của quá khứ” [63, 225]. Nó
không chỉ là một vấn đề “hiện hữu” mà còn là “cái sắp trở thành” (becoming), “nằm
cả trong tương lai cũng như trong quá khứ”. Vậy đây chính là tính cách của những
88
nhân vật luôn đau đáu truy tìm ý nghĩa của sự tồn tại và của cái Tôi. Luận điểm
này cũng góp phần làm sáng tỏ những chấn thương tinh thần của người di cư.
❸ Bản sắc “dung hoà (chứ không loại bỏ) các sự khác biệt trong quá trình lai
tạp” [63,235]. Theo Hall, những người da đen sống ở cộng đồng liên tục tái tạo bản
thân và danh tính của họ bằng cách pha trộn, lai tạo và “sáng tạo” những ảnh hưởng
từ châu Phi, châu Âu và phần còn lại của thế giới trong cuộc sống hàng ngày và
thực hành văn hóa của họ. Do đó, không có một bản sắc văn hóa chung cho tất cả
mọi người, mà là sự đa dạng của các bản sắc văn hóa khác nhau với cả những điểm
tương đồng và khác biệt, tất cả đều cần được tôn trọng. Luận điểm này có thể có
điểm trùng khớp với nhân sinh quan của những nhân vật biết dung hoà, tôn trọng
sự khác biệt, nhưng không hoàn toàn nhập cuộc như ở luận điểm 1.
Trong quá trình ứng dụng ba luận điểm này, chúng tôi hi vọng sẽ làm nổi
bật được đặc trưng đa văn hoá của nhân vật đồng thời qua đó phản ánh được phần
nào thay đổi xã hội lớn của những người di cư. Từ đó có thể tìm ra nguyên nhân
cuộc khủng hoảng bản sắc, phát sinh từ trải nghiệm tiếp biến văn hóa của những
người nhập cư và phù hợp với bản sắc đa văn hoá của những nhân vật di cư trong
các tiểu thuyết của V.S. Naipaul.
3.2. Kiểu nhân vật hoà nhập
3.2.1. Bà Tulsi – đại diện cho sự dung hợp tôn giáo
Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas là một hình ảnh ẩn dụ cho một xã hội thu
nhỏ, tượng trưng cho thế giới thuộc địa, mà đại diện là gia đình nhà Tulsis, gồm bà
Tulsi - mẹ vợ của ông Biswas có 14 người con gái và 2 con trai. Đó là một gia đình
theo kiểu mẫu hệ, một gia tộc kiểu mới có những kế hoạch riêng, có người lãnh đạo,
có phân công nhiệm vụ, có luật lệ và trật tự giống như cách điều hành xã hội thực dân,
nhưng vẫn chuộng truyền thống Hindu. Họ vẫn rất sùng tín khi thực hiện các nghi lễ
tôn giáo và bao bọc, giúp đỡ lẫn nhau, điển hình là bà chủ gia đình – bà Tulsi.
Là người đứng đầu ngôi nhà Hanuman tại Atwascas, bà Tulsi, một góa phụ
giàu có, sở hữu bất động sản và cửa hàng với sự giúp đỡ của người anh rể, Seth.
Bà biết cách điều hành các con gái và cháu ngoại làm công việc nội trợ: dọn dẹp
nhà, giặt quần áo, nấu ăn và phục vụ trong các cửa hàng. Bà biết chọn rể là những
chàng trai trẻ, không có điều kiện kinh tế, dễ chấp nhận ở rể và làm việc dưới
quyền của ông Seth trong cửa hàng. Bản thân bà Tulsi là người phụ nữ độc tài
89
nhưng nhân hậu - có thể tha thứ những hành vi sai trái, những lỗi lầm nghiêm
trọng của con cái. Khi ông Biswas thể hiện sự bất mãn thì bà thay đổi nơi ở và
công việc cho ông con rể này và khi ông ngã bệnh tại Green Vale, bà đưa ông về
Hanuman để chăm sóc sức khỏe. Đối với tất cả các thành viên trong gia đình, bà
cũng cư xử có tình có lí và không bao giờ quên bổn phận của một người mẹ.
Nếu soi chiếu trên mô hình các chiều kích của bản thể đa văn hoá của Fitzsimmons
như hình vẽ 3.1 thì nhân vật bà Tulsi sẽ là đại diện cho bản thể kết hợp nhiều giá trị văn
hoá [123]. Trong mô hình của Fitzsimmons về bản thể Đa văn hoá, có bốn chiều kích:
bản thể Đa văn hoá có sự phân tách rạch ròi giữa các giá trị, bản thể có sự ưu tiên hệ giá
trị, bản thể kết hợp nhiều hệ giá trị, và bản thể lai ghép. Ở nhân vật bà Tulsi tồn tại sự
kết hợp các hệ văn hoá đa dạng, là “mức độ một cá nhân đã tích hợp các bản sắc đa văn
hóa của họ, chứ không phải là giữ chúng tách biệt” [124]. Thật vậy, ở nhân vật bà Tulsi
có sự pha trộn giữa truyền thống và hiện đại, giữa văn hoá Á Đông và văn hoá phương
Tây rất rõ nét. Là người sùng tín theo đạo Hindu, nhưng bà vẫn chấp nhận những nét
văn hóa phương Tây. Sau khi thầy cúng Hari mất đi, không ông thầy nào có thể khiến
bà hài lòng, và bệnh tình của bà ngày càng nặng thì đức tin của bà đã có sự chuyển
hướng. “Bà đã cử Sushila đi đốt nến trong nhà thờ Công giáo La Mã; bà đặt một cây
thánh giá trong phòng của mình; và bà đã dọn sạch phần mộ của cụ cố nhà Tulsi vào
Ngày lễ Các Thánh” [96,522]. Và, thậm chí bà tán đồng cuộc hôn nhân của con trai
Shekhar với một cô gái theo đạo thiên chúa và khuyến khích con trai Owad đi du học.
Ở góc độ này, bà là kiểu người nhập cuộc với những biến chuyển của xã hội, mặc dù
vẫn giữ vững những truyền thống của người Ấn nhập cư vào Trinidad.
Hình 3.1: Mô hình các chiều kích của bản thể đa văn hoá, phỏng theo
Fitzsimmons 2013
90
Như vậy, ở nhân vật bà Tulsi không khó nhận ra sự dung hợp tôn giáo - sự
pha trộn, hoà đồng, khoan dung các giá trị văn hoá, đặc biệt là của Hindu giáo và
Kitô giáo.
3.2.2. Những đứa con dòng họ Tulsi – vâng lời và phục tùng
Kiểu nhân vật hoà nhập trong cuốn tiểu thuyết còn là những người biết
vâng lời, biết tuân thủ những quy tắc của đại gia đình Tulsi. Đó là người anh
em đồng hao với ông Biswas, Govind “là một người đã đầu hàng nhà Tulsis và
bị tha hoá” [96,106]. Trong lúc Mohun Biswas tiếp tục thách thức hệ sinh hoạt
trong gia đình mẹ vợ, thì Govind lại tìm cách cạnh tranh, rồi đánh bại Biswas
để đạt được địa vị trong mắt nhà Tulsi.
Bên cạnh Govind là hai người con trai của nhà Tulsi, là Owad và Shekar, luôn
coi trọng thứ bậc, và một khi đã được thiết lập, tôn ti đó sẽ tồn tại ổn định và vĩnh
viễn. Những nghi lễ tôn giáo, được chủ trì bởi những người con trai trẻ, hoặc bởi
Hari, ông thầy hay suy nghĩ tiêu cực và sắp chết, lại càng khẳng định cái trật tự kia
là đúng đắn. Như trong xã hội nô lệ, ông thầy tế lễ thắt chặt mối ràng buộc giữa nô
lệ và chủ nhân “bằng cách khắc sâu ý thức về nghĩa vụ đạo đức” khiến cho nô lệ
phải phục tùng. Anh ta sẽ ngộ nhận rằng tất cả những gì mình có là do thần thánh
ban tặng và sự nổi loạn là một việc làm sai đạo đức. Cả đại gia đình Tulsi đều
hướng tới mục tiêu chung là sự tuân thủ, và thiết lập cái trật tự đó. Trẻ con trong
nhà được dạy để chế nhạo những kẻ bất tuân, giống như cách người ta chế nhạo
những người mới đến từ châu Phi là nô lệ da đen để bắt họ phục tùng. Bất cứ đứa
trẻ nào có bất kì dấu hiệu của chủ nghĩa cá nhân hay muốn thể hiện cái Tôi đều bị
trừng phạt bằng cách đánh đập nghiêm khắc. Việc đánh đập đã không còn là một
hình phạt đơn giản và đã trở thành một thói quen bình thường trong cuộc sống.
Chẳng hạn, trong thời gian nhà ông Biswas ở khu The Chase, có một ngày ông bắt
gặp một bọn trẻ nghịch ngợm đồ trong cửa hàng lúc ông không có mặt. Ngay lập
tức, có một bà mẹ bẻ roi từ hàng rào cây dâm bụt gần đó, đánh cậu con trai để dạy
cho cậu một bài học: không được can dự vào những thứ không thuộc về mình, để
phân biệt cái đúng và cái sai. Vừa trút giận lên đứa bé, bà mẹ vừa mắng “Con không
còn là một đứa trẻ. Đó là lí do tại sao mẹ đánh con giống như con là một người lớn
và có thể chịu đòn của một người lớn” [96,200]. Việc dạy bảo bằng roi vọt đó lại
nhận được sự đồng tình của các bà mẹ xung quanh, bởi ai cũng coi đó là một bài
91
học đắt giá để nhắc con mình về việc phải nghe lời người lớn ra sao. Hoặc một việc
nhỏ như dạy Savi buộc dây giày, Shama, vợ ông Biswas cũng dùng hình thức đe
doạ bằng roi vọt, buộc Savi phải làm đúng theo ý mình. Khi đứa con trai Anand bị
thầy giáo đuổi học về nhà, thì Shama cũng bắt con phải quỳ ở góc nhà, chỉ vì khi
Shama và Sushila còn nhỏ, họ cũng thường bị mẹ bắt quỳ gối vì những lỗi tương
tự. Và khi ông Biswas muốn xây dựng tình thân với Anand mà cậu không nghe lời,
ông cũng nhanh chóng dùng roi để cho con trai mình thấy hậu quả. Như vậy, xã hội
thu nhỏ của Trinidad trong tiểu thuyết là một xã hội đề cao sự phục tùng và tuân
thủ, coi trọng những tôn ti, trật tự đã có từ trước, nhất là trẻ con phải luôn nghe lời.
Thêm nữa, cho dù gia đình Tulsi vẫn theo chế độ mẫu hệ, và những người
phụ nữ Tulsi là lực lượng cốt lõi của gia đình, họ vẫn chỉ được coi là tài sản để gả
chồng chứ không phải là những cá nhân có quyền tự quyết. Bằng chứng là những
cuộc hôn nhân của bảy cô cháu gái của Shama và ông Biswas. Các cô không có tên
và cuộc hôn nhân chỉ là sự xếp đặt trước của bà Tulsi. Khi đám cưới tập thể cho
bảy cô dâu được tổ chức, hồ bơi đã được lấp đầy và một chiếc lều cho khách dự
đám cưới được dựng lên, vì “cả một làn sóng các cháu gái của Shama sắp kết hôn”
[96,403]. Mọi người ngay lập tức hướng sự chú ý đến bảy đám cưới vì sau đó có
trong nhà sẽ bớt đi bảy người nữ, và mọi người lại tiếp tục sửa chữa, sửa sang nhà
cửa. Như vậy, thế hệ những người phụ nữ như Shama, hay cháu của cô gần như
mất đi cái Tôi của mình, và hoà tan vào đại gia đình lớn, gia tộc nhà Tulsi.
Sự phục tùng cũng thể hiện ở một khía cạnh tiêu cực nữa, đó là bạo lực gia
đình. Trong cuốn tiểu thuyết có những người vợ cảm thấy chuyện bạo lực gia đình
là hết sức bình thường, và chồng đánh vợ được coi là “dạy bảo”. Ông Biswas nhận
ra một sự thật phũ phàng, trừ bà Tulsi và bà dì Tara, còn hầu hết những người phụ
nữ mà ông biết đều giống như Sushila, cô con gái góa chồng của bà Tulsi. Sushila
đã từng khoe một cách tự hào về những trận đòn mà cô đã phải nhận từ người chồng
yểu mệnh, cho rằng đó là một “phần cần thiết trong quá trình đào tạo của mình và
rằng sự suy tàn của cộng đồng Ấn giáo ở Trinidad là nguyên nhân dẫn đến sự ngày
càng gia tăng những chồng chung tình, nhu nhược, không đánh vợ” [96,200]. Như
vậy, đây là một dạng “nô lệ tự nguyện”, làm theo hủ tục một cách vô lí và mù
quáng. Thậm chí, giữa những người phụ nữ dường như còn có sự thấu hiểu, thương
cảm khi thấy người khác bị chồng đánh, nhưng họ không đứng lên chống lại hủ tục
92
đó. Đó là Dookhnee, một trong những người phụ nữ trong doanh trại “thường
xuyên bị đánh đập và từng chứng kiến nhiều vụ đánh vợ; chúng đã biến tất cả phụ
nữ trở thành chị em” [96,277]. Ở góc độ nhân quyền và văn minh, đây là những
điển hình cho số phận bất hạnh, đáng thương và cũng đáng trách. Trong cuốn Văn
học Ấn Độ, Lưu Đức Trung đã nhận định về thân phận của những người phụ nữ Ấn
Độ truyền thống “Cuộc đời người phụ nữ Ấn Độ thường bị cái vòng xiềng xích ở
chân quanh quẩn xó bếp, lao động quần quật suốt ngày, ra khỏi nhà cái khăn chùm
mặt lại ngăn cách với mọi người, không dám ngẩng mặt lên nhìn trời. Nhiều sợi
dây của lễ giáo buộc quanh người” [125,154]. Qua tiểu thuyết Một Ngôi nhà dành
cho ông Biswas, thì ngay cả khi cộng đồng Ấn di cư xuyên lục địa, thì ở phía bên
kia đại dương, trên một quốc đảo Trinidad và Tobago nhỏ bé, có những người phụ
nữ vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm của những ràng buộc lạc hậu. Hơn thế, họ vẫn
coi những “sợi dây lễ giáo” đó là một cách để “nhập cuộc” với xã hội xung quanh.
Từ đó có thể thấy, hầu hết các thành viên trong đại gia đình nhà Tulsi đều là
những nhân vật tuân theo lề lối xã hội cũ. Đối với họ, việc tuân theo “số đông” là
một cách để hoà nhập xã hội, để chứng tỏ bản thân mình giống những người khác,
và tìm sự sẻ chia trong cộng đồng. Nói như nhà nghiên cứu Bruce King (2003), thành
công lớn nhất của V.S. Naipaul là tập trung lột tả “các cá nhân trong xã hội thuộc
địa” trong cuộc sống đời thường, qua đó nêu bật được các đặc điểm của một cộng
đồng đa văn hóa trong khi các nhà văn khác hướng ngòi bút đến “các quan điểm và
tập thể” [69,28], thì tiểu thuyết Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas là một minh
chứng rõ ràng nhất. Những cá nhân trong đại gia đình Tulsi được tái hiện qua nghệ
thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật rõ nét, tình huống truyện độc đáo và giọng điệu mỉa
mai, châm biếm của người kể chuyện toàn tri. Đại gia đình Tulsi di cư từ Ấn Độ
nhiều đời trước sang Trinidad và chứng kiến nhiều đổi thay của xã hội và lịch sử,
nhưng họ vẫn là những điển hình cho kiểu nhân vật hoà nhập với nhịp sống hiện đại.
Đó là những con người “một con người có danh tính và lòng trung thành vượt qua
ranh giới của chủ nghĩa dân tộc và cam kết của họ được gắn với một tầm nhìn lớn
hơn về cộng đồng toàn cầu” [126]. Đại gia đình Tulsi, theo một khía cạnh nào đó, đã
thực sự hoà nhập với xã hội Trinidad và có một tầm nhìn toàn cầu như nhế.
Một điểm đáng chú ý là sự hoà nhập cũng được thể hiện qua ngôn ngữ hội
thoại của những nhân vật này. Người Trinidad, giống như nhiều dân tộc vùng
93
Caribe, nói nhiều ngôn ngữ khác nhau, pha trộn giữa tiếng Anh, Tây Ban Nha,
Pháp, Phi, Châu Á và ngôn ngữ mẹ đẻ. Trong Một Ngôi nhà dành cho Biswas,
các nhân vật dùng cả ngôn ngữ Hindi, ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ, cũng như
tiếng Anh vùng Trinidad, đặc trưng là ngữ pháp đơn giản hóa và bỏ sót các từ
hoặc phần cuối của từ. Khi nào các nhân vật đang nói tiếng Hindi thì các đoạn hội
thoại được dịch sang tiếng Anh đúng ngữ pháp. Còn khi họ nói tiếng Anh đặc sệt
giọng Trinidad, đó sẽ là những câu giản lược, thậm chí là sai cú pháp, thiếu động
từ chính, như “Why you asking?” hay kết hợp sai chủ ngữ và động từ như “It have
a lot of work here for him,” nghĩa là “Tại sao anh lại hỏi? hay “Ở đây có rất nhiều
việc cho hắn” (Câu đúng sẽ là Why are you asking? và It has a lot of work here for
him). Sự kiến tạo và kết hợp của hai diễn ngôn: tiếng Anh chuẩn và tiếng Anh
Trinidad phải chăng là một dụng ý nghệ thuật độc đáo của tác phẩm nhằm làm nổi
bật những đặc điểm giai cấp, địa vị, chủng tộc của nhân vật, nhưng đồng thời cũng
khẳng định rõ khả năng hội nhập của những con người di cư đến vùng đất mới?
3.2. Kiểu nhân vật dấn thân - chủ động đi tìm bản ngã
Nói đến kiểu nhân vật dấn thân, ta không thể không bàn tới khái niệm
“engagé” trong tiếng Pháp, và triết học hiện sinh, mà “một thuật ngữ có tính chất
chìa khoá là sự lựa chọn. Bằng sự lựa chọn của bản thân, mỗi người tự tạo nên
mình” [127]. Một đại diện của trường phái triết học này là Jean-Paul Sartre cho
rằng với sự tự do lựa chọn như vậy, con người hiện sinh luôn sống trong dằn vặt,
trăn trở, lo âu, vì trách nhiệm và tự do của mình có thể ảnh hưởng đến người khác.
Theo các nhà hiện sinh, khái niệm dấn thân “là sự diễn đạt quan niệm và hành
động sáng tạo ra con đường riêng của con người để xác định hiện sinh của mình
trong những tình huống “bên bờ vực thẳm” đầy bi kịch, bất chấp tiêu chuẩn đạo
đức, không tính đến động cơ, hiệu quả” [95,75]. Trong luận án này, chúng tôi
không có ý định sử dụng khái niệm dấn thân theo nét nghĩa có phần tiêu cực như
“bất chấp tiêu chuẩn đạo đức, không tính đến động cơ”, hay cuộc đời phi lý, con
người là “thực thể trôi giạt”. Dấn thân theo chúng tôi, là hành động chủ động đi
tìm lẽ sống, như quan niệm của Sartre, đó là “Tự do sáng tạo ra mình bằng mỗi
hành động của mình, tự do mang đến cho sự sinh tồn của mình một ý nghĩa và
trở thành cái trước đây mà mình không phải như thế” [95,75]. Xét đến khía
cạnh đa văn hoá theo quan điểm của Hall, bản sắc văn hóa không phải là vấn đề
94
“bản chất” mà là “sự định vị” (positioning) thì sự định vị ở đây có nhiều điểm
tương đồng với quan niệm trên của Sartre. Cuộc dấn thân truy tìm ý nghĩa của
bản thể cũng có nghĩa là mỗi cá nhân đang “định vị” bản sắc của mình. Đây cũng
chính là hành trình của một số nhân vật của V.S. Naipaul, với những trăn trở thời
cuộc và suy nghĩ hiện sinh, như Tôi trong Bí ẩn khi tới, ông Biswas trong Một
Ngôi nhà dành cho ông Biswas, và Indar trong Khúc quanh của dòng sông.
Hơn nữa, Jean-Paul Sartre còn dành sự quan tâm sâu sắc đến quá trình trở
thành nhà văn của các tác giả, tập trung vào ba bậc thầy trong văn học Pháp là
Baudelaire, Flaubert và Genet. Sartre mong muốn tìm hiểu những yếu tố góp phần
tạo nên một văn nghiệp, mối quan hệ giữa con người – nhà văn. Tương tự như
thế, V.S. Naipaul trong Bí ẩn khi tới cũng hồi tưởng lại toàn bộ quá trình trở thành
nhà văn của mình, từ khi bắt đầu mơ ước viết lách hồi bé đến khoảng 55 tuổi. Với
hai điểm chung như vậy, có thể nói nhân vật trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul
có khuynh hướng hiện sinh khá rõ, với những trăn trở nhân thế và sự chủ động
truy tìm ý nghĩa của bản thể và tồn tại.
3.2.1. Nhân vật Tôi trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và sự nghiệp
Đầu tiên phải kể đến nhân vật Tôi trong tiểu thuyết Bí ẩn khi tới, chính là
tác giả V.S. Naipaul thuật lại quá trình đi tìm ý nghĩa cuộc đời của mình. Trong
thời gian về ở ẩn ở Wiltshire, rất nhiều lần, nhà văn đặt ra rất nhiều câu hỏi về lẽ
sống, mục đích sống của những người xung quanh. Chẳng hạn như ông nhận thấy
cả ông chủ nhà và bản thân mình đều đang ở ẩn, đều đang tìm kiếm sự an yên
trong tâm trí. Kể cả ông bà quản gia Phillips cũng kiếm tìm và tôn trọng sự bình
yên của trang viên. Với nhà văn, ông không ngừng chiêm nghiệm về những giá
trị hằng thường của cuộc sống, tự vấn về ý nghĩa sự tồn tại của bản thân. Đáng
chú ý là sự liên tưởng và phát hiện độc đáo của nhà văn giữa hai khái niệm “ở ẩn”
(refuge) và “chối từ” (refuse). Theo từ vựng học thì đây là hai từ hoàn toàn không
liên quan, nhưng khi nhà văn thấy những hố gom rác trong vườn của Pitton, mà
anh gọi là “hố ẩn rác” (garden refuge), ông nhận thấy từ “refuge” (ở ẩn) đã bao
hàm nghĩa của cả hai từ. “Ở ẩn” hay tị nạn, ẩn nấp, gần như trốn tìm, cũng mang
nghĩa là “chối từ” - để mọi thứ ra khỏi tầm mắt và tâm trí. Đây là một phát hiện
rất thú vị về một kiểu sống ẩn dật, khước từ mọi bon chen, cũng là một lối sống
mà nhà văn đã chọn trong suốt quãng thời gian sáng tác cuốn tiểu thuyết.
95
Trong quá trình sống ẩn dật đó, V.S. Naipaul nhận ra mình chỉ là một kẻ xa
lạ, mất phương hướng khi “ý nghĩ về sự đổ nát và vô chủ, sự vô duyên với cảnh
vật xung quanh, cũng là điều tôi cảm thấy về bản thân mình, cứ ám ảnh tôi: một
người đến từ một bán cầu khác, một hoàn cảnh khác, đến đây nghỉ dưỡng tuổi
trung niên trong một ngôi nhà trên một mảnh đất hoang vu, toàn gợi lên quá khứ
lịch sử từ thời vua Edward, với rất ít sự hiện diện của thời hiện tại” [110,15]. Ông
cảm thấy xa lạ trong thung lũng, và bản thân sự hiện diện của ông cũng lại thêm
một sự kì quặc nữa cho mảnh đất này. Từ những ý nghĩ ám ảnh ấy, cảm giác xa
lạ ấy lớn dần lên khi quan sát cảnh vật trên đường đi bộ hàng ngày, đến nỗi nhà
văn cảm thấy việc mình có mặt trong thung lũng cổ đã phần nào làm thay đổi lịch
sử của đất nước Anh. Sau giai đoạn “trăng mật” đầu tiên, tràn đầy mới mẻ, phấn
khởi, và quyết tâm, người chuyển dịch văn hoá như Naupaul sẽ vấp phải những
áp lực, choáng váng và thất vọng về cuộc sống mới. Mặc dù nhân vật tôi trong
cuốn tiểu thuyết không gặp phải phản ứng tiêu cực từ những người Anh xung
quanh mình, nhưng chính ông nhận ra các chuẩn mực văn hóa và lối sống ở
Trinidad trước kia không còn phù hợp nữa. Là một người lạ ở một vùng đất xa lạ,
V.S. Naipaul thất vọng vì nhận ra mình đã “đến quá muộn để thấy nước Anh, trái
tim của đế chế, như trong tưởng tượng của mình” [110,130]. Hậu quả chính là
những cảm giác chông chênh, lạc lõng ở môi trường phương Tây, ngay cả ngôi
nhà trong khu dinh thự của người quý tộc già, cũng trở thành biểu tượng của sự
hoàn hảo, không phải là chỗ dành cho dân nhập cư. Nỗi niềm xót xa ngày càng
tăng lên khi ông ngẫm lại lịch sử của khu dinh thự và cảm thấy sự hiện diện của
mình nơi này thật khác thường. “Có lẽ khu điền trang có ngôi nhà mà tôi đang sống
đã quá hoàn hảo từ bốn mươi hay năm mươi năm trước... Nhưng trong sự hoàn hảo
đó, vào thời điểm hoàng kim, sẽ không có chỗ cho tôi” [110,52]. Một lần, khi nhận
được thư của người bạn cũ, Angela, nhân vật Tôi “đọc bức thư này trong ngôi nhà
nhỏ của mình. Tôi cảm thấy môi trường xung quanh tôi rất sâu sắc, cảm thấy cái
xa lạ ngoại quốc, cảm thấy rằng sự hiện diện của tôi ở đó chẳng có gì liên quan”
[110,178]. Những dòng tâm sự chân thực ấy khiến có lúc độc giả có cảm giác như
đang đọc nhật kí của một người bình thường đang thuật lại những gì đang diễn ra
xung quanh mình, nhưng có lúc lại như đang dấn sâu vào thế giới nội tâm đầy phức
tạp theo cách nhìn của một nhà tâm lí học. Người đọc bắt gặp một cái “tôi” vỡ tan
96
thành nhiều mảnh và “những mảnh này liên tục đối thoại nhau trong đó đối thoại
thường trực là giữa cái tôi giá trị và cái tôi giải giá trị của cái tôi đó” [36,16]. Liệu
đây có phải là một nỗi niềm day dứt về một thế giới cũ bị mất trong sự trôi đi không
ngừng của con người và vạn vật hay nỗi niềm của một con người mất phương
hướng trong quá trình truy tìm bản ngã và một nơi thực sự gọi là nhà? Hoặc cũng
có thể là cả hai. Cuộc truy tìm ý nghĩa của sự tồn tại là một cuộc đấu tranh hết sức
hiện sinh của nhà văn li hương V.S. Naipaul trong Bí ẩn khi tới.
Trong công cuộc truy tìm ý nghĩa của sự tồn tại đó, cũng không ít lần nhà
văn băn khoăn về điểm đến cuối cùng của cõi phù sinh: cái chết. Salman Rushdie
cho rằng cuốn tiểu thuyết “là một cuốn sách kì lạ, mang tính chất thiền hơn là tiểu
thuyết, tự truyện theo nghĩa nếu đưa ra một bức chân dung về tầm vóc trí tuệ của
một người từ lâu đã nâng tầm “đời sống nội tâm” lên trên tất cả các dạng sống
khác. Chủ đề cuốn sách viết về ý thức của người kể chuyện, những biến động
trong tâm trí khi di cư, sự “đến nơi”, và sự chuyển dịch dần đến “một thứ đặc
biệt”… cái Chết” [128]. Ngay từ phần đầu, Khu vườn của Jack, không khó nhận
ra cảm quan về cái chết, về sự suy tàn qua hình ảnh nông trại Jack và khu vườn
mộc mạc, bình dị của anh. Có một thời, nó đã từng là một khu vườn đẹp, có tiểu
cảnh phát triển theo những đường nét và ý tưởng hơn. Nhưng rồi sức khỏe của
Jack suy sụp, khu vườn của anh không còn người coi sóc, anh qua đời, rồi những
người mới đến đã bê tông hoá khu vườn đó. Nhà văn nhận ra thời gian là hữu hạn,
và “Thay đổi là bất biến. Người ta chết; người ta già đi; người ta đổi nhà; người
ta bán nhà” [110,32]. Nhìn xung quanh, ông chỉ thấy những thay đổi và sự tàn lụi.
Dần dần, cái chết xuất hiện rõ ràng hơn, “không phải là một hoạt cảnh hay một
câu chuyện, như trong giấc mơ trước đó; mà là cái chết, như là sự kết thúc của sự
vật, như một góc tối trong con người, rình rập trái tim anh ta, khi anh ta yếu nhất,
trong khi anh ta ngủ” [110,103]. Cái chết hiện diện rất nhiều lần trong tác phẩm,
sự ra đi của người làm vườn Jack, của nhà văn bị trầm cảm tên Alan, của người
em họ của già Phillips 65 năm trước, của ông quản gia Phillips, và đặc biệt là sự
ra đi của Sati, em gái tác giả. Bản thân V.S. Naipaul cũng bị ám ảnh bởi những
suy nghĩ về sụ đổi thay và sự kết thúc. Sự thất vọng và kiệt sức trong những năm
cuối của tuổi 30 đã khiến ông cảm giác như đầu sắp nổ tung và mình không thể
sống sót; nghĩ rằng mình sắp chạm tới cái chết. Rồi khi bước sang tuổi 50, khi
97
bệnh tật đã bắt đầu viếng thăm, sự suy sụp, bệnh tật, kiệt quệ khiến V.S. Naipaul
rời ngôi nhà thuê trong khu dinh thự, chấm hết một phần cuộc đời mình ở đó, và
bắt đầu thực sự suy nghĩ về cái chết, sự kết thúc của sự vật. “Nỗi sầu muộn này
len vào tâm trí tôi trong lúc ngủ, và rồi khi tỉnh dậy… tôi đã bị nó đầu độc… đến
nỗi mất cả những lúc quý nhất trong ngày để rũ bỏ nó” [110,364].
Cả cuốn truyện đều toát lên một nỗi u hoài man mác, những trăn trở về sự
lụi tàn của cảnh quan, sự thoái trào của những lối sống cũ, xói mòn theo năm
tháng theo thời gian “entropy” (hỗn mang) của cuộc sống. Mọi thứ sinh ra, rồi sẽ
mất đi, không có gì tồn tại mãi mãi, nhưng sự lụi tàn của đế chế, sự ra đi của
những người xung quanh đã gợi lên rất nhiều ám ảnh, day dứt khiến tác giả bắt
tay vào viết Bí ẩn khi tới, và câu chuyện đã trở thành cuộc hành trình khám phá
cái Tôi nội tâm. Nhân vật chính thường xuyên tự vấn bản thân bằng vô số câu hỏi
tu từ, chẳng hạn như “để tìm lối đi đó, liệu tôi phải rẽ trái hay phải?” hay “liệu có
chỗ cho tôi”. Đây là những câu hỏi độc thoại nội tâm dày đặc, khiến cho những
ám ảnh, u buồn dường như được kéo dài mãi, miên man qua các trang viết.
Cuộc hành trình trở về Trinidad dự đám tang của em gái của nhà văn ở
cuối tác phẩm cũng nằm trong mạch tìm kiếm bản ngã. Trong chuyến hành trình
trở về Trinidad, V.S. Naipaul đã có dịp nhìn nhận lại quá khứ, đất thiêng và các
vị thần, những nét văn hoá truyền thống đặc trưng của Trinidad qua lễ cúng sau
tang lễ của Sati. Đối với nhân vật Tôi, đó là một thế giới thiêng liêng của những
thánh lễ được tổ tiên truyền lại, gắn bó mật thiết với nhiều điều kì diệu của tuổi
thơ và trí tưởng tượng, nhưng cùng với thời gian, những tập tục đang dần đần phai
nhạt. Và tác giả nhận ra “chúng ta tái tạo nên một thế giới cho chính mình; thế hệ
nào cũng đều làm điều đó, như chúng tôi nhận ra khi tụ họp gia đình vì cái chết
của em gái tôi và cảm thấy cần phải tôn trọng và ghi nhớ” [110,354]. Có thể nói
đó là một hành trình trở về không hề dễ dàng, 30 năm sau tang lễ của cha tác giả,
một cuộc hành trình trở về “cho tôi thấy cuộc sống và con người là bí ẩn, tôn giáo
thực sự của loài người, nỗi đau buồn và cả những vinh quang” [110,354]. Ông
chợt bừng tỉnh vì không có con tàu cổ nào đưa mình quay ngược dòng thời gian
để trở lại, và cũng không còn nơi nào khác để đi. Hành trình của ông là chuyến đi
đã thực hiện từ năm 18 tuổi, bước chân đi du học và theo đuổi nghiệp văn. Nhưng
còn một chuyến hành trình lớn hơn mà ông cần thực hiện: đó là hành trình khám
98
phá bí ẩn của sự tồn tại của bản thân mình trong sự nghiệp viết lách cũng như
trong cõi nhân sinh. Đó có lẽ cũng là một lớp ý nghĩa của nhan đề: Bí ẩn khi tới,
thể hiện sự chín chắn, trưởng thành trong nhận thức, một quá trình giác ngộ bí ẩn
của con người. Ở đó, “sự phá vỡ mối dây liên hệ rồi kết nối của người li hương -
mất tổ quốc, vài lần quay lại, những mối liên quan và mạng lưới kết nối toàn cầu”
là những yếu tố cơ bản tạo nên trải nghiệm bản địa của người tha hương [129,201].
Bên cạnh đó, nhân vật Tôi cũng luôn đặt câu hỏi về cái Tôi - nhà văn và cái
Tôi - bản thể của mình. Cuốn tiểu thuyết dẫn dắt người đọc theo dọc hành trình
sáng tác và sự trưởng thành trong nhận thức đến năm ông 55 tuổi, ở cái tuổi đã
chín của một nhà văn chuyên nghiệp. Cũng giống như người khách du mà V.S.
Naipaul tưởng tượng trong bức tranh của danh hoạ Chirico, đã đi hết bến cảng
cuộc đời, để nhận ra một bí ẩn: sự biến mất của con tàu cổ; V.S. Naipaul cũng trải
qua gần một đời văn nghiệp, chỉ để nhận ra chân lí “Con người và nhà văn là một.
Đây là phát giác lớn lao nhất của nhà văn. Phải mất thời gian – và biết bao là chữ
viết! – mới nhập lại làm một được như vậy” [110,110]. Phải chăng sự phát hiện
tưởng chừng như giản đơn ấy đánh dấu một tầm cao nhận thức mới: chỉ khi sống
thật với chính mình, nhà văn mới thực sự sáng tác? Chính V.S. Naipail đã từng
tâm sự rằng trong suốt những năm tháng sáng tác, ông từng viết khá nhiều phần
mở đầu cho nhiều cuốn sách, nhưng phải đến khi có một động lực thực sự, xuất
phát từ chính bản thân ông mong muốn hướng tới, thì lúc ấy sáng tác mới thực sự
định hình. “Và điều đó vẫn còn bí ẩn – bỏ qua những thứ kĩ thuật, nhà văn nên
chạm đến và khuấy động những gì sâu kín nhất trong tâm hồn, trái tim, kí ức của
con người” [130]. Ở điểm này, cái bí ẩn luôn hiện hữu trên con đường sáng tạo
cái Đẹp của người nghệ sĩ và nhà văn có sự giao thoa rõ nét, bởi một hoạ sĩ tài
năng, ngoài kĩ thuật vẽ ra, cũng luôn mong muốn hướng đến cái tận cùng của cái
Mỹ, tìm được tiếng lòng đồng điệu của người thưởng tranh, và chạm đến tận cùng
của cuộc sống. Từ quan điểm của V.S. Naipaul, dễ nhận thấy đối với nhà văn khi
thực hiện sứ mệnh sáng tạo của mình, cũng sẽ nỗ lực không mệt mỏi đưa văn
chương đến gần với cuộc sống, và vì vậy, “mới nhập lại làm một”. Hai bản thể:
nhà văn được định nghĩa bởi những khám phá bằng ngôn từ, bằng điểm nhìn, và
bản thể Con người với những chuyến phiêu lưu, đã tách ra từ đầu cuộc hành trình để
rồi “nhập lại làm một trong một cuộc đời thứ hai, ngay trước khi nó kết thúc”. Ẩn sau
99
phông nền một câu chuyện của người khách du đặt trong thế giới cổ điển của hội họa
siêu thực, hoàn toàn không giống bất cứ thứ gì V.S. Naipaul từng viết, là sự đốn ngộ
trong tư duy của nhà văn. Hoá ra, chỉ khi con người và nhà văn có thể nhập lại làm
một thì khi đó người khách du mới “sống hết cuộc đời mình”. Cuốn tiểu thuyết kết
thúc lại với một dư vị buồn mênh mang về những kiếp người, về những trăn trở nhân
sinh, sự lạc lõng trong xã hội và ý nghĩa thực sự của một nhà văn. Những mâu thuẫn
tâm lí phức tạp của nhân vật Tôi đã được khắc hoạ tỉ mỉ và chân thực đến độ xoá nhoà
ranh giới giữa cái Tôi của cuộc đời và của tác phẩm, giữa tự sự và tiểu thuyết. Đó
chính là tài năng mà Proust đã nói “ở bên trong chúng ta, không rõ ràng, giống như
kí ức của một giai điệu khiến chúng ta thích thú mặc dù chúng ta không thể nắm
bắt lại đường nét của nó...” [131,15].
3.2.2. Nhân vật ông Biswas trong cuộc đấu tranh tìm kiếm bản ngã
Trong Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas, cuộc đấu tranh của ông Biswas
với thành trì của gia đình Tulsi (biểu tượng của thế giới thuộc địa) có thể coi là
một cuộc tìm kiếm tự do hiện sinh và vị thế - một kiểu “định vị” bản thân. Trong
cuộc tồn tại trên cõi đời, ông Biswas gặp rất nhiều bi kịch, trong đó có hai bi kịch
hiện sinh rõ nhất: bi kịch bị chối bỏ và bi kịch về mục đích sống. Ở khía cạnh thứ
nhất, ông Biswas từ lúc sinh ra với sáu ngón tay, đã không được coi như một đứa
trẻ bình thường và bị mọi người xa lánh. Ông là nạn nhân của sự mê tín dị đoan
và một tuổi thơ nghèo khổ, bất hạnh, phải đi từ nhà này sang nhà khác, bị cho thôi
học sớm và học làm thầy cúng nhưng rồi cũng không thành. Ông lớn lên trong sự
cô đơn, sống cô lập. Sau khi kết hôn Shama, đại gia đình bên vợ Tulsis mong đợi
ông hoà nhập, nhưng ông không thể làm được điều đó. Với mong muốn thoát ra
khỏi sự mắc kẹt trong gia đình vợ và khẳng định bản thân, ông Biswas lại rơi vào
bi kịch thứ hai, lớn hơn – bi kịch về mục đích sống.
Khi đọc những nhân vật anh hùng trong tác phẩm của Samuel Smiles, ông
Biswas nhận ra một bi kịch khác của mình. Ông phát hiện ra mình “cũng trẻ, cũng
nghèo, và cũng đang phấn đấu. Nhưng ở điểm nào đó, so sánh với nhưng anh
hùng kia thật khập khiễng. Những người anh hùng trong truyện có hoài bão kiên
định, lại sống ở những quốc gia mà người ta dễ đạt được hoài bão và thấy chúng
có ý nghĩa.” Còn ông “ở một đất nước nóng nực như này, ngoài việc mở một cửa
hàng hay mua một cái xe bus, ông còn có thể làm gì? Ông có thể phát minh ra cái
100
gì được” [96,78]. Vì những bi kịch hiện sinh trên, không khó hiểu khi nhân vật sẽ
dấn thân đi tìm lẽ sống của đời mình.
Thời gian đầu khi ông Biswas bắt đầu nổi loạn có vẻ vô ơn và vô lí, bởi chính
gia đình Tulsi đã cho ông một chỗ ở, một công việc và trợ giúp bất cứ khi nào ông
cần. Trong khi đó, lúc nào ông Biswas cũng từ chối sự giúp đỡ của họ, cho rằng nhà
Hanuman giống như một nhà tù và luôn tỏ thái độ thù địch. Trong một gia đình lề
lối như nhà Hanuman thì việc ông Biswas cố gắng đi chứng minh cái Tôi là một cái
tội. Khi ông Biswas phớt lờ những áp lực mà Tulsis đối với một cá nhân đầy tham
vọng, và mua cho con gái mình một ngôi nhà búp bê, là lúc ông đã làm đảo lộn toàn
bộ trạng thái cân bằng của nhà Hanuman và buộc họ phá nát ngôi nhà búp bê của
Savi. Dần dần, trong con người ông Biswas đã hình thành sự thay đổi về nhận thức:
khẳng định bản thân bằng cách phấn đấu có được tự do cho riêng mình. Ông thử
nhiều cách khác nhau, “dấn thân” đi tìm tự do cho riêng mình bằng nhiều cách:
khẳng định cái Tôi qua việc sở hữu một ngôi nhà và lập nghiệp, trở thành nhà báo.
Thứ nhất, ông bắt đầu tìm kiếm một ngôi nhà, tuy những nỗ lực đó rơi vào
vòng luẩn quẩn của rất nhiều lần lặp đi lặp lại một motif: khi ông Biswas lập gia
đình riêng, mỗi lần công việc kinh doanh thất bại, thì cả gia đình lại quay về sống
cùng họ ngoại. Những căn nhà mới mà họ phải chuyển vào ở, đối với ông Biswas,
chỉ là không gian vật thể của những bức tường và mái nhà. Bi kịch chính là ông
không được sở hữu cái nào trong số đó, kể cả hai cái do chính tay ông xây lên:
một cái không chịu nổi lũ lụt, cái kia bị hỏa hoạn. Đến cả ngôi nhà búp bê đắt tiền
ông mua cho con gái Savi cũng nhanh chóng bị vỡ vụn. Với thân phận ở rể và gần
như không có tiếng nói trong gia đình vợ, ông Biswas nhận ra “Sẽ thật khủng
khiếp nếu không có ngôi nhà vào thời điểm này: chết già trong đám người nhà
Tulsi, sống trong sự khốn nạn của một gia đình đông đúc, lục đục và thờ ơ; phải
để Shama và bọn trẻ sống trong đó, trong một căn phòng; và tệ hơn, sống mà
không hề cố gắng để có một phần đất; sống và chết như một kẻ sinh ra trên đời
thừa thãi và không chốn nương thân” [96,13-14]. Cuộc đấu tranh tuyệt vọng của
ông Biswas để có được một ngôi nhà cho riêng mình là cuộc đấu tranh đi tìm bản
ngã đích thực bởi chỉ khi có một ngôi nhà của riêng mình, ông mới có thể vượt
qua cảm giác lạc lõng và lang thang không chốn nương thân. Đến cuối truyện là
sự quay trở lại tình huống ban đầu với sự thay đổi lớn: nhân vật Biswas đã có
101
được địa vị và đạt được mơ ước sở hữu một căn nhà, nhưng nhanh chóng nhận ra
ngôi nhà đó hoàn toàn không giống kì vọng của mình. Từ đó, bi kịch của hiện
thực và tâm trạng trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Câu chuyện kết lại với một cái
chết có phần vô nghĩa, bởi ngôi nhà mà ông Biswas phấn đấu cả đời mình chỉ là
một cái xác nhà rỗng tuếch và một khoản nợ nần để lại cho vợ con. Bi kịch này
gợi nhớ tới chủ nghĩa anh hùng trong các tác phẩm của Ivan Sergeyevich
Turgenev, nhà văn và nhà soạn kịch Nga nổi tiếng thế kỉ XIX. “Bi kịch các nhân
vật của Turghenev tựu chung ở chỗ cái chết không bắt nguồn từ sự nghiệp của họ,
nó không được tính trước, không nằm trong dự tính. Đối với Turghenev, chính
chủ nghĩa anh hùng khẳng định tất yếu của một kết cục vô nghĩa không thể tránh
khỏi đối với nó” [132]. Dù vậy, với ông Biswas, sở hữu một ngôi nhà chính là sự
lựa chọn của cuộc đời, là một cách giúp ông hoàn chỉnh cái tôi trọn vẹn. Ngôi nhà
mà ông Biswas cố gắng đấu tranh cả cuộc đời không chỉ đơn thuần là một không
gian vật thể, mà cao hơn, đó là biểu tượng cho một cá tính tự do, thoát khỏi những
ràng buộc của xã hội. Mua được ngôi nhà ở phố Sikkim là một thành tích cao nhất
trong cuộc đời ông Biswas, cho dù nó có bị phơi nắng và bị nứt vỡ không thể cứu
vãn ở nhiều chỗ. Tuy nhiên, nó là của riêng ông, dành cho ông, là cách duy nhất
để ông nhắm mắt xuôi tay mà không nuối tiếc về một cuộc đời thừa.
Quá trình tìm kiếm ngôi nhà này đã thể hiện đúng bản ngã / cái Tôi (self)
theo sơ đồ của Clare Cooper lập luận dựa trên quan điểm của về bản ngã của Carl
Ý thức
Vô thức Bản ngã (Self)
Jung, cái mà ông coi là cốt lõi của vô thức và tổng thể của ý thức và vô thức:
Hình 4.3: Mối quan hệ giữa bản ngã “cái tôi”, vô thức và ý thức (theo Clare
Cooper, 1974) [133,145].
Sơ đồ của Cooper thể hiện phần ý thức của mỗi người cũng giống như phần nổi
của tảng băng trôi, là “sự nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ, hành động cần
phải có” [133,127], trong khi vô thức là phần chìm, chiếm tỉ trọng lớn hơn nhiều so
102
với ý thức. Bản ngã nằm ở trọng tâm của phần vô thức này và cũng xuất hiện trong
tổng thể trọn vẹn của con người. Từ đó, Cooper cho rằng ngôi nhà phản ánh bản ngã
và cách con người nhìn nhận bản thân, từ những nội thất thân thuộc, hoặc cái bản
ngã (self) lộ ra với những người thân được mời đến nhà, đến lớp vỏ bề ngoài (personna
hoặc mặt nạ theo thuật ngữ của Jung) hoặc bản thể mà ta chọn để biểu lộ cho người
khác. Ví dụ như ngôi nhà mà nhân vật James Duffy sống phần nào phản ánh đúng tâm
lí và tính cách của chủ nhân: “Anh ta sống trong một căn nhà cũ nát và từ cửa sổ, có
thể nhìn ra nhà máy chưng cất ngày trước hoặc nhìn ra con sông cạn mà bây giờ là
thành phố Dublin. Không có tranh ảnh nào trên những bức tường cao quý của căn
phòng tuyềnh toàng” [134,89]. Đến với Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas, motif cốt
truyện: nhân vật khao khát có một mái nhà ẩn dụ cho cuộc hành trình đi tìm bản sắc
cá nhân: kiếm tìm - tìm được và thất vọng. Ngày ông Biswas vay tiền của Ajodha để
mua được một căn nhà trên phố Sikkim, trong mắt ông: “Mặt trời đi qua cánh cửa mở
ở tầng trệt và chiếu vào tường bếp. Những đồ gỗ và kính nóng lên. Bức tường gạch
bên trong ấm áp. Mặt trời đi qua nhà, để lại những dải màu rực rỡ trên cầu thang lộ
thiên” [96,572]. Ngay cả sau này, khi ông Biswas phát hiện ra rất nhiều khiếm khuyết
của ngôi nhà đấy, nhưng không gian ngôi nhà vẫn ẩn chứa bao khát vọng và cảm giác
đạt được thành tựu lớn cũng không thể phai mờ. Phải chăng đó chính là phần vô thức
theo quan niệm của Cooper?
Thứ đến, cuộc đấu tranh hiện sinh của ông Biswas được tái hiện qua quá
trình lập nghiệp hết sức độc đáo. Sau khi cha qua đời, gia đình ông chuyển đến
sống với người chị gái của mẹ, Tara, và ông bị Bhandat, anh rể của Tara buộc tội
ăn trộm tiền và bị đánh đập. Ông Biswas đã thề với mẹ mình rằng “sẽ tự kiếm
được việc làm. Và con cũng sẽ có được căn nhà của riêng mình” [96,67]. Công
việc đầu tiên của ông là làm thợ sơn kí hiệu cho gia đình Tulsi, sau đó những công
việc do bà Tulsi giao phó như: điều hành một cửa hàng bán đồ khô ở The Chase,
rồi làm tài xế taxi ở Green Vale, nơi lần đầu tiên ông được tiếp xúc với báo chí là
những tờ báo cũ dán tường. Nhưng mãi đến khi cả gia đình chuyển đến thủ đô
Port of Spain, ông Biswas mới đến gần nhất với hạnh phúc, ông được nhận làm
phóng viên cho tờ báo lá cải Sentinel, nơi ông viết những câu chuyện kì lạ và đạt
được một mức độ nổi tiếng ở địa phương. Trải qua rất nhiều nghề như vậy, ông
Biswas luôn ý thức tìm kiếm một “nghề nghiệp” (vocation), thay vì chỉ đơn thuần
103
là một công việc bình thường (job). Ông đã phấn đấu học tốc kí, học cách viết
báo, tập gửi cho các nhà xuất bản, để nuôi sống cả gia đình, thực hiện giấc mơ có
nhà, và cũng là một cách khẳng định chỗ đứng trong xã hội. Hơn thế, ông coi
trọng giáo dục và kiên quyết cho con đi học và nhiệt tình ủng hộ những nỗ lực
của Anand ở trường, truyền dạy cho con trai tình yêu văn chương. Sự nghiệp văn
chương của ông Biswas, dù còn nhiều hạn chế, nhưng đã đánh dấu việc hoàn
thành tâm nguyện cả đời là tìm được công việc có ý nghĩa và giá trị của bản thân.
Đó chính là những nỗ lực hiện sinh theo nghĩa tích cực nhất: khẳng định bản thân
qua công việc và truyền cảm hứng cho con trai ông trở thành một nhà văn. So với
hành trình của nhân vật Tôi trong Bí ẩn khi tới, thì cuộc hành trình truy tìm bản
ngã của ông Biswas có phần thực dụng, và thiết thực hơn, nhưng cũng thể hiện
một cuộc đấu tranh âm thầm với định mệnh và một khát khao mãnh liệt, chính
đáng về giá trị nhân sinh của tồn tại và bản thể.
Như vậy, Một Ngôi nhà cho ông Biswas phản ánh tình trạng “không nhà”,
để từ đó nêu bật lên quá trình dấn thân tìm kiếm tự do của ông Biswas qua hai
cách: có được ngôi nhà và sự nghiệp riêng. Tiêu đề của cuốn tiểu thuyết đã thể
hiện niềm khát khao một ngôi nhà cho riêng mình để khẳng định sự độc lập, tự
chủ. Chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết là cuộc nổi dậy của một cá nhân chống lại
xã hội. Vì thế, cuộc chiến cá nhân của ông Biswas với thành trì của nhà Tulsi
(biểu tượng của thế giới thuộc địa) là một cuộc tìm kiếm tự do hiện sinh và cuộc
đấu tranh cho nhân cách.
3.2.3. Nhân vật Indar trong hành trình truy tìm bản thể
Nhân vật Indar, bạn thưở niên thiếu của Salim trong Khúc quanh của dòng
sông cũng là một nhân vật phụ rất độc đáo với những tâm tư, chiêm nghiệm, và
đặc biệt là hành trình đi tìm bản ngã. Giống như Salim, Indar cũng lớn lên bên bờ
biển Đông Phi. Sinh ra trong một gia đình giàu có và có tầm ảnh hưởng địa
phương, Indar rời châu Phi để theo học tại một trường đại học danh tiếng ở Anh.
Trong thời gian anh đi du học, quê nhà đã bị tàn phá bởi một cuộc nổi dậy của
dân địa phương. Indar cảm thấy mất phương hướng hơn bao giờ hết sau khi tốt
nghiệp đại học, khi nhận ra rằng mơ ước làm nhà ngoại giao, “một người của hai
thế giới” sẽ khó thực hiện được. Khi ngắm nhìn những bức ảnh của Gandhi và
Nehru tại hội đồng tối cao Ấn Độ, anh nhận ra một cách đau đớn một “dị giáo”
104
của những người xung quanh đều đang cúi người trước vị lãnh tụ của họ, mọi
người sẵn lòng làm mình bé nhỏ đi để tôn vinh thêm nữa người lãnh đạo. Đó chính
là cái bẫy lớn nhất khi người ta bị dắt lối vào nô lệ, và có sự thiên lệch về chính
mình, và khúm núm trước người khác. Indar nhận thức được một sự thật mỉa mai
vì trong cuộc sống, chỉ “những người ăn mày là những người duy nhất có thể lựa
chọn” [107,95] và anh quyết không hạ thấp nhân cách của mình trước bất kì ai,
được sống với chính nhân tính của mình.
Từ sự bừng ngộ đó, Indar quyết tâm xây dựng con đường riêng, sống cuộc
sống của chính mình. Anh cả quyết rằng mình “biết chính xác mình là ai” và
“đứng ở đâu trong thế giới này” và giờ đây, anh “muốn chiến thắng, chiến thắng,
chiến thắng”. Niềm khao khát được sống đúng nghĩa với con người thật của Indar
đã giúp anh trở thành một giảng viên đại học, đi thỉnh giảng khắp nơi về các vấn
đề chính trị và triết học liên quan đến một châu Phi mới hiện đại hóa. Indar đã toả
sáng trong các buổi tranh luận ở Khu nhà công vụ của Tổng thống, anh muốn
“giẫm thẳng lên quá khứ” mà bàn đến tương lai quan hệ Trung Quốc và Đài Loan.
Có cảm giác Indar đã thành công trong việc truy tìm bản ngã, có cách thức riêng
để hoàn thiện bản thân, xây dựng hình ảnh một giảng viên mạnh mẽ, tự tin, khiến
Salim có phần bất mãn về cuộc sống hạn chế của mình. Tuy nhiên, đó chỉ là vỏ
bề ngoài của một Indar đang bị trầm cảm và hoài nghi về tình trạng chính trị châu
Phi, để rồi mang tâm trạng u uất và cáu kỉnh quay trở lại London. Có thể thấy
Indar là một điển hình cho thế hệ những người trẻ có hoài bão, có ý chí muốn
khám phá thế giới, muốn nắm bắt thế giới theo cách riêng của mình, không để ai
quyết định cuộc sống của mình. Nhưng cũng giống như ông lão Santiago trong
Ông già và biển cả là “con người mang khát vọng lớn lao bỗng chốc trở thành
nạn nhân hoặc nô lệ cho chính khát vọng đó” [2,312], nhân vật Indar đã thất bại
trong công cuộc đi tìm lí tưởng sống và bản ngã của chính mình.
Dù chỉ xuất hiện thoáng qua trong lời kể của Salim, nhưng quan điểm sống
của Indar lại rất rõ ràng và ảnh hưởng nhiều đến cách nghĩ của Salim. Sự ra đi của
Indar là để khẳng định sự tồn tại của anh, là một cách thức vượt lên sự vô nghĩa,
tầm thường mà Salim cho là “để có kinh nghiệm rộng hơn, để lại tôi trong cuộc
đời nhỏ bé này tại một nơi lại lần nữa không còn ý nghĩa gì hết” [107,102]. Như
vậy, Indar cũng có thể được coi là một đại diện cho lối sống hiện sinh chủ nghĩa,
105
góp một tiếng nói đa dạng cho kiểu nhân vật truy tìm ý nghĩa của bản thể.
Như vậy, qua ba nhân vật: Tôi, ông Biswas, và Indar, ta có thể thấy ba cuộc
hành trình biệt lập, mỗi chuyến đi đều có cách thức và đặc điểm riêng. Tuy nhiên,
có thể thấy hành trình đi tìm bản ngã của những nhân vật trên chính là những “phép
thử” để qua đó, con người ngẫm nghĩ, suy xét, kiểm chứng lại những chân giá trị,
những khát vọng sống chính đáng. Điểm chung của cả ba nhân vật chính là nỗi cô
đơn, vô phương thấu hiểu của người đời, sự trăn trở khôn nguôi về việc đi tìm câu
trả lời cho “Tôi là ai?” để từ đó tìm ra ý nghĩa cuộc sống. Sự dấn thân với mong
muốn hoàn thiện bản thân đó có thể là sự vẫy gọi của lương tâm, của bản năng,
nhưng nhìn rộng ra, là hệ quả tất yếu của một xã hội đầy biến thiên, “một thế giới
mà hiện thực đã bị mất ổn định đến độ không còn đảm bảo chất liệu nào cho kinh
nghiệm nữa, nhưng lại có đủ cho việc tìm tòi và thử nghiệm” [135,18].
Kiểu nhân vật dấn thân không phải hiếm gặp trong nền văn chương nhân
loại. Nói đến kiểu nhân vật này, người ta không thể không nhắc đến ông già
Santiago của Hemingway, hay nhân vật cô đơn, u buồn như Wanatabe của
Murakami. Tuy nhiên, với V.S. Naipaul, những con người dấn thân trong tác phẩm
của ông vẫn để lại một ấn tượng sâu đậm, bởi họ là những nhân chứng sống của một
thời kì lịch sử hậu thực dân. Họ mang trong mình những nỗi ưu tư, băn khoăn về
nhân thế, mà rất ít tác giả khai thác được chiều sâu nội tâm đó. V.S. Naipaul không
tạo ra những cách tân lớn khi xây dựng nhân vật, nhưng bằng lối viết giản dị, ông để
cho nhân vật tự phát biểu và khẳng định mình một cách thành thực, tự nhiên nhất.
Nhà nghiên cứu Louis Simpson nói: “Đây là những gì mang lại cho tiểu thuyết V.S.
Naipaul sức hấp dẫn. Ông luôn đặt bóng tối sau lưng mình. Khi ông thoát khỏi những
sự hỗn độn, đầu tiên là thông qua giáo dục, rồi thông qua viết lách, trong các tiểu
thuyết và truyện của ông, các nhân vật cố gắng thoát ra. Có lúc họ thoát ra được và
có lúc họ không” [136]. Ba nhân vật Tôi, ông Biswas và Indar đều là những con
người cố gắng dấn thân, không ngừng cố gắng học hỏi, và tìm con đường phát triển
bản thân từng ngày. Họ đại diện cho chủ thể của những diễn ngôn thiểu số và cất lên
tiếng nói của những phận người nhỏ bé trong nền văn hoá đa số.
3.3. Kiểu nhân vật bên lề
Từ quan điểm của Hall về bản sắc “dung hoà (chứ không loại bỏ) các sự
khác biệt trong qua trình sự lai tạp”, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu những nhân vật
106
biết dung hoà, tôn trọng sự khác biệt. Trong giáo trình Lí luận văn học, mục
đích của nhà văn khi sáng tạo nhân vật là “để thể hiện nhận thức của mình về một
cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực.
Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống
trong một thời kì lịch sử nhất định” [137,126]. Salim và cha Huisman trong Khúc
quanh của dòng sông là những nhân vật như vậy.
3.3.1. Salim, người quan sát ngoại đạo
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thương nhân giữa một cộng đồng Ấn
ở bờ biển Đông Phi, Salim đã tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau từ bé và
tự phát triển một thói quen nhìn ngắm cảnh vật xung quanh, bắt đầu từ những
con tem, rồi bến cảng có con tàu. Gia đình bố mẹ Salim là gia đình buôn bán,
cũng không tranh luận về chính trị, và có niềm tin tôn giáo, họ “chấp nhận số phận
không chỉ đơn thuần là sự sẵn sàng, đó là một lòng tin trầm tĩnh và sâu sắc về sự
phù phiếm của đời người”. Trong khi đó Salim lại luôn bi quan và bất an, vì không
có một niềm tin tôn giáo để dựa vào, và vì tình hình chính trị bất ổn. Salim tự cho
rằng “đó là cái giá dành cho thái độ duy vật của tôi, sự tìm kiếm của tôi để chiếm
lĩnh được trạng thái trung hoà, giữa sự thẩm thấu vào cuộc sống và bay lơ lửng
phía trên mặt đất” [107,16]. Như vậy, từ khi còn bé, cách suy nghĩ của nhân vật
Salim là cách nghĩ của kiểu người đứng ngoài cuộc, lặng lẽ quan sát nhân tình thế
thái. Thói quen sẽ tạo nên tính cách, và thói quen này đã tạo nên một Salim trưởng
thành đi kiếm tìm sự dung hoà, một điểm trung bình trước sự biến động.
Salim là một nhân vật dung hoà, ít phản đối. Từ những việc như gia
đình anh gửi Metty đến, anh cũng không từ chối, khi Zabeth gửi con trai là
Ferdinand đến chỗ Salim để học hỏi thêm, Salim cũng không sung sướng gì
với yêu cầu này, nhưng vẫn tặc lưỡi làm theo. Sự cam chịu này cũng giống
như cách cha Huismann học cách chấp nhận những thay đổi của thị trấn châu
Âu. Ông không thấy tổn thương hay bực bội, cũng “Không phải bởi vì ông
sẵn lòng tha thứ hơn người khác, hoặc hiểu hơn về những gì đã được làm cho
người châu Phi. Với ông sự phá huỷ thị trấn châu Âu, thị trấn mà những người
đồng bào của ông đã xây dựng, chỉ là một bước lùi tạm thời” [107,40]. Cha
Huismann, và rất có thể cả Salim đều cho rằng đó là một giai đoạn tạm thời
của lịch sử, cho đến khi một cái gì đó mới mẻ sẽ xuất hiện. Thái độ trung lập,
107
chọn cách sống cân bằng ở giữa của Salim trở nên ngày càng rõ ràng hơn khi
quân đội bắt đầu đến vùng cây bụi. Salim cảm thấy “bị cả hai phía đe doạ.
Tôi không muốn thấy quân đội ăn chơi sa đọa. Và dù thông cảm với người
trong vùng, tôi không muốn thấy thị trấn bị phá huỷ lần nữa. Tôi không muốn
bên nào thắng hết, tôi muốn sự cân bằng cũ được giữ nguyên” [107,43]. Thái
độ của Salim thậm chí đến mức thờ ơ, và coi những người già thờ ơ trước thời
cuộc là những bầu bạn, “để được trở lại làm đứa trẻ, được sự khôn ngoan
người già bảo vệ, và để tin tưởng rằng họ luôn nhìn nhận đúng vấn đề”
[107,44]. Thái độ có phần thờ ơ, lãnh cảm trước thời cuộc này của Salim cũng
rất hợp lí nếu xét bản thân Salim là người ngoại quốc ở quốc gia Trung Phi
này, với mong muốn duy nhất là duy trì công việc làm ăn ổn định và môi
trường sống ổn định.
Xét về khía cạnh văn hoá, Salim cảm thấy bị “lơ lửng” giữa các nền
văn minh châu Phi và châu Âu. Bối cảnh tiểu thuyết Khúc quanh của dòng
sông diễn ra vào những năm sau khi chủ nghĩa đế quốc châu Âu tan rã, khi
các quốc gia châu Phi mới thành lập bước những bước độc lập đầu tiên. Là
một người nước ngoài lớn lên dưới chế độ thực dân châu Âu và hiện đang
sống ở châu Phi độc lập, Salim đã bị ảnh hưởng bởi cả hai nền văn minh. Tuy
nhiên, quá trình giáo dục và trải nghiệm cá nhân thường khiến anh coi thường
châu Phi và đặc quyền cho châu Âu. Lớn lên trong một cộng đồng người Ấn
khép kín và vốn không thích sự pha trộn chủng tộc, Salim đã phát triển thành
kiến chống người châu Phi ngay từ khi còn nhỏ, cho rằng các sản phẩm vật
chất của châu Âu như sách và hình ảnh giúp khẳng định bản sắc Ấn Độ của
ông. Trong suốt cuốn tiểu thuyết, Salim ngày càng nghi ngờ về cả hai nền văn
minh. Trò chuyện tại Miền mới về Châu Phi mới khiến anh ấy bị tách rời khỏi
Châu Phi thực một cách nguy hiểm. Đồng thời, những người châu Âu mà anh
gặp tại Miền mới cuối cùng khiến anh thất vọng, và khi anh đến London để
thăm Nazruddin, anh chỉ thấy tuyệt vọng hơn. Cuối cùng, không có gì chắc
chắn rằng Salim sẽ tìm thấy sự thỏa mãn hơn ngay cả khi cuối cùng anh ta
xoay sở để từ bỏ châu Phi để đến một cuộc sống mới ở châu Âu. Cảm giác
lạc lõng, không thuộc về bất cứ nơi nào có lẽ là cảm thức bao trùm lên toàn
bộ tác phẩm, tạo nên một bầu không khí khá bi quan, như nhận định của nhà
108
nghiên cứu Jason Cowley cho rằng “V.S. Naipaul có một cái nhìn tương đối
bi thảm về lịch sử, có lẽ bởi vì, giống như Conrad, ông đã đi rất xa và nhìn
thấy quá nhiều. Ông hiểu biết một phần nào của thế giới - sự tàn nhẫn và đấu
tranh, sự thờ ơ đối với nỗi đau khổ của con người” [138]. Trước Khúc quanh
của dòng sông, trong sự nghiệp viết của mình, V.S. Naipaul đã có những sáng
tác đi sâu khám phá những mảnh ghép cuộc sống của những quốc gia mới
giành độc lập, những cộng đồng trong xã hội hậu thuộc địa đang loay hoay
với nền độc lập non trẻ vừa giành được, mà ở đó con người cảm thấy lạc lõng
giữa thế giới xung quanh mình. Nếu ở hai sáng tác trước đó của ông In a Free
State (Ở một đất nước tự do, 1971), giành giải Booker Prize của Anh, lấy bối
cảnh ở nhiều quốc gia khác nhau; tập truyện ngắn Guerrillas (Du kích quân,
1975) kể về thất bại của cuộc nổi dậy trên một hòn đảo Caribe; thì Khúc quanh
của dòng sông (A Bend in the River, 1979) đưa ra một cách nhìn bi quan về
tương lai bấp bênh của một quốc gia mới giành độc lập ở Trung Phi.
Không phải là vô tình khi cuốn tiểu thuyết mở đầu bằng một câu dài đầy
chiêm nghiệm, thể hiện quan điểm sống của Salim (và có lẽ của chính nhà văn)
“Thế giới vẫn chỉ là thế giới; ở đó con người chẳng là gì, tự cho phép mình chẳng
là gì và do đó không hề có vị trí cho mình” [107,4]. Đây có thể coi là một lời
tuyên ngôn đầy ưu tư và hoài nghi của Salim về thế giới mình đang sống cũng
như vị trí của mình trong thế giới đó, một “nền móng để suy nghĩ về cuộc đời”
như cựu Tổng thống Mỹ, Barack Obama từng nói về câu văn mở đầu này: “Và tôi
luôn luôn nghĩ về câu văn đó, về những cuốn tiểu thuyết của ông, mỗi khi nghĩ
đến những khó khăn trên thế giới này, đặc biệt trong chính sách đối ngoại, tôi đã
trăn trở và đấu tranh với thái độ hoài nghi và thực dụng ấy. Tuy nhiên, có những
lúc tôi lại cảm thấy đó mới chính là sự thật” [6]. Nhà nghiên cứu Patrick French
khi viết tiểu sử về V.S Naipaul cũng đã lấy nhan đề cuốn sách là “Thế giới vẫn
chỉ là thế giới – Một cuốn tiểu sử được V.S. Naipaul uỷ quyền”. Một sự thật khó
phủ nhận: đó là thế giới đã, vẫn và luôn là như thế, dù cho con người có làm gì để
thay đổi đi chăng nữa. Vậy nên thái độ thờ ơ, hoài nghi của Salim trong một thế
giới đa chiều và đa dạng âu cũng là dễ hiểu.
Salim luôn coi mình là một người ngoại đạo vĩnh viễn, chưa bao giờ thuộc
về cộng đồng Hồi giáo của Ấn Độ (đức tin của gia đình anh) và cũng chưa bao
109
giờ là người châu Phi. Khi chuyển đến một thị trấn thuộc địa cũ ở một quốc gia
vô danh sâu trong lục địa châu Phi, anh dành cả ngày để điều hành một cửa hàng
buôn bán nhỏ, chơi bóng quần và thỉnh thoảng ghé thăm một hộp đêm địa
phương. Anh luôn tự đặt mình như một người quan sát tách biệt, chỉ theo dõi
những gì đang xảy ra xung quanh mình mà không tham gia. Chính vị thế tách
biệt này khiến cho Salim luôn có cảm giác bất an sâu sắc. Không thể kết nối tốt
với những người khác, Salim cảm thấy bị cô lập, thường xuyên phải chịu đựng
sự tủi thân và dễ chìm đắm trong những suy nghĩ lo lắng về tương lai vô định
của mình. Mặc dù Salim hình dung mình là người cuối cùng sẽ thành công,
nhưng nỗi sợ hãi và bất an đã xâm chiếm, làm tê liệt anh và khiến anh không đạt
được bất kì tiến bộ đáng kể nào trong cuộc sống. Gần như mọi khía cạnh trong
cuộc sống của Salim đều phụ thuộc vào người khác: mối tình với Yvette phụ
thuộc vào những ảo tưởng hạnh phúc mà họ tự huyễn hoặc bản thân; cuộc sống
hiện tại của anh phụ thuộc vào ý tưởng bất chợt của Tổng thống và vào việc
Nazruddin đề nghị anh ta tiếp quản công việc kinh doanh của mình; tương lai
của anh phụ thuộc vào việc kết hôn với con gái của Nazruddin; và quá khứ của
anh ấy phụ thuộc người Châu Âu bởi họ mang đến những con tem và cả ngôn
ngữ. Cuối cùng, việc trốn thoát khỏi châu Phi phụ thuộc vào một ân huệ của
Ferdinand. Trong suốt câu chuyện, Salim hiện ra là một tuýp người quan sát,
mưu cầu sự bình yên nhưng cũng bị chao đảo, ảnh hưởng bởi một thế giới đang
đổi thay hàng ngày và sự lệ thuộc nhiều vào những nhân vật khác. Điểm đặc biệt
nhất có lẽ là những dòng ý thức của Salim thể hiện những trăn trở, hoài nghi về
thế giới hậu thuộc địa.
Trong cuộc hành trình của Salim vào trung tâm châu Phi, cùng một lãnh
thổ được khai phá trong Giữa lòng tăm tối của Joseph Conrad gần tám mươi
năm trước đó, Salim phát hiện ra rằng di sản bạo lực của quốc gia vẫn tồn tại,
thông qua sự trỗi dậy của một nhà độc tài tự xưng là vị cứu tinh của nhân dân
nhưng chế độ được xây dựng trên sự sợ hãi và dối trá. Salim cũng có lúc muốn
đấu tranh, muốn vượt qua số phận, để giữ cửa hàng và công việc kinh doanh
của mình trong một bối cảnh xã hội hỗn loạn, xung đột, thiếu hiểu biết và đói
nghèo. Có những lúc anh cũng giống Indar, cảm thấy mệt mỏi khi ở bên thua
cuộc, anh biết chính xác mình là ai và đang đứng ở đâu trong cuộc đời này
110
nhưng phải chiến thắng. Salim đã từng có cảm giác chinh phục và chiến thắng,
và cuộc tình của anh với Yvette là một chiến thắng “Tất cả sức lực và tâm trí
của tôi đều dành cho mục đích mới là chiến thắng người đó” [107,106]. Nhưng
rồi cuộc tình đó cũng tan vỡ vì cả thị trấn đang trải qua những ngày sợ hãi và
nguy hiểm. Salim bắt đầu coi Yvette là một kẻ bại trận, bị mắc kẹt trong thị
trấn, như một kẻ ốm yếu, anh quyết định rời bỏ thị trấn để bay sang Anh đính
hôn với con gái của Nazzuddin. Ở phần kết truyện, Salim lên con tàu hơi nước
rời khỏi thị trấn cũng giống như những đám lục bình trôi về phía biển. Hình
ảnh con tàu hơi nước rời đi trong làn sương mờ đã khép lại một câu chuyện về
một nhân vật bỏ cuộc, tự coi mình đứng ngoài thế giới. Tuy vậy, về mặt kinh
doanh, Salim có thể là người ngoài cuộc, nhưng anh hiểu người dân châu Phi
hơn bất kì chuyên gia nào, kể cả cha Huisman và bởi vậy anh có thể sống thành
thực mà không cần phải đeo một chiếc mặt nạ.
3.3.2. Cha Huisman, kẻ đứng ngoài “đeo” mặt nạ
Sự thờ ơ của Salim phần nào giống với thái độ bàng quan trước thực tại của
vị cha xứ Huismann, người Bỉ, người điều hành trường học. Cha Huismans, xuất
hiện lần đầu trong tiểu thuyết, lúc đó đã ngoài bốn mươi tuổi và vừa trở về từ bụi
rậm với một chiếc mặt nạ và một bức tranh khắc gỗ. Vị linh mục này có đam mê
sưu tầm các dụng cụ chạm khắc khác nhau được sử dụng trong các tôn giáo địa
phương. Ông sống khá dễ chịu và thoải mái trong lòng một xã hội châu Phi giàu
truyền thống với vai trò của một quan sát viên, thể hiện qua quan điểm sống,
niềm tin, và hành động.
Quan điểm của cha Huisman về châu Phi thể hiện sự tôn trọng của một
người ngoại quốc. Đối với ông, châu Phi là một thế giới mới mẻ cần khám phá,
“một nơi đầy những điều tuyệt vời”. Đây không phải là cảm tính của một mình
Cha Huisman, mà rộng hơn, đó là một sợi chỉ xuyên suốt từ những ngày đầu của
nền văn minh phương Tây: luôn khát khao tìm tòi, khám phá những cái mới “…
Một nhà văn La Mã cổ đại đã viết rằng ngoài Châu Phi “luôn có một cái gì đó
mới” —semper aliquid novi. Và khi nói đến mặt nạ và nghệ thuật chạm khắc, thì
những lời này vẫn đúng theo nghĩa đen. Mỗi hình khắc, mỗi chiếc mặt nạ đều
phục vụ một mục đích tôn giáo cụ thể, và chỉ có thể được làm một lần… Người
ta nhìn vào những chiếc mặt nạ và chạm khắc để hiểu bản chất tôn giáo; nếu thiếu
111
đi bản sắc đó thì mọi thứ đã chết và không còn vẻ đẹp” [107,61]. Cha Huisman là
người có kiến thức rộng, ông hiểu tiếng Latinh và giải thích cho Salim câu khẩu
hiệu bằng tiếng La tinh khắc vào toà nhà đổ nát gần cầu tàu: Miscerique probat
populos et foedera jungi (Ngài tán thành sự hoà trộn các dân tộc và những mối
dây ràng buộc của họ). Ông nghĩ rằng trường học của mình sẽ một nền giáo dục
phương Tây, một sự khai sáng trong người dân châu Phi.
Niềm đam mê sưu tầm những chiếc mặt nạ và hình khắc gỗ của các tôn giáo
châu Phi, chứng tỏ một điều: cha Huisman rất quan tâm đến văn hoá bản địa. Chỉ
có điều, ông dường như không quan tâm đến người châu Phi hoặc chính châu
Phi, mà vì lợi ích của người nước ngoài. Ferdinand, một trong những sinh viên
châu Phi của Cha Huismans đã phát biểu đúng bản chất, “Đó là một thứ của người
châu Âu, một viện bảo tàng. Ở đây nó đang đi ngược lại với thần của người châu
Phi. Chúng tôi có mặt nạ trong nhà và chúng tôi biết chúng ở đó để làm gì. Chúng
ta không cần phải đến bảo tàng của Huismans” [107,83]. Thực chất, ông luôn giữ
vai trò là kẻ đứng ngoài, hờ hững trước sự bỏ trường ra đi của các giáo viên. Dù
cha Huismans gắn bó sâu sắc với những chiếc mặt nạ, nhưng ông lại không quan
tâm đến cuộc xung đột chính trị của những người châu Phi xung quanh mình. Ông
tin rằng mối bất hòa này sẽ qua đi khi châu Phi trở nên phát triển, và sự đổ nát
của thị trấn châu Âu chỉ là một bước lùi tạm thời.
Hành động ích kỉ của Cha Huismans đối với những chiếc mặt nạ đã phải trả
giá. Khi chiến tranh ập đến thị trấn, người ta tìm thấy thi thể không đầu của Huismans
trôi xuống sông. Những chiếc mặt nạ của thầy tu vẫn còn trong tầng hầm của trường,
nhưng tách khỏi môi trường bản địa, chúng bắt đầu mất đi ý nghĩa và mục nát. Việc
sưu tập của cha Huisman trở nên vô nghĩa. Cách giải thích của ông về châu Phi không
mang lại cái nhìn sâu sắc hơn về châu lục này so với chính người châu Phi. Cũng
giống như Cha Huismans đã sưu tập mặt nạ, những người ngoại quốc bắt đầu ghi lại
lịch sử Châu Phi để mang đến cho nó một câu chuyện tuyệt vời, phù hợp với bối
cảnh của nền văn minh phương Tây, chẳng hạn như Raymond, một giáo viên ở thủ
đô, là một nhà sử học, người trở thành cố vấn cho tổng thống mới. “… Raymond giữ
một danh hiệu thấp, nhưng anh ấy điều hành toàn bộ chương trình ở đây… Anh ấy
là người đàn ông da trắng của Big Man… Họ nói rằng Tổng thống đọc tất cả những
gì anh ấy viết… Raymond biết nhiều về đất nước hơn bất kì ai trên trái đất”
112
[107,125]. Bản chất của cha Huisman hay Raymond đều là những người ngoài cuộc
đóng vai trò quan sát trong những căng thẳng hậu thuộc địa giữa người nước ngoài
và người dân bản địa ở châu Phi. Câu hỏi lớn nhất đặt ra ở đây là: Ai sẽ quyết định
đường lối phát triển cho lục địa? Đó là những người châu Phi hành động dưới mặt
nạ của chủ nghĩa Âu châu, như Raymond, Ferdinand? Hay là những người châu Âu
tiếp tục lãnh đạo dưới mặt nạ của chủ nghĩa châu Phi, như Cha Huismans? Cái kết
bi thảm của cha Huisman đã trả lời một phần câu hỏi đó. Ông mãi mãi là người đứng
ngoài quan sát, xem xét những biến cố và đổi thay của một dân tộc. Khi ông còn
sống, người châu Phi không thấy những giá trị của việc ông làm. Khi ông ra đi, người
dân thị trấn cũng chẳng mảy may quan tâm bởi ông không hề thuộc về nơi này.
Như vậy, hai nhân vật – cha Huismann và Salim đều là những con người
chọn cách chấp nhận đứng ngoài những biến cố lịch sử. Cả hai đều có mặt tại một
thời điểm lịch sử của châu Phi, và một điểm chung dễ nhận thấy là quan điểm
đứng ngoài của cả hai người đều không thuộc về vùng đất châu Phi này. Tuy vậy,
điểm khác nhau chính là từ nhân vật kể chuyện, Salim toát lên một mối quan tâm
sâu xa, những ám ảnh về nhân thế, cứ chảy trôi bàng bạc như màn sương mù bao
phủ ở cuối tác phẩm.
Rõ ràng, tấm phông đa văn hoá đã tạo nên một V.S. Naipaul với rất nhiều
trải nghiệm thực tế và là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận của nhà văn. Bằng một
ngòi bút sắc sảo, giàu trí tuệ, V.S. Naipaul đã xây dựng một hệ thống các nhân
vật đa dạng trong muôn nẻo đường đời. Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas là
một áng văn xuôi với lối viết châm biếm nhẹ nhàng khi đề cập đến văn hoá cha
ông của cộng đồng nhập cư trong thế giới hiện đại. Bí ẩn khi tới đạt đến một sự
kết tinh, gạn lọc các chất liệu thô của chính cuộc đời nhà văn, khơi gợi lên những
vấn đề nhân sinh đáng suy ngẫm và một niềm trắc ẩn với những bi kịch của một thế
hệ tàn lụi. Trong khi đó, Khúc quanh của dòng sông là một bức tranh hiện thực đa
chiều, đa sắc của một quốc gia loay hoay với nền độc lập mới giành được. Ba cuốn
tiểu thuyết là ba thế giới riêng, với những con người, những tiếng nói đa dạng, tạo
nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo. Đó là “sự giao cảm của các văn hóa
khác nhau. Vì đã trải qua thời gian sống trong các môi trường văn hóa khác nhau,
nên … đã hình thành một số bản sắc văn hóa khác nhau và hội tụ tuỳ theo nhu
cầu của từng thời điểm” [139,190].
113
Tiểu kết
Một đặc điểm chung của hệ thống nhân vật của V.S. Naipaul chính là tính
đa văn hoá – sự kết tinh từ trải nghiệm của những con người sống “một nửa cuộc
đời đi mượn” như chính bản thân tác giả đã tự nói về mình trong tác phẩm Nửa
đời (Half a Life, 2001). Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul đa
dạng về tính cách, trải nghiệm sống, độc đáo trong cách tư duy. Đó có thể là kiểu
nhân vật hoà nhập hoặc kiểu dấn thân, chủ động truy tìm ý nghĩa của bản thể, hay
kiểu nhân vật bên lề. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại là các nhân vật có xuất thân,
hoàn cảnh sống đa văn hoá, đứng trước những thay đổi của dòng đời và bi kịch li
hương, e rằng những nhân vật của V.S. Naipaul khó lòng vượt qua được những
nhân vật đặc sắc như Charles Marlow của Joseph Conrad hay Okonkwo của
Chinua Achebe. Nhưng đọc tiểu thuyết của V.S. Naipaul, ta có ấn tượng sâu sắc
về những nét cá biệt trong tâm tư, tình cảm của con người hậu thuộc địa. Đó là
những con người chịu ảnh hưởng không nhỏ của những sang chấn lịch sử, những
ám ảnh khôn nguôi về những chân giá trị của quá khứ, hiện tại và tương lai bất
định đan cài. Họ là những sản phẩm của những chấn thương tinh thần thời hậu
thực dân, với bao khát khao, hi vọng, rồi phải đối mặt với những sự bất lực, thất
vọng. Việc xem xét hệ thống nhân vật dưới lí thuyết Đa văn hoá đã phần nào lột
tả được những bản sắc văn hóa phức tạp của nhiều khía cạnh cuộc sống và tâm
hồn mỗi con người. Đồng thời nó cũng thể hiện rõ tính độc đáo và phong phú của
một giai đoạn lịch sử - xã hội đầy những xung đột giá trị, cũng như những sự vận
động trong quan niệm về con người và cách thức xây dựng nhân vật của nhà văn.
Thế giới nhân vật trong ba tiểu thuyết trên có thể coi là điển hình cho phong
cách sáng tác của V.S. Naipaul với những quy luật riêng, không lẫn với các nhà
văn hậu thuộc địa khác. Đặc sắc nhất, đó là một lối văn phong đạt đến mức tự nhiên,
không vướng bận kĩ thuật, đi sâu vào các ngóc ngách tâm hồn nhân vật, để lột tả
được những góc khuất của cuộc sống hậu thuộc địa. Với nghệ thuật xây dựng nhân
vật đặc sắc, từ việc sử dụng tiếng Anh chuẩn theo đúng ngữ pháp và tiếng Anh bản
địa, thủ pháp dòng ý thức, và nghệ thuật miêu tả tâm lí đầy sắc sảo, thế giới nhân
vật trong tiểu thuyết hiện ra thật sống động, chân thực, giúp người đọc khám phá
được những lát cắt của cuộc sống cũng như chiều sâu tâm lí của con người.
114
CHƯƠNG 4
BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT V.S.NAIPAUL GẮN VỚI BA
MÔ HÌNH ĐA VĂN HOÁ
Trên cơ sở tài liệu đã đọc và soi chiếu vào tác phẩm của nhà văn, chúng tôi
nhận thấy sẽ là thiếu sót lớn nếu đề cập đến Đa văn hoá mà thiếu đi những biểu
tượng văn hoá trong tác phẩm. Chương này sẽ tập trung khám phá các biểu tượng
văn hoá đa dạng – kết tinh của những phẩm tính đa văn hoá của tác phẩm. Nền
tảng lí thuyết của chương này được xây dựng dựa trên hai câu hỏi trọng tâm sau:
❶ Biểu tượng đóng vai trò gì và tại sao cần nghiên cứu hệ thống giá trị này
trong tiểu thuyết V.S. Naipaul?
❷ Các biểu tượng trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul có sự kết nối như thế
nào với Đa văn hoá?
4.1. Biểu tượng – sự kết tinh Đa văn hoá
4.1.1. Khái niệm biểu tượng
Về khái niệm biểu tượng, Macionis trong cuốn Xã hội học cho rằng biểu
tượng “là bất cứ cái gì mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của một cộng
đồng người nhận biết” [140,83]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), biểu tượng là “khái niệm chỉ một giai
đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật
còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”
[95,23]. Như vậy, biểu tượng xuất hiện khi con người có khả năng trừu tượng hoá,
tượng trưng hoá các hình ảnh để diễn tả một ý nghĩa, thông điệp nhất định. Trong
kí hiệu học, các nhà nhân học xã hội như Margaret Mead, Levi-Straus và
Malinowski coi văn hóa là một tập hợp các hệ thống xã hội, biểu tượng, đại diện
và thực hành ý nghĩa do một nhóm nhất định nắm giữ. Như vậy, từ góc độ này,
một nền văn hóa được định nghĩa là một hệ thống các lí tưởng hoặc cấu trúc có ý
nghĩa biểu tượng. Nói cách khác, theo quan điểm này, văn hóa nên được hiểu như
một hệ thống biểu tượng, đến lượt nó là một phương thức giao tiếp đại diện cho
thế giới. Hình thức giao tiếp này dựa trên các biểu tượng, cấu trúc cơ bản và niềm
tin hoặc các nguyên tắc tư tưởng. Đồng tình với quan điểm này về văn hóa, Bikhu
Parekh cũng cho rằng “cuộc sống con người được tổ chức bởi một hệ thống ý
115
nghĩa và ý nghĩa được tạo ra trong lịch sử và đến lượt nó, đây là cái mà chúng ta
gọi là văn hóa” [35,139]. Nhà nghiên cứu Taylor [142] cũng nhận định rằng con
người là động vật tự giải thích, tức là, danh tính của con người phụ thuộc vào cách
mỗi cá nhân nhìn nhận về bản thân và ngôn ngữ, là kết quả của sự tương tác của
các cá nhân với cộng đồng văn hóa của chính họ. Chính xác hơn, ý nghĩa ngôn
ngữ và sự tự diễn giải có nguồn gốc từ cộng đồng ngôn ngữ của mỗi cá nhân. Nếu
như trong diễn ngôn học, nơi người đọc phải giải thích ý nghĩa của một văn bản
thì trong văn hóa, người ta phải giải thích logic nội tại bên trong của nền văn hoá
đó [143]. Một ví dụ về việc giải thích logic bên trong của một nền văn hóa có thể
được đưa ra qua câu chuyện được kể bởi Quine (1960) [144] về một người bản
địa nói “Gavagai!” bất cứ khi nào anh ta nhìn thấy một con thỏ. Quine cho rằng
có thể có nhiều nghĩa liên quan đến hành động này; nó có thể có nghĩa là “con
thỏ”, “thức ăn”, “một bộ phận thỏ chưa được rửa sạch”, “sẽ có bão tối nay” (nếu
người bản xứ mê tín), v.v.
Từ đó, có thể thấy biểu tượng có mối tương quan mật thiết với ngôn ngữ, sự
tự diễn giải, và logic nội tại của mỗi nền văn hoá. Văn hóa là một hệ thống các ý
nghĩa biểu tượng và khó có một nền văn hoá nào thiếu đi hệ thống biểu tượng,
một yếu tố hạt nhân trong quá trình tạo nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng –
dân tộc. Tác phẩm văn học không thể nằm tách biệt khỏi dòng chảy văn hoá cộng
đồng, nên khi đi tìm và giải mã các biểu tượng văn hoá trong tác phẩm tức là phần
nào làm sáng tỏ những ý nghĩa, giá trị của bản sắc, định vị được phong cách sáng
tác của nhà văn.
Bên cạnh đó, Lê Huy Bắc nhận định rằng “Đa văn hoá là thuộc tính tất yếu
của bất cứ nền nghệ thuật ngôn từ nào. Bản thân kí hiệu ngôn ngữ trong giao tiếp
đã gợi dẫn nhiều đặc tính đa văn hoá. Chưa kể đến việc vay mượn ngôn ngữ mà
ngay đến ngôn ngữ độc lập của một dân tộc trong quá trình sử dụng thì luôn có
sự chuyển nghĩa dựa trên nguyên tắc tương đồng nhất định” [145]. Ví dụ, những
từ “nhà” hay “ông xã” có hàm ý ám chỉ “vợ” hoặc “chồng”. Nhờ đặc tính văn hoá
và trong thời đại toàn cầu, là tính đa văn hoá mà văn học có thể “vượt lên trên
mọi bờ cõi và giới hạn” (Nam Cao). Những nét văn hoá của các dân tộc có thể
tương tác, tạo nên một môi trường văn hoá toàn cầu, nơi những quy tắc ứng xử,
những yếu tố văn minh được nhấn mạnh, đề cao và được mọi người tuân thủ. Trên
116
hành trình giao lưu này, kí hiệu hình tượng và những giá trị văn học đóng một vai
trò vô cùng quan trọng. V.S. Naipaul đã từng tuyên bố: “Ngôn ngữ vẫn là của tôi,
và nghiên cứu về sự phát triển của ngôn ngữ khiến tôi cảm thấy thích thú. Thế là
đủ đáp ứng cho tình yêu ngôn ngữ của tôi; và là chuyến phiêu lưu đầy bất ngờ”
[146]. Trong chuyến phiêu lưu đó, chắc chắn không thể không nói đến biểu tượng
như là một kí hiệu thẩm mĩ đa văn hoá.
Tóm lại, khi nghĩ về quá trình sinh thành một biểu tượng, không khó có
thể thấy biểu tượng xuất hiện khi con người có khả năng trừu tượng hoá, tượng
trưng hoá các hình ảnh để diễn tả một ý nghĩa, thông điệp nhất định. Khi nghĩ về
mối quan hệ giữa biểu tượng và văn hoá thì văn hóa là một tập hợp các hệ thống
xã hội, biểu tượng, đại diện và thực hành ý nghĩa do một nhóm nhất định nắm
giữ. Như vậy, từ góc độ này, một nền văn hóa được định nghĩa là một hệ thống
các lí tưởng hoặc cấu trúc có ý nghĩa biểu tượng. Nói cách khác, theo quan điểm
này, văn hóa nên được hiểu như một hệ thống biểu tượng, đến lượt nó là một
phương thức giao tiếp đại diện cho thế giới. Vậy nên, khi tìm hiểu biểu tượng, tức
là được chạm tới những câu chuyện văn hoá, những lớp trầm tích văn hoá được
cô đọng, lưu giữ trong đó, là tìm kiếm ý nghĩa, bức thông điệp mà biểu tượng đó
truyền tải, vượt lên trên một hình ảnh cụ thể, một sự tri giác cụ thể. Bản thân mỗi
biểu tượng tự thân nó đã mang tính đa văn hoá, hiểu theo nghĩa khi được sống
trong một môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, nó lại có một đời sống riêng.
Nhưng chương 4 của luận án không tiếp cận tính đa văn hoá của biểu tượng theo
cách hiểu này.
Tính đa văn hoá của hệ thống biểu tượng trong tiểu thuyết Naipaul được hiểu
theo nghĩa: trong tác phẩm của ông, các biểu tượng tập trung vào một ý nghĩa,
một thông điệp chính: đó là tính đa văn hoá (sự giao thoa, chuyển dịch, chung
sống, đấu tranh…..) giữa các căn tính văn hoá. Như thế, Đa văn hoá ở đây được
hiểu như một nội dung ý nghĩa, một bức thông điệp, một ấn tượng mà hệ
thống biểu tượng trong tiểu thuyết Naipaul chuyển tải.
4.1.2. Quan điểm tiếp cận biểu tượng trong tiểu thuyết Naipaul
Tính đa văn hoá trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul được thể hiện qua các
vỉa tầng văn hoá đa dạng, cùng với hệ thống các hình ảnh biểu tượng phong phú.
Đa số các tác phẩm của V.S. Naipaul đề cập đến những mâu thuẫn của thế giới
117
hậu thuộc địa, từ cả hai phía: những người thực dân kiêu ngạo khi khai phá nền
văn minh cho một vùng đất khác, và người dân thuộc địa loay hoay trong tình thế
tiến thoái lưỡng nan, đấu tranh khẳng định chủ quyền và bản sắc. Ông chuyên sâu
vào các biểu tượng nhằm nêu bật chủ đề tác phẩm: những cuộc di cư, những điều
trớ trêu của cuộc sống lưu vong và xung đột niềm tin thời hậu thuộc địa. Thế giới
biểu tượng trong tác phẩm của ông có thể là sự kiện, nhân vật, địa điểm để khắc
họa những hỗn loạn và mâu thuẫn, những thay đổi và khác biệt văn hóa, sự lạc
lõng và mất phương hướng. Ngay từ những cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông như
Gã tẩm quất bí hiểm (The Mystic Masseur), xuất bản năm 1957, đã được nhận
Giải thưởng John Llewellyn Rhys, cuộc đời của nhân vật chính, Ganesh
Ramsumair có thể coi là biểu tượng cho cuộc đấu tranh cho danh tiếng và của cải.
Ganesh là một giáo viên thất bại và một gã tẩm quất quê mùa, không đàng hoàng
nhưng đã leo lên địa vị của một nhà thần bí được tôn kính, một doanh nhân phát
đạt và là chính trị gia được yêu mến nhất ở Trinidad. Nghề giáo của gã tượng
trưng cho sự thất bại trong những nỗ lực làm việc chuyên nghiệp. Ban đầu gã
chọn trở thành một giáo viên nhưng gã bắt đầu mất đi sự hứng thú với nghiệp nên
bỏ việc. Việc lựa chọn và đấu tranh giữa các ngành nghề của gã đại diện cho
những quan điểm sống trái ngược nhau, mà chính bản thân V.S. Naipaul cũng
phải đối mặt trong cuộc đời mình. Chuyển sang làm nghề đấm bóp kết hợp với
tâm linh, và nhất là sau khi kết hôn với Leela, Ganesh đọc sách để bồi dưỡng kiến
thức rồi cuối cùng tự viết sách để xuất bản. Cuốn sách 101 câu hỏi và câu trả
lời về tôn giáo Hindu và cuốn tự truyện có tiêu đề Những năm tội lỗi là biểu
tượng cho sự thông tuệ, kinh nghiệm và hiểu biết thế giới của con người. Ngoài
ra, còn có một biểu tượng trung tâm - việc xoa bóp, tượng trưng cho khả năng
chữa lành. Đối với Ganesh, biểu tượng này có tác dụng dẫn dắt anh ta đi đúng
hướng trong học tập và chinh phục những đỉnh cao mới. Hơn thế, biểu tượng
này cũng phản ánh nhu cầu chữa một căn bệnh trầm kha hơn, chính là thói đạo
đức giả của loài người.
Trong tiểu thuyết Những kẻ bắt chước (The Mimic Men) của V.S. Naipaul
xuất bản năm 1967 thì nhà máy đóng chai nước có tên The Bella Bella Bottling
Works là một biểu tượng cho sự giàu có, quyền lực và các yếu tố kinh tế của chủ
nghĩa thực dân. Đó là một nhà máy đóng chai lớn trên đảo Isabella mà bà ngoại
118
của Singh từng sở hữu trước khi bà qua đời, và sau đó con trai bà, Cecil thừa kế.
Nhà thầu chính của nhà máy là tập đoàn quốc tế Coca-Cola, đại diện cho ảnh
hưởng của các lợi ích kinh doanh của người phương Tây đối với nền kinh tế của
Isabella. Mặc dù nhà máy có ảnh hưởng rộng rãi đến nền kinh tế của hòn đảo,
nhưng lại thuộc sở hữu và quản lí bởi những người ngoài, gợi lên sự bất bình đẳng
và những rạn nứt trong thế giới hậu thuộc địa về chủng tộc và chính trị.
Ngoài ra, những tác phẩm khác của V.S. Naipaul như Du kích quân
(Guerillas), Rẽ về phía Nam (A Turn in the South), Nửa đời (Half a Life) đều khai
thác khá nhiều biểu tượng, motif và chủ đề xoay quanh những mâu thuẫn và đấu
tranh của thế giới hậu thuộc địa và những cuộc di cư của nhân loại. Với hệ thống
những biểu tượng phong phú như trên, có thể thấy phần nào những trầm tích văn
hoá sâu rộng của V.S. Naipaul.
Từ các biểu tượng mang tính đa văn hoá đó, chúng tôi đề xuất việc nghiên cứu
thế giới biểu tượng của V.S. Naipaul qua hai quan điểm tiếp cận như sau. Thứ
nhất, đối với mỗi biểu tượng, thao tác đầu tiên là nghiên cứu trong lịch sử văn hoá
nhân loại, có phải vốn dĩ chúng đã có sức mạnh biểu trưng cho tính đa văn hoá
hay không? Liệu có cội nguồn nào của tính đa văn hoá trong ý nghĩa biểu tượng
muôn đời của các biểu tượng này hay không? Bởi lẽ dĩ nhiên Naipaul không phải
là người sinh thành nên những biểu tượng này, và ông không thể “hô biến” một
ngôi nhà, một dòng sông, một bức tranh thành biểu tượng. Chúng có thể trở thành
biểu tượng bởi chúng đã có một đời sống từ khởi thuỷ của văn hoá nhân loại. Bức
tranh đã được vẽ từ nghìn năm, ngôi nhà đã được dựng lên từ thời hang đá, hay
dòng sông đã chảy từ khi có nguồn… Bởi thế, trước khi chuyển tải những ý nghĩa
biểu tượng trong tiểu thuyết Naipaul, thì bản thân những hình ảnh đó đã được hấp
thụ ý nghĩa biểu tượng từ trong văn hoá nhân loại.
Thứ hai, phân tích các biểu tượng cụ thể trong tiểu thuyết Naipaul tức là để
biểu trưng cho tính chất giao thoa, chuyển dịch, xung đột, chung sống, đấu tranh
giữa các căn tính văn hoá như thế nào. Ở đây, chúng tôi đã đi tìm một khung lí
thuyết Đa văn hoá với hi vọng có thể bóc tách các tầng bậc ý nghĩa hàm ẩn khác
nhau đó. Đây là một công việc không dễ dàng, bởi lẽ thứ nhất, biểu tượng, tự thân
nó đã thể hiện chiều sâu trong tư tưởng và cảm quan sáng tác của nhà văn. Thêm
nữa, các lí thuyết Đa văn hoá có nội hàm quá rộng, và khó có sự liên kết rõ ràng
119
hay quy chiếu về một hệ biểu tượng nào. Hệ thống biểu tượng này có sức hút và
lan toả, hiểu theo nghĩa, những hình ảnh, chi tiết khác trong tác phẩm cũng châu
tuần về tính biểu trưng đa văn hoá này. Tuy vậy, trong phạm vi chương 4, chúng
tôi lựa chọn những biểu tượng nổi bật, giàu sức biểu trưng và ấn tượng nhất ở các
tiểu thuyết để phân tích. Đồng thời, mỗi biểu tượng được lựa chọn cũng lại biểu
trưng cho một khía cạnh khác nhau của tính đa văn hoá. Và thú vị là, ở mỗi trường
hợp đó, chúng tôi có thể tìm thấy điểm gặp gỡ với ba mô hình Đa văn hoá của
Anders Hanberger. Ba mô hình này đã gợi lên không ít suy ngẫm về sự đấu tranh,
va chạm, xung đột và chuyển hoá tất yếu giữa các hệ giá trị văn hoá. Tính đối
thoại của các giá trị văn hoá thiểu số với nền văn hoá đa số diễn ra trên nhiều
phương diện, cấp độ khác nhau nhằm gìn giữ, bảo lưu những giá trị văn hoá đặc
sắc, đồng thời cũng thích nghi, biến đổi nhằm hoà nhập với xu thế mới. Đồng
quan điểm đó với Anders Hanberger, các nhà nghiên cứu Sniderman và
Hagendoorn (2007) trong nghiên cứu về chủ nghĩa Đa văn hoá ở Hà Lan cũng
cho rằng tất cả các dạng thức (forms) khác nhau của Đa văn hóa đều chú ý đến
sự khác biệt và cách duy trì sự khác biệt đó, nhưng mỗi dạng có điểm riêng về
cấp độ duy trì sự khác biệt [147]. Chúng tôi nhận thấy hệ thống biểu tượng qua
ba cuốn tiểu thuyết của V.S. Naipaul đã có những điểm khác biệt như vậy.
Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas phản ánh một góc bức tranh xã hội của
cộng đồng nhập cư gốc Ấn với lối viết súc tích, hàm ẩn mà nếu không phải người
Ấn Độ hoặc Caribe, độc giả sẽ rất khó có thể nắm bắt được những kí hiệu thẩm
mĩ đa văn hóa, đặc biệt là biểu tượng ngôi nhà ở một quốc gia hậu thuộc địa. Ngôi
nhà gắn với nỗi ám ảnh khôn nguôi về sự độc lập, tự chủ trong hành trình khẳng
định cái Tôi của nhân vật chính và ngôi nhà còn là biểu tượng kết tinh của các giá
trị văn hoá truyền thống Ấn trong quá trình hội nhập với thế giới mới ở Trinidad.
Trong hai tác phẩm còn lại, Khúc quanh của dòng sông và Bí ẩn khi tới chứa
đựng nhiều yếu tố văn hoá đa dạng, gợi nhiều lớp nghĩa - kí hiệu, đòi hỏi người
đọc phải nâng cao tầm kiến thức, nhận thức văn hoá mới có thể cảm thụ được
phần nào ẩn ý, tư tưởng của tác giả và những cơ tầng văn hoá của thời đại, đặc
biệt là những biểu tượng như bức tranh và khu vườn, dòng sông và đám lục bình
trôi. Đó là những hình tượng nghệ thuật đại diện cho những giá trị mới và cũ, vô
hình và hữu hình ẩn chứa những trải nghiệm cuộc đời, những quan niệm sống và
120
triết lí nhân sinh sâu sắc. Hệ thống biểu tượng đó thể hiện các chiều kích khác
nhau của ba mô hình Đa văn hoá, đã góp phần tạo nên một V.S. Naipaul rất riêng,
rất lạ trên văn đàn thế giới.
4.2. Các biểu tượng trong tiểu thuyết V.S. Naipaul
4.2.1. Dòng sông – biểu tượng của quá trình đồng hoá văn hoá
Dòng sông đã trở thành một biểu tượng văn học xuất hiện trong thơ ca, văn
xuôi với nhiều nét nghĩa hàm ẩn. Khổng Tử giảng luận ngữ về cuộc đời cho các
học trò của mình bên một dòng sông. Nhà triết học duy vật Hi Lạp Héraclite nổi
tiếng với luận điểm “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Williams James,
cha đẻ của tâm lí học Hoa Kì và “dòng ý thức” (stream of consciousness) cũng
ngầm chỉ ra ý thức được tạo thành từ những “giọt” (drops) hoặc “xung” (pulse)
riêng lẻ, khiến cho người ta dễ liên tưởng đến dòng thời gian và tâm thức như
dòng nước. Dòng sông có khi như một hành trình thanh lọc tâm hồn như trong tác
phẩm Câu chuyện dòng sông (tên gốc tiếng Đức là Weg nach Innen nghĩa là
Đường về nội tâm) của Hermann Hesse, nhà văn đoạt giải Nobel văn học năm
1946. Dòng sông “ở khắp nơi cùng một lúc, ở nguồn cũng như ở cửa sông, ở thác,
ở dòng sông, ở đại dương và ở núi, khắp nơi, và với nó chỉ có hiện tại, không có
bóng dáng quá khứ cũng như vị lai. - Chính thế, Tất Đạt nói, và khi tôi học được
điều đó, tôi ôn lại cuộc đời mình và thấy nó cũng là một dòng sông” [148,58].
Như vậy, biểu tượng dòng sông cũng chính là biểu tượng nước, vật chất khởi thuỷ
của sự sống và “là hình tượng của số lượng vô cùng lớn những khả năng diễn
biến, chứa đựng toàn bộ cái tiềm tàng, cái phi hình, cái mầm mống của mọi mầm
mống, tất cả mọi hứa hẹn về sự phát triển, nhưng cũng chứa đựng mọi mối đe dọa
bị tiêu tan” [149,709]. Từ khả năng diễn biến, cái mầm mống phát triển, tiêu tan,
tất cả đều cho thấy dòng sông mang trong mình mọi khả năng của sự vận động
trong nhau, sinh thành hay hủy diệt, nó là nơi dung chứa sự vận động và vận mệnh
của những giá trị khác biệt, một khía cạnh của sự đồng hoá văn hoá.
Trong tiểu thuyết Khúc quanh của dòng sông của V.S. Naipaul, dòng sông
đã trở thành một biểu tượng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, đại diện cho nhiều khía
cạnh của cốt truyện, từ lối sống của người dân đến sức sống của một quốc gia
trước những thăng trầm lịch sử. Thị trấn bên khúc quanh của dòng sông là một thị
trấn nhỏ, bị cô lập ở châu Phi. Trong thời kì thuộc địa với sự phát triển của giao
121
thương đường thuỷ, người dân có cuộc sống tương đối ấm no. Tuy nhiên, sau
cuộc cách mạng của người dân địa phương, nền kinh tế lao dốc, cuộc sống bên
khúc quanh của dòng sông đã thay đổi hoàn toàn. Điểm độc đáo chính là dòng
sông đã trở thành nhân chứng, cũng như đại diện cho sự đồng hoá văn hoá, giống
như mô hình Đa văn hoá thứ nhất của Anders Hanberger.
Đồng hoá văn hoá thường chỉ quá trình thay đổi, thích nghi một cách tự
nhiên hoặc bị cưỡng bức của dân cư bản địa hoặc người nhập cư với nền văn hoá
thống trị. Tuy nhiên, trong chủ nghĩa Đa văn hoá, khái niệm đồng hoá có thể được
mở rộng về cả phạm vi và mức độ. Đồng hoá có thể tồn tại xuyên biên giới và
vùng lãnh thổ, chẳng hạn như “văn hoá toàn cầu” gắn kết các giá trị của nhiều
quốc gia, hay quá trình sử dụng ngôn ngữ Anh trong công nghệ, khoa học, giáo
dục trên khắp thế giới cũng mang rất nhiều dân tộc, con người xích lại gần nhau
hơn, đồng thời vẫn giữ một phần bản sắc riêng của mình. Chính vì thế, những
vòng tròn nhỏ trong mô hình của Anders Hanberger nằm lọt vào bên trong của
vòng tròn lớn, là văn hoá thống trị, nhưng vẫn tồn tại như những thực thể riêng
biệt. Trong Khúc quanh của dòng sông, biểu tượng dòng sông gắn liền với quá
trình đồng hoá văn hoá như thế.
Quá trình đồng hoá mang tính thích nghi của người dân địa phương xuất
phát từ chính dòng sông. Những người bản địa sống trong vùng cây bụi, theo
truyền thống của bộ tộc châu Phi vẫn tin vào phù thuỷ, nhưng họ cũng đồng thời
nhận ra nhu cầu phải thích nghi với cái mới: những con dao cạo, những vật dụng
của văn minh phương Tây và cả nền giáo dục mới. Vậy nên Zabeth, một phù thuỷ
quyền năng của bộ tộc đã thực hiện cuộc hành trình gian khổ và nguy hiểm từ
ngôi làng xa xôi của mình đến thị trấn bằng cách chèo thuyền, để mua hàng thay
mặt cho cộng đồng của mình mỗi tháng một lần. Zabeth là một trong những khách
hàng đầu tiên và trung thành nhất của Salim. Cũng trên con thuyền buôn đó, một
lần Zabeth mang con trai cô là Ferdinand, cũng là thành viên của bộ tộc, đến gặp
Salim và theo học ở trường học của thị trấn. Sau đó, Ferdinand tiếp tục học ở viện
bách khoa trong Miền mới gần đó, rồi chuyển đến thủ đô để học quản lí hành
chính. Quan điểm và tính cách của Ferdinand thay đổi theo mỗi giai đoạn đó, và
Salim coi những thay đổi này phản ánh sự phát triển của “người châu Phi mới”.
Như vậy, dòng sông là nhân chứng của quá trình giao thương, trao đổi văn hoá và
122
giáo dục giữa bộ tộc châu Phi và văn minh châu Âu. Tuy đó là một quá trình
không hề dễ dàng, nhưng tất yếu sẽ xảy ra như dòng chảy của lịch sử, và dòng
sông đã có từ rất lâu trước khi có chính quyền thuộc địa, và nó sẽ tồn tại rất lâu
sau khi quyền lực của chính phủ mới suy yếu, sẽ tồn tại lâu hơn chính bản thân
chúng ta. Salim đã từng thốt lên: “Dòng sông và khu rừng giống như sự hiện hữu,
và mạnh mẽ hơn bạn nhiều. Bạn cảm thấy không được bảo vệ, là một kẻ xâm
nhập” [107,8]. Điều hấp dẫn là dòng sông tự nhiên luôn tồn tại hai mặt: sự ổn
định và sự thay đổi. Vẫn ở nguyên một chỗ, nhưng luôn thay đổi, dòng sông tượng
trưng cho sự bất biến giữa sự biến đổi, cũng giống như sự thích nghi văn hoá của
các bộ tộc châu Phi.
Một hình ảnh nổi bật nữa xuất hiện trên dòng sông là những đám lục bình
trôi, tượng trưng cho một kiểu người châu Phi mới, những người nhanh chóng
giành được quyền lực sau khi độc lập về chính trị. Phải chăng vì thế mà đám lục
bình xuất hiện gần thị trấn cùng lúc đất nước vô danh giành được độc lập? Những
cây lục bình, mà người dân địa phương gọi là “điều mới mẻ”, do đó, là một phần
của “châu Phi mới.” Đáng chú ý là trong ngôn ngữ của quốc gia châu Phi mà V.S.
Naipaul nhắc tới, không có từ nào gọi tên đám lục bình này (từ tiếng Anh là water
hyacinth). Nhà nghiên cứu William Vincent đã nhận xét “…Người đời vẫn gọi nó
là “cái mới” hay “cái mới trên sông,” và đối với họ nó là một kẻ thù khác. Những
chiếc lá và dây rễ nhằng nhịt của nó đã tạo thành những đám thảm thực vật dày
bám vào các bờ sông và làm tắc nghẽn đường dẫn nước. Nó lớn nhanh, nhanh hơn
cả những gì con người có thể tiêu diệt nó bằng những công cụ họ có… Ngày đêm
đám lục bình nổi lên từ phía nam, tự nhân lên khi nó di chuyển” [150,337]. Cũng
giống như lục bình không được đưa vào hệ sinh thái sông từ bên ngoài, mà sinh
ra từ chính dòng sông, những người châu Phi kiểu mới, đại diện là Ferdinand,
cũng sinh ra từ chính mảnh đất này. Lục bình hay bèo tây sinh sôi nảy nở quá
nhanh, mất kiểm soát và hình thành thảm thực vật dày đặc làm tắc nghẽn dòng
sông. Tương tự, rất nhiều người châu Phi mới xuất hiện vào khoảng thời gian độc
lập và nhanh chóng truyền bá một hệ tư tưởng chính trị mà nhiều người dân địa
phương không tán thành. Nếu lục bình trở thành mối đe dọa đối với hệ sinh thái
sông, những kẻ nổi loạn ở châu Phi đang hoạt động chính trị này trở thành mối đe
dọa đối với thị trấn và đất nước nói chung. Như vậy, hình ảnh biểu tượng lục bình
123
trôi trên sông phần nào đã phản ánh sự phát triển nhanh chóng của những tư tưởng
độc lập chính trị của lớp người mới trong quá trình đồng hoá văn minh.
Điểm thú vị trong tác phẩm là không chỉ có một thị trấn bên khúc quanh của
dòng sông mà có đến hai thành phố bên dòng sông nữa: thành phố London nằm
bên khúc quanh của dòng sông Thames và thành phố Rome cổ đại cũng nằm bên
dòng sông Tiber nổi tiếng. Nhân vật Salim đến London để cầu hôn con gái
Nazruddin, nhân vật Indar cũng sang London du học và cuối tác phẩm cũng quay
trở lại Anh. Có thể thấy, trong dòng lịch sử, cả London cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi
những thay đổi ở thị trấn bên khúc quanh dòng sông ở châu Phi, vì những người
nhập cư mới sẽ mang đến những giá trị văn hoá mới. Và còn một thành phố châu
Âu khác ám ảnh nhiều địa điểm khác nhau trong cuốn tiểu thuyết là La Mã cổ đại,
cũng nằm ở khúc quanh của một con sông. Có một nhà văn La Mã cổ đã nói về
châu Phi: Semper Aliquid Novi, nghĩa là “luôn luôn là một cái gì đó mới.” Câu
nói này đã trở thành phương châm của trường học của Ferdinand, được khắc trên
một tấm bảng kim loại ngoài cổng trường. Có lẽ chính phương châm giáo dục này
đã góp phần tạo nên những người đàn ông mới của tương lai châu Phi, đồng thời
ngầm chỉ sự thay đổi, về những điều mới mẻ trên dòng sông. Ở châu Phi luôn
luôn có một cái gì đó mới. Ngoài ra, còn có những từ La tinh được khắc bằng đá
granite của toà nhà đổ nát gần cầu tàu: Miscerique probat populos et foedera
jungi; có nghĩa là “Ngài tán thành sự hoà trộn các dân tộc và những mối dây ràng
buộc của họ”. Ngài ở đây là Virgil, một vị thần Rome cổ đại chấp nhận cho người
La Mã được đến châu Phi sinh sống, và câu nói này được dùng để kỉ niệm 60 năm
ngày có tàu thuỷ từ thủ đô đến thị trấn. Như vậy, sự đồng hoá văn hoá, tuy không
rõ nét ở hai thành phố này, nhưng có mối tương quan nhất định với thị trấn nhỏ ở
châu Phi, nơi quá trình tiếp biến văn hoá diễn ra rõ ràng và sâu rộng hơn.
Một khía cạnh khác của đồng hoá văn hoá cũng xảy ra với cá nhân Salim.
Sinh ra và lớn lên ở vùng bờ biển, Salim đã chọn cách di chuyển vào sâu trong
lục địa Phi châu để khởi nghiệp thương nhân bên khúc quanh của dòng sông. Dần
dần, con sông đã trở nên thân thương, gần gũi như chính cái gọi là “quê hương”
đối với chàng trai trẻ. Salim nhận ra bản thân mình và những người xung quanh
“đều chỉ biết dòng sông và những con đường nham nhở cùng những gì hai bên
chúng” [107,65]. Dòng sông đã trở nên quá đỗi quen thuộc đến nỗi người ta hiếm
124
khi đi xa, mà chỉ gắn với những gì đã biết. Dù nhận ra sự gắn bó với thị trấn,
nhưng cũng chính Salim, người nhận ra sự hùng vĩ của tạo hoá nơi dòng sông và
thích thú với hương thơm của nó, đã chọn món quà của mẹ thiên nhiên - dòng
sông, để trốn khỏi thành phố xa lạ trong những trang kết thúc của cuốn tiểu thuyết.
Đó là lúc Salim phải để lại cửa hiệu, căn nhà, tất cả tài sản mà dứt áo ra đi trong
vô định vì xung đột vũ trang và sự mệt mỏi vì không tìm thấy chỗ dựa an toàn
cho bản thân. Cái ngày mà Salim trốn chạy là một ngày mù sương, rồi đến màn
đêm u ám, “con tàu tiếp tục đi trong bóng tối xuôi dòng sông…” [107,278] và
ánh đèn nhỏ nhoi của con tàu soi rõ hàng nghìn những con bướm đêm trắng toát
trong ánh sáng. Câu chuyện khép lại bằng một chuyến đi không phương hướng
và một phận người đầy chơi vơi, nhưng cũng lần nữa khẳng định vai trò của
dòng sông trong những biến động cuộc đời và tiếp biến văn hoá của cá nhân
nhân vật chính, Salim.
Nhiều nhà phê bình cho rằng thành công nổi bật nhất trong Khúc quanh của
dòng sông là việc tạo lập những hình ảnh tượng trưng như đám lục bình, đàn kiến,
mặt nạ, bóng tối… gợi ra một bầu không khí đặc sắc và khắc sâu thêm ý nghĩa tư
tưởng cho cuốn tiểu thuyết. Dòng sông không tên ấy là nơi neo đậu, nơi chuyển
di, là đại diện cho sự trường tồn của thời gian, là nhân chứng sống của dòng lịch
sử. Dòng sông đã gửi gắm những thông điệp sâu xa, chứa đựng những hàm ý nghệ
thuật khác nhau, mở ra khả năng vô tận trong việc tiếp nhận tác phẩm. Việc khai
thác hình ảnh dòng sông làm nhan đề tác phẩm và với tư cách một biểu tượng, vì
thế, đã tạo nên chiều sâu trong sự biểu đạt ngôn từ và ngữ nghĩa cho cuốn tiểu
thuyết, là một sáng tạo độc đáo của nhà văn để truyền tải những thông điệp về
lịch sử, văn hoá của một quốc gia hậu thuộc địa. Ở đó là những người dân bị trị
ngơ ngác trước những di sản mà nước thống trị đã thiết lập cả về mặt địa chính trị
lẫn văn hoá của cộng đồng. Ở đây, ta thấy mối liên quan đến khái niệm đa văn
hóa của Homi Bhabha dựa trên sự bắt chước, sự lai ghép và không gian thứ ba.
Lúc đầu, bắt chước là phương pháp của đế quốc Anh dùng để kiểm soát và thống
trị người dân thuộc địa vào thế kỉ XIX. Các nhà cai trị Anh đã buộc người thuộc
địa bắt chước văn hóa và ngôn ngữ của thực dân. Do đó, hệ tư tưởng của thuộc
địa đã được thay đổi mạnh mẽ và trở thành một sự bắt chước nghèo nàn và thấp
kém hơn so với văn hoá thực dân. Sự bắt chước đó chính là một phần của quá
125
trình đồng hoá văn hoá, theo mô hình của Anders Hanberger. Có thể thấy quá
trình đồng hoá diễn ra không hề dễ dàng, mà đã tạo nên những đụng độ, va chạm,
xung đột giá trị một cách đáng tiếc (cái chết của cha Huisman). Tuy nhiên, quá
trình đó cũng là tất yếu khách quan của lịch sử, như dòng sông chảy không ngừng,
vừa là nơi tình yêu bắt đầu nhưng cũng là chốn chia li của nhân vật chính, Salim.
4.2.2. Ngôi nhà – biểu tượng của sự pha trộn văn hoá
Theo Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, “cũng như thành đô, cũng như
đền thờ, ngôi nhà coi như ở trung tâm thế giới, là hình ảnh của vũ trụ” [95,677].
Từ những ngôi nhà truyền thống Ả Rập đến những ngôi đình ở Đông Á và
Indonesia, từ những hội quán Trung Hoa đến các đền thờ Ai Cập, tất cả đều phản
chiếu thế giới tâm hồn, tâm linh của con người. “Nếu như Đạo giáo xây dựng lí
thuyết về các cung trong cơ thể con người tương ứng với các huyệt, thì trong đaọ
Phật cũng đồng nhất hoá thân thể con người với ngôi nhà” [95,678]. Ngôi nhà
thường được coi là nơi đi để trở về, là biểu tượng cho linh hồn của một tổ ấm, một
dòng họ, chứa đựng những mối gắn kết đặc biệt với mỗi cá nhân. Trong văn
học, biểu tượng ngôi nhà đã trở thành cổ mẫu, thành motif trung tâm và nỗi ám
ảnh của nhiều kiếp người. Motif ngôi nhà gợi người đọc nhớ đến hình ảnh những
ngôi nhà gắn với từng tầng lớp xã hội trong tiểu thuyết Đại gia Gasby của nhà
văn Mĩ nổi tiếng F. Scott Fitzgerald; hay như ngôi nhà trong Một chuyện đau buồn
của James Joyce rút ra từ tập Dubliners.
Biểu tượng ngôi nhà còn gợi lên nỗi nhớ về nơi khởi thủy, về những ước mơ.
Trong cuốn sách Sự nên thơ của Không gian (La Poétique de l’Espace) xuất bản năm
1958, nhà triết học Pháp Gaston Bachelard cho rằng mỗi ngôi nhà ta sống trong cuộc
đời đều có những yếu tố tượng trưng cho ý niệm về ngôi nhà: “Vì nhà là một góc thế
giới của chúng ta (coin du monde). Như người ta vẫn thường nói, đó là vũ trụ đầu tiên
của chúng ta, một vũ trụ thực sự, một vũ trụ theo mọi nghĩa của từ này. Nhà văn viết
về những căn nhà khiêm tốn thường không đề cập đến yếu tố này của thi pháp của
không gian… tính nguyên sơ thuộc về tất cả mọi người, giàu hay nghèo, nếu họ sẵn
sàng ước mơ” [151,32]. Như vậy, không thể phủ nhận, từ xưa đến nay, ngôi nhà đã trở
thành một biểu tượng văn hoá muôn đời của nhân loại.
Trong tâm thức nhân loại, nhà sẽ là “vũ trụ đầu tiên”, gắn với cái hoang sơ,
cái căn tính ban đầu, cái nguồn cội an toàn nhất, cái đúng là mình nhất, cái thuộc
126
về mình nhất. Đến với tiểu thuyết của V.S Naipaul, dường như biểu tượng ngôi
nhà đã được mang đến một đời sống mới. Bởi vì đối với ông, bản thân khi ông
sinh ra thì quê nhà Trinidad, hay sau này khi sinh sống ở vương quốc Anh, nhà
là nơi hoà trộn các giá trị văn hoá đa dạng. Chính vì thế, trong tiểu thuyết của ông,
nhà lại chính là nơi pha trộn ngay từ đầu, nơi xa lạ ngay từ đầu, nơi không an toàn
ngay từ đầu. Xét trong hoàn cảnh xã hội thuộc địa của Trinidad người thuộc địa,
luôn cảm thấy là một người ngoài cuộc, một người lạ. Không bao giờ cảm thấy
thực sự mình đang có “nhà” ở bất cứ nơi nào, kể cả thị trấn bên khúc quanh của
dòng sông, nơi gắn bó một phần của cuộc đời với người dân thuộc địa như Salim
trong Khúc quanh của dòng sông bắt đầu hoang mang vì bị bỏ rơi, vì không còn
ngôi nhà nào, không còn chỗ trú ngụ nào trong thế giới ngày càng đáng sợ.
Trong quá trình nghiên cứu tiểu thuyết của V.S. Naipaul, chúng tôi nhận
thấy ngôi nhà trong Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas đã trở thành một biểu
tượng đa nghĩa cho sự pha trộn các giá trị văn hoá Hindu và Cơ đốc giáo. Vì thế,
việc ứng dụng mô hình thứ hai của Anders Hanberger về sự pha trộn văn hoá sẽ
góp phần không nhỏ trong việc giải thích cho biểu tượng này.
Đầu tiên là ngôi nhà lớn Hanuman của dòng họ Tulsi, nơi hoà trộn giữa
văn hoá Hindu và Cơ đốc giáo, giữa những giá trị truyền thống và cái ngoại
lai. Gọi là ngôi nhà Hanuman, hay như ông Biswas mỉa mai: “một ngôi nhà khỉ” là
do một bức tượng thần khỉ Hanuman của đạo Hindu trên mái nhà. Nhà Hanuman
được thành lập bởi một thầy tu Hindu, người có uy tín, không chỉ ở Trinidad mà
còn ở Ấn Độ. Ông không phải lao động hợp đồng nhập cư mà là một người có vị
thế, một trong những người Ấn hiếm hoi ở Trinidad còn giữ mối liên hệ với họ
hàng của mình ở Ấn Độ và thường xuyên liên lạc với họ. Vì thế, với tư cách là
người đứng đầu gia tộc Tulsi ở Trinidad, ông gìn giữ và bảo tồn văn hoá Ấn bằng
cách xây nhà Hanuman theo phong cách của những ngôi nhà lớn của Ấn Độ, một
nơi tôn nghiêm cho các thế hệ tiếp nối trong đại gia đình. Đó là một không gian
sống đậm chất văn hóa Ấn: có tôn ti, trật tự cao thấp giữa các thành viên. Cao
nhất là ông thầy Tulsi thực hiện việc tế lễ kết nối với thần linh. Sau đó là bà Tulsi
điều hành mọi việc một cách chuyên chế, từ những thói quen sinh hoạt hàng ngày,
những việc sửa sang, trang trí nhà cửa đến những việc lớn cần quyết định của cả
gia đình. Bà Tulsi sắp đặt toàn bộ hôn nhân, công việc của con cái đến các lễ sáng
127
của cả nhà. Con trai được coi trọng hơn con gái, nên hai người con trai trong gia
đình là Owad và Shekhar cũng được nuông chiều và trọng vọng như “những vị
thần” theo cảm nhận của ông Biswas. Lúc đầu, ông Biswas tưởng rằng nhà
Hanuman khá hỗn loạn, nhưng rồi ông nhanh chóng nhận ra trong thực tế nó có
phân tầng trật tự từ trên xuống rất rõ ràng, với “Chinta thấp hơn Padma, Shama
thấp hơn Chinta, Savi thấp hơn Shama, và bản thân ông thấp hơn nhiều so với Savi”
[96,188]. Thêm nữa, văn hoá Ấn thể hiện rõ qua những nghi lễ, phong tục Hindu
như chúng tôi đã trình bày ở mục 2.1.1 – không gian đậm chất truyền thống Hindu.
Ở điểm này, ngôi nhà gợi nhớ đến các mẫu gốc, theo quan điểm của nhà tâm
lí học Carl Jung. Theo Jung, các mẫu gốc là “những yếu tố cấu trúc của tâm thần
con người được ẩn giấu trong “vô thức tập thể. Các mẫu gốc là một tập hợp có
giới hạn, nội dung của chúng ẩn chứa trong các nghi lễ cổ xưa, các thần thoại, các
tượng trưng, các tín ngưỡng, các hành vi tâm lí và cả trong sáng tác nghệ thuật từ
xa xưa đến hiện tại” [152,201]. Ngôi nhà Hannuman là kết tinh của các nghi lễ,
tín ngưỡng… và như vậy có thể coi là một mẫu gốc tiêu biểu cho “vô thức tập
thể” kiểu mẫu hệ và cho cộng đồng nhập cư gốc Ấn ở Trinidad.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến sự xâm nhập từ từ của các giá trị văn
hoá phương Tây trong chính ngôi nhà Hanuman. Ông Biswas các “vị thần” (hai
người con trai đi du học của bà Tulsi) thực hiện lễ puja của người Hindu nhưng
cũng đồng thời đeo thánh giá. Tương tự, Chinta cũng đọc những câu kinh chú của
người Hindu kết hợp với một ngọn nến và một cây thánh giá, và làm món kem cho
trẻ con vào mỗi dịp Giáng sinh. Đến cuối tiểu thuyết, khi người đứng đầu ngôi nhà
mẫu hệ là bà Tulsi bị ốm, thì trong nhà Hanuman, người ta mời cả thầy cúng Hindu,
thầy cúng châu Phi và thực hiện lễ Công giáo để cầu mong tai qua nạn khỏi. Công
giáo xâm nhập vào đại gia đình Hindu sùng đạo: không ai trong nhà Hanuman phản
đối lễ mừng sinh nhật của Chúa Kitô với táo Anh, bánh ngọt và kem và rượu mạnh
anh đào của Bồ Đào Nha hay phong tục ăn cá hồi vào ngày Thứ sáu tốt lành. Những
đứa trẻ nhà Biswas, mặc dù không theo đạo Cơ đốc vẫn đi học trường Chủ nhật
trong khi ông Biswas đã từng nói về Cơ đốc giáo là “một thứ mê tín dị đoan gần
đây đã được xuất khẩu bán buôn cho những kẻ man rợ khắp thế giới”!
Ngoài sự lai tạp tôn giáo trong đại gia đình Tulsis, còn xuất hiện những mầm
mống của sự thỏa hiệp, ví dụ như trong vấn đề hôn nhân của Shekhar. Sau khi hấp
128
thụ những ý tưởng hiện đại từ quá trình học ở trường Cơ đốc, Shekhar, con trai cả
của bà Tulsi, cực lực phản đối hôn nhân sắp đặt, thậm chí còn dọa tự sát. Cuối cùng,
cả gia đình đã thỏa hiệp để Shekhar kết hôn với Dorothy, một người vợ gốc Ấn, có
học thức, có của cải và địa vị cao, theo tín ngưỡng chính điện trong nhà thờ và sử
dụng tên tiếng Anh. Như vậy, trong quá trình pha trộn văn hoá, sự đấu tranh giữa
các giá trị tư tưởng, tôn giáo có lúc dẫn đến những xung đột bùng nổ căng thẳng,
nhưng đôi khi cũng dẫn tới sự thoả hiệp. Các hệ giá trị có sự dung hợp nhất định
trong ngôi nhà lớn Hanuman, một số giá trị cũ có thể “nhường chỗ” cho những tư
tưởng mới xâm nhập từ văn minh phương Tây. Đến đây, cũng cần xem lại sự phân
biệt giữa hai khái niệm Đa văn hoá và Liên văn hoá. Mô hình pha trộn của Đa văn
hoá có sự chung sống, hoà nhập giữa các hệ giá trị văn hoá, trong khi sự trộn lẫn
giá trị trong Liên văn hoá như hình vẽ 1.2 có những biểu hiện của sự hoà tan giữa
các giá trị. Chúng tôi nhận thấy biểu tượng ngôi nhà Hanuman trong tiểu thuyết
thiên về sự hoà nhập chứ không hoà tan, tức là thiên về Đa văn hoá hơn Liên văn
hoá. Gia đình Tulsi và nhà Hanuman đại diện cho nền văn hóa Hindu lâu đời, theo
đuổi các nghi lễ, tín ngưỡng chính thống nhưng giờ đây một số giá trị văn hoá của
họ đã bắt đầu sụp đổ với những ảnh hưởng của văn hoá phương Tây.
Mở rộng hơn, biểu tượng ngôi nhà cũng đại diện cho sự pha trộn các giá
trị văn hoá trong công cuộc tìm kiếm bản sắc và tự chủ ở một cộng đồng đa
chủng tộc. Trinidad là một đảo quốc có dân số nhập cư lớn, từng là thuộc địa của
Tây Ban Nha, rồi thuộc địa của Anh và giành độc lập nhưng vẫn nằm trong Khối
Thịnh vượng chung Anh. Cuốn tiểu thuyết đề cập đến những người nhập cư Ấn
Độ thế hệ thứ hai tìm kiếm bản sắc trong xã hội đa chủng tộc ở Trinidad, cựu
thuộc địa của đế quốc Anh. Khó có thể phủ nhận, trong cộng đồng người nhập cư
thì một mối quan tâm đặc biệt là dành cho ngôi nhà - biểu tượng của tự do và
chủ quyền này. Khát vọng về một ngôi nhà, tượng trưng cho việc tìm kiếm cội
nguồn, cho sự ổn định và trật tự, là một niềm khắc khoải của bất kì người con xa
xứ nào. Đó không chỉ là một cấu trúc bằng gỗ, gạch, xi măng và bê tông, mà nó
còn là một ẩn dụ về danh tính của một cá nhân, là một đảm bảo cho sự ổn định,
giữa những cô đơn, đau khổ và tủi nhục nơi đất khách quê người. “Ý thức về danh
tính (a sense of identity) được xác định bởi không gian sinh tồn của con người;
có nghĩa là, khi ta sở hữu không gian, ta sẽ tạo ra một điểm trung tâm, một xuất
129
phát điểm để từ đó có thể đặt ra các mục tiêu cuộc đời” [153,221]. Từ nhan đề
đến các tình huống truyện trong cuốn tiểu thuyết đều xoay quanh nhân vật Biswas
và ước mơ cháy bỏng của cả cuộc đời 46 năm của ông: có một chốn nương thân
và trên hết là khẳng định cái Tôi độc lập, tự chủ, thoát khỏi cái bóng của một kẻ
ở rể. Nhu cầu khẳng định cái Tôi đó có thể coi là đại diện cho ước mơ tự lập tự
chủ rất nhiều người nhập cư. Sự xuất hiện của nhiều ngôi nhà khác nhau trong
cuộc sống của Mohun Biswas chính là đại diện cho giấc mơ của tầng lớp trung
lưu ở nông thôn Trinidad nói chung. Đó là giấc mơ về sự tự chủ, đại diện là ngôi
nhà, là một biểu tượng nguyên mẫu, bao hàm sự ổn định và vĩnh cửu, một cái gì
đó vững chắc trong cuộc sống. Theo dọc hành trình của cuốn tiểu thuyết, cũng là
thời gian cuộc đời của ông Biswas, đó là ngôi nhà ở The Chase (săn đuổi/tẩu
thoát), ngôi nhà tạm trong doanh trại, ngôi nhà búp bê và ngôi nhà ở Shorthills.
Điểm thú vị là chính những ngôi nhà đó cũng chứng kiến sự pha trộn văn hoá Á
– Âu. Ông Biswas đã phần nào trở thành đại diện của nền văn hóa phương Tây
xa lạ (đi xem một trận đấu cricket với một hộp thuốc lá và que diêm trên tay) đã
quay lại chất vấn, tấn công nền văn hóa Hindu cũ mà đại diện là nhà Tulsi.
Đầu tiên là ngôi nhà ở The Chase, hay nói chính xác hơn là cửa hàng mà ông
Biswas được mẹ vợ giao cho điều hành, là một hình ảnh tiêu biểu cho những nỗ
lực tự chủ không thành công và những giằng xé giữa các giá trị văn hoá của
người dân thuộc địa. Khi được bà Tulsi cho phép ra ở riêng và tự quản lí cửa hàng
thực phẩm ở khu công nhân mía đường, ông Biswas đã thất bại. Giống như nhiều
người dân thuộc địa, ông không có cơ hội học hỏi những kỹ năng cần thiết để
quản lí một mô hình độc lập. Những nỗ lực quản lí cửa hàng của ông biến thành
một thảm họa. Thêm nữa, ông từ chối lễ mừng nhà mới theo truyền thống Hindu,
nhưng sau rồi cũng chấp nhận cho vợ tổ chức và cảm thấy xa lạ ngay trong buổi
lễ ở sân nhà mình. Ông không nhờ đến thầy cúng đặt tên cho con, mà viết những
cái tên ông nghĩ ra vào bìa sau của một tuyển tập của Shakespeare. Ngay cả danh
tính bản thân của ông cũng bị xáo trộn và truyền thống, gốc rễ của ông bị lu mờ,
đến nỗi khi quay trở lại quê hương bản quán, ông không xác định được vị trí của
ngôi nhà của cha mẹ trước đây. Như vậy, ngôi nhà ở The Chase có thể coi là một
khởi đầu cho công cuộc tự chủ của ông Biswas, cũng là đại diện cho những khó
khăn mà người dân thuộc địa trải qua khi mới giành độc lập. Đó không chỉ là trở
130
ngại vì thiếu kỹ năng sắp xếp, quản lý, mà còn là những mâu thuẫn giằng xé trong
việc định hình lại giá trị bản thân giữa những va chạm văn hoá.
Thứ đến là những ngôi nhà tạm trong doanh trại và những ngôi nhà ông
Biswas xây dựng cũng mang ý nghĩa biểu tượng riêng. Doanh trại là biểu tượng
của sự gò bó, tù túng, giam hãm, nơi ông Biswas không thoải mái như ở nhà Tulsi.
Vì vậy, đôi khi ông phải đến Green Vale hoặc The Chase để tạm thời giải tỏa
những bức xúc. Cuối cùng, ông quyết định xây dựng ngôi nhà của riêng mình, nơi
ông có thể sống trong yên ổn, tự do và thoải mái. Ngôi nhà dành cho ông Biswas
là biểu tượng cho cá tính riêng mà ông muốn khẳng định bằng bất cứ giá nào. Quá
trình xây dựng những ngôi nhà này cho thấy sự phát triển tính cách, khẳng định
quyền sống và nhân vị tự do của nhân vật ông Biswas.
Ngôi nhà búp bê mà ông Biswas tặng cho Savi cũng mang tính tượng
trưng cho khát vọng về một ngôi nhà riêng của ông Biswas. Motif ngôi nhà
búp bê gợi nhớ đến vở kịch nổi tiếng của Henrik Ibsen, đề cao tiếng nói nữ
quyền của nhân vật chính Nora khi cô đóng sập cánh cửa bỏ đi ở cảnh cuối. Ở
tiểu thuyết của V.S. Naipaul, ngôi nhà búp bê mà ông Biswas mua cho con gái,
Savi mang một hàm ý nghệ thuật hoàn toàn khác. Đó là một ngôi nhà đồ chơi
giá 25 đô la - một khoản tiền quá lớn thì ngay lập tức những người chị em dâu
ghen tị, mắng nhiếc và cảnh cáo lũ trẻ không được đến gần nó. Rõ ràng, vì ngôi
nhà búp bê mà không khí gia đình của ông Biswas trở nên nặng nề và con gái
ông cũng bị trừng phạt thích đáng khi bị những đứa trẻ khác trong dòng họ bỏ
rơi. Cuối cùng, Shama, vợ ông Biswas, phải đập tan ngôi nhà đồ chơi này để
con gái của họ không bị ruồng bỏ, xa lánh. Từ đó, có thể thấy ước mơ của ông
Biswas không dễ gì được những người xung quanh chấp nhận. Sau chuyện đó,
ông yêu cầu ông Seth cấp cho một mảnh đất ở Green Vale để xây dựng một
ngôi nhà. Ông bắt tay ngay vào công việc xây dựng, nhưng ngôi nhà vẫn chưa
hoàn thiện vì thiếu đồ đạc. Niềm khao khát về ngôi nhà của ông Biswas cũng
mang tính biểu tượng, bởi có rất nhiều người như ông Biswas muốn xây nhà
của riêng mình, nhưng họ vẫn chưa hoàn thành. Ngôi nhà chưa hoàn thiện là
biểu tượng của một cuộc đời không trọn vẹn, sự cô lập, nỗi sợ hãi và cảm giác
vô dụng. Mặc dù đến cuối truyện, tham vọng có một ngôi nhà của riêng mình
đã được thực hiện, nhưng điều đó không mang lại cho ông niềm vui bởi những
131
áp lực kinh tế, và ông ra đi với một số tiền lớn đã vay nhưng chưa trả. Sự khẳng
định cá nhân, và danh dự, tự do đã phải trả giá đắt.
Ngôi nhà tại Shorthills là biểu tượng của sự hỗn loạn của các nước thuộc
địa mới giành độc lập. Lúc đầu, ông Biswas từ chối chuyển đến ngôi nhà mới
của gia đình bên vợ này, nhưng khi đến thăm lần đầu, ông đã phải kinh ngạc. Đó
là một công trình xây dựng hai tầng nằm trên một ngọn đồi, được bao quanh bởi
thảm thực vật tươi tốt và hai bên là sân chơi cricket và hồ bơi đều đã không còn
được sử dụng. Ông “cảm thấy vương giả” khi bước chân lên ngôi nhà gỗ sơn, và
bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của nó. Với lối kiến trúc thuộc địa kiểu vương giả và tiện
nghi của ngôi nhà, khu điền trang Shorthills là một phép ẩn dụ cho người dân
thuộc địa đã giành được chủ quyền đối với đất đai của họ và chiếm lại cơ sở hạ
tầng thuộc địa trong suốt giữa thế kỉ XX. Vì bà Tulsi không còn sức khoẻ để quản
lí như trước nên khu điền trang ngày càng rơi vào cảnh hỗn loạn. Ngôi nhà -
chuồng nuôi dế và cây ăn quả - bị dỡ bỏ nhanh chóng và trở nên vô dụng, điều
này hé lộ những rủi ro trong việc phân chia quyền lực từ các đế chế thuộc địa cho
những người dân thuộc địa đã nhiều thế kỉ.
Cuối cùng là ngôi nhà trên phố Sikkim đại diện cho quyền sở hữu, tự do,
lòng tự tôn và cuộc nổi dậy của ông chống lại gia đình Tulsi đã thành công. Hành
trình tìm kiếm một chỗ ở cho riêng mình, và ngôi nhà của ông Biswas là biểu
tượng cho cuộc đấu tranh giành độc lập của đất nước ông, nước cộng hoà Trinidad
và Tobago. Cũng giống như tất cả những cuộc đấu tranh chống thực dân khác,
những nỗ lực hướng tới một cuộc sống độc lập của ông Biswas đã gặp phải một
số trở ngại. Và ngay cả khi cuối cùng ông cũng giành được một nơi ở của riêng
mình, ngôi nhà trên phố Sikkim thì đó cũng chỉ là một cấu trúc cũ ọp ẹp, đòi hỏi
rất nhiều công sức để chăm sóc, sửa sang mới có thể sống được ở đó. Tương tự,
nền độc lập của Trinidad, hay với bất kì nước thuộc địa nào trước đây, sau khi đạt
được tự do, thì những khó khăn mới thực sự bắt đầu.
Có thể thấy, bản thân ông Biswas cũng được xây dựng với những phẩm chất
của người anh hùng: đưa ra những quyết định chắc chắn và luôn tranh đấu để đạt
được mục tiêu. Do đó, ông đã trở thành một biểu tượng nguyên mẫu cho cuộc tìm
kiếm bản sắc cá nhân và ý nghĩa của cuộc sống của người dân hậu thuộc địa.
Những ngôi nhà thể hiện những cố gắng của ông Biswas nói riêng và các quốc
132
gia sau khi giành độc lập từ đế quốc thực dân nói chung. Vì vậy, biểu tượng ngôi
nhà đã mở ra những “chân trời tiếp nhận” mới cho người đọc như nhà nghiên cứu
Elleke Boehmer đã từng nhận xét: “Đối với nhiều độc giả di cư trên khắp thế giới,
không chỉ những người ở Nam Á, đọc V.S. Naipaul là nền tảng cho quá trình tìm
ra mối dây liên hệ với cội nguồn và các con đường, đến nơi chúng ta đứng và cách
chúng ta đến đây” [114].
Tóm lại, ngôi nhà thường được coi là nơi ẩn thân an ổn nhất của mỗi con
người thì trong tiểu thuyết Một Ngôi nhà dành cho ông Biswas nó đã trở thành
một biểu tượng cho mô hình pha trộn văn hoá trên hai khía cạnh. Ở khía cạnh thứ
nhất, ngôi nhà lớn Hanuman của đại gia đình Tulsi là nơi dung hoà giữa tôn giáo
Hindu và Cơ đốc giáo, giữa những nghi lễ truyền thống và những giá trị văn hoá
du nhập từ phương Tây. Ở đây, cần khẳng định lại sự hoà nhập, chứ không hoà
tan các giá trị, tạo nên tính đa văn hoá độc đáo cho tác phẩm. Ở khía cạnh thứ hai,
những ngôi nhà mà ông Biswas theo mơ ước, theo đuổi và quản lí là hình ảnh tiêu
biểu cho sự pha trộn các giá trị văn hoá trong công cuộc tìm kiếm bản sắc và giấc
mơ tự chủ của những quốc gia hậu thuộc địa loay hoay với nền độc lập mới giành
được. Từ đó, ngôi nhà đã trở thành biểu tượng đa văn hoá độc đáo trong quá trình
giao thoa văn hoá Á – Âu của cộng đồng Ấn di cư tại một quốc gia hậu thuộc địa.
Để tạo lập một danh tiếng và di sản văn chương vốn không dễ dàng, nhưng
trong lĩnh vực văn học hậu thuộc địa có ảnh hưởng rộng khắp toàn cầu, V.S.
Naipaul đã thành công vang dội trong việc định hình lại toàn bộ nền văn chương
ấy, và trong thành công đó, không thể không nhắc đến biểu tượng ngôi nhà. Biểu
tượng ngôi nhà là vật tự nó, một cấu trúc để con người tránh mưa tránh nắng,
nhưng trên hết nó bao hàm một giấc mơ, tạo nên tính sử thi cho tiểu thuyết. Ấn
tượng đọng lại trong lòng người đọc là biểu tượng ngôi nhà, hiện thân cho cuộc
kiếm tìm của một cá nhân, nhưng đồng thời cũng là biểu tượng cho sự pha trộn
các giá trị văn hoá dân tộc, cho bản sắc đa văn hoá của một quốc đảo vùng Caribe.
4.2.3. Bức tranh và khu vườn – biểu tượng của sự chung sống văn hoá
Trong lịch sử triết học, văn hoá và văn học, có lẽ sự khác biệt và thống nhất
giữa Đông và Tây đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực luận bàn. Nhiều nhà
nghiên cứu đã dẫn khổ đầu của bài thơ nổi tiếng của Khúc ca Đông Tây (The
ballad of East and West) của đại văn hào Anh, Joseph Rudyard Kipling.
133
“Ôi, phương Đông là phương Đông, phương Tây là phương Tây, và hai
bên sẽ chẳng thể bao giờ gặp nhau.
Cho đến khi Đất Trời có mặt tại Toà phán xử tối cao của Thượng Đế;
Nhưng sẽ chẳng có Đông cũng chẳng có Tây, chẳng có Ranh giới, chẳng có
Giống nòi, cũng chẳng có Sinh sôi,
Khi hai người đàn ông mạnh mẽ đứng đối diện nhau, dù họ đến từ những
nơi tận cùng của Trái đất!”
Ở những khổ thơ tiếp theo, nhà thơ kể về cuộc đụng độ giữa “hai người đàn
ông mạnh mẽ”, một người là con trai của đại tá thực dân, một người là thủ lĩnh bản
xứ, kết lại bằng việc hoà giải. Ẩn sâu trong quan điểm của Kipling chính là sự khác
biệt và thống nhất trong đa dạng văn hoá. Cội rễ của sự khác biệt này có thể truy
nguyên từ truyền thống văn hoá và lối tư duy cảm tính hay lí tính của hai nền văn
minh Đông – Tây. Theo Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, “kể ra còn những lí do
khác của tính nhị nguyên này, mà lí do chủ yếu là mặt trời lên ở phía đông và lặn ở
phía tây” [149,311]. Tính nhị nguyên của hai nền văn hoá thể hiện rõ nét trong quan
điểm về sự sống và cái chết, vật chất và tinh thần. “Nếu phương Đông thường được
đối lập với phương Tây như là tính duy tinh thần đối lập với chủ nghĩa vật chất, đức
hiền minh với sự huyên náo, cuộc sống chiêm nghiệm với cuộc sống hoạt động, siêu
hình học với tâm lí học - hoặc với logic học – thì đó là do những khuynh hướng sâu
sắc và rất hiện thực, nhưng không hề cực đoan… biểu tượng vẫn tồn tại, mặc dù đã
thiếu đi những định vị về địa lí” [149,310]. Từ định nghĩa trên, có thể thấy Đông –
Tây là một hệ biểu tượng đặc biệt của văn hoá. Hệ biểu tượng này có thể được xem
xét từ quan điểm của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử: “Biểu tượng văn hoá luôn đa
nghĩa, nhiều sắc thái. Biểu tượng là hình ảnh sự vật cụ thể nhưng mang nội dung
quan niệm.… Biểu tượng trong văn học là những sáng tạo của nhà văn, có ý nghĩa
sâu sắc” [154]. Từ đó, có thể suy ra, biểu tượng đa văn hoá, kết tinh của của sự hội
nhập, giao thoa nhiều nền văn hoá, chắn chắn sẽ có tính đa nghĩa, tính độc đáo, đôi
khi không phải là phép cộng đơn giản của toán học, mà mà là sự cộng hưởng, bù trừ,
nhân lên phức tạp của vô số cách hiểu, cách cảm.
4.2.3.1. Bức tranh – nhịp cầu nối Đông Tây
Trong tiểu thuyết Bí ẩn khi tới, chúng tôi nhận thấy đã xuất hiện một biểu
tượng Đông – Tây rất đặc sắc, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm và đọng lại trong tâm
134
trí người đọc. Đó chính là chủ nghĩa siêu thực của phương Tây và tư duy thiền
định của người Á Đông, kết tinh qua hình ảnh được nhắc đến trực tiếp hơn một
lần là bức tranh Bí ẩn của sự đến và buổi chiều. Đây là một kiệt tác của danh hoạ
De Chirico người Hi Lạp, bậc thầy của chủ nghĩa siêu thực, đã gợi tứ cho nhà văn
sáng tác và đặt tiêu đề cho cuốn tiểu thuyết. Có thể thấy, bức tranh đóng vai trò
quan trọng trong việc định hình sáng tác của nhà văn, nhưng trên tất cả, “sự có
mặt” của nó trong tự sự tiểu thuyết đã trở thành biểu tượng của sự kết hợp chất
siêu thực của phương Tây và chất thiền Á Đông.
Hình 4.1: Bức tranh Bí ẩn của sự đến và buổi chiều của Giorgio de Chirico
(1912) sơn dầu trên vải – 70 x 86.5 cm, bộ sưu tập tư nhân.
Bàn về chất siêu thực trong bức tranh Bí ẩn của sự đến và buổi chiều, không
thể không nhắc đến một đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của De Chirico là
những hình khối, màu sắc, hoạ tiết, những tháp cao. Con người nhỏ bé xuất hiện
trong khung cảnh đó hoàn toàn không có bóng đổ (dù có thể thấy được bóng nắng
của toà tháp đằng sau), ẩn chứa sự trống rỗng, nghịch lí và tâm trạng ám ảnh, thể
hiện rõ những ảnh hưởng của tư tưởng hiện sinh vô thần của Friedrich Nietzsche.
Cùng đề tài về sự bí ẩn, De Chirico còn sáng tác bức họa Sự bí ẩn của giờ giấc
(The Enigma of the Hour), hay Điều bí ẩn u buồn của đường phố (Mystery and
Melancholy of a Street) và Bí ẩn của sự đến và buổi chiều; tất cả đều có nét chung
trong cách chọn đề tài và bầu không khí đều toát lên những ám ảnh. Một điểm
135
đáng lưu ý ở đây là nhan đề của bức tranh không phải do chính hoạ sĩ đặt, mà do
nhà thơ Pháp, Guillaume Apollinaire, cha đẻ của chủ nghĩa siêu thực đặt tên.
Không gian chính trong bức tranh một bến cảng truyền thống, với hai hình người
không rõ mặt, đang đứng cạnh bức tường. Nếu coi đó là hai người khách du, thì
người mặc áo đỏ có vẻ là một người mới, háo hức bước vào khung hình bàn cờ
như muốn bắt đầu một trò chơi mới. Hình người thứ hai trong bộ đồ đen, thấp
hơn, lưng còng vì tuổi tác hay bệnh tật, rất khó xác định vùng trắng là mặt hay
gáy, bởi thế nên không rõ người đó cũng nhập cuộc chơi hay quay trở lại con
tàu cổ. Phía trên bức tường là một phần toà tháp với một phần chóp của một
cánh buồm. Điểm kì lạ của bức tranh này có lẽ chính là bóng nắng. Nếu xét
màu mây trời và bóng của ánh mặt trời chiếu vào toà nhà, người xem có thể
đoán định thời gian là qua giờ trưa. Tuy vậy, hai con người đứng trước bức
tường lại không hề để lại bóng trên nền gạch. Điều phi lí này tạo nên một sự
cuốn hút khó hiểu, điển hình cho trường phái siêu thực, xuất phát từ chủ nghĩa
tượng trưng và phân tâm học.
Tác phẩm của de Chirico dường như “tuân thủ các điều kiện cơ bản của tự
sự: bức tranh thể hiện nhiều hơn một thời điểm, đối tượng được lặp lại từ thời
điểm này sang thời điểm khác và được lồng vào bối cảnh thực tế tối thiểu” [155,2].
Trong truyện, có hai lần nhà văn đề cập đến mối dây liên hệ giữa bức tranh và
cảm hứng sáng tác của bản thân. Lần đầu tiên nhà văn bắt gặp bức tranh trong
một lần đến thăm một ngôi nhà và tình cờ thấy bộ sưu tập các tác phẩm của De
Chirico trong “Thư viện Nghệ thuật nhỏ”. V.S. Naipaul chú ý đến nhan đề bức
tranh trước tiên bởi lẽ ông “cảm thấy rằng theo một cách gián tiếp, đầy chất thơ,
nhan đề tranh chạm đến một cái gì đó mà mình từng trải nghiệm” [110,98]. Ông
liên tưởng đến một khung cảnh cổ điển, Địa Trung Hải, La Mã cổ đại đầy mê
hoặc, tại một cầu cảng, trên nền trời là đỉnh cột buồm của một chiếc tàu cổ, còn
phía dưới, con đường vắng vẻ chỉ có hai bóng người méo mó, một người khách
du vừa đến, người kia có lẽ là một người dân gốc cảng. Cảnh vật hoang vắng và
gợi lên về bí ẩn của việc người khách du đã đến bến cảng kia.
Lúc đầu nhà văn khá hứng thú với ý tưởng sáng tác về cuộc sống ở thế giới
La Mã cổ đại, khác xa với cuốn sách về châu Phi mà ông đang viết, với những
xúc cảm về bạo lực. Nhưng rồi ông gác lại ý tưởng này, cho đến nhiều năm sau
136
khi trải qua những giấc mơ, ác mộng, những ẩn ức nội tại, dày vò mệt mỏi, cảm
giác trống rỗng, bồn chồn, lần thứ hai, ông quyết định viết một phiên bản khác
của tiểu thuyết Bí ẩn khi đến. Đó là một câu chuyện đặt trong không gian Địa
Trung Hải thời xa xưa, có người kể chuyện là một khách du hành trong thế giới
cổ của bức tranh siêu thực, hoàn toàn không giống với bất cứ sáng tác nào trước
đây của V.S. Naipaul. Nhân vật chính là một du khách cập bến cảng bí ẩn, vì công
việc kinh doanh của gia đình, hoặc vì mục đích học tập và bước vào bên trong
thành phố đông đúc, anh ta có cảm giác phiêu lưu mạo hiểm. Nhưng rồi, sự hoảng
loạn xâm chiếm khi anh ta thấy mình là nạn nhân đã định sẵn của một nghi thức
tôn giáo, để rồi phải chạy đến một cánh cửa, và đến đây, nhà văn dường như đã
nhập vào người kể chuyện và cả khung cảnh:
“He would enter there and be swallowed by the life and noise of a
crowded city (I imagined something like an Indian bazaar scene). The
mission he had come on — family business, study, religious initiation —
would give him encounters and adventures. He would enter interiors, of
houses and temples. Gradually there would come to him a feeling that he
was getting nowhere; he would lose his sense of mission; he would begin to
know only that he was lost. His feeling of adventure would give way to
panic. He would want to escape, to get back to the quayside and his ship. But
he wouldn’t know how. I imagined some religious ritual in which, led on by
kindly people, he would unwittingly take part and find himself the intended
victim. At the moment of crisis he would come upon a door, open it, and
find himself back on the quayside of arrival. He has been saved; the world
is as he remembered it. Only one thing is missing now. Above the cutout
walls and buildings there is no mast, no sail. The antique ship has gone. The
traveler has lived out his life” [110,99].
Dường như chỉ trong một khoảnh khắc của tưởng tượng, qua một đoạn văn
ngắn, nhà văn đã thả mình chìm đắm trong thế giới của bức tranh, thưởng thức
cái đẹp và chiêm nghiệm những chân lí cuộc sống, để rồi thể hiện cảm hứng xuất
thần bằng “lối viết tự động” (écriture automatique) của các nhà văn trường phái
siêu thực. Câu chữ như được “tuôn ra” từ ngòi bút mà không cần sắp xếp, chỉnh
sửa. Rất nhiều câu đơn đặt cạnh nhau, tạo nên một nhịp trần thuật nhanh, gấp với
137
điệp từ “would” cho một tình huống giả định không có thật trong hiện tại. Dù vậy,
đoạn văn này có thể coi là tiêu biểu cho phong cách sáng tác của V.S. Naipaul,
bởi câu văn tuy súc tích, ngắn gọn, nhưng lại giàu sức gợi. Chẳng hạn, hai câu
cuối: “The antique ship has gone. The traveler has lived out his life.” Có thể hiểu
là: “Con tàu cổ đã biến mất. Người khách du đã sống hết cuộc đời của mình.” Kết
lại một đoạn văn tả tranh, “cảm” tranh là hai câu đơn, gói lại bao niềm nuối tiếc
cho sự vô hạn của đời người, và cũng mở ra những cách tiếp nhận nghệ thuật cũng
như những góc nhìn khác về nhân thế. Ở đâu đó, ta như bắt gặp chính cuộc đời
của V.S. Naipaul trong bức tranh.
“Anh ta sẽ đi vào đó và bị nuốt chửng bởi cuộc sống và tiếng ồn của một
thành phố đông đúc (tôi tưởng tượng ra một thứ gì đó giống kiểu một hội chợ Ấn
Độ). Nhiệm vụ mà anh ta cần làm - công việc kinh doanh gia đình, học tập, thỉnh
kinh - sẽ cho anh những cuộc gặp gỡ và phiêu lưu. Anh ta sẽ đi vào trong những
ngôi nhà và đền thờ. Dần dần ở đó anh ta sẽ bị cảm giác rằng mình chẳng đi đến
đâu; anh ta sẽ mất ý thức về sứ mệnh của mình; anh ta sẽ bắt đầu nhận ra rằng
mình đã lạc đường. Cảm giác phiêu lưu của anh ta sẽ nhường chỗ cho nỗi hoảng
sợ. Anh ta muốn trốn thoát, quay trở lại bến cảng và con tàu của mình. Nhưng anh
ta không biết làm thế nào. Tôi tưởng tượng ra một số nghi lễ tôn giáo, trong đó,
cùng những người dân gốc ở đó, anh ta sẽ vô tình tham gia và thấy mình là nạn
nhân đã định trước. Vào thời điểm khủng hoảng, anh ta sẽ đến một cánh cửa, mở
nó ra và thấy mình trở lại trên bến cảng lúc ban đầu. Anh ta đã được cứu; thế giới
lại như cũ. Chỉ có một điều còn thiếu bây giờ. Phía trên các bức tường và tòa nhà
rạch ròi như những vết cắt không có cột buồm, không có cánh buồm. Con tàu cổ
đã biến mất. Người khách du đã sống hết cuộc đời của mình”.
Hai hình người trong tranh có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
là một người mới đến và một người gốc cảng, hoặc là Jack và người cha già
của Jack hoặc là hai nhân vật bí ẩn. Một phát hiện thú vị của nhà nghiên cứu
Hamner thì hai hình ảnh này “tương ứng với một người duy nhất – con người
nhà văn đầy tham vọng của Naipaul đứng bên cạnh hình ảnh của ông thời
trai trẻ nhút nhát” [156,48]. Đó là chàng trai trẻ V.S. Naipaul năm 18 tuổi,
với một cuốn tập và chiếc bút chì mang theo khi lên máy bay từ Trinidad
sang Anh, cố gắng quan sát quang cảnh, con người, mong tìm được cho mình
138
chất liệu sáng tác đô thị. Sau khi tốt nghiệp Oxford, theo đuổi con đường
văn chương chuyên nghiệp, ông bị cuốn vào chất liệu sáng tác đô thị và viết
nhiều, tất cả những nỗi suy tư, trăn trở về thời cuộc, về nhân thế. Bức tranh
“thể hiện chính xác không - thời gian của một ngưỡng quan trọng trong cuộc
đời của người kể chuyện” [157,48], đó là mốc tuổi ngoài 40, ông thấy mình
như lạc lối, thất vọng, căng thẳng với một cái đầu muốn nổ tung, kiệt sức
đến mức muốn từ bỏ tất cả, rời bỏ nước Anh và nghề văn. Naipaul ngầm so
sánh con tàu cổ hay là cỗ máy thời gian giúp ông quay trở lại bến cảng –
thời quá khứ, khi ông về quê Trinidad để dự đám tang em gái “… chúng tôi
không thể quay trở lại. Bây giờ không có con tàu cổ nào để đưa chúng tôi
trở lại. Chúng tôi đã đi ra khỏi cơn ác mộng; và không còn nơi nào khác để
đi” [110,352].
Như vậy, tính siêu thực toát lên từ những ám ảnh, trống rỗng, nghịch lí và
tư tưởng hiện sinh vô thần của bức tranh là một đại diện cho hành trình sáng
tác văn chương và khám phá bản thân của tác giả V.S. Naipaul. Trong công
cuộc tìm kiếm cảm hứng sáng tác và cao hơn thế là ý nghĩa cuộc đời, ông đã
bắt gặp mình trong bức tranh siêu thực của De Chirico. Để từ đấy, ông xây
dựng tác phẩm văn học theo trường phái siêu thực của phương Tây, dựa trên
tâm trạng hoài nghi thực tại, tính huyền ảo của bầu không khí mù sương nước
Anh và trong chính tâm trí rối bời của nhà văn, đặc biệt là lối viết tự động đặc
trưng của trường phái này.
Trong biểu tượng Đông – Tây, có thể nói thiền định là một trong những đặc
trưng cơ bản của tư duy nghệ thuật phương Đông, từ thơ văn cổ điển Trung Quốc,
Nhật Bản đến quan niệm đốn ngộ của Thiền tông. Trong tiếng Phạn, thiền được
phiên âm là Dhyana, với nghĩa là trầm tư, mặc tưởng, giữ tâm tĩnh lặng để đạt
đến cảnh giới Tự ngộ bao gồm hai dạng: Tiệm ngộ và Đốn ngộ. Xét theo góc độ
đó, ta có thể thấy thấp thoáng tư duy thiền định của phương Đông có lẽ từ tiêu
đề cuốn tiểu thuyết, The Enigma of Arrival. Bản thân từ Arrival (viết hoa) trong
nhan đề bức tranh và cũng là nhan đề của cuốn tiểu thuyết đã rất giàu sức gợi. Có
thể hiểu Arrival là sự đến, sự tới, theo cách hiểu trực quan, nhưng ở nghĩa trừu
tượng, từ này có thể hàm chỉ một sự giác ngộ, một trạng thái tỉnh thức để hiểu rõ,
và một sự thấm thía của một cõi đời. Theo cách hiểu này, nhan đề The Enigma of
139
Arrival, dịch là Bí ẩn khi tới cũng có phần chưa ổn, mà có lẽ phải là Bí ẩn của sự
tới hay Bí ẩn của giác ngộ. Tuy vậy, nếu xét quá trình nhà văn đi từ những u mê,
những ám ảnh đến lúc ngộ ra chân lí sống và viết, cả cuốn tiểu thuyết đã là một
hành trình tư tưởng của một đời người, thiết nghĩ Bí ẩn khi tới có lẽ cũng là phù
hợp, và bức tranh đã một lần nữa khẳng định, nhấn mạnh “sự tới” ấy, hay nói theo
Thiền tông, là sự Tự ngộ một cách hoàn hảo.
Trong hành trình Tự ngộ kì diệu đó, chất thiền cũng được thể hiện qua những
câu chuyện, những quan niệm về cuộc sống, văn hoá, những trăn trở, ưu tư về con
người một cách thành thực nhất. Các hoạ sĩ siêu thực như Salvador Dali hay De
Chirico đều chủ trương hội hoạ là để giải phóng con người khỏi mọi xiềng xích,
thể hiện nội tâm và tư duy tự nhiên, thành thật nhất. Đối với một nhà văn am
tường và đam mê hội hoạ như V.S. Naipaul, bức hoạ siêu thực của De Chirico đã
khơi gợi cảm hứng sáng tác cho cuốn tiểu thuyết đầy chiêm nghiệm và giàu triết
lí. Đó không chỉ là một cách cảm thụ hội hoạ với những cái tượng trưng, những
cái phi lí của phương Tây, mà qua đó, nhà văn đã nâng tầm tư tưởng, kết hợp với
chất thiền định trong tư duy Á đông, tạo nên một triết lí nhân sinh độc đáo: nhà
văn chỉ có thể sáng tác khi anh ta thành thật nhất với con người của mình. Những
dòng độc thoại nội tâm tự nhiên và thành thực như “đi vào chỗ cùng sâu trong cõi
lòng, vạch những cái kín nhiệm uất ức rồi đưa phả vào những âm điệu hồn nhiên.
Những âm điệu ấy đến tai người đời, người đời sẽ giật mình không ngờ người ta
lại có thể thành thực đến thế” [158,205]. Nhà văn có thể tâm sự thẳng thắn về
những sai lầm của bản thân hồi trẻ: quá tập trung tìm kiếm chất liệu đô thị trong
sáng tác mà chưa chú ý đến cái tinh tế, nhỏ xinh của đời thường. Ông cũng có thể
bày tỏ những dằn vặt, đau buồn, có thể coi là giai đoạn trầm cảm của tuổi trung
niên một cách tự nhiên như một đoạn nhật kí hơn là thể loại tiểu thuyết. Cho đến
một khoảnh khắc giác ngộ của đời văn, ông chợt nhận ra “Con người và nhà văn
là một. Đây là phát giác lớn lao nhất của nhà văn. Phải mất thời gian – và biết bao
là chữ viết! – mới nhập vào một được như vậy” [110,110]. Cuốn tiểu thuyết dẫn
dắt ta theo dọc hành trình sáng tác và sự trưởng thành trong nhận thức của một
nhà văn, cũng giống như điều bí ẩn của sự đạt đến một tầm cao nhận thức mới,
khi ông phát giác ra chân lí về cuộc đời của một con người và một tác giả chỉ thực
sự có ý nghĩa khi hai cá thể đó hoà thành một. Trong phút giây bừng ngộ này, nhà
140
văn đã dường như đã nắm bắt, thấu triệt được một chân lí của cuộc sống và sáng
tác, và chân lí đó xuất phát từ chính cái Tâm.
Tóm lại, biểu tượng Đông – Tây kết tinh ở hình tượng bức tranh trong Bí ẩn
khi tới đã truyền tải những thông điệp nhân sinh sâu sắc, đa chiều về chủ nghĩa
siêu thực và chất thiền định. Từ một bí ẩn trừu tượng siêu thực của hội hoạ, nhà
văn đã liên tưởng tới những bí ẩn của đời người, để rồi từ đó khái quát lên thành
một cuốn truyện đẫm chất thơ, chất hoạ và chất thiền. Điểm đặc sắc của biểu
tượng chính là đã phản chiếu hành trình khám phá nội tâm và chân lí cuộc sống
một cách dung hoà, giản dị qua hai yếu tố độc đáo: chủ nghĩa siêu thực đại diện
cho Tây phương và tư duy thiền định của Á Đông. Đây là một điểm gặp gỡ thú vị
mà không phải nhà văn hay tác phẩm nào cũng làm được, gợi lên những liên tưởng
đến sự khác biệt và thống nhất trong đa dạng, hay sự chung sống giữa các giá trị
Đa văn hoá theo quan điểm của Anders Hanberger. Theo quan điểm đó, các hệ
giá trị văn hoá song song tồn tại, bổ sung cho nhau trong một chỉnh thể thống nhất
trong đa dạng.
4.2.3.2. Khu vườn – bóng dáng thời gian trong quan niệm châu Á và châu Âu
Trong lịch sử văn minh nhân loại, đặc biệt là tín ngưỡng, tôn giáo, vườn
là “một biểu tượng của Thiên đường trên mặt đất, của Vũ trụ mà vườn là trung
tâm, của Thiên đường trên trời mà vườn là hình tượng” [149,1004]. Có lẽ bởi
thế mà người ta thường hay nghĩ đến Vườn địa đàng (Garden of Eden) của
Adam và Eva trong Kinh Thánh, vườn treo Babylon của Hi Lạp – một trong
bảy kì quan nổi tiếng của thế giới cổ đại. Hay khu vườn Nhật Bản nổi tiếng là
một thế giới thiên nhiên thu nhỏ một cách có trật tự, với những trà thất, thuỷ
bồn và đá sỏi rêu phong mang đậm ảnh hưởng của Thiền tông. Đến với văn
hoá Ba Tư, ta thường liên tưởng đến vườn hồng nổi tiếng hay những tấm thảm
tràn đầy hoạ tiết hoa lá của các khu vườn thần bí. “Nhiều ông hoàng sai làm
những cây bằng vàng và bằng bạc, lá và quả bằng đá quý ở Aaraqorum, Mangu
Khan… Đấy vẫn là những biểu tượng cổ xưa về bốn phần của thế giới, bốn
con sông v.v… Vườn thể hiện một ước mơ về thế giới, đưa ta ra ngoài thế gian
này” [149,1006]. Tựu chung, các khu vườn có điểm giống như biểu tượng
ngôi nhà, đều được coi là thế giới thu nhỏ, gắn với căn tính của chủ nhân, cũng
như ẩn chứa những khát vọng, mơ ước sâu kín của tâm hồn. Phải chăng vì thế
141
mà khu vườn đã trở thành một biểu tượng giàu ý nghĩa, đi vào nghệ thuật và
thi ca trên khắp thế giới?
Men theo hành trình của Bí ẩn khi tới, ta cũng bắt gặp một biểu tượng rất
đặc trưng cho văn hoá Anh: những khu vườn. Vương quốc Anh từ xa xưa đã
nổi tiếng với quốc hoa là hoa hồng Tudor, với cuộc chiến tranh Hoa hồng giữa
các gia tộc. Ngoài ra, nước Anh còn những hội hoa có lịch sử hàng trăm năm,
như hội hoa Chelsea tổ chức ngay tại London, và những khu vườn rộng lớn bên
trong các điền trang đẹp như cổ tích, thậm chí còn có một trường phái thiết kế
trong kiến trúc là phong cách thiết kế cảnh quan kiểu Anh. Vì thế, không có gì
lạ khi biểu tượng khu vườn xuất hiện khá dày đặc trong tiểu thuyết của một
nhà văn lưu vong dành gần trọn cuộc đời tại Anh. Tuy nhiên, cái mới ở đây là
V.S. Naipaul đã đem đến cho người đọc một cảm nhận rất khác lạ, độc đáo về
khu vườn Anh dưới góc nhìn của một người “ngoài cuộc”. Những khu vườn
trở thành biểu tượng đa nghĩa, mà qua đó, thấp thoáng bóng dáng thời gian
trong sự giao lưu giá trị Á và Âu.
Đó là khu vườn của Jack, xuất hiện ngay từ phần đầu truyện và cuối cuốn
sách, trong một kết cấu đầu cuối tương ứng, gợi lên một chu kì của sự sống, cái
chết và sự hồi sinh theo quan niệm Á Đông. Cũng nên nhớ rằng V.S. Naipaul
là người con gốc Ấn, tuy sinh ra và lớn lên tại Trinidad nhưng văn hoá Hindu vẫn
rất được trân trọng trong cộng đồng người di cư (thể hiện rõ qua Một Ngôi nhà
dành cho ông Biswas). Theo quan niệm của Hindu giáo, cuộc đời là một vòng
tròn, một vòng quay luân hồi vô tận không có điểm dừng, với rất nhiều lần tái
sinh. Hình ảnh của khu vườn - thảm thực vật liên tục thay đổi, mục nát, chết đi và
sau đó tự đổi mới – có thể coi là biểu trưng cho nỗ lực của con người nhằm ngăn
chặn mối đe dọa của sự hỗn độn thiếu trật tự. Jack đã nỗ lực không ngừng trong
việc canh tác đất đai, tạo nên một khu vườn ở rìa đầm lầy và một trang trại hoang
tàn. Anh tìm thấy vẻ đẹp lộng lẫy và kỉ niệm các mùa qua. “Xung quanh anh tất
cả đã lụi tàn; hoặc theo một cách sâu sắc hơn, là sự thay đổi và một lời nhắc nhở
về sự ngắn ngủi của vòng quay tạo tác và tăng trưởng. Nhưng anh linh cảm rằng
cuộc đời và con người là những bí ẩn thực sự và khẳng định chúng có gì đó giống
như tôn giáo. Việc dũng cảm và mang khuynh hướng tôn giáo nhất trong cuộc đời
của anh là cách anh lựa chọn cái chết: Cách anh khẳng định, rằng cuối cùng thì,
142
tính ưu việt không phải là cái gì xa vời ngoài cuộc sống, mà chính là cuộc sống”
[110,93]. Jack là người có tổ tiên, gốc rễ ở Wiltshire, nhưng anh không phải là
một tàn tích của một thời vang bóng, mà là một con người thực sự sống hết mình,
với khu vườn, với bạn bè và với chính cuộc sống.
Hành động của Jack: rời khỏi giường bệnh vào ngày lễ Giáng sinh để lái
xe ra quán rượu uống với bạn bè lần cuối và sau đó trở về với khuôn mặt đỏ
bừng, đã chứng minh cho niềm ao ước muốn “có được vị ngọt cuối cùng của
cuộc đời mà anh biết”. Đối với nhân vật Tôi, đó không phải là một hành động
của chủ nghĩa anh hùng mà rất vô lý, bởi con người không thể chống lại sự suy
tàn và chết chóc. Còn với Jack, anh dường như đã thoát khỏi cái vô lí này bởi
vì anh hiểu rằng “cuộc sống và con người là những bí ẩn thực sự”, và trước cái
chết không tránh khỏi, anh đã không hoảng sợ. Ở đây có điểm tương trùng với
quan niệm của phần lớn người Á là ung dung, tự tại trước cái chết, bởi kiếp
sau có thể họ như “cây thông đứng giữa trời mà reo” (Nguyễn Công Trứ). Jack
khẳng định sự sống bằng chính ngôi vườn tươi tốt của mình, trong khi nhiều
nhà vườn khác đã không thể làm được điều này. Khu vườn của Jack, có lẽ,
chính vì lí do đó đã được chọn làm phần mở đầu cho tác phẩm, với những nét
nghĩa biểu trưng tích cực nhất của nhân sinh quan. Ở điểm này, khu vườn của
Jack cùng quan niệm về thời gian của anh có điểm gặp gỡ với quan niệm của
người Á đông về sự sống và cái chết.
Mở rộng hơn có thể coi toàn vùng Salisbury nơi tác giả sống ẩn dật những
năm tháng sáng tác Bí ẩn khi tới là một khu vườn đặc biệt, là nơi chứng kiến
lịch sử, tôn giáo, cái chết và sự hồi sinh. Đó là “một nơi chôn cất rộng lớn”
với “đầy những địa điểm thiêng liêng”, trong đó có bãi đá cổ Stonehenge nổi
tiếng - rất có thể một nơi hiến tế trong lịch sử. Chính vì thế, thời gian đầu, V.S.
Naipaul tránh lại gần vòng tròn đá, cảm giác như đây là một căn phòng tử thần.
Nhưng rồi khi đến gần hơn, ngắm nhìn Stonehenge từ đỉnh vọng cảnh, ông mới
phát hiện ra cái rộng rãi và trống rỗng mà bản thân ông cảm thấy chỉ là ảo ảnh.
Chính ông mới đang chen chúc trong căn phòng tử thần này và người cổ đại đã
giữ bóng tối lại nhằm tạo ra một thiên đường nhỏ của hòa bình và trật tự cho
vùng đất ông đang sống. Như vậy, khu vườn khổng lồ này chính là chứng nhân
của lịch sử hàng nghìn năm, và V.S. Naipaul đã nhận ra sự tái sinh trong bóng
143
tối và ánh sáng và khu chôn cất này là bằng chứng cửa sự khước từ cái kết thúc
cuối cùng của con người cổ đại.
Trong tiểu thuyết, ngoài khu vườn của Jack còn xuất hiện khu vườn của
Pitton đại diện cho motif cái chết và sự lụi tàn, theo quan niệm về cuộc
đời hữu hạn của phương Tây. Pitton trông coi một khu vườn bí mật, bị khuất
đến nỗi rất nhiều người đi ngang qua nơi này mà không biết nó đang ở đó.
Với Pitton, công việc làm vườn không đem lại niềm vui hay sự an ủi, mà chỉ
là công việc vô nghĩa. “Anh trồng rau và một số loại hoa mà ngôi nhà lớn yêu
cầu - có nghĩa là chủ nhân của nó yêu cầu” [110,237]. Công việc của anh lặp
đi lặp lại, mà hầu như không ai để ý, như dọn sạch lá chết vào mùa thu hoặc
trở nên vô nghĩa, như việc dọn sạch khu vườn ẩn, chỉ để sau đó bị đóng lại
lần nữa. Khu vườn của Pitton có mối liên hệ chặt chẽ với những nỗ lực trồng
trọt trong quá khứ, và thiết kế vườn ban đầu có các lối đi, luống ươm và đài
phun nước nhỏ. Pitton cố gắng trồng rau và tạo thành một vườn cây ăn quả,
bức tường được sưởi ấm lần nữa, những cây ăn quả già cỗi đã chăm bón. Tuy
vậy, Pitton vẫn không thể ngăn chặn sự tan rã, lụi tàn đang xâm lấn cả khu
dinh thự và trang viên, giống như cách các cây thường xuân phát triển um
tùm, giết chết rất nhiều cây trong vườn, chỉ vì ông chủ nhà đã ra lệnh rằng
không bao giờ được cắt. V.S. Naipaul đặt câu hỏi: “Vậy, cảm xúc của ông ấy
ra sao, khi một cái cây bị đổ?... Liệu ông ấy có thực sự thấy sự tàn lụi
không? Hay - vì sự phát triển của cây cỏ không bao giờ ngừng lại - đơn giản
là ông ta chỉ thấy sự tươi tốt? Hay là ông ta trân trọng sự lụi tàn, tìm thấy
trong đó một ý nghĩa an ủi cho sự hờ hững của riêng mình?” [110,211]. Cánh
cửa khu vườn bí mật của ông chủ nhà đóng lại, đã đặt một dấu chấm hết cho
những nỗ lục cải tổ của Pitton và rất nhiều dấu hỏi về cuộc đời trong lòng
người đọc. Khu vườn đóng lại một cuộc đời, mà theo tâm thức phương Tây
là hữu hạn theo trục thời gian tuyến tính, không có hi vọng tái sinh.
Nếu Tagore là “người làm vườn” vĩ đại của triết lí nhân sinh thì V.S.
Naipaul, với tư cách là một nhà văn gieo trồng trong địa hạt văn chương, cũng
đang kiếm tìm một trật tự cho cuộc sống với một tác phẩm nghệ thuật đan xen
hai motif: khu vườn và cuộc hành trình nhằm khám phá bí ẩn của sự sống và
cái chết. Điểm độc đáo của biểu tượng khu vườn trong Bí ẩn khi tới, là sự
144
chung sống giữa các giá trị văn hoá, cụ thể là quan niệm về thời gian và
sự đổi thay. Một mặt, V.S. Naipaul nhận ra thảm thực vật mục nát cũng gợi
lên sự suy tàn của xã hội châu Âu, bởi theo nghĩa rộng hơn, toàn bộ khu vực
Salisbury là một khu vườn rộng lớn, trong đó có nhiều mảnh vườn nhỏ hơn,
được tư nhân hóa. Bản chất và sự bảo tồn của mỗi vườn đều phụ thuộc vào
thái độ và kĩ năng của từng người làm vườn. V.S. Naipaul sống trong một
ngôi nhà nhỏ nằm trong một khu dinh thự rộng lớn. Khu vườn trong khu dinh
thự, từng có 16 người làm vườn, giờ chỉ rút lại còn một người. Đó là một sự
tan rã, và lụi tàn của đế chế bởi vì ít bàn tay ngăn chặn sự phân hủy, thì điểm
kết thúc sẽ đến nhanh hơn. Nhiều tòa nhà xung quanh đã bị bỏ hoang và đang
trở thành đống đổ nát. Nhân vật Tôi than thở về những biến thiên liên tục mà
con người thời đại mình đang phải đối diện. Từ một cộng đồng xã hội hỗn
loạn, chưa được thành hình ở Trinidad, ông đến Anh với hi vọng tìm thấy sự
lâu bền, nhưng ông nhận ra sự nhầm lẫn của mình và sự đổi thay là bất biến.
“Mọi người đều già đi; mọi thứ đã được đổi mới hoặc bị loại bỏ” [110,32]. Ở
khía cạnh đổ vỡ, khu vườn gợi ra những điểm tương đồng với Đất hoang (The
Wasteland) của nhà thơ theo trường phái Tượng trưng, T.S. Eliot. Trường ca
Đất hoang ra đời năm 1919, bốn năm sau Thế chiến I, thể hiện những u hoài,
trống rỗng, đổ vỡ của thời hậu chiến, của một thế giới cũ. Tuy nhiên, khác
với Eliot mong muốn tìm con đường tái sinh bằng những giải thoát tôn giáo,
hướng tới Phật giáo để khôi phục khả năng sinh sản cho các vị thần thực vật,
V.S. Naipaul cho rằng chính hoạt động trong chu kì này mới khẳng định sự
sống, chứ không phải là cái xảy ra vào cuối vòng tròn đó. Như vậy, ở một
khía cạnh khác, V.S. Naipaul vẫn giữ quan điểm Á Đông về chu kì sự sống.
Ông nhận ra những nỗ lực can trường để duy trì sự sống xung quanh mình:
một bầy thỏ kiếm ăn trong tuyết, một gia đình ba con hươu “xuất hiện trong
thung lũng, đến từ nơi không ai biết là đâu, và sống sót trong thung lũng đã
canh tác, đã gần hết cỏ, chấp nhận nguy hiểm trên những vùng đất lớn có súng
đạn quân sự, băng qua đường cao tốc nhiều xe cộ, không ai biết làm thế nào
chúng sống sót được” [110,46]. Ông nhận ra một điều là đối với con người ở
đây, cuộc sống vẫn tiếp diễn: không có cái bi hoài về sự tàn lụi trong con mắt
của người quản lí trang trại, hay người phụ nữ trung niên đi ngắm những con
145
hươu nai “trong mắt người phụ nữ đó không hề có sự lụi tàn. Những con dốc,
những chuyến đi dạo, hươu nai: những kì quan của thế giới tự nhiên có sẵn
như trước nay luôn luôn thế” [110,82]. Những nỗ lực sinh tồn xung quanh đã
nhen nhóm nên những tia hi vọng và tinh thần lạc quan về cuộc sống. Như
thế, khu vườn đã thể hiện cả hai khía cạnh, đồng thời cũng đại diện cho hai
hệ giá trị văn hoá trong bản thân V.S. Naipaul: nỗi đau buồn, hoài nghi về sự
lụi tàn không tránh khỏi, về thời gian một đi không trở lại theo quan niệm
phương Tây và niềm tin, niềm hi vọng về sự sống hồi sinh theo tư tưởng Á
Đông. Sự dung hợp các giá trị này cũng trùng hợp với nhận định của nhà
nghiên cứu Hồ Sĩ Vịnh: “xu thế toàn cầu hoá trong thế kỉ XXI đưa lại sự phát
triển tăng tốc về kinh tế, tăng cường về ý thức một thế giới hoàn chỉnh và tư
duy con người càng được mở rộng về không gian, văn hoá toàn cầu càng có
những dấu hiệu dung hoà hơn” [159,346].
Như vậy, nếu khu vườn của Jack gợi lên chu kì về sự sống thì khu vườn
của Pitton, của ông chủ nhà trong khu dinh thự nhắc ta nhớ đến cái hữu hạn
của đời người. Đồng thời, V.S. Naipaul cũng thể hiện cùng lúc hai quan niệm
về thời gian qua hình ảnh thảm thực vật của vùng Salisbury. Quan niệm đó
mang bóng dáng của tư tưởng Á Đông và phương Tây cùng song song tồn tại,
như mô hình về sự chung sống văn hoá theo Anders Hanberger. Nhờ những
giá trị đa chiều đó, mà biểu tượng khu vườn trong Bí ẩn khi tới có những nét
độc đáo, đóng góp những ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm, từ kết cấu đầu cuối
tương ứng, đến các lớp nghĩa về motif cái chết, sự sống của con người, hay
sự lụi tàn của một hệ thống xã hội.
Cả bức tranh Bí ẩn của sự đến và buổi chiều và khu vườn kiểu Anh đều có
thể coi là đại diện cho mô hình đa văn hoá: sự chung sống, bởi lẽ từ cả hai biểu
tượng đều hàm chứa sự hoà hợp, đan xen các quan niệm, các chiều tư duy. Đó là
sự tồn tại hoà bình giữa tư duy siêu hình của Tây phương bên cạnh chất thiền đậm
nét Á Đông, là quan niệm dòng thời gian tuyến tính của người châu Âu và niềm
tin về vòng lặp tuần hoàn của sự sống theo tư tưởng của người Á châu. Như vậy,
sự chung sống của các giá trị theo mô hình đa văn hoá thứ ba của Anders
Hanberger đã góp một cách nhìn mới, một cách hiểu mới về biểu tượng trong tiểu
thuyết Bí ẩn khi tới.
146
Tiểu kết
Biểu tượng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo nghĩa của văn bản,
gắn liền với các giá trị văn hoá và tạo nên cái độc đáo trong sáng tác văn chương.
Hầu hết các tiểu thuyết của V.S. Naipaul đều sử dụng biểu tượng như một thủ
pháp nghệ thuật đặc sắc, gắn liền với góc nhìn đa chiều, độc đáo của một nhà
văn li hương. Mỗi biểu tượng là một sáng tạo duy nhất, không trùng lặp, là minh
chứng cho quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, vượt qua những giới hạn
biểu đạt của từ ngữ, gợi mở những chân trời tiếp nhận mới. Vì thế việc giải mã
tác phẩm thông qua hệ thống biểu tượng là một hướng gợi mở khả thi và không
kém phần thú vị, đặc biệt là qua ba mô hình Đa văn hoá của Anders Hanberger.
Trong Bí ẩn khi tới, bức tranh và khu vườn chính là biểu tượng của sự chung sống
văn hoá: chất siêu thực của phương Tây và chất thiền Á Đông, dòng thời gian
tuyến tính song hành cùng vòng thời gian tuần hoàn. Đến với Một Ngôi nhà dành
cho ông Biswas, ngôi nhà đã trở thành biểu tượng của sự pha trộn, thoả hiệp văn
hoá giữa đạo Hindu và Cơ đốc giáo, giữa những giá trị truyền thống nội tại và
những nét văn hoá bên ngoài trong công cuộc tìm kiếm bản sắc và tự chủ ở một
cộng đồng đa chủng tộc. Dòng sông trong Khúc quanh của dòng sông là chứng
nhân tiêu biểu và là đại diện cho quá trình đồng hoá văn hoá của thị trấn châu Phi
nhỏ bé và của cá nhân Salim.
Không đảo lộn, “cuồng nộ” như William Faulkner; không kiến tạo những
mê cung phi lí như Franz Kafka, không kết hợp hiện thực và mộng tưởng để “đi
tìm thời gian đã mất” như Marcel Proust… V.S. Naipaul đã tạo dựng cho mình
một thế giới riêng ̶ thế giới của những ám ảnh hậu thuộc địa với chiều sâu tư
tưởng, thái độ, phong cách, tài năng ngôn từ, và đặc biệt là hệ thống biểu tượng
phong phú, độc đáo, thể hiện sâu sắc những giá trị Đa văn hoá.
147
KẾT LUẬN
V.S. Naipaul là một nhà văn lớn trên văn đàn quốc tế, tên tuổi và sự
nghiệp của ông đã được ghi nhận vì những cống hiến bền bỉ cho nhân loại.
Tên tuổi của ông gắn liền với văn học Caribe, văn học Anh, chủ nghĩa thuộc
địa và hậu thuộc địa, dòng văn học tha hương, xa xứ, vấn đề nhập cư và di
chuyển, xê dịch. Chính sự am tường, đam mê tìm hiểu các nền văn hoá và sự
mẫn tiệp của một nghệ sĩ đã khiến cho những áng văn của V.S.Naipaul đẹp
tựa những bức tranh đa dạng cả về nội dung và hình thức, vẫy gọi người đọc
bước vào chuyến du hành bất tận, tạo nên sức quyến rũ độc đáo. Bởi vậy, việc
soi chiếu các tác phẩm của V.S. Naipaul dưới lí thuyết Đa văn hoá là một
hướng đi gợi mở, là chiếc chìa khoá giải các mã văn hoá trong sáng tác của
một nhà tư tưởng lớn. Trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu tiểu thuyết
của ông dưới góc nhìn của lí thuyết Đa văn hoá, dựa trên lí thuyết căn tính và
nơi chốn của Doreen Massey, thuyết bản thể bất định của Stuart Hall và ba
mô hình Đa văn hoá của Anders Hanberger.
Do khuôn khổ có hạn của một luận án, chúng tôi tập trung tìm hiểu ba
tiểu thuyết Một Ngôi nhà của ông Biswas, Khúc quanh của dòng sông và Bí
ẩn khi tới của V.S. Naipaul. Biểu hiện đa văn hoá trước hết được thể hiện
ngay trong con người và cuộc sống của nhà văn uyên thâm V.S. Naipaul. Cảm
quan đa văn hoá cũng xuất hiện đậm nét trên các trang viết của cuốn truyện,
có tác dụng tạo nên mạch keo kết nối cốt truyện. Theo chân V.S. Naipaul,
người đọc dường như bắt gặp một thế giới Đa văn hoá thu nhỏ của làng quê
nước Anh, của quần đảo Trinidad đẹp như tranh vẽ, của thị trấn bên khúc
quanh của dòng sông ở châu Phi được khắc hoạ chi tiết và chân thực, trên các
bình diện nghệ thuật của tác phẩm như: không gian, thời gian, thế giới nhân
vật và biểu tượng đa văn hoá.
➊ Đa văn hoá là một lí thuyết có tính phổ quát trong nhiều ngành khoa
học, nhưng có những ứng dụng rất hữu dụng trong việc nghiên cứu văn
chương, đặc biệt là các nhà văn li hương như V.S. Naipaul. Chúng tôi hiểu
Đa văn hoá là sự chung sống bình đẳng và tôn trọng các giá trị và bản sắc văn
148
hoá trên khắp thế giới đồng thời cũng bao hàm sự vận động, đấu tranh liên
tục của những giá trị văn hoá trung tâm - bên lề. Nếu như Liên văn hoá nhấn
mạnh tới sự tương liên, Giao thoa văn hoá tập trung vào sự pha trộn, tiếp biến
các hệ giá trị văn hoá, thì Đa văn hoá hướng tới quá trình “giải trung tâm”.
Đó là quá trình đối thoại, xung đột, đấu tranh giữa các tiếng nói chủ lưu/ bên
lề để xác định một bản thể văn hoá - một quá trình không hoàn kết và không
kém phần đau đớn. Khung lí thuyết Đa văn hoá được lựa chọn trong luận án
là lí thuyết hậu thuộc địa với cuốn Đông phương luận của Edward Said, thuyết
căn tính và nơi chốn của Doreen Massey, thuyết bản thể bất định của Stuart
Hall và ba mô hình Đa văn hoá của Anders Hanberger.
➋ Không gian, thời gian trong tiểu thuyết của V.S. Naipaul được tác giả
dụng công xây dựng với những nét đặc trưng, mới lạ mà nếu soi chiếu dưới
lí thuyết Căn tính và nơi chốn của Doreen Massey, ta sẽ thấy những phạm trù
không gian, thời gian đa văn hoá rất đặc biệt. Đó là không gian đậm chất
truyền thống vùng Caribe, với sự giao thoa của nhiều tôn giáo kết hợp với
thời gian như một hành trình kiếm tìm bản sắc không mệt mỏi. Đó cũng có
thể là không gian lữ thứ ở Anh quốc với thời gian ngưng đọng nhằm tăng sức
gợi cho những suy tư thiền định. Hoặc đó có thể là không gian văn hoá lịch
sử đầy biến động của một quốc gia châu Phi trong dòng chảy thời gian của
những va chạm văn hoá. Không gian được tái hiện từ chiều sâu tâm thức và
cảm quan của một nhà văn đa hoá, toát lên một sự tổng hoà của nhiều bản sắc
văn hoá theo chiều dài lịch sử và dường như không có rào chắn ngăn giữa
cái “bên trong” và “bên ngoài”. Phạm trù thời gian cũng được khai thác trong
mối tương quan với không gian, với hành trình đi tìm bản ngã, với những va
chạm văn hoá và với những trăn trở thời cuộc. Từ đó, bối cảnh của ba cuốn
tiểu thuyết mang những đặc trưng Đa văn hoá rõ nét, từ giao thoa, dung hợp
đến những va chạm văn hoá, tạo nên một bầu không khí nghệ thuật độc đáo
khác lạ trên văn đàn thế giới thế kỉ XX.
➌ Thế giới nhân vật của V.S. Naipaul rất đa dạng, từ kiểu nhân vật dấn
thân, đến nhân vật hoà nhập và nhân vật bên lề. Hầu hết các nhân vật đó đều
có nguồn gốc xuất thân và hoàn cảnh sống đặc biệt, là kết quả của những
149
chuyến di cư, hoặc những chuyến xê dịch trong một thế giới phẳng. Ẩn sâu
trong mỗi nhân vật là một thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, đa chiều kích
trong bối cảnh đa văn hoá, đặc biệt là dưới lí thuyết về bản thể bất định của
Stuart Hall. Họ có thể là những con người hoà mình vào bản sắc văn hoá
chung của cộng đồng, cũng có thể là kiểu nhân vật tìm cách “định vị” bản
sắc cái Tôi và ý nghĩa của sự tồn tại, hoặc là những nhân vật dung hoà, tôn
trọng sự khác biệt. Dòng ý thức, những trăn trở và chiêm nghiệm của nhân
vật mang tính độc đáo thể hiện những quan điểm sống từ góc nhìn đặc biệt
của con người từ nhiều bối cảnh sống khác nhau. Có thể thấy, bản sắc đa văn
hoá của mỗi nhân vật không chỉ kiến tạo một thế giới nghệ thuật sống động
và chân thực mà còn góp những tiếng nói riêng của những nhân vật thuộc nền
văn hoá “bên lề” và của cả chính tác giả V.S.Naipaul.
➍ Biểu tượng Đa văn hoá của V.S. Naipaul cũng được tác giả dụng công
xây dựng qua nhiều tác phẩm và hàm chứa nhiều lớp ý nghĩa sâu sắc và đa
chiều. Đó có thể là bức tranh, ngôi nhà, dòng sông hay khu vườn gắn với nhan
đề tiểu thuyết, cấu trúc các chương mục, và đặc biệt là số phận của các nhân
vật, để từ đó gợi lên những chiêm nghiệm, những triết lí sâu sắc về cõi nhân
sinh. Các biểu tượng không chỉ là kết tinh của những giá trị thẩm Mĩ nghệ
thuật trừu tượng mà khi soi chiếu trên ba mô hình Đa văn hoá của Anders
Hanberger còn ẩn chứa những giá trị văn hoá sâu sắc. Thế giới biểu tượng
của V.S.Naipaul đã góp phần thể hiện những cuộc đấu tranh giữa các hệ giá
trị văn hoá, có lúc là sự chung sống, có lúc là dung hợp hoặc thậm chí là đồng
hoá văn hoá theo cách hiểu của Đa văn hoá. Nhờ vậy mà các biểu tượng hướng
tới những vấn đề mang tầm nhân loại như giải bá quyền văn hoá, vươn đến
những giá trị nhân văn cao cả.
Như vậy, tính Đa văn hoá đã góp phần tạo dựng nên tên tuổi của V.S.
Naipaul, một tâm thái văn chương độc đáo của thế kỉ XX. Trên phông nền
không gian và thời gian Đa văn hoá, thế giới nhân vật và thế giới biểu tượng
của nhà văn cũng hàm ẩn những nỗi niềm suy tư của một tài năng văn chương
đã “nhập lại làm một” với con người Đa văn hoá. Các tác phẩm của ông ẩn
chứa những diễn ngôn giải đại tự sự, hướng đến những giá trị văn hoá ngoại
150
vi, những tiếng nói bên lề, nhưng tràn đầy khát vọng và sức sống. Vì vậy, lí
thuyết Đa văn hoá mang tính gợi mở những chiều sâu đó trong cấu trúc của
tác phẩm. Thêm nữa, V.S. Naipaul cũng nằm trong số các nhà văn hậu thuộc
địa nổi tiếng như Joseph Conrad, nên chắc chắn văn chương của ông cũng có
nhiều điểm tương đồng, tiếp thu từ Conrad. Đây có thể là những hướng mở
để tiếp tục nghiên cứu mới về V.S. Naipaul nhằm đem lại một cái nhìn bao
quát hơn về phong cách sáng tác và cảm quan đa văn hoá của nhà văn này.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ
• Đinh Thị Lê (2017), “Đạo Hinđu trong tiểu thuyết Một Ngôi nhà dành
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
cho ông Biswas của V.S. Naipaul”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại
• Đinh Thị Lê (2020), “Literature and Global Culture issues – A case
học Thủ đô Hà Nội (số 19/2017), 22-28.
study of teaching Phan Thi Vang Anh’s short stories from global
issues”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (số
• Đinh Thị Lê (2021), “Đa văn hoá và những đổi mới trong việc giảng
19/2020), 46-52.
dạy theo hệ thống tú tài quốc tế IB”, Tạp chí Giáo chức Việt Nam,
• Lộc Phương Thuỷ, Đinh Thị Lê (2021), “Dấu ấn hội hoạ trong tiểu
Hội cựu giáo chức Việt Nam (số 2/2021), 96-100.
thuyết Bí ẩn khi tới của V.S. Naipaul”, Tạp chí Lí luận Phê bình Văn
học – Nghệ thuật, Hội đồng lí luận, phê bình văn học, nghệ thuật
• Đinh Thị Lê (2021), “Không gian tiểu thuyết V.S. Naipaul nhìn từ lí
trung ương (số 2/2021), 96-100.
thuyết Đa văn hoá”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội (số 2/2021), 26-33.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Lai Thuý (2013), “Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hoá”, Phê bình văn
học, Tạp chí VHNT số 305, tháng 11-2009 /, truy cập ngày 17/7/2016,
2. Lê Huy Bắc (2011), Văn học Âu – Mĩ thế kỉ XX, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội, 328. Nobel 3. The Literature 2001, Prize in
NobelPrize.org,
xem 30/5/2019.
4. Roland Bryden (1973), Interview with V.S. Naipaul. The Literature. Vol. 89.
March 22, 1973. 367-70.
5. Harish Trivedi (2014), Love, Marriage, and Realism. Locating Postcolonial
Narrative Genres. London: Routledge, 15.
6. Barack Obama (2017) trả lời phỏng vấn của thời báo New York,
7. Trần Đình Sử (2017), Giá trị văn hoá của văn học Việt Nam,
8. Edward Burnett Tylor (1958), Primitive Culture. New York: Harper & Row, 1. 9. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb thành phố
Hồ Chí Minh, 27.
10. Itamar Even-Zohar (2014), Lí thuyết đa hệ thống trong nghiên cứu văn hoá, văn chương, (Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch), Nxb Thế giới. 11. Edwin Gentzler (1993), Contemporary Translation Theories. Routledge.
New York, 85.
12. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
13. John Donne (1624), Devotions upon Emergent Occasions, no. 17, pp. 108–
9 (1959). Originally published in 1624, 108 – 109.
14. Vladimiras Gražulis, & Liudmila Mockiene (2017), “Multiculturalism through the prism of history: experiences and perspectives and lessons to
learn.” Human Resources Management & Ergonomics. XI, 33-49.
153
15. Nicholas Journet (2011), “Đa văn hoá như là một lí thuyết xã hội hiện đại”,
Tạp chí VHNT , số 329, tháng 11-2011, Nhật Anh lược dịch.
16. Oxford Dictionary,
17. Nguyễn Văn Dân (2006), “Toàn cầu hoá văn hoá và đa dạng văn hoá.” Tạp
chí Sông Hương, số 214/12.
18. Peter Bevelander & Raymond Taras (2013), “The Twilight of
Multiculturalism?: Findings from across Europe”. In Taras R.
(Ed.), Challenging Multiculturalism: European Models of Diversity (pp. 3-
24). Edinburgh: Edinburgh University Press, 3-24.
19. Judith Squires (2002), “Culture, equality and diversity.” In P.Lely (ed.),
Multiculturalism Reconsidered: Culture and Equality and its Critics.
Cambridge: Polity Press, 114.
20. Oxford University, A Dictionary of the Social Sciences, Oxford University
Press, 2002, 323.
21. Blaine Fowers & Frank Richardson (1996), “Why is multiculturalism
good?”, American Psychologist, 51, 609-621.
22. Cambridge Dictionary,
xem 30/5/2019.
23. International Federation of Library Associations and Institutions (2005),
Defining Multiculturalism, multiculturalism>, xem 30/5/2019. 24. Tariq Modood (2007), Multiculturalism: A Civic Idea. Oxford: Polity. 25. Britanicca, Multiculturalism, 26. Kwame Anthony Appiah (1997), “The multicultural misunderstanding”. The New York Review of Books, 44(15), 1997, October 9, 30-35. 27. Geneva Gay (1983), Multicultural education: Historical developments and future prospects, Phi Delta Kappan, 64, 560-563. 28. David Theo Goldberg (1994), “Introduction: Multicultural conditions”. In D.T. Goldberg (Ed.), A Critical Reader. Cambridge, Massachusetts: Blackwell Publishers. 1-24. 154 29. Sonia Nieto (1999), “Critical multicultural education and student’s perspectives”.
In S. May (Ed.) Critical multiculturalism: rethinking multicultural and antiracist education. Philadelphia, PA: Falmer Press. 191-215. 30. Christine Sleeter & Carmen Montecinos (1999), “Forging partnerships for
multicultural teacher education”. In S. May(Ed.), Critical multiculturalism:
Rethinking multicultural and antiracist education. Philadelphia, PA: Falmer
Press, 113-137. 31. James Banks (1991), Teaching strategies for ethnic studies. Boston, MA: Allyn & Bacon. 32. Karen Donaldson (2001), Shattering the denial. Westport, CT: Bergin & Garvey.
33. Will Kymlica (1995), Multicultural Citizenship: A Liberal Theory of Minority rights. Oxford: Oxford University Press, 76. 34. Trần Đình Sử (2013), Bản chất đa dạng văn hoá, nhin-van-hoa/ban-chat-da-dang-cua-van-hoa>, xem 30/4/2020. 35. Bhikhu Parekh (2005), Rethinking multiculturalism: cultural diversity and political theory, 2nd ed. Basingstoke: Palgrave Macmillan. 336. 36. Lê Huy Bắc (2013), Văn chương như kí hiệu đa văn hóa, Văn nghệ quân đội, ngày 20/7/2016. 37. Homi Bhabha (1986), “The Other Question: Difference, Discrimination and
the Discourse of Colonialism.” Literature, Politics and Theory, eds. Francis Barker, et al. London: Methuen and Co. Ltd., 1986. Print, 347. 38. Paula Schriefer (2016), What’s the difference between multicultural,
intercultural, and cross-cultural communication? Spring Institute, Denver,
Col., available at: https://springinstitute.org/whatsdifference-multicultural- intercultural-cross-culturalcommunication/, last access: 1 May 2019.
39. Lawrence Blum (1992), Antiracism, Multiculturalism, and Interracial
Community: Three Educational Values for a Multicultural Society, Office of 41. Robert Gooding-Williams and Graduate Studies and Research, University of Massachusetts, Boston. p14.
40. UNESCO (2001), UNESCO Universal Declaration on Cultural Diversity,
available at: http://portal.unesco.org/en/ev. , last access: 20 Jul 2019.
“Race, Multiculturalism
(1998),
Democracy,” Constellations, 5(1). Blackwell Publishers Ltd. : 18–41. 155 42. Mingshui Cai (2002), Multicultural Literature for Children and Young Adults: Reflections on Critical Issues, Greenwood. Westport, Conn.: Greenwood Press. Chicago. October 2002. 43. Thái Phan Vàng Anh (2017), “Toàn cầu hoá và xu hướng đa văn hoá, liên văn hoá nhìn từ văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3 – 2017. 44. Patrick French (2008), The World Is What It Is: The Authorized Biography of V. S. Naipaul, London, Picador, 23-25. 45. Maria José Botelho & Masha Kabakow Rudman (2009), Critical multicultural analysis of children’s literature: mirrors, windows and doors. New York: Routledge. 46. Joan Williams & Claudia Christensen Haag (2011), “My story, Your Story, Our Story: Cultural Connections and Issues in Children’s Literature”, The Journal of Children’s Literature, 38 (1), 52-57. 47. Stan F. Steiner, Claudia Paralta Nash & Maggie Chase (2008), “Multicultural Literature That Brings People Together”, Reading Teacher, 62(1).88-92. 48. Lê Huy Bắc (2005), Kí hiệu và liên kí hiệu, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 49. Denise E. Agosto (2007), “Building a multicultural school library: issues and challenges”. Teacher Librarian, Feb 2007, 34(3), 27-31. 50. Ashok Chaskar (2010), Multiculturalism in Indian Fiction in English, Atlantic Publishers & Distributors (P) Ltd. 51. Trần Đình Sử (2012), Một nền Lí luận văn học hiện đại (nhìn qua thực tiễn Trung Quốc), Nxb Đại học Sư phạm. 52. Trần Ngọc Vương (2013), Một nhu cầu nghiên cứu văn chương: Đối thoại văn hóa, chuong-doi-thoai-van-hoa-6640>, xem 17/7/2020. 53. Susan Auerbach (1994), Encyclopedia of Multiculturalism - Vol. 4, Marshall Cavendish Corporation. 54. Susan Auerbach, (1998) Encyclopedia of Multiculturalism, Supplement - Vol. 8, Marshall Cavendish Corporation. 156 55. Cyrus R. K. Patell (2014), Emergent U.S. Literatures: From Multiculturalism to Cosmopolitanism in the Late-Twentieth-Century, New York University Press. 56. Edward Said (1995), Orientalism. New Delhi: Penguin Books, 1995. Print, xxv. 57. Jasbir Jain (2004), Dislocations and Multiculturalisms, Rawat Publications: p. xii. 58. Doreen Massey (1994), Space, Place and Gender. Bird et al. 59- 69. Cambridge, MA: Polity, Print. 59. Jean-François Lyotard (1982), Réponse à la question: Qu’est-ce que le postmoderne?, Le Postmoderne explique aux ènants, Correspondance 1982- 1985, Paris, Editions Galilée. pp.3. 60. Doreen Massey (2013), Doreen Massey on Space. Social Science Bites, space/>, xem 17/7/2010. 61. Marcus Doel (1999), Poststructuralist Geographies: The Diabolical Art of Spatial Science. Edinburgh: Edinburgh University Press. 62. Stuart Hall (2000), Special report: What is Britain? A question of Identity (II), Sat 14 Oct 2000 20.11 EDT, 63. Stuart Hall (1996), Cultural Identity and Diaspora, from Identity: Community, culture, difference, edited by Johnathan Rutherford, Lawrence & Wishart, London, 222-237. 64. Huỳnh Như Phương, Văn học và văn hoá truyền thống, Tại chí Nhà văn, số 10, 2009. 20. 65. Anders Hanberger (2010), Multicultural awareness in evaluation: dilemmas and challenges, Evaluation, The International Journal of Theory, Research and Practice 16(2), April 2010. Sage Publisher, 177-191. 66. Hà Linh (2006), V.S. Naipaul “Maupassant là nhà văn vĩ đại”. trích dịch từ Literature Review, Vnexpress. maupassant-la-nha-van-vi-dai-2141892.html. >, xem 20/7/2019. 67. Nguyễn Huy Hoàng (2018), V.S. Naipaul về làm nhà văn, Văn nghệ Quân đội số 903 (cuối tháng 10/2018). 157 68. The Columbia Encyclopedia, 6th ed. (2018), Naipaul, V.S. The Columbia University Press on Infoplease 17/7/2019. 69. Bruce King (2003), V.S. Naipaul. New York: Palgrave Macmillan. 70. Paul Theroux (1972), V.S. Naipaul: an introduction to his work, Africana Pub. Corp. 71. Bruce King (1993), V.S. Naipaul, The Macmillan Press.Ltd. 72. Elisabetta Tarantino (1998), “The House that Jack Did not Build: Textual Strategies in V.S. Naipaul’s “The Enigma of Arrival”. ARIEL: A Review of International English Literature, 29 (4). 169-184. 73. John Thieme (1987), The Web of Tradition: Uses of Allusion in V.S. Naipaul’s Fiction. Hertfordshire: Dangaroo.155. 74. N. Rama Devi (1996). The Novels of V.S. Naipaul: Quest for Order and Identity. New Delhi: Prestige Books.30. 75. Dagmar Barnouw (2003), V.S. Naipaul’s Strangers. Bloomington: Indiana UP.pp1. 76. D.N. Ganjewar (2008), Philosophic Vision in the Novels of V.S. Naipaul. India: Adhyayan.pp.26. 77. Michael Gorra (1997), After Empire: Scott, V.S. Naipaul, Rushdie. University of Chicago Press. 78. Erin James (2015), The Storyworld Accord: Econarratology and Postcolonial Narratives, University of Nebraska Press. 79. Monika Fludernik (2003), Diaspora and Multiculturalism: Common Traditions and New Developments, Brill, Rodopi. 80. Kumar Mahabir (2008), “V.S. Naipaul: Childhood and Memory”. Journal of Caribbean Literatures, 5, pp.1-18. 81. Imraan Coovadia (2009), Authority and Authorship in V.S. Naipaul. Publisher: Palgrave Macmillan.pp4. 82. Vidiadhar Surajprasad Naipaul (1988), Letter to editor Knopf, voice.html. >, xem 17/7/2016. 83. Judith Levy (2015), V.S. Naipaul: Displacement and Autobiography. Routledge. 158 84. Yurong Wang & Lin. L (2014), “The Exploration of a Sense of Belonging: An Explanation of V.S. Naipaul’s Novel Half a Life & Magic Seeds”, International Journal of Literature and Arts. Vol. 2, No. 5. 187-191. 85. Ghanshyam Pal (2016), “Nostalgia through diasporic perception in V.S. Naipaul’s A house for Mr. Biswas”. International Journal of Advanced Research, June 2016, International Journal Of Advanced Research, DOI: 10.21474/ijar01/872. 86. Champa Rao Mohan (2004), Postcolonial Situation in the Novels of V.S. Naipaul, Atlantic Publishers & Distributors Pvt Ltd. 87. Lesie R. James (2011). “V.S. Naipaul, Religion, and “The Masque of Africa”: Intersections of Religion and Literature in the Postcolony”. Journal for the Study of Religion, 24 (1), 77-98. Retrieved from http://www.jstor.org. 88. Arti Babuguna (2014), Cultural conflicts in the works of V.S. Naipaul, 89. Sattha Poolsawas (2008), The images of an Indian diaspora in V.S. Naipaul’s novels. 90. Shankar Anita (2013), Multiculturalism in the travelogues of V.S. Naipaul, 91. Trần Đình Sử (2017), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Đại học Sư Phạm. 92. Nguyễn Xuân Kính (2004), Thi pháp ca dao. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 287. 93. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng. 94. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lí luận văn học – Vấn đề và suy ngẫm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 135. 95. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 96. Vidiadhar Surajprasad Naipaul (1992), A House for Mr. Biswas. New Delhi: Penguin, 1992. 97. M.K. Gandhi (2017), Tinh tuý Hindu giáo, Đỗ Thu Hà dịch, Nxb Khoa học xã hội, 25. 98. Nguyễn Thị Mai Liên (2014), Đặc trưng thi pháp nhân vật trong sử thi Ramayana, Nxb Thông tin và truyền thông, 140. 159 99. Kamal Mehta (2005), “V.S. Naipaul as a Short Story Writer”. V. S. V.S.
Naipaul: Critical Essays Vol. 3. Edited by Ray, Mohit Kumar. New Delhi:
Atlantic Publishers, 2005. Print, 280. 100. Josh Getlin (1989), Unyielding: Lionized in the West, the Nomadic Writer
roars back at His Critics in the Third World, Los Angeles Times, March 15,
1989. TIMES staff writer, 590. 101. Ryszard Kapuściński (1998), Shadow of the Sun: My African Life, translated
by Klara Glowczewska, Knopf Publisher.London: Penguin Books. 2001, 14.
102. Joseph Conrad (2017), Giữa lòng tăm tối, Nham Hoa dịch, Nxb Hội nhà văn, Tao Đàn phát hành, 51. 103. Ann B. Dobie (2002), Theory into Practice: An Introduction to Literary Criticism, Boston, MA: Thomson Learning, Inc, p.188. 104. Chinua Achebe (2009), The Education of a Child British-Protected: Essays, 2009, Knoff Publisher, p.39. 105. Robert D. Hamner (1990), Joseph Conrad: Third World Perspectives, Three continents Press, p.194. 106. Nazua Idris (2013), “V.S. Naipaul’s A Bend in the River as a Jamesonian
Third World National Allegory.” Stamford Journal of English 7: p.169-182.
107. Vidiadhar Surajprasad Naipaul (1979), A Bend in the River. 1st ed. New York: Knopf ; distributed by Random House, 1979. Print. 108. Robert McCrum (2015), The 100 best novels: No.90 – A Bend in the River by
V.S. Naipaul (1979), accessed at https://www.theguardian.com/books/2015. First
accessed on Dec, 2019. 109. Đào Duy Anh (1996), Hán Việt từ điển, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
110. Vidiadhar Surajprasad Naipaul (1988), The Enigma of Arrival, First Vintage Books Edition, May 1988. 111. Daniel Bergez (2007), Perspectives et lignes de fuite, Litérature & Peinture, No. 933-934. 112. Sven Birkerts (1987), Rev. of The Enigma of Arrival. Washington Post ngày 15 tháng 1 năm 1987. 113. Hồ Á Mẫn (2011), Giáo trình văn học so sánh, Nxb Giáo dục Việt Nam, 274, (Lê Huy Tiêu dịch). 114. Elleke Boehmer (2018), How V.S. Naipaul reshaped the Literary Landscape.
Time Magazine. https://time.com/5367880/vs-V.S. Naipaul-remembered-
postcolonial-literature/ First accessed on Feb 20, 2021. 160 115. Stephen Hawking (2005), Lược sử thời gian, dịch giả: Cao Chi, Phạm Văn Thiều, Nxb Trẻ, 47. 116. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 117. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội. 118. Michel Beaujour (1991), Poetics of the literary self-portrait, Trans. Yara Milos. New York: New York University Press, 1991. 119. Bernard Levin (1997) “A Perpetual Voyager / 1983.” Conversations with V. S. Naipaul. Ed. Feroza Jussawalla. Jackson: Mississippi UP, 1997. 93-98. 120. Vidiadhar Surajprasad Naipaul (1985), Finding the Center: Two Narratives. London: Penguin. 121. James Clifford (1989), “Notes on Travel and Theory”, Traveling Theories, Traveling Theorists Inscriptions 5, 122. Edward W. Said (1983), Traveling Theory, in The World, the Text, and the Critic (Cambridge MA: Harvard University Press, 1983). 123. Fitzsimmons Stacey (2013), “Multicultural Employees: A framework for understanding how they contribute to organizations”, Academy of Management Review 2013. VoL 38, No.4, 525—549, http://dx.doi.org/lO.5465/amr.2011,0234. 124. Verónica Benet-Martínez & Jana Haritatos (2005), “Bicultural identity integration (BlI): Components and psychosocial antecedents”. Journal of Personality. 73: 1015-1049. 125. Lưu Đức Trung (2004), Văn học Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 126. Peter Adler (1977), Beyond Cultural Identity, Reflections on Multiculturalism, Culture Learning, East-West Center Press, Richard Brislin, Editor, 1977, 24-41. 127. Lộc Phương Thuỷ (2013), “Jean-Paul Satre và vấn đề trách nhiệm của nhà văn”, Tạp chí lí luận phê bình văn học nghệ thuật, số 5/2014, 67-73. 128. Salman Rushdie (1987), A sad pastoral, The Enigma of Arrival by V.S. Naipaul. The Guardian. 20/7/2019. 161 129. James Clifford (2007), “Varieties of Indigenous Experience: Diasporas,
Homelands, Sovereigntie”. Indigenous Experience Today (ed.) Marisol de la Cadena, Orin Stam, Berg: New York 2007 (201, 215, 217). 130. Vidiadhar Surajprasad Naipaul (1987), On Being a Writer, The New York Review of Books, April 23, 1987. 131. Anders Hallengren (2004), “V.S. Naipaul: Two worlds”, NOBEL
LAUREATES IN SEARCH OF IDENTITY & INTEGRITY Voices of Different Cultures, Stockholm University, World Scientific Publishing Co., p.15.
132. Yuri Mikhailovich Lotman (1988), Không gian truyện kể tiểu thuyết Nga thế kỉ XIX, Đỗ Hải Phong dịch,
hoa/14073-khong-gian-truyen-ke-tieu-thuyet-nga-the-ky-xix>, xem 20/7/2019. 133. Clare Cooper (1974), The house as Symbol of the Self, University of California at Berkeley. 134. James Joyce (1914), Dubliners, “A painful case”. tr. 89. muenchen.de/5808/1/Gabler_5808.pdf>, xem 20/7/2019. 135. Jean-François Lyotard (2019), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội. 136. Louis Simpson (1984), “Disorder and Escape”, The Hudson Review 37.4.
137. Hà Minh Đức chủ biên (1997), Lí luận văn học (ĐHKHXH&NV), Nxb Giáo dục.
138. Jason Cowley (2002), Don’t give up the day job yet, Sir Vidia, https://www.theguardian.com/books/2002/sep/22/travel.classics 139. The Nobel Prize in Literature 2001, NobelPrize.org, 140. John Macionis (1987), Xã hội học, dịch: Trung tâm dịch thuật – Nxb Thống kê.
141. Bhikhu Parekh (2005), Rethinking multiculturalism: cultural diversity and political theory, 2nd ed. Basingstoke: Palgrave Macmillan. 142. Charles Taylor (1994), The politics of recognition. In A. Gutmann,
(Ed). Multiculturalism: examining the politics of recognition. Princeton: Princeton University Press. 143. Matthew Festenstein (2005). Negotiating diversity: culture, deliberation, trust. Cambridge: Polity Press. 162 144. Willard Van Orman Quine (1960), Word and Object. Cambridge. Mass.: MIT Press. 145. Lê Huy Bắc (2017), Kí hiệu học văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.
146. Vidiadhar Surajprasad Naipaul (1964), Words to play with, Princeton, NJ: Princeton University Press. 148. Hermann Hesse (2009), Câu chuyện dòng sông, Nxb Văn hoá Sài Gòn, dịch giả: Phùng Khánh, Phùng Thăng. 149. Jean Chavalier – Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, dịch giả: Phạm Vĩnh Cư (chủ biên), Nxb Đà Nẵng, Trường viết văn
Nguyễn Du. 150. William Vincent (1991), “V.S. Naipaul's A Bend in the River: Time, History,
and Africa”- Journal of South Asian Literature, Vol. 26, No. 1/2,
MISCELLANY (Winter, Spring, Summer, Fall 1991), p.337. 151. Gaston Bachelard (1961), La poétique de l'espace, Paris : Les Presses
universitaires de France, 3e édition, 1961, 215 pp. Édition numérique réalisée le
21 septembre 2012 à Chicoutimi, Ville de Saguenay, Québec.
152. Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
153. Consuelo Lopez de Villages (1980), “Identity and Environment: V.S.
Naipaul’s Architectural Vision”, Revista / Review Interamericana, 10
(Summer 1980). 154. Trần Đình Sử (1996), “Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học”, Tạp chí Văn học, số 1, 1996. 155. Wendy Steiner (1998), Pictures of Romance. Chicago and London: The University of Chicago Press: 1998. 156. Robert D. Hamner (2006), “Ekphrasis và V. S. Naipaul The Enigma of Arrival,” The Comparatist 30 (2006): 48. 157. Magdalena Sawa (2014), "The Enigma Explained: The Study of the
Chronotopic Relation between V. S. Naipaul's Novel The Enigma of Arrival
and Giorgio de Chirico's Painting...". Roczniki Humanistyczne 05:245-259. 158. Từ Sơn (1999), Hoài Thanh toàn tập, tập 1 Nxb Văn học, Hà Nội.
159. Hồ Sĩ Vịnh (2005), Về bản lĩnh văn hoá Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. PHỤ LỤC 1 Các mốc chính trong sự nghiệp của V.S. Naipaul. 1957 The Mystic Masseur (Gã tẩm quất bí hiểm), tiểu thuyết 1958 The Suffrage of Elvira (Quyền bầu cử của Elvira), tiểu thuyết 1959 Miguel Street (Phố Miguel), tiểu thuyết 1961 A House for Mr. Biswas (Một Ngôi nhà cho ông Biswas), tiểu thuyết 1962 The Middle Passage: Impressions of Five Societies - British, French and Dutch in the West Indies and South America (Lối đi ở giữa: Ấn tượng về năm xã hội - Anh, Pháp và Hà Lan tại Tây Ấn và Nam Mĩ ), kí-phóng sự 1963 Mr. Stone and the Knights Companion (Ông Stone và các bạn hiệp sĩ), tiểu thuyết 1964 An Area of Darkness (Một vùng bóng tối), kí sự 1967 The Mimic Men (Những kẻ bắt chước), tiểu thuyết 1967 A Flag on the Island (Lá cờ trên đảo), tập truyện, 10 truyện 1969 The Loss of El Dorado (Sự biến mất của xứ El Dorado), sách lịch sử 1971 In a Free State (Ở đất nước tự do), tập truyện ngắn 1971 The Overcrowded Barracoon and Other Articles (Trại khổ sai quá tải và các bài báo khác), kí-phóng sự 1975 Guerillas (Quân Du kích), tập truyện ngắn 1977 India: A Wounded Cilivisation (Ấn Độ: một nền văn minh bị thương) 1979 A Bend in the River (Khúc quanh của dòng sông), tiểu thuyết 1981 Among the Believers: An Islamic Journey (Giữa những tín đồ: Một hành trình Hồi giáo), truyện kí 1984 Finding the Centre (Tìm thấy tâm điểm), khảo luận tôn giáo 1987 The Enigma of Arrival (Bí ẩn khi tới), tiểu thuyết 1989 A Turn in the South (Chỗ rẽ ở phía Nam), khảo luận tôn giáo 1990 India: a million mutinies now (Ấn Độ: một triệu cuộc nổi loạn lúc này) 1994 A Way in the World (Đường vào thế giới) tiểu thuyết 1998 Beyond Belief: Islamic Excursions (Hơn cả đức tin: Các chuyến đi Hồi giáo), khảo luận tôn giáo 2001 Half a Life (Nửa đời) tiểu thuyết 2002 The Writer and the World: Essays, tập tiểu luận 2004 Magic Seeds, tiểu thuyết 2007 A Writer’s People: Ways of Looking and Feeling, khảo luận Các giải thưởng 1958 Mail on Sunday/John Llewellyn Rhys Prize (Thư vào Chủ nhật / Giải thưởng John Llewellyn Rhys) 1961 Somerset Maugham Award (Giải thưởng Somerset Maugham) 1964 Hawthornden Prize (Giải thưởng Hawthornden) 1968 WH Smith Literary Award (Giải thưởng văn học WH Smith) 1971 Booker Prize for Fiction (Giải thưởng dành cho tiểu thuyết) 1989 Knight Commander of the Order of the British Empire (Huân chương hiệp sĩ của vương quốc Anh) 1993 David Cohen British Literature Prize (Giải thưởng văn học Anh David Cohen) 2001 Nobel Prize for Literature (Giải thưởng Nobel Văn học) 2009 Man Booker International Prize (nominee) (Giải thưởng quốc tế Man Booker (đề cử) PHỤ LỤC 2 Các tác phẩm của V.S. Naipaul được nghiên cứu nhiều nhất Tác phẩm và năm sáng tác Chủ đề Thể loại
Kí sự Tây Ấn và Nam Mỹ
Ấn Độ The Middle Passage (1962)
An Area of Darkness (1964)
India: A Wounded Civilization (1977)
India: A Million Mutinies Now (1990)
The Masque of Africa (2010) tôn giáo bản địa ở các
quốc gia châu Phi Tiểu
thuyết tiểu thuyết, hồi kí và lịch
sử phân tích về Hồi giáo
hiện đại The Mystic Masseur (1957)
A House for Mr. Biswas (1961)
In a Free State (1971; Booker Prize)
Guerrillas (1975)
A Bend in the River (1979)
Half a Life (2001) and its sequel, Magic
Seeds (2004)
The Enigma of Arrival (1987)
A Way in the World (1994)
A Writer’s People (2008)
Giữa những tín đồ: Một hành trình Hồi
giáo (1981)
Hơn cả đức tin: Các chuyến đi Hồi
giáo (1998)
Nhà văn và thế giới (2002) bao gồm nhiều bài tiểu
luận chính trị Thư từ Giữa Cha và Con: Những lá thư gia đình (2000), được G. Aitken biên tập;
F. Jussawalla, chủ biên
Cuộc trò chuyện với V. S. V.S. Naipaul
(1997); tiểu sử của R. D. Hamner
(1973), R. Kelly (1989) và P. French
(2008); nghiên cứu của P. Theroux
(1972 và 1998), R. D. Hamner, ed.
(1979), P. Nightingale (1987), P.
Hughes (1988), TF Weiss (1992), W.
Dissanayake (1993), B.A. King (1993),
J. Levy (1995), F. Mustafa (1995) , R.
Nixon (1997), N. Ramadevi (1997), AJ
Khan (1998), L. Feder (2001), H.
Hayward (2002) và B. King (2003).