ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––––

ĐẶNG THỊ NGỌC LINH

CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC” CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––––

ĐẶNG THỊ NGỌC LINH

CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC” CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG

Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam

Mã số: 8.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Lộc

THÁI NGUYÊN - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu của bản thân. Các kết quả, số liệu trình bày trong luận văn là đúng sự thật, nguồn gốc rõ ràng.

Thái Nguyên, ngày 01 tháng 06 năm 2020

Tác giả

Đặng Thị Ngọc Linh

i

LỜI CÁM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong bộ môn

Ngôn ngữ Việt Nam,Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã dành thời gian

góp ý giúp tôi hoàn thiện luận văn của mình.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình

chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện luận văn.

Xin cảm ơn gia đình, các học viên cùng lớp Ngôn ngữ Việt Nam và đã tạo

điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong ngày tháng học tập và nghiên cứu.

Xin cảm ơn các nhà khoa học trong và ngoài trường; các đồng nghiệp đã

tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong công việc để hoàn thành luận văn này.

Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng năng lực bản thân còn hạn chế, luận văn

không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp

quý báu của quý thầy cô, các nhà khoa học và đồng nghiệp.

Thái Nguyên, ngày 01 tháng 6 năm 2020

Học viên

Đặng Thị Ngọc Linh

ii

MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2

5. Dự kiến đóng góp của đề tài ............................................................................ 3

6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 3

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ

LÍ LUẬN ............................................................................................................ 4

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 4

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu ..................................................................... 4

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ .............................................. 9

1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan .................. 12

1.2. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 16

1.2.1. Một số vấn đề khái quát về câu ............................................................... 16

1.2.2. Câu không đầy đủ .................................................................................... 24

1.2.3. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và “Truyện ngắn chọn lọc” ................... 29

1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 33

Chƣơng 2: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP .............. 34

2.1. Nhận xét chung ........................................................................................... 34

2.2. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược ................................... 36

2.2.1. Xác định câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược ................. 36

iii

2.2.2. Vấn đề phân biệt câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược với

câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu ............................................ 38

2.2.4. Các kiểu câu tỉnh lược ............................................................................. 40

2.2.5. Vấn đề khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược ......................................... 52

2.3. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu .................................... 57

2.3.1. Câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu ........................ 57

2.3.2. Câu không đầy đủ vốn là trạng ngữ được tách ra .................................... 59

2.3.3. Câu không đầy đủ vốn là vế câu được tách ra ......................................... 60

2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 61

Chƣơng 3: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA,

NGỮ DỤNG .................................................................................................... 63

3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 63

3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa ................................................... 63

3.2.1. Tính không đầy đủ hay tính phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ 63

3.2.2. Các kiểu câu tỉnh lược nghĩa ở câu không đầy đủ ................................... 65

3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng (giao tiếp, ngữ pháp giao tiếp) ... 70

3.3.1. Cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ ................................................ 71

3.3.2. Cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ ................................................ 75

3.3.3. Câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo ..................................... 79

3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 84

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Câu không đầy đủ là câu có sự lược bỏ hoặc thiếu vắng một hay một

số thành phần bắt buộc trong câu.

1.2. Trong các loại văn bản, đặc biệt là trong văn bản nghệ thuật, câu

không đầy đủ được dùng khá phổ biến. Do có những nét đặc sắc về cấu tạo và

ý nghĩa mà từ lâu, câu không đầy đủ đã thu hút sự quan tâm của các nhà

nghiên cứu.

1.3. Trong số các tác giả văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Công Hoan

là một trong những nhà văn hiện thực có những đóng góp xuất sắc trong đó có

những đóng góp về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm của ông đã được

giảng dạy trong các trường đại học cũng như trường phổ thông. Do đó, việc

nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan về nội dung và nghệ thuật,

trong đó có cách dùng từ đặt câu, không chỉ làm rõ những đóng góp của tác giả

vào nền văn học nước nhà mà còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của

việc nghiên cứu, dạy học tác phẩm của ông trong nhà trường.

1.4. Đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về câu không

đầy đủ từ nhiều góc độ khác nhau nhưng riêng việc nghiên cứu về câu không

đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ

pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng hầu như chưa được chú ý.

1.5. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu câu không đầy đủ trong “Truyện

ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ

dụng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn.

Về lý luận, việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ đặc điểm của câu

không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các

mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng; qua đó, góp phần bổ sung một số khía

cạnh lý thuyết về câu nói chung, câu không đầy đủ nói riêng với tư cách là đơn

vị đa bình diện theo cách nhìn của ngữ pháp chức năng.

1

Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài này cung cấp một tài liệu tham

khảo hữu ích, cần thiết đối với việc nghiên cứu và dạy học về ngữ pháp nói

riêng, về ngữ văn nói chung.

1.6. Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài:

Câu không đầy đủ trong “ Truyện ngắn chọn lọc”của Nguyễn Công Hoan xét

về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ

trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan; qua đó, góp phần nâng

cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tiếng Việt.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác lập cơ sở lí luận của đề tài.

- Thống kê, phân loại câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc”

của Nguyễn Công Hoan.

- Miêu tả, làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn

chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là câu không đầy đủ trong “Truyện

ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đặc điểm của câu không đầy đủ trong

“Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các mặt: ngữ pháp (kết

học), nghĩa học và dụng học.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp miêu

tả với các thủ pháp phù hợp như : thống kê, phân loại, phân tích ngữ pháp, ngữ

nghĩa, mô hình hóa, lược bỏ, thay thế, bổ sung.

2

5. Dự kiến đóng góp của đề tài

- Về lí luận : Qua việc miêu tả làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ

trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp,

ngữ nghĩa, ngữ dụng; đề tài góp phần bổ sung một số khía cạnh lí thuyết về câu

nói chung, câu không đầy đủ nói riêng trong tiếng Việt theo quan điểm ngữ

pháp chức năng (trên cứ liệu một tác phẩm văn học của một tác giả cụ thể).

- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể dùng làm tài liệu tham

khảo trong việc dạy học tiếng Việt và dạy học văn học trong nhà trường.

6. Cấu trúc của đề tài

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ

LÍ LUẬN

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

1.2. Cơ sở lí luận

1.3. Tiểu kết

CHƢƠNG 2. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP

2.1. Dẫn nhập

2.2. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng thủ pháp lƣợc bỏ

2.3. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng thủ pháp tách câu

2.4. Tiểu kết

CHƢƠNG 3. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA,

NGỮ DỤNG

3.1. Dẫn nhập

3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa

3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng

3.4. Tiểu kết

KẾT LUẬN

3

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu

1.1.1.1. Các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu về cú pháp

Vấn đề này đã được Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến tổng kết trong

cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [20]. Dựa vào ý kiến của các tác giả trong công trình

này, có thể nêu tóm tắt các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu tiếng

Việt về cú pháp như sau:

1) Khuynh hướng truyền thống

a) Các tác giả chính và nội dung

Theo Nguyễn Văn Lộc, trong việc phân tích câu về mặt cú pháp, khuynh

hướng truyền thống luôn giữ vai trò chủ đạo với những công trình tiêu biểu của

các tác giả như Hoàng Tuệ [49], Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê [6],

Nguyễn Kim Thản [32],[33],[34],[35] I.X. Bưxtrov, Nguyễn Tài Cẩn [4], N.V.

Stankevich [17], Hoàng Trọng Phiến [22], Diệp Quang Ban [1],[2] .

Nét chung đồng thời cũng là nét cơ bản của cách phân tích câu truyền

thống là thừa nhận chủ ngữ, vị ngữ là hai thành phần chính (nòng cốt) của câu

và ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ, câu còn có các thành phần

phụ như trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ... Cách phân tích câu theo quan niệm trên

đây có tính phổ biến nhất không chỉ trong Việt ngữ học mà cả trong ngôn ngữ

học nước ngoài.

b) Đánh giá

- Về ưu điểm: Cách phân tích câu theo truyền thống đã phản ánh tương

đối đầy đủ và trung thực tổ chức cú pháp của câu. Nó đã đưa ra được một bức

tranh về thành phần câu tương đối phù hợp với cảm nhận của người bản ngữ.

Về mặt thực tiễn, hệ thống khái niệm ngữ pháp nói chung và hệ thống thành

phần câu nói riêng của ngữ pháp học truyền thống đã giúp cho người học nắm

4

được một cách khá thuận lợi tổ chức ngữ pháp của câu và có thể vận dụng có

hiệu quả trong nói, viết. Sự tồn tại lâu dài và tính ổn định tương đối của hệ

thống khái niệm ngữ pháp truyền thống chứng tỏ giá trị lí luận và thực tiễn to

lớn của nó.

- Về hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm trên đây, cách phân tích câu theo

truyền thống cũng còn những hạn chế nhất định như N.I. Tjapkina đã nhận xét:

"Trong khuôn khổ của quan niệm truyền thống, việc miêu tả một cách không mâu

thuẫn hệ thống thành phần câu vẫn chưa đạt được; hơn nữa, vẫn chưa có được cả

phương pháp cho phép định nghĩa một cách không mâu thuẫn thành phần câu

như là thể thống nhất của hình thức và nội dung của nó" (Dẫn theo [20,194]).

Những hạn chế của khuynh hướng truyền thống khiến nhiều tác giả đã cố

gắng tìm tòi, đề xuất những cách phân tích mới.

2) Một số công trình theo hướng tìm tòi mới

a) Cách phân tích câu theo quan điểm ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo

Trong những hướng tìm tòi mới, cách phân tích câu theo quan điểm ngữ

pháp chức năng của Cao Xuân Hạo là một trong những hướng đáng chú ý.

Ảnh hưởng tư tưởng của Ch.L. Li và S.A. Thompson về tính thiên chủ đề

của một số ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt, trong công trình Tiếng Việt Sơ

thảo ngữ pháp chức năng (1991), Cao Xuân Hạo không thừa nhận cấu trúc chủ

vị là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Theo ông, cấu trúc cú pháp cơ

bản và duy nhất của câu tiếng Việt là cấu trúc đề thuyết. Công trình trên đây

của Cao Xuân Hạo được coi là sự mở đầu cho một hướng mới trong nghiên cứu

câu tiếng Việt: hướng nghiên cứu câu theo bình diện giao tiếp (cú pháp giao

tiếp, thông báo, ngữ dụng) mà trước đó còn ít được chú ý. Tuy nhiên, theo

Nguyễn Văn Lộc, cách phân tích, phân loại câu theo đề thuyết mà Cao Xuân

Hạo chủ trương không loại trừ và thay thế cách phân tích câu theo bình diện cú

pháp như một số tác giả đã chỉ ra [10, 15].

5

b) Cách phân tích câu theo đề- thuyết của Hồ Lê

Cũng chủ trương phân tích câu theo đề- thuyết, Hồ Lê dựa vào các kiểu

quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trực tiếp tạo nên cấu trúc câu để phân loại

câu. Theo ông, ngoài câu một thành phần hay câu gọi tên (thí dụ: Mùa xuân.),

các câu hai thành phần đều có cấu tạo đề thuyết và bao gồm bốn kiểu:

- Câu chủ -vị (chủ ngữ - vị ngữ)

Ví dụ: Ông Ba đi họp.

- Câu đề - ứng (đề ngữ - ứng ngữ)

Ví dụ: Quyển sách này, ông Ba mới mua.

- Câu cách thức - hành động (thức ngữ - hành động ngữ)

Ví dụ: Một cách chậm rãi, ông Ba bắt đầu kể chuyện.

- Câu điều kiện - hệ quả (điều kiện ngữ - hệ quả ngữ)

Ví dụ: Nhờ gia đình chăm sóc tốt nên ông Ba chóng bình phục. (Dẫn theo [20,

194-195])

Theo nhận xét của Nguyễn Văn Lộc, đề xuất trên đây của Hồ Lê chưa

thật sự xuất phát từ bản chất cú pháp của câu và thành phần câu (từ ý nghĩa cú

pháp và hình thức cú pháp tương ứng) và chính điều đó không cho phép phân

biệt các biến thể khác nhau của một kiểu câu.

Ví dụ: Ông Ba mới mua quyển sách này.

→ Quyển sách này, ông Ba mới mua. [ 20,195].

c) Cách phân tích câu của Trần Ngọc Thêm

Trong giải pháp của Trần Ngọc Thêm, mặc dù, cặp đề - thuyết cũng được

sử dụng để phân tích câu nhưng khác với các tác giả khác, ông vẫn sử dụng các

khái niệm truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Tác giả cho

rằng cặp chủ đề - thuật đề (cặp đề - thuyết) không đồng nhất với cặp chủ ngữ -

vị ngữ cũng như cặp nêu - báo (cái đã biết - cái mới) [40, 48 - 49].

Về cách phân tích này, Nguyễn Văn Lộc đã nhận xét: với việc đưa các

khái niệm đề - thuyết vào việc phân tích câu mà vẫn giữ lại các khái niệm

6

truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ..., cách phân tích của Trần

Ngọc Thêm đã gợi mở một hướng nghiên cứu phù hợp, theo đó, cấu trúc của

câu như là đơn vị đa bình diện có thể được xem xét đồng thời theo các bình

diện khác nhau, nghĩa là việc phân tích câu theo đề - thuyết không loại trừ cách

phân tích câu theo cấu trúc chủ vị. [20,195].

d) Cách phân tích câu của V.S.Panfilov (coi vị ngữ là đỉnh của câu)

V.S. Panfilov là tác giả có cách nhìn nhận có nhiều điểm khác với cách

nhìn nhận truyền thống. Xem xét vấn đề thành phần câu dựa vào "những khái

niệm xuất phát về cú pháp"được xác định, V.S. Panfilov quan niệm "thành

phần câu là phạm trù chức năng, đó là yếu tố có quan hệ hình thái - ngữ nghĩa với

vị ngữ hoặc với toàn bộ câu" [23,75]. Theo quan niệm này, hệ thống thành phần

câu được V.S. Panfilov xác định gồm các thành phần tiêu biểu như chủ ngữ, bổ

ngữ, định ngữ của vị ngữ và trạng ngữ. Vị ngữ mặc dù được coi là đỉnh cú pháp của

câu nhưng không được xếp vào số các thành phần câu. Theo Nguyễn Văn Lộc,

quan niệm trên đây của V.S. Panfilov thể hiện cách nhìn sâu sắc đối với vấn đề cú

pháp nói chung, vấn đề thành phần câu nói riêng. [20,195-196].

Năm 2004, với công trình Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh Thuyết

và Nguyễn Văn Hiệp đã đưa ra giải pháp mới mẻ nhằm giải quyết triệt để hơn vấn

đề thành phần câu tiếng Việt [40, 122]. Công trình này được coi là một dấu mốc

quan trọng trong việc giải quyết vấn đề thành phần câu tiếng Việt. Tuy nhiên, theo

Nguyễn Văn Lộc, cách xác định, phân tích thành phần câu thiên hẳn về mặt hình

thức của các tác giả, xét về mặt lí thuyết cũng như khả năng vận dụng vào thực tiễn

phân tích cú pháp, cũng còn những hạn chế nhất định như Tomita Kenji đã nhận xét

trong lời giới thiệu về công trình này [20,196].

3) Lí thuyết kết trị và vấn đề phân tích câu về cú pháp theo kết trị của từ

a) Vài nét về lí thuyết kết trị

Lí thuyết kết trị của L. Tesnière và cách vận dụng vào phân tích câu đã

được trình bày cụ thể trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc và

Nguyễn Mạnh Tiến (2017). Có thể nêu tóm tắt vấn đề này như sau:

7

Theo L. Tesnière, kết trị của động từ chính là thuộc tính hay khả năng

của động từ thu hút vào mình một số lượng nhất định các diễn tố (chủ ngữ, bổ

ngữ) cũng tương tự như khả năng của nguyên tử kết hợp với một số lượng xác

định các nguyên tử khác.

Có thể coi cách hiểu kết trị của động từ như trên đây của L. Tesnière là

cách hiểu hẹp về kết trị.

Dựa vào số lượng diễn tố mà động từ chi phối, L.Tesnière chia động từ

thành động từ không diễn tố hay động từ vô trị (verb avalent, ví dụ : mưa,

nắng, sáng, tối): , động từ một diễn tố hay động từ đơn trị (verb monovalent, ví dụ:

đi, chạy, nhảy, bơi… ), động từ hai diễn tố hay động từ song trị (verb divalent, ví

dụ: ăn, đọc, viết, đánh…), động từ ba diễn tố hay động từ tam trị (verb trivalent, ví

dụ: trao, tặng, mời, khuyên…) (dẫn theo Nguyễn Văn Lộc, [20,199])

b) Các công trình vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu về cú pháp

b1) Trong ngôn ngữ học nước ngoài

Theo Nguyễn Văn Lộc, sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã nhanh chóng

được phổ biến và được áp dụng rộng rãi vào việc phân tích ngữ pháp nói

chung, câu nói riêng. Những tư tưởng, khái niệm, thuật ngữ của lí thuyết kết trị

xuất hiện phổ biến trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học

nổi tiếng như: M.D. Stepanova (1973), O.I. Moskanskaja (1974), G. Helbig

(1978), A.A. Kholodovich (1979), N.I. Tjapkina (1980), S.M. Kibardina

(1982), A.M. Mukhin (1987), S.D. Kasnelson (1988)... [20,200].

Trong các tác giả trên đây, S.D. Kanelson là người đã có những kiến giải

sâu sắc về vấn đề vận lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu. Theo ông, thuộc

tính kết trị của vị từ là cơ sở để xác định các thành phần câu như chủ thể, đối

thể, hoàn cảnh (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ). Đề cập đến cách xác định chủ thể

(chủ ngữ), S.D. Kanelson quan niệm "chủ thể (chủ ngữ) của câu đó hoặc là tham tố

(argument) duy nhất của vị từ một vị trí hoặc là một trong số các tham tố của vị từ

nhiều vị trí thường biểu hiện chức năng chủ đề." (Dẫn theo [20, 200]). Nguyễn Văn

8

Lộc cho rằng ý kiến trên đây của S.D. Kanelson là những gợi dẫn hết sức bổ

ích khi xác định chủ ngữ, bổ ngữ [20, 201]).

b2) Trong Việt ngữ học

Trong Việt ngữ học, lí thuyết kết trị và cách vận dụng lí thuyết này vào

việc nghiên cứu ngữ pháp nói chung, câu nói riêng đã được đề cập đến trong

các công trình của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy, Đinh Văn Đức, Nguyễn

Văn Lộc, Nguyễn Văn Hiệp, Lâm Quang Đông và một số tác giả khác. Tuy

nhiên, ở hầu hết các tác giả này, lí thuyết kết trị và việc vận dụng vào phân tích

ngữ pháp chủ yếu được đề cập khi xem xét, miêu tả vị từ hoặc mặt ngữ nghĩa

(nghĩa biểu hiện) của câu. (Dẫn theo [20,202]).

Chỉ đến công trình của Nguyễn Mạnh Tiến (2016, Phân tích câu về cú

pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ [46]), vấn đề vận dụng lí thuyết kết trị

vào việc phân tích câu về cú pháp mới thực sự được đặt ra và được xem xét

một cách có hệ thống và chuyên sâu. Tài liệu này cũng là một trong những cơ

sở được dựa vào để triển khai một số nội dung quan trọng luận văn cụ thể là

vấn đề xác định thành phần chính của câu (vị ngữ) và thành phụ của câu (chủ

ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ).

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ

Vấn đề câu không đầy đủ đã được đề cập đến trong một số công trình

của các tác giả nước ngoài và trong nước. Dưới đây tôi, xin nêu tóm tắt một số

quan niệm về vấn đề này.

1) Các quan niệm về câu không đầy đủ

a) Quạn niệm của L.Blum phin

Vấn đề phân chia câu bình thường thành câu đầy đủ (câu trọn vẹn) và

câu không đầy đủ (câu tỉnh lược) đã được đề cập đến từ lâu trong các công

trình nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung, về ngữ pháp nói riêng. L.Blum phin,

nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Mỹ cho rằng: "Có lẽ trong tất cả các ngôn

ngữ, câu đều được chia thành hai kiểu cơ bản có thể gọi là câu đầy đủ và câu

9

không đầy đủ (câu tỉnh lược)" (Dẫn theo [20,427]). Theo ông, câu đầy đủ là

câu có hình thức được ưa thích nhất, có tính thông dụng nhất, còn câu không

đầy đủ là những câu không có hình thức bình thường thông dụng nhất của câu

(Dẫn theo [20,427]).

b) Quan niệm của S.E.Jakhontov

S.E. Jakhontov, một nhà ngôn ngữ học người Nga, khi bàn về nguyên tắc

xác định thành phần câu trong tiếng Hán, đã đưa ra sự phân biệt câu trọn vẹn

(câu đầy đủ) và câu không trọn vẹn (câu không đầy đủ). Theo tác giả, câu

không trọn vẹn là câu:

- Chỉ có thể hiểu đúng trong ngữ cảnh cụ thể.

- Có thể biến nó thành câu không phụ thuộc vào ngữ cảnh bằng cách bổ sung

cho nó một hay một số từ. Tất cả những câu còn lại đều được coi là câu trọn

vẹn (Dẫn theo [20,427]).

Theo đánh giá của Nguyễn Văn Lộc, cách xác định câu trọn vẹn thông

qua câu không trọn vẹn của S.E. Jakhontov như trên đây được coi là có tính

khoa học, chặt chẽ và được nhiều tác giả tán thành, vận dụng. Đây cũng là quan

niệm mà tác giả luận văn tiếp thu khi xác định khái niệm câu không đầy đủ.

c) Quan niệm của Diệp Quang Ban

Diệp Quang Ban không sử dụng thuật ngữ câu không đầy đủ khi đề cập

đến những câu thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ ngữ, vị

ngữ, bổ ngữ). Tác giả phân biệt hai loại câu: câu tỉnh lược và câu dưới bậc.

Sự khác nhau giữa hai loại câu này là ở chỗ:

- Ở câu tỉnh lược, thành phần bị lược bỏ có thể khôi phục lại được. Ví

dụ: “Của đáng mười Nhu chỉ bán được năm. Có khi Ø chẳng lấy được đồng

nào.” (Nam Cao). Trong câu vừa dẫn, thành phần bị lược bỏ là chủ ngữ (Nhu)

có thể khôi phục lại được.

- Ở câu dưới bậc yếu tố vắng mặt không thể khôi phụ lại một cách bình

thường. Ví dụ: “Huấn đi về trạm máy kéo. Một mình, trong đêm.” (Nguyễn

10

Thị Ngọc Tú). Câu vừa dẫn (in đậm) được coi là câu dưới bậc. Theo Diệp

Quang Ban, ở câu này không thể khôi phục lại các thành phần bắt buộc vắng

mặt. [1, 278-279]

d) Quan niệm của Trần Ngọc Thêm

Ở Trần Ngọc Thêm, câu không đầy đủ được đề cập với tên gọi là ngữ

trực thuộc. Theo tác giả, ngữ trực thuộc là những phát ngôn (câu) không hoàn

chỉnh về cấu trúc, tức là thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ

ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) [40, 47]. Về thực chất, ngữ trực thuộc theo cách hiểu của

Trần Ngọc Thêm là những câu tỉnh lược thành phần bắt buộc. Như vậy, ở Trần

Ngọc Thêm, câu không đầy đủ có thể hiểu là những câu tỉnh lược thành phần

bắt buộc.

đ) Cách xác định câu không đầy đủ của Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến

Dựa vào cách xác định của S.E. Jakhontov, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn

Mạnh Tiến, đã xác định khái niệm câu đầy đủ, câu không đầy đủ một cách đơn

giản, trực tiếp. Các tác giả cho rằng có thể hiểu câu đầy đủ là câu không có

hiện tượng tỉnh lược (thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi

ngữ cảnh của câu. Ngữ cảnh của câu nói ở đây được hiểu bao gồm: văn cảnh

ngoài câu (được hiểu là những câu (hay phần văn bản) ở trước và sau câu được

xét) và hoàn cảnh, tình huống nói năng (gồm hình thức, tính chất, mục đích giao

tiếp, đặc điểm của chủ thể, đối thể giao tiếp). Phù hợp với cách hiểu vừa nêu về

câu đầy đủ, câu không đầy đủ được hiểu là câu có sự tỉnh lược (thiếu vắng) thành

phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi ngữ cảnh của câu. [20,427- 428].

2) Về cách phân loại câu không đầy đủ

Trong các công trình về ngữ pháp, câu không đầy đủ thường được phân

loại theo hai cách: theo phương thức cấu tạo và theo thành phần bị lược bỏ.

- Theo phương thức cấu tạo, cấu không đầy đủ được chia thành:

+ Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược. Ví dụ: “Tiếng hát ngừng.

Cả tiếng cười Ø.” (Nam Cao) Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra

bằng phép tỉnh lược (lược vị ngữ).

11

+ Câu được tạo ra bằng phép tách câu. Ví dụ: “Tôi đứng dậy. Dưới trời mưa.”

(Nguyễn Huy Tưởng). Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép

tách câu (tách trạng ngữ)

- Theo thành phần bị tỉnh lược, câu không đầy đủ được chia thành:

+ Câu tỉnh lược chủ ngữ. Ví dụ: “Tôi tìm dấu vết nạn lụt. Ø Vẫn còn.” (Phan Tứ)

+ Câu tỉnh lược vị ngữ. Ví dụ: “Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của nhà hát

lớn, sân khấu người xem. Tôi, Ø đến vợ con." (Nam Cao)

+ Câu tỉnh lược bổ ngữ. Ví dụ: “Ấy khẽ chứ cậu, để nó ngủ. Tôi vừa mới

đặt Ø xong." (Thạch Lam)

+ Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ. Ví dụ: “Thật cậu Phúc ác quá. Ø Đã

không cho Ø thì thôi lại còn thả chó ra đuổi Ø.” (Thạch Lam)

+ Câu tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. Ví dụ: “Đó là tiếng cười, tiếng hát.

Có lẽ Ø Ø Ø của dân làng.” (Tô Hoài)

+ Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li. Ví dụ: “Hai mắt

ông trợn ngược. Hai má Ø phình to. Cái đầu Ø lúc lắc.” (Nam Cao)

1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan

Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy truyện ngắn của văn học Việt Nam

hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như

một "bách khoa thư”, một "tấn trò đời” mà đặc trưng là xã hội thực dân phong

kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Qua các sáng tác của mình, Nguyễn Công

Hoan đã chứng tỏ là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Các tác phẩm

của ông có sức hấp dẫn lớn, đã thu hút được rất nhiều các nhà nghiên cứu mà tiêu

biểu là: Lê Thị Đức Hạnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phan

Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Vương Trí Nhàn, Trương Chính, Nguyễn Đức

Đàn, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Khắc Thuần, Trúc Hà, Thiếu Sơn, Hải Triều…

Trong công trình Khảo sát cấu trúc câu văn truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan Nguyễn Khắc Thuần đã nhận xét: "Nguyễn Công Hoan đã sử dụng hầu

hết các loại kiểu dạng cấu trúc câu trong tiếng Việt… Nguyễn Công Hoan sử

12

dụng tài tình, linh hoạt, có hiệu quả loại câu ngắn, đặc biệt là những câu có từ

năm chữ trở xuống. Lúc thì tác giả dùng liên tiếp tạo thành đoạn văn; lúc thì

dùng độc lập ở đầu, ở giữa, hoặc cuối truyện; lúc thì phối hợp với câu dài ở

trong cùng một đoạn văn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc đến mức trong

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, số lượng câu dài và câu ngắn tương đương

nhau nhưng khi đọc truyện ngắn của ông, người đọc có cảm giác như trong

truyện ngắn của ông, câu ngắn được dùng nhiều hơn câu dài. Chính câu ngắn

đã tạo nên nét khác lạ về câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan so với

tác giả khác”[41, 57-85].

Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh cũng đã dành nhiều tâm huyết cho

truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Nhận xét về ngôn ngữ của Nguyễn Công

Hoan, tác giả đã khẳng định: "Văn Nguyễn Công Hoan khá gọn gàng, sáng sủa,

thiết thực, linh hoạt. Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần

chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm hương vị ca dao, tục ngữ…chữ dùng của

ông thường giản dị, giàu hình ảnh cụ thể hay so sánh ví von” [11, 201-202]. Theo

tác giả:"Nguyễn Công Hoan luôn giữ cho lời văn, ngôn ngữ trong truyện trong

sáng, chính xác, mang bản sắc của văn hóa dân tộc” [11,208]. Tác giả còn chỉ

ra tính chất cá thể hóa sâu sắc trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công

Hoan: "Ngôn ngữ các loại nhân vật trong truyện của Nguyễn Công Hoan cũng

mang sắc thái riêng, bộc lộ được tâm lí xã hội của từng nhân vật, trộn cũng

không lẫn” [11,117]. Ngoài ra, Lê Thị Đức Hạnh còn so sánh văn phong của

Nguyễn Công Hoan với văn phong của các nhà văn hiện thực phê phán khác

với nhiều nhận xét chính xác và tinh tế về sự tương đồng, đặc biệt là khác biệt.

Nghiên cứu chất hài trong câu văn Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thanh

Tú nhận xét: "Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là thứ ngôn ngữ suồng sã.

(…) Trong nội bộ câu văn của Nguyễn Công Hoan thường mang mâu thuẫn hài

hước đối chọi ở bên trong. (…) Nhà văn có những lối ví von so sánh, độc đáo,

những liên tưởng bất ngờ, thú vị. (…) Câu văn Nguyễn Công Hoan thường

13

ngắn gọn (…) có sự tuân thủ phép lặp cú pháp vì mục đích nghệ thuật gia tăng

sắc thái hài hước” [27, 209-215]. Trong bài "Lời văn mỉa mai trong Đồng hào

có ma”, tác giả đã chỉ rõ tài sử dụng ngôn ngữ “suồng sã” để "lật ngửa”, "lộn

trái” đối tượng nhằm mục đích mỉa mai, phê phán đối tượng.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan kể trên đây còn có loạt công trình là luận văn, luận án nghiên cứu

về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan từ các góc độ, bình diện khác nhau. Có

thể kể đến một số công trình sau đây.

Lò Thị Duyên trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm ngôn ngữ của truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan, đã nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật, đối thoại và độc

thoại về các mặt từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu từ. Tác giả cho rằng ngôn

ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ trào phúng, châm biếm với

sự tinh tế, lão luyện.

Luận văn thạc sĩ "Phương tiện tu từ nói mỉa trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan” (Nguyễn Thị Hương Lan, 2000) đã đề cập đến các dạng thức nói

mỉa trên nhiều cấp độ văn bản: cấp độ từ ngữ trong câu, cấp độ đoạn văn, cấp

độ văn bản… qua đó, chỉ ra những đóng góp quan trọng của Nguyễn Công

Hoan vào nghệ thuật trào phúng. Nguyễn Thanh Hương trong luận văn thạc sĩ

Đặc điểm tình huống đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2001)

đã đề cập đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan gắn

với tình huống giao tiếp cụ thể của cuộc thoại dựa trên lí thuyết ngữ dụng học

và phong cách học.

Lê Ngọc Hòa trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm cách xưng hô của các vai

giao tiếp trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2006) đã khảo sát lớp từ xưng

hô trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, qua đó, chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ

giữa ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa - xã hội.

Hoàng Minh Hải với đề tài Các phương thức và đặc điểm gây cười qua

lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2008) đã vận dụng lý

14

thuyết hội thoại để nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm của nghệ thuật và nguyên lí

gây cười của Nguyễn Công Hoan. Trần Thị Thủy với đề tài Đối sánh ngôn ngữ

trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và tiểu thuyết Số đỏ của Vũ

Trọng Phụng đã so sánh đặc điểm ngôn ngữ trào phúng, cụ thể, so sánh tính

chất trào phúng của ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong các tác

phẩm thuộc hai thể loại khác nhau của hai nhà văn trào phúng bậc thầy của văn

học Việt Nam hiện đại.

Hà Thị Tuyết trong luận văn thạc sĩ Câu có hình thức nghi vấn trong tác

phẩm của nguyễn Công Hoan (2010) đã nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và ý

nghĩa của câu nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan; qua đó, chỉ ra

những nét riêng về nội dung và hình thức của câu hỏi trong tác phẩm của

Nguyễn Công Hoan. Với đề tài So sánh câu văn trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan và truyện ngắn Thạch Lam, Hoàng Thị Tố Quyên khảo sát chỉ ra

những nét tương đồng và khác biệt của câu văn trong tác phẩm cảu hai tác giả

này về phương diện cấu tạo và biện pháp tu từ. Võ Thị Dung trong luận văn

thạc sĩ Chức năng ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát ngôn trong truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật về mặt ngữ pháp,

ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ tình thái trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan. Năm 2018, tác giả Nguyễn Thị Hồng Chuyên trong đề tài luận văn thạc

sĩ của mình: Các chu tố của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (xét

về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng) đã nghiên cứu một cách tương đối có

hệ thống về chu tố của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan theo

quan điểm ngữ pháp chức năng. Ở công trình này, tác giả đã miêu tả khá tỉ mỉ

đặc điểm về ngữ pháp (cấu tạo, phương thức kết hợp, vị trí, khả năng cải biến),

ngữ nghĩa (vai trò ngữ nghĩa và các kiểu nghĩa biểu hiện), ngữ dụng (chức năng

xác lập chủ đề, tạo lập chủ đề tương phản) của chu tố (thành tố tương đương

với trạng ngữ).

15

Ngoài các công trình kể trên, trong thời gian gần đây còn xuất hiện một

số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học. Trong Tạp chí văn học nghệ thuật,

số 343 (2013), tác giả Thành Đức Bảo Thắng với bài Nghệ thuật khắc họa nhân

vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra ba kiểu ngôn ngữ đối thoại

trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan: người kể chuyện đối

thoại với nhân vật, người kể chuyện đối thoại với độc giả và nhân vật đối thoại

với nhân vật. Tác giả cho rằng vận dụng sáng tạo và linh hoạt ngôn ngữ đối

thoại, Nguyễn Công Hoan đã tạo mạch nối giữa tiếng cười dân gian và tiếng

cười hiện đại. Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

hướng tới phơi bày bản chất của con người, của xã hội bằng tiếng cười trào

phúng giàu kịch tính. Đó là thứ ngôn ngữ chứa đựng yếu tố hấp dẫn, tạo được

sự bất ngờ, lột trái hiện tượng, phơi bày mâu thuẫn hài hước… Với ngôn ngữ

giàu kịch tính xuất hiện nhiều trong truyện ngắn trào phúng kết hợp với thủ

pháp tăng cấp, Nguyễn Công Hoan đã đưa người đọc từ ngạc nhiên này tới

ngạc nhiên khác và bật cười khi hiểu rõ câu chuyện.

Điểm lại một số công trình nghiên cứu trên, có thể thấy ngôn ngữ trong

các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan được nhìn nhận từ nhiều góc độ, bình

diện khác nhau với những ý kiến nhận xét sâu sắc, tinh tế. Tuy nhiên, đến nay,

chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về Câu

không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan. Với đề tài

này, chúng tôi hi vọng sẽ bổ sung thêm một tài liệu góp phần làm rõ thêm đặc

điểm ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan.

1.2. Cơ sở lí luận

1.2.1. Một số vấn đề khái quát về câu

1.2.1.1. Khái niệm câu

Việc xem xét các khuynh hướng chính trong việc định nghĩa câu với một

số cách định nghĩa cụ thể cho thấy những khó khăn, phức tạp của việc định

nghĩa câu. Có thể nói rằng đến nay, vẫn chưa có được cách định nghĩa câu thoả

16

mãn được tất cả hoặc hầu hết các nhà ngữ pháp. Trong điều kiện như vậy, việc

lựa chọn cách định nghĩa nào đó phụ thuộc vào góc nhìn của nhà nghiên cứu,

vào mục đích nghiên cứu, giảng dạy và học tập ngữ pháp.

Trong luận văn này, chúng tôi chọn cách định nghĩa câu vào khối lượng

và chức năng. Khác với các khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào nội dung (ý

nghĩa), hình thức (cấu tạo) hoặc dựa vào cả nội dung lẫn hình thức, theo đó, câu

được xác định một cách độc lập, riêng biệt (không đặt trong mối quan hệ với

các đơn vị ngôn ngữ khác trong cùng hệ thống), khuynh hướng định nghĩa câu

dựa vào khối lượng và chức năng chủ trương xác định câu trong mối quan hệ hệ

thống với các đơn vị ngôn ngữ khác. Theo hướng này, câu cũng như các đơn vị

ngôn ngữ khác cùng hệ thống luôn được định nghĩa dựa vào hai mặt: mặt so sánh

khối lượng và mặt chức năng. Cụ thể, câu được định nghĩa như sau: "Câu là kiểu

đơn vị nhỏ nhất mà có thể mang một thông báo tương đối hoàn chỉnh" [4, 363].

Theo Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến, cách định nghĩa này thường

được nhận xét là không nêu được các dấu hiệu hình thức đặc trưng của câu.

Nhưng bù lại, cách định nghĩa này có ba ưu điểm cơ bản:

Thứ nhất, đây là cách định nghĩa mang tính hệ thống rõ rệt nhất. Nó

thống nhất về nguyên tắc với cách định nghĩa các đơn vị ngôn ngữ khác cùng

hệ thống với câu như âm vị, hình vị, từ cho nên rất tiện cho việc đối chiếu

chúng với nhau.

So sánh:

- Âm vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có chức năng khu biệt nghĩa.

- Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có nghĩa.

- Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có khả năng vận dụng độc lập.

- Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có chức năng thông báo.

Thứ hai, cách định nghĩa này nêu lên được những tiêu chí cần thiết cho

phép xác định câu, phân biệt nó với các đơn vị nhỏ hơn và lớn hơn thuộc cùng

hệ thống: Tiêu chí "có chức năng thông báo" được đưa vào định nghĩa có tác

17

dụng phân biệt câu với từ, hình vị, âm vị, vốn không có chức năng này; còn tiêu

chí "nhỏ nhất" có tác dụng phân biệt câu với đơn vị lớn hơn (văn bản) cũng có

chức năng thông báo.

Thứ ba, so với một số cách định nghĩa khác, cách định nghĩa này rất ngắn

gọn nên dễ nhớ hơn. [20, 175-176].

1.2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của câu

Theo Nguyễn Văn Lộc, với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất, câu

được xác định theo những đặc trưng cụ thể sau:

1) Về nội dung

Câu biểu thị một thông báo tương đối hoàn chỉnh. Kèm theo nội dung

thông báo, câu còn biểu thị mục đích, thái độ, tình cảm của người nói đối với

nội dung nói năng hay đối với người nghe.

2) Về cấu trúc (về hình thức bên trong)

Ở dạng điển hình, câu được cấu tạo theo mô hình nhất định với nòng cốt

là một hoặc một vài cụm chủ vị (cụm vị từ), tức là cấu trúc gồm vị từ hạt nhân

(vị ngữ) và các thành tố bổ sung có tính bắt buộc (chủ ngữ, bổ ngữ) hay tự do

(trạng ngữ hay các chu tố) làm rõ nghĩa cho nó.

3) Về hình thức (hình thức bên ngoài hay về ngữ điệu)

Câu luôn có ngữ điệu kết thúc (thể hiện trên chữ viết bằng dấu ngắt câu)

và có thể kèm theo hư từ tình thái hay giao tiếp (à, ư, nhỉ, nhé, thôi, nào...).

Trong các đặc trưng trên đây, chỉ đặc trưng thứ ba luôn có mặt; còn các

đặc trưng thứ nhất, thứ hai có thể vắng mặt hoặc thể hiện không đầy đủ. Những

câu có cả ba đặc trưng được coi câu ở dạng cơ bản (điển hình, điển thể). Những

câu thiếu các đặc trưng thứ nhất và thứ hai được coi là những biến thể không cơ

bản (điển hình) của câu và sự tồn tại của chúng, nhìn chung, đều phụ thuộc vào

ngữ cảnh. [20, 176-177].

18

1.2.1.3. Câu phát ngôn

Có nhiều cách hiểu về khái niệm phát ngôn. Theo Nguyễn Văn Lộc,

trong các công trình ngôn ngữ học, thuật ngữ phát ngôn thường được hiểu theo

những cách sau đây:

-"Phát ngôn là cái biểu hiện cụ thể trong từng lúc của câu"

- Phát ngôn là "sự hiện thực hoá mô hình câu trong lời nói" (Dẫn theo [20, 177])

Theo cách hiểu trên đây, mối quan hệ giữa câu và phát ngôn chính là mối

quan hệ giữa đơn vị trừu tượng (thuộc bình diện ngôn ngữ) với đơn vị cụ thể

(thuộc bình diện lời nói). Mối quan hệ này cũng tương tự như mối quan hệ giữa

âm vị và âm tố, hình vị và hình tố, từ và các dạng thức từ.

Trong luận văn này, tán thành ý kiến của Nguyễn Văn Lộc, những "cái

biểu hiện cụ thể trong từng lúc của câu" hoặc "sự hiện thực hoá mô hình câu

trong lời nói" mà các tác giả gọi là phát ngôn cũng sẽ được gọi chung là câu.

Như vậy, thuật ngữ câu sẽ được dùng để chỉ cả câu như là đơn vị ngữ pháp trừu

tượng (câu - mô hình), cả câu như là đơn vị cụ thể - sản phẩm của sự hiện thực

hoá mô hình cú pháp của câu trong lời nói.

1.2.1.4. Vài nét về các bình diện của câu

Câu là kiểu đơn vị rất phức tạp, có tổ chức nhiều mặt. Theo quan niệm

của ngữ pháp chức năng, câu là thực thể hỗn hợp được tạo nên bởi ba bình

diện: bình diện cú pháp (kết học), bình diện ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện), bình

diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp). Trong việc nghiên cứu

câu, việc xác định các bình diện của câu, bản chất, phạm vi, ranh giới của

chúng đến nay vẫn còn là những vấn đề tranh luận.

1) Bình diện cú pháp

a) Về bản chất của bình diện cú pháp

Theo Nguyễn Văn Lộc, trong các công trình ngôn ngữ học, có hai cách

hiểu về bản chất của bình diện cú pháp:

19

- Coi bình diện cú pháp (ngữ pháp) là bình diện hình thức thuần tuý

Theo cách hiểu này thì "mặt ngữ pháp" được đồng nhất với "mặt biểu

hiện" hay "mặt hình thức" của câu.

Trong Việt ngữ học, quan niệm trên đây thể hiện rõ nhất qua ý kiến của

Cao Xuân Hạo: "Bình diện cú pháp là bình diện của những khái niệm được xác

định bằng những tiêu chuẩn hình thức thuần tuý. Các chức năng cú pháp như

chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ trực tiếp, bổ ngữ gián tiếp, định ngữ được xác định

không phải căn cứ vào việc các ngữ đoạn biểu thị cái gì mà vào mối quan hệ

ngữ pháp với các ngữ đoạn khác được biểu thị bằng các phương tiện gọi là tác

tử cú pháp." [10, 8].

- Coi bình diện cú pháp là bình diện có nghĩa

Trên cứ liệu tiếng Việt, quan niệm này được thể hiện rõ trong một số bài

viết của Nguyễn Văn Lộc [20, 1 - 15].

Quan niệm coi bình diện cú pháp là bình diện có nghĩa không chỉ phù

hợp với lí thuyết ngữ pháp đại cương và lí thuyết ngữ nghĩa (theo đó, sự tồn tại

của các kiểu nghĩa cú pháp như nghĩa chủ thể, đối tượng, công cụ, sở hữu... đã

được xác nhận) mà còn phù hợp với thực tiễn của việc phân tích cú pháp thể

hiện qua việc xác định các thành phần câu dựa vào nghĩa cú pháp, (chẳng hạn,

việc xác định chủ ngữ dựa vào nghĩa cú pháp chủ thể).

Với việc khẳng định bình diện cú pháp là bình diện có nghĩa, khi xác

định các thành phần cú pháp của câu, về nguyên tắc, phải dựa đồng thời cả

vào nghĩa cú pháp lẫn hình thức cú pháp [20, 188].

b) Nội dung của việc nghiên cứu câu theo bình diện cú pháp

Theo Nguyễn Văn Lộc, nội dung của việc nghiên cứu câu theo bình diện

cú pháp gồm 5 vấn đề sau:

- Xác định làm rõ các khái niệm cú pháp cơ bản (ý nghĩa, hình thức, quan hệ cú

pháp; thành tố cú pháp hay thành phần câu; vai trò, chức năng cú pháp; cụm

từ, câu, phát ngôn...).

20

- Xác định các kiểu quan hệ cú pháp, phân biệt quan hệ cú pháp với quan hệ

ngữ nghĩa (quan hệ về mặt nghĩa biểu hiện) và quan hệ về mặt giao tiếp (quan

hệ đề - thuyết).

- Xác định nguyên tắc, thủ pháp, quy trình phân tích câu về cú pháp.

- Xác định, phân loại, miêu tả các loại, kiểu thành phần cú pháp của câu theo

đặc điểm nội dung và hình thức.

- Xác định, phân loại, miêu tả các loại, kiểu câu xét theo cấu tạo ngữ pháp

[20, 188-189].

2) Bình diện ngữ nghĩa, (nghĩa biểu hiện)

Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về bình diện ngữ nghĩa (nghĩa

biểu hiện). Trong luận văn này, tán thành ý kiến của Nguyễn Văn Lộc, chúng

tôi hiểu bình diện ngữ nghĩa, với tư cách là một trong ba bình diện của câu đối

lập với bình diện cú pháp và bình diện giao tiếp (ngữ dụng) theo cách hiểu hẹp,

nghĩa là chỉ gồm nghĩa biểu hiện.

Nội dung của việc nghiên cứu theo bình diện nghĩa biểu hiện là xác định,

miêu tả các thành tố ngữ nghĩa gồm: hạt nhân ngữ nghĩa (biểu thị lõi sự tình)

và các tham thể ngữ nghĩa hay các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của

câu và tiến hành phân loại, phân tích, miêu tả các kiểu câu theo mặt nghĩa biểu

hiện [20, 190-191].

3) Bình diện giao tiếp

Trong các công trình nghiên cứu câu trong quan điểm chức năng, bản

chất, phạm vi của bình diện giao tiếp (ngữ dụng) thường không được hiểu

thống nhất.

Trong luận văn này, tán thành ý kiến của Nguyễn Văn Lộc, chúng tôi coi

đối tượng của việc nghiên cứu câu theo bình diện giao tiếp (cú pháp giao tiếp, ngữ

dụng) là câu -phát ngôn - đơn vị giao tiếp là kết quả của sự hiện thực hoá sơ đồ

cấu trúc của câu [20, 415]. Theo cách hiểu này, nội dung của việc nghiên cứu câu

theo bình diện giao tiếp không chỉ bao gồm các vấn đề như cấu trúc thông tin (cấu

21

trúc thông báo), tiêu điểm, ngôn trung của câu mà bao gồm cả cấu trúc đề thuyết,

nghĩa tình thái (chủ quan) và cấu trúc tình thái của câu [20, 192].

1.2.1.5. Các thành phần câu

Hiện nay, ý kiến của các nhà ngữ pháp về hệ thống thành phần câu

không có sự thống nhất. Không có ý định bàn sâu về vấn đề vừa nêu, trong luận

văn này, chúng tôi tiếp thu cách hiểu về hệ thống thành phần câu tiếng Việt

theo quan điểm của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến. Theo quan niệm

của hai tác giả hệ thống thành phần câu tiếng Việt gồm các thành phần sau:

1) Thành phần chính - vị ngữ

Vị ngữ chính là hạt nhân của cụm vị từ nòng cốt. Đó là từ mang kết trị

chủ động tuyệt đối trong câu. Vị ngữ được xác định theo các tiêu chí chính sau:

a) Về nội dung:

- Là thành phần được xác định tuyệt đối, tức là không có chức năng xác định

(bổ sung) cho bất cứ thành phần nào.

- Có ý nghĩa cú pháp hoạt động hay đặc điểm.

- Quy định bản chất của câu và chi phối tổ chức nội bộ của câu (quy định số

lượng, ý nghĩa, hình thức của các thành phần phụ bắt buộc của câu).

b) Về hình thức:

- Ở dạng cơ bản, được biểu hiện bằng vị từ với ý nghĩa, hình thức thời thể

chiếm vị trí trung tâm của câu.

- Nói chung, không có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn đích thực như: ai, gì,

nào, sao... (chỉ có khả năng thay thế bằng các đơn vị có ý nghĩa nghi vấn như:

làm gì, làm sao, thế nào mà trong Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên)

được gọi là các "tổ hợp" và không được chú từ loại [24,692-694]).

- Rất khó lược bỏ. Trừ trường hợp đối thoại hoặc một vài trường hợp đặc biệt,

trên thực tế, hầu như không tồn tại câu thiếu vị ngữ" [20, 233].

2) Thành phần phụ của câu

a) Tiêu chí xác định

Tất cả các thực từ trong câu mà không phải là thành phần chính đều là thành

phần phụ của câu. Thành phần phụ của câu được xác định theo các tiêu chí sau:

22

- Về nội dung:

+ Có chức năng (ý nghĩa) xác định (bổ sung) trực tiếp hay gián tiếp cho thành

phần chính hoặc cho cả câu.

+ Mang một ý nghĩa cú pháp quan hệ nhất định (kiểu như nghĩa chủ thể,

đối thể...).

+ Không quy định bản chất của câu và không chi phối tổ chức nội bộ của câu.

- Về hình thức:

+ Được biểu hiện bằng thực từ thuộc các từ loại nhất định.

+ Nói chung, có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn.

+ Dễ lược bỏ hơn so với thành phần chính.

Thành phần phụ của câu (trừ thành phần biệt lập) chính là các từ mang kết

trị bị động được dùng để hiện thực hoá kết trị chủ động của vị từ hoặc danh từ.

b) Phân loại thành phần phụ của câu

Thành phụ của câu được phân loại như sau:

b1) Theo tầm quan trọng (mức cần thiết) đối với tổ chức cú pháp của câu, thành

phần phụ được chia thành:

- Thành phần phụ bắt buộc (tham gia vào nòng cốt câu, ví dụ: chủ ngữ, bổ ngữ),

- Thành phần phụ không bắt buộc (không tham gia vào nòng cốt câu, ví dụ:

trạng ngữ).

b2) Theo tính chất của mối quan hệ cú pháp (quan hệ kết trị) với từ mà nó bổ

sung, thành phần phụ được chia thành:

- Thành phần phụ thể hiện kết trị của một từ loại nhất định (thành phần phụ

không biệt lập). Thành phần phụ không biệt lập gồm: thành phần phụ thể hiện

kết trị của vị từ (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ) và thành phần phụ thể hiện kết trị

của danh từ (định ngữ).

- Thành phần phụ không thể hiện kết trị của từ loại nhất định (thành phần phụ

biệt lập), ví dụ: “Tâm mơ màng nghĩ đến sự thành công của các em sau này: đỗ

đạt rồi đi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ”. (Thạch Lam)

23

b3) Theo tính chất của mối quan hệ cú pháp với thành phần chính, thành phần

phụ được chia thành:

-Thành phần phụ có quan hệ cú pháp trực tiếp với thành phần chính hoặc với

cả câu

Loại thành phần phụ này được gọi là thành phần phụ bậc 1 hay thành

phần phụ bậc câu.

- Thành phần phụ không có quan hệ cú pháp trực tiếp với thành phần chính

hoặc với cả câu.

Loại thành phần phụ này được gọi là thành phần phụ bậc 2, bậc 3... hay

thành phần phụ bậc từ.

b4) Xét kết hợp các tiêu chí, hệ thống thành phần phụ của câu được chia thành

5 loại: chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, định ngữ, chú giải ngữ

1.2.2. Câu không đầy đủ

1.2.2.1. Xác định và phân biệt câu không đầy đủ với câu đầy đủ

1) Xác định câu không đầy đủ

Vấn đề xác định câu không đầy đủ khá phức tạp. Như đã trình bày ở

mục Tổng quan, trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp, ý kiến của các

tác giả về vấn đề này không thống nhất. Trong luận văn này, chúng tôi hiểu

khái niệm câu không đầy đủ theo cách hiểu của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn

Mạnh Tiến. Theo đó, câu không đầy đủ được xác định trong mối quan hệ với

câu đầy đủ. Cụ thể:

a) Câu đầy đủ là câu không có hiện tượng tỉnh lược (hay sự thiếu vắng) thành

phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi ngữ cảnh của câu. Ngữ cảnh của câu nói

ở đây được hiểu bao gồm: văn cảnh ngoài câu (được hiểu là những câu (hay

phần văn bản) ở trước và sau câu được xét) và hoàn cảnh, tình huống nói năng

(gồm hình thức, tính chất, mục đích giao tiếp, đặc điểm của chủ thể, đối thể

giao tiếp).

24

b) Phù hợp với cách hiểu vừa nêu về câu đầy đủ, câu không đầy đủ được hiểu

là câu có sự tỉnh lược (hay thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định

bởi ngữ cảnh của câu. [20, 427-428].

Chẳng hạn, trong chuỗi câu: “Tiếng hát ngừng. Cả tiếng cười.”, câu thứ

nhất là câu đầy đủ (vì trong nó không có sự lược bỏ hay thiếu vắng thành phần

bắt buộc nào); câu thứ hai là câu không đầy đủ (vì trong nó có sự lược bỏ thành

phần bắt buộc là vị ngữ).

2) Phân biệt câu không đầy đủ với câu đầy đủ có thành phần bị tỉnh lược

Theo cách hiểu trên đây, câu không đầy đủ luôn là câu có sự tỉnh lược

(hoặc thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó (do đó, một số tác giả thường gọi

câu không đầy đủ là câu tỉnh lược). Tuy nhiên, cần thấy rằng không phải mọi

câu có thành phần bị tỉnh lược đều là câu không đầy đủ. Đây là vấn đề khá

phức tạp Để làm rõ vấn đề này, các tác giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt phân tích

các ví dụ dưới đây.

(1) Kẻ dốt nát khổ nhưng Ø không biết rằng mình khổ. (Nam Cao)

(2) Tiền bạc cưới thì bố tôi bảo Ø đã đưa cho bố cả rồi. (Tô Hoài)

(3) Tâm tin rằng Ø đã làm đủ bổn phận khi mỗi tháng gửi giúp bà cụ một số

tiền. (Thạch Lam)

(4) Mọi người vào hầm lấy lương khô ra ăn Ø. (Nguyễn Minh Châu)

(5) Thấy tôi lù rù như thế bọn trẻ chỉ biết ra sức săn sóc Ø. (Tô Hoài)

(6) Khi Tâm quay đi, mấy người bạn nhìn theo Ø thương hại. (Thạch Lam)

(7) Cửa hàng hai chị em Liên trông coi Ø là một cửa hàng tạp hoá. (Thạch Lam)

Trong những câu trên đây, đã có sự tỉnh lược các thành phần câu (chủ

ngữ ở ba câu đầu và bổ ngữ ở năm câu tiếp theo). Tuy nhiên, theo các tác giả,

không nên coi những câu này là câu không đầy đủ vì có thể hiểu đúng nghĩa

của chúng mà không cần dựa vào văn cảnh ngoài câu (những câu đứng trước)

hoặc hoàn cảnh, tình huống nói năng.

25

Như vậy, có thể thấy sự khác nhau giữa câu đầy đủ và câu không đầy đủ thể

hiện ở chỗ ở câu đầy đủ, mặc dù cũng có thể có hiện tượng tỉnh lược thành phần

nào đó (chủ ngữ, bổ ngữ) nhưng đó là sự tỉnh lược bị quy định bởi văn cảnh trong

câu; còn ở câu không đầy đủ, sự tỉnh lược luôn là kiểu tỉnh lược bị quy định bởi

văn cảnh ngoài câu (hoặc bởi hoàn cảnh, tình huống nói năng) [20, 428].

Theo chúng tôi, sự phân biệt câu không đầy đủ với câu đầy đủ qua các ví

dụ trên đây là rõ ràng, thỏa đáng, có sức thuyết phục.

Như vậy, không phải mọi câu có hiện tượng tỉnh lược thành phần đều là

câu không đầy đủ.

1.2.2.2. Các kiểu câu không đầy đủ

Câu không đầy đủ theo cách hiểu trên đây có thể được phân loại theo

phương thức cấu tạo thành hai kiểu chính: câu không đầy đủ được tạo ra bằng

phép tỉnh lược và câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu.

1) Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược

Theo tính chất của thành phần bị tỉnh lược, câu không đầy đủ được tạo ra

bằng phép tỉnh lược được chia thành các kiểu nhỏ sau:

a) Câu tỉnh lược chủ ngữ

Đây là kiểu câu tỉnh lược phổ biến nhất. Ở kiểu này, cần phân biệt:

a1) Câu tỉnh lược chủ ngữ bị quy định bởi văn cảnh

Ví dụ: (Ông ấy long tong ở sở máy đèn.) Ngày nào Ø cũng đi làm từ sáu

giờ. (Nam Cao).

(Thanh quyện sắt giữ chặt chân họ). Ø Làm sao mà chạy đi cho được.

(Anh Đức)

a2) Câu tỉnh lược chủ ngữ bị quy định bởi hoàn cảnh, tình huống nói năng

Hoàn cảnh, tình huống nói năng gồm các tình huống độc thoại (khi ghi

nhật kí), đối thoại (khi hỏi, trả lời), khi thông báo ngắn gọn ở trước các cửa

hàng, cửa hiệu…hoặc phòng làm việc.

26

Ví dụ: Tối nay Ø nôn nao và mệt rũ. Ø Làm nhiều. Ø Hút thuốc lá nhiều.

(Nam Cao - Nhật kí ở rừng)

Ø Về muộn mấy? Ø Hẵng vào chơi đã nào. (Kim Lân)

Ø Bán cá giống. (Thông báo trước trại nuôi cá)

Ø Mua sắt thép phế. (Thông báo trước cơ sở thu mua phế liệu)

Ø Đề nghị để giày dép ở ngoài! (Lời viết ở cửa phòng làm việc)

b) Câu tỉnh lược vị ngữ

Vị ngữ rất ít khi bị lược bỏ. Nhìn chung, câu tỉnh lược vị ngữ chủ yếu gặp

trong lời hội thoại hay trong lời nói thuộc phong cách văn chương.

Ví dụ: (Tiếng hát ngừng.) Cả tiếng cười Ø. (Nam Cao)

(Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của nhà hát lớn, sân khấu người xem.)

Tôi, Ø đến vợ con. (Nam Cao)

c) Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn vị ngữ

Câu tỉnh lược kiểu này cũng rất hiếm và chủ yếu gặp trong lời đối thoại

hay lời nói nghệ thuật.

Ví dụ: (Bố cháu hi sinh rồi.) Ø Ø Năm 72.

(Báo văn nghệ) (Dẫn theo [40, 195])

(Thoáng chốc Quyên nhớ đến mọi nét, mọi vẻ của Cà Mỵ.) Ø Ø Cả

cái cử chỉ

khi Cà Mỵ ôm cô mà hôn thật kêu. (Anh Đức) (Dẫn theo [40, 190])

d) Câu tỉnh lược bổ ngữ

Ở kiểu này, phổ biến và đáng chú ý hơn là sự tỉnh lược bị quy định bởi

văn cảnh.

Ví dụ; (Ấy khẽ chứ cậu, để nó ngủ.) Tôi vừa mới đặt Ø xong. (Thạch Lam)

(Tên lính đã trở lại.) Lần này có tên trung úy đi theo Ø (Anh Đức)

đ) Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ

Ví dụ: (Thật cậu Phúc ác quá.) Ø Đã không cho Ø thì thôi lại còn thả chó ra

đuổi Ø. (Thạch Lam)

27

e) Câu tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ

Câu tỉnh lược kiểu này rất hiếm và cũng chủ yếu gặp trong văn bản nghệ thuật.

Ví dụ: (72) (Đó là tiếng cười, tiếng hát.)

Có lẽ Ø Ø Ø của dân làng. (Tô Hoài) (Dẫn theo [40,191])

g) Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li

Định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li là một trong những thành tố

bắt buộc của câu; vì vậy, việc lược bỏ nó luôn bị quy định bởi văn cảnh hoặc

hoàn cảnh, tình huống nói năng và câu tỉnh lược định ngữ kiểu này cũng được

coi là câu không đầy đủ.

Ví dụ: (Hai mắt ông trợn ngược.) (73) Hai má Ø phình to. (Nam Cao)

2) Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu

Theo đặc tính của bộ phận tách ra, kiểu này được chia thành những kiểu

nhỏ sau:

a) ) Câu không đầy đủ là vị ngữ được tách ra

Ví dụ:

Bọn người nhìn theo anh ta. Im lặng. (Nguyễn Thị Ngọc Tú)

Tôi lặng lẽ ra khỏi hang. Cũng không có một ý nghĩ gì rõ rệt. (Tô Hoài)

Chỉ ở những chỗ không ai ngờ tới mới có đò ngang sang sông. Có lối tắt

vòng sau lưng phủ Hoài ra đầu ô. Và có hàng quán. (Tô Hoài)

b) Câu không đầy đủ là bổ ngữ được tách ra

Ví dụ:

Anh mới mua được một quyển sách. Cho em. (Báo Văn nghệ)

c) Câu không đầy đủ là trạng ngữ được tách ra

Ví dụ:

Sáng hôm sau Điền ngồi viết. Giữa lúc con khóc, vợ càu nhàu và tiếng

đòi nợ nheo nhéo ngoài ngõ. (Nam Cao)

Tôi sẽ trở về Hà Nội sau. Bằng tầu hỏa hoặc ô tô chở hàng. (Hồng Nhu)

Hôm vào Gia Lai, Công Tum, chị đi máy bay. Với chồng. (Báo Văn nghệ)

28

d) Câu không đầy đủ là định ngữ được tách ra

Ví dụ:

Rừng Hoành Bồ có một nương dó. Rộng và sâu lắm. (Nguyễn Tuân)

đ) Câu không đầy đủ là chú giải ngữ được tách ra

Ví dụ:

Có một buổi trưa lung linh nắng làm cho tôi nhớ quê hương vô hạn. Một

buổi trưa ở Chúp. (Trần Cư)

Một người đội mũ ca lô xăm xăm tiến vào quán. Anh trật tự bến đò.

(Nguyễn Tuân)

e) Câu không đầy đủ là vế câu được tách ra

Ví dụ:

Ngủ trọ phải trả hai xu một tối. Nếu chị không ăn cơm, ăn quà.

(Ngô Tất Tố)

Chúng con bắt phải nộp thay. Vì tên Dậu là thân nhân của hắn.

(Ngô Tất Tố)

1.2.3. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và “Truyện ngắn chọn lọc”

Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là một nhà văn, nhà báo hội viên Hội

Nhà văn Việt Nam.

Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn

Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn

Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học

thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất

nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả

kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương

của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và

giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), nguyên Ủy viên

Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng, nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và

Nguyễn Công Mỹ, nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.

29

Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều

nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng

Tám nổ ra.

Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan

(viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp

cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí

Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó, ông gia nhập Vệ

quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc Trường Văn hóa

quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên

Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư

của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Lịch sử Việt Nam hiện

đại (dùng cho lớp 7 hệ chín năm). Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân

dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau

năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam

(khóa đầu tiên 1957-1958), Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội

Nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội

liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm Tuần báo Văn (tiền thân của

báo Văn nghệ).

Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông

được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn

Chí Thanh. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có con đường mang tên

Nguyễn Công Hoan ở phường Bắc Lý. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải

thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.

Tên ông sau này đã được đặt cho Trường THPT Nguyễn Công Hoan tại

xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Ông để lại một di sản nghệ thuật với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện

dài và nhiều tiểu luận văn học, các tác phẩm chính của ông là:

30

Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923)

Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn, 1929; đăng An nam tạp chí

số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản)

Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930)

Thật là phúc (truyện ngắn, 1931)

Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931)

Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932)

Xin chữ cụ nghè (truyện ngắn, 1932)

Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933)

Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934)

Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935)

Cô làm công (tiểu thuyết, 1936)

Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937)

Vợ (truyện ngắn, 1937)

Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)

Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939)

Phành phạch (truyện ngắn, 1939)

Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939)

Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955)

Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956)

Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960)

Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961)

Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963)

Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971)

Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1983-1986)

Đồng hào có ma

Truyện ngắn chọn lọc (Nhà xuất bản thời đại, 2010)

Năm 1936, truyện dài Tắt lửa lòng của ông đã được Trần Hữu Trang

chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng Lan và Điệp.

31

Truyện ngắn chọn lọc bao gồm 74 truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn

Công Hoan. Đây là tuyển tập thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của ông,

đặc biệt là trong lĩnh vực truyện ngắn. Đây cũng là nguồn tư liệu mà chúng tôi

sẽ khảo sát về câu không đầy đủ để thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

Nguyễn Công Hoan là nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê

phán. Trước Cách mạng, khuynh hướng văn học giàu tính chiến đấu mà ông

theo đuổi chưa phải là cách mạng, nhưng rất gần với cách mạng, đóng góp

được nhiều cho Cách mạng. Bọn thống trị thực dân và phong kiến hồi ấy trong

khi giở đủ thủ đoạn tàn bạo để bóc lột, áp bức dân tộc ta, trong khi áp đặt lên

đầu nhân dân ta một chế độ xã hội vừa độc ác lại vừa thối nát vẫn không ngớt

tìm đủ cách che đậy bộ mặt thật của chúng bằng nhiều hình thức man trá, lừa

bịp, mê hoặc , trong đó có thứ “văn học” của bọn bồi bút chuyên tán tụng,

quảng cáo cho “ Nhà nước bảo hộ” và “ các vị phụ mẫu của dân”. Hồi ấy, vạch

trần những sự thật của chế độ thực dân, gây cho người ta lòng khinh bỉ, ghê

tởm, căm ghét đối với chế độ ấy, khiến cho người ta không thể nào chịu đựng,

chung sống được với nó - chính là một sự cần thiết, là một trong những công

việc chuẩn bị về nhận thức và tinh thần cho cách mạng. Một số lớn tác phẩm

của Nguyễn Công Hoan khi đi vào quần chúng, đã đạt được những hiệu quả

cách mạng này.

Ngay từ khi sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Công Hoan đương

thời trong thời kỳ phát triển, Đảng đã đánh giá đúng giá trị và tác dụng của các

tác phẩm của ông. Một trong những nhà lý luận phê bình đầu tiên của Đảng,

nhà văn Hải Triều đã giới thiệu tập truyện “Kép Tư Bền” của Nguyễn Công

Hoan và cho rằng qua nhân vật đó, nhà văn đã phát biểu quan niệm của Đảng.

Từ đó, Đảng luôn luôn ân cần theo dõi, biểu dương và, khi cần thiết, phê bình,

giúp đỡ nhà văn Nguyễn Công Hoan trong sự nghiệp sáng tác của mình.

Hiện nay, công việc nghiên cứu về nền văn học nước ta trước Cách mạng

đang đang được quan tâm triển khai. Trong nền văn học ấy, Nguyễn Công

32

Hoan đã có sự đóng góp rất quan trọng và đã đem lại nhiều kinh nghiệm quý báu.

Bời vậy, nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Công Hoan, về toàn bộ sự nghiệp sáng

tác trong đó có nghệ thuật ngôn từ của ông là một điều bổ ích và cần thiết…

1.3. Tiểu kết

Trong Chương 1, luận văn đã xem xét hai vấn đề chính: Tổng quan tình

hình nghiên cứu và Cơ sở lí luận. Ở mục Tổng quan…, luận văn đã trình bày

các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu về cú pháp với các tác giả tiêu

biểu (khuynh hướng truyền thống, những hướng tìm tòi mới, hướng nghiên cứu

câu theo lí thuyết kết trị); đồng thời, cũng tổng thuật hình hình nghiên cứu về

câu không đầy đủ qua việc giới thiệu các quan niệm khác nhau của các tác giả

trong và ngoài nước về vấn đề này. Ngoài ra, luận văn cũng đã điểm qua tình

hình nghiên cứu về ngôn ngữ trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan; qua

đó, cho thấy đề tài này đã thu hút ý kiến của nhiều tác giả với cách nhìn nhận,

sự đánh giá sâu sắc, tinh tế về ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan từ

các góc độ, bình diện khác nhau. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào

nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về câu không đầy đủ trong Truyện ngắn

chọn lọc Nguyễn Công Hoan.

Ở mục Cơ sở lí luận, luận văn đã xác lập các khái niệm quan trọng liên

quan đến đề tài như: câu, phát ngôn, các bình diện của câu, các thành phần

câu, câu không đầy đủ; đồng thời, chỉ ra ranh giới giữa câu không đầy đủ và

câu đầy đủ có sự tỉnh lược thành phần. Luận văn cũng làm rõ các khái niệm văn

bản, liên kết văn bản là những khái niệm liên quan đến chức năng liên kết của

câu không đầy đủ

Ngoài ra, luận văn đã giới thiệu tóm tắt về Nguyễn Công Hoan và các

sáng tác của ông trong đó có Tập Truyện ngắn chọn lọc là tác phẩm được

nghiên cứu trong luận văn.

33

Chƣơng 2

CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP

2.1. Nhận xét chung

Xem xét câu không đầy đủ về ngữ pháp là xem xét ở các mặt: phương

thức cấu tạo các kiểu câu không đầy đủ, các câu không đầy đủ xét về mặt ngữ

pháp, những điều kiện (về ngữ cảnh) cho phép tạo lập câu không đầy đủ. Đây

là những vấn đề thú vị nhưng cũng rất phức tạp. Trong chương này, chúng tôi

sẽ cố gắng lần lượt làm sáng tỏ những vấn đề phức tạp này.

Để có cơ sở miêu tả câu không đầy đủ về ngữ pháp, chúng tôi đã tiến

hành thống kê câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công

Hoan. Kết quả thống kê cho thấy trong 74 truyện ngắn được in trong “Truyện

ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan có 1188 câu không đầy đủ. Phân loại 1188

câu không đầy đủ theo phương thức tạo lập và theo đặc điểm cấu tạo của từng

kiểu câu, chúng tôi thu được kết quả như trình bày ở các bảng dưới đây.

Bảng 2.1. Các kiểu câu không đầy đủ (CKĐĐ)

xét theo phƣơng thức cấu tạo

Số lƣợng, tỉ lệ Số Tỉ lệ Các Ví dụ lƣợng % kiểu CKDĐ

Rồi Ø len lén ra ngoài ao.

CKDĐ là câu tỉnh lược 1092 91,9% Đêm hôm ấy về, Ø rớt

nước mắt

CKDĐ được tạo ra bằng Chiều xẩm. 96 8,1% phép tách câu Để ngài điểm.

Tổng số 1188 100%

34

Bảng 2.2. Các kiểu câu không đầy đủ (CKĐĐ) là câu tỉnh lƣợc

Số lƣợng, tỉ lệ Số Tỉ lệ Các Ví dụ lƣợng % kiểu CKDĐ

Mặc kệ, Ø bảo mãi

chẳng nghe. Câu tỉnh lược CN 764 69,97% Ø Vào ăn cơm với tôi

cho vui nhé.

Năm phút Ø. Câu tỉnh lược VN 72 6,60% Mười phút Ø.

Ø Ø Không sai một phút Câu tỉnh lược CN, VN 76 6,96% Ø Ø Mạnh vào một tí.

Ai đuổi Ø hộ tôi. Câu tỉnh lược BN 51 4,67% Nó ăn Ø.

Rồi Ø thu thu Ø vào trong

bọc. Câu tỉnh lược CN, BN 65 5,95% Rồi Ø giơ thẳng cánh tay,

ném Ø xuống nước.

Ø Ø Ø Không tiếc tay.

Câu tỉnh lược CN, VN, BN 52 4.76% Ø Ø Ø Cả bằng đòn càn,

đòn gánh.

Mặt mũi Ø thì đen đủi.

Câu tỉnh lược ĐN 12 1,09% Tính tình Ø hiền lành,

chất phác.

Tổng số 1092 100%

35

Bảng 2.3. Các kiểu câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng phép tách câu

Số lƣợng, tỉ lệ Số Các Tỉ lệ % Ví dụ lƣợng kiểu CKDĐ

Đã bớt tanh. Đã bớt ồn ào.. Câu là VN được tách ra 25 26,04% Rồi lên giường đắp chăn.

Câu là BN được tách ra 0 0%

Sáng mùng một tết. Câu là TrN được tách ra 45 46,87% Để ngài điểm.

Câu là ĐN được tách ra 0 0%

Vì nó đói quá. Câu là vế câu được tách ra 26 27, 09% Nhưng nó chẳng quan tâm.

Tổng số 96 100%

Trên cơ sở kết quả thống kê và phân loại sơ bộ trên đây, chúng tôi tiến

hành miêu tả từng kiểu câu không đầy đủ.

2.2. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng phép tỉnh lƣợc

Hiện nay thuật ngữ lược bỏ (tỉnh lược) thường được dùng theo hai nghĩa:

lược bỏ như là một thủ pháp hình thức được nhà nghiên cứu dùng trong ngữ

pháp cải biến và lược bỏ (tỉnh lược) như là một thủ pháp nghệ thuật được người

viết sử dụng trong tạo lập văn bản.

2.2.1. Xác định câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược

Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược (dưới đây sẽ gọi gọn

là câu tỉnh lược) là câu không đầy đủ trong đó có hiện tượng tỉnh lược một hay

một số thành phần bắt buộc (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ và định ngữ chỉ danh từ

chỉ bộ phận bất khả li).

36

Như đã chỉ ra trên đây, trong luận văn này, thủ pháp tỉnh lược (phép tỉnh

lược) với tư cách là thủ pháp được các tác giả dùng trong tạo lập văn bản, được

phân biệt với thủ pháp lược bỏ với tư cách là một trong các thủ pháp hình thức

(thủ pháp cải biến) được dùng trong nghiên cứu ngữ pháp (chủ yếu là nghiên

cứu câu). Với tư cách một thủ pháp trong tạo lập văn, thủ pháp tỉnh lược được

tác giả (thường là nhà văn) sử dụng khi đặt câu nhằm mục đích ngữ pháp (liên

kết câu) hay mục đích tu từ (tạo sự ngắn gọn, tiết kiệm, dồn nén thông tin) mà

kết quả thu được là những câu tỉnh lược thành phần. Ví dụ: (1) “Nó choàng

dậy. Ø Lại bắt đầu lo.”. Với tư cách là một thủ pháp hình thức được dùng trong

nghiên cứu câu, thủ pháp lược bỏ thường được hiểu là một thao tác cú pháp cơ

bản trong ngữ pháp cải biến mà điều kiện để dùng cải biến lược bỏ là khả năng

khôi phục lại các yếu tố lược bỏ.

Như vậy, tỉnh lược là thủ pháp dùng trong tạo lập văn bản, còn lược bỏ là

thủ pháp được dùng trong nghiên cứu, phân tích văn bản.

Từ góc độ tạo lập văn bản, tỉnh lược thường gắn với chức năng liên kết

văn bản. Vì vậy, khi xác định các phép liên kết; Trần Ngọc Thêm coi tỉnh lược

là một trong các phép liên kết.

Từ góc độ tạo lập văn bản, tỉnh lược được chia thành hai loại: tỉnh lược có

chức năng liên kết văn bản và tỉnh lược không có chức năng liên kết văn bản.

Theo Trần Ngọc Thêm, loại tỉnh lược có chức năng liên kết văn bản phải

có hai điều kiện:

- Yếu tố tỉnh lược cần thiết cho việc hiểu nội dung của phát ngôn (câu).

- Việc khôi phục lại yếu tố tỉnh lược phải dựa vào một phát ngôn khác gần đó

(vì yếu tố đó có mặt trong phát ngôn ấy) [40, 100].

Thuộc về kiểu tỉnh lược có chức năng liên kết là kiểu tỉnh lược ở ví dụ

(1) hoặc ở câu (2) Nó gật giúi dụi. Mấy lần Ø suýt ngã. (Phành phạch, tr.380)

Thuộc về kiểu không có chức năng liên kết là kiểu tỉnh lược thường gặp

trong tục ngữ như: “Ø Ăn quả Ø nhớ kẻ trồng cây. Ø Biết thì thưa thốt, Ø

37

không biết dựa cột mà nghe.” Cũng có thể kể vào kiểu tỉnh lược không có chức

năng liên kết là tỉnh lược chủ ngữ bên những vị ngữ là động từ chỉ hoạt động

khái quát (có thể, cần phải, nên, thấy) ứng với chủ thể là ta, chúng ta, người ta.

Chẳng hạn, trong truyện “Răng con chó của nhà tư sản” có câu (3) Khi ô tô

chưa đỗ hẳn thì Ø đã thấy con chó nhảy vọt từ trên xuống đất, ngoe nguẩy

đuôi, vừa sủa, vừa chồm lên hai người vừa bước xuống.”. Câu này có sự tỉnh lược

chủ ngữ ở trước động từ thấy nhưng việc khôi phục chủ ngữ (người ta) không thể

và không cần “dựa vào phát ngôn gần đó” như Trần Ngọc Thêm chỉ ra.

Đối với kiểu tỉnh lược có chức năng liên kết, yếu tố tỉnh lược được gọi là

lược tố (kí hiệu là Ø). Phát ngôn (câu) chứa lược tố được gọi là kết ngôn. Phát

ngôn làm cơ sở cho việc khôi phục lược tố được gọi là chủ ngôn, yếu tố tương

ứng lược tố được gọi là chủ tố. [40, 160].

Trong luận văn này, chúng tôi sẽ sử dụng các thuật ngữ trên đây để miêu

tả hiện tượng tỉnh lược thành phần câu và câu tỉnh lược thành phần. Riêng thuật

ngữ phát ngôn mà Trần Ngọc Thêm sử dụng, trong phần lớn trường hợp, sẽ

được thay bằng thuật ngữ câu.

2.2.2. Vấn đề phân biệt câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược

với câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu

Trong việc nghiên cứu câu không đầy đủ (trong đó có việc phân loại câu

không đầy đủ theo phương thức cấu tạo), điều khiến chúng tôi băn khoăn nhiều

là ranh giới giữa câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược (câu tỉnh

lược) và câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu (câu vốn là thành

phần, bộ phận câu được tách ra). Theo Diệp Quang Ban, sự khác nhau chủ yếu

giữa hai kiểu câu này là ở khả năng khôi phục lại thành phần bị lược bỏ hay

thiếu vắng trong câu. Khảo sát trên cứ liệu “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn

công Hoan, chúng tôi gặp những trường hợp có thể luận giải theo cả hai khả

năng. Chẳng hạn, thử xem xét các trường hợp sau đây.

(4) (Họ lại tức dữ.) Lại cho thêm một trận nữa. (Thằng ăn cắp, tr.116)

38

(5) (Anh cứ hát.) Hết sức hát. Gò ngực mà hát. Há miệng ra mà hát. (Anh Xẩm,

tr.330-331)

(6) (Đến nơi, cô xổ khăn ra.) Lấy lược chải lại đầu tóc. Rồi rẽ đường ngôi. Rồi

uốn lại tóc cho cong xuống…(cô Kếu, gái tân thời, tr.149).

(7) (Bà giúi vào nó một cái thật mạnh.) Rồi lại nằm xuống. (Phành phạch,

tr.380)

Trong ví dụ (4), câu thứ hai, xét theo phương thức cấu tạo, có thể hiểu

theo hai cách:

- Coi là câu tỉnh lược chủ ngữ. Theo cách hiểu này, có thể bổ sung chủ

ngữ bị tỉnh lược vào. Ví dụ: Họ lại tức dữ. Họ lại cho thêm một trận nữa.

- Coi là câu vốn là vị ngữ đồng loại được tách ra. Theo cách hiểu này, có

thể nhập câu thứ hai vào câu thứ nhất. Ví dụ: Họ lại tức dữ, lại cho thêm một

trận nữa.

Trong ví dụ (5), các câu từ thứ hai đến thứ tư cũng có thể luận giải theo

hai cách:

- Coi đây là những câu tỉnh lược chủ ngữ. Theo cách luận giải này, có thể

khôi phục lại chủ ngữ ở những câu đang xem xét như sau: Anh cứ hát. Anh hết

sức hát. Anh gò ngực mà hát. Anh há miệng ra mà hát.

- Coi đây là những câu vốn là vị ngữ đồng loại được tách ra. Theo cách

luận giải này, có thể chuyển những câu đang xem xét thành vị ngữ đồng loại

của câu đầy đủ đứng trước. Ví dụ: Anh cứ hát, hết sức hát, gò ngực mà há, há

miệng ra mà hát.

Đối với các ví dụ (6), (7), những câu đứng sau câu đầu đều có khả năng

luận giải theo hai cách tương tự, như với những câu ở ví dụ (4), (5). Chẳng hạn, ở

ví dụ (6), đối với câu đứng sau, có thể thực hiện một trong hai khả năng tái lập:

- Khôi phục lại chủ ngữ ở hai câu sau: “Đến nơi, cô xổ khăn ra. Cô lấy lược

chải lại đầu tóc. Rồi cô rẽ đường ngôi. Rồi cô uốn lại tóc cho cong xuống”. Sự

39

khôi phục chủ ngữ phù hợp với cách luận giải coi hai câu sau là câu tỉnh lược

chủ ngữ.

- Chuyển hai câu sau thành vị ngữ đồng loại của câu thứ nhất. Ví dụ: Đến nơi,

cô xổ khăn ra, lấy lược chải lại mái, rồi rẽ đường ngôi, rồi uốn lại tóc cho cong

xuống. Sự khôi phục này phù hợp với cách luận giải coi hai câu sau là câu vốn

là vị ngữ đồng loại được tách ra.

Sự phân tích trên đây cho thấy mặc dù cần thiết và có cơ sở phân biệt câu

tỉnh lược với câu tách thành phần (câu dưới bậc) như Diệp Quang Ban chỉ ra

nhưng cũng cần thừa nhận rằng ranh giới giữa hai loại câu này không phải luôn

được thể hiện rõ ràng, dứt khoát. Do đó, trên thực tế, việc xác định, phân biệt

rạch ròi hai loại câu này là điều rất khó thực hiện. Trong luận văn này, đối với

trường hợp có hai khả năng luận giải và tái lập kiểu như trên đây, theo chúng

tôi, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xem xét, chọn giải pháp. (Nếu

việc khôi phục lại yếu tố được giả định là bị tỉnh lược tạo nên những câu không

tự nhiên, bình thường thì nên coi đó là phép tách câu).

2.2.4. Các kiểu câu tỉnh lược

2.2.4.1. Câu tỉnh lược chủ ngữ

a) Nhận xét chung

Câu tỉnh lược chủ ngữ là câu trong đó có sự lược bỏ chủ ngữ bậc câu

(chủ ngữ bậc 1, tức là chủ ngữ của cụm chủ vị nòng cốt). Sở dĩ cần nói rõ như

trên đây là vì không phải mọi trường hợp lược bỏ chủ ngữ đều dẫn đến hệ quả

là câu không đầy đủ (Chẳng hạn, ở câu: “Thị cười vì Ø nghĩ đến đàn con.”, mặc

dù có sự tỉnh lược chủ ngữ ở trước động từ nghĩ đến (là trạng ngữ) nhưng điều

đó không dẫn đến đến sự xuất hiện của câu không đầy đủ.

Kết quả khảo sát về câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc”

Nguyễn Công Hoan cho thấy, câu tỉnh lược chủ ngữ là kiểu câu tỉnh lược phổ

biến nhất (chiếm 69,97% tổng số câu tỉnh lược).

40

Ví dụ:

(8) (Bọn bán hàng nhốn nháo.) Ø Chạy tứ tung. (Thằng ăn cắp, tr.114)

(9) (Bà ấy chạy sau rốt. Áo lấm. Khăn xổ. Tóc rũ.) Ø Ngửa mặt lên trời mà kêu.

(Thằng ăn cắp, tr.114)

(10) (Nó vẫn chạy như quàng cả hai chân lên vai.) Ø Chạy hăng quá.

(Thằng ăn cắp, tr.115)

(11) (Song anh vẫn hát, hát một mình…) Và thỉnh thoảng Ø lại giục: (Anh Xẩm,

tr.330)

(12) (Ngày ấy, nó mới lên ba.) Ø Chẳng biết gì thương cậu nó cả, Ø chỉ biết

thương mợ mà thôi. (Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn, tr.62).

Tính phổ biến của hiện tượng lược chủ ngữ có những nguyên nhân khác

nhau trong đó có nguyên nhân thuộc về chính đặc điểm của thành phần câu

này. Như đã biết, chủ ngữ là một trong các thành phần bắt buộc của câu (cùng

với vị ngữ, bổ ngữ). Tuy nhiên, chủ ngữ khác với vị ngữ ở chỗ, nếu vị ngữ là

thành phần chính duy nhất thì chủ ngữ chỉ là thành phần phụ như bổ ngữ. Điều

này giải thích vì sao chủ ngữ dễ lược bỏ hơn vị ngữ (câu tỉnh lược vị ngữ chỉ

chiếm 6,6%). Chủ ngữ khác với bổ ngữ ở chỗ tuy đều là thành phần phụ bắt

buộc của câu nhưng chủ ngữ phổ biến hơn bổ ngữ. Chủ ngữ có khả năng xuất

hiện bên bên tất cả các vị ngữ - vị từ (gồm vị ngữ là vị từ nội hướng và vị ngữ

là vị từ ngoại hướng), còn bổ ngữ chỉ có khả năng xuất hiện bên vị ngữ là vị từ

ngoại hướng. Vì câu có chủ ngữ phổ biến hơn (gồm tất cả các kiểu câu) câu có

bổ ngữ nên hiện tượng lược bỏ chủ ngữ phổ biến hơn hiện tượng lược bỏ bổ

ngữ là điều dễ hiểu.

Do tính phổ biến của câu tỉnh lược chủ ngữ nên luận văn sẽ dành sự quan

tâm nhiều hơn cho kiểu câu tỉnh lược chủ ngữ.

Câu tỉnh lược chủ ngữ là phạm trù không thuần nhất. Dưới đây là một số

kiểu câu tỉnh lược chủ ngữ thường gặp:

a) Câu tỉnh lược chủ ngữ với văn cảnh gần và văn cảnh gần xa.

-Tỉnh lược chủ ngữ với văn cảnh gần

41

Trong trường hợp này, chủ ngôn (câu chứa chủ tố) và kết ngôn (câu chứa

lược tố) là hai câu (phát ngôn) đứng liền nhau.

Ví dụ:

(13) (Cái áo ấy có hai công dụng.) Ø Vừa để che cái thân khẳng khiu, cho khỏi

rõ những mạch máu và bộ xương sườn vừa để che tạm thời các thứ lấy cắp.

(Bữa no …đòn, tr.233).

(14) (Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.) Nhưng lần

này thì thật là Ø không buồn bước nữa. (Người ngựa và ngựa người, tr.58)

- Tỉnh lược chủ ngữ với văn cảnh xa

Trong trường hợp này, chủ ngôn và kết ngôn đứng cách xa nhau.

Ví dụ:

(15) (Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng chinh và bát cơm nguội. Bát cơm

ấy chưa đủ để bù vào chỗ nhịn hôm qua. Nhưng thôi làm quái gì cái vặt.) Ø Ăn

không ra bữa đã quen từ thuở bé.

Trong ví dụ (15), câu tỉnh lược chủ ngữ (nó) không liền sau câu là chủ

ngôn (có chứa chủ tố) mà bị ngăn cách bởi hai câu.

Có trường hợp chủ ngôn và kết ngôn đứng cách xa nhau 10 câu.

Ví dụ:

(16) (Trong khi chờ, khán giả cười to, nói lớn, nhổ bậy hoặc cãi nhau…).

Người ta xuỵt, người ta hét im nhưng ở cuối rạp Ø vẫn cười to, nói lớn, vẫn

nhổ bậy, cãi nhau. (Đào kép mới, tr.300)

Trong ví dụ (16), chủ ngôn (câu thứ nhất) đứng cách xa kết ngôn (câu

thứ hai) hơn 10 câu. Phù hợp với điều đó, chủ tố (khán giả) cũng đứng cách xa

lược tố 10 câu.

b) Tỉnh lược chủ ngữ với chủ tố hiện diện và khiếm diện (chủ tố ẩn)

-Tỉnh lược chủ ngữ với chủ tố hiện diện.

Trong trường hợp này, chủ tố và câu chứa nó (chủ ngôn) có sự hiện diện

trong phần văn bản ở trước câu tỉnh lược (kết ngôn).

42

Ví dụ:

(17) (Nó cần sống ngày hôm nay, về buổi chợ này.) Mà Ø chưa ăn cắp được

thứ gì. (Bữa no … đòn, tr.234)

(18) (Thì nó liều.) Ø Liều chết để sống. (Bữa no … đòn, tr.234)

Chủ tố ở ví dụ (17) và (18) có sự hiện diện và đều là nó.

Trong trường hợp chủ tố có sự hiện diện như trên đây, việc xác định và

khôi phục lại lược tố sẽ thuận lợi.

- Tỉnh lược chủ ngữ với chủ tố khiếm diện (chủ tố ẩn)

Trong trường hợp này, chủ tố và câu chứa nó (chủ ngôn) không hiện diện

trong văn bản.

Chẳng hạn, thử xem xét các ví dụ sau:

(19) (Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi

hàng chục người.). Rồi Ø không đếm được bao nhiêu người nữa. (Thằng ăn cắp,

tr.114)

(20) (Bà ấy mệt quá.) Ø Không biết mất cái khăn, đôi khuyên hay năm đồng bạc?

Ø không biết bị nó đánh có đau không? Ø Chờ bà ấy đến sẽ rõ. (Thằng ăn cắp,

tr.117)

Trong ví dụ (19) có hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ bên vị ngữ (không đếm

được) nhưng chủ tố và chủ ngôn không xuất hiện trong văn bản. Trong trường

hợp này, việc xác định chủ tố (khiếm diện), phải căn cứ vào sự suy đoán dựa

theo ngữ cảnh. Chẳng hạn, có thể cho rằng chủ tố khiếm diện ở đây là “người

ta”. (Theo đó, có thể khôi phục lại lược tố như sau: Rồi người ta không đếm

được bao nhiêu người nữa.)

Ở ví dụ (20), có ba câu tỉnh lược chủ trong đó hai câu lược chủ ngữ trước

vị ngữ là “không biết” còn câu sau lược chủ ngữ trước vị ngữ là “chờ”. Chủ tố

tương ứng với lược tố (chủ ngữ tỉnh lược) ở các câu trên đây không hiện diện

trong văn bản. Câu hỏi đặt ra ở đây là: Ai không biết? Ai chờ? Chỉ bằng sự suy

đoán dựa vào ngữ cảnh, ta mới có thể xác định được chủ tố để có cơ sở khôi

phục lại lược tố (chủ ngữ tỉnh lược). Chẳng hạn, đối với hai câu đầu, có thể cho

43

rằng chủ tố ẩn là “người ta.” Với câu sau, có thể xác định một cách tương đối

chủ ngữ ẩn là ta (chúng ta / mọi người).

c) Tỉnh lược chủ ngữ đồng chức năng và chuyển chức năng

- Tỉnh lược chủ ngữ đồng chức năng

Trong trường hợp này, chủ tố (yếu tố là cơ sở) và lược tố (chủ ngữ tỉnh

lược) có cùng chức năng cú pháp.

Ví dụ:

(21) (Chẳng bao lâu, nó nhớ lại cảnh mình. Bỗng nó đâm liều). Chẳng liều Ø

cũng chẳng làm thế nào được (Thế cho nó chừa, tr.249)

(22) (Và sau khi đã hiến hết các bài anh thuộc, anh ngồi im lặng để chờ và

nghe). Sau hết, Ø sờ tay vào lòng thau không để vét. (Anh Xẩm, tr.331)

(23) (Thỉnh thoảng anh ta lại dỏng tai quay cổ, xem có ai gọi ở đằng xa không.)

Thì Ø chỉ thấy đánh đét, lòe một cái ở giữa đường, làm cho anh giật mình đánh

thót. (Người ngựa và ngựa người, tr.53)

Trong những ví dụ vừa dẫn, chủ tố và lược tố đều có cùng chức năng

chủ ngữ.

Ở ví dụ (21), chủ tố và lược tố là nó và đều là chủ ngữ. Ở các ví dụ (22),

(23), chủ tố và lược tố đều là anh và đều là chủ ngữ.

- Tỉnh lược chủ ngữ chuyển chức năng

Trong trường hợp này, chủ tố và lược tố không cùng chức năng.

Ví dụ:

(24) (Con cắn cỏ cắn rác, lạy các ông các bà, con chừa rồi.) Ø Đừng bắt con bỏ

bóp. (Thế cho nó chừa, tr.245)

(25) (Tao chúa ghét loại thi sĩ như mày). Ø Chỉ biết sống mơ mộng (Cái tết của

những đại văn hào, tr.569)

Trong câu (24) chủ tố là các ông, các bà (giữ chức bổ ngữ sau động từ

lạy), còn lược tố giữ chức năng chủ ngữ (bên động từ - vị ngữ bắt). Như vậy,

đã có sự chuyển chức năng từ bổ ngữ sang chủ ngữ.

44

Trong câu (25), chủ tố là loại thi sĩ như mày giữ chức năng bổ ngữ, còn

lược tố lại giữ chức năng chủ ngữ, tức là cũng có kiểu tỉnh lược chuyển chức

năng (từ bổ ngữ sang chủ ngữ).

d) Tỉnh lược chủ ngữ đơn và tỉnh lược chủ ngữ phức

- Tỉnh lược chủ ngữ đơn

Ở kiểu tỉnh lược này, chỉ có một lược tố, tức là một chủ ngữ bị tỉnh lược.

Ví dụ:

(26) (Sở mật thám đã phái người đi dò la.) Nhưng Ø tuyệt vẫn chưa thấy gì.

(Ông chủ báo chẳng bằng lòng, tr.75)

(27) (Bạch Nhạn nó mặc tân thời lắm). Ø Thử cởi cái quần thâm ra xem nào.

(Cô Kếu, gái tân thời, tr.148)

(28) (Khách đến dự tiệc, toàn là hạng ông nọ, ông kia, danh giá mà ông chủ nói

là chỗ thân tình.) Cho nên Ø cố mời cho kì được. (Báo hiếu: trả nghĩa cha,

tr.118)

- Tỉnh lược chủ ngữ phức

Ở kiểu tỉnh lược này, có từ hai lược tố trở lên, tức là có ít nhất hai chủ

ngữ bị tỉnh lược.

Ví dụ:

(29) (Bà ấy mệt quá.) Ø Không lê được một bước. Ø Không kêu được một

tiếng. Cơ chừng Ø tiếc của. Cơ chừng Ø hết sức. Cơ chừng Ø hết hơi. (Thắng

ăn cắp, tr.117)

(30) (Anh cứ hát.) Ø Hết sức hát. Gò ngực mà hát. Ø Hát như con cuốc kêu

thương. (Anh Xẩm, tr.330-331)

Trong ví dụ (29), có năm câu tỉnh lược chủ ngữ liên tiếp (năm kết ngôn)

và phù hợp với điều đó, có có năm lược tố hay có năm chủ ngữ (bà) bị tỉnh

lược. Kiểu tỉnh lược này được gọi là tỉnh lược phức.

Trong ví dụ (30), có có ba kết tố và ba lược tố, tức là ba chủ ngữ bị tỉnh

lược. Trên đây là trường hợp tỉnh lược chủ ngữ phức .

45

2.2.4.2. Câu tỉnh lược vị ngữ

Hiện tượng tỉnh lược vị ngữ không phổ biến như hiện tượng tỉnh lược

chủ ngữ (chỉ chiếm 6,6%). Lí do của điều này đã được chỉ ra ở mục trình bày

về hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ. Hiện tượng tỉnh lược vị ngữ cũng không

phong phú, phức tạp về kiểu loại như hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ. Sự khảo sát

cho thấy sự tỉnh lược vị ngữ thường diễn ra trong các trường hợp sau:

1) Khi vị ngữ chỉ sự diễn tiến (trôi qua) của thời gian.

Ví du:

(31) (Nó vẫn ăn. Ngon quá.)

Năm phút… Ø

Mười phút… Ø (Thằng ăn cắp, tr.113-114)

(32) (Đường lên huyện không xa, chẳng rõ vì sao lại có sự chậm chạp thế này

được.) Nhưng một giờ Ø. Lại hai giờ Ø. Rồi nửa tháng. Lại một tháng Ø.

(Ngậm cười, tr.281 ).

(33) Rồi nữa, một tháng, hai tháng Ø. (Ngậm cười, tr.281).

Trong những câu (31), (32), (33) vị ngữ tỉnh lược cần được hiểu là (trôi qua).

2) Khi vị ngữ chỉ những hành động nối tiếp nhau nhưng thuộc về các chủ thể

khác nhau:

Ví dụ:

(34) (Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó.)

Rồi ba bốn người, sáu bảy người Ø (Thằng ăn cắp, tr.114)

Trong câu (34) vị ngữ tỉnh lược là “đuổi theo”.

3) Khi vị ngữ là động từ chỉ hoạt động sở hữu (vừa có ý nghĩa tồn tại), có tác

dụng miêu tả sự có mặt của một loạt sự vật, hiện tượng.

(35) (Nó thu một tay vào bọc, méo mồm, nhăn mặt gãi quai hàm, sai mắt đi do

thám) Hàng nồi: Ø đất. Hàng lưỡi cày: Ø sắt. Hàng thợ cao treo cái gương tư

mã trên thân cây: Ø lách tách, tóc. Hàng thợ may, ông phó may máy “pho”: Ø

giẻ. (Bữa no…đòn)

46

Trong câu (35) vị ngữ tỉnh lược cần được hiểu là “chỉ có”.

4) Khi vị ngữ chỉ hoạt động tiêu biến

Ví dụ (36) (Thằng ranh con ngày trước nó vừa lảng vảng ở đây.) Vụt một

cái bây giờ cả nó lẫn tấm bánh… Ø (Thằng ăn cắp)

2.2.4.3. Câu tỉnh lược bổ ngữ

Câu tỉnh lược bổ ngữ chiếm 4.67% trong số câu tỉnh lược thành phần

bắt buộc.

Thường gặp là những kiểu tỉnh lược bổ ngữ sau:

1) Tỉnh lược bổ ngữ với văn cảnh gần và xa

a) Tỉnh lược bổ ngữ với văn cảnh gần

Ở kiểu tỉnh lược này, chủ ngôn và chủ tố đứng gần kết ngôn và lược tố.

Ví dụ:

(37) (Thằng ăn cắp.). Ai đuổi Ø hộ tôi! (Thằng ăn cắp, tr.114)

(38) (Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt). Nó đỡ được Ø, bỏ Ø vào mồm

nhai gau gáu. (Thằng ăn cắp, tr.113)

(39) (Nó nói với bà bán bún riêu):

- Bán bán cho cháu một bát Ø (Thằng ăn cắp, tr.113)

(40) (Dại gì mà tha thằng ăn cắp?) Họ càng ghét Ø túm lại đánh Ø như mưa.

(Thằng ăn cắp, tr.116)

(41) (Bà ấy vồ lấy nó, vả lấy, vả để.) Bà ấy đánh Ø cứ tưởng mạnh… (Thằng

ăn cắp, tr.117)

b) Tỉnh lược bổ ngữ với văn cảnh xa

Ở kiểu tỉnh lược này, chủ ngôn và chủ tố ở cách xa kết ngôn và lược tố

(bổ ngữ bị lược bỏ).

Ví dụ:

(42) (Đôi giày của cụ như thế nào hở cậu?

- Mới nguyên, kiểu Gia Định, đế cờ - lếp, mua những ngót ba đồng!)

47

Hỏi xong, nhà chủ sai người đi tìm Ø khắp mọi nơi: sau nhà, bờ giậu, xó

bếp, ngoài vườn, chuồng trâu, cũi chó ... Càng không thấy Ø, chủ nhà càng lo.

(Cụ Chánh Bá mất giày, tr.142)

Trong ví dụ (42), chủ tố (đôi giày) và câu chứa nó (chủ ngôn) đứng cách

kết ngôn và lược tố một câu hoặc hai câu.

2) Tỉnh lược bổ ngữ đồng chức năng và chuyển chức năng

a) Tỉnh lược bổ ngữ đồng chức năng

Ở kiểu tỉnh lược này, chủ tố và lược tố có chức năng giống nhau.

Ví dụ:

(43) (Nó đưa phắt củ khoai lên mồm, ngoạm một miếng tướng đại...) Nó nuốt

lấy nuốt để Ø. (Bữa no... đòn, tr.235)

Trong ví dụ (43), chủ tố (củ khoai) và lược tố (miếng khoai) có cùng

chức năng bổ ngữ.

b) Tỉnh lược bổ ngữ chuyển chức năng

Ở kiểu tỉnh lược này, chủ tố và lược tố (bổ ngữ bị lược bỏ) không thuộc

cùng một kiểu chức năng. Đây là kiểu tỉnh lược bổ ngữ khá phổ biến.

Ví dụ:

(44) (Miếng khoai trôi xuống, cổ nó phình ra.) Nó lại vội vàng ngoạn miếng Ø

nữa, nhai ngấu nghiến. (Bữa no... đòn, tr.235-236)

(45) (Một thằng chạy.) Mấy trăm người đuổi Ø. (Thằng ăn cắp, tr.114)

(46) (Nó lạy! Nó van!) Nhưng ai tha Ø (Thằng ăn cắp, tr.116)

(47) (Cụ ngồi một mình giữa sập và xơi riêng một mâm rượu đầy tú ụ). Nhà

chủ không dám ghép ai ngồi hầu Ø mà cũng chẳng ai dám ngồi hầu Ø. (Cụ

Chánh Bá mất giày, tr.tr.141)

(48) (Cho đáng kiếp. Nó giật đôi khuyên vàng của người ta!)

Họ lại đánh Ø túi bụi, không tiếc tay. (Thằng ăn cắp, tr.116)

Trong ví dụ (44) chủ tố (củ khoai) giữ chức năng chủ ngữ còn lược tố

của động từ ngoạm (miếng khoai) lại giữ chức năng bổ ngữ. Trong ví dụ (45),

48

chủ tố (một thằng) giữ chức năng chủ ngữ (xét trong mối quan hệ với vị ngữ

chạy), còn lược tố (đứng sau động từ đuổi) lại giữ chức năng bổ ngữ. Như vậy,

ở các ví dụ (44), (45) đã có kiểu tỉnh lược bổ ngữ chuyển chức năng. Nếu tiếp

tục phân tích các ví dụ (46), (47), ta thấy cũng có kiểu tỉnh lược bổ ngữ chuyển

chức năng.

3) Tỉnh lược bổ ngữ đơn và tỉnh lược bổ ngữ phức

a) Tỉnh lược bổ ngữ đơn

Ở kiểu tỉnh lược này, chỉ có một lược tố, tức là một bổ ngữ bị tỉnh lược

lược tố

Ví dụ:

(49) (Nó bị đánh túi bụi). Nhưng nó chẳng quan tâm Ø. (Bữa no…đòn, tr.236)

(50) (Người ta đến càng đông…) Người ta phang Ø cho sướng tay. (Bữa

no…đòn, tr.236)

(51) (Người ta móc mồm nó, gang họng nó). Nó cố ghì, nhất định không nhả Ø.

(Bữa no…đòn, tr.236)

(52) (Bà ấy múc cho nó một bát đầy). Nó ăn Ø. (Thằng ăn cắp, tr.113)

Trong mỗi ví dụ trên đây đều chỉ có một lược tố (một bổ ngữ bị tỉnh lược).

b) Tỉnh lược bổ ngữ phức

Ở kiểu tỉnh lược này, có hai lược tố (bổ ngữ bị tỉnh lược) trở lên.

(53) (Nó mở mắt ra nhìn.) Họ lại uỵch Ø. Họ lại thụi Ø. Họ lại tát Ø. Họ lại

đá. Ø (Thằng ăn cắp, tr.116)

Trong ví dụ (53), có bốn kết ngôn, đồng thời, cũng có bốn lược tố (bốn

bổ ngữ bị tỉnh lược) sau các động từ ngoại động: uỵch, thụi, tát, đá.

2.2.4.4. Câu tỉnh lược chủ ngữ, vị ngữ

Kiểu tỉnh lược này không phổ biến (chỉ chiếm 6,96%) và cũng không

phức tạp về kiểu loại như tỉnh lược chủ ngữ, bổ ngữ.

Ví dụ:

(54) (Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín). Ø Ø

Chín hào. (Người ngựa và ngựa người, tr.56)

49

(55) Y hẹn... ). Ø Ø Không sai một phút (Thanh! Dạ!, tr.239)

(56) Bà nằm sấp, chân co, chân duỗi, úp mặt xuống, nhắm mắt sẵn, thỉnh

thoảng giục;)

- Ø Ø Mạnh vào một tí. (Phành phạch, tr.379)

Trong ví dụ (54), chủ ngữ, vị ngữ bị tỉnh lược là “ta sẽ có” (Ta sẽ có

chín hào.)

Trong ví dụ (55), chủ ngữ, vị ngữ bị tỉnh lược là “chúng tôi đến” (Chúng

tôi đến không sai một phút.)

Trong ví dụ (56), chủ ngữ, vị ngữ bị tỉnh lược là mày quạt (Mày quạt

mạnh vào một tí.).

5) Tỉnh lược chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ

Kiểu tỉnh lược này ít gặp (chỉ chiếm 4.76%).

Ví dụ:

(57) (Nó mở mắt ra nhìn. Họ lại uỵch. Họ lại thụi. Họ lại tát. Họ lại đá.) Ø Ø Ø

Không tiếc tay (Thằng ăn cắp, tr.116)

Trong ví dụ này, có sự tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ lẫn bổ ngữ (Họ đánh

nó không tiếc tay.)

(58) Ø Ø Ø Vẫn cẳng chân. Ø Ø Ø Vẫn cẳng tay. Ø Ø Ø. Vẫn đòn càn. Ø Ø Ø

0 Vẫn đòn gánh. (Bữa no…đòn, tr.236)

Ở ví dụ (58), những câu tỉnh lược đều có dạng cấu tạo chỉ có thành phần

trạng ngữ, còn chủ ngữ (họ), vị ngữ (đánh), bổ ngữ (nó) đều bị tỉnh lược (khôi

phục: Họ vẫn đánh nó bằng cẳng chân. Họ vẫn đánh nó bằng cẳng tay. Họ vẫn

đánh nó bằng đòn càn. Họ vẫn đánh nó bằng cả đòn gánh nữa).

2.2.4.6. Câu tỉnh lược chủ ngữ, bổ ngữ

Kiểu tỉnh lược này (chiếm 5,95%).

Ví dụ:

(59) (Bà ấy kiệt sức, ôm chầm lấy nó, rồi ngã sõng soài ngay cạnh):

50

- Ø Trả Ø tao đây. ( Thằng ăn cắp, tr.117)

(60) (Anh này hiểu ý ra hiên đứng nhìn, rồi đến cạnh cụ, cúi xuống nhặt..) Rồi

Ø thu thu vào Ø trong bọc, rồi lén ra ngoài. Rồi Ø giơ thẳng cánh tay, ném

đánh tõm Ø xuống nước. (Cụ Chánh Bá mất giày, tr.141)

(61) (Rồi biết thế nguy, nó không nhai, trợn mắt lên để nuốt chửng.) Rồi Ø lại

hấp tấp ngốn luôn miếng Ø nữa. (Bữa no... đòn, tr.236)

Trong ví dụ (59, có sự tỉnh lược chủ ngữ (mày) và bổ ngữ (tiền) bên động

từ - vị ngữ trả: Mày trả tiền tao đây. Ở ví dụ (60), có sự tỉnh lược chủ ngữ) (anh

ta) và bổ ngữ (đôi giày): Rồi anh ta thu đôi giày vào trong bọc, lén ra ngoài ao.

Rồi anh ta giơ thẳng cánh tay ném đôi giày đánh tõm xuống nước.). Ở ví dụ (61),

có sự tỉnh lược chủ ngữ (nó) và bổ ngữ (khoai). Dạng đầy đủ của câu tỉnh lược

chủ ngữ, bổ ngữ ở ví dụ (61) là: Rồi nó lại hấp tấp ngốn luôn miếng khoai nữa.

2.2.4.7. Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li

Danh từ chỉ bộ phận bất khả li là các danh từ chỉ bộ phận của người hay

động vật. Chúng gắn chặt với chỉnh thể (không tách rời khỏi chỉnh thể) như:

đầu, mình, mặt, mũi, tai, mắt, chân, tay... Do sự chuyển nghĩa, danh từ chỉ bộ

phận bất khả li cũng có thể chỉ bộ phận của đồ vật hay vật thể nói chung. (Ví

dụ: đầu núi, đầu sông, mặt bàn, chân ghế).

Một trong những đặc điểm ngữ pháp của danh từ chỉ bộ phận bất khả li

là thường đòi hỏi có yếu tố là định ngữ chỉ chỉnh thể đi kèm hoặc xuất hiện

trong cùng câu hay ở gần đó.

Chẳng hạn, ở câu (62) Người ta móc mồm nó, gang họng nó.. (Bữa no...

đòn), sau các danh từ chỉ bộ phận bất bất khả li (mồm, họng) phải có định ngữ

nó thì câu mới rõ nghĩa. Như vậy, định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li

được coi là thành phần bắt buộc của câu.

Trong trường hợp vắng định ngữ, cần coi đó là trường hợp tỉnh lược định

ngữ Kiểu tỉnh lược này tương đối hiếm (chỉ chiếm 1,09%).

51

Ví dụ:

(63) (Người đàn ấy chạc ngoài 60 tuổi, trông rõ quê mùa, đần ngốc.) Mặt mũi Ø

đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt Ø thì toét nhoèn những nhử. Cái

hàm trên Ø thì chìa ra như mái hiên… (Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.121)

(64) (Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này có một người

đàn bà) Lưng Ø khoác áo tơi tả. Ø Đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.

(Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.120)

Trong ví dụ (63) (có sự tỉnh lược định ngữ (bà) ở sau danh từ chỉ bộ

phận bất khả li (mặt mũi, mắt, hàm) sở dĩ định ngữ này không cần xuất hiện vì

đã có sự xuất hiện của chủ tố (người đàn bà) ở câu trước (câu là chủ ngôn).

Trong ví dụ (64) cũng có sự tỉnh lược định ngữ sau các danh từ chỉ bộ

phận bất khả li (lưng, đầu). Điều kiện của sự tỉnh lược này là sự có mặt của

danh từ chỉnh thể giữ vai trò chủ tố (người đàn bà) ở câu đứng trước.

2.2.5. Vấn đề khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược

Theo quan niệm chung về tỉnh lược thì một trong điều kiện để xác định

hiện tượng này là khả năng khôi phục lại yếu tố bị tỉnh lược.

Trong mục này, chúng tôi thử tiến hành việc khôi phục thành phần bị

lược bỏ trong một số trường hợp để một mặt, chứng minh “tính chất tỉnh lược”

của những câu được thống kê; mặt khác, cũng để làm rõ hơn phần nào tính

phức tạp của việc khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược.

1) Nguyên tắc khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược

a) Cần bảo đảm sự trung thành đối với nội dung mà tác giả muốn diễn đạt.

Theo nguyên tắc này, việc khôi phục thành phần bị tỉnh lược phải bảo

đảm không dẫn đến sự thay nội dung so với nguyên văn.

b) Cần cố gắng hạn chế, khắc phục tối đa sự trùng lặp

Theo nguyên tắc này, cần tránh sự máy móc, sự phụ thuộc cứng nhắc vào

văn cảnh mà cố gắng lựa chọn các từ để khôi phục không chỉ phù hợp với nội

dung nguyên bản mà còn phải đảm bảo sự phù hợp về ngữ nghĩa, ngữ pháp và

phong cách.

52

2) Thử nghiệm khôi phục lại thành phần chủ ngữ bị tỉnh lược

Chúng ta coi việc khôi phục chủ ngữ ở đây là việc làm mang tính “thử

nghiệm” vì đây là công việc rất khó khăn mà giải pháp khôi phục được đề xuất

chỉ là một trong các phương án có thể. Cũng cần nói ngay rằng so với những câu

tỉnh lược (biến thể tỉnh lược là sản phẩm của nhà văn), những câu đầy đủ (câu

được khôi phục các thành phần bị lược bỏ) chủ yếu chỉ có giá trị minh họa cho

một mục đích nghiên cứu như đã chỉ ra chứ không có giá trị chuẩn mực (về ngữ

pháp và về phong cách, về tu từ học) tương đương với câu tỉnh lược của nhà văn.

Khi xem xét khả năng khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược, cụ thể là chủ

ngữ, chúng tôi nhận thấy, như đã nói ở trên, đây là công việc khó khăn, phức

tạp. Sở dĩ nói như vậy là vì trước một câu tỉnh lược, không phải chỉ có một

cách hiểu và một cách khôi phục duy nhất. Chẳng hạn, thử xem xét khả năng

khôi phục của thành phần tỉnh lược trong trường hợp sau:

(65) (Ai cũng kéo cả ra đường để nhìn theo. Một thằng chạy. Mấy trăm người

đuổi...) Ø Bụi mù. (Thằng ăn cắp, tr.114)

Khi phân tích câu tỉnh lược trên đây và đưa ra cách khôi phục lại lược tố

Trần Ngọc Thêm đã viết “Công thức khôi phục tỉnh lược cho trường hợp này có

dạng: “Kết quả là N.” (Kết quả là bụi mù.). Theo cách phân tích và khôi phục này

thì chủ tố (kết quả) không hề xuất hiện ở bất kì câu nào trong phần văn bản đứng

trước. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đối với trường hợp này, còn có thể có một cách

phân tích và khôi phục khác, theo đó, coi đường ở câu trước đó là chủ tố. Với cách

hiểu này, có thể khôi phục yếu tố tỉnh lược như sau: “Đường bụi mù”.

Xem xét khả năng khôi phục chủ ngữ bị tỉnh lược, chúng tôi thấy cần

phân biệt các trường hợp chính sau:

a) Trường hợp dễ khôi phục lại chủ ngữ tỉnh lược (lược tố)

Trong trường hợp này, chủ tố đã xuất hiện ở câu (chủ ngôn) đứng trước

làm căn cứ để khôi phục lại lược tố.

Ở trường hợp này, cũng cần phân biệt được hai trường hợp cụ thể:

- Trường hợp chủ tố và lược tố trùng nhau hoàn toàn

53

Ví dụ:

(66) (Nó lạy! Nó van! Nhưng ai tha?). Ø Dại gì mà tha thằng ăn cắp?

(Thằng ăn cắp, tr.116)

Chủ ngữ tỉnh lược ở câu trên đây có thể khôi phục lại như sau: “Ai dại gì

mà tha thằng ăn cắp? Trong trường hợp này, chủ tố và lược tố trùng nhau (đều

là nó).

(67) (Nó đau quá.) Ø Nằm sóng soài, không nói được nữa. (Thằng ăn cắp,

tr.116)

Câu tỉnh lược chủ ngữ trên đây có dạng đầy đủ là: “Nó nằm sóng soài,

không nói được nữa”. Trong trường hợp này, chủ tố và lược tố cũng trùng nhau

(đều là nó).

(68) (Tôi ngẫm nghĩ.) Đêm hôm ấy về, Ø rơi nước mắt. (Tôi chủ báo, anh chủ

báo, nó chủ báo, tr.207).

Khôi phục lại chủ như tỉnh lược ở trường hợp trên, ta có câu: “Đêm hôm

ấy về, tôi rơi nước mắt.”. Đây cũng là trường hợp chủ tố và lược tố trùng nhau

(đều là tôi và đều là chủ ngữ).

(69) (Buổi tối, bà không thích đi đến những nơi thoáng khí để hóng mát.) Ø

Phải vạ mà đánh phấn, bôi môi, mà đóng áo dài vào. (Phành phạch, tr.378)

Có thể khôi phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược ở câu trên đây như sau: “ Bà

phải vạ mà đánh phấn, bôi môi, mà đóng áo dài vào.”. Trong trường hợp này,

chủ tố và lược tố cũng trùng nhau.

- Trường hợp chủ tố và lược tố không trùng nhau

Trong trường hợp này, chủ tố thường là danh từ, cụm danh từ, còn lược tố là

đại từ thay thế cho danh từ, cụm danh từ xuất hiện với cương vị như chủ tố).

Ví dụ:

(70) (Tìm mãi không thấy, hai vợ chồng nhà chủ trợn mắt, trợn mũi luống

cuống, chỉ trỏ bàn nhau.) Ø Không biết làm thế nào cho êm chuyện. (Cụ Chánh

Bá mất giày, tr.143)

54

Ở ví dụ vừa dẫn, chủ tố là “hai vợ chồng nhà chủ”. Để tránh việc lặp lại

một đoạn (cụm từ) khá dài, cần sử dụng đại từ (họ) để khôi phục lại lược tố:

“Họ không biết làm thế nào cho êm chuyện”.

(71) (Một tốp người đi, một tốp người lại.) Ø Tranh nhau đi lại, rồi mắc ngẵng

ở lối hẹp. (Bữa no …đòn, tr.232)

Ở câu vừa dẫn, không thể dùng nguyên chủ tố (một tốp người) để khôi

phục lại lược tố. Giải pháp phù hợp ở đây là sử dụng đại từ (họ) để thay thế:

“Họ tranh nhau đi lại rồi mắc ngẵng ở lối hẹp.”.

(72) (Bỗng một tràng pháo điện quang bên hàng xóm nổ, bắn những tiếng xé

mang tai làm Trần tỉnh giấc. Trần cựa.) Ø Rồi lại nằm im. (Cái tết của những

đại văn hào, tr.577)

Trong ví dụ trên đây, mặc dù có thể dùng nguyên chủ tố (Trần) để khôi

phục lại lược tố; tuy nhiên, giải pháp này sẽ dẫn đến sự lặp từ. Giải pháp hợp lí

hơn là dùng từ thay thế: “Rồi anh lại nằm im”

(73) (Trẻ con phần nhiều đãng trí, hay quên, có khi tay cầm quản bút rồi mà

mách thầy là anh nào ăn cắp.) Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay rồi lúc

hứng Ø cứ như thế đưa cả lên đầu mà gãi. (Thầy cáu, tr.210)

Ở ví dụ vừa dẫn, không thể dùng chủ tố (trẻ con) để khôi phục lại lược tố

vì sẽ tạo nên sự trùng lặp từ. Giải pháp phù hợp ở đây cũng là sử dụng, đại từ

(chúng) để khôi phục lại lược tố: “Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay rồi lúc

hứng, chúng cứ như thế đưa cả lên đầu mà gãi.”.

(74) (Và khi biết rằng chiều nay có chợ phiên to trên Bách thú, tự nhiên anh

Tiêu thấy nhẹ nhõm hẳn người.). Một hôm nay Ø kiếm bằng ba bốn ngày

thường.) (Được chuyến khách, tr.342)

Ở ví dụ (74), giải pháp phù hợp để khôi phục lược tố là dùng từ anh thay

cho anh Tiêu (là chủ tố) để khôi phục lại chủ ngữ tỉnh lược : “Một hôm nay,

anh kiếm bằng ba bốn ngày thường.”.

55

b) Trường hợp khó khôi phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược

Trong trường hợp này, chủ tố không xuất hiện ở phần văn bản đứng

trước (tức là chủ tố có tính khiếm diện). Để khôi phục lại chủ ngữ tỉnh lược ở

trường hợp này, cần có sự suy luận dựa vào ngữ cảnh (văn cảnh, hoàn cảnh,

tình huống nói năng).

Ví dụ:

(75) (Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi

hàng chục người...) Rồi Ø không đếm được bao nhiêu người nữa. (Thằng ăn cắp,

tr.114)

Trong ví dụ (75) có sự tỉnh lược chủ ngữ ở trước động từ - vị ngữ (đếm)

nhưng chủ tố không hề hiện diện ở bất kì chủ ngôn nào trước đó. Đối với

trường hợp này, có thể dựa vào sự suy đoán để xác định chủ tố là “người ta”

(chỉ những người chứng kiến sự việc nói chung). Theo sự suy đoán đó, có thể

khôi phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược ở ví dụ trên như sau: “Rồi người ta không

đếm được bao nhiêu người nữa.”.

(76) (Bà ấy mệt quá...). Ø Không biết mất cái khăn, đôi khuyên hay năm đồng bạc?

Ø Không biết bị đánh có đau không ? Ø Chờ bà ấy đến sẽ rõ. (Thằng ăn cắp,

tr.117)

Trong ví dụ (76) có ba câu tỉnh lược chủ ngữ trong đó ở hai câu đầu chắc

chắn chủ ngữ phải giống nhau (đều chỉ chủ thể) của hoạt động “không biết”);

còn ở câu sau, chủ ngữ bên động từ chờ chỉ một chủ thể khác. Nhìn chung, ở

các trường hợp trên đây, chủ tố (tương ứng với các lược tố) đều không hiện

diện trong văn bản. Vì vậy, việc khôi phục chủ ngữ bị tỉnh lược ở những câu

trên đây phải dựa vào sự phân tích, suy đoán. Bằng cách đó, có thể xác định

chủ tố khiếm diện ứng với lược tố ở hai câu đầu là “người ta”, còn chủ tổ

khiếm diện ứng với lược tố ở câu sau là ta hoặc chúng ta. Theo đó, có thể khôi

phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược như sau: “(Bà ấy mệt quá..) Người ta không biết

56

bà ấy mất cái khăn, đôi khuyên hay năm đồng bạc. Người ta cũng không biết

bà ấy bị đánh có đau không? Chúng ta chờ bà ấy đến sẽ rõ.

2.3. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng phép tách câu

So với câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược, câu không đầy

đủ được tạo ra bằng phép tách câu có số lượng ít hơn nhiều (chỉ chiếm 8,1%).

Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, câu không đầy đủ được tạo ra bằng

phép tách câu trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan chỉ gồm ba

kiểu: câu vốn là vị ngữ được tách thành câu, câu vốn là trạng ngữ được tách

thành câu và câu vốn là vế câu được tách ra thành câu.

2.3.1. Câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu

Kiểu câu không đầy đủ này rất gần với câu tỉnh lược chủ ngữ như đã chỉ

ra ở Mục 2.2. Vì vậy, trong việc xác định kiểu câu này, rất khó tránh được

những trường hợp trung gian. Sự khảo sát cho thấy ở câu không đầy đủ vốn là

vị ngữ được tách ra, vị ngữ được tách thường là vị ngữ đồng loại. Dưới đây là

một số kiểu câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu.

Ví dụ:

(77) (Chợ đã vãn dần.) Đã bớt bụi. Đã bớt tanh. Đã bớt hơi người. Đã bớt chen

chúc. (Bữa no ... đòn, tr.234)

Trong ví dụ trên đây có bốn câu đều có cấu tạo là cụm từ tương ứng với

chức năng vị ngữ. Bốn câu này rất giống những tỉnh lược chủ ngữ. Tuy nhiên,

theo chúng tôi nên coi đây là những câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại

được tách ra. Sở dĩ nói như vậy là vì nếu khôi phục lại chủ ngữ, ta sẽ thu được

những câu không tự nhiên, bình thường. Trong trường hợp này, các vị ngữ đồng

loại sở dĩ được tách ra vì chúng có số lượng lớn. Hơn nữa, việc tách các vị ngữ

đồng loại ở đây còn có tác dụng nhấn mạnh vào thông tin nên ở mỗi vị ngữ.

(78) (Thế mà bỗng dưng hôm nay, cô cứ thở vắn, thở dài.) Rồi lên giường đắp

chăn. Thút thít khóc (Nỗi lòng ai tỏ, tr.283)

57

Ở ví dụ (78) có hai câu có thể coi là vị ngữ đồng loại được tách thành

câu (trong đó vị ngữ đồng loại ở câu thứ nhất được nối kết với vị ngữ đứng

trước bằng quan hệ từ rồi chỉ quan hệ nối tiếp).

(79) (Bà ấy mệt quá.) Không lê được một bước. Không kêu được một tiếng.

(Thằng ăn cắp, tr.117)

(80) (Bà ấy đến). Hổn hển chẳng thở được (Thằng ăn cắp, tr.17)

Các ví dụ (79), (80) đều có những câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng

loại được tách ra thành câu. Các vị ngữ đồng loại này đều chỉ các hoạt động

thuộc về chủ thể bà ấy.

(81) (Đến nơi, cô xổ khăn ra, lấy lược chải lại mái tóc.) Rồi rẽ đường ngôi. Rồi

uốn lại mái tóc cho cong xuống. (cô Kếu, gái tân thời, tr.149)

Trong ví dụ (81) có hai câu không đầy đủ có thể coi là vị ngữ đồng loại

được tách ra, trong đó, cả hai đều được nối với vị ngữ đứng trước bằng quan hệ

từ rồi chỉ quan hệ nối tiếp giữa các sự việc nêu ở vị ngữ.

(82) Và bụi. Và tanh. Và ồn ào. Và hơi người. Và chen chúc.

Chợ họp mỗi lúc một đông....(Bữa no ...đòn, tr.232)

Trong ví dụ (82), ta được chứng kiến một cách dùng câu không đầy đủ

khá độc đáo. Năm câu không đầy đủ (có thể coi là các vị ngữ đồng loại tách ra

từ câu ở sau đó) được tác giả đặt ngay ở đầu văn bản. Cách đặt câu bất ngờ rất

ít gặp này đã gây ấn tượng mạnh khi tác giả giới thiệu về tính chất của phiên

chợ mà tác giả chọn làm khung cảnh của câu chuyện được kể. Năm câu không

đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại nêu đây đều được nối với vị ngữ đứng sau (họp

mỗi lúc một đông) và với nhau bởi quan hệ từ và chỉ quan hệ liệt kê.

(83) (Trong lúc thiêm thiếp, tôi chỉ còn nhớ bên tai văng vẳng những tiếng súng

nổ dữ dội.) Rồi không hiểu thế nào nữa. (Chiến tranh, tr.541).

(84) (Nó khuỵu cẳng). Ngã phịch. (Bữa no... đòn,)

Ở ví dụ (83) có câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại được tách ra

thành câu. Vị ngữ này được nối kết với vị ngữ ở câu đứng trước bởi quan hệ từ

rồi chỉ quan hệ nối tiếp.

58

Ở ví dụ (84), “Ngã phịch” cũng là câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại

chỉ hoạt động nối tiếp hoạt động “khuỵu cẳng” nêu ở vị ngữ trong câu đứng trước.

(85) (Một tốp người đi. Một tốp người lại. Tranh nhau đi lại rồi mắc ngẵng ở

lối hẹp.) Ùn lại. (Bữa no …đòn, tr.232)

(86) (Nó cần sống hôm nay, về buổi chợ này.) Mà chưa ăn cắp được thứ gì cả.

(Bữa no đòn, tr.234)

Trong ví dụ (85) “Ùn lại” là câu không đầy đủ (tương ứng với vị ngữ

đồng loại được tách ra) chỉ trạng thái là hệ quả của các hoạt động nêu ở các vị

ngữ đứng trước (đi lại, mắc ngẵng).

Trong ví dụ (86), ta có câu không đầy đủ vốn là vị ngữ chỉ hoạt động

tương phản (đối lập) với hoạt động nêu ở vị ngữ trong câu đứng trước (cần

sống). Quan hệ tương phản (đối lập) giữa hai vị ngữ này được biểu thị bởi quan

hệ từ mà (cần sống.. mà chưa ăn cắp được gì).

2.3.2. Câu không đầy đủ vốn là trạng ngữ được tách ra

Trong số những câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu, câu

vốn là trạng ngữ được tách ra chiếm tỉ lệ cao nhất (chiếm 46,87%). Lí do của

điều này có thể là đặc tính của trạng ngữ trong tổ chức cú pháp của câu: Trạng

ngữ trong tổ chức cú pháp thường đứng ở đầu hoặc cuối câu và có mối quan hệ

cú pháp yếu (lỏng lẻo) với vị ngữ. Vì thế, nó dễ được tách ra hơn.

Kết quả khảo sát cho thấy, các trạng ngữ được tách ra thường gặp là các

kiểu trạng ngữ sau:

1) Trạng ngữ thời gian

Ví dụ:

(87) Buổi sáng hầu hôm ấy. Con mẹ Nuôi tay cầm lá đơn, đứng ở sân công

đường. (Đồng hào có ma, tr.407)

(88) Sáng mồng một đầu năm. Từ từ tờ mờ sáng đến tám, chín giờ, dần dần nhà

nào cũng lẹt đẹt một bánh pháo ngắn để đón xuân. (Cái tết của những đại văn hào,

tr.577)

59

(89) Chiều xẩm. Mẹ về. (Nỗi lòng ai tỏ, tr.285)

(90) Sáng sớm hôm sau. Bốn người hảo tâm đã sửa soạn khiêng đến đầu ngõ

nhà chị Cu, bày sẵn trên đường và vào nhà giục tới tấp. (Người thứ ba, tr.588)

2) Trạng ngữ mục đích

Ví dụ:

(91) (Những người khôn ngoan, làm lơ, tay giữ túi, chân bước đi..) Cho được

việc. (Bữa no đòn, tr.232)

(92) (Ba bốn giờ mới bắt đầu nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưa.) Để

ngài điểm. (Tinh thần thể dục, tr.458)

3) Trạng ngữ chỉ tính chất, trạng thái

Ví dụ:

(93) (Người ta chạy huỳnh huỵch) Tán loạn. (Bữa no... đòn, tr.235)

(94) (Vòng trong vòng ngoài, người ta kéo đến nghe.) Đông như hội. (Bữa

no... đòn, tr.233)

2.3.3. Câu không đầy đủ vốn là vế câu được tách ra

Kiều này chiếm 27,09% trong tổng số câu không đầy đủ được tạo ra

bằng phép tách câu.

Kiểu này bao gồm những kiểu nhỏ sau:

1) Câu vốn là vế câu chỉ nguyên nhân được tách ra

Ở kiểu này, vế câu chỉ nguyên nhân thường, được dẫn bởi quan hệ từ vì.

Ví dụ:

(95) (Cái tên xấu xí ấy nhiều lần ông cứ muốn đổi để cho đỡ có vẻ giai cấp.) Vì

ông khoe rất yêu chủ nghĩa bình dân. (Thằng Quýt)

(96) (Tôi không ngờ và cũng không để ý đến thái độ ấy.) Vì hai chúng tôi thân

nhau từ thuở để chỏm. (Người vợ lẽ bạn tôi, tr.556)

(97) (Người đàn bà thấy có khách lạ thì bẽn lẽn cúi gầm xuống.) Vì chắc người

ấy không rõ tôi là bạn hay họ hàng với Quý. (Người vợ lẽ bạn tôi, tr.558)

(98) (Người ta không cho nói.) Vì bộ mã nó làm hại người ta. (Cái vốn sinh nhai)

60

(99) (Nhưng đã hơn một tháng nay, anh ta không diễn ở đâu cả.) Vì đã hơn một

tháng nay, cha anh ta ốm. (Kép Tư Bền, tr.159)

2) Câu vốn là vế câu chỉ kết quả được tách ra

Ở kiểu này, vế câu chỉ kết quả được dẫn nối bởi quan hệ từ cho nên.

Ví dụ:

(100) (Cảnh cuối cùng mà anh cho là lâu tới thì khán giả lại cho là chóng quá.)

Cho nên khi sắp hạ màn, anh cúi chào thì cả rạp vỗ tay đôm đốp thật dài, dài

mãi. (Kép Tư Bền, tr.166)

3) Câu vốn là vế câu chỉ quan hệ tương phản (đối lập) được tách ra

Ở kiểu này, vế câu chỉ quan hệ tương phản được dẫn nối bởi quan hệ

từ nhưng

Ví dụ:

(101) (Nó bị đánh túi bụi.) Nhưng nó chẳng quan tâm. (Bữa no...đòn,

tr.236)

(102) (Nó thấy mợ nó và bác phán cười luôn, nó thích lắm.) Nhưng nó

chẳng hiểu gì cả. (Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn, tr.65)

4) Câu vốn là vế câu chỉ quan hệ nối tiếp được tách ra

Ở kiểu này, vế câu cho quan hệ nối tiếp được dẫn nối bởi quan hệ từ rồi.

Ví dụ:

(103) (Cô mơ màng nghĩ đến ngày cưới của cô.) Rồi cô tưởng tượng đến người

bạn trăm năm của cô trẻ, đẹp, đẫy đà, cứ chiều chiều dắt cô ra Bờ Hồ hóng

mát. (Cô Kếu, gái tân thời, tr.148)

(104) (Nó nhìn lên, nhìn xuống.) Rồi nó lại đi (Cái vốn để sinh nhai)

2.4. Tiểu kết

Trong Chương 2, luận văn đã miêu tả làm rõ vấn đề đặc điểm cấu tạo ngữ

pháp của câu không đầy đủ với hai nội dung chính: câu không đâỳ đủ được tạo

ra bằng phép tỉnh lược và câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu. Đối

với kiểu câu đầy đủ là câu tỉnh lược, luận văn đã miêu tả làm rõ đặc điểm ngữ

pháp của từng kiểu câu tỉnh lược các thành phần cụ thể; đồng thời, tiến hành phân

tích thử nghiệm việc khôi phục lại thành phần câu bị tỉnh lược (chủ ngữ). Đối với

61

câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu, luận văn đã miêu tả làm rõ ba

kiểu câu cụ thể: Câu vốn là vị ngữ, trạng ngữ, vế câu được tách thành câu.

Kết quả nghiên cứu ở Chương 2 cho thấy câu không đầy đủ trong Truyện

ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan rất phong phú, đa dạng trong đó câu tỉnh

lược là kiểu câu câu không đầy đủ phổ biến nhất.

Qua kết quả nghiên cứu ở Chương 2, luận văn cũng cho thấy mặc dù cần

thiết và có cơ sở phân biệt câu không đầy đủ là câu tỉnh lược với câu không đầy

đủ là câu được tạo ra bằng phép tách câu nhưng trên thực tế, ranh giới giữa hai

kiểu câu này chỉ có tính tương đối.

62

Chƣơng 3

CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG

3.1. Dẫn nhập

Trong chương này, luận văn sẽ xem xét câu không đầy đủ ở các mặt: ngữ

nghĩa, ngữ dụng.

Ở mặt ngữ nghĩa, luận văn sẽ xem xét câu không đầy đủ với đặc tính là

đơn vị ngữ nghĩa có sự phụ thuộc về mặt ngữ nghĩa (tức là mang tính hợp

nghĩa, khác với câu đầy đủ trong nhiều trường hợp, mang tính tự nghĩa); đồng

thời, cũng miêu tả làm rõ các kiểu tỉnh lược ngữ nghĩa (tương ứng với sự tỉnh

lược cú pháp) ở câu không đầy đủ.

Ở mặt ngữ dụng, luận văn sẽ xem xét câu không đầy đủ với tư cách là

đơn vị giao tiếp trong mối quan hệ với người sử dụng, cụ thể là xem xét các

khía cạnh thuộc bình diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp) của

câu không đầy đủ như: Cấu trúc thông tin ( sự phân chia: cái đã biết, cái mới),

nghĩa tình thái chủ quan (nghĩa mục đích phát ngôn) và cấu trúc tình thái (cấu

trúc thức) của câu không đầy đủ.

Những vấn đề nêu trên đây là những vấn đề khá phức tạp. Vì vậy, trong

khuôn khổ của luận văn và trình độ của bản thân, chúng tôi chỉ có thể đề cập

đến những vấn đề này ở mức độ khái quát.

3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa

3.2.1. Tính không đầy đủ hay tính phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ

3.2.1.1. Mối quan hệ giữa tính không đầy đủ về ngữ nghĩa và tính không đầy đủ

về cú pháp

Như đã trình bày ở mục Tổng quan, cú pháp và ngữ nghĩa (nghĩa biểu

hiện) của câu là hai mặt khác nhau. Tuy nhiên, đều là các bình diện thuộc về câu

như là thể thống nhất, hoàn chỉnh nên cú pháp và ngữ nghĩa luôn có mối quan hệ

mật thiết với nhau. Mô hình cú pháp của câu với các thành phần bắt buộc (chủ

ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ bắt buộc) và tự do (trạng ngữ) về nguyên tắc, cần

63

được lấp đầy bởi các đơn vị từ vựng cụ thể - các thành tố ngữ nghĩa hay các vai

nghĩa. Chẳng hạn, mô hình cú pháp CN- VN tương ứng với câu cụ thể được làm

đấy về từ vựng như: (1) Bà ấy vẫn chạy. (2) Bà ấy vẫn kêu. (3) Bà ấy vẫn thở.

(Thằng ăn cắp). Mô hình cú pháp CN- VN - BN tương ứng với những câu cụ thể

được làm đấy về từ vựng như: (4) Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. (5) Bà hàng

bún riêu nắn lại túi tiền. (6) Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. (Thằng ăn cắp).

Những câu trên đây đều là những câu đầy đủ (câu hoàn chỉnh, câu tự

lập) về ngữ pháp, đồng thời, cũng là những câu đầy đủ về ngữ nghĩa (câu tự

nghĩa). Như vậy, tính đầy đủ về cú pháp và tính đầy đủ về ngữ nghĩa thường có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau như ở trường hợp trên đây. Trái với trường hợp

trên đây, khi mô hình cú pháp của câu không được làm đầy bởi các đơn vị từ

vựng cụ thể, ta sẽ có những câu không đầy đủ về cú pháp và ngữ nghĩa như đã

được miêu tả ở Chương 2.

3.2.1.2. Sự phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ

Một trong những đặc điểm của câu không đầy đủ về ngữ nghĩa là sự phụ

thuộc về ngữ nghĩa vào những câu đứng trước (hoặc đứng sau) chúng, tức là

chúng không có tính tự nghĩa mà mang tính hợp nghĩa. Sự phụ thuộc này thể

hiện ở chỗ để hiểu đúng, hiểu rõ nghĩa của chúng, cần dựa vào câu đứng trước

hoặc đứng sau (những câu giữ vai trò là chủ ngôn hay vai trò văn cảnh). Chẳng

hạn, để hiểu rõ nghĩa của những câu như:

(7) Chạy hăng quá. (Thằng ăn cắp)

(8) Không biết làm thế nào cho yên chuyện. (Cụ Chánh Bá mất giày)

(6) Chỉ biết sống mơ mộng. (Cái tết của những đại văn hào)

(10) Rồi lên giường đắp chăn. (Nỗi lòng ai tỏ)

không thể không dựa vào văn cảnh, cụ thể là dựa vào những câu đứng trước.

Chính tính phụ thuộc về ngữ nghĩa khiến cho câu với tư cách là đơn vị

tối thiểu của văn bản trở thành đơn vị không thể tách rời khỏi văn bản như môi

trường sống, môi trường tồn tại của mình. Nói cách khác, chính văn bản là điều

64

kiện để mỗi câu (trong đó có câu không đầy đủ) có thể hiểu được và phát huy

được hiệu quả giao tiếp của mình. Cũng chính nhờ có môi trường văn bản mà

câu không đầy đủ (mà từng có thời bị coi là câu què, câu cụt, câu sai) có được

tính hợp thức, thậm chí, được coi là câu hay, câu mang tính nghệ thuật, thể hiện

sự sáng tạo của nhà văn.

3.2.2. Các kiểu câu tỉnh lược nghĩa ở câu không đầy đủ

Khi xem xét sự tỉnh lược ngữ nghĩa ở câu không đầy đủ, chúng tôi sẽ dựa

vào lí thuyết về ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện), cụ thể là dựa vào các khái niệm

như: cấu trúc ngữ nghĩa, tham thể ngữ nghĩa (vai nghĩa) hạt nhân ngữ nghĩa đã

được trình bày trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn văn Lộc và Nguyễn

Mạnh Tiến [20, 186-194].

Ở đây, cần chỉ ra rằng đề cập đến sự tỉnh lược ngữ nghĩa (gắn với tỉnh

lược ngữ pháp) chưa phải là đã bao quát được đặc điểm cấu trúc ngữ nghĩa (cấu

trúc nghĩa biểu hiện) của toàn bộ câu không đầy đủ (vì đối với câu không đầy

đủ được tạo ra bằng phép tách câu, không thể nói về sự tỉnh lược dù là về

phương diện nào). Tuy nhiên, do câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách

câu có số lượng không lớn (chỉ có 96 câu, chiếm tỉ lệ 8,1%) nên chúng tôi tạm

thời không đề cập đến tổ chức ngữ nghĩa (sự thiếu vắng các thành tố nghĩa) ở

kiểu câu này.

Như đã nói ở trên, các kiểu tỉnh ngữ nghĩa ở câu không đầy đủ sẽ được

xem xét gắn với các kiểu tỉnh lược cú pháp. Hai kiểu tỉnh lược này sẽ có sự

tương ứng hoàn toàn trong trường hợp các thành phần cú pháp của câu (chủ

ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) được biểu hiện bằng thực từ. Chẳng hạn, ở câu (11) Ø Rồi

lại nằm im (Cái tết của những đại văn hào), thành phần bị tỉnh lược về cú pháp

là chủ ngữ tương ứng hoàn toàn với tham thể ngữ nghĩa bị tỉnh lược là chủ thể

(đều là anh). Ở (12) Ø Lại cho Ø thêm một trận nữa. (Thằng ăn cắp), các thành

phần cú pháp bị tỉnh lược là chủ ngữ, bổ ngữ tương ứng hoàn toàn với các tham

thể chủ thể (họ) và đối thể (nó).

65

Dưới đây là một số kiểu tỉnh lược ngữ nghĩa cụ thể.

1) Tỉnh lược tham thể chủ thể

Kiểu này gồm các kiểu nhỏ sau:

a) Tỉnh lược chủ thể hành động

Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là động từ chỉ hành động.

Ví dụ:

(13) (Người ta đến càng đông.) Ø Vẫn đánh nó. (Bữa no..đòn, tr.236)

(14) (Một tốp người đi. Một tốp người lại.) Ø Tranh nhau đi lại (Bữa no.. đòn,

tr.232)

(15) (Con cắn cỏ, cắn rác lạy các ông, các bà.). Ø Đừng bắt con bỏ bóp. (Thế

cho nó chừa, tr.245)

b) Tỉnh lược chủ thể trạng thái

Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là các động từ trạng thái.

(16) (Dần dần, nó thấy mệt.) Ø Mệt quá. (Thế cho nó chừa, tr.247)

(17) (Nó choàng dậy.) Thì lại bắt đầu lo sợ. (Thế cho nó chừa, tr.247)

c) Tỉnh lược chủ thể đặc điểm

Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là các động từ chỉ

đặc điểm.

Ví dụ:

(18) (Chung quy chỉ chết một mình con Thanh.) Ø Đã bận lại thêm tíu tít.

(Thanh! Dạ!)

(19) (Thì nó liều.) Ø Liều chết để sống. (Bữa no..đòn, tr.234)

(20) (Chợ đã vãn dần.) Ø Đã bớt tanh, Ø Đã bớt ồn ào. (Bữa no..đòn, tr.234)

d) Tỉnh lược chủ thể chỉ công dụng (chức năng, tác dụng) của sự vật

Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là động từ chỉ chức

năng, tác dụng của sự vật.

Ví dụ:

(21). (Cái áo ấy có hai công dụng.) Ø Vừa để che cái thân khẳng khiu, khô đét,

cho khỏi rõ những mạch máu và bộ xương sườn, vừa để giấu tạm giấu tạm thời

các thứ lấy cắp. (Bữa no..đòn, tr.233)

66

2) Tỉnh lược hạt nhân ngữ nghĩa

Tỉnh lược hạt nhân ngữ nghĩa chỉ trạng thái, quá trình (sự diễn tiến của

thời gian). Kiểu hạt nhân ngữ nghĩa này thường đòi hỏi chủ thể chỉ thời gian.

Ví dụ:

(22) Năm phút …Ø. Mười phút …Ø (Thằng ăn cắp)

Trong câu (22) hạt nhân ngữ nghĩa (đồng thời là vị ngữ) bị tỉnh lược cần

được hiểu là “trôi qua”.

(23) Năm hôm, mười hôm Ø. (Ngậm cười, tr.280)

(24) Rồi nửa tháng, lại một tháng. Ø (Ngậm cười, tr.281)

(25) Rồi nửa, một tháng, hai tháng. Ø (Ngậm cười, tr.281)

Trong các câu (23), (24), (25), hạt nhân ngữ nghĩa (và đồng thời là vị

ngữ- hạt nhân cú pháp) bị tỉnh lược cũng là động từ trôi qua chỉ sự diễn tiến

của thời gian.

3) Tỉnh lược chủ thể và hạt nhân ngữ nghĩa

Ví dụ:

(26) (Mày đi mua cho tao ba xu ô mai.) Ø Ø Đằng chua ấy nhé. (Thanh! Dạ!,

tr.242)

(27) (Một người giơ cổ tay, trỏ chiếc đồng hồ chữ nhật:

- Y hẹn đúng tám giờ.) Ø Ø Không sai một phút. (Thanh! Dạ!, tr.239)

Ở ví dụ (26) có sự tỉnh lược ngữ nghĩa đối với chủ thể (mày) và hạt nhân

(mua): Mày mua đằng chua ấy nhé.

Ở ví dụ (27), có sự tỉnh lược ngữ nghĩa đối với chủ thể (chúng tôi) và hạt

nhân ngữ nghĩa (đến): “Chúng tôi đến không sai một phút.”.

4) Tỉnh lược chủ thể và đối thể

Ví dụ:

(28) (Người ta đến càng đông…). Ø Vẫn chửi Ø. Ø Vẫn đấm Ø. Ø Vẫn thụi Ø.

Ø Vẫn bịch Ø. (Bữa no..đòn, tr.236)

67

Ở ví dụ (28), có sự tỉnh lược ngữ nghĩa đối với chủ thể (họ hoặc người ta) và

đối thể (nó): “Người ta vẫn chửi nó. Người ta vẫn đấm nó. Người ta vẫn thụi

nó. Người ta vẫn bịch nó. ”.

(29) (Nó dừng lại:) Ø Chờ Ø (Bữa no..đòn, tr.235)

Ở ví dụ (29), có sự tỉnh lược chủ thể (nó) và đối thể (cần hiểu là cơ hội): “Nó

chờ cơ hội.”.

5) Tỉnh lược đối thể

Ví dụ:

(30) (Một thằng chạy.) Mấy trăm người đuổi. Ø

(31) (Nó mở mắt ra nhìn.). Họ lại huỵch Ø. Họ lại thụi Ø. Họ lại tát Ø. Họ lại

đá Ø. ( Thằng ăn cắp, tr.)

(32) (Nó lạy.Nó van.) Nhưng ai tha Ø.… Họ càng ghét, Ø, túm lại đánh Ø như

mưa. (Thằng ăn cắp)

(33) (Đôi giày của cụ thế nào hở cậu?). Hỏi xong nhà chủ sai người đổ đi soi

đèn tìm Ø khắp mọi nơi… Càng không thấy Ø, chủ nhà càng lo. (Cụ Chánh Bá

mất giày)

Trong ví dụ (30), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (nó) của hoạt động

(đuổi) nêu ở hạt nhân ngữ nghĩa (Mấy trăm người đuổi (theo) nó.).

Trong ví dụ (31), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (nó) của hoạt động nêu

ở hạt nhân ngữ nghĩa (uỵch, thụi, tát, đá). Nếu khôi phục lại, ta sẽ có những

câu: Họ lại uỵch nó. Họ lại thụi nó. Họ lại tát nó. Họ lại đá nó.

Trong ví dụ (32), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (nó) của các hoạt

động ghét, đánh (Họ càng ghét nó, tóm lại đánh nó như mưa.).

Trong ví dụ (33), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (đôi giày) xét trong

mối quan hệ với hoạt động tìm, thấy (Hỏi xong, chủ nhà sai người soi đèn đổ đi

tìm đôi giày khắp mọi nơi… Càng không thấy đôi giày, chủ nhà càng lo.).

6) Tỉnh lược chủ thể, hoạt động, đối thể

Ví dụ:

(34) (Người ta đến càng đông. Vẫn đánh nó.) Ø Ø Ø Cả đòn càn, đòn gánh

nữa. (Bữa no..đòn, tr.236)

68

(35) Ø Vẫn Ø Ø cẳng chân. Ø Vẫn Ø Ø cẳng tay. Ø Vẫn Ø Ø đòn càn. Ø Vẫn

Ø Ø đòn gánh. (Bữa no..đòn, tr.236)

Trong ví dụ (34), có sự tỉnh lược cả ba thành tố ngữ nghĩa: chủ thể

(người ta), hoạt động (đánh), đối thể (nó); thành tố nghĩa còn lại (đòn càn, đòn

gánh) chỉ là công cụ. (Người ta đánh nó cả bằng đòn, đòn gánh nữa.)

Trong ví dụ (35), cũng có sự tỉnh lược cả ba thành tố nghĩa trong cấu

trúc ngữ nghĩa cơ sở của câu: chủ thể (người ta), hoạt động (đánh), đối thể

(nó). Khôi phục lại các thành tố bị tỉnh lược, ta có những câu: Người ta vẫn

đánh nó bằng cẳng chân. Người ta vẫn đánh nó bằng cẳng tay. Người ta vẫn

đánh nó bằng đòn càn. Người ta vẫn đánh nó bằng đòn gánh.

Việc khôi phục lại các thành tố ngữ nghĩa (đồng thời cũng là các thành tố

cú pháp) như trên đây tạo ấn tượng về sự trùng lặp ngữ nghĩa. Đây chính là lí

do giải thích vì sao tác giả đã chọn biến thể tỉnh lược chứ không chọn biến thể

đầy đủ của câu.

7) Tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu (chủ hữu) sự vật là bộ phận bất khả li

Tham thể kẻ sở hữu (chủ hữu) sự vật là bộ phận bất khả li thực ra không

thuộc hệ thống thành tố ngữ nghĩa trong tổ chức nghĩa biểu hiện của cấu trúc

với hạt nhân ngữ nghĩa là vị từ (động từ, tính từ). Đây là thành tố ngữ nghĩa

trong cấu trúc nghĩa biểu hiện có hạt nhân ngữ nghĩa là danh từ, cụ thể danh từ

chỉ bộ phận bất khả li (đầu, mình, mắt, mũi, chân, tay…) Trong tổ chức ngữ

nghĩa của cấu trúc danh từ và của câu nói chung, tham thể kẻ sở hữu sự vật bất

khả li cũng là thành tố ngữ nghĩa bắt buộc vì việc lược bỏ nó đòi hỏi phải dựa

vào ngữ cảnh (văn cảnh).

Dưới đây là một vài ví dụ về trường hợp tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu.

Ví dụ:

(36) Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này có một người

đàn bà.) Lưng Ø khoác áo tơi tả, đầu Ø đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.

(Báo hiếu: trả nghĩa cha).

69

(37) (Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi tuổi, trông rõ quê mùa, đần, ngốc.)

Mặt mũi Ø đen đủi, dăn đeo, xấu như con khỉ. Hai mắt Ø thì toét nhoèn những

nhử, Cái hàm trên Ø thì chìa ra như mái hiên. Hai tay Ø thì lóng ngóng lúng

túng cởi mãi mới lấy được miếng trầu. (Báo hiếu: trả nghĩa cha)

(38) Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, bà ta

lập cập vấp một cái, ngã xoài ngay ra cống rãnh.) Quần áo, mặt mũi Ø lấm bê

bết. (Báo hiếu: trả nghĩa cha)

(39) (Anh ta trông dữ tợn, vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun.). Song bản

tính Ø thực hiền lành, chất phác. (Samandji).

Trong những ví dụ từ (36) đến (39) đều có sự tỉnh lược tham thể kẻ sở

hữu sự vật bất khả li. Ở câu (36), tham thể kẻ sở hữu bị tỉnh lược là bà (Lưng

bà khoác áo tơi tả, đầu bà đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.) Ở câu (37),

Có tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu (bà ta) ở bốn câu liên tiếp mà nếu khôi phục lại,

ta sẽ có những câu đầy đủ sau: Mặt mũi bà ta đen đủi, dăn đeo, xấu như con khỉ.

Hai mắt bà ta thì toét nhoèn những nhử. Cái hàm trên bà ta thì chìa ra như mái

hiên. Hai tay bà ta thì lóng ngóng, lúng túng cởi mãi mới lấy được miếng trầu.

Ở vị dụ (38), có sự tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu bị (bà) xét trong mối

quan hệ với “ mặt mũi”: Quần áo, mặt mũi bà lấm bê bết. Ở câu (39), có sự

tỉnh lược tham thể (anh ta) chỉ kẻ sở hữu sự vật nêu ở danh từ trung tâm (bản

tính): “Song, bản tính anh ta thực hiền lành, chất phác.”

3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng (giao tiếp, ngữ pháp giao tiếp)

Khi xem xét câu không đầy đủ về mặt ngữ dụng, chúng tôi dựa vào lí

thuyết về bình diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp) được trình

bày trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh

Tiến [20, 191-192]. Theo quan niệm của tác giả, bình diện giao tiếp hay ngữ

dụng gồm các vấn đề chính như: cấu trúc thông tin (sự phân chia cái đã biết /cái

mới) cấu trúc đề - thuyết, nghĩa tình thái và cấu trúc tình thái (cấu trúc thức)

của câu. Không có điều kiện xem xét một cách tỉ mỉ tất cả các vấn đề thuộc

70

bình diện ngữ dụng của câu không đầy đủ, ở mục này, luận văn chỉ đề cập một

cách khái quát đến ba vấn đề: cấu trúc thông tin, cấu trúc đề - thuyết của câu

không đầy đủ và các kiểu câu không đầy đủ xét theo nghĩa tình thái, cụ thể là

nghĩa tình thái mục đích phát ngôn.

3.3.1. Cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ

3.3.1.1. Nhận xét chung

Như đã biết, khi tạo lập câu như là đơn vị giao tiếp, người nói (viết) luôn

có mục đích chuyển đến người nghe một thông tin mới nào đó. Như vậy, thông

thường, câu phải có ít nhất một bộ phận mang thông tin mới (cái mới, cái chưa

biết với người nghe). Trong thực tế hoạt động viết (nói), để tiết kiệm, hạn chế

sự trùng lặp không cần thiết và tạo ấn tượng về phong cách mới mẻ, độc đáo,

người nói, (viết) thường sử dụng thủ pháp tỉnh lược hoặc tách câu để tạo nên

những câu không đầy đủ có cấu trúc thông tin, cấu trúc đề - thuyết đặc biệt. Về

mặt thông tin, nét riêng của câu không đầy đủ so với câu đầy đủ là ở chỗ nếu

nhiều câu đầy đủ thường gồm bộ phận mang thông tin đã biết (cái đã biết,

thông tin cũ) và bộ phận mang thông tin mới (cái mới) thì ở câu không đầy đủ,

trong nhiều trường hợp, chỉ có bộ phận mang thông tin mới (cái mới). Chẳng

hạn, thử xem xét cấu trúc thông tin của những câu sau:

(40) - Mợ mệt à?

- Không!

(41) - Mợ giận tôi đấy à?

- Không!

(42) - Bao giờ mợ định về?

- Không biết. (Oằn tà rroằn)

Trong các ví dụ (40), (41), (42), các câu hỏi đều là câu đầy đủ trong đó

có cả bộ phận mang thông tin cũ (cái đã biết) và thông tin mới (cái mới); còn

các câu trả lời đều là câu không đầy đủ và chúng chỉ có bộ phận mang thông tin

mới (cái mới). Ở những câu trả lời là câu không đầy đủ, bộ phận mang thông

tin cũ đã bị lược bỏ.

71

3.3.1.2. Các kiểu cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ

Theo kết quả khảo sát sơ bộ, có thể xác định hai kiểu cấu trúc thông tin

của câu không đầy đủ: câu không đầy đủ chỉ gồm thông tin mới (cái mới) và

câu không đầy đủ gồm cả thông tin mới (cái mới) và thông tin cũ (cái đã biết).

1) Câu không đầy đủ chỉ có bộ phận mang thông tin mới (cái mới)

Thuộc kiểu câu này là:

a) Những câu chỉ gồm một từ

Ví dụ:

(43) (Nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.)

- Được. (Người ngựa và ngựa người)

(44) (Ông có bằng lòng không ?)

- Dạ! (Xin chữ cụ nghè)

(45) (Bỗng trong bóng tối, cụ thấy lù lù có cái bóng đen. Vừa ngạc nhiên, vừa

sợ, cụ giật mình hỏi:)

- Ai ? (Cái thú tổ tôm)

(46) (Thế chị đã biết tin này chưa? Quý thở dài:

- Chưa (Người vợ lẽ bạn tôi)

(47) (Chào mợ! Trai hay gái?)

- Trai! (Oẳn tà rroằn)

Những câu ở ví dụ từ (43) đến (47) đều chỉ có một từ và đều là những

câu xuất hiện trong lời hội thoại. Chúng đều mang thông tin mới đáp ứng được

yêu cầu của người hỏi (hay người tham gia đối thoại). Cần chỉ ra rằng ở các câu

(46), (47), mặc dù các từ (chưa, trai) ở các câu trả lời đã xuất hiện trong câu

hỏi trước đó nhưng chúng vẫn mang thông tin mới mà người hỏi chờ đợi ở

người trả lời.

Bên cạnh những câu một từ là câu trả lời như trên đây cũng có thể gặp

những câu một từ chỉ mang thông thông tin mới là câu trình bày (câu trần thuật)

xuất hiện trong lời miêu tả.

72

Ví dụ:

(48) Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. (Bữa no ... đòn, tr.236)

b) Những câu là tổ hợp từ

Ví dụ:

(49) (Bọn người nhốn nháo) Chạy tứ tung . (Thằng ăn cắp)

(50) (Cậu ấy quẳng ra ba xu bảo nó:

- Mua nước đá.) Nhưng không được mó tay vào nhé. (Thanh! Dạ!)

(51) (Thanh!). Đi quàng lên. (Thanh! Dạ!)

(52) (Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm). Rồi nửa tháng đến một

tháng. (Vợ)

(53) (Chỉ tại mày mà hỏng việc). Đồ khốn nạn ! (Cái lò gạch cũ)

Trong những ví dụ trên từ (49) đến (53), những câu không đầy đủ (in

nghiêng) đều có cấu tạo là cụm từ và chỉ gồm những từ mang thông tin mới.

2) Câu không đầy đủ gồm cả bộ phận mang thông tin đã biết lẫn thông tin mới

Thực tế cho thấy, câu không đầy đủ, nhất là câu tỉnh lược, ở dạng ngắn

gọn nhất, thường là những câu chỉ có bộ phận mang thông tin mới (cái mới).

Tuy nhiên, vì một số lí do mà trong không ít trường hợp, câu không đầy đủ vẫn

có thể gồm cả bộ phận mang thông tin đã biết, tức là vẫn phải có sự lặp lại một

hoặc một vài từ đã xuất hiện ở trước đó. Trong các lí do của điều nêu trên, có lí

do về ngữ nghĩa (để câu rõ nghĩa hơn) và lí do về ngữ dụng (để biểu thị thái độ

phù hợp của người nói đối với người nghe).

Dưới đây là một số ví dụ về câu không đầy đủ gồm cả bộ phận mang cái

đã biết và cái mới.

(54) (Anh vừa đi vừa thở dài. Khách cũng vừa đi vừa thở dài.) Càng đi càng

thấy phố vắng tanh, vắng ngắt. (Người ngựa và ngựa người)

(55) (Vai anh Tư Bền đóng hôm ấy cứ phải luôn ở sân khấu.) Nhất là phải làm

nhiều điệu bộ hơn mọi khi. (Kép Tư Bền)

(56) (Ông cụ nhăn mặt để gắt:

- Nhận lời đi!) Nói xong, lại ho sù sụ. (Kép Tư Bền)

73

(57) (Anh Ba Cốc từ ngày lấy được vợ thì đâm lo.) Lo ngày, lo đêm. (Vợ)

(58) (Nhưng bác khán một mực lắc đầu sai con trai đuổi anh khỏi cửa.) Rồi từ

hôm sau, cấm không cho anh vào nhà. (Vợ)

Trong ví dụ (54), ở câu không đầy đủ có cả bộ phận mang thông tin đã

biết (được biểu thị bởi từ đi đã xuất hiện ở câu trước) lẫn bộ phận mang thông

tin mới (nêu ở các từ còn lại).

Ở ví dụ (55), câu không đầy đủ cũng gồm cả bộ phận mang thông tin đã

biết (được biểu thị bởi từ phải đã xuất hiện ở câu trước) lẫn bộ phận mang

thông tin mới (nêu ở các từ còn lại).

Ở ví dụ (56), nói xong (ở câu không đầy đủ) là bộ phận mang thông tin

cũ các từ còn lại mang thông tin mới.

Ở ví dụ (57), từ lo ở câu không đầy đủ mang thông tin đã biết, các từ còn

lại mang thông tin mới.

Trong ví dụ (58), ở câu không đầy đủ, bộ phận mang thông tin cũ là anh (đã

xuất hiện ở câu trước), còn các bộ phận mang thông tin mới là tất cả các từ còn lại.

Có trường hợp, mặc dù về mặt thông tin, người nói (người trả lời) có thể

trả lời ngắn gọn bằng câu chỉ gồm bộ phận mang thông tin mới nhưng vì lí do

lịch sự, họ vẫn phải trả lời dài hơn (bằng câu không đầy đủ chứa cả thông tin đã

biết và thông tin mới).

Ví dụ :

(59) (-Lần trước bà ở cữ trai hay gái?)

-Thưa bà, cháu gái. (Oằn tà rroằn)

(60) (Thế bà đẻ dễ hay khó? )

-Thưa bà, dễ ạ. (Oằn tà rroằn)

(61) (- Bà đẻ con so hay con rạ?)

- Thưa bà, con so. (Oằn tà rroằn)

Trong ví dụ (59) mặc dù có thể trả lời bằng câu ngắn gọn nhất chỉ mang

thông tin mới (ví dụ: - Gái) nhưng người nói vẫn chọn câu dài hơn có cả thông

tin đã biết (được biểu thị bằng các từ bà, cháu)

74

Tương tự như vậy, trong các ví dụ (60), (61), thay cho việc sử dụng câu

trả lời ngắn gọn nhất (chỉ gồm một từ) người nói vì phép lịch sự, đã chọn câu

dài hơn trong đó có cả bộ phận mang thông tin đã biết.

3.3.2. Cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ

3.3.2.1. Nhận xét chung

Cấu trúc đề thuyết của câu là một trong ba kiểu cấu trúc của câu thuộc

bình diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp). Xem xét câu không

đầy đủ theo cấu trúc đề thuyết là xác định các thành tố đề ngữ (phần đề) và

thuyết ngữ (phần thuyết) của câu không đầy đủ với tư cách là một thông điệp

hay câu trong chức năng văn bản.

Đề ngữ hay phần đề là điểm xuất phát của thông báo. Khi nói một câu,

người ta thường chọn một thành tố làm khởi điểm của thông báo. Thành tố đó

được gọi là đề ngữ hay phần đề (đề). Phần còn lại của câu được dùng để thuyết

minh, thông báo về phần đề được gọi là phần thuyết hay thuyết ngữ (thuyết)

[20, 506]. Theo Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến [20,514-515], đề ngữ

là thành tố được xác định theo một loạt đặc điểm về nội dung (tính xác định,

tính được thuyết định, chỉ điểm xuất phát của thông báo) và hình thức (thường

chiếm vị trí trước phần thuyết và có thể được biểu hiện bằng danh từ, cụm danh

từ; vị từ, cụm vị từ). Đề ngữ thường được chia thành đề đề tài và đề tính thái.

Đề đề tài lại được chia thành đề bối cảnh (tương đương với khung đề ở Cao

Xuân Hạo) và đề sự kiện. Đề bối cảnh (khung đề) là kiểu đề nêu cảnh huống về

thời gian, không gian, phạm vi, phương diện, điều kiện...trong đó diễn ra sự

kiện (sự việc, sự tình). Kiểu đề này thường tương ứng với thành phần cú pháp

của câu là trạng ngữ. Đề sự kiện là kiểu đề biểu thị sự vật, hoạt động, đặc điểm

tham gia vào sự tình (sự việc) với tư cách là hạt nhân sự tình hoặc các tham thể

cơ sở. Kiểu đề này về cơ bản, tương ứng với các thành phần cú pháp bắt buộc

của câu như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. (20, 515-515). Đề tình thái là kiểu đề biểu

thị các ý nghĩa tình thái của câu (nêu ý dẫn nhập, xác nhận một ý kiến, nhận

định, đánh giá, phỏng đoán về một sự việc, khả năng) [20, 515].

75

Tương ứng với phần đề là phần thuyết có chức năng thuyết minh (thuyết

định), thông báo về điều được nêu lên ở phần đề. Về hình thức, phần thuyết

thường đứng sau phần đề và thường được biểu hiện bằng vị từ (cụm vị từ) hoặc

cụm chủ vị [20, 516].

Trên cơ sở cách hiểu về phần đề và phần thuyết như trên, dưới đây,

chúng ta sẽ xem xét khái quát các kiểu cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ

trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan.

3.3.2.2. Các kiểu cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn

chọn lọc” Nguyễn Công Hoan.

Theo kết quả khảo sát, chúng tôi thấy theo cấu trúc đề thuyết, câu không

đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan gồm ba kiểu: câu

không đầy đủ gồm cả phần đề lẫn phần thuyết, câu không đầy đủ chỉ gồm phần

thuyết và câu không đầy đủ chỉ gồm phần đề .

1) Câu không đầy đủ có cấu trúc gồm cả phần đề lẫn phần thuyết

Kiểu câu này có thể gọi gọn là câu có cấu trúc đề thuyết. Cần chỉ ra rằng

mặc dù phần đề trong nhiều trường hợp, thường trùng với chủ ngữ nhưng đề

ngữ và chủ ngữ là hai thành tố thuộc hai bình diện khác nhau. Trên thực tế, đề

ngữ không chỉ trùng với chỉ ngữ mà còn có thể tương ứng với bổ ngữ (ví dụ:

Cái cây đèn ấy, ông quý nó lắm.) hoặc trạng ngữ (ví dụ: Đêm hôm ấy, bà lăn

lóc mãi không ngủ được.).

Câu không đầy đủ có cấu trúc đề thuyết trong “Truyện ngắn chọn lọc”

Nguyễn Công Hoan thường là những câu tỉnh lược chủ ngữ, bổ ngữ hoặc câu

không đầy đủ có cấu trúc đề thuyết (khung đề - thuyết ngữ) với chủ ngữ tỉnh lược.

Ví dụ:

(62) (Nó gật giúi dụi.) Mấy lần Ø suýt ngã. (Phành phạch)

khung đề thuyết ngữ

(63) (Và khi đã hiến tất cả các bài anh thuộc, anh ngồi im lặng để chờ và nghe.)

Sau hết, Ø sờ tay vào lòng thau không để vét. (Anh Xẩm)

khung đề thuyết ngữ

76

(64) (Tôi ngẫm nghĩ). Đêm hôm ấy về, Ø rơi nước mắt. (Tôi chủ báo, anh chủ

khung đề thuyết ngữ

báo, nó chủ báo)

(65) (Người đàn bà nhà quê quay lại thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố

nhố bao nhiêu người hình như đang ăn uống.) Chỉ trông thấy có thế thì cửa lại

khép lại và có người đi ra. (Báo hiếu: trả nghĩa cha)

(66) (Dùng nó thì bác chẳng đáng, cái đó thì đã hẳn đi rồi.) Song, bán thì Ø biết

bán cho ai được? (Cái nạn ô tô)

Trong những câu (62), (63), (64), (65), (66) chỉ có khung đề (tương ứng

với trạng ngữ và phần thuyết (tương ứng với vị ngữ), còn chủ đề (tương ứng

với chủ ngữ) đều vắng mặt (bị lược bỏ).

- Câu không đầy đủ có cấu trúc chủ đề - thuyết ngữ (bổ ngữ bị tỉnh lược)

Ví dụ:

(67) (Nó mở mắt ra nhìn), Họ lại uỵch. Họ lại thụi. Họ lại tát. Họ lại đá.

(Thằng ăn cắp) đề thuyết đề thuyết đề thuyết đề thuyết

(68) (Người ta đến càng đông. Vẫn đánh nó. Cả đòn càn, đòn gánh nữa.)

Người ta phang Ø cho sướng tay. (Bữa no..đòn)

đề thuyết

(69) (Rồi người ta giữ chặt lấy nó). Nhưng nó cúi đầu xuống để cắn Ø cho mau.

Người ta giằng Ø ra. (Bữa no ...đòn) đề thuyết

đề thuyết

(70) Người ta móc mồn nó, gang họng nó, quào chảy máu cả má nó.)

Nó cứ cố ghì, nhất định không nhả Ø. (Bữa no... đòn)

đề thuyết

Trong ví dụ (67), (68), (69), (70), mặc dù ở các câu không đầy đủ có sự

tỉnh lược bổ ngữ nhưng chủ ngữ (chủ đề) và vị ngữ (phần thuyết) vẫn hiện diện.

Đây chính là những câu có cấu trúc đề thuyết (chủ đề - thuyết) nhưng có sự tỉnh

lược bổ ngữ. Điều vừa chỉ ra cho thấy câu có cấu trúc đề thuyết (và cấu trúc cú

pháp chủ ngữ - vị ngữ) vẫn có thể là câu không đầy đủ.

77

- Câu không đầy đủ có cấu trúc đề thuyết (chủ đề - thuyết ngữ) với định ngữ bị

tỉnh lược.

Ví dụ:

(71) (Ngoài đường phố, ở quảng trước cửa nhà có bữa tiệc này có một người đàn

bà.) Lưng Ø/ khoác áo tơi tả, Đầu/ Ø đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.

đề thuyết đề thuyết

(Báo hiếu: trả nghĩa cha)

(72) (Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi tuổi, trông rõ quê mùa đần ngốc.)

Mặt mũi Ø / đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt Ø/ thì toét nhoèn những

đề thuyết đề thuyết

nhử. Hai tay Ø thì lóng cóng, lúng túng cởi mãi lấy được miếng trầu…

đề thuyết

(Báo hiếu: trả nghĩa cha)

(73) (Anh ta trông dữ tợn vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun.)

Song, bản tính Ø thực hiền lành, chất phác. (Sanandji)

đề thuyết

2) Câu không đầy đủ với cấu trúc chỉ có phần thuyết

Đây là kiểu phổ biến nhất của câu không đầy đủ xét theo cấu trúc đề thuyết.

Ví dụ:

(74) (Nó vẫn chạy như khoàng cả hai chân lên vai.) Ø Chạy hăng quá. (Thằng

ăn cắp)

(75) (Đôi giày của cụ thế nào hả cậu?) - Ø Mới nguyên, kiểu Gia Định, đế cờ -

lếp, mua những ngót ba đồng. (Cụ Chánh Bá mất giày)

(76) (Chợ đã vãn dần.). Ø Đã bớt bụi. Ø Đã bớt tanh. Đã bớt hơi người. Ø Đã

bớt chen chúc. (Bữa no... đòn, tr.234)

(77) (Nó đau quá.) Ø Nằm sóng soài không nói được nữa. (Thằng ăn cắp)

(78) (Thì nó liều). Ø Liều chết để sống. (Bữa no... đòn, tr.234)

(79) (Nó đứng lại ) Ø Chờ Ø. Nhưng Ø chờ gì? (Bữa no... đòn, tr.235)

78

(80) (Thế thì chúng em xin lỗi các anh nhé.). Ø Đừng chê chúng em là rùa nhé.

(Thanh! Dạ!)

(81) (Luôn hôm sau chúng tôi đi trinh thám.) Nhưng Ø không có kết quả gì.

(Cái lò gạch bí mật)

(82) (Chỉ tại thằng mày mà hỏng việc. Ø Đồ khốn nạn! (Cái lò gạch bí mật)

(83) (Tao chúa ghét loại thi sĩ như này.) Ø Chỉ biết mơ mộng. (Cái tết của

những đại văn hào)

Trong những câu từ (74) đến (83) trên đây đều chỉ có phần thuyết.

3) Câu không đầy đủ với cấu trúc chỉ có phần đề

Ở kiểu câu này, phần đề thường là khung đề (tương ứng với trạng ngữ)

và xét về cấu trúc thông tin là phần mang thông tin mới (cái mới).

Ví dụ:

(84) Sáng mồng một đầu năm. Từ tờ mờ sáng đến lúc tám chín giờ dần dần nhà

nào cũng lẹt đẹt một bánh pháo ngắn để đón xuân. (Cái tết của những đại văn hào)

(85) Buổi hầu sáng hôm ấy. Con mẹ Nuôi tay cầm lá đơn, đứng ở sân công

đường. (Đồng hào có ma)

(86) Chiều xẩm. Mẹ về. (Nỗi lòng ai tỏ)

(87) Sáng sớm hôm sau. Bốn người hảo tâm đã sửa soạn đón khiêng đến đầu

ngõ nhà chị Cu....(Người thứ ba)

Những câu (in nghiêng) từ (84) đến (87) đều là các cụm danh từ chỉ thời

gian vốn là khung đề (tương ứng với thành phần trạng ngữ) được tách ra thành

câu. Bộ phận đứng sau chúng đều là các cụm chủ vị giữ vai trò phần thuyết (về

cú pháp, là các cụm chủ vị tạo nên nòng cốt câu).

3.3.3. Câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo

3.3.3.1. Nhận xét chung

Xem xét câu không đầy đủ theo mục đích thông báo thực chất là xem xét

các kiểu nghĩa tình thái mục đích phát ngôn của câu không đầy đủ. Xét theo

mục đích thông báo, có thể chia câu không đầy đủ thành bốn kiểu: câu không

79

đầy đủ là câu trình bày (câu trần thuật), câu không đầy đủ là câu nghi vấn, câu

không đầy đủ là câu cầu khiến, câu không đầy đủ là câu cảm thán.

Kết quả phân loại câu không đầy đủ theo mục đích thông bảo thể hiện ở

bảng sau:

Bảng 3.1. Các kiểu câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo

Ví dụ Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng, tỉ lệ Các kiểu CKDĐ

Bọn bán hàng nhốn nháo. Ø CKDĐ là câu trần thuật 683 57,49% Chạy tứ tung.

CKDĐ là câu nghi vấn 19,61% Ø Ø Cháu trai hay cháu gái? 233

CKDĐ là câu mệnh lệnh 15,90% Ø Đừng bắt con bỏ bóp! 189

CKDĐ là câu cảm thán 7,00% Ø Ø Đồ đểu! 83

0 Tổng số 0%

1188 100%

3.3.3.2. Câu không đầy đủ là câu trình bày (câu trần thuật)

Đây là kiểu phổ biến nhất trong số bốn kiểu câu không đầy đủ xét theo

mục đích thông báo (chiếm 57,49%).

Về nội dung, câu trình bày thường được dùng để thuật lại (kể lại) một sự

việc đã xảy ra (vì vậy, ngữ pháp học truyền thống thường gọi kiểu câu này là

“câu trần thuật”, “câu kể”). Tuy nhiên, trên thực tế, câu trình bày còn được

dùng để miêu tả, thông tin về một sự việc sẽ diễn ra hoặc giải thích, nêu ý kiến,

nhận định, đánh giá về một sự việc, một vấn đề.

Ví dụ:

(88) (Chợ đã vãn dần.) Đã bớt tanh. Đã bớt ồn ào. Đã bớt hơi người. Đã bớt

chen chúc. (Bữa no ... đòn, tr.234)

(89) (Nó ngã lăn ra. Mẩu khoai bị nắm chặt, nát bét trong tay nó.) Vẫn chửi.

Vẫn kêu. Vẫn đấm. Vẫn đá. Vẫn thụi. Vẫn bịch. Vẫn cẳng tay. Vẫn cẳng chân.

Vẫn đòn càn. Vẫn đòn gánh. (Bữa no ... đòn, tr.236)

80

Ở ví dụ (88), bốn câu không đầy đủ trình bày (trần thuật) về tình trạng

của phiên chợ khi sắp tan. Ở ví dụ (89) 10 câu không đầy đủ trình bày (thuật

lại) các sự việc xảy ra liên tiếp đối với tên ăn cắp (hành động chửi mắng, đánh

đập với công cụ là tay, chân, đòn càn, đòn gánh).

(90) (Nó chẳng nghe ra sao cả.) Mà cứ bước một bước thì lại bị gọi. (Thanh! Dạ!,

tr.243)

(91) (Nó tưởng tượng được làm con chim kia để bay nhảy một chốc.) Thì rồi

sau có bị mắc cạm bẫy cũng cam. (Thế cho nó chừa, tr.247)

(92) (Bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính.) Vì đèn

sáng nên trông rõ lắm. (Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.122)

(93) (Bà lão bước xuống thềm đi theo.) Vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi

rộng. (Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.123)

Trong những ví dụ từ (90) đến (93), các câu không đầy đủ (in nghiêng)

trình bày hay kể lại các sự việc liên quan đến các nhân vật Thanh, nó , bà lão.

2) Câu không đầy đủ là câu nghi vấn

Đây cũng là kiểu khá phổ biến (chiếm 19,61%) trong tổng số câu không

đầy đủ xét theo mục đích thông báo.

Về nội dung, câu nghi vấn biểu thị nội dung mà người nói thấy cần được

làm sáng tỏ bằng câu trả lời nhận định. Về hình thức, câu nghi vấn được đặc

trưng bởi các từ có ý nghĩa nghi vấn (các từ dùng để hỏi) gồm: đại từ như, ai ,

gì, nào, đâu, mấy, bao nhiêu, bao giờ; các phó từ như: có....không. đã...chưa;

quan hệ từ hay.

Ví dụ:

(94) (Nó đứng lại. Chờ.). Nhưng chờ gì? (Bữa no ...đòn, tr.235)

(95) (Mày làm ăn thế nào mà chả có giọt nước nào rửa chân thế?). Muốn sống

đi gánh nước về mau không? (Thanh! Dạ!, tr.238)

(96) (Nó ngắm lại người nằm cạnh như ngắm một kì quan.) Có lẽ nào vào tù

nhiều thế? (Thế cho nó chừa, tr.250)

81

(97) (Nó thấy rằng trước nó hèn nhát vô cùng.) Làm gì mà phải sợ? (Thế cho

nó chừa, tr.251)

(98) (Cụ muốn ngồi hẳn dậy mà bộc bạch tâm sự, rồi đông đủ cả nhà, mình thề

độc mấy câu cho nó đỡ nghi.) Nhưng chắc đâu? (Mất cái ví, tr.153)

(99) (Người vợ hỏi:)

- Làm thế nào mà về cho kịp đây? (Thằng điên, tr.271)

(100) (Lấp mồm tôi, ông phải kiếm mấy cái nút.)

- Bằng gì nào? Bằng “giấy đỉnh” nhé? (Đàn bà là giống yếu, tr.197)

Ở những ví dụ từ (94) đến (100) đều có những câu không đầy đủ là câu

nghi vấn (in nghiêng) trong đó có những câu tự vấn (những câu (96), (97), (98)

và câu hỏi hướng tới người tham gia cuộc thoại (câu 100); có những câu hỏi

chính danh (những câu (99), (100) ) và câu hỏi không chính danh (câu (95) tuy

có hình thức câu hỏi nhưng lời là đe dọa).

3.3.3.4. Câu không đầy đủ là câu cầu khiến

Kiểu câu này xếp thứ ba về số lượng (chiếm15,9%) trong số câu những

câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo.

Về nội dung, câu cầu khiến biểu thị hành vi ngôn ngữ thuộc lớp điều

khiển (yêu cầu, ra lệnh, mời, khuyên, cấm, xin...) của người nói hướng tới

người nghe nhằm đặt người nghe vào việc thực hiện một hành động nào đó. Về

hình thức, câu cầu khiến thường được đặc trưng bởi việc sử dụng các động từ

ngôn hành (động từ ngữ vi) như: cấm, mời, khuyên, ra lệnh, yêu cầu, xin...hoặc

các hư từ chỉ yêu cầu, mệnh lệnh như: hãy, đừng, chớ, đi.

Ví dụ:

(101) (Nhà tôi ở phố Bờ Sông số 36.) Nhớ nhé! (Thằng điên, tr.274)

(102) (Thế thì chúng em xin lỗi các anh nhé.). Đừng chê chúng em là rùa nhé!

(Thanh! Dạ!, tr.239)

(103) (Cô Nhuận giục:)

- Chạy lên! (Thanh! Dạ!, tr.241)

82

(104) (Cô Ngọc ngần ngừ:)

- Nhưng mà hãy gượm! (Thanh! Dạ!, tr.242)

(105) (Cụ đi đi lại lại vài lượt ra ý nghĩ ngợi rồi gọi anh đầy tớ thân và sai rằng:)

- Đội khăn, đi hầu tao! (Cụ Chánh Bá mất giày, tr.140)

(106) (Đến chiều, cậu cai ra lệnh:)

- Im mồm! Ngủ đi! (Thế cho nó chừa, tr.249)

Trong các ví dụ từ (101) đến (106) đều có các câu không đầy đủ là câu

cầu khiến (in nghiêng). Những câu này đều mang nội dung nhắc nhở (câu

(101)), đề nghị (câu (102)), thúc giục (câu (103)), ra lệnh (câu (câu 105),câu

106)). Phương tiện hình thức chỉ ra ỹ nghĩa mệnh lệnh chủ yếu là ngữ điệu

(nhấn giọng) hoặc các phó từ (hãy, đừng, đi) hoặc trợ từ (nhé).

3.3.3.5. Câu không đầy đủ là câu cảm thán

Kiểu câu này chiếm 7,00% tổng số câu không đầy đủ. Về nội dung, câu

cảm thán biểu thị trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người nói trước một sự vật,

sự việc nào đó. Về hình thức, câu cảm thán được đặc trưng bởi ngữ điệu riêng

và các thán từ hoặc các từ, tổ hợp từ có ý nghĩa cảm thán.

Ví dụ:

(107) (Hết cảnh đầu!) Sao mà lâu thế! (Kép Tư Bền, tr.165)

(108) (Chỉ tại thằng này mà hỏng cả việc.) Đồ khốn nạn! (Cái lò gạch bí mật,)

(109) (Thế là em nó chơi được mãi.) Lâu đáo để! (Con ve, tr.593)

(110) (Cô Tuyết lên giọng đanh đá mắng nó:)

Chậm như sên! (Thanh! Dạ!, tr.241)

(111) (Bà cụ đã nổi tam bành, tay cầm thanh củi trỏ vào thau nước, trợn tròn

con mắt, rồi phang vào đầu, vào mặt, vào lưng con Thanh túi bụi để đánh nhịp

với tiếng:).

-Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! (Thanh! Dạ!, tr.244)

Trong các ví dụ từ (107) đến (111) đều có các câu không đầy đủ là câu

cảm thán (in nghiêng). Những câu này biểu thị các trạng thái tình cảm, cảm xúc

83

khác nhau như sốt ruột (câu (107)), chê bai (câu 110)), bực tức, chửi rủa (các

câu (108), (111)), khen ngợi (câu (109)).

3.4. Tiểu kết

Trong Chương 3, luận văn đã trình bày kết quả nghiên cứu câu không

đầy đủ về các mặt ngữ nghĩa, ngữ dụng. Qua việc trình bày đặc điểm ngữ nghĩa

của câu không đầy đủ, luận văn đã chỉ ra tính phụ thuộc về ngữ nghĩa và các

kiểu tỉnh lược ngữ nghĩa ở câu không đầy đủ. Sự phụ thuộc ngữ nghĩa cùng với

sự phụ thuộc về ngữ pháp cho thấy câu không đầy đủ chỉ có được tính hợp thức

khi tồn tại trong văn bản với sự hỗ trợ của ngữ cảnh (chủ yếu là văn cảnh). Sự

tỉnh lược ngữ nghĩa, cùng với tỉnh lược cú pháp tạo cho câu không đầy đủ

không chỉ có được tính ngắn gọn, tiết kiệm mà còn thể hiện được bản lĩnh,

nghệ thuật đặt câu của nhà văn Nguyễn Công Hoan.

Qua việc trình bày đặc điểm của câu không đầy đủ về ngữ dụng, luận văn

đã làm rõ được tổ chức của kiểu câu này xét trên ba khía cạnh: cấu trúc thông

tin, cấu trúc đề thuyết và nghĩa tình thái mục đích phát ngôn.

Kết quả khảo sát câu không đầy đủ về ngữ dụng cho thấy so với câu câu

đầy đủ, câu không đầy đủ rõ ràng có nhiều nét khác biệt về thông tin (hàm

lượng thông tin mới cao hơn), về cách tổ chức phần đề, phần thuyết (phong phú

hơn về kiểu cấu trúc đề thuyết) và cũng không hề kém phần đa dạng về kiểu

mục đích thông báo.

84

KẾT LUẬN

Trên đây, sau khi đã tổng quan về tình hình nghiên cứu và xác lập cơ sở

lí luận của đề tài, luận văn đã trình bày kết quả nghiên cứu về các mặt ngữ

pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn

lọc Nguyễn Công Hoan. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được qua

ba chương, có thể rút ra những kết luận sau:

1. Câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan có

số lượng khá phong phú (gồm 1188 câu/ gần 600 trang in). Số lượng này cho

thấy Nguyễn Công Hoan là một trong những tác giả sử dụng phổ biến câu

không đầy đủ với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật.

2. Về kiểu loại cấu tạo, câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn lọc

Nguyễn Công Hoan khá phong phú, đa dạng. Xét theo phương thức cấu tạo,

câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan gồm hai

kiểu chính: câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược và câu không

đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu trong đó, kiểu thứ nhất chiếm ưu thế

tuyệt đối (1092/1188 = 91,9%). Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh

lược gồm bảy kiểu cụ thể (gắn với tất cả các thành phần bắt buộc như chủ ngữ,

vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ bắt buộc). Trong số câu tỉnh lược, câu tỉnh lược chủ

ngữ là kiểu có số lượng lớn nhất (chiếm 69, 97%); câu tỉnh lược định ngữ của

danh từ chỉ bộ phận bất khả li có số lượng nhỏ nhất (chiếm 1,09%).

3. Xét về mặt ngữ nghĩa, câu không đầy đủ được đặc trưng bởi tính phụ

thuộc về ngữ nghĩa (tính hợp nghĩa). Đặc tính này cùng với tính không đủ về cú

pháp khiến câu không đầy đủ chỉ có được tính hợp thức khi tồn tại trong văn

bản với tư cách là thành tố của văn bản. Về tổ chức ngữ nghĩa, câu không đầy

đủ được coi là các đơn vị tỉnh lược về ngữ nghĩa trong đó sự lược bỏ các thành

tố ngữ nghĩa (gồm hạt nhân và các tham thể ngữ nghĩa) về cơ bản có sự tương

ứng với sự lược bỏ các thành tố cú pháp.

85

4. Xét về mặt ngữ dụng, câu không đầy đủ được đặc trưng bởi những đặc

điểm riêng về cấu trúc thông tin (có hàm lượng thông tin mới cao), cấu trúc đề -

thuyết (sự đa dạng về các kiểu cấu trúc đề thuyết trong đó cấu trúc chỉ gồm

phần đề hoặc chỉ gồm phần thuyết là nét riêng); nghĩa tình thái mục đích phát

ngôn (gồm bốn kiểu nghĩa gắn với bốn kiểu câu phân loại theo mục đích nói ).

Nghiên cứu câu không đầy đủ trong một tác văn học của một tác giả cụ

thể theo ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng là công việc thú vị

nhưng cũng rất phức tạp. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, những kết

quả mà tác giả đạt được chỉ là bước đầu. Chúng tôi hy vọng sẽ có điều kiện tiếp

tục nghiên câu sâu hơn về vấn đề này.

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

2. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

3. Tiêu Thị Thanh Bình (2013), Khảo sát trạng ngữ trong tiếng Việt từ góc độ

kết học, nghĩa học và dụng học (trên cứ liệu vài tác phẩm văn học giai đoạn

1930-1945), Luận văn Thạc sĩ, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn.

4. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt, Tiếng. Từ ghép. Đoản ngữ. H.

5. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Hữu Thung (1983), Giáo trình

ngữ pháp tiếng Việt. Tập II, Cú pháp tiếng Việt. H.

6. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt

Nam, Huế.

7. Nguyễn Đức Dân (1978), Thảo luận thêm về cấu trúc danh + là + danh.

N. Ngữ, số 7

8. Võ Thị Dung (2010), Chức năng ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát

ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.

9. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt. Từ loại. H.

10. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb.

Khoa học xã hội, H.

11. Lê Thị Đức Hạnh (2001), Nguyễn Công Hoan, về tác gia và tác phẩm, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Hiệp (2009), Cú pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

13. Đặng Thị Thanh Hoa (2016), "Vai trò của một đoạn câu trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan", Tạp chí ngôn ngữ, (8).

14. Nguyễn Thanh Liêm (2013), Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Cần Thơ.

15. Nguyễn Văn Lộc (1995), Kết trị động từ trong tiếng Việt, Nxb Giáo Dục,

Hà Nội.

87

16. Nguyễn Văn Lộc (1997), Vận dụng lý thuyết kết trị vào việc phân tích câu

tiếng Việt, Đề tài NCKH cấp Bộ.

17. Nguyễn Văn Lộc (2004), Động từ ngữ pháp trong tiếng Việt, Đề tài NCKH

cấp Bộ.

18. Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Hệ thống thành phần câu

tiếng Việt nhìn từ góc độ kết trị của từ, “Ngôn ngữ”, Số 9.

19. Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Thị Thu Hà (2015), Góp thêm một số ý kiến về

việc xác định hạt nhân ngữ nghĩa trong cấu trúc ngữ biểu hiện của câu

“Ngôn ngữ”. Số 10.

20. Nguyễn Văn Lộc (chủ biên), Nguyễn Mạnh Tiến (2017), Ngữ pháp tiếng

Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

21. M.A.K. Halliday (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

22. Hoàng Trọng Phiến (1986), Ngữ pháp tiếng Việt, Câu. Nxb. Đại học và

THCN, H.

23. Panfilov V.S (2009), Cơ cấu Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

24. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

25. Hoàng Thị Tố Quyên (2010), So sánh câu văn trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ ngôn ngữ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên

26. Simon C. Dik (2005), Ngữ pháp chức năng, NXB Đại học Quốc gia TP HCM.

27. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào phúng

Nguyễn Công Hoan, Nxb Đại học.

28. Văn Tân (1997), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội.

29. Lê Xuân Thại (1977), "Một số vấn đề về mối quan hệ chủ vị trong tiếng

Việt", “Ngôn ngữ”, số 4.

30. Lê Xuân Thại (1980), Về câu chủ vị có từ nối “là”, “Ngôn ngữ”, số 3.

31. Lê Xuân Thại (1989), Câu bị động trong tiếng Việt, “Ngôn ngữ”, số 3.

32. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Tập I, Nxb.

Khoa học xã hội, H.

88

33. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập II, Nxb.

Khoa học xã hội, H.

34. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội. H.

35. Nguyễn Kim Thản (1969), "Một số vấn đề về biên soạn một cuốn Ngữ pháp

phổ thông", “Ngôn ngữ” số 1.

36. Lê Xuân Thại (1975), Bàn về cấu trúc danh - là - danh, “Ngôn ngữ”, số 1.

37. Lê Xuân Thại (1975), Câu chủ vị tiếng Việt, NXB, KHXH.

38. Trịnh Xuân Thành (1977), Phân tích ngữ nghĩa của trạng ngữ mục đích,

“Ngôn ngữ”, số 1.

39. Thành Đức Bảo Thắng (2013) "Nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan", Tạp chí Văn học nghệ thuật, (343).

40. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb. Khoa

học xã hội, H.

41. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Bước đầu khảo sát cấu trúc câu văn truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.

42. Trần Thị Thủy (2008), Đối sánh ngôn ngữ trào phúng trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan và tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Luận văn

Thạc sĩ, Đại học Vinh.

43. Nguyễn Minh Thuyết (1986), Vai trò của các từ “bị”, “được” trong câu bị

động tiếng Việt (Trong tập: Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ

phương Đông, H.).

44. Nguyễn Minh Thuyết (1989), Động từ, tính từ và cụm chủ vị làm chủ ngữ,

“Ngôn ngữ”, số 3.

45. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần câu tiếng

Việt, Nxb Giáo dục.

46. Nguyễn Mạnh Tiến (2012), "Xác định thành tố chính của cụm chủ vị và

thành phần chính của câu dựa vào thuộc tính kết trị của vị từ", T/c Ngôn

ngữ, số 2.

89

47. Nguyễn Mạnh Tiến, Nguyễn Văn Lộc (2013), "Một số khó khăn, hạn chế

của việc vận dụng cách định nghĩa chủ ngữ, vị ngữ theo quan niệm truyền

thống vào dạy học ngữ pháp", T/c Ngôn ngữ, số 8, 2013

48. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Ngữ pháp tiếng

Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

49. Hoàng Tuệ, Lê Cận, Cù Đình Tú (1962), Giáo trình về Việt Ngữ, (Sơ Thảo)

Tập I. Hà Nội

50. Hà Thị Tuyết (2010), Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn

Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ ngôn ngữ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

II. Tiếng nƣớc ngoài

51. Теньер Л (1988), Основы структурного синтаксиса, Москва «Прогресс».

90