intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn:Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ

Chia sẻ: Rose_12 Rose_12 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:349

247
lượt xem
79
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong lịch sử khẩn hoang, Nam Bộ được xem là vùng đất mới của người Việt, đầy thách thức với người đi khai hoang, vì là vùng đất hoang vu. Khai phá đất Nam Bộ là quá trình lao động vất vả và lâu dài của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Các lưu dân như người Việt là chủ yếu và sau đó là người Khmer, Hoa, Chăm cùng cư dân bản địa như S’tiêng, Châuro đã đổ mồ hôi, xương máu khai phá vùng Nam Bộ và biến nó trở thành một trong những vùng trù phú của đất nước như ngày nay....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn:Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ

  1. TRƯỜNG…………………. KHOA……………………… LUẬN ÁN TIẾN SỸ Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ
  2. 1 MỤC LỤC Trang Danh mục các bảng biểu .................................................................................... 3 Danh mục các hình vẽ ........................................................................................ 4 Danh mục các sơ đồ ........................................................................................... 5 Dẫn luận ..................................................................................................................... 6 1. Lý do và mục tiêu thực hiện đề tài ................................................................. 6 2. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu ................................................... 8 3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài................................................................ 9 4. Những đóng góp mới của luận án ................................................................ 10 5. Bố cục của luận án ........................................................................................ 11 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ 1.1. Những vấn đề lý luận ....................................................................................... 12 1.1.1. Khái niệm ............................................................................................... 12 1.1.2. Quan điểm tiếp cận của đề tài ................................................................ 21 1.1.3. Lý thuyết nghiên cứu .............................................................................. 24 1.1.4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................... 31 1.2. Tổng quan về đạo Cao Đài ở Nam Bộ ............................................................ 38 1.2.1. Bối cảnh văn hóa Nam Bộ trước khi đạo Cao Đài ra đời....................... 38 1.2.2. Đạo Cao Đài ở Nam Bộ.......................................................................... 45 Chƣơng 2 ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO CỦA TÍN ĐỒ CAO ĐÀI Ở NAM BỘ 2.1. Đức tin của tín đồ Cao Đài .............................................................................. 60 2.1.1. Tin về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người .................................. 60 2.1.2. Tin vào thời mạt kiếp ............................................................................. 66 2.1.3. Tin vào sự giải thoát và sự đọa đày ........................................................ 68 2.2. Sự thờ phụng của đạo Cao Đài ....................................................................... 74
  3. 2 2.2.1. Thờ phụng tại Đền thánh ........................................................................ 75 2.2.2. Thờ phụng tại Thánh thất ....................................................................... 78 2.2.3. Thờ phụng tại tư gia ............................................................................... 79 2.3. Tổ chức của đạo Cao Đài ................................................................................. 79 2.3.1. Cơ cấu tổ chức ........................................................................................ 79 2.3.2. Chức năng của tổ chức tôn giáo ............................................................. 94 2.4. Nghi lễ của đạo Cao Đài.................................................................................. 97 2.4.1. Nghi lễ Thiên đạo .................................................................................. 98 2.4.2. Nghi lễ Thế đạo ................................................................................... 112 2.4.3. Chức năng của nghi lễ .......................................................................... 122 Chƣơng 3 SỰ ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG VĂN HÓA NAM BỘ VÀ ẢNH HƢỞNG SẮC THÁI CỦA VĂN HÓA NAM BỘ 3.1. Sắc thái tôn giáo Cao Đài trong văn hóa Nam Bộ ....................................... 142 3.1.1. Văn hóa vật chất ................................................................................... 142 3.1.2. Văn hóa tinh thần ................................................................................. 162 3.1.3. Văn hóa xã hội ...................................................................................... 174 3.2. Đạo Cao Đài ảnh hƣởng sắc thái của văn hóa Nam Bộ .............................. 186 3.2.1. Sự hỗn dung văn hóa ............................................................................ 187 3.2.2. Yếu tố thoáng, mở trong văn hóa ......................................................... 195 3.2.3. Giữ gìn văn hóa truyền thống ............................................................... 206 Kết luận .................................................................................................................. 216 Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 221 Chú thích ................................................................................................................ 236 Phụ lục 1: Quyết định công nhận các chi phái Cao Đài......................................... 247 Phụ lục 2: Trích các cuộc phỏng vấn ..................................................................... 257 Phụ lục 3: Trích nhật ký điền dã ............................................................................ 280 Hình ảnh sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài ......................................... 300
  4. 3 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Nội dung Số trang STT Số tín đồ theo đạo Cao Đài được thống kê từ năm 1928 đến 1 50 năm 1995 Số tín đồ có sớ cầu đạo và cơ sở thờ tự của Cao Đài ở Nam Bộ 2 51 Số tín đồ, chức sắc, chức việc và cơ sở thờ tự của các chi phái 3 53 vào năm 2007 Số liệu thống kê đạo Cao Đài ở các tỉnh, thành phố 4 54 Đối phẩm với bậc tu trong đạo 5 81 Đối phẩm với bậc tu trong Hiệp Thiên đài 6 88 Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Phước thiện 7 173 Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Ban Pháp Chánh 8 174 So sách Ban hành lễ của đạo Cao Đài và Ban tế tự ở Đình thần 9 203 Nam Bộ
  5. 4 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Nội dung Số trang STT Cách bắt ấn Tý 1 98 Cách cắm nhang từ trên nhìn xuống 2 99 Cách cắm nhang từ bên phải sang 3 99 Cách để hai bàn tay khi lạy 4 100 Tòa thánh Cao Đài 5 140 Bàn thờ trong gia đình của tín đồ Minh Chơn Lý 6 145 Thiên bàn của Tây Ninh, Ban Chỉnh Đạo 7 149 Thiên bàn của Tiên Thiên, Truyền giáo 8 149 Thiên nhãn do ông Ngô Minh Chiêu vẽ 9 188
  6. 5 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Nội dung Số trang STT Thiên đường trong giáo lý Cao Đài 1 67 Cách sắp xếp trên bàn thờ Cao Đài 2 72 Chữ Vương trên Thiên bàn 3 74 Sơ đồ Cửu Trùng Đài 4 74 Sơ đồ Hiệp Thiên đài 5 75 Sơ đồ Cửu Trùng Đài sau năm 1930 6 85 Cơ cấu tổ chức của cơ quan Hiệp Thiên Đài 7 86 Sơ đồ tiến hành Đại lễ tại Đền thánh và Thánh thất 8 96 Bàn thờ của phái Minh Chơn Lý 9 144 Sơ đồ chữ Thập trên bàn thờ Chiếu Minh 10 146 Sơ đồ chữ Vương trên Thiên bàn của Chiếu Minh 11 146 Sơ đồ bàn cơ trong gia đình 12 147 Sơ đồ bàn cơ trong Đàn 13 147 Sơ đồ chung của Bàn thờ Chiếu Minh 14 147 Cách sắp đặt các đồ vật trên Thiên bàn 15 148 Hình thức quán đàn tại Đền thánh Tây Ninh 16 165 Sơ đồ tổ chức của cơ quan Phước thiện 17 173 Thiết lập bàn thờ theo cách của ông Ngô Văn Chiêu 18 188 Cách thờ tự trong gia đình tín đồ Cao Đài ở Đồng Nai 19 191 Thân tộc của gia đình Chức việc ở quận 8, TP.HCM 20 195
  7. 6 DẪN LUẬN 1. Lý do và mục tiêu thực hiện đề tài Nam Bộ là đồng bằng lớn và trù phú ở Việt Nam với diện tích trên 67.000km2. Đây là vùng địa lý có nhiều nét đặc biệt và xã hội mang tính chất mở, thoáng hơn so với các vùng khác trong cả nước. Trong lịch sử khẩn hoang, Nam Bộ được xem là vùng đất mới của người Việt, đầy thách thức với người đi khai hoang, vì là vùng đất hoang vu. Khai phá đất Nam Bộ là quá trình lao động vất vả và lâu dài của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Các lưu dân như người Việt là chủ yếu và sau đó là người Khmer, Hoa, Chăm cùng cư dân bản địa như S’tiêng, Châuro đã đổ mồ hôi, xương máu khai phá vùng Nam Bộ và biến nó trở thành một trong những vùng trù phú của đất nước như ngày nay. Trong quá trình cộng cư, các tộc người ở Nam Bộ cùng hội tụ, cùng chịu sự chi phối bởi môi trường địa lý – lịch sử, cùng cảnh ngộ, thân phận, trải qua những khó khăn vất vả trong quá trình chinh phục vùng đất hoang vu… nên họ đã cố kết với nhau, cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Trong quá trình cố kết tộc người, yếu tố tâm linh được “chia sẻ”, kết quả là hệ thống tôn giáo tín ngưỡng của cư dân Nam Bộ luôn nằm trong sự đan xen lẫn nhau, dần dần dẫn đến sự biến đổi so với yếu tố ban đầu mà các lưu dân mang đến. Sự biến đổi đó đã bổ trợ sự khiếm khuyết của nhau trong quá trình tồn tại và phát triển, nhờ đó, hệ thống tôn giáo tín ngưỡng của các cư dân Nam Bộ dần có những điểm chung, bên cạnh những yếu tố riêng biệt của từng tộc người. Những điểm chung nói trên là kết quả hoà đồng tôn giáo rất đặc trưng của khu vực Nam Bộ. Đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ra đời tại khu vực Nam Bộ vào nửa đầu thế kỷ XX cũng bắt nguồn từ yếu tố hoà đồng tôn giáo đó. Khi đạo Cao Đài ra đời, Nam Bộ đã trở thành vùng đất màu mỡ: “Ruộng đồng mặc sức chim bay Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”
  8. 7 Nam Bộ cũng đã trở thành nơi quần tụ của nhiều tộc người, tạo nên một vùng văn hóa hỗn dung đặc sắc và ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng “cứu thế” của đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ đã được hình thành và phát triển hàng trăm năm, nên tôn giáo này đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa Nam Bộ biến thành cái riêng mang tính đặc thù trong tôn giáo của mình như xây dựng đức tin theo Tam giáo, giáo lý dựa trên nền tảng của các tôn giáo có trước, tổ chức tôn giáo được sắp đặt theo cơ cấu nhà nước,… và được giải thích theo giáo lý Cao Đài. Chính điều này, tạo nên sự mới mẻ của một tôn giáo mới, nhưng lại gần gũi với tín ngưỡng truyền thống của cư dân Nam Bộ, do đó đạo Cao Đài đã thu hút được nhiều người, đặc biệt là người Việt Nam Bộ tham gia và trở thành tín đồ của Đạo. Trên thực tế, sự mới mẻ của đạo Cao Đài vẫn không nằm ngoài bối cảnh chung của văn hóa Nam Bộ, nó chỉ tích hợp từ những thành tố văn hóa đã có trước, rồi sắp xếp lại và điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới, nhằm mục đích thu hút sự chú ý của người dân Nam Bộ lúc bấy giờ. Kết quả là đạo Cao Đài khi vừa thành lập (năm 1926) đã nhanh chóng phát triển và trở thành một trong những tôn giáo có số lượng tín đồ đông ở khu vực Nam Bộ. Đạo Cao Đài đã có những điều chỉnh như thế nào về đức tin, về giáo lý, về cơ cấu tổ chức, cách hành đạo… để tạo nên sự mới mẻ ở Nam Bộ và trở thành một trong những tôn giáo có đông tín đồ người Việt tin theo? Nghiên cứu vấn đề này sẽ lý giải được vai trò tôn giáo trong đời sống của cư dân Nam Bộ và góp phần tìm ra những yếu tố đặc trưng trong văn hóa Nam Bộ cũng như tính cách của người Việt Nam Bộ. Hơn nữa, bản thân tác giải luận án là người “trong cuộc”, là một tín đồ Cao Đài nên tương đối hiểu rõ về tôn giáo này và có hướng tiếp cận dễ dàng hơn. Vì lý do trên, chúng tôi chọn “Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ” làm đề tài luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học. Với đề tài này, chúng tôi hướng đến giải quyết các mục tiêu sau:
  9. 8 - Tìm hiểu chức năng tôn giáo trong đời sống của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ. - Tìm hiểu những đóng góp về mặt văn hóa của đạo Cao Đài đối với văn hóa Nam Bộ qua đời sống tôn giáo của tín đồ. - Tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ đối với việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài, cũng như đối với đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài. - Tìm hiểu một số quan điểm lý thuyết về văn hóa trong nghiên cứu Nhân học như thuyết Chức năng, các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa, Cấu trúc… 2. Đối tƣợng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài, do đó đối tượng nghiên cứu là những tín đồ theo đạo Cao Đài, chủ yếu là tín đồ người Việt. Vấn đề nghiên cứu của đề tài là những hoạt động trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài người Việt như đức tin, thờ phụng, tổ chức, nghi lễ. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phạm vi Nam Bộ, vì khu vực này là điểm xuất phát của đạo Cao Đài; hầu hết các Toà thánh, Tổ đình, Thánh thất của các chi phái trong đạo đều hình thành tại đây. Hơn nữa, Nam Bộ là vùng văn hóa - lịch sử có nhiều điểm đặc biệt về quá trình tộc người, giao lưu tiếp biến văn hóa và là nơi ra đời nhiều tôn giáo mới so với các vùng khác ở Việt Nam. Vì vậy, Nam Bộ là nơi tốt nhất để nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đã được đặt ra cho đề tài này. - Giới hạn thời gian: + Thời gian nghiên cứu: mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về văn hóa Nam Bộ và ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài, nên thời gian nghiên cứu của đề tài từ năm 1926 đến năm 2008 (Năm 1926 là năm đánh dấu sự ra đời của đạo Cao Đài. Khi tôn giáo này ra đời đã luôn bồi đắp, tích tụ sắc thái của văn hóa Nam Bộ qua thời gian và phát triển dần. Năm 2008 là mốc thời gian tạm giới hạn của đề tài nghiên cứu). + Thời gian khảo sát: Đề tài được khảo sát trong thời gian 4 năm, từ năm 2004 đến năm 2008 (Năm 2004, khảo sát để xây dựng đề cương nghiên cứu. Từ năm 2005 đến năm 2008, khảo sát, nghiên cứu để hoàn thành đề tài).
  10. 9 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài, các phương pháp được thực hiện gồm Quan sát – Tham dự, Phỏng vấn sâu, So sánh đối chiếu, Thu thập và xử lý thông tin bằng hình ảnh và Nghiên cứu lịch sử (xét hai phương diện: đồng đại và lịch đại). - Quan sát – tham dự là phương pháp đặc thù chuyên biệt của ngành Nhân học, đòi hỏi người nghiên cứu phải tham dự, quan sát, cùng sinh sống và khảo sát tại cộng đồng mà mình nghiên cứu trong thời gian dài. Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã thực hiện điền dã dài ngày tại các tỉnh, thành như Tây Ninh, Bến Tre, Long An, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh. Trong thời gian điền dã, các lễ hội của Cao Đài như vía Đức Chí tôn, Diêu Trì Kim Mẫu, lễ Khai đạo, Hôn phối, Tang lễ, cúng Cửu, Nhập môn, Quì hương,… được tổ chức tại Đền thánh, các Thánh thất, tư gia của tín đồ,… chúng tôi đều tham gia. Mục đích sử dụng phương pháp này nhằm hướng đến yếu tố tự mình quan sát, cảm nhận và nắm bắt thông tin trực tiếp từ đối tượng nghiên cứu. Các thông tin này được ghi lại dưới hình thức Nhật ký điền dã. - Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin từ các thành viên trong cộng đồng bằng các cuộc đối thoại có chủ định. Trong quá trình điền dã, phương pháp này được dùng để phỏng vấn chức sắc, chức việc và tín đồ của đạo Cao Đài. Thông qua các cuộc phỏng vấn, người được nghiên cứu có thể hiểu và làm rõ được các nguyên tắc hành đạo, các suy nghĩ, cũng như biết được thân thế, sự nghiệp, ước vọng, niềm tin của tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Thông tin có được từ các cuộc phỏng vấn có tính khách quan cho đề tài, dùng để phân tích và minh chứng cho những nhận định trong đề tài bằng hình thức trích dẫn nội dung phỏng vấn (đưa quan điểm của tín đồ, của người được nghiên cứu vào nội dung khoa học) bên cạnh ý kiến, nhận định của chúng tôi. - So sánh đối chiếu là phương pháp được thực hiện trong quá trình điền dã nhằm so sánh các hoạt động tôn giáo diễn ra trong đời sống tín đồ Cao Đài với các nhóm cư dân khác để nhận biết những nét tương đồng và dị biệt trong bối cảnh chung của một vùng văn hóa. Đây được xem là phương pháp có hiệu quả về việc so sánh và giải thích các hoạt động tôn giáo đang diễn ra ở cộng đồng tín đồ.
  11. 10 - Thu thập và xử lý thông tin bằng hình ảnh là phương pháp ghi nhận thông tin bằng các thiết bị kỹ thuật như máy ảnh, máy quay phim, các bản vẽ… Các thông tin này được phân tích, lý giải nhằm minh chứng cho các nhận định của chúng tôi về hoạt động tôn giáo của tín đồ Cao Đài Nam Bộ. - Nghiên cứu lịch sử (đồng đại và lịch đại) là một trong những phương pháp nghiên cứu, phân tích các dạng tài liệu thư tịch, tư liệu điền dã để tìm hiểu các sự kiện đã diễn ra theo thời gian lịch sử nhằm tìm hiểu cội nguồn, những bước tiến triển, các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài trong không gian cụ thể là Nam Bộ. Phương pháp này giúp phân tích, lý giải những tư liệu thu thập được trong điền dã Dân tộc học. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp emic, etic khi trình bày nội dung khoa học của luận án. Sử dụng emic là đưa tiếng nói của người trong cuộc, người được phỏng vấn, dưới dạng trích dẫn đóng trong khung vào nội dung để chứng minh cho các nhận định trong luận án. Etic là quan điểm của người nghiên cứu bày tỏ ý kiến đồng ý hoặc không đồng ý với những nhận định của người trong cuộc. Sử dụng phương pháp này nhằm có sự so sánh, đối chiếu những nhận định của tác giả với ý kiến của đối tượng nghiên cứu trong luận án. 4. Những đóng góp mới của luận án Dưới góc độ nghiên cứu Dân tộc học về đời sống tôn giáo của cộng đồng tín đồ Cao Đài, luận án thể hiện một số đóng góp mới như: - Tập hợp các nguồn tư liệu (tư liệu thành văn, tư liệu điền dã) thành hệ thống để phân tích, làm rõ quá trình ra đời, phát triển và phân hóa của đạo Cao Đài ở Nam Bộ một cách dễ hiểu so với những công trình đã công bố trước đây. Miêu tả tỉ mỉ các nghi lễ, cơ cấu tổ chức, cách hành đạo của tín đồ Cao Đài nhằm tìm ra những chức năng của nó trong đời sống tôn giáo của tín đồ. - Công bố nhiều tư liệu mới, chủ yếu là tư liệu điền dã của tác giả về các hoạt động của đạo Cao Đài. - Các thông tin được sơ đồ hóa dưới dạng bảng, bản vẽ và hình ảnh cụ thể. - Dùng tư liệu điền dã Dân tộc học để chứng minh đạo Cao Đài ảnh hưởng nhiều yếu tố của văn hóa Nam Bộ và cũng chứng minh đạo Cao Đài đã có những
  12. 11 đóng góp không nhỏ trong việc góp phần tạo nên sắc thái đặc trưng cho văn hóa Nam Bộ từ nửa sau thế kỷ XX. - Nội dung nghiên cứu về đạo Cao Đài góp phần bổ sung lý thuyết về tôn giáo, tôn giáo bản địa và các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa của ngành Dân Tộc học, Nhân học. 5. Bố cục của luận án Ngoài phần dẫn luận, luận án gồm ba chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận của việc nghiên cứu và tổng quan về đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Nội dung trình bày những tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu, trong đó làm rõ các khái niệm liên quan như tôn giáo, phân loại tôn giáo, đời sống tôn giáo; và đưa ra các hướng nghiên cứu, các lý thuyết để áp dụng cho việc phân tích, giải quyết vấn đề; ngoài ra, trong luận án còn trình bày bối cảnh văn hóa Nam Bộ và quá trình hình thành phát triển của đạo Cao Đài ở Nam Bộ. - Chương 2: Đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ. Nội dung hệ thống hóa thông tin về đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ với các nội dung được trình bày như đức tin, thờ phụng, tổ chức tôn giáo, lễ nghi và giải thích về mục đích, nhu cầu và chức năng tôn giáo trong đời sống của tín đồ đạo Cao Đài. - Chương 3: Đóng góp của đạo Cao Đài trong văn hóa Nam Bộ và ảnh hưởng sắc thái của văn hóa Nam Bộ. Nội dung trình bày đạo Cao Đài góp phần làm đa dạng đặc trưng cho văn hóa Nam Bộ và phân tích đạo Cao Đài đã ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Nam Bộ, qua đó chứng minh văn hóa Nam Bộ có những ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài. - Kết luận: Đúc kết các kết quả nghiên cứu từ ba chương và nêu những nhận xét tổng kết của luận án.
  13. 12 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1.1. Khái niệm Nghiên cứu đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ, chúng tôi trình bày một số khái niệm liên quan đến đề tài như Tôn giáo, cách phân loại tôn giáo và đời sống tôn giáo, nhằm định hướng cho việc tiếp cận, nghiên cứu và giải quyết vấn đề liên quan đến đề tài. * Tôn giáo Do luận án thuộc lĩnh vực Nhân học tôn giáo nên chúng tôi trình bày khái niệm tôn giáo theo quan điểm Dân Tộc học và Nhân học là cơ sở lý luận để thực hiện đề tài. Tôn giáo là một khái niệm phức tạp với nhiều cách định nghĩa khác nhau. E.B. Tylor cho rằng tôn giáo là “niềm tin vào các thực thể tinh thần” [194:22]; còn E. Durkheim thì cho “Tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và những thực hành liên quan đến những điều thiêng liêng, nghĩa là sự tách biệt, cấm đoán, những niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng đồng đạo đức, được gọi là Giáo hội” [66:60]. Anthony F.C. Wallace xem “Tôn giáo là tập hợp những nghi lễ, đã được biện minh bằng thần thoại, động viên sức mạnh siêu nhiên nhằm mục đích đem lại biến đổi hoặc đề phòng biến đổi cho con người và tình trạng tự nhiên” [29:276]. Theo Max Weber thì “Tôn giáo đặc biệt tác động đến cộng đồng. Tôn giáo gắn kết những thế lực siêu nhiên. Quy định các mối quan hệ giữa các thế lực của chúng với những con người tạo thành lĩnh vực của những hoạt động tôn giáo” [176:68]. Clifford Geertz đưa ra định nghĩa “Tôn giáo là một hệ thống các biểu tượng có tác dụng tạo ra những trạng thái mạnh mẽ, lan tỏa, kéo dài và những động cơ trong những con người bằng cách trình bày có hệ thống những quan niệm về một trật tự tồn tại chung và
  14. 13 che phủ những quan niệm này bằng một thực tế tỏa ra rằng những tình trạng và những động cơ dường như là hiện thực duy nhất” [194:23]. Theo định nghĩa này, Clifford Geertz quan niệm tôn giáo như là sự truyền thông, trong đó những biểu tượng của tôn giáo sẽ chứa đựng những tín ngưỡng tổng hợp mà cộng đồng quan niệm về thế giới siêu linh. Cùng quan điểm với Clifford Geertz, Meford Spiro cho rằng “Tôn giáo là một thiết chế bao gồm sự tương tác mang tính hình mẫu văn hóa với những siêu linh được mặc nhận bởi văn hóa”. Nhưng Rohin Horton lại không đồng ý với quan điểm “tôn giáo là biểu tượng” của C. Geertz và M. Spiro, khi cho rằng “Tôn giáo là một sự mở rộng lĩnh vực những quan hệ của con người ra bên ngoài những hạn chế của xã hội loài người đơn thuần, trong đó con người nhìn nhận mình như một sinh vật trong mối quan hệ phụ thuộc với tính phi nhân ” [194:23]. Theo định nghĩa này, R. Horton nhìn tôn giáo cùng quan điểm với E. Durkheim, cùng cho rằng tôn giáo như một sự mở rộng các quan hệ phức tạp của con người trong xã hội. F.Engels cũng cùng quan điểm này khi cho rằng “Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù cho những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày ” [2:437-438]. Trong khi đó K.Marx lại cho rằng “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tin thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [110:33]. Quan điểm của K.Marx, xem tôn giáo như là sự cứu rỗi (một trái tim, một tinh thần) của những con người đang sống trong sự khủng hoảng, không mang nghĩa của sự phê phán tôn giáo. Tại Việt Nam, nhà Dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn cho rằng tôn giáo ra đời để phản ánh một cách hư ảo về thế g iới bên ngoài khi nói “Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách siêu thực (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội/tôn giáo khác nhau” [176:167].
  15. 14 Từ các định nghĩa trên cho thấy tôn giáo là sản phẩm của con người. Con người sáng tạo ra tôn giáo rồi chịu sự chi phối của tôn giáo tác động lại trong cuộc sống. Tôn giáo ra đời nhằm lý giải những hiện tượng “kỳ lạ” xảy ra xung quanh cuộc sống con người, phản ảnh hiện tượng xã hội và cũng là một nơi cứu rỗi của con người trong xã hội bằng một thế giới siêu thoát (thế giới bên kia). Khi ý niệm về một thế giới bên kia ra đời cũng là lúc tôn giáo được hình thành. Do vậy, các nhà khoa học khi định nghĩa về tôn giáo thường nhấn mạnh đến “tính thiêng liêng”, một “niềm tin về tính siêu thực” về một “thế giới vô hình”. Niềm tin siêu thực ấy là chỗ dựa tinh thần của con người khi gặp khủng hoảng trong cuộc sống và đây cũng là yếu tố để tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. Khi nghiên cứu về tôn giáo, các nhà khoa học thường xem tôn giáo gắn liền với 3 yếu tố: niềm tin, nghi lễ và những người thực hành nghi lễ tôn giáo. Trong luận án này, để nghiên cứu đạo Cao Đài, chúng tôi cũng kế thừa, vận dụng nội dung các khái niệm trên và cũng dựa vào ba yếu tố: niềm tin, nghi lễ, và những người thực hành nghi lễ tôn giáo. - Niềm tin tôn giáo là tin vào yếu tố “thiêng” liên quan đến thế giới vô hình, đến những siêu linh do con người tưởng tượng và sáng tạo ra. Đây là niềm tin siêu lý, không dựa vào lý tính và thực nghiệm, niềm tin được cảm nhận, hoặc theo truyền thống kinh nghiệm để dần khẳng định tính vững chắc của nó [167:94- 95]. Niềm tin này có thể dựa vào huyền thoại để tạo nên những vị thần như thần sáng tạo, thần sấm, thần sét, thần mưa… hay loại hình tôtem nào đó để rồi dẫn đến việc tôn sùng, tín ngưỡng, chiêm bái. Niềm tin cũng có thể dựa trên triết lý “đối lập” về cuộc sống hiện tại bằng “một thế giới bên kia”. Nhìn chung, niềm tin tôn giáo là niềm tin vào thế giới hư ảo, siêu thực với các đấng siêu linh có khả năng chi phối cuộc sống của con người trần thế. Đây là niềm tin không cần thực nghiệm và niềm tin trong đạo Cao Đài cũng được thể hiện như trên. - Nghi lễ tôn giáo là những hành vi của con người nhằm biểu hiện niềm tin tôn giáo của mình. Bất cứ một tôn giáo nào, dù sơ khai hay phát triển, đều có những hành vi liên quan đến niềm tin, mà nghi lễ là một trong những hành vi quan
  16. 15 trọng đó. Nghi lễ được thực hiện với tư cách cá nhân hay dưới hình thức cộng đồng. Nghi lễ tôn giáo được thực hành thường gắn liền với một thực thể siêu linh hay một thế giới vô hình nào đó liên quan đến niềm tin tôn giáo hoặc do tôn giáo qui định và thường biểu hiện chức năng tâm lý trong đời sống của tín đồ. Nghi lễ có thể dùng để giải tỏa những nỗi bất an của con người ở cuộc sống trần tục, cũng có thể đưa con người đến gần hơn với thế lực siêu nhiên mà họ tin tưởng [176:130]. Nghi lễ được thực hiện theo nhiều cách như tuân thủ theo chu kỳ thời gian (được tổ chức theo năm, tháng của Dương lịch hoặc Âm lịch), theo chu kỳ đời người (nghi lễ vòng đời) hoặc những nghi lễ riêng lẻ do từng tôn giáo qui định. Nghi lễ cũng là hình thức giúp tăng cường sức mạnh của cộng đồng (Rite of intensification), như nhận định của nhà nhân nhọc William A. Haviland khi cho rằng “Nghi lễ được thực hiện trong thời kỳ khủng hoảng hay biến cố lớn nào đó của cộng đồng cư dân, mục đích để giúp cho mọi thành viên trong cộng đồng đó gắn bó với nhau hơn” [236:358]; hoặc nghi lễ còn mang mục đích đánh dấu sự chuyển đổi của thời gian và chuyển đổi vị thế của con người trong xã hội như nghiên cứu của Anorld Van Gennep với tiêu đề Rites of Passage (các nghi lễ chuyển đổi). Ngoài ra, nghi lễ được thực hiện còn phản ánh thực tại của xã hội, nơi con người đang sinh sống. Nghi lễ được thực hiện thường biểu hiện qua các yếu tố như: + Tạo bối cảnh: để mở đầu cho nghi lễ là một trong số hoạt động liên quan đến việc nhập lễ (valoriation) hoặc thiêng liêng hóa (sacralization) đối với các hiện vật tôn giáo nhằm làm thay đổi chức năng thông thường hàng ngày của nó. + Nghi thức hưởng thụ phong phú (liên quan đến thực phẩm và đồ uống): chuẩn bị nhiều đồ ăn, thức uống dưới hình thức bữa tiệc nhằm thể hiện sự hưởng thụ phong phú mang tính phồn thịnh. - Gắn liền với nghi lễ tôn giáo là những người thực hành nghi lễ. Những người này có thể được chia thành ba hình thức: người hành lễ chuyên nghiệp, người hành lễ bán chuyên nghiệp và người hành lễ thông thường [29:300].
  17. 16 + Người hành lễ chuyên nghiệp là những người có tri thức, kỹ thuật và năng lực tôn giáo. Họ được đào tạo hoặc tu luyện trong tôn giáo. Họ có chức năng chuyên môn về tôn giáo, nắm rõ những nguyên tắc, giáo luật và điều lệ của tôn giáo. Họ có thể là mục sư, linh mục, nhà sư, người chủ lễ… trong các tôn giáo đương thời. + Người hành lễ bán chuyên nghiệp là những người được tin rằng họ có mối quan hệ trung gian giữa thế giới trần tục với thế giới thần linh. Thông qua họ, thần linh có thể tiếp xúc được với con người trần tục; thần linh có thể chữa bệnh, ban bùa, phép bình an cho người trần tục. Những người này thường được gọi là shaman. Shaman có thể là thầy phù thủy, thầy mo, thầy cúng, bà đồng, bà bóng… Họ được gọi là những người hành lễ bán chuyên nghiệp vì khi kết thúc những buổi lễ, họ lại trở thành những con người bình thường trong cuộc sống. + Người hành lễ thông thường là những người chưa hoặc không có chức phận tôn giáo, nhưng lại có niềm tin và thực hành nghi lễ tôn giáo. Họ có thể là tín đồ hoặc người dân bình thường, chưa được đào tạo sâu về chuyên môn trong tôn giáo như những người hành lễ chuyên nghiệp, hoặc cũng không thể trở thành những người trung gian cho thế giới thần linh như những vị shaman. Người hành lễ thông thường chỉ dựa vào niềm tin tôn giáo mà hành lễ hàng ngày hoặc theo chu kỳ thời gian. Họ vẫn giữ cuộc sống đời thường như những con người bình thường khác trong xã hội. Như vậy, những người thực hành nghi lễ kể trên là những người có vai trò gìn giữ và phát triển tôn giáo trong xã hội, thông qua họ mà tôn giáo phát triển và gắn chặt với cộng đồng xã hội. Điều này cũng được thấy rõ trong đạo Cao Đài. Từ những phân tích trên cho thấy, tôn giáo là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra nhằm làm chỗ dựa về tinh thần khi gặp những khủng hoảng trong cuộc sống. * Cách phân loại tôn giáo Theo nhiều nguồn tài liệu thư tịch, hiện nay có nhiều cách phân loại tôn giáo. Trong khoa học Mác-xít, tôn giáo được chia thành hai loại: Tôn giáo của chế độ tiền giai cấp (công xã thị tộc) và Tôn giáo của những xã hội có giai cấp. X.A.
  18. 17 Tôcarev cho rằng, trong xã hội có giai cấp, tôn giáo là công cụ tư tưởng của ách áp bức giai cấp, là sự biện hộ cho bất bình đẳng xã hội; còn trong xã hội tiền giai cấp, tôn giáo là sự phản ánh về tư tưởng, trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất vật chất và thể hiện sự bất lực của người nguyên thủy trước hoàn cảnh tự nhiên và xã hội quanh họ [232:18]. Robert N. Bellah phân loại tôn giáo theo loại hình tiến hóa về thời gian. Ông phân tôn giáo thành các loại: Tôn giáo nguyên thủy, Tôn giáo tiền sử, Tôn giáo lịch sử, Tôn giáo cận đại, Tôn giáo hiện đại [66:275-307]. - Tôn giáo nguyên thủy chỉ là những đặc trưng của “thế giới thần thoại”. Hành động của tôn giáo nguyên thủy là sự tham gia đồng nhất của cộng đồng cùng hóa thân thành các nhân vật thần thoại để tái dựng lại thế giới thần thoại. - Tôn giáo tiền sử là sự tiến hóa của tôn giáo nguyên thủy. Những nhân vật thần thoại lúc này được đặc trưng hóa một cách rạch ròi, được nhìn nhận là có vai trò trong việc cai quản thế giới tự nhiên và xã hội của con người một cách chủ động. Hành động của tôn giáo tiền sử là hình thái cúng tế dành cho các vị thần, thánh, được nhân cách hóa từ những nhân vật thần thoại trong loại hình tôn giáo trước. - Tôn giáo lịch sử được biểu hiện rất khác nhau ở mỗi cộng đồng tộc người. Trong triết lý của tôn giáo lịch sử có xuất hiện thế giới siêu nhiên cao hơn thế giới trần tục và nắm quyền cai quản thế giới trần tục. Nơi đó có “giáo chủ” vượt ra ngoài vòng sinh tử và là người sáng tạo, cai quản vũ trụ. Hành động trong tôn giáo lịch sử sẽ mang tính “cứu rỗi” con người, qua đó lại xuất hiện những tổ chức tôn giáo tách biệt với các tổ chức xã hội thông thường. Tổ chức tôn giáo nhằm hướng con người đến với phương thức cứu rỗi trong tôn giáo. Tùy thuộc vào từng tôn giáo mà có các tổ chức và hành động tôn giáo khác nhau. - Tôn giáo cận đại là sự phân hóa của tôn giáo lịch sử. Nội dung tập trung vào mối quan hệ trực tiếp giữa các cá nhân với các thực thể siêu việt. Một số loại hình lễ nghi trong tôn giáo lịch sử bị loại bỏ vì cho rằng “mê tín”, hoặc chuyển thể thành một hình thức khác giống như lễ “tưởng niệm”. Sau tôn giáo cận đại sẽ là
  19. 18 tôn giáo hiện đại và Robert N. Bellah cho rằng tôn giáo hiện đại vẫn đang nằm trong “bước chuyển” nên chưa thể xác định rõ ràng. Nếu Robert N. Bellah phân loại tôn giáo theo thời gian, một số nhà nghiên cứu khác [65][176][232] lại phân loại tôn giáo theo không gian. Theo đó, tôn giáo được phân thành: Tôn giáo dân tộc, Tôn giáo khu vực, Tôn giáo thế giới, Tôn giáo bản địa. - Tôn giáo dân tộc là những tôn giáo được hình thành trong xã hội có giai cấp, trong khuôn khổ của những quốc gia nhất định và những cộng đồng nhất định, không vượt ra ngoài khuôn khổ đó thì được xem (một cách qui ước) là tôn giáo dân tộc. Các tôn giáo dân tộc có thể kể đến như Đạo giáo, Nho giáo (ở Trung Quốc), Shinto giáo (ở Nhật), Do Thái giáo (ở người Do Thái)…[232:20-21]. - Tôn giáo khu vực là các tôn giáo có nội dung mang tính phổ quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, các nghi thức cụ thể của cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất định. Các tôn giáo này được phổ biến bằng con đường chiến tranh hay hòa bình, được các quốc gia đã bị lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận, rồi trên nền tảng tôn giáo truyền thống biến đổi thành tôn giáo của riêng quốc gia đó [176:49]. - Tôn giáo thế giới là những tôn giáo có phạm vi phát triển vượt ra ngoài quốc gia, nơi nó ra đời và được nhiều cộng đồng tộc người chấp nhận. Hiện nay, các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Islam, Tin Lành được xem là tôn giáo thế giới vì nó phát triển rộng khắp trên thế giới và được nhiều tộc người khác nhau chấp nhận. - Tôn giáo bản địa (Chú thích – CT:1) là tôn giáo mang sắc thái địa phương, xuất hiện trong một bối cảnh môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội tại chỗ, một thời điểm lịch sử nhất định, của một dân tộc cụ thể và mang dấu ấn kinh tế-văn hóa-xã hội của dân tộc đó. Tôn giáo bản địa chỉ của riêng một bộ phận cư dân trong dân tộc, tại một vùng đất cụ thể, không lan rộng trên quy mô toàn lãnh thổ. Nội dung của khái niệm tôn giáo Tôn giáo bản địa rất gần với khái niệm Tôn giáo dân tộc, có thể là một nhưng có khi là hai. Tôn giáo dân tộc (ví dụ đạo Shinto của Nhật Bản) phổ biến toàn thể một dân tộc với tâm thức chung,
  20. 19 nhưng Tôn giáo bản địa (có thể gọi là tôn giáo địa phương) chỉ của một bộ phận cư dân trong dân tộc đó, tại một vùng đất cụ thể, không lan rộng trên quy mô toàn lãnh thổ và không phải tất cả hoặc hầu hết mọi người trong dân tộc đó đều theo như Tôn giáo dân tộc. Tại Nam Bộ, Tôn giáo bản địa chủ yếu là của người Việt, do một bộ phận người Việt sáng tạo ra và mang tính hỗn dung (syncretisme) do ảnh hưởng giáo lý cũng như sắc thái văn hóa, tâm lý của các tôn giáo khác và các dân tộc khác… Sự hỗn dung trong tôn giáo bản địa ở Nam Bộ như là đạo Cao Đài cũng có gốc rễ sâu xa và chịu sự chi phối, tác động trực tiếp của những tiền đề kinh tế -văn hóa-xã hội và lịch sử của vùng đất Nam bộ. Ngoài ra, một số tài liệu khác [53][54][65] còn phân tôn giáo thành các dạng như: tôn giáo hỗn hợp, tôn giáo mới… Trong đó: - Tôn giáo hỗn hợp là tôn giáo xây dựng giáo lý và cả cơ cấu của mình dựa trên khuôn mẫu của nhiều tôn giáo đã có từ trước, có thể là vì chịu ảnh hưởng xã hội của các tôn giáo kia, cũng có thể vì muốn dễ thu hút tín đồ mới trong quần chúng tín đồ các tôn giáo cũ đã mang thói quen tín ngưỡng không dễ sửa bỏ [54:648]. - Tôn giáo mới, gọi chung là “đạo lạ”, “đạo mới”, “tạp giáo”… là các tôn giáo xuất hiện từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX trở lại đây, trong đó có nh iều tôn giáo bị ghi vào “danh sách đen” của chính quyền nhiều nước vì được coi là thủ phạm của các hoạt động gây bất ổn cho xã hội. Tôn giáo mới có thể chia thành bốn loại dựa trên tính đặc thù hoạt động của nó là: Phong trào thờ cúng, Phong trào thánh linh mới giáng lâm, Phong trào tà giáo đương đại và Phong trào tu luyện thân tâm [54:648-650]. Tóm lại, theo các nguồn tài liệu thư tịch, tôn giáo hiện nay được chia thành nhiều loại hình khác. Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở Việt Nam và nước ngoài, đạo Cao Đài ở Nam Bộ mà chúng tôi chọn để nghiên cứu cho luận án tiến sĩ thuộc loại hình Tôn giáo bản địa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2