ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––––
ĐẶNG THỊ NGỌC LINH
CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC” CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––––
ĐẶNG THỊ NGỌC LINH
CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC” CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Lộc
THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu của bản thân. Các kết quả, số liệu trình bày trong luận văn là đúng sự thật, nguồn gốc rõ ràng.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 06 năm 2020
Tác giả
Đặng Thị Ngọc Linh
i
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong bộ môn
Ngôn ngữ Việt Nam,Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã dành thời gian
góp ý giúp tôi hoàn thiện luận văn của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình
chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, các học viên cùng lớp Ngôn ngữ Việt Nam và đã tạo
điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong ngày tháng học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn các nhà khoa học trong và ngoài trường; các đồng nghiệp đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong công việc để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng năng lực bản thân còn hạn chế, luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của quý thầy cô, các nhà khoa học và đồng nghiệp.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 6 năm 2020
Học viên
Đặng Thị Ngọc Linh
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2
5. Dự kiến đóng góp của đề tài ............................................................................ 3
6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN ............................................................................................................ 4
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu ..................................................................... 4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ .............................................. 9
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan .................. 12
1.2. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 16
1.2.1. Một số vấn đề khái quát về câu ............................................................... 16
1.2.2. Câu không đầy đủ .................................................................................... 24
1.2.3. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và “Truyện ngắn chọn lọc” ................... 29
1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 33
Chƣơng 2: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP .............. 34
2.1. Nhận xét chung ........................................................................................... 34
2.2. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược ................................... 36
2.2.1. Xác định câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược ................. 36
iii
2.2.2. Vấn đề phân biệt câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược với
câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu ............................................ 38
2.2.4. Các kiểu câu tỉnh lược ............................................................................. 40
2.2.5. Vấn đề khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược ......................................... 52
2.3. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu .................................... 57
2.3.1. Câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu ........................ 57
2.3.2. Câu không đầy đủ vốn là trạng ngữ được tách ra .................................... 59
2.3.3. Câu không đầy đủ vốn là vế câu được tách ra ......................................... 60
2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 61
Chƣơng 3: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA,
NGỮ DỤNG .................................................................................................... 63
3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 63
3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa ................................................... 63
3.2.1. Tính không đầy đủ hay tính phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ 63
3.2.2. Các kiểu câu tỉnh lược nghĩa ở câu không đầy đủ ................................... 65
3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng (giao tiếp, ngữ pháp giao tiếp) ... 70
3.3.1. Cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ ................................................ 71
3.3.2. Cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ ................................................ 75
3.3.3. Câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo ..................................... 79
3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 84
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Câu không đầy đủ là câu có sự lược bỏ hoặc thiếu vắng một hay một
số thành phần bắt buộc trong câu.
1.2. Trong các loại văn bản, đặc biệt là trong văn bản nghệ thuật, câu
không đầy đủ được dùng khá phổ biến. Do có những nét đặc sắc về cấu tạo và
ý nghĩa mà từ lâu, câu không đầy đủ đã thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu.
1.3. Trong số các tác giả văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Công Hoan
là một trong những nhà văn hiện thực có những đóng góp xuất sắc trong đó có
những đóng góp về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm của ông đã được
giảng dạy trong các trường đại học cũng như trường phổ thông. Do đó, việc
nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan về nội dung và nghệ thuật,
trong đó có cách dùng từ đặt câu, không chỉ làm rõ những đóng góp của tác giả
vào nền văn học nước nhà mà còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của
việc nghiên cứu, dạy học tác phẩm của ông trong nhà trường.
1.4. Đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về câu không
đầy đủ từ nhiều góc độ khác nhau nhưng riêng việc nghiên cứu về câu không
đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ
pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng hầu như chưa được chú ý.
1.5. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu câu không đầy đủ trong “Truyện
ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ
dụng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ đặc điểm của câu
không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các
mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng; qua đó, góp phần bổ sung một số khía
cạnh lý thuyết về câu nói chung, câu không đầy đủ nói riêng với tư cách là đơn
vị đa bình diện theo cách nhìn của ngữ pháp chức năng.
1
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài này cung cấp một tài liệu tham
khảo hữu ích, cần thiết đối với việc nghiên cứu và dạy học về ngữ pháp nói
riêng, về ngữ văn nói chung.
1.6. Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài:
Câu không đầy đủ trong “ Truyện ngắn chọn lọc”của Nguyễn Công Hoan xét
về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ
trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan; qua đó, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tiếng Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lí luận của đề tài.
- Thống kê, phân loại câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc”
của Nguyễn Công Hoan.
- Miêu tả, làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn
chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là câu không đầy đủ trong “Truyện
ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đặc điểm của câu không đầy đủ trong
“Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các mặt: ngữ pháp (kết
học), nghĩa học và dụng học.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp miêu
tả với các thủ pháp phù hợp như : thống kê, phân loại, phân tích ngữ pháp, ngữ
nghĩa, mô hình hóa, lược bỏ, thay thế, bổ sung.
2
5. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Về lí luận : Qua việc miêu tả làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ
trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp,
ngữ nghĩa, ngữ dụng; đề tài góp phần bổ sung một số khía cạnh lí thuyết về câu
nói chung, câu không đầy đủ nói riêng trong tiếng Việt theo quan điểm ngữ
pháp chức năng (trên cứ liệu một tác phẩm văn học của một tác giả cụ thể).
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong việc dạy học tiếng Việt và dạy học văn học trong nhà trường.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.2. Cơ sở lí luận
1.3. Tiểu kết
CHƢƠNG 2. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP
2.1. Dẫn nhập
2.2. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng thủ pháp lƣợc bỏ
2.3. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng thủ pháp tách câu
2.4. Tiểu kết
CHƢƠNG 3. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA,
NGỮ DỤNG
3.1. Dẫn nhập
3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa
3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng
3.4. Tiểu kết
KẾT LUẬN
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu
1.1.1.1. Các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu về cú pháp
Vấn đề này đã được Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến tổng kết trong
cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [20]. Dựa vào ý kiến của các tác giả trong công trình
này, có thể nêu tóm tắt các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu tiếng
Việt về cú pháp như sau:
1) Khuynh hướng truyền thống
a) Các tác giả chính và nội dung
Theo Nguyễn Văn Lộc, trong việc phân tích câu về mặt cú pháp, khuynh
hướng truyền thống luôn giữ vai trò chủ đạo với những công trình tiêu biểu của
các tác giả như Hoàng Tuệ [49], Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê [6],
Nguyễn Kim Thản [32],[33],[34],[35] I.X. Bưxtrov, Nguyễn Tài Cẩn [4], N.V.
Stankevich [17], Hoàng Trọng Phiến [22], Diệp Quang Ban [1],[2] .
Nét chung đồng thời cũng là nét cơ bản của cách phân tích câu truyền
thống là thừa nhận chủ ngữ, vị ngữ là hai thành phần chính (nòng cốt) của câu
và ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ, câu còn có các thành phần
phụ như trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ... Cách phân tích câu theo quan niệm trên
đây có tính phổ biến nhất không chỉ trong Việt ngữ học mà cả trong ngôn ngữ
học nước ngoài.
b) Đánh giá
- Về ưu điểm: Cách phân tích câu theo truyền thống đã phản ánh tương
đối đầy đủ và trung thực tổ chức cú pháp của câu. Nó đã đưa ra được một bức
tranh về thành phần câu tương đối phù hợp với cảm nhận của người bản ngữ.
Về mặt thực tiễn, hệ thống khái niệm ngữ pháp nói chung và hệ thống thành
phần câu nói riêng của ngữ pháp học truyền thống đã giúp cho người học nắm
4
được một cách khá thuận lợi tổ chức ngữ pháp của câu và có thể vận dụng có
hiệu quả trong nói, viết. Sự tồn tại lâu dài và tính ổn định tương đối của hệ
thống khái niệm ngữ pháp truyền thống chứng tỏ giá trị lí luận và thực tiễn to
lớn của nó.
- Về hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm trên đây, cách phân tích câu theo
truyền thống cũng còn những hạn chế nhất định như N.I. Tjapkina đã nhận xét:
"Trong khuôn khổ của quan niệm truyền thống, việc miêu tả một cách không mâu
thuẫn hệ thống thành phần câu vẫn chưa đạt được; hơn nữa, vẫn chưa có được cả
phương pháp cho phép định nghĩa một cách không mâu thuẫn thành phần câu
như là thể thống nhất của hình thức và nội dung của nó" (Dẫn theo [20,194]).
Những hạn chế của khuynh hướng truyền thống khiến nhiều tác giả đã cố
gắng tìm tòi, đề xuất những cách phân tích mới.
2) Một số công trình theo hướng tìm tòi mới
a) Cách phân tích câu theo quan điểm ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo
Trong những hướng tìm tòi mới, cách phân tích câu theo quan điểm ngữ
pháp chức năng của Cao Xuân Hạo là một trong những hướng đáng chú ý.
Ảnh hưởng tư tưởng của Ch.L. Li và S.A. Thompson về tính thiên chủ đề
của một số ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt, trong công trình Tiếng Việt Sơ
thảo ngữ pháp chức năng (1991), Cao Xuân Hạo không thừa nhận cấu trúc chủ
vị là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Theo ông, cấu trúc cú pháp cơ
bản và duy nhất của câu tiếng Việt là cấu trúc đề thuyết. Công trình trên đây
của Cao Xuân Hạo được coi là sự mở đầu cho một hướng mới trong nghiên cứu
câu tiếng Việt: hướng nghiên cứu câu theo bình diện giao tiếp (cú pháp giao
tiếp, thông báo, ngữ dụng) mà trước đó còn ít được chú ý. Tuy nhiên, theo
Nguyễn Văn Lộc, cách phân tích, phân loại câu theo đề thuyết mà Cao Xuân
Hạo chủ trương không loại trừ và thay thế cách phân tích câu theo bình diện cú
pháp như một số tác giả đã chỉ ra [10, 15].
5
b) Cách phân tích câu theo đề- thuyết của Hồ Lê
Cũng chủ trương phân tích câu theo đề- thuyết, Hồ Lê dựa vào các kiểu
quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trực tiếp tạo nên cấu trúc câu để phân loại
câu. Theo ông, ngoài câu một thành phần hay câu gọi tên (thí dụ: Mùa xuân.),
các câu hai thành phần đều có cấu tạo đề thuyết và bao gồm bốn kiểu:
- Câu chủ -vị (chủ ngữ - vị ngữ)
Ví dụ: Ông Ba đi họp.
- Câu đề - ứng (đề ngữ - ứng ngữ)
Ví dụ: Quyển sách này, ông Ba mới mua.
- Câu cách thức - hành động (thức ngữ - hành động ngữ)
Ví dụ: Một cách chậm rãi, ông Ba bắt đầu kể chuyện.
- Câu điều kiện - hệ quả (điều kiện ngữ - hệ quả ngữ)
Ví dụ: Nhờ gia đình chăm sóc tốt nên ông Ba chóng bình phục. (Dẫn theo [20,
194-195])
Theo nhận xét của Nguyễn Văn Lộc, đề xuất trên đây của Hồ Lê chưa
thật sự xuất phát từ bản chất cú pháp của câu và thành phần câu (từ ý nghĩa cú
pháp và hình thức cú pháp tương ứng) và chính điều đó không cho phép phân
biệt các biến thể khác nhau của một kiểu câu.
Ví dụ: Ông Ba mới mua quyển sách này.
→ Quyển sách này, ông Ba mới mua. [ 20,195].
c) Cách phân tích câu của Trần Ngọc Thêm
Trong giải pháp của Trần Ngọc Thêm, mặc dù, cặp đề - thuyết cũng được
sử dụng để phân tích câu nhưng khác với các tác giả khác, ông vẫn sử dụng các
khái niệm truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Tác giả cho
rằng cặp chủ đề - thuật đề (cặp đề - thuyết) không đồng nhất với cặp chủ ngữ -
vị ngữ cũng như cặp nêu - báo (cái đã biết - cái mới) [40, 48 - 49].
Về cách phân tích này, Nguyễn Văn Lộc đã nhận xét: với việc đưa các
khái niệm đề - thuyết vào việc phân tích câu mà vẫn giữ lại các khái niệm
6
truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ..., cách phân tích của Trần
Ngọc Thêm đã gợi mở một hướng nghiên cứu phù hợp, theo đó, cấu trúc của
câu như là đơn vị đa bình diện có thể được xem xét đồng thời theo các bình
diện khác nhau, nghĩa là việc phân tích câu theo đề - thuyết không loại trừ cách
phân tích câu theo cấu trúc chủ vị. [20,195].
d) Cách phân tích câu của V.S.Panfilov (coi vị ngữ là đỉnh của câu)
V.S. Panfilov là tác giả có cách nhìn nhận có nhiều điểm khác với cách
nhìn nhận truyền thống. Xem xét vấn đề thành phần câu dựa vào "những khái
niệm xuất phát về cú pháp"được xác định, V.S. Panfilov quan niệm "thành
phần câu là phạm trù chức năng, đó là yếu tố có quan hệ hình thái - ngữ nghĩa với
vị ngữ hoặc với toàn bộ câu" [23,75]. Theo quan niệm này, hệ thống thành phần
câu được V.S. Panfilov xác định gồm các thành phần tiêu biểu như chủ ngữ, bổ
ngữ, định ngữ của vị ngữ và trạng ngữ. Vị ngữ mặc dù được coi là đỉnh cú pháp của
câu nhưng không được xếp vào số các thành phần câu. Theo Nguyễn Văn Lộc,
quan niệm trên đây của V.S. Panfilov thể hiện cách nhìn sâu sắc đối với vấn đề cú
pháp nói chung, vấn đề thành phần câu nói riêng. [20,195-196].
Năm 2004, với công trình Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh Thuyết
và Nguyễn Văn Hiệp đã đưa ra giải pháp mới mẻ nhằm giải quyết triệt để hơn vấn
đề thành phần câu tiếng Việt [40, 122]. Công trình này được coi là một dấu mốc
quan trọng trong việc giải quyết vấn đề thành phần câu tiếng Việt. Tuy nhiên, theo
Nguyễn Văn Lộc, cách xác định, phân tích thành phần câu thiên hẳn về mặt hình
thức của các tác giả, xét về mặt lí thuyết cũng như khả năng vận dụng vào thực tiễn
phân tích cú pháp, cũng còn những hạn chế nhất định như Tomita Kenji đã nhận xét
trong lời giới thiệu về công trình này [20,196].
3) Lí thuyết kết trị và vấn đề phân tích câu về cú pháp theo kết trị của từ
a) Vài nét về lí thuyết kết trị
Lí thuyết kết trị của L. Tesnière và cách vận dụng vào phân tích câu đã
được trình bày cụ thể trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc và
Nguyễn Mạnh Tiến (2017). Có thể nêu tóm tắt vấn đề này như sau:
7
Theo L. Tesnière, kết trị của động từ chính là thuộc tính hay khả năng
của động từ thu hút vào mình một số lượng nhất định các diễn tố (chủ ngữ, bổ
ngữ) cũng tương tự như khả năng của nguyên tử kết hợp với một số lượng xác
định các nguyên tử khác.
Có thể coi cách hiểu kết trị của động từ như trên đây của L. Tesnière là
cách hiểu hẹp về kết trị.
Dựa vào số lượng diễn tố mà động từ chi phối, L.Tesnière chia động từ
thành động từ không diễn tố hay động từ vô trị (verb avalent, ví dụ : mưa,
nắng, sáng, tối): , động từ một diễn tố hay động từ đơn trị (verb monovalent, ví dụ:
đi, chạy, nhảy, bơi… ), động từ hai diễn tố hay động từ song trị (verb divalent, ví
dụ: ăn, đọc, viết, đánh…), động từ ba diễn tố hay động từ tam trị (verb trivalent, ví
dụ: trao, tặng, mời, khuyên…) (dẫn theo Nguyễn Văn Lộc, [20,199])
b) Các công trình vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu về cú pháp
b1) Trong ngôn ngữ học nước ngoài
Theo Nguyễn Văn Lộc, sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã nhanh chóng
được phổ biến và được áp dụng rộng rãi vào việc phân tích ngữ pháp nói
chung, câu nói riêng. Những tư tưởng, khái niệm, thuật ngữ của lí thuyết kết trị
xuất hiện phổ biến trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học
nổi tiếng như: M.D. Stepanova (1973), O.I. Moskanskaja (1974), G. Helbig
(1978), A.A. Kholodovich (1979), N.I. Tjapkina (1980), S.M. Kibardina
(1982), A.M. Mukhin (1987), S.D. Kasnelson (1988)... [20,200].
Trong các tác giả trên đây, S.D. Kanelson là người đã có những kiến giải
sâu sắc về vấn đề vận lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu. Theo ông, thuộc
tính kết trị của vị từ là cơ sở để xác định các thành phần câu như chủ thể, đối
thể, hoàn cảnh (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ). Đề cập đến cách xác định chủ thể
(chủ ngữ), S.D. Kanelson quan niệm "chủ thể (chủ ngữ) của câu đó hoặc là tham tố
(argument) duy nhất của vị từ một vị trí hoặc là một trong số các tham tố của vị từ
nhiều vị trí thường biểu hiện chức năng chủ đề." (Dẫn theo [20, 200]). Nguyễn Văn
8
Lộc cho rằng ý kiến trên đây của S.D. Kanelson là những gợi dẫn hết sức bổ
ích khi xác định chủ ngữ, bổ ngữ [20, 201]).
b2) Trong Việt ngữ học
Trong Việt ngữ học, lí thuyết kết trị và cách vận dụng lí thuyết này vào
việc nghiên cứu ngữ pháp nói chung, câu nói riêng đã được đề cập đến trong
các công trình của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy, Đinh Văn Đức, Nguyễn
Văn Lộc, Nguyễn Văn Hiệp, Lâm Quang Đông và một số tác giả khác. Tuy
nhiên, ở hầu hết các tác giả này, lí thuyết kết trị và việc vận dụng vào phân tích
ngữ pháp chủ yếu được đề cập khi xem xét, miêu tả vị từ hoặc mặt ngữ nghĩa
(nghĩa biểu hiện) của câu. (Dẫn theo [20,202]).
Chỉ đến công trình của Nguyễn Mạnh Tiến (2016, Phân tích câu về cú
pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ [46]), vấn đề vận dụng lí thuyết kết trị
vào việc phân tích câu về cú pháp mới thực sự được đặt ra và được xem xét
một cách có hệ thống và chuyên sâu. Tài liệu này cũng là một trong những cơ
sở được dựa vào để triển khai một số nội dung quan trọng luận văn cụ thể là
vấn đề xác định thành phần chính của câu (vị ngữ) và thành phụ của câu (chủ
ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ
Vấn đề câu không đầy đủ đã được đề cập đến trong một số công trình
của các tác giả nước ngoài và trong nước. Dưới đây tôi, xin nêu tóm tắt một số
quan niệm về vấn đề này.
1) Các quan niệm về câu không đầy đủ
a) Quạn niệm của L.Blum phin
Vấn đề phân chia câu bình thường thành câu đầy đủ (câu trọn vẹn) và
câu không đầy đủ (câu tỉnh lược) đã được đề cập đến từ lâu trong các công
trình nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung, về ngữ pháp nói riêng. L.Blum phin,
nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Mỹ cho rằng: "Có lẽ trong tất cả các ngôn
ngữ, câu đều được chia thành hai kiểu cơ bản có thể gọi là câu đầy đủ và câu
9
không đầy đủ (câu tỉnh lược)" (Dẫn theo [20,427]). Theo ông, câu đầy đủ là
câu có hình thức được ưa thích nhất, có tính thông dụng nhất, còn câu không
đầy đủ là những câu không có hình thức bình thường thông dụng nhất của câu
(Dẫn theo [20,427]).
b) Quan niệm của S.E.Jakhontov
S.E. Jakhontov, một nhà ngôn ngữ học người Nga, khi bàn về nguyên tắc
xác định thành phần câu trong tiếng Hán, đã đưa ra sự phân biệt câu trọn vẹn
(câu đầy đủ) và câu không trọn vẹn (câu không đầy đủ). Theo tác giả, câu
không trọn vẹn là câu:
- Chỉ có thể hiểu đúng trong ngữ cảnh cụ thể.
- Có thể biến nó thành câu không phụ thuộc vào ngữ cảnh bằng cách bổ sung
cho nó một hay một số từ. Tất cả những câu còn lại đều được coi là câu trọn
vẹn (Dẫn theo [20,427]).
Theo đánh giá của Nguyễn Văn Lộc, cách xác định câu trọn vẹn thông
qua câu không trọn vẹn của S.E. Jakhontov như trên đây được coi là có tính
khoa học, chặt chẽ và được nhiều tác giả tán thành, vận dụng. Đây cũng là quan
niệm mà tác giả luận văn tiếp thu khi xác định khái niệm câu không đầy đủ.
c) Quan niệm của Diệp Quang Ban
Diệp Quang Ban không sử dụng thuật ngữ câu không đầy đủ khi đề cập
đến những câu thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ ngữ, vị
ngữ, bổ ngữ). Tác giả phân biệt hai loại câu: câu tỉnh lược và câu dưới bậc.
Sự khác nhau giữa hai loại câu này là ở chỗ:
- Ở câu tỉnh lược, thành phần bị lược bỏ có thể khôi phục lại được. Ví
dụ: “Của đáng mười Nhu chỉ bán được năm. Có khi Ø chẳng lấy được đồng
nào.” (Nam Cao). Trong câu vừa dẫn, thành phần bị lược bỏ là chủ ngữ (Nhu)
có thể khôi phục lại được.
- Ở câu dưới bậc yếu tố vắng mặt không thể khôi phụ lại một cách bình
thường. Ví dụ: “Huấn đi về trạm máy kéo. Một mình, trong đêm.” (Nguyễn
10
Thị Ngọc Tú). Câu vừa dẫn (in đậm) được coi là câu dưới bậc. Theo Diệp
Quang Ban, ở câu này không thể khôi phục lại các thành phần bắt buộc vắng
mặt. [1, 278-279]
d) Quan niệm của Trần Ngọc Thêm
Ở Trần Ngọc Thêm, câu không đầy đủ được đề cập với tên gọi là ngữ
trực thuộc. Theo tác giả, ngữ trực thuộc là những phát ngôn (câu) không hoàn
chỉnh về cấu trúc, tức là thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ
ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) [40, 47]. Về thực chất, ngữ trực thuộc theo cách hiểu của
Trần Ngọc Thêm là những câu tỉnh lược thành phần bắt buộc. Như vậy, ở Trần
Ngọc Thêm, câu không đầy đủ có thể hiểu là những câu tỉnh lược thành phần
bắt buộc.
đ) Cách xác định câu không đầy đủ của Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến
Dựa vào cách xác định của S.E. Jakhontov, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn
Mạnh Tiến, đã xác định khái niệm câu đầy đủ, câu không đầy đủ một cách đơn
giản, trực tiếp. Các tác giả cho rằng có thể hiểu câu đầy đủ là câu không có
hiện tượng tỉnh lược (thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi
ngữ cảnh của câu. Ngữ cảnh của câu nói ở đây được hiểu bao gồm: văn cảnh
ngoài câu (được hiểu là những câu (hay phần văn bản) ở trước và sau câu được
xét) và hoàn cảnh, tình huống nói năng (gồm hình thức, tính chất, mục đích giao
tiếp, đặc điểm của chủ thể, đối thể giao tiếp). Phù hợp với cách hiểu vừa nêu về
câu đầy đủ, câu không đầy đủ được hiểu là câu có sự tỉnh lược (thiếu vắng) thành
phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi ngữ cảnh của câu. [20,427- 428].
2) Về cách phân loại câu không đầy đủ
Trong các công trình về ngữ pháp, câu không đầy đủ thường được phân
loại theo hai cách: theo phương thức cấu tạo và theo thành phần bị lược bỏ.
- Theo phương thức cấu tạo, cấu không đầy đủ được chia thành:
+ Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược. Ví dụ: “Tiếng hát ngừng.
Cả tiếng cười Ø.” (Nam Cao) Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra
bằng phép tỉnh lược (lược vị ngữ).
11
+ Câu được tạo ra bằng phép tách câu. Ví dụ: “Tôi đứng dậy. Dưới trời mưa.”
(Nguyễn Huy Tưởng). Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép
tách câu (tách trạng ngữ)
- Theo thành phần bị tỉnh lược, câu không đầy đủ được chia thành:
+ Câu tỉnh lược chủ ngữ. Ví dụ: “Tôi tìm dấu vết nạn lụt. Ø Vẫn còn.” (Phan Tứ)
+ Câu tỉnh lược vị ngữ. Ví dụ: “Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của nhà hát
lớn, sân khấu người xem. Tôi, Ø đến vợ con." (Nam Cao)
+ Câu tỉnh lược bổ ngữ. Ví dụ: “Ấy khẽ chứ cậu, để nó ngủ. Tôi vừa mới
đặt Ø xong." (Thạch Lam)
+ Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ. Ví dụ: “Thật cậu Phúc ác quá. Ø Đã
không cho Ø thì thôi lại còn thả chó ra đuổi Ø.” (Thạch Lam)
+ Câu tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. Ví dụ: “Đó là tiếng cười, tiếng hát.
Có lẽ Ø Ø Ø của dân làng.” (Tô Hoài)
+ Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li. Ví dụ: “Hai mắt
ông trợn ngược. Hai má Ø phình to. Cái đầu Ø lúc lắc.” (Nam Cao)
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy truyện ngắn của văn học Việt Nam
hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như
một "bách khoa thư”, một "tấn trò đời” mà đặc trưng là xã hội thực dân phong
kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Qua các sáng tác của mình, Nguyễn Công
Hoan đã chứng tỏ là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Các tác phẩm
của ông có sức hấp dẫn lớn, đã thu hút được rất nhiều các nhà nghiên cứu mà tiêu
biểu là: Lê Thị Đức Hạnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phan
Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Vương Trí Nhàn, Trương Chính, Nguyễn Đức
Đàn, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Khắc Thuần, Trúc Hà, Thiếu Sơn, Hải Triều…
Trong công trình Khảo sát cấu trúc câu văn truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan Nguyễn Khắc Thuần đã nhận xét: "Nguyễn Công Hoan đã sử dụng hầu
hết các loại kiểu dạng cấu trúc câu trong tiếng Việt… Nguyễn Công Hoan sử
12
dụng tài tình, linh hoạt, có hiệu quả loại câu ngắn, đặc biệt là những câu có từ
năm chữ trở xuống. Lúc thì tác giả dùng liên tiếp tạo thành đoạn văn; lúc thì
dùng độc lập ở đầu, ở giữa, hoặc cuối truyện; lúc thì phối hợp với câu dài ở
trong cùng một đoạn văn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc đến mức trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, số lượng câu dài và câu ngắn tương đương
nhau nhưng khi đọc truyện ngắn của ông, người đọc có cảm giác như trong
truyện ngắn của ông, câu ngắn được dùng nhiều hơn câu dài. Chính câu ngắn
đã tạo nên nét khác lạ về câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan so với
tác giả khác”[41, 57-85].
Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh cũng đã dành nhiều tâm huyết cho
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Nhận xét về ngôn ngữ của Nguyễn Công
Hoan, tác giả đã khẳng định: "Văn Nguyễn Công Hoan khá gọn gàng, sáng sủa,
thiết thực, linh hoạt. Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần
chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm hương vị ca dao, tục ngữ…chữ dùng của
ông thường giản dị, giàu hình ảnh cụ thể hay so sánh ví von” [11, 201-202]. Theo
tác giả:"Nguyễn Công Hoan luôn giữ cho lời văn, ngôn ngữ trong truyện trong
sáng, chính xác, mang bản sắc của văn hóa dân tộc” [11,208]. Tác giả còn chỉ
ra tính chất cá thể hóa sâu sắc trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công
Hoan: "Ngôn ngữ các loại nhân vật trong truyện của Nguyễn Công Hoan cũng
mang sắc thái riêng, bộc lộ được tâm lí xã hội của từng nhân vật, trộn cũng
không lẫn” [11,117]. Ngoài ra, Lê Thị Đức Hạnh còn so sánh văn phong của
Nguyễn Công Hoan với văn phong của các nhà văn hiện thực phê phán khác
với nhiều nhận xét chính xác và tinh tế về sự tương đồng, đặc biệt là khác biệt.
Nghiên cứu chất hài trong câu văn Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thanh
Tú nhận xét: "Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là thứ ngôn ngữ suồng sã.
(…) Trong nội bộ câu văn của Nguyễn Công Hoan thường mang mâu thuẫn hài
hước đối chọi ở bên trong. (…) Nhà văn có những lối ví von so sánh, độc đáo,
những liên tưởng bất ngờ, thú vị. (…) Câu văn Nguyễn Công Hoan thường
13
ngắn gọn (…) có sự tuân thủ phép lặp cú pháp vì mục đích nghệ thuật gia tăng
sắc thái hài hước” [27, 209-215]. Trong bài "Lời văn mỉa mai trong Đồng hào
có ma”, tác giả đã chỉ rõ tài sử dụng ngôn ngữ “suồng sã” để "lật ngửa”, "lộn
trái” đối tượng nhằm mục đích mỉa mai, phê phán đối tượng.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan kể trên đây còn có loạt công trình là luận văn, luận án nghiên cứu
về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan từ các góc độ, bình diện khác nhau. Có
thể kể đến một số công trình sau đây.
Lò Thị Duyên trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm ngôn ngữ của truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan, đã nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật, đối thoại và độc
thoại về các mặt từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu từ. Tác giả cho rằng ngôn
ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ trào phúng, châm biếm với
sự tinh tế, lão luyện.
Luận văn thạc sĩ "Phương tiện tu từ nói mỉa trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan” (Nguyễn Thị Hương Lan, 2000) đã đề cập đến các dạng thức nói
mỉa trên nhiều cấp độ văn bản: cấp độ từ ngữ trong câu, cấp độ đoạn văn, cấp
độ văn bản… qua đó, chỉ ra những đóng góp quan trọng của Nguyễn Công
Hoan vào nghệ thuật trào phúng. Nguyễn Thanh Hương trong luận văn thạc sĩ
Đặc điểm tình huống đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2001)
đã đề cập đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan gắn
với tình huống giao tiếp cụ thể của cuộc thoại dựa trên lí thuyết ngữ dụng học
và phong cách học.
Lê Ngọc Hòa trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm cách xưng hô của các vai
giao tiếp trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2006) đã khảo sát lớp từ xưng
hô trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, qua đó, chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ
giữa ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa - xã hội.
Hoàng Minh Hải với đề tài Các phương thức và đặc điểm gây cười qua
lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2008) đã vận dụng lý
14
thuyết hội thoại để nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm của nghệ thuật và nguyên lí
gây cười của Nguyễn Công Hoan. Trần Thị Thủy với đề tài Đối sánh ngôn ngữ
trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và tiểu thuyết Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng đã so sánh đặc điểm ngôn ngữ trào phúng, cụ thể, so sánh tính
chất trào phúng của ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong các tác
phẩm thuộc hai thể loại khác nhau của hai nhà văn trào phúng bậc thầy của văn
học Việt Nam hiện đại.
Hà Thị Tuyết trong luận văn thạc sĩ Câu có hình thức nghi vấn trong tác
phẩm của nguyễn Công Hoan (2010) đã nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và ý
nghĩa của câu nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan; qua đó, chỉ ra
những nét riêng về nội dung và hình thức của câu hỏi trong tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan. Với đề tài So sánh câu văn trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và truyện ngắn Thạch Lam, Hoàng Thị Tố Quyên khảo sát chỉ ra
những nét tương đồng và khác biệt của câu văn trong tác phẩm cảu hai tác giả
này về phương diện cấu tạo và biện pháp tu từ. Võ Thị Dung trong luận văn
thạc sĩ Chức năng ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát ngôn trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật về mặt ngữ pháp,
ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ tình thái trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan. Năm 2018, tác giả Nguyễn Thị Hồng Chuyên trong đề tài luận văn thạc
sĩ của mình: Các chu tố của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (xét
về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng) đã nghiên cứu một cách tương đối có
hệ thống về chu tố của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan theo
quan điểm ngữ pháp chức năng. Ở công trình này, tác giả đã miêu tả khá tỉ mỉ
đặc điểm về ngữ pháp (cấu tạo, phương thức kết hợp, vị trí, khả năng cải biến),
ngữ nghĩa (vai trò ngữ nghĩa và các kiểu nghĩa biểu hiện), ngữ dụng (chức năng
xác lập chủ đề, tạo lập chủ đề tương phản) của chu tố (thành tố tương đương
với trạng ngữ).
15
Ngoài các công trình kể trên, trong thời gian gần đây còn xuất hiện một
số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học. Trong Tạp chí văn học nghệ thuật,
số 343 (2013), tác giả Thành Đức Bảo Thắng với bài Nghệ thuật khắc họa nhân
vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra ba kiểu ngôn ngữ đối thoại
trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan: người kể chuyện đối
thoại với nhân vật, người kể chuyện đối thoại với độc giả và nhân vật đối thoại
với nhân vật. Tác giả cho rằng vận dụng sáng tạo và linh hoạt ngôn ngữ đối
thoại, Nguyễn Công Hoan đã tạo mạch nối giữa tiếng cười dân gian và tiếng
cười hiện đại. Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
hướng tới phơi bày bản chất của con người, của xã hội bằng tiếng cười trào
phúng giàu kịch tính. Đó là thứ ngôn ngữ chứa đựng yếu tố hấp dẫn, tạo được
sự bất ngờ, lột trái hiện tượng, phơi bày mâu thuẫn hài hước… Với ngôn ngữ
giàu kịch tính xuất hiện nhiều trong truyện ngắn trào phúng kết hợp với thủ
pháp tăng cấp, Nguyễn Công Hoan đã đưa người đọc từ ngạc nhiên này tới
ngạc nhiên khác và bật cười khi hiểu rõ câu chuyện.
Điểm lại một số công trình nghiên cứu trên, có thể thấy ngôn ngữ trong
các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan được nhìn nhận từ nhiều góc độ, bình
diện khác nhau với những ý kiến nhận xét sâu sắc, tinh tế. Tuy nhiên, đến nay,
chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về Câu
không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan. Với đề tài
này, chúng tôi hi vọng sẽ bổ sung thêm một tài liệu góp phần làm rõ thêm đặc
điểm ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Một số vấn đề khái quát về câu
1.2.1.1. Khái niệm câu
Việc xem xét các khuynh hướng chính trong việc định nghĩa câu với một
số cách định nghĩa cụ thể cho thấy những khó khăn, phức tạp của việc định
nghĩa câu. Có thể nói rằng đến nay, vẫn chưa có được cách định nghĩa câu thoả
16
mãn được tất cả hoặc hầu hết các nhà ngữ pháp. Trong điều kiện như vậy, việc
lựa chọn cách định nghĩa nào đó phụ thuộc vào góc nhìn của nhà nghiên cứu,
vào mục đích nghiên cứu, giảng dạy và học tập ngữ pháp.
Trong luận văn này, chúng tôi chọn cách định nghĩa câu vào khối lượng
và chức năng. Khác với các khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào nội dung (ý
nghĩa), hình thức (cấu tạo) hoặc dựa vào cả nội dung lẫn hình thức, theo đó, câu
được xác định một cách độc lập, riêng biệt (không đặt trong mối quan hệ với
các đơn vị ngôn ngữ khác trong cùng hệ thống), khuynh hướng định nghĩa câu
dựa vào khối lượng và chức năng chủ trương xác định câu trong mối quan hệ hệ
thống với các đơn vị ngôn ngữ khác. Theo hướng này, câu cũng như các đơn vị
ngôn ngữ khác cùng hệ thống luôn được định nghĩa dựa vào hai mặt: mặt so sánh
khối lượng và mặt chức năng. Cụ thể, câu được định nghĩa như sau: "Câu là kiểu
đơn vị nhỏ nhất mà có thể mang một thông báo tương đối hoàn chỉnh" [4, 363].
Theo Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến, cách định nghĩa này thường
được nhận xét là không nêu được các dấu hiệu hình thức đặc trưng của câu.
Nhưng bù lại, cách định nghĩa này có ba ưu điểm cơ bản:
Thứ nhất, đây là cách định nghĩa mang tính hệ thống rõ rệt nhất. Nó
thống nhất về nguyên tắc với cách định nghĩa các đơn vị ngôn ngữ khác cùng
hệ thống với câu như âm vị, hình vị, từ cho nên rất tiện cho việc đối chiếu
chúng với nhau.
So sánh:
- Âm vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có chức năng khu biệt nghĩa.
- Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có nghĩa.
- Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có khả năng vận dụng độc lập.
- Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có chức năng thông báo.
Thứ hai, cách định nghĩa này nêu lên được những tiêu chí cần thiết cho
phép xác định câu, phân biệt nó với các đơn vị nhỏ hơn và lớn hơn thuộc cùng
hệ thống: Tiêu chí "có chức năng thông báo" được đưa vào định nghĩa có tác
17
dụng phân biệt câu với từ, hình vị, âm vị, vốn không có chức năng này; còn tiêu
chí "nhỏ nhất" có tác dụng phân biệt câu với đơn vị lớn hơn (văn bản) cũng có
chức năng thông báo.
Thứ ba, so với một số cách định nghĩa khác, cách định nghĩa này rất ngắn
gọn nên dễ nhớ hơn. [20, 175-176].
1.2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của câu
Theo Nguyễn Văn Lộc, với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất, câu
được xác định theo những đặc trưng cụ thể sau:
1) Về nội dung
Câu biểu thị một thông báo tương đối hoàn chỉnh. Kèm theo nội dung
thông báo, câu còn biểu thị mục đích, thái độ, tình cảm của người nói đối với
nội dung nói năng hay đối với người nghe.
2) Về cấu trúc (về hình thức bên trong)
Ở dạng điển hình, câu được cấu tạo theo mô hình nhất định với nòng cốt
là một hoặc một vài cụm chủ vị (cụm vị từ), tức là cấu trúc gồm vị từ hạt nhân
(vị ngữ) và các thành tố bổ sung có tính bắt buộc (chủ ngữ, bổ ngữ) hay tự do
(trạng ngữ hay các chu tố) làm rõ nghĩa cho nó.
3) Về hình thức (hình thức bên ngoài hay về ngữ điệu)
Câu luôn có ngữ điệu kết thúc (thể hiện trên chữ viết bằng dấu ngắt câu)
và có thể kèm theo hư từ tình thái hay giao tiếp (à, ư, nhỉ, nhé, thôi, nào...).
Trong các đặc trưng trên đây, chỉ đặc trưng thứ ba luôn có mặt; còn các
đặc trưng thứ nhất, thứ hai có thể vắng mặt hoặc thể hiện không đầy đủ. Những
câu có cả ba đặc trưng được coi câu ở dạng cơ bản (điển hình, điển thể). Những
câu thiếu các đặc trưng thứ nhất và thứ hai được coi là những biến thể không cơ
bản (điển hình) của câu và sự tồn tại của chúng, nhìn chung, đều phụ thuộc vào
ngữ cảnh. [20, 176-177].
18
1.2.1.3. Câu phát ngôn
Có nhiều cách hiểu về khái niệm phát ngôn. Theo Nguyễn Văn Lộc,
trong các công trình ngôn ngữ học, thuật ngữ phát ngôn thường được hiểu theo
những cách sau đây:
-"Phát ngôn là cái biểu hiện cụ thể trong từng lúc của câu"
- Phát ngôn là "sự hiện thực hoá mô hình câu trong lời nói" (Dẫn theo [20, 177])
Theo cách hiểu trên đây, mối quan hệ giữa câu và phát ngôn chính là mối
quan hệ giữa đơn vị trừu tượng (thuộc bình diện ngôn ngữ) với đơn vị cụ thể
(thuộc bình diện lời nói). Mối quan hệ này cũng tương tự như mối quan hệ giữa
âm vị và âm tố, hình vị và hình tố, từ và các dạng thức từ.
Trong luận văn này, tán thành ý kiến của Nguyễn Văn Lộc, những "cái
biểu hiện cụ thể trong từng lúc của câu" hoặc "sự hiện thực hoá mô hình câu
trong lời nói" mà các tác giả gọi là phát ngôn cũng sẽ được gọi chung là câu.
Như vậy, thuật ngữ câu sẽ được dùng để chỉ cả câu như là đơn vị ngữ pháp trừu
tượng (câu - mô hình), cả câu như là đơn vị cụ thể - sản phẩm của sự hiện thực
hoá mô hình cú pháp của câu trong lời nói.
1.2.1.4. Vài nét về các bình diện của câu
Câu là kiểu đơn vị rất phức tạp, có tổ chức nhiều mặt. Theo quan niệm
của ngữ pháp chức năng, câu là thực thể hỗn hợp được tạo nên bởi ba bình
diện: bình diện cú pháp (kết học), bình diện ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện), bình
diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp). Trong việc nghiên cứu
câu, việc xác định các bình diện của câu, bản chất, phạm vi, ranh giới của
chúng đến nay vẫn còn là những vấn đề tranh luận.
1) Bình diện cú pháp
a) Về bản chất của bình diện cú pháp
Theo Nguyễn Văn Lộc, trong các công trình ngôn ngữ học, có hai cách
hiểu về bản chất của bình diện cú pháp:
19
- Coi bình diện cú pháp (ngữ pháp) là bình diện hình thức thuần tuý
Theo cách hiểu này thì "mặt ngữ pháp" được đồng nhất với "mặt biểu
hiện" hay "mặt hình thức" của câu.
Trong Việt ngữ học, quan niệm trên đây thể hiện rõ nhất qua ý kiến của
Cao Xuân Hạo: "Bình diện cú pháp là bình diện của những khái niệm được xác
định bằng những tiêu chuẩn hình thức thuần tuý. Các chức năng cú pháp như
chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ trực tiếp, bổ ngữ gián tiếp, định ngữ được xác định
không phải căn cứ vào việc các ngữ đoạn biểu thị cái gì mà vào mối quan hệ
ngữ pháp với các ngữ đoạn khác được biểu thị bằng các phương tiện gọi là tác
tử cú pháp." [10, 8].
- Coi bình diện cú pháp là bình diện có nghĩa
Trên cứ liệu tiếng Việt, quan niệm này được thể hiện rõ trong một số bài
viết của Nguyễn Văn Lộc [20, 1 - 15].
Quan niệm coi bình diện cú pháp là bình diện có nghĩa không chỉ phù
hợp với lí thuyết ngữ pháp đại cương và lí thuyết ngữ nghĩa (theo đó, sự tồn tại
của các kiểu nghĩa cú pháp như nghĩa chủ thể, đối tượng, công cụ, sở hữu... đã
được xác nhận) mà còn phù hợp với thực tiễn của việc phân tích cú pháp thể
hiện qua việc xác định các thành phần câu dựa vào nghĩa cú pháp, (chẳng hạn,
việc xác định chủ ngữ dựa vào nghĩa cú pháp chủ thể).
Với việc khẳng định bình diện cú pháp là bình diện có nghĩa, khi xác
định các thành phần cú pháp của câu, về nguyên tắc, phải dựa đồng thời cả
vào nghĩa cú pháp lẫn hình thức cú pháp [20, 188].
b) Nội dung của việc nghiên cứu câu theo bình diện cú pháp
Theo Nguyễn Văn Lộc, nội dung của việc nghiên cứu câu theo bình diện
cú pháp gồm 5 vấn đề sau:
- Xác định làm rõ các khái niệm cú pháp cơ bản (ý nghĩa, hình thức, quan hệ cú
pháp; thành tố cú pháp hay thành phần câu; vai trò, chức năng cú pháp; cụm
từ, câu, phát ngôn...).
20
- Xác định các kiểu quan hệ cú pháp, phân biệt quan hệ cú pháp với quan hệ
ngữ nghĩa (quan hệ về mặt nghĩa biểu hiện) và quan hệ về mặt giao tiếp (quan
hệ đề - thuyết).
- Xác định nguyên tắc, thủ pháp, quy trình phân tích câu về cú pháp.
- Xác định, phân loại, miêu tả các loại, kiểu thành phần cú pháp của câu theo
đặc điểm nội dung và hình thức.
- Xác định, phân loại, miêu tả các loại, kiểu câu xét theo cấu tạo ngữ pháp
[20, 188-189].
2) Bình diện ngữ nghĩa, (nghĩa biểu hiện)
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về bình diện ngữ nghĩa (nghĩa
biểu hiện). Trong luận văn này, tán thành ý kiến của Nguyễn Văn Lộc, chúng
tôi hiểu bình diện ngữ nghĩa, với tư cách là một trong ba bình diện của câu đối
lập với bình diện cú pháp và bình diện giao tiếp (ngữ dụng) theo cách hiểu hẹp,
nghĩa là chỉ gồm nghĩa biểu hiện.
Nội dung của việc nghiên cứu theo bình diện nghĩa biểu hiện là xác định,
miêu tả các thành tố ngữ nghĩa gồm: hạt nhân ngữ nghĩa (biểu thị lõi sự tình)
và các tham thể ngữ nghĩa hay các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của
câu và tiến hành phân loại, phân tích, miêu tả các kiểu câu theo mặt nghĩa biểu
hiện [20, 190-191].
3) Bình diện giao tiếp
Trong các công trình nghiên cứu câu trong quan điểm chức năng, bản
chất, phạm vi của bình diện giao tiếp (ngữ dụng) thường không được hiểu
thống nhất.
Trong luận văn này, tán thành ý kiến của Nguyễn Văn Lộc, chúng tôi coi
đối tượng của việc nghiên cứu câu theo bình diện giao tiếp (cú pháp giao tiếp, ngữ
dụng) là câu -phát ngôn - đơn vị giao tiếp là kết quả của sự hiện thực hoá sơ đồ
cấu trúc của câu [20, 415]. Theo cách hiểu này, nội dung của việc nghiên cứu câu
theo bình diện giao tiếp không chỉ bao gồm các vấn đề như cấu trúc thông tin (cấu
21
trúc thông báo), tiêu điểm, ngôn trung của câu mà bao gồm cả cấu trúc đề thuyết,
nghĩa tình thái (chủ quan) và cấu trúc tình thái của câu [20, 192].
1.2.1.5. Các thành phần câu
Hiện nay, ý kiến của các nhà ngữ pháp về hệ thống thành phần câu
không có sự thống nhất. Không có ý định bàn sâu về vấn đề vừa nêu, trong luận
văn này, chúng tôi tiếp thu cách hiểu về hệ thống thành phần câu tiếng Việt
theo quan điểm của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến. Theo quan niệm
của hai tác giả hệ thống thành phần câu tiếng Việt gồm các thành phần sau:
1) Thành phần chính - vị ngữ
Vị ngữ chính là hạt nhân của cụm vị từ nòng cốt. Đó là từ mang kết trị
chủ động tuyệt đối trong câu. Vị ngữ được xác định theo các tiêu chí chính sau:
a) Về nội dung:
- Là thành phần được xác định tuyệt đối, tức là không có chức năng xác định
(bổ sung) cho bất cứ thành phần nào.
- Có ý nghĩa cú pháp hoạt động hay đặc điểm.
- Quy định bản chất của câu và chi phối tổ chức nội bộ của câu (quy định số
lượng, ý nghĩa, hình thức của các thành phần phụ bắt buộc của câu).
b) Về hình thức:
- Ở dạng cơ bản, được biểu hiện bằng vị từ với ý nghĩa, hình thức thời thể
chiếm vị trí trung tâm của câu.
- Nói chung, không có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn đích thực như: ai, gì,
nào, sao... (chỉ có khả năng thay thế bằng các đơn vị có ý nghĩa nghi vấn như:
làm gì, làm sao, thế nào mà trong Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên)
được gọi là các "tổ hợp" và không được chú từ loại [24,692-694]).
- Rất khó lược bỏ. Trừ trường hợp đối thoại hoặc một vài trường hợp đặc biệt,
trên thực tế, hầu như không tồn tại câu thiếu vị ngữ" [20, 233].
2) Thành phần phụ của câu
a) Tiêu chí xác định
Tất cả các thực từ trong câu mà không phải là thành phần chính đều là thành
phần phụ của câu. Thành phần phụ của câu được xác định theo các tiêu chí sau:
22
- Về nội dung:
+ Có chức năng (ý nghĩa) xác định (bổ sung) trực tiếp hay gián tiếp cho thành
phần chính hoặc cho cả câu.
+ Mang một ý nghĩa cú pháp quan hệ nhất định (kiểu như nghĩa chủ thể,
đối thể...).
+ Không quy định bản chất của câu và không chi phối tổ chức nội bộ của câu.
- Về hình thức:
+ Được biểu hiện bằng thực từ thuộc các từ loại nhất định.
+ Nói chung, có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn.
+ Dễ lược bỏ hơn so với thành phần chính.
Thành phần phụ của câu (trừ thành phần biệt lập) chính là các từ mang kết
trị bị động được dùng để hiện thực hoá kết trị chủ động của vị từ hoặc danh từ.
b) Phân loại thành phần phụ của câu
Thành phụ của câu được phân loại như sau:
b1) Theo tầm quan trọng (mức cần thiết) đối với tổ chức cú pháp của câu, thành
phần phụ được chia thành:
- Thành phần phụ bắt buộc (tham gia vào nòng cốt câu, ví dụ: chủ ngữ, bổ ngữ),
- Thành phần phụ không bắt buộc (không tham gia vào nòng cốt câu, ví dụ:
trạng ngữ).
b2) Theo tính chất của mối quan hệ cú pháp (quan hệ kết trị) với từ mà nó bổ
sung, thành phần phụ được chia thành:
- Thành phần phụ thể hiện kết trị của một từ loại nhất định (thành phần phụ
không biệt lập). Thành phần phụ không biệt lập gồm: thành phần phụ thể hiện
kết trị của vị từ (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ) và thành phần phụ thể hiện kết trị
của danh từ (định ngữ).
- Thành phần phụ không thể hiện kết trị của từ loại nhất định (thành phần phụ
biệt lập), ví dụ: “Tâm mơ màng nghĩ đến sự thành công của các em sau này: đỗ
đạt rồi đi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ”. (Thạch Lam)
23
b3) Theo tính chất của mối quan hệ cú pháp với thành phần chính, thành phần
phụ được chia thành:
-Thành phần phụ có quan hệ cú pháp trực tiếp với thành phần chính hoặc với
cả câu
Loại thành phần phụ này được gọi là thành phần phụ bậc 1 hay thành
phần phụ bậc câu.
- Thành phần phụ không có quan hệ cú pháp trực tiếp với thành phần chính
hoặc với cả câu.
Loại thành phần phụ này được gọi là thành phần phụ bậc 2, bậc 3... hay
thành phần phụ bậc từ.
b4) Xét kết hợp các tiêu chí, hệ thống thành phần phụ của câu được chia thành
5 loại: chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, định ngữ, chú giải ngữ
1.2.2. Câu không đầy đủ
1.2.2.1. Xác định và phân biệt câu không đầy đủ với câu đầy đủ
1) Xác định câu không đầy đủ
Vấn đề xác định câu không đầy đủ khá phức tạp. Như đã trình bày ở
mục Tổng quan, trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp, ý kiến của các
tác giả về vấn đề này không thống nhất. Trong luận văn này, chúng tôi hiểu
khái niệm câu không đầy đủ theo cách hiểu của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn
Mạnh Tiến. Theo đó, câu không đầy đủ được xác định trong mối quan hệ với
câu đầy đủ. Cụ thể:
a) Câu đầy đủ là câu không có hiện tượng tỉnh lược (hay sự thiếu vắng) thành
phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi ngữ cảnh của câu. Ngữ cảnh của câu nói
ở đây được hiểu bao gồm: văn cảnh ngoài câu (được hiểu là những câu (hay
phần văn bản) ở trước và sau câu được xét) và hoàn cảnh, tình huống nói năng
(gồm hình thức, tính chất, mục đích giao tiếp, đặc điểm của chủ thể, đối thể
giao tiếp).
24
b) Phù hợp với cách hiểu vừa nêu về câu đầy đủ, câu không đầy đủ được hiểu
là câu có sự tỉnh lược (hay thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định
bởi ngữ cảnh của câu. [20, 427-428].
Chẳng hạn, trong chuỗi câu: “Tiếng hát ngừng. Cả tiếng cười.”, câu thứ
nhất là câu đầy đủ (vì trong nó không có sự lược bỏ hay thiếu vắng thành phần
bắt buộc nào); câu thứ hai là câu không đầy đủ (vì trong nó có sự lược bỏ thành
phần bắt buộc là vị ngữ).
2) Phân biệt câu không đầy đủ với câu đầy đủ có thành phần bị tỉnh lược
Theo cách hiểu trên đây, câu không đầy đủ luôn là câu có sự tỉnh lược
(hoặc thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó (do đó, một số tác giả thường gọi
câu không đầy đủ là câu tỉnh lược). Tuy nhiên, cần thấy rằng không phải mọi
câu có thành phần bị tỉnh lược đều là câu không đầy đủ. Đây là vấn đề khá
phức tạp Để làm rõ vấn đề này, các tác giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt phân tích
các ví dụ dưới đây.
(1) Kẻ dốt nát khổ nhưng Ø không biết rằng mình khổ. (Nam Cao)
(2) Tiền bạc cưới thì bố tôi bảo Ø đã đưa cho bố cả rồi. (Tô Hoài)
(3) Tâm tin rằng Ø đã làm đủ bổn phận khi mỗi tháng gửi giúp bà cụ một số
tiền. (Thạch Lam)
(4) Mọi người vào hầm lấy lương khô ra ăn Ø. (Nguyễn Minh Châu)
(5) Thấy tôi lù rù như thế bọn trẻ chỉ biết ra sức săn sóc Ø. (Tô Hoài)
(6) Khi Tâm quay đi, mấy người bạn nhìn theo Ø thương hại. (Thạch Lam)
(7) Cửa hàng hai chị em Liên trông coi Ø là một cửa hàng tạp hoá. (Thạch Lam)
Trong những câu trên đây, đã có sự tỉnh lược các thành phần câu (chủ
ngữ ở ba câu đầu và bổ ngữ ở năm câu tiếp theo). Tuy nhiên, theo các tác giả,
không nên coi những câu này là câu không đầy đủ vì có thể hiểu đúng nghĩa
của chúng mà không cần dựa vào văn cảnh ngoài câu (những câu đứng trước)
hoặc hoàn cảnh, tình huống nói năng.
25
Như vậy, có thể thấy sự khác nhau giữa câu đầy đủ và câu không đầy đủ thể
hiện ở chỗ ở câu đầy đủ, mặc dù cũng có thể có hiện tượng tỉnh lược thành phần
nào đó (chủ ngữ, bổ ngữ) nhưng đó là sự tỉnh lược bị quy định bởi văn cảnh trong
câu; còn ở câu không đầy đủ, sự tỉnh lược luôn là kiểu tỉnh lược bị quy định bởi
văn cảnh ngoài câu (hoặc bởi hoàn cảnh, tình huống nói năng) [20, 428].
Theo chúng tôi, sự phân biệt câu không đầy đủ với câu đầy đủ qua các ví
dụ trên đây là rõ ràng, thỏa đáng, có sức thuyết phục.
Như vậy, không phải mọi câu có hiện tượng tỉnh lược thành phần đều là
câu không đầy đủ.
1.2.2.2. Các kiểu câu không đầy đủ
Câu không đầy đủ theo cách hiểu trên đây có thể được phân loại theo
phương thức cấu tạo thành hai kiểu chính: câu không đầy đủ được tạo ra bằng
phép tỉnh lược và câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu.
1) Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược
Theo tính chất của thành phần bị tỉnh lược, câu không đầy đủ được tạo ra
bằng phép tỉnh lược được chia thành các kiểu nhỏ sau:
a) Câu tỉnh lược chủ ngữ
Đây là kiểu câu tỉnh lược phổ biến nhất. Ở kiểu này, cần phân biệt:
a1) Câu tỉnh lược chủ ngữ bị quy định bởi văn cảnh
Ví dụ: (Ông ấy long tong ở sở máy đèn.) Ngày nào Ø cũng đi làm từ sáu
giờ. (Nam Cao).
(Thanh quyện sắt giữ chặt chân họ). Ø Làm sao mà chạy đi cho được.
(Anh Đức)
a2) Câu tỉnh lược chủ ngữ bị quy định bởi hoàn cảnh, tình huống nói năng
Hoàn cảnh, tình huống nói năng gồm các tình huống độc thoại (khi ghi
nhật kí), đối thoại (khi hỏi, trả lời), khi thông báo ngắn gọn ở trước các cửa
hàng, cửa hiệu…hoặc phòng làm việc.
26
Ví dụ: Tối nay Ø nôn nao và mệt rũ. Ø Làm nhiều. Ø Hút thuốc lá nhiều.
(Nam Cao - Nhật kí ở rừng)
Ø Về muộn mấy? Ø Hẵng vào chơi đã nào. (Kim Lân)
Ø Bán cá giống. (Thông báo trước trại nuôi cá)
Ø Mua sắt thép phế. (Thông báo trước cơ sở thu mua phế liệu)
Ø Đề nghị để giày dép ở ngoài! (Lời viết ở cửa phòng làm việc)
b) Câu tỉnh lược vị ngữ
Vị ngữ rất ít khi bị lược bỏ. Nhìn chung, câu tỉnh lược vị ngữ chủ yếu gặp
trong lời hội thoại hay trong lời nói thuộc phong cách văn chương.
Ví dụ: (Tiếng hát ngừng.) Cả tiếng cười Ø. (Nam Cao)
(Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của nhà hát lớn, sân khấu người xem.)
Tôi, Ø đến vợ con. (Nam Cao)
c) Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn vị ngữ
Câu tỉnh lược kiểu này cũng rất hiếm và chủ yếu gặp trong lời đối thoại
hay lời nói nghệ thuật.
Ví dụ: (Bố cháu hi sinh rồi.) Ø Ø Năm 72.
(Báo văn nghệ) (Dẫn theo [40, 195])
(Thoáng chốc Quyên nhớ đến mọi nét, mọi vẻ của Cà Mỵ.) Ø Ø Cả
cái cử chỉ
khi Cà Mỵ ôm cô mà hôn thật kêu. (Anh Đức) (Dẫn theo [40, 190])
d) Câu tỉnh lược bổ ngữ
Ở kiểu này, phổ biến và đáng chú ý hơn là sự tỉnh lược bị quy định bởi
văn cảnh.
Ví dụ; (Ấy khẽ chứ cậu, để nó ngủ.) Tôi vừa mới đặt Ø xong. (Thạch Lam)
(Tên lính đã trở lại.) Lần này có tên trung úy đi theo Ø (Anh Đức)
đ) Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ
Ví dụ: (Thật cậu Phúc ác quá.) Ø Đã không cho Ø thì thôi lại còn thả chó ra
đuổi Ø. (Thạch Lam)
27
e) Câu tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ
Câu tỉnh lược kiểu này rất hiếm và cũng chủ yếu gặp trong văn bản nghệ thuật.
Ví dụ: (72) (Đó là tiếng cười, tiếng hát.)
Có lẽ Ø Ø Ø của dân làng. (Tô Hoài) (Dẫn theo [40,191])
g) Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li
Định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li là một trong những thành tố
bắt buộc của câu; vì vậy, việc lược bỏ nó luôn bị quy định bởi văn cảnh hoặc
hoàn cảnh, tình huống nói năng và câu tỉnh lược định ngữ kiểu này cũng được
coi là câu không đầy đủ.
Ví dụ: (Hai mắt ông trợn ngược.) (73) Hai má Ø phình to. (Nam Cao)
2) Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu
Theo đặc tính của bộ phận tách ra, kiểu này được chia thành những kiểu
nhỏ sau:
a) ) Câu không đầy đủ là vị ngữ được tách ra
Ví dụ:
Bọn người nhìn theo anh ta. Im lặng. (Nguyễn Thị Ngọc Tú)
Tôi lặng lẽ ra khỏi hang. Cũng không có một ý nghĩ gì rõ rệt. (Tô Hoài)
Chỉ ở những chỗ không ai ngờ tới mới có đò ngang sang sông. Có lối tắt
vòng sau lưng phủ Hoài ra đầu ô. Và có hàng quán. (Tô Hoài)
b) Câu không đầy đủ là bổ ngữ được tách ra
Ví dụ:
Anh mới mua được một quyển sách. Cho em. (Báo Văn nghệ)
c) Câu không đầy đủ là trạng ngữ được tách ra
Ví dụ:
Sáng hôm sau Điền ngồi viết. Giữa lúc con khóc, vợ càu nhàu và tiếng
đòi nợ nheo nhéo ngoài ngõ. (Nam Cao)
Tôi sẽ trở về Hà Nội sau. Bằng tầu hỏa hoặc ô tô chở hàng. (Hồng Nhu)
Hôm vào Gia Lai, Công Tum, chị đi máy bay. Với chồng. (Báo Văn nghệ)
28
d) Câu không đầy đủ là định ngữ được tách ra
Ví dụ:
Rừng Hoành Bồ có một nương dó. Rộng và sâu lắm. (Nguyễn Tuân)
đ) Câu không đầy đủ là chú giải ngữ được tách ra
Ví dụ:
Có một buổi trưa lung linh nắng làm cho tôi nhớ quê hương vô hạn. Một
buổi trưa ở Chúp. (Trần Cư)
Một người đội mũ ca lô xăm xăm tiến vào quán. Anh trật tự bến đò.
(Nguyễn Tuân)
e) Câu không đầy đủ là vế câu được tách ra
Ví dụ:
Ngủ trọ phải trả hai xu một tối. Nếu chị không ăn cơm, ăn quà.
(Ngô Tất Tố)
Chúng con bắt phải nộp thay. Vì tên Dậu là thân nhân của hắn.
(Ngô Tất Tố)
1.2.3. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và “Truyện ngắn chọn lọc”
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là một nhà văn, nhà báo hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn
Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học
thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất
nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả
kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương
của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và
giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), nguyên Ủy viên
Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng, nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và
Nguyễn Công Mỹ, nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.
29
Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều
nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng
Tám nổ ra.
Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan
(viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp
cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí
Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó, ông gia nhập Vệ
quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc Trường Văn hóa
quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên
Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư
của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Lịch sử Việt Nam hiện
đại (dùng cho lớp 7 hệ chín năm). Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân
dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau
năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
(khóa đầu tiên 1957-1958), Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội
Nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội
liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm Tuần báo Văn (tiền thân của
báo Văn nghệ).
Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông
được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn
Chí Thanh. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có con đường mang tên
Nguyễn Công Hoan ở phường Bắc Lý. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.
Tên ông sau này đã được đặt cho Trường THPT Nguyễn Công Hoan tại
xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Ông để lại một di sản nghệ thuật với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện
dài và nhiều tiểu luận văn học, các tác phẩm chính của ông là:
30
Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923)
Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn, 1929; đăng An nam tạp chí
số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản)
Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930)
Thật là phúc (truyện ngắn, 1931)
Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931)
Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932)
Xin chữ cụ nghè (truyện ngắn, 1932)
Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933)
Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934)
Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935)
Cô làm công (tiểu thuyết, 1936)
Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937)
Vợ (truyện ngắn, 1937)
Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)
Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939)
Phành phạch (truyện ngắn, 1939)
Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939)
Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955)
Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956)
Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960)
Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961)
Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963)
Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1983-1986)
Đồng hào có ma
Truyện ngắn chọn lọc (Nhà xuất bản thời đại, 2010)
Năm 1936, truyện dài Tắt lửa lòng của ông đã được Trần Hữu Trang
chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng Lan và Điệp.
31
Truyện ngắn chọn lọc bao gồm 74 truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn
Công Hoan. Đây là tuyển tập thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của ông,
đặc biệt là trong lĩnh vực truyện ngắn. Đây cũng là nguồn tư liệu mà chúng tôi
sẽ khảo sát về câu không đầy đủ để thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê
phán. Trước Cách mạng, khuynh hướng văn học giàu tính chiến đấu mà ông
theo đuổi chưa phải là cách mạng, nhưng rất gần với cách mạng, đóng góp
được nhiều cho Cách mạng. Bọn thống trị thực dân và phong kiến hồi ấy trong
khi giở đủ thủ đoạn tàn bạo để bóc lột, áp bức dân tộc ta, trong khi áp đặt lên
đầu nhân dân ta một chế độ xã hội vừa độc ác lại vừa thối nát vẫn không ngớt
tìm đủ cách che đậy bộ mặt thật của chúng bằng nhiều hình thức man trá, lừa
bịp, mê hoặc , trong đó có thứ “văn học” của bọn bồi bút chuyên tán tụng,
quảng cáo cho “ Nhà nước bảo hộ” và “ các vị phụ mẫu của dân”. Hồi ấy, vạch
trần những sự thật của chế độ thực dân, gây cho người ta lòng khinh bỉ, ghê
tởm, căm ghét đối với chế độ ấy, khiến cho người ta không thể nào chịu đựng,
chung sống được với nó - chính là một sự cần thiết, là một trong những công
việc chuẩn bị về nhận thức và tinh thần cho cách mạng. Một số lớn tác phẩm
của Nguyễn Công Hoan khi đi vào quần chúng, đã đạt được những hiệu quả
cách mạng này.
Ngay từ khi sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Công Hoan đương
thời trong thời kỳ phát triển, Đảng đã đánh giá đúng giá trị và tác dụng của các
tác phẩm của ông. Một trong những nhà lý luận phê bình đầu tiên của Đảng,
nhà văn Hải Triều đã giới thiệu tập truyện “Kép Tư Bền” của Nguyễn Công
Hoan và cho rằng qua nhân vật đó, nhà văn đã phát biểu quan niệm của Đảng.
Từ đó, Đảng luôn luôn ân cần theo dõi, biểu dương và, khi cần thiết, phê bình,
giúp đỡ nhà văn Nguyễn Công Hoan trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Hiện nay, công việc nghiên cứu về nền văn học nước ta trước Cách mạng
đang đang được quan tâm triển khai. Trong nền văn học ấy, Nguyễn Công
32
Hoan đã có sự đóng góp rất quan trọng và đã đem lại nhiều kinh nghiệm quý báu.
Bời vậy, nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Công Hoan, về toàn bộ sự nghiệp sáng
tác trong đó có nghệ thuật ngôn từ của ông là một điều bổ ích và cần thiết…
1.3. Tiểu kết
Trong Chương 1, luận văn đã xem xét hai vấn đề chính: Tổng quan tình
hình nghiên cứu và Cơ sở lí luận. Ở mục Tổng quan…, luận văn đã trình bày
các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu về cú pháp với các tác giả tiêu
biểu (khuynh hướng truyền thống, những hướng tìm tòi mới, hướng nghiên cứu
câu theo lí thuyết kết trị); đồng thời, cũng tổng thuật hình hình nghiên cứu về
câu không đầy đủ qua việc giới thiệu các quan niệm khác nhau của các tác giả
trong và ngoài nước về vấn đề này. Ngoài ra, luận văn cũng đã điểm qua tình
hình nghiên cứu về ngôn ngữ trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan; qua
đó, cho thấy đề tài này đã thu hút ý kiến của nhiều tác giả với cách nhìn nhận,
sự đánh giá sâu sắc, tinh tế về ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan từ
các góc độ, bình diện khác nhau. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về câu không đầy đủ trong Truyện ngắn
chọn lọc Nguyễn Công Hoan.
Ở mục Cơ sở lí luận, luận văn đã xác lập các khái niệm quan trọng liên
quan đến đề tài như: câu, phát ngôn, các bình diện của câu, các thành phần
câu, câu không đầy đủ; đồng thời, chỉ ra ranh giới giữa câu không đầy đủ và
câu đầy đủ có sự tỉnh lược thành phần. Luận văn cũng làm rõ các khái niệm văn
bản, liên kết văn bản là những khái niệm liên quan đến chức năng liên kết của
câu không đầy đủ
Ngoài ra, luận văn đã giới thiệu tóm tắt về Nguyễn Công Hoan và các
sáng tác của ông trong đó có Tập Truyện ngắn chọn lọc là tác phẩm được
nghiên cứu trong luận văn.
33
Chƣơng 2
CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP
2.1. Nhận xét chung
Xem xét câu không đầy đủ về ngữ pháp là xem xét ở các mặt: phương
thức cấu tạo các kiểu câu không đầy đủ, các câu không đầy đủ xét về mặt ngữ
pháp, những điều kiện (về ngữ cảnh) cho phép tạo lập câu không đầy đủ. Đây
là những vấn đề thú vị nhưng cũng rất phức tạp. Trong chương này, chúng tôi
sẽ cố gắng lần lượt làm sáng tỏ những vấn đề phức tạp này.
Để có cơ sở miêu tả câu không đầy đủ về ngữ pháp, chúng tôi đã tiến
hành thống kê câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công
Hoan. Kết quả thống kê cho thấy trong 74 truyện ngắn được in trong “Truyện
ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan có 1188 câu không đầy đủ. Phân loại 1188
câu không đầy đủ theo phương thức tạo lập và theo đặc điểm cấu tạo của từng
kiểu câu, chúng tôi thu được kết quả như trình bày ở các bảng dưới đây.
Bảng 2.1. Các kiểu câu không đầy đủ (CKĐĐ)
xét theo phƣơng thức cấu tạo
Số lƣợng, tỉ lệ Số Tỉ lệ Các Ví dụ lƣợng % kiểu CKDĐ
Rồi Ø len lén ra ngoài ao.
CKDĐ là câu tỉnh lược 1092 91,9% Đêm hôm ấy về, Ø rớt
nước mắt
CKDĐ được tạo ra bằng Chiều xẩm. 96 8,1% phép tách câu Để ngài điểm.
Tổng số 1188 100%
34
Bảng 2.2. Các kiểu câu không đầy đủ (CKĐĐ) là câu tỉnh lƣợc
Số lƣợng, tỉ lệ Số Tỉ lệ Các Ví dụ lƣợng % kiểu CKDĐ
Mặc kệ, Ø bảo mãi
chẳng nghe. Câu tỉnh lược CN 764 69,97% Ø Vào ăn cơm với tôi
cho vui nhé.
Năm phút Ø. Câu tỉnh lược VN 72 6,60% Mười phút Ø.
Ø Ø Không sai một phút Câu tỉnh lược CN, VN 76 6,96% Ø Ø Mạnh vào một tí.
Ai đuổi Ø hộ tôi. Câu tỉnh lược BN 51 4,67% Nó ăn Ø.
Rồi Ø thu thu Ø vào trong
bọc. Câu tỉnh lược CN, BN 65 5,95% Rồi Ø giơ thẳng cánh tay,
ném Ø xuống nước.
Ø Ø Ø Không tiếc tay.
Câu tỉnh lược CN, VN, BN 52 4.76% Ø Ø Ø Cả bằng đòn càn,
đòn gánh.
Mặt mũi Ø thì đen đủi.
Câu tỉnh lược ĐN 12 1,09% Tính tình Ø hiền lành,
chất phác.
Tổng số 1092 100%
35
Bảng 2.3. Các kiểu câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng phép tách câu
Số lƣợng, tỉ lệ Số Các Tỉ lệ % Ví dụ lƣợng kiểu CKDĐ
Đã bớt tanh. Đã bớt ồn ào.. Câu là VN được tách ra 25 26,04% Rồi lên giường đắp chăn.
Câu là BN được tách ra 0 0%
Sáng mùng một tết. Câu là TrN được tách ra 45 46,87% Để ngài điểm.
Câu là ĐN được tách ra 0 0%
Vì nó đói quá. Câu là vế câu được tách ra 26 27, 09% Nhưng nó chẳng quan tâm.
Tổng số 96 100%
Trên cơ sở kết quả thống kê và phân loại sơ bộ trên đây, chúng tôi tiến
hành miêu tả từng kiểu câu không đầy đủ.
2.2. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng phép tỉnh lƣợc
Hiện nay thuật ngữ lược bỏ (tỉnh lược) thường được dùng theo hai nghĩa:
lược bỏ như là một thủ pháp hình thức được nhà nghiên cứu dùng trong ngữ
pháp cải biến và lược bỏ (tỉnh lược) như là một thủ pháp nghệ thuật được người
viết sử dụng trong tạo lập văn bản.
2.2.1. Xác định câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược
Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược (dưới đây sẽ gọi gọn
là câu tỉnh lược) là câu không đầy đủ trong đó có hiện tượng tỉnh lược một hay
một số thành phần bắt buộc (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ và định ngữ chỉ danh từ
chỉ bộ phận bất khả li).
36
Như đã chỉ ra trên đây, trong luận văn này, thủ pháp tỉnh lược (phép tỉnh
lược) với tư cách là thủ pháp được các tác giả dùng trong tạo lập văn bản, được
phân biệt với thủ pháp lược bỏ với tư cách là một trong các thủ pháp hình thức
(thủ pháp cải biến) được dùng trong nghiên cứu ngữ pháp (chủ yếu là nghiên
cứu câu). Với tư cách một thủ pháp trong tạo lập văn, thủ pháp tỉnh lược được
tác giả (thường là nhà văn) sử dụng khi đặt câu nhằm mục đích ngữ pháp (liên
kết câu) hay mục đích tu từ (tạo sự ngắn gọn, tiết kiệm, dồn nén thông tin) mà
kết quả thu được là những câu tỉnh lược thành phần. Ví dụ: (1) “Nó choàng
dậy. Ø Lại bắt đầu lo.”. Với tư cách là một thủ pháp hình thức được dùng trong
nghiên cứu câu, thủ pháp lược bỏ thường được hiểu là một thao tác cú pháp cơ
bản trong ngữ pháp cải biến mà điều kiện để dùng cải biến lược bỏ là khả năng
khôi phục lại các yếu tố lược bỏ.
Như vậy, tỉnh lược là thủ pháp dùng trong tạo lập văn bản, còn lược bỏ là
thủ pháp được dùng trong nghiên cứu, phân tích văn bản.
Từ góc độ tạo lập văn bản, tỉnh lược thường gắn với chức năng liên kết
văn bản. Vì vậy, khi xác định các phép liên kết; Trần Ngọc Thêm coi tỉnh lược
là một trong các phép liên kết.
Từ góc độ tạo lập văn bản, tỉnh lược được chia thành hai loại: tỉnh lược có
chức năng liên kết văn bản và tỉnh lược không có chức năng liên kết văn bản.
Theo Trần Ngọc Thêm, loại tỉnh lược có chức năng liên kết văn bản phải
có hai điều kiện:
- Yếu tố tỉnh lược cần thiết cho việc hiểu nội dung của phát ngôn (câu).
- Việc khôi phục lại yếu tố tỉnh lược phải dựa vào một phát ngôn khác gần đó
(vì yếu tố đó có mặt trong phát ngôn ấy) [40, 100].
Thuộc về kiểu tỉnh lược có chức năng liên kết là kiểu tỉnh lược ở ví dụ
(1) hoặc ở câu (2) Nó gật giúi dụi. Mấy lần Ø suýt ngã. (Phành phạch, tr.380)
Thuộc về kiểu không có chức năng liên kết là kiểu tỉnh lược thường gặp
trong tục ngữ như: “Ø Ăn quả Ø nhớ kẻ trồng cây. Ø Biết thì thưa thốt, Ø
37
không biết dựa cột mà nghe.” Cũng có thể kể vào kiểu tỉnh lược không có chức
năng liên kết là tỉnh lược chủ ngữ bên những vị ngữ là động từ chỉ hoạt động
khái quát (có thể, cần phải, nên, thấy) ứng với chủ thể là ta, chúng ta, người ta.
Chẳng hạn, trong truyện “Răng con chó của nhà tư sản” có câu (3) Khi ô tô
chưa đỗ hẳn thì Ø đã thấy con chó nhảy vọt từ trên xuống đất, ngoe nguẩy
đuôi, vừa sủa, vừa chồm lên hai người vừa bước xuống.”. Câu này có sự tỉnh lược
chủ ngữ ở trước động từ thấy nhưng việc khôi phục chủ ngữ (người ta) không thể
và không cần “dựa vào phát ngôn gần đó” như Trần Ngọc Thêm chỉ ra.
Đối với kiểu tỉnh lược có chức năng liên kết, yếu tố tỉnh lược được gọi là
lược tố (kí hiệu là Ø). Phát ngôn (câu) chứa lược tố được gọi là kết ngôn. Phát
ngôn làm cơ sở cho việc khôi phục lược tố được gọi là chủ ngôn, yếu tố tương
ứng lược tố được gọi là chủ tố. [40, 160].
Trong luận văn này, chúng tôi sẽ sử dụng các thuật ngữ trên đây để miêu
tả hiện tượng tỉnh lược thành phần câu và câu tỉnh lược thành phần. Riêng thuật
ngữ phát ngôn mà Trần Ngọc Thêm sử dụng, trong phần lớn trường hợp, sẽ
được thay bằng thuật ngữ câu.
2.2.2. Vấn đề phân biệt câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược
với câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu
Trong việc nghiên cứu câu không đầy đủ (trong đó có việc phân loại câu
không đầy đủ theo phương thức cấu tạo), điều khiến chúng tôi băn khoăn nhiều
là ranh giới giữa câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược (câu tỉnh
lược) và câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu (câu vốn là thành
phần, bộ phận câu được tách ra). Theo Diệp Quang Ban, sự khác nhau chủ yếu
giữa hai kiểu câu này là ở khả năng khôi phục lại thành phần bị lược bỏ hay
thiếu vắng trong câu. Khảo sát trên cứ liệu “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn
công Hoan, chúng tôi gặp những trường hợp có thể luận giải theo cả hai khả
năng. Chẳng hạn, thử xem xét các trường hợp sau đây.
(4) (Họ lại tức dữ.) Lại cho thêm một trận nữa. (Thằng ăn cắp, tr.116)
38
(5) (Anh cứ hát.) Hết sức hát. Gò ngực mà hát. Há miệng ra mà hát. (Anh Xẩm,
tr.330-331)
(6) (Đến nơi, cô xổ khăn ra.) Lấy lược chải lại đầu tóc. Rồi rẽ đường ngôi. Rồi
uốn lại tóc cho cong xuống…(cô Kếu, gái tân thời, tr.149).
(7) (Bà giúi vào nó một cái thật mạnh.) Rồi lại nằm xuống. (Phành phạch,
tr.380)
Trong ví dụ (4), câu thứ hai, xét theo phương thức cấu tạo, có thể hiểu
theo hai cách:
- Coi là câu tỉnh lược chủ ngữ. Theo cách hiểu này, có thể bổ sung chủ
ngữ bị tỉnh lược vào. Ví dụ: Họ lại tức dữ. Họ lại cho thêm một trận nữa.
- Coi là câu vốn là vị ngữ đồng loại được tách ra. Theo cách hiểu này, có
thể nhập câu thứ hai vào câu thứ nhất. Ví dụ: Họ lại tức dữ, lại cho thêm một
trận nữa.
Trong ví dụ (5), các câu từ thứ hai đến thứ tư cũng có thể luận giải theo
hai cách:
- Coi đây là những câu tỉnh lược chủ ngữ. Theo cách luận giải này, có thể
khôi phục lại chủ ngữ ở những câu đang xem xét như sau: Anh cứ hát. Anh hết
sức hát. Anh gò ngực mà hát. Anh há miệng ra mà hát.
- Coi đây là những câu vốn là vị ngữ đồng loại được tách ra. Theo cách
luận giải này, có thể chuyển những câu đang xem xét thành vị ngữ đồng loại
của câu đầy đủ đứng trước. Ví dụ: Anh cứ hát, hết sức hát, gò ngực mà há, há
miệng ra mà hát.
Đối với các ví dụ (6), (7), những câu đứng sau câu đầu đều có khả năng
luận giải theo hai cách tương tự, như với những câu ở ví dụ (4), (5). Chẳng hạn, ở
ví dụ (6), đối với câu đứng sau, có thể thực hiện một trong hai khả năng tái lập:
- Khôi phục lại chủ ngữ ở hai câu sau: “Đến nơi, cô xổ khăn ra. Cô lấy lược
chải lại đầu tóc. Rồi cô rẽ đường ngôi. Rồi cô uốn lại tóc cho cong xuống”. Sự
39
khôi phục chủ ngữ phù hợp với cách luận giải coi hai câu sau là câu tỉnh lược
chủ ngữ.
- Chuyển hai câu sau thành vị ngữ đồng loại của câu thứ nhất. Ví dụ: Đến nơi,
cô xổ khăn ra, lấy lược chải lại mái, rồi rẽ đường ngôi, rồi uốn lại tóc cho cong
xuống. Sự khôi phục này phù hợp với cách luận giải coi hai câu sau là câu vốn
là vị ngữ đồng loại được tách ra.
Sự phân tích trên đây cho thấy mặc dù cần thiết và có cơ sở phân biệt câu
tỉnh lược với câu tách thành phần (câu dưới bậc) như Diệp Quang Ban chỉ ra
nhưng cũng cần thừa nhận rằng ranh giới giữa hai loại câu này không phải luôn
được thể hiện rõ ràng, dứt khoát. Do đó, trên thực tế, việc xác định, phân biệt
rạch ròi hai loại câu này là điều rất khó thực hiện. Trong luận văn này, đối với
trường hợp có hai khả năng luận giải và tái lập kiểu như trên đây, theo chúng
tôi, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xem xét, chọn giải pháp. (Nếu
việc khôi phục lại yếu tố được giả định là bị tỉnh lược tạo nên những câu không
tự nhiên, bình thường thì nên coi đó là phép tách câu).
2.2.4. Các kiểu câu tỉnh lược
2.2.4.1. Câu tỉnh lược chủ ngữ
a) Nhận xét chung
Câu tỉnh lược chủ ngữ là câu trong đó có sự lược bỏ chủ ngữ bậc câu
(chủ ngữ bậc 1, tức là chủ ngữ của cụm chủ vị nòng cốt). Sở dĩ cần nói rõ như
trên đây là vì không phải mọi trường hợp lược bỏ chủ ngữ đều dẫn đến hệ quả
là câu không đầy đủ (Chẳng hạn, ở câu: “Thị cười vì Ø nghĩ đến đàn con.”, mặc
dù có sự tỉnh lược chủ ngữ ở trước động từ nghĩ đến (là trạng ngữ) nhưng điều
đó không dẫn đến đến sự xuất hiện của câu không đầy đủ.
Kết quả khảo sát về câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc”
Nguyễn Công Hoan cho thấy, câu tỉnh lược chủ ngữ là kiểu câu tỉnh lược phổ
biến nhất (chiếm 69,97% tổng số câu tỉnh lược).
40
Ví dụ:
(8) (Bọn bán hàng nhốn nháo.) Ø Chạy tứ tung. (Thằng ăn cắp, tr.114)
(9) (Bà ấy chạy sau rốt. Áo lấm. Khăn xổ. Tóc rũ.) Ø Ngửa mặt lên trời mà kêu.
(Thằng ăn cắp, tr.114)
(10) (Nó vẫn chạy như quàng cả hai chân lên vai.) Ø Chạy hăng quá.
(Thằng ăn cắp, tr.115)
(11) (Song anh vẫn hát, hát một mình…) Và thỉnh thoảng Ø lại giục: (Anh Xẩm,
tr.330)
(12) (Ngày ấy, nó mới lên ba.) Ø Chẳng biết gì thương cậu nó cả, Ø chỉ biết
thương mợ mà thôi. (Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn, tr.62).
Tính phổ biến của hiện tượng lược chủ ngữ có những nguyên nhân khác
nhau trong đó có nguyên nhân thuộc về chính đặc điểm của thành phần câu
này. Như đã biết, chủ ngữ là một trong các thành phần bắt buộc của câu (cùng
với vị ngữ, bổ ngữ). Tuy nhiên, chủ ngữ khác với vị ngữ ở chỗ, nếu vị ngữ là
thành phần chính duy nhất thì chủ ngữ chỉ là thành phần phụ như bổ ngữ. Điều
này giải thích vì sao chủ ngữ dễ lược bỏ hơn vị ngữ (câu tỉnh lược vị ngữ chỉ
chiếm 6,6%). Chủ ngữ khác với bổ ngữ ở chỗ tuy đều là thành phần phụ bắt
buộc của câu nhưng chủ ngữ phổ biến hơn bổ ngữ. Chủ ngữ có khả năng xuất
hiện bên bên tất cả các vị ngữ - vị từ (gồm vị ngữ là vị từ nội hướng và vị ngữ
là vị từ ngoại hướng), còn bổ ngữ chỉ có khả năng xuất hiện bên vị ngữ là vị từ
ngoại hướng. Vì câu có chủ ngữ phổ biến hơn (gồm tất cả các kiểu câu) câu có
bổ ngữ nên hiện tượng lược bỏ chủ ngữ phổ biến hơn hiện tượng lược bỏ bổ
ngữ là điều dễ hiểu.
Do tính phổ biến của câu tỉnh lược chủ ngữ nên luận văn sẽ dành sự quan
tâm nhiều hơn cho kiểu câu tỉnh lược chủ ngữ.
Câu tỉnh lược chủ ngữ là phạm trù không thuần nhất. Dưới đây là một số
kiểu câu tỉnh lược chủ ngữ thường gặp:
a) Câu tỉnh lược chủ ngữ với văn cảnh gần và văn cảnh gần xa.
-Tỉnh lược chủ ngữ với văn cảnh gần
41
Trong trường hợp này, chủ ngôn (câu chứa chủ tố) và kết ngôn (câu chứa
lược tố) là hai câu (phát ngôn) đứng liền nhau.
Ví dụ:
(13) (Cái áo ấy có hai công dụng.) Ø Vừa để che cái thân khẳng khiu, cho khỏi
rõ những mạch máu và bộ xương sườn vừa để che tạm thời các thứ lấy cắp.
(Bữa no …đòn, tr.233).
(14) (Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.) Nhưng lần
này thì thật là Ø không buồn bước nữa. (Người ngựa và ngựa người, tr.58)
- Tỉnh lược chủ ngữ với văn cảnh xa
Trong trường hợp này, chủ ngôn và kết ngôn đứng cách xa nhau.
Ví dụ:
(15) (Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng chinh và bát cơm nguội. Bát cơm
ấy chưa đủ để bù vào chỗ nhịn hôm qua. Nhưng thôi làm quái gì cái vặt.) Ø Ăn
không ra bữa đã quen từ thuở bé.
Trong ví dụ (15), câu tỉnh lược chủ ngữ (nó) không liền sau câu là chủ
ngôn (có chứa chủ tố) mà bị ngăn cách bởi hai câu.
Có trường hợp chủ ngôn và kết ngôn đứng cách xa nhau 10 câu.
Ví dụ:
(16) (Trong khi chờ, khán giả cười to, nói lớn, nhổ bậy hoặc cãi nhau…).
Người ta xuỵt, người ta hét im nhưng ở cuối rạp Ø vẫn cười to, nói lớn, vẫn
nhổ bậy, cãi nhau. (Đào kép mới, tr.300)
Trong ví dụ (16), chủ ngôn (câu thứ nhất) đứng cách xa kết ngôn (câu
thứ hai) hơn 10 câu. Phù hợp với điều đó, chủ tố (khán giả) cũng đứng cách xa
lược tố 10 câu.
b) Tỉnh lược chủ ngữ với chủ tố hiện diện và khiếm diện (chủ tố ẩn)
-Tỉnh lược chủ ngữ với chủ tố hiện diện.
Trong trường hợp này, chủ tố và câu chứa nó (chủ ngôn) có sự hiện diện
trong phần văn bản ở trước câu tỉnh lược (kết ngôn).
42
Ví dụ:
(17) (Nó cần sống ngày hôm nay, về buổi chợ này.) Mà Ø chưa ăn cắp được
thứ gì. (Bữa no … đòn, tr.234)
(18) (Thì nó liều.) Ø Liều chết để sống. (Bữa no … đòn, tr.234)
Chủ tố ở ví dụ (17) và (18) có sự hiện diện và đều là nó.
Trong trường hợp chủ tố có sự hiện diện như trên đây, việc xác định và
khôi phục lại lược tố sẽ thuận lợi.
- Tỉnh lược chủ ngữ với chủ tố khiếm diện (chủ tố ẩn)
Trong trường hợp này, chủ tố và câu chứa nó (chủ ngôn) không hiện diện
trong văn bản.
Chẳng hạn, thử xem xét các ví dụ sau:
(19) (Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi
hàng chục người.). Rồi Ø không đếm được bao nhiêu người nữa. (Thằng ăn cắp,
tr.114)
(20) (Bà ấy mệt quá.) Ø Không biết mất cái khăn, đôi khuyên hay năm đồng bạc?
Ø không biết bị nó đánh có đau không? Ø Chờ bà ấy đến sẽ rõ. (Thằng ăn cắp,
tr.117)
Trong ví dụ (19) có hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ bên vị ngữ (không đếm
được) nhưng chủ tố và chủ ngôn không xuất hiện trong văn bản. Trong trường
hợp này, việc xác định chủ tố (khiếm diện), phải căn cứ vào sự suy đoán dựa
theo ngữ cảnh. Chẳng hạn, có thể cho rằng chủ tố khiếm diện ở đây là “người
ta”. (Theo đó, có thể khôi phục lại lược tố như sau: Rồi người ta không đếm
được bao nhiêu người nữa.)
Ở ví dụ (20), có ba câu tỉnh lược chủ trong đó hai câu lược chủ ngữ trước
vị ngữ là “không biết” còn câu sau lược chủ ngữ trước vị ngữ là “chờ”. Chủ tố
tương ứng với lược tố (chủ ngữ tỉnh lược) ở các câu trên đây không hiện diện
trong văn bản. Câu hỏi đặt ra ở đây là: Ai không biết? Ai chờ? Chỉ bằng sự suy
đoán dựa vào ngữ cảnh, ta mới có thể xác định được chủ tố để có cơ sở khôi
phục lại lược tố (chủ ngữ tỉnh lược). Chẳng hạn, đối với hai câu đầu, có thể cho
43
rằng chủ tố ẩn là “người ta.” Với câu sau, có thể xác định một cách tương đối
chủ ngữ ẩn là ta (chúng ta / mọi người).
c) Tỉnh lược chủ ngữ đồng chức năng và chuyển chức năng
- Tỉnh lược chủ ngữ đồng chức năng
Trong trường hợp này, chủ tố (yếu tố là cơ sở) và lược tố (chủ ngữ tỉnh
lược) có cùng chức năng cú pháp.
Ví dụ:
(21) (Chẳng bao lâu, nó nhớ lại cảnh mình. Bỗng nó đâm liều). Chẳng liều Ø
cũng chẳng làm thế nào được (Thế cho nó chừa, tr.249)
(22) (Và sau khi đã hiến hết các bài anh thuộc, anh ngồi im lặng để chờ và
nghe). Sau hết, Ø sờ tay vào lòng thau không để vét. (Anh Xẩm, tr.331)
(23) (Thỉnh thoảng anh ta lại dỏng tai quay cổ, xem có ai gọi ở đằng xa không.)
Thì Ø chỉ thấy đánh đét, lòe một cái ở giữa đường, làm cho anh giật mình đánh
thót. (Người ngựa và ngựa người, tr.53)
Trong những ví dụ vừa dẫn, chủ tố và lược tố đều có cùng chức năng
chủ ngữ.
Ở ví dụ (21), chủ tố và lược tố là nó và đều là chủ ngữ. Ở các ví dụ (22),
(23), chủ tố và lược tố đều là anh và đều là chủ ngữ.
- Tỉnh lược chủ ngữ chuyển chức năng
Trong trường hợp này, chủ tố và lược tố không cùng chức năng.
Ví dụ:
(24) (Con cắn cỏ cắn rác, lạy các ông các bà, con chừa rồi.) Ø Đừng bắt con bỏ
bóp. (Thế cho nó chừa, tr.245)
(25) (Tao chúa ghét loại thi sĩ như mày). Ø Chỉ biết sống mơ mộng (Cái tết của
những đại văn hào, tr.569)
Trong câu (24) chủ tố là các ông, các bà (giữ chức bổ ngữ sau động từ
lạy), còn lược tố giữ chức năng chủ ngữ (bên động từ - vị ngữ bắt). Như vậy,
đã có sự chuyển chức năng từ bổ ngữ sang chủ ngữ.
44
Trong câu (25), chủ tố là loại thi sĩ như mày giữ chức năng bổ ngữ, còn
lược tố lại giữ chức năng chủ ngữ, tức là cũng có kiểu tỉnh lược chuyển chức
năng (từ bổ ngữ sang chủ ngữ).
d) Tỉnh lược chủ ngữ đơn và tỉnh lược chủ ngữ phức
- Tỉnh lược chủ ngữ đơn
Ở kiểu tỉnh lược này, chỉ có một lược tố, tức là một chủ ngữ bị tỉnh lược.
Ví dụ:
(26) (Sở mật thám đã phái người đi dò la.) Nhưng Ø tuyệt vẫn chưa thấy gì.
(Ông chủ báo chẳng bằng lòng, tr.75)
(27) (Bạch Nhạn nó mặc tân thời lắm). Ø Thử cởi cái quần thâm ra xem nào.
(Cô Kếu, gái tân thời, tr.148)
(28) (Khách đến dự tiệc, toàn là hạng ông nọ, ông kia, danh giá mà ông chủ nói
là chỗ thân tình.) Cho nên Ø cố mời cho kì được. (Báo hiếu: trả nghĩa cha,
tr.118)
- Tỉnh lược chủ ngữ phức
Ở kiểu tỉnh lược này, có từ hai lược tố trở lên, tức là có ít nhất hai chủ
ngữ bị tỉnh lược.
Ví dụ:
(29) (Bà ấy mệt quá.) Ø Không lê được một bước. Ø Không kêu được một
tiếng. Cơ chừng Ø tiếc của. Cơ chừng Ø hết sức. Cơ chừng Ø hết hơi. (Thắng
ăn cắp, tr.117)
(30) (Anh cứ hát.) Ø Hết sức hát. Gò ngực mà hát. Ø Hát như con cuốc kêu
thương. (Anh Xẩm, tr.330-331)
Trong ví dụ (29), có năm câu tỉnh lược chủ ngữ liên tiếp (năm kết ngôn)
và phù hợp với điều đó, có có năm lược tố hay có năm chủ ngữ (bà) bị tỉnh
lược. Kiểu tỉnh lược này được gọi là tỉnh lược phức.
Trong ví dụ (30), có có ba kết tố và ba lược tố, tức là ba chủ ngữ bị tỉnh
lược. Trên đây là trường hợp tỉnh lược chủ ngữ phức .
45
2.2.4.2. Câu tỉnh lược vị ngữ
Hiện tượng tỉnh lược vị ngữ không phổ biến như hiện tượng tỉnh lược
chủ ngữ (chỉ chiếm 6,6%). Lí do của điều này đã được chỉ ra ở mục trình bày
về hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ. Hiện tượng tỉnh lược vị ngữ cũng không
phong phú, phức tạp về kiểu loại như hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ. Sự khảo sát
cho thấy sự tỉnh lược vị ngữ thường diễn ra trong các trường hợp sau:
1) Khi vị ngữ chỉ sự diễn tiến (trôi qua) của thời gian.
Ví du:
(31) (Nó vẫn ăn. Ngon quá.)
Năm phút… Ø
Mười phút… Ø (Thằng ăn cắp, tr.113-114)
(32) (Đường lên huyện không xa, chẳng rõ vì sao lại có sự chậm chạp thế này
được.) Nhưng một giờ Ø. Lại hai giờ Ø. Rồi nửa tháng. Lại một tháng Ø.
(Ngậm cười, tr.281 ).
(33) Rồi nữa, một tháng, hai tháng Ø. (Ngậm cười, tr.281).
Trong những câu (31), (32), (33) vị ngữ tỉnh lược cần được hiểu là (trôi qua).
2) Khi vị ngữ chỉ những hành động nối tiếp nhau nhưng thuộc về các chủ thể
khác nhau:
Ví dụ:
(34) (Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó.)
Rồi ba bốn người, sáu bảy người Ø (Thằng ăn cắp, tr.114)
Trong câu (34) vị ngữ tỉnh lược là “đuổi theo”.
3) Khi vị ngữ là động từ chỉ hoạt động sở hữu (vừa có ý nghĩa tồn tại), có tác
dụng miêu tả sự có mặt của một loạt sự vật, hiện tượng.
(35) (Nó thu một tay vào bọc, méo mồm, nhăn mặt gãi quai hàm, sai mắt đi do
thám) Hàng nồi: Ø đất. Hàng lưỡi cày: Ø sắt. Hàng thợ cao treo cái gương tư
mã trên thân cây: Ø lách tách, tóc. Hàng thợ may, ông phó may máy “pho”: Ø
giẻ. (Bữa no…đòn)
46
Trong câu (35) vị ngữ tỉnh lược cần được hiểu là “chỉ có”.
4) Khi vị ngữ chỉ hoạt động tiêu biến
Ví dụ (36) (Thằng ranh con ngày trước nó vừa lảng vảng ở đây.) Vụt một
cái bây giờ cả nó lẫn tấm bánh… Ø (Thằng ăn cắp)
2.2.4.3. Câu tỉnh lược bổ ngữ
Câu tỉnh lược bổ ngữ chiếm 4.67% trong số câu tỉnh lược thành phần
bắt buộc.
Thường gặp là những kiểu tỉnh lược bổ ngữ sau:
1) Tỉnh lược bổ ngữ với văn cảnh gần và xa
a) Tỉnh lược bổ ngữ với văn cảnh gần
Ở kiểu tỉnh lược này, chủ ngôn và chủ tố đứng gần kết ngôn và lược tố.
Ví dụ:
(37) (Thằng ăn cắp.). Ai đuổi Ø hộ tôi! (Thằng ăn cắp, tr.114)
(38) (Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt). Nó đỡ được Ø, bỏ Ø vào mồm
nhai gau gáu. (Thằng ăn cắp, tr.113)
(39) (Nó nói với bà bán bún riêu):
- Bán bán cho cháu một bát Ø (Thằng ăn cắp, tr.113)
(40) (Dại gì mà tha thằng ăn cắp?) Họ càng ghét Ø túm lại đánh Ø như mưa.
(Thằng ăn cắp, tr.116)
(41) (Bà ấy vồ lấy nó, vả lấy, vả để.) Bà ấy đánh Ø cứ tưởng mạnh… (Thằng
ăn cắp, tr.117)
b) Tỉnh lược bổ ngữ với văn cảnh xa
Ở kiểu tỉnh lược này, chủ ngôn và chủ tố ở cách xa kết ngôn và lược tố
(bổ ngữ bị lược bỏ).
Ví dụ:
(42) (Đôi giày của cụ như thế nào hở cậu?
- Mới nguyên, kiểu Gia Định, đế cờ - lếp, mua những ngót ba đồng!)
47
Hỏi xong, nhà chủ sai người đi tìm Ø khắp mọi nơi: sau nhà, bờ giậu, xó
bếp, ngoài vườn, chuồng trâu, cũi chó ... Càng không thấy Ø, chủ nhà càng lo.
(Cụ Chánh Bá mất giày, tr.142)
Trong ví dụ (42), chủ tố (đôi giày) và câu chứa nó (chủ ngôn) đứng cách
kết ngôn và lược tố một câu hoặc hai câu.
2) Tỉnh lược bổ ngữ đồng chức năng và chuyển chức năng
a) Tỉnh lược bổ ngữ đồng chức năng
Ở kiểu tỉnh lược này, chủ tố và lược tố có chức năng giống nhau.
Ví dụ:
(43) (Nó đưa phắt củ khoai lên mồm, ngoạm một miếng tướng đại...) Nó nuốt
lấy nuốt để Ø. (Bữa no... đòn, tr.235)
Trong ví dụ (43), chủ tố (củ khoai) và lược tố (miếng khoai) có cùng
chức năng bổ ngữ.
b) Tỉnh lược bổ ngữ chuyển chức năng
Ở kiểu tỉnh lược này, chủ tố và lược tố (bổ ngữ bị lược bỏ) không thuộc
cùng một kiểu chức năng. Đây là kiểu tỉnh lược bổ ngữ khá phổ biến.
Ví dụ:
(44) (Miếng khoai trôi xuống, cổ nó phình ra.) Nó lại vội vàng ngoạn miếng Ø
nữa, nhai ngấu nghiến. (Bữa no... đòn, tr.235-236)
(45) (Một thằng chạy.) Mấy trăm người đuổi Ø. (Thằng ăn cắp, tr.114)
(46) (Nó lạy! Nó van!) Nhưng ai tha Ø (Thằng ăn cắp, tr.116)
(47) (Cụ ngồi một mình giữa sập và xơi riêng một mâm rượu đầy tú ụ). Nhà
chủ không dám ghép ai ngồi hầu Ø mà cũng chẳng ai dám ngồi hầu Ø. (Cụ
Chánh Bá mất giày, tr.tr.141)
(48) (Cho đáng kiếp. Nó giật đôi khuyên vàng của người ta!)
Họ lại đánh Ø túi bụi, không tiếc tay. (Thằng ăn cắp, tr.116)
Trong ví dụ (44) chủ tố (củ khoai) giữ chức năng chủ ngữ còn lược tố
của động từ ngoạm (miếng khoai) lại giữ chức năng bổ ngữ. Trong ví dụ (45),
48
chủ tố (một thằng) giữ chức năng chủ ngữ (xét trong mối quan hệ với vị ngữ
chạy), còn lược tố (đứng sau động từ đuổi) lại giữ chức năng bổ ngữ. Như vậy,
ở các ví dụ (44), (45) đã có kiểu tỉnh lược bổ ngữ chuyển chức năng. Nếu tiếp
tục phân tích các ví dụ (46), (47), ta thấy cũng có kiểu tỉnh lược bổ ngữ chuyển
chức năng.
3) Tỉnh lược bổ ngữ đơn và tỉnh lược bổ ngữ phức
a) Tỉnh lược bổ ngữ đơn
Ở kiểu tỉnh lược này, chỉ có một lược tố, tức là một bổ ngữ bị tỉnh lược
lược tố
Ví dụ:
(49) (Nó bị đánh túi bụi). Nhưng nó chẳng quan tâm Ø. (Bữa no…đòn, tr.236)
(50) (Người ta đến càng đông…) Người ta phang Ø cho sướng tay. (Bữa
no…đòn, tr.236)
(51) (Người ta móc mồm nó, gang họng nó). Nó cố ghì, nhất định không nhả Ø.
(Bữa no…đòn, tr.236)
(52) (Bà ấy múc cho nó một bát đầy). Nó ăn Ø. (Thằng ăn cắp, tr.113)
Trong mỗi ví dụ trên đây đều chỉ có một lược tố (một bổ ngữ bị tỉnh lược).
b) Tỉnh lược bổ ngữ phức
Ở kiểu tỉnh lược này, có hai lược tố (bổ ngữ bị tỉnh lược) trở lên.
(53) (Nó mở mắt ra nhìn.) Họ lại uỵch Ø. Họ lại thụi Ø. Họ lại tát Ø. Họ lại
đá. Ø (Thằng ăn cắp, tr.116)
Trong ví dụ (53), có bốn kết ngôn, đồng thời, cũng có bốn lược tố (bốn
bổ ngữ bị tỉnh lược) sau các động từ ngoại động: uỵch, thụi, tát, đá.
2.2.4.4. Câu tỉnh lược chủ ngữ, vị ngữ
Kiểu tỉnh lược này không phổ biến (chỉ chiếm 6,96%) và cũng không
phức tạp về kiểu loại như tỉnh lược chủ ngữ, bổ ngữ.
Ví dụ:
(54) (Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín). Ø Ø
Chín hào. (Người ngựa và ngựa người, tr.56)
49
(55) Y hẹn... ). Ø Ø Không sai một phút (Thanh! Dạ!, tr.239)
(56) Bà nằm sấp, chân co, chân duỗi, úp mặt xuống, nhắm mắt sẵn, thỉnh
thoảng giục;)
- Ø Ø Mạnh vào một tí. (Phành phạch, tr.379)
Trong ví dụ (54), chủ ngữ, vị ngữ bị tỉnh lược là “ta sẽ có” (Ta sẽ có
chín hào.)
Trong ví dụ (55), chủ ngữ, vị ngữ bị tỉnh lược là “chúng tôi đến” (Chúng
tôi đến không sai một phút.)
Trong ví dụ (56), chủ ngữ, vị ngữ bị tỉnh lược là mày quạt (Mày quạt
mạnh vào một tí.).
5) Tỉnh lược chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ
Kiểu tỉnh lược này ít gặp (chỉ chiếm 4.76%).
Ví dụ:
(57) (Nó mở mắt ra nhìn. Họ lại uỵch. Họ lại thụi. Họ lại tát. Họ lại đá.) Ø Ø Ø
Không tiếc tay (Thằng ăn cắp, tr.116)
Trong ví dụ này, có sự tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ lẫn bổ ngữ (Họ đánh
nó không tiếc tay.)
(58) Ø Ø Ø Vẫn cẳng chân. Ø Ø Ø Vẫn cẳng tay. Ø Ø Ø. Vẫn đòn càn. Ø Ø Ø
0 Vẫn đòn gánh. (Bữa no…đòn, tr.236)
Ở ví dụ (58), những câu tỉnh lược đều có dạng cấu tạo chỉ có thành phần
trạng ngữ, còn chủ ngữ (họ), vị ngữ (đánh), bổ ngữ (nó) đều bị tỉnh lược (khôi
phục: Họ vẫn đánh nó bằng cẳng chân. Họ vẫn đánh nó bằng cẳng tay. Họ vẫn
đánh nó bằng đòn càn. Họ vẫn đánh nó bằng cả đòn gánh nữa).
2.2.4.6. Câu tỉnh lược chủ ngữ, bổ ngữ
Kiểu tỉnh lược này (chiếm 5,95%).
Ví dụ:
(59) (Bà ấy kiệt sức, ôm chầm lấy nó, rồi ngã sõng soài ngay cạnh):
50
- Ø Trả Ø tao đây. ( Thằng ăn cắp, tr.117)
(60) (Anh này hiểu ý ra hiên đứng nhìn, rồi đến cạnh cụ, cúi xuống nhặt..) Rồi
Ø thu thu vào Ø trong bọc, rồi lén ra ngoài. Rồi Ø giơ thẳng cánh tay, ném
đánh tõm Ø xuống nước. (Cụ Chánh Bá mất giày, tr.141)
(61) (Rồi biết thế nguy, nó không nhai, trợn mắt lên để nuốt chửng.) Rồi Ø lại
hấp tấp ngốn luôn miếng Ø nữa. (Bữa no... đòn, tr.236)
Trong ví dụ (59, có sự tỉnh lược chủ ngữ (mày) và bổ ngữ (tiền) bên động
từ - vị ngữ trả: Mày trả tiền tao đây. Ở ví dụ (60), có sự tỉnh lược chủ ngữ) (anh
ta) và bổ ngữ (đôi giày): Rồi anh ta thu đôi giày vào trong bọc, lén ra ngoài ao.
Rồi anh ta giơ thẳng cánh tay ném đôi giày đánh tõm xuống nước.). Ở ví dụ (61),
có sự tỉnh lược chủ ngữ (nó) và bổ ngữ (khoai). Dạng đầy đủ của câu tỉnh lược
chủ ngữ, bổ ngữ ở ví dụ (61) là: Rồi nó lại hấp tấp ngốn luôn miếng khoai nữa.
2.2.4.7. Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li
Danh từ chỉ bộ phận bất khả li là các danh từ chỉ bộ phận của người hay
động vật. Chúng gắn chặt với chỉnh thể (không tách rời khỏi chỉnh thể) như:
đầu, mình, mặt, mũi, tai, mắt, chân, tay... Do sự chuyển nghĩa, danh từ chỉ bộ
phận bất khả li cũng có thể chỉ bộ phận của đồ vật hay vật thể nói chung. (Ví
dụ: đầu núi, đầu sông, mặt bàn, chân ghế).
Một trong những đặc điểm ngữ pháp của danh từ chỉ bộ phận bất khả li
là thường đòi hỏi có yếu tố là định ngữ chỉ chỉnh thể đi kèm hoặc xuất hiện
trong cùng câu hay ở gần đó.
Chẳng hạn, ở câu (62) Người ta móc mồm nó, gang họng nó.. (Bữa no...
đòn), sau các danh từ chỉ bộ phận bất bất khả li (mồm, họng) phải có định ngữ
nó thì câu mới rõ nghĩa. Như vậy, định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li
được coi là thành phần bắt buộc của câu.
Trong trường hợp vắng định ngữ, cần coi đó là trường hợp tỉnh lược định
ngữ Kiểu tỉnh lược này tương đối hiếm (chỉ chiếm 1,09%).
51
Ví dụ:
(63) (Người đàn ấy chạc ngoài 60 tuổi, trông rõ quê mùa, đần ngốc.) Mặt mũi Ø
đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt Ø thì toét nhoèn những nhử. Cái
hàm trên Ø thì chìa ra như mái hiên… (Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.121)
(64) (Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này có một người
đàn bà) Lưng Ø khoác áo tơi tả. Ø Đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.
(Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.120)
Trong ví dụ (63) (có sự tỉnh lược định ngữ (bà) ở sau danh từ chỉ bộ
phận bất khả li (mặt mũi, mắt, hàm) sở dĩ định ngữ này không cần xuất hiện vì
đã có sự xuất hiện của chủ tố (người đàn bà) ở câu trước (câu là chủ ngôn).
Trong ví dụ (64) cũng có sự tỉnh lược định ngữ sau các danh từ chỉ bộ
phận bất khả li (lưng, đầu). Điều kiện của sự tỉnh lược này là sự có mặt của
danh từ chỉnh thể giữ vai trò chủ tố (người đàn bà) ở câu đứng trước.
2.2.5. Vấn đề khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược
Theo quan niệm chung về tỉnh lược thì một trong điều kiện để xác định
hiện tượng này là khả năng khôi phục lại yếu tố bị tỉnh lược.
Trong mục này, chúng tôi thử tiến hành việc khôi phục thành phần bị
lược bỏ trong một số trường hợp để một mặt, chứng minh “tính chất tỉnh lược”
của những câu được thống kê; mặt khác, cũng để làm rõ hơn phần nào tính
phức tạp của việc khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược.
1) Nguyên tắc khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược
a) Cần bảo đảm sự trung thành đối với nội dung mà tác giả muốn diễn đạt.
Theo nguyên tắc này, việc khôi phục thành phần bị tỉnh lược phải bảo
đảm không dẫn đến sự thay nội dung so với nguyên văn.
b) Cần cố gắng hạn chế, khắc phục tối đa sự trùng lặp
Theo nguyên tắc này, cần tránh sự máy móc, sự phụ thuộc cứng nhắc vào
văn cảnh mà cố gắng lựa chọn các từ để khôi phục không chỉ phù hợp với nội
dung nguyên bản mà còn phải đảm bảo sự phù hợp về ngữ nghĩa, ngữ pháp và
phong cách.
52
2) Thử nghiệm khôi phục lại thành phần chủ ngữ bị tỉnh lược
Chúng ta coi việc khôi phục chủ ngữ ở đây là việc làm mang tính “thử
nghiệm” vì đây là công việc rất khó khăn mà giải pháp khôi phục được đề xuất
chỉ là một trong các phương án có thể. Cũng cần nói ngay rằng so với những câu
tỉnh lược (biến thể tỉnh lược là sản phẩm của nhà văn), những câu đầy đủ (câu
được khôi phục các thành phần bị lược bỏ) chủ yếu chỉ có giá trị minh họa cho
một mục đích nghiên cứu như đã chỉ ra chứ không có giá trị chuẩn mực (về ngữ
pháp và về phong cách, về tu từ học) tương đương với câu tỉnh lược của nhà văn.
Khi xem xét khả năng khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược, cụ thể là chủ
ngữ, chúng tôi nhận thấy, như đã nói ở trên, đây là công việc khó khăn, phức
tạp. Sở dĩ nói như vậy là vì trước một câu tỉnh lược, không phải chỉ có một
cách hiểu và một cách khôi phục duy nhất. Chẳng hạn, thử xem xét khả năng
khôi phục của thành phần tỉnh lược trong trường hợp sau:
(65) (Ai cũng kéo cả ra đường để nhìn theo. Một thằng chạy. Mấy trăm người
đuổi...) Ø Bụi mù. (Thằng ăn cắp, tr.114)
Khi phân tích câu tỉnh lược trên đây và đưa ra cách khôi phục lại lược tố
Trần Ngọc Thêm đã viết “Công thức khôi phục tỉnh lược cho trường hợp này có
dạng: “Kết quả là N.” (Kết quả là bụi mù.). Theo cách phân tích và khôi phục này
thì chủ tố (kết quả) không hề xuất hiện ở bất kì câu nào trong phần văn bản đứng
trước. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đối với trường hợp này, còn có thể có một cách
phân tích và khôi phục khác, theo đó, coi đường ở câu trước đó là chủ tố. Với cách
hiểu này, có thể khôi phục yếu tố tỉnh lược như sau: “Đường bụi mù”.
Xem xét khả năng khôi phục chủ ngữ bị tỉnh lược, chúng tôi thấy cần
phân biệt các trường hợp chính sau:
a) Trường hợp dễ khôi phục lại chủ ngữ tỉnh lược (lược tố)
Trong trường hợp này, chủ tố đã xuất hiện ở câu (chủ ngôn) đứng trước
làm căn cứ để khôi phục lại lược tố.
Ở trường hợp này, cũng cần phân biệt được hai trường hợp cụ thể:
- Trường hợp chủ tố và lược tố trùng nhau hoàn toàn
53
Ví dụ:
(66) (Nó lạy! Nó van! Nhưng ai tha?). Ø Dại gì mà tha thằng ăn cắp?
(Thằng ăn cắp, tr.116)
Chủ ngữ tỉnh lược ở câu trên đây có thể khôi phục lại như sau: “Ai dại gì
mà tha thằng ăn cắp? Trong trường hợp này, chủ tố và lược tố trùng nhau (đều
là nó).
(67) (Nó đau quá.) Ø Nằm sóng soài, không nói được nữa. (Thằng ăn cắp,
tr.116)
Câu tỉnh lược chủ ngữ trên đây có dạng đầy đủ là: “Nó nằm sóng soài,
không nói được nữa”. Trong trường hợp này, chủ tố và lược tố cũng trùng nhau
(đều là nó).
(68) (Tôi ngẫm nghĩ.) Đêm hôm ấy về, Ø rơi nước mắt. (Tôi chủ báo, anh chủ
báo, nó chủ báo, tr.207).
Khôi phục lại chủ như tỉnh lược ở trường hợp trên, ta có câu: “Đêm hôm
ấy về, tôi rơi nước mắt.”. Đây cũng là trường hợp chủ tố và lược tố trùng nhau
(đều là tôi và đều là chủ ngữ).
(69) (Buổi tối, bà không thích đi đến những nơi thoáng khí để hóng mát.) Ø
Phải vạ mà đánh phấn, bôi môi, mà đóng áo dài vào. (Phành phạch, tr.378)
Có thể khôi phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược ở câu trên đây như sau: “ Bà
phải vạ mà đánh phấn, bôi môi, mà đóng áo dài vào.”. Trong trường hợp này,
chủ tố và lược tố cũng trùng nhau.
- Trường hợp chủ tố và lược tố không trùng nhau
Trong trường hợp này, chủ tố thường là danh từ, cụm danh từ, còn lược tố là
đại từ thay thế cho danh từ, cụm danh từ xuất hiện với cương vị như chủ tố).
Ví dụ:
(70) (Tìm mãi không thấy, hai vợ chồng nhà chủ trợn mắt, trợn mũi luống
cuống, chỉ trỏ bàn nhau.) Ø Không biết làm thế nào cho êm chuyện. (Cụ Chánh
Bá mất giày, tr.143)
54
Ở ví dụ vừa dẫn, chủ tố là “hai vợ chồng nhà chủ”. Để tránh việc lặp lại
một đoạn (cụm từ) khá dài, cần sử dụng đại từ (họ) để khôi phục lại lược tố:
“Họ không biết làm thế nào cho êm chuyện”.
(71) (Một tốp người đi, một tốp người lại.) Ø Tranh nhau đi lại, rồi mắc ngẵng
ở lối hẹp. (Bữa no …đòn, tr.232)
Ở câu vừa dẫn, không thể dùng nguyên chủ tố (một tốp người) để khôi
phục lại lược tố. Giải pháp phù hợp ở đây là sử dụng đại từ (họ) để thay thế:
“Họ tranh nhau đi lại rồi mắc ngẵng ở lối hẹp.”.
(72) (Bỗng một tràng pháo điện quang bên hàng xóm nổ, bắn những tiếng xé
mang tai làm Trần tỉnh giấc. Trần cựa.) Ø Rồi lại nằm im. (Cái tết của những
đại văn hào, tr.577)
Trong ví dụ trên đây, mặc dù có thể dùng nguyên chủ tố (Trần) để khôi
phục lại lược tố; tuy nhiên, giải pháp này sẽ dẫn đến sự lặp từ. Giải pháp hợp lí
hơn là dùng từ thay thế: “Rồi anh lại nằm im”
(73) (Trẻ con phần nhiều đãng trí, hay quên, có khi tay cầm quản bút rồi mà
mách thầy là anh nào ăn cắp.) Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay rồi lúc
hứng Ø cứ như thế đưa cả lên đầu mà gãi. (Thầy cáu, tr.210)
Ở ví dụ vừa dẫn, không thể dùng chủ tố (trẻ con) để khôi phục lại lược tố
vì sẽ tạo nên sự trùng lặp từ. Giải pháp phù hợp ở đây cũng là sử dụng, đại từ
(chúng) để khôi phục lại lược tố: “Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay rồi lúc
hứng, chúng cứ như thế đưa cả lên đầu mà gãi.”.
(74) (Và khi biết rằng chiều nay có chợ phiên to trên Bách thú, tự nhiên anh
Tiêu thấy nhẹ nhõm hẳn người.). Một hôm nay Ø kiếm bằng ba bốn ngày
thường.) (Được chuyến khách, tr.342)
Ở ví dụ (74), giải pháp phù hợp để khôi phục lược tố là dùng từ anh thay
cho anh Tiêu (là chủ tố) để khôi phục lại chủ ngữ tỉnh lược : “Một hôm nay,
anh kiếm bằng ba bốn ngày thường.”.
55
b) Trường hợp khó khôi phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược
Trong trường hợp này, chủ tố không xuất hiện ở phần văn bản đứng
trước (tức là chủ tố có tính khiếm diện). Để khôi phục lại chủ ngữ tỉnh lược ở
trường hợp này, cần có sự suy luận dựa vào ngữ cảnh (văn cảnh, hoàn cảnh,
tình huống nói năng).
Ví dụ:
(75) (Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi
hàng chục người...) Rồi Ø không đếm được bao nhiêu người nữa. (Thằng ăn cắp,
tr.114)
Trong ví dụ (75) có sự tỉnh lược chủ ngữ ở trước động từ - vị ngữ (đếm)
nhưng chủ tố không hề hiện diện ở bất kì chủ ngôn nào trước đó. Đối với
trường hợp này, có thể dựa vào sự suy đoán để xác định chủ tố là “người ta”
(chỉ những người chứng kiến sự việc nói chung). Theo sự suy đoán đó, có thể
khôi phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược ở ví dụ trên như sau: “Rồi người ta không
đếm được bao nhiêu người nữa.”.
(76) (Bà ấy mệt quá...). Ø Không biết mất cái khăn, đôi khuyên hay năm đồng bạc?
Ø Không biết bị đánh có đau không ? Ø Chờ bà ấy đến sẽ rõ. (Thằng ăn cắp,
tr.117)
Trong ví dụ (76) có ba câu tỉnh lược chủ ngữ trong đó ở hai câu đầu chắc
chắn chủ ngữ phải giống nhau (đều chỉ chủ thể) của hoạt động “không biết”);
còn ở câu sau, chủ ngữ bên động từ chờ chỉ một chủ thể khác. Nhìn chung, ở
các trường hợp trên đây, chủ tố (tương ứng với các lược tố) đều không hiện
diện trong văn bản. Vì vậy, việc khôi phục chủ ngữ bị tỉnh lược ở những câu
trên đây phải dựa vào sự phân tích, suy đoán. Bằng cách đó, có thể xác định
chủ tố khiếm diện ứng với lược tố ở hai câu đầu là “người ta”, còn chủ tổ
khiếm diện ứng với lược tố ở câu sau là ta hoặc chúng ta. Theo đó, có thể khôi
phục lại chủ ngữ bị tỉnh lược như sau: “(Bà ấy mệt quá..) Người ta không biết
56
bà ấy mất cái khăn, đôi khuyên hay năm đồng bạc. Người ta cũng không biết
bà ấy bị đánh có đau không? Chúng ta chờ bà ấy đến sẽ rõ.
2.3. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng phép tách câu
So với câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược, câu không đầy
đủ được tạo ra bằng phép tách câu có số lượng ít hơn nhiều (chỉ chiếm 8,1%).
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, câu không đầy đủ được tạo ra bằng
phép tách câu trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan chỉ gồm ba
kiểu: câu vốn là vị ngữ được tách thành câu, câu vốn là trạng ngữ được tách
thành câu và câu vốn là vế câu được tách ra thành câu.
2.3.1. Câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu
Kiểu câu không đầy đủ này rất gần với câu tỉnh lược chủ ngữ như đã chỉ
ra ở Mục 2.2. Vì vậy, trong việc xác định kiểu câu này, rất khó tránh được
những trường hợp trung gian. Sự khảo sát cho thấy ở câu không đầy đủ vốn là
vị ngữ được tách ra, vị ngữ được tách thường là vị ngữ đồng loại. Dưới đây là
một số kiểu câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu.
Ví dụ:
(77) (Chợ đã vãn dần.) Đã bớt bụi. Đã bớt tanh. Đã bớt hơi người. Đã bớt chen
chúc. (Bữa no ... đòn, tr.234)
Trong ví dụ trên đây có bốn câu đều có cấu tạo là cụm từ tương ứng với
chức năng vị ngữ. Bốn câu này rất giống những tỉnh lược chủ ngữ. Tuy nhiên,
theo chúng tôi nên coi đây là những câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại
được tách ra. Sở dĩ nói như vậy là vì nếu khôi phục lại chủ ngữ, ta sẽ thu được
những câu không tự nhiên, bình thường. Trong trường hợp này, các vị ngữ đồng
loại sở dĩ được tách ra vì chúng có số lượng lớn. Hơn nữa, việc tách các vị ngữ
đồng loại ở đây còn có tác dụng nhấn mạnh vào thông tin nên ở mỗi vị ngữ.
(78) (Thế mà bỗng dưng hôm nay, cô cứ thở vắn, thở dài.) Rồi lên giường đắp
chăn. Thút thít khóc (Nỗi lòng ai tỏ, tr.283)
57
Ở ví dụ (78) có hai câu có thể coi là vị ngữ đồng loại được tách thành
câu (trong đó vị ngữ đồng loại ở câu thứ nhất được nối kết với vị ngữ đứng
trước bằng quan hệ từ rồi chỉ quan hệ nối tiếp).
(79) (Bà ấy mệt quá.) Không lê được một bước. Không kêu được một tiếng.
(Thằng ăn cắp, tr.117)
(80) (Bà ấy đến). Hổn hển chẳng thở được (Thằng ăn cắp, tr.17)
Các ví dụ (79), (80) đều có những câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng
loại được tách ra thành câu. Các vị ngữ đồng loại này đều chỉ các hoạt động
thuộc về chủ thể bà ấy.
(81) (Đến nơi, cô xổ khăn ra, lấy lược chải lại mái tóc.) Rồi rẽ đường ngôi. Rồi
uốn lại mái tóc cho cong xuống. (cô Kếu, gái tân thời, tr.149)
Trong ví dụ (81) có hai câu không đầy đủ có thể coi là vị ngữ đồng loại
được tách ra, trong đó, cả hai đều được nối với vị ngữ đứng trước bằng quan hệ
từ rồi chỉ quan hệ nối tiếp giữa các sự việc nêu ở vị ngữ.
(82) Và bụi. Và tanh. Và ồn ào. Và hơi người. Và chen chúc.
Chợ họp mỗi lúc một đông....(Bữa no ...đòn, tr.232)
Trong ví dụ (82), ta được chứng kiến một cách dùng câu không đầy đủ
khá độc đáo. Năm câu không đầy đủ (có thể coi là các vị ngữ đồng loại tách ra
từ câu ở sau đó) được tác giả đặt ngay ở đầu văn bản. Cách đặt câu bất ngờ rất
ít gặp này đã gây ấn tượng mạnh khi tác giả giới thiệu về tính chất của phiên
chợ mà tác giả chọn làm khung cảnh của câu chuyện được kể. Năm câu không
đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại nêu đây đều được nối với vị ngữ đứng sau (họp
mỗi lúc một đông) và với nhau bởi quan hệ từ và chỉ quan hệ liệt kê.
(83) (Trong lúc thiêm thiếp, tôi chỉ còn nhớ bên tai văng vẳng những tiếng súng
nổ dữ dội.) Rồi không hiểu thế nào nữa. (Chiến tranh, tr.541).
(84) (Nó khuỵu cẳng). Ngã phịch. (Bữa no... đòn,)
Ở ví dụ (83) có câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại được tách ra
thành câu. Vị ngữ này được nối kết với vị ngữ ở câu đứng trước bởi quan hệ từ
rồi chỉ quan hệ nối tiếp.
58
Ở ví dụ (84), “Ngã phịch” cũng là câu không đầy đủ vốn là vị ngữ đồng loại
chỉ hoạt động nối tiếp hoạt động “khuỵu cẳng” nêu ở vị ngữ trong câu đứng trước.
(85) (Một tốp người đi. Một tốp người lại. Tranh nhau đi lại rồi mắc ngẵng ở
lối hẹp.) Ùn lại. (Bữa no …đòn, tr.232)
(86) (Nó cần sống hôm nay, về buổi chợ này.) Mà chưa ăn cắp được thứ gì cả.
(Bữa no đòn, tr.234)
Trong ví dụ (85) “Ùn lại” là câu không đầy đủ (tương ứng với vị ngữ
đồng loại được tách ra) chỉ trạng thái là hệ quả của các hoạt động nêu ở các vị
ngữ đứng trước (đi lại, mắc ngẵng).
Trong ví dụ (86), ta có câu không đầy đủ vốn là vị ngữ chỉ hoạt động
tương phản (đối lập) với hoạt động nêu ở vị ngữ trong câu đứng trước (cần
sống). Quan hệ tương phản (đối lập) giữa hai vị ngữ này được biểu thị bởi quan
hệ từ mà (cần sống.. mà chưa ăn cắp được gì).
2.3.2. Câu không đầy đủ vốn là trạng ngữ được tách ra
Trong số những câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu, câu
vốn là trạng ngữ được tách ra chiếm tỉ lệ cao nhất (chiếm 46,87%). Lí do của
điều này có thể là đặc tính của trạng ngữ trong tổ chức cú pháp của câu: Trạng
ngữ trong tổ chức cú pháp thường đứng ở đầu hoặc cuối câu và có mối quan hệ
cú pháp yếu (lỏng lẻo) với vị ngữ. Vì thế, nó dễ được tách ra hơn.
Kết quả khảo sát cho thấy, các trạng ngữ được tách ra thường gặp là các
kiểu trạng ngữ sau:
1) Trạng ngữ thời gian
Ví dụ:
(87) Buổi sáng hầu hôm ấy. Con mẹ Nuôi tay cầm lá đơn, đứng ở sân công
đường. (Đồng hào có ma, tr.407)
(88) Sáng mồng một đầu năm. Từ từ tờ mờ sáng đến tám, chín giờ, dần dần nhà
nào cũng lẹt đẹt một bánh pháo ngắn để đón xuân. (Cái tết của những đại văn hào,
tr.577)
59
(89) Chiều xẩm. Mẹ về. (Nỗi lòng ai tỏ, tr.285)
(90) Sáng sớm hôm sau. Bốn người hảo tâm đã sửa soạn khiêng đến đầu ngõ
nhà chị Cu, bày sẵn trên đường và vào nhà giục tới tấp. (Người thứ ba, tr.588)
2) Trạng ngữ mục đích
Ví dụ:
(91) (Những người khôn ngoan, làm lơ, tay giữ túi, chân bước đi..) Cho được
việc. (Bữa no đòn, tr.232)
(92) (Ba bốn giờ mới bắt đầu nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưa.) Để
ngài điểm. (Tinh thần thể dục, tr.458)
3) Trạng ngữ chỉ tính chất, trạng thái
Ví dụ:
(93) (Người ta chạy huỳnh huỵch) Tán loạn. (Bữa no... đòn, tr.235)
(94) (Vòng trong vòng ngoài, người ta kéo đến nghe.) Đông như hội. (Bữa
no... đòn, tr.233)
2.3.3. Câu không đầy đủ vốn là vế câu được tách ra
Kiều này chiếm 27,09% trong tổng số câu không đầy đủ được tạo ra
bằng phép tách câu.
Kiểu này bao gồm những kiểu nhỏ sau:
1) Câu vốn là vế câu chỉ nguyên nhân được tách ra
Ở kiểu này, vế câu chỉ nguyên nhân thường, được dẫn bởi quan hệ từ vì.
Ví dụ:
(95) (Cái tên xấu xí ấy nhiều lần ông cứ muốn đổi để cho đỡ có vẻ giai cấp.) Vì
ông khoe rất yêu chủ nghĩa bình dân. (Thằng Quýt)
(96) (Tôi không ngờ và cũng không để ý đến thái độ ấy.) Vì hai chúng tôi thân
nhau từ thuở để chỏm. (Người vợ lẽ bạn tôi, tr.556)
(97) (Người đàn bà thấy có khách lạ thì bẽn lẽn cúi gầm xuống.) Vì chắc người
ấy không rõ tôi là bạn hay họ hàng với Quý. (Người vợ lẽ bạn tôi, tr.558)
(98) (Người ta không cho nói.) Vì bộ mã nó làm hại người ta. (Cái vốn sinh nhai)
60
(99) (Nhưng đã hơn một tháng nay, anh ta không diễn ở đâu cả.) Vì đã hơn một
tháng nay, cha anh ta ốm. (Kép Tư Bền, tr.159)
2) Câu vốn là vế câu chỉ kết quả được tách ra
Ở kiểu này, vế câu chỉ kết quả được dẫn nối bởi quan hệ từ cho nên.
Ví dụ:
(100) (Cảnh cuối cùng mà anh cho là lâu tới thì khán giả lại cho là chóng quá.)
Cho nên khi sắp hạ màn, anh cúi chào thì cả rạp vỗ tay đôm đốp thật dài, dài
mãi. (Kép Tư Bền, tr.166)
3) Câu vốn là vế câu chỉ quan hệ tương phản (đối lập) được tách ra
Ở kiểu này, vế câu chỉ quan hệ tương phản được dẫn nối bởi quan hệ
từ nhưng
Ví dụ:
(101) (Nó bị đánh túi bụi.) Nhưng nó chẳng quan tâm. (Bữa no...đòn,
tr.236)
(102) (Nó thấy mợ nó và bác phán cười luôn, nó thích lắm.) Nhưng nó
chẳng hiểu gì cả. (Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn, tr.65)
4) Câu vốn là vế câu chỉ quan hệ nối tiếp được tách ra
Ở kiểu này, vế câu cho quan hệ nối tiếp được dẫn nối bởi quan hệ từ rồi.
Ví dụ:
(103) (Cô mơ màng nghĩ đến ngày cưới của cô.) Rồi cô tưởng tượng đến người
bạn trăm năm của cô trẻ, đẹp, đẫy đà, cứ chiều chiều dắt cô ra Bờ Hồ hóng
mát. (Cô Kếu, gái tân thời, tr.148)
(104) (Nó nhìn lên, nhìn xuống.) Rồi nó lại đi (Cái vốn để sinh nhai)
2.4. Tiểu kết
Trong Chương 2, luận văn đã miêu tả làm rõ vấn đề đặc điểm cấu tạo ngữ
pháp của câu không đầy đủ với hai nội dung chính: câu không đâỳ đủ được tạo
ra bằng phép tỉnh lược và câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu. Đối
với kiểu câu đầy đủ là câu tỉnh lược, luận văn đã miêu tả làm rõ đặc điểm ngữ
pháp của từng kiểu câu tỉnh lược các thành phần cụ thể; đồng thời, tiến hành phân
tích thử nghiệm việc khôi phục lại thành phần câu bị tỉnh lược (chủ ngữ). Đối với
61
câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu, luận văn đã miêu tả làm rõ ba
kiểu câu cụ thể: Câu vốn là vị ngữ, trạng ngữ, vế câu được tách thành câu.
Kết quả nghiên cứu ở Chương 2 cho thấy câu không đầy đủ trong Truyện
ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan rất phong phú, đa dạng trong đó câu tỉnh
lược là kiểu câu câu không đầy đủ phổ biến nhất.
Qua kết quả nghiên cứu ở Chương 2, luận văn cũng cho thấy mặc dù cần
thiết và có cơ sở phân biệt câu không đầy đủ là câu tỉnh lược với câu không đầy
đủ là câu được tạo ra bằng phép tách câu nhưng trên thực tế, ranh giới giữa hai
kiểu câu này chỉ có tính tương đối.
62
Chƣơng 3
CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG
3.1. Dẫn nhập
Trong chương này, luận văn sẽ xem xét câu không đầy đủ ở các mặt: ngữ
nghĩa, ngữ dụng.
Ở mặt ngữ nghĩa, luận văn sẽ xem xét câu không đầy đủ với đặc tính là
đơn vị ngữ nghĩa có sự phụ thuộc về mặt ngữ nghĩa (tức là mang tính hợp
nghĩa, khác với câu đầy đủ trong nhiều trường hợp, mang tính tự nghĩa); đồng
thời, cũng miêu tả làm rõ các kiểu tỉnh lược ngữ nghĩa (tương ứng với sự tỉnh
lược cú pháp) ở câu không đầy đủ.
Ở mặt ngữ dụng, luận văn sẽ xem xét câu không đầy đủ với tư cách là
đơn vị giao tiếp trong mối quan hệ với người sử dụng, cụ thể là xem xét các
khía cạnh thuộc bình diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp) của
câu không đầy đủ như: Cấu trúc thông tin ( sự phân chia: cái đã biết, cái mới),
nghĩa tình thái chủ quan (nghĩa mục đích phát ngôn) và cấu trúc tình thái (cấu
trúc thức) của câu không đầy đủ.
Những vấn đề nêu trên đây là những vấn đề khá phức tạp. Vì vậy, trong
khuôn khổ của luận văn và trình độ của bản thân, chúng tôi chỉ có thể đề cập
đến những vấn đề này ở mức độ khái quát.
3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa
3.2.1. Tính không đầy đủ hay tính phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ
3.2.1.1. Mối quan hệ giữa tính không đầy đủ về ngữ nghĩa và tính không đầy đủ
về cú pháp
Như đã trình bày ở mục Tổng quan, cú pháp và ngữ nghĩa (nghĩa biểu
hiện) của câu là hai mặt khác nhau. Tuy nhiên, đều là các bình diện thuộc về câu
như là thể thống nhất, hoàn chỉnh nên cú pháp và ngữ nghĩa luôn có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Mô hình cú pháp của câu với các thành phần bắt buộc (chủ
ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ bắt buộc) và tự do (trạng ngữ) về nguyên tắc, cần
63
được lấp đầy bởi các đơn vị từ vựng cụ thể - các thành tố ngữ nghĩa hay các vai
nghĩa. Chẳng hạn, mô hình cú pháp CN- VN tương ứng với câu cụ thể được làm
đấy về từ vựng như: (1) Bà ấy vẫn chạy. (2) Bà ấy vẫn kêu. (3) Bà ấy vẫn thở.
(Thằng ăn cắp). Mô hình cú pháp CN- VN - BN tương ứng với những câu cụ thể
được làm đấy về từ vựng như: (4) Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. (5) Bà hàng
bún riêu nắn lại túi tiền. (6) Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. (Thằng ăn cắp).
Những câu trên đây đều là những câu đầy đủ (câu hoàn chỉnh, câu tự
lập) về ngữ pháp, đồng thời, cũng là những câu đầy đủ về ngữ nghĩa (câu tự
nghĩa). Như vậy, tính đầy đủ về cú pháp và tính đầy đủ về ngữ nghĩa thường có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau như ở trường hợp trên đây. Trái với trường hợp
trên đây, khi mô hình cú pháp của câu không được làm đầy bởi các đơn vị từ
vựng cụ thể, ta sẽ có những câu không đầy đủ về cú pháp và ngữ nghĩa như đã
được miêu tả ở Chương 2.
3.2.1.2. Sự phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ
Một trong những đặc điểm của câu không đầy đủ về ngữ nghĩa là sự phụ
thuộc về ngữ nghĩa vào những câu đứng trước (hoặc đứng sau) chúng, tức là
chúng không có tính tự nghĩa mà mang tính hợp nghĩa. Sự phụ thuộc này thể
hiện ở chỗ để hiểu đúng, hiểu rõ nghĩa của chúng, cần dựa vào câu đứng trước
hoặc đứng sau (những câu giữ vai trò là chủ ngôn hay vai trò văn cảnh). Chẳng
hạn, để hiểu rõ nghĩa của những câu như:
(7) Chạy hăng quá. (Thằng ăn cắp)
(8) Không biết làm thế nào cho yên chuyện. (Cụ Chánh Bá mất giày)
(6) Chỉ biết sống mơ mộng. (Cái tết của những đại văn hào)
(10) Rồi lên giường đắp chăn. (Nỗi lòng ai tỏ)
không thể không dựa vào văn cảnh, cụ thể là dựa vào những câu đứng trước.
Chính tính phụ thuộc về ngữ nghĩa khiến cho câu với tư cách là đơn vị
tối thiểu của văn bản trở thành đơn vị không thể tách rời khỏi văn bản như môi
trường sống, môi trường tồn tại của mình. Nói cách khác, chính văn bản là điều
64
kiện để mỗi câu (trong đó có câu không đầy đủ) có thể hiểu được và phát huy
được hiệu quả giao tiếp của mình. Cũng chính nhờ có môi trường văn bản mà
câu không đầy đủ (mà từng có thời bị coi là câu què, câu cụt, câu sai) có được
tính hợp thức, thậm chí, được coi là câu hay, câu mang tính nghệ thuật, thể hiện
sự sáng tạo của nhà văn.
3.2.2. Các kiểu câu tỉnh lược nghĩa ở câu không đầy đủ
Khi xem xét sự tỉnh lược ngữ nghĩa ở câu không đầy đủ, chúng tôi sẽ dựa
vào lí thuyết về ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện), cụ thể là dựa vào các khái niệm
như: cấu trúc ngữ nghĩa, tham thể ngữ nghĩa (vai nghĩa) hạt nhân ngữ nghĩa đã
được trình bày trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn văn Lộc và Nguyễn
Mạnh Tiến [20, 186-194].
Ở đây, cần chỉ ra rằng đề cập đến sự tỉnh lược ngữ nghĩa (gắn với tỉnh
lược ngữ pháp) chưa phải là đã bao quát được đặc điểm cấu trúc ngữ nghĩa (cấu
trúc nghĩa biểu hiện) của toàn bộ câu không đầy đủ (vì đối với câu không đầy
đủ được tạo ra bằng phép tách câu, không thể nói về sự tỉnh lược dù là về
phương diện nào). Tuy nhiên, do câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách
câu có số lượng không lớn (chỉ có 96 câu, chiếm tỉ lệ 8,1%) nên chúng tôi tạm
thời không đề cập đến tổ chức ngữ nghĩa (sự thiếu vắng các thành tố nghĩa) ở
kiểu câu này.
Như đã nói ở trên, các kiểu tỉnh ngữ nghĩa ở câu không đầy đủ sẽ được
xem xét gắn với các kiểu tỉnh lược cú pháp. Hai kiểu tỉnh lược này sẽ có sự
tương ứng hoàn toàn trong trường hợp các thành phần cú pháp của câu (chủ
ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) được biểu hiện bằng thực từ. Chẳng hạn, ở câu (11) Ø Rồi
lại nằm im (Cái tết của những đại văn hào), thành phần bị tỉnh lược về cú pháp
là chủ ngữ tương ứng hoàn toàn với tham thể ngữ nghĩa bị tỉnh lược là chủ thể
(đều là anh). Ở (12) Ø Lại cho Ø thêm một trận nữa. (Thằng ăn cắp), các thành
phần cú pháp bị tỉnh lược là chủ ngữ, bổ ngữ tương ứng hoàn toàn với các tham
thể chủ thể (họ) và đối thể (nó).
65
Dưới đây là một số kiểu tỉnh lược ngữ nghĩa cụ thể.
1) Tỉnh lược tham thể chủ thể
Kiểu này gồm các kiểu nhỏ sau:
a) Tỉnh lược chủ thể hành động
Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là động từ chỉ hành động.
Ví dụ:
(13) (Người ta đến càng đông.) Ø Vẫn đánh nó. (Bữa no..đòn, tr.236)
(14) (Một tốp người đi. Một tốp người lại.) Ø Tranh nhau đi lại (Bữa no.. đòn,
tr.232)
(15) (Con cắn cỏ, cắn rác lạy các ông, các bà.). Ø Đừng bắt con bỏ bóp. (Thế
cho nó chừa, tr.245)
b) Tỉnh lược chủ thể trạng thái
Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là các động từ trạng thái.
(16) (Dần dần, nó thấy mệt.) Ø Mệt quá. (Thế cho nó chừa, tr.247)
(17) (Nó choàng dậy.) Thì lại bắt đầu lo sợ. (Thế cho nó chừa, tr.247)
c) Tỉnh lược chủ thể đặc điểm
Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là các động từ chỉ
đặc điểm.
Ví dụ:
(18) (Chung quy chỉ chết một mình con Thanh.) Ø Đã bận lại thêm tíu tít.
(Thanh! Dạ!)
(19) (Thì nó liều.) Ø Liều chết để sống. (Bữa no..đòn, tr.234)
(20) (Chợ đã vãn dần.) Ø Đã bớt tanh, Ø Đã bớt ồn ào. (Bữa no..đòn, tr.234)
d) Tỉnh lược chủ thể chỉ công dụng (chức năng, tác dụng) của sự vật
Kiểu chủ thể này đặc trưng cho hạt nhân ngữ nghĩa là động từ chỉ chức
năng, tác dụng của sự vật.
Ví dụ:
(21). (Cái áo ấy có hai công dụng.) Ø Vừa để che cái thân khẳng khiu, khô đét,
cho khỏi rõ những mạch máu và bộ xương sườn, vừa để giấu tạm giấu tạm thời
các thứ lấy cắp. (Bữa no..đòn, tr.233)
66
2) Tỉnh lược hạt nhân ngữ nghĩa
Tỉnh lược hạt nhân ngữ nghĩa chỉ trạng thái, quá trình (sự diễn tiến của
thời gian). Kiểu hạt nhân ngữ nghĩa này thường đòi hỏi chủ thể chỉ thời gian.
Ví dụ:
(22) Năm phút …Ø. Mười phút …Ø (Thằng ăn cắp)
Trong câu (22) hạt nhân ngữ nghĩa (đồng thời là vị ngữ) bị tỉnh lược cần
được hiểu là “trôi qua”.
(23) Năm hôm, mười hôm Ø. (Ngậm cười, tr.280)
(24) Rồi nửa tháng, lại một tháng. Ø (Ngậm cười, tr.281)
(25) Rồi nửa, một tháng, hai tháng. Ø (Ngậm cười, tr.281)
Trong các câu (23), (24), (25), hạt nhân ngữ nghĩa (và đồng thời là vị
ngữ- hạt nhân cú pháp) bị tỉnh lược cũng là động từ trôi qua chỉ sự diễn tiến
của thời gian.
3) Tỉnh lược chủ thể và hạt nhân ngữ nghĩa
Ví dụ:
(26) (Mày đi mua cho tao ba xu ô mai.) Ø Ø Đằng chua ấy nhé. (Thanh! Dạ!,
tr.242)
(27) (Một người giơ cổ tay, trỏ chiếc đồng hồ chữ nhật:
- Y hẹn đúng tám giờ.) Ø Ø Không sai một phút. (Thanh! Dạ!, tr.239)
Ở ví dụ (26) có sự tỉnh lược ngữ nghĩa đối với chủ thể (mày) và hạt nhân
(mua): Mày mua đằng chua ấy nhé.
Ở ví dụ (27), có sự tỉnh lược ngữ nghĩa đối với chủ thể (chúng tôi) và hạt
nhân ngữ nghĩa (đến): “Chúng tôi đến không sai một phút.”.
4) Tỉnh lược chủ thể và đối thể
Ví dụ:
(28) (Người ta đến càng đông…). Ø Vẫn chửi Ø. Ø Vẫn đấm Ø. Ø Vẫn thụi Ø.
Ø Vẫn bịch Ø. (Bữa no..đòn, tr.236)
67
Ở ví dụ (28), có sự tỉnh lược ngữ nghĩa đối với chủ thể (họ hoặc người ta) và
đối thể (nó): “Người ta vẫn chửi nó. Người ta vẫn đấm nó. Người ta vẫn thụi
nó. Người ta vẫn bịch nó. ”.
(29) (Nó dừng lại:) Ø Chờ Ø (Bữa no..đòn, tr.235)
Ở ví dụ (29), có sự tỉnh lược chủ thể (nó) và đối thể (cần hiểu là cơ hội): “Nó
chờ cơ hội.”.
5) Tỉnh lược đối thể
Ví dụ:
(30) (Một thằng chạy.) Mấy trăm người đuổi. Ø
(31) (Nó mở mắt ra nhìn.). Họ lại huỵch Ø. Họ lại thụi Ø. Họ lại tát Ø. Họ lại
đá Ø. ( Thằng ăn cắp, tr.)
(32) (Nó lạy.Nó van.) Nhưng ai tha Ø.… Họ càng ghét, Ø, túm lại đánh Ø như
mưa. (Thằng ăn cắp)
(33) (Đôi giày của cụ thế nào hở cậu?). Hỏi xong nhà chủ sai người đổ đi soi
đèn tìm Ø khắp mọi nơi… Càng không thấy Ø, chủ nhà càng lo. (Cụ Chánh Bá
mất giày)
Trong ví dụ (30), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (nó) của hoạt động
(đuổi) nêu ở hạt nhân ngữ nghĩa (Mấy trăm người đuổi (theo) nó.).
Trong ví dụ (31), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (nó) của hoạt động nêu
ở hạt nhân ngữ nghĩa (uỵch, thụi, tát, đá). Nếu khôi phục lại, ta sẽ có những
câu: Họ lại uỵch nó. Họ lại thụi nó. Họ lại tát nó. Họ lại đá nó.
Trong ví dụ (32), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (nó) của các hoạt
động ghét, đánh (Họ càng ghét nó, tóm lại đánh nó như mưa.).
Trong ví dụ (33), có sự tỉnh lược tham thể đối thể (đôi giày) xét trong
mối quan hệ với hoạt động tìm, thấy (Hỏi xong, chủ nhà sai người soi đèn đổ đi
tìm đôi giày khắp mọi nơi… Càng không thấy đôi giày, chủ nhà càng lo.).
6) Tỉnh lược chủ thể, hoạt động, đối thể
Ví dụ:
(34) (Người ta đến càng đông. Vẫn đánh nó.) Ø Ø Ø Cả đòn càn, đòn gánh
nữa. (Bữa no..đòn, tr.236)
68
(35) Ø Vẫn Ø Ø cẳng chân. Ø Vẫn Ø Ø cẳng tay. Ø Vẫn Ø Ø đòn càn. Ø Vẫn
Ø Ø đòn gánh. (Bữa no..đòn, tr.236)
Trong ví dụ (34), có sự tỉnh lược cả ba thành tố ngữ nghĩa: chủ thể
(người ta), hoạt động (đánh), đối thể (nó); thành tố nghĩa còn lại (đòn càn, đòn
gánh) chỉ là công cụ. (Người ta đánh nó cả bằng đòn, đòn gánh nữa.)
Trong ví dụ (35), cũng có sự tỉnh lược cả ba thành tố nghĩa trong cấu
trúc ngữ nghĩa cơ sở của câu: chủ thể (người ta), hoạt động (đánh), đối thể
(nó). Khôi phục lại các thành tố bị tỉnh lược, ta có những câu: Người ta vẫn
đánh nó bằng cẳng chân. Người ta vẫn đánh nó bằng cẳng tay. Người ta vẫn
đánh nó bằng đòn càn. Người ta vẫn đánh nó bằng đòn gánh.
Việc khôi phục lại các thành tố ngữ nghĩa (đồng thời cũng là các thành tố
cú pháp) như trên đây tạo ấn tượng về sự trùng lặp ngữ nghĩa. Đây chính là lí
do giải thích vì sao tác giả đã chọn biến thể tỉnh lược chứ không chọn biến thể
đầy đủ của câu.
7) Tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu (chủ hữu) sự vật là bộ phận bất khả li
Tham thể kẻ sở hữu (chủ hữu) sự vật là bộ phận bất khả li thực ra không
thuộc hệ thống thành tố ngữ nghĩa trong tổ chức nghĩa biểu hiện của cấu trúc
với hạt nhân ngữ nghĩa là vị từ (động từ, tính từ). Đây là thành tố ngữ nghĩa
trong cấu trúc nghĩa biểu hiện có hạt nhân ngữ nghĩa là danh từ, cụ thể danh từ
chỉ bộ phận bất khả li (đầu, mình, mắt, mũi, chân, tay…) Trong tổ chức ngữ
nghĩa của cấu trúc danh từ và của câu nói chung, tham thể kẻ sở hữu sự vật bất
khả li cũng là thành tố ngữ nghĩa bắt buộc vì việc lược bỏ nó đòi hỏi phải dựa
vào ngữ cảnh (văn cảnh).
Dưới đây là một vài ví dụ về trường hợp tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu.
Ví dụ:
(36) Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này có một người
đàn bà.) Lưng Ø khoác áo tơi tả, đầu Ø đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.
(Báo hiếu: trả nghĩa cha).
69
(37) (Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi tuổi, trông rõ quê mùa, đần, ngốc.)
Mặt mũi Ø đen đủi, dăn đeo, xấu như con khỉ. Hai mắt Ø thì toét nhoèn những
nhử, Cái hàm trên Ø thì chìa ra như mái hiên. Hai tay Ø thì lóng ngóng lúng
túng cởi mãi mới lấy được miếng trầu. (Báo hiếu: trả nghĩa cha)
(38) Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, bà ta
lập cập vấp một cái, ngã xoài ngay ra cống rãnh.) Quần áo, mặt mũi Ø lấm bê
bết. (Báo hiếu: trả nghĩa cha)
(39) (Anh ta trông dữ tợn, vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun.). Song bản
tính Ø thực hiền lành, chất phác. (Samandji).
Trong những ví dụ từ (36) đến (39) đều có sự tỉnh lược tham thể kẻ sở
hữu sự vật bất khả li. Ở câu (36), tham thể kẻ sở hữu bị tỉnh lược là bà (Lưng
bà khoác áo tơi tả, đầu bà đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.) Ở câu (37),
Có tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu (bà ta) ở bốn câu liên tiếp mà nếu khôi phục lại,
ta sẽ có những câu đầy đủ sau: Mặt mũi bà ta đen đủi, dăn đeo, xấu như con khỉ.
Hai mắt bà ta thì toét nhoèn những nhử. Cái hàm trên bà ta thì chìa ra như mái
hiên. Hai tay bà ta thì lóng ngóng, lúng túng cởi mãi mới lấy được miếng trầu.
Ở vị dụ (38), có sự tỉnh lược tham thể kẻ sở hữu bị (bà) xét trong mối
quan hệ với “ mặt mũi”: Quần áo, mặt mũi bà lấm bê bết. Ở câu (39), có sự
tỉnh lược tham thể (anh ta) chỉ kẻ sở hữu sự vật nêu ở danh từ trung tâm (bản
tính): “Song, bản tính anh ta thực hiền lành, chất phác.”
3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng (giao tiếp, ngữ pháp giao tiếp)
Khi xem xét câu không đầy đủ về mặt ngữ dụng, chúng tôi dựa vào lí
thuyết về bình diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp) được trình
bày trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh
Tiến [20, 191-192]. Theo quan niệm của tác giả, bình diện giao tiếp hay ngữ
dụng gồm các vấn đề chính như: cấu trúc thông tin (sự phân chia cái đã biết /cái
mới) cấu trúc đề - thuyết, nghĩa tình thái và cấu trúc tình thái (cấu trúc thức)
của câu. Không có điều kiện xem xét một cách tỉ mỉ tất cả các vấn đề thuộc
70
bình diện ngữ dụng của câu không đầy đủ, ở mục này, luận văn chỉ đề cập một
cách khái quát đến ba vấn đề: cấu trúc thông tin, cấu trúc đề - thuyết của câu
không đầy đủ và các kiểu câu không đầy đủ xét theo nghĩa tình thái, cụ thể là
nghĩa tình thái mục đích phát ngôn.
3.3.1. Cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ
3.3.1.1. Nhận xét chung
Như đã biết, khi tạo lập câu như là đơn vị giao tiếp, người nói (viết) luôn
có mục đích chuyển đến người nghe một thông tin mới nào đó. Như vậy, thông
thường, câu phải có ít nhất một bộ phận mang thông tin mới (cái mới, cái chưa
biết với người nghe). Trong thực tế hoạt động viết (nói), để tiết kiệm, hạn chế
sự trùng lặp không cần thiết và tạo ấn tượng về phong cách mới mẻ, độc đáo,
người nói, (viết) thường sử dụng thủ pháp tỉnh lược hoặc tách câu để tạo nên
những câu không đầy đủ có cấu trúc thông tin, cấu trúc đề - thuyết đặc biệt. Về
mặt thông tin, nét riêng của câu không đầy đủ so với câu đầy đủ là ở chỗ nếu
nhiều câu đầy đủ thường gồm bộ phận mang thông tin đã biết (cái đã biết,
thông tin cũ) và bộ phận mang thông tin mới (cái mới) thì ở câu không đầy đủ,
trong nhiều trường hợp, chỉ có bộ phận mang thông tin mới (cái mới). Chẳng
hạn, thử xem xét cấu trúc thông tin của những câu sau:
(40) - Mợ mệt à?
- Không!
(41) - Mợ giận tôi đấy à?
- Không!
(42) - Bao giờ mợ định về?
- Không biết. (Oằn tà rroằn)
Trong các ví dụ (40), (41), (42), các câu hỏi đều là câu đầy đủ trong đó
có cả bộ phận mang thông tin cũ (cái đã biết) và thông tin mới (cái mới); còn
các câu trả lời đều là câu không đầy đủ và chúng chỉ có bộ phận mang thông tin
mới (cái mới). Ở những câu trả lời là câu không đầy đủ, bộ phận mang thông
tin cũ đã bị lược bỏ.
71
3.3.1.2. Các kiểu cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ
Theo kết quả khảo sát sơ bộ, có thể xác định hai kiểu cấu trúc thông tin
của câu không đầy đủ: câu không đầy đủ chỉ gồm thông tin mới (cái mới) và
câu không đầy đủ gồm cả thông tin mới (cái mới) và thông tin cũ (cái đã biết).
1) Câu không đầy đủ chỉ có bộ phận mang thông tin mới (cái mới)
Thuộc kiểu câu này là:
a) Những câu chỉ gồm một từ
Ví dụ:
(43) (Nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.)
- Được. (Người ngựa và ngựa người)
(44) (Ông có bằng lòng không ?)
- Dạ! (Xin chữ cụ nghè)
(45) (Bỗng trong bóng tối, cụ thấy lù lù có cái bóng đen. Vừa ngạc nhiên, vừa
sợ, cụ giật mình hỏi:)
- Ai ? (Cái thú tổ tôm)
(46) (Thế chị đã biết tin này chưa? Quý thở dài:
- Chưa (Người vợ lẽ bạn tôi)
(47) (Chào mợ! Trai hay gái?)
- Trai! (Oẳn tà rroằn)
Những câu ở ví dụ từ (43) đến (47) đều chỉ có một từ và đều là những
câu xuất hiện trong lời hội thoại. Chúng đều mang thông tin mới đáp ứng được
yêu cầu của người hỏi (hay người tham gia đối thoại). Cần chỉ ra rằng ở các câu
(46), (47), mặc dù các từ (chưa, trai) ở các câu trả lời đã xuất hiện trong câu
hỏi trước đó nhưng chúng vẫn mang thông tin mới mà người hỏi chờ đợi ở
người trả lời.
Bên cạnh những câu một từ là câu trả lời như trên đây cũng có thể gặp
những câu một từ chỉ mang thông thông tin mới là câu trình bày (câu trần thuật)
xuất hiện trong lời miêu tả.
72
Ví dụ:
(48) Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. (Bữa no ... đòn, tr.236)
b) Những câu là tổ hợp từ
Ví dụ:
(49) (Bọn người nhốn nháo) Chạy tứ tung . (Thằng ăn cắp)
(50) (Cậu ấy quẳng ra ba xu bảo nó:
- Mua nước đá.) Nhưng không được mó tay vào nhé. (Thanh! Dạ!)
(51) (Thanh!). Đi quàng lên. (Thanh! Dạ!)
(52) (Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm). Rồi nửa tháng đến một
tháng. (Vợ)
(53) (Chỉ tại mày mà hỏng việc). Đồ khốn nạn ! (Cái lò gạch cũ)
Trong những ví dụ trên từ (49) đến (53), những câu không đầy đủ (in
nghiêng) đều có cấu tạo là cụm từ và chỉ gồm những từ mang thông tin mới.
2) Câu không đầy đủ gồm cả bộ phận mang thông tin đã biết lẫn thông tin mới
Thực tế cho thấy, câu không đầy đủ, nhất là câu tỉnh lược, ở dạng ngắn
gọn nhất, thường là những câu chỉ có bộ phận mang thông tin mới (cái mới).
Tuy nhiên, vì một số lí do mà trong không ít trường hợp, câu không đầy đủ vẫn
có thể gồm cả bộ phận mang thông tin đã biết, tức là vẫn phải có sự lặp lại một
hoặc một vài từ đã xuất hiện ở trước đó. Trong các lí do của điều nêu trên, có lí
do về ngữ nghĩa (để câu rõ nghĩa hơn) và lí do về ngữ dụng (để biểu thị thái độ
phù hợp của người nói đối với người nghe).
Dưới đây là một số ví dụ về câu không đầy đủ gồm cả bộ phận mang cái
đã biết và cái mới.
(54) (Anh vừa đi vừa thở dài. Khách cũng vừa đi vừa thở dài.) Càng đi càng
thấy phố vắng tanh, vắng ngắt. (Người ngựa và ngựa người)
(55) (Vai anh Tư Bền đóng hôm ấy cứ phải luôn ở sân khấu.) Nhất là phải làm
nhiều điệu bộ hơn mọi khi. (Kép Tư Bền)
(56) (Ông cụ nhăn mặt để gắt:
- Nhận lời đi!) Nói xong, lại ho sù sụ. (Kép Tư Bền)
73
(57) (Anh Ba Cốc từ ngày lấy được vợ thì đâm lo.) Lo ngày, lo đêm. (Vợ)
(58) (Nhưng bác khán một mực lắc đầu sai con trai đuổi anh khỏi cửa.) Rồi từ
hôm sau, cấm không cho anh vào nhà. (Vợ)
Trong ví dụ (54), ở câu không đầy đủ có cả bộ phận mang thông tin đã
biết (được biểu thị bởi từ đi đã xuất hiện ở câu trước) lẫn bộ phận mang thông
tin mới (nêu ở các từ còn lại).
Ở ví dụ (55), câu không đầy đủ cũng gồm cả bộ phận mang thông tin đã
biết (được biểu thị bởi từ phải đã xuất hiện ở câu trước) lẫn bộ phận mang
thông tin mới (nêu ở các từ còn lại).
Ở ví dụ (56), nói xong (ở câu không đầy đủ) là bộ phận mang thông tin
cũ các từ còn lại mang thông tin mới.
Ở ví dụ (57), từ lo ở câu không đầy đủ mang thông tin đã biết, các từ còn
lại mang thông tin mới.
Trong ví dụ (58), ở câu không đầy đủ, bộ phận mang thông tin cũ là anh (đã
xuất hiện ở câu trước), còn các bộ phận mang thông tin mới là tất cả các từ còn lại.
Có trường hợp, mặc dù về mặt thông tin, người nói (người trả lời) có thể
trả lời ngắn gọn bằng câu chỉ gồm bộ phận mang thông tin mới nhưng vì lí do
lịch sự, họ vẫn phải trả lời dài hơn (bằng câu không đầy đủ chứa cả thông tin đã
biết và thông tin mới).
Ví dụ :
(59) (-Lần trước bà ở cữ trai hay gái?)
-Thưa bà, cháu gái. (Oằn tà rroằn)
(60) (Thế bà đẻ dễ hay khó? )
-Thưa bà, dễ ạ. (Oằn tà rroằn)
(61) (- Bà đẻ con so hay con rạ?)
- Thưa bà, con so. (Oằn tà rroằn)
Trong ví dụ (59) mặc dù có thể trả lời bằng câu ngắn gọn nhất chỉ mang
thông tin mới (ví dụ: - Gái) nhưng người nói vẫn chọn câu dài hơn có cả thông
tin đã biết (được biểu thị bằng các từ bà, cháu)
74
Tương tự như vậy, trong các ví dụ (60), (61), thay cho việc sử dụng câu
trả lời ngắn gọn nhất (chỉ gồm một từ) người nói vì phép lịch sự, đã chọn câu
dài hơn trong đó có cả bộ phận mang thông tin đã biết.
3.3.2. Cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ
3.3.2.1. Nhận xét chung
Cấu trúc đề thuyết của câu là một trong ba kiểu cấu trúc của câu thuộc
bình diện ngữ dụng (bình diện giao tiếp, cú pháp giao tiếp). Xem xét câu không
đầy đủ theo cấu trúc đề thuyết là xác định các thành tố đề ngữ (phần đề) và
thuyết ngữ (phần thuyết) của câu không đầy đủ với tư cách là một thông điệp
hay câu trong chức năng văn bản.
Đề ngữ hay phần đề là điểm xuất phát của thông báo. Khi nói một câu,
người ta thường chọn một thành tố làm khởi điểm của thông báo. Thành tố đó
được gọi là đề ngữ hay phần đề (đề). Phần còn lại của câu được dùng để thuyết
minh, thông báo về phần đề được gọi là phần thuyết hay thuyết ngữ (thuyết)
[20, 506]. Theo Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến [20,514-515], đề ngữ
là thành tố được xác định theo một loạt đặc điểm về nội dung (tính xác định,
tính được thuyết định, chỉ điểm xuất phát của thông báo) và hình thức (thường
chiếm vị trí trước phần thuyết và có thể được biểu hiện bằng danh từ, cụm danh
từ; vị từ, cụm vị từ). Đề ngữ thường được chia thành đề đề tài và đề tính thái.
Đề đề tài lại được chia thành đề bối cảnh (tương đương với khung đề ở Cao
Xuân Hạo) và đề sự kiện. Đề bối cảnh (khung đề) là kiểu đề nêu cảnh huống về
thời gian, không gian, phạm vi, phương diện, điều kiện...trong đó diễn ra sự
kiện (sự việc, sự tình). Kiểu đề này thường tương ứng với thành phần cú pháp
của câu là trạng ngữ. Đề sự kiện là kiểu đề biểu thị sự vật, hoạt động, đặc điểm
tham gia vào sự tình (sự việc) với tư cách là hạt nhân sự tình hoặc các tham thể
cơ sở. Kiểu đề này về cơ bản, tương ứng với các thành phần cú pháp bắt buộc
của câu như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. (20, 515-515). Đề tình thái là kiểu đề biểu
thị các ý nghĩa tình thái của câu (nêu ý dẫn nhập, xác nhận một ý kiến, nhận
định, đánh giá, phỏng đoán về một sự việc, khả năng) [20, 515].
75
Tương ứng với phần đề là phần thuyết có chức năng thuyết minh (thuyết
định), thông báo về điều được nêu lên ở phần đề. Về hình thức, phần thuyết
thường đứng sau phần đề và thường được biểu hiện bằng vị từ (cụm vị từ) hoặc
cụm chủ vị [20, 516].
Trên cơ sở cách hiểu về phần đề và phần thuyết như trên, dưới đây,
chúng ta sẽ xem xét khái quát các kiểu cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ
trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan.
3.3.2.2. Các kiểu cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn
chọn lọc” Nguyễn Công Hoan.
Theo kết quả khảo sát, chúng tôi thấy theo cấu trúc đề thuyết, câu không
đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan gồm ba kiểu: câu
không đầy đủ gồm cả phần đề lẫn phần thuyết, câu không đầy đủ chỉ gồm phần
thuyết và câu không đầy đủ chỉ gồm phần đề .
1) Câu không đầy đủ có cấu trúc gồm cả phần đề lẫn phần thuyết
Kiểu câu này có thể gọi gọn là câu có cấu trúc đề thuyết. Cần chỉ ra rằng
mặc dù phần đề trong nhiều trường hợp, thường trùng với chủ ngữ nhưng đề
ngữ và chủ ngữ là hai thành tố thuộc hai bình diện khác nhau. Trên thực tế, đề
ngữ không chỉ trùng với chỉ ngữ mà còn có thể tương ứng với bổ ngữ (ví dụ:
Cái cây đèn ấy, ông quý nó lắm.) hoặc trạng ngữ (ví dụ: Đêm hôm ấy, bà lăn
lóc mãi không ngủ được.).
Câu không đầy đủ có cấu trúc đề thuyết trong “Truyện ngắn chọn lọc”
Nguyễn Công Hoan thường là những câu tỉnh lược chủ ngữ, bổ ngữ hoặc câu
không đầy đủ có cấu trúc đề thuyết (khung đề - thuyết ngữ) với chủ ngữ tỉnh lược.
Ví dụ:
(62) (Nó gật giúi dụi.) Mấy lần Ø suýt ngã. (Phành phạch)
khung đề thuyết ngữ
(63) (Và khi đã hiến tất cả các bài anh thuộc, anh ngồi im lặng để chờ và nghe.)
Sau hết, Ø sờ tay vào lòng thau không để vét. (Anh Xẩm)
khung đề thuyết ngữ
76
(64) (Tôi ngẫm nghĩ). Đêm hôm ấy về, Ø rơi nước mắt. (Tôi chủ báo, anh chủ
khung đề thuyết ngữ
báo, nó chủ báo)
(65) (Người đàn bà nhà quê quay lại thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố
nhố bao nhiêu người hình như đang ăn uống.) Chỉ trông thấy có thế thì cửa lại
khép lại và có người đi ra. (Báo hiếu: trả nghĩa cha)
(66) (Dùng nó thì bác chẳng đáng, cái đó thì đã hẳn đi rồi.) Song, bán thì Ø biết
bán cho ai được? (Cái nạn ô tô)
Trong những câu (62), (63), (64), (65), (66) chỉ có khung đề (tương ứng
với trạng ngữ và phần thuyết (tương ứng với vị ngữ), còn chủ đề (tương ứng
với chủ ngữ) đều vắng mặt (bị lược bỏ).
- Câu không đầy đủ có cấu trúc chủ đề - thuyết ngữ (bổ ngữ bị tỉnh lược)
Ví dụ:
(67) (Nó mở mắt ra nhìn), Họ lại uỵch. Họ lại thụi. Họ lại tát. Họ lại đá.
(Thằng ăn cắp) đề thuyết đề thuyết đề thuyết đề thuyết
(68) (Người ta đến càng đông. Vẫn đánh nó. Cả đòn càn, đòn gánh nữa.)
Người ta phang Ø cho sướng tay. (Bữa no..đòn)
đề thuyết
(69) (Rồi người ta giữ chặt lấy nó). Nhưng nó cúi đầu xuống để cắn Ø cho mau.
Người ta giằng Ø ra. (Bữa no ...đòn) đề thuyết
đề thuyết
(70) Người ta móc mồn nó, gang họng nó, quào chảy máu cả má nó.)
Nó cứ cố ghì, nhất định không nhả Ø. (Bữa no... đòn)
đề thuyết
Trong ví dụ (67), (68), (69), (70), mặc dù ở các câu không đầy đủ có sự
tỉnh lược bổ ngữ nhưng chủ ngữ (chủ đề) và vị ngữ (phần thuyết) vẫn hiện diện.
Đây chính là những câu có cấu trúc đề thuyết (chủ đề - thuyết) nhưng có sự tỉnh
lược bổ ngữ. Điều vừa chỉ ra cho thấy câu có cấu trúc đề thuyết (và cấu trúc cú
pháp chủ ngữ - vị ngữ) vẫn có thể là câu không đầy đủ.
77
- Câu không đầy đủ có cấu trúc đề thuyết (chủ đề - thuyết ngữ) với định ngữ bị
tỉnh lược.
Ví dụ:
(71) (Ngoài đường phố, ở quảng trước cửa nhà có bữa tiệc này có một người đàn
bà.) Lưng Ø/ khoác áo tơi tả, Đầu/ Ø đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.
đề thuyết đề thuyết
(Báo hiếu: trả nghĩa cha)
(72) (Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi tuổi, trông rõ quê mùa đần ngốc.)
Mặt mũi Ø / đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt Ø/ thì toét nhoèn những
đề thuyết đề thuyết
nhử. Hai tay Ø thì lóng cóng, lúng túng cởi mãi lấy được miếng trầu…
đề thuyết
(Báo hiếu: trả nghĩa cha)
(73) (Anh ta trông dữ tợn vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun.)
Song, bản tính Ø thực hiền lành, chất phác. (Sanandji)
đề thuyết
2) Câu không đầy đủ với cấu trúc chỉ có phần thuyết
Đây là kiểu phổ biến nhất của câu không đầy đủ xét theo cấu trúc đề thuyết.
Ví dụ:
(74) (Nó vẫn chạy như khoàng cả hai chân lên vai.) Ø Chạy hăng quá. (Thằng
ăn cắp)
(75) (Đôi giày của cụ thế nào hả cậu?) - Ø Mới nguyên, kiểu Gia Định, đế cờ -
lếp, mua những ngót ba đồng. (Cụ Chánh Bá mất giày)
(76) (Chợ đã vãn dần.). Ø Đã bớt bụi. Ø Đã bớt tanh. Đã bớt hơi người. Ø Đã
bớt chen chúc. (Bữa no... đòn, tr.234)
(77) (Nó đau quá.) Ø Nằm sóng soài không nói được nữa. (Thằng ăn cắp)
(78) (Thì nó liều). Ø Liều chết để sống. (Bữa no... đòn, tr.234)
(79) (Nó đứng lại ) Ø Chờ Ø. Nhưng Ø chờ gì? (Bữa no... đòn, tr.235)
78
(80) (Thế thì chúng em xin lỗi các anh nhé.). Ø Đừng chê chúng em là rùa nhé.
(Thanh! Dạ!)
(81) (Luôn hôm sau chúng tôi đi trinh thám.) Nhưng Ø không có kết quả gì.
(Cái lò gạch bí mật)
(82) (Chỉ tại thằng mày mà hỏng việc. Ø Đồ khốn nạn! (Cái lò gạch bí mật)
(83) (Tao chúa ghét loại thi sĩ như này.) Ø Chỉ biết mơ mộng. (Cái tết của
những đại văn hào)
Trong những câu từ (74) đến (83) trên đây đều chỉ có phần thuyết.
3) Câu không đầy đủ với cấu trúc chỉ có phần đề
Ở kiểu câu này, phần đề thường là khung đề (tương ứng với trạng ngữ)
và xét về cấu trúc thông tin là phần mang thông tin mới (cái mới).
Ví dụ:
(84) Sáng mồng một đầu năm. Từ tờ mờ sáng đến lúc tám chín giờ dần dần nhà
nào cũng lẹt đẹt một bánh pháo ngắn để đón xuân. (Cái tết của những đại văn hào)
(85) Buổi hầu sáng hôm ấy. Con mẹ Nuôi tay cầm lá đơn, đứng ở sân công
đường. (Đồng hào có ma)
(86) Chiều xẩm. Mẹ về. (Nỗi lòng ai tỏ)
(87) Sáng sớm hôm sau. Bốn người hảo tâm đã sửa soạn đón khiêng đến đầu
ngõ nhà chị Cu....(Người thứ ba)
Những câu (in nghiêng) từ (84) đến (87) đều là các cụm danh từ chỉ thời
gian vốn là khung đề (tương ứng với thành phần trạng ngữ) được tách ra thành
câu. Bộ phận đứng sau chúng đều là các cụm chủ vị giữ vai trò phần thuyết (về
cú pháp, là các cụm chủ vị tạo nên nòng cốt câu).
3.3.3. Câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo
3.3.3.1. Nhận xét chung
Xem xét câu không đầy đủ theo mục đích thông báo thực chất là xem xét
các kiểu nghĩa tình thái mục đích phát ngôn của câu không đầy đủ. Xét theo
mục đích thông báo, có thể chia câu không đầy đủ thành bốn kiểu: câu không
79
đầy đủ là câu trình bày (câu trần thuật), câu không đầy đủ là câu nghi vấn, câu
không đầy đủ là câu cầu khiến, câu không đầy đủ là câu cảm thán.
Kết quả phân loại câu không đầy đủ theo mục đích thông bảo thể hiện ở
bảng sau:
Bảng 3.1. Các kiểu câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo
Ví dụ Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng, tỉ lệ Các kiểu CKDĐ
Bọn bán hàng nhốn nháo. Ø CKDĐ là câu trần thuật 683 57,49% Chạy tứ tung.
CKDĐ là câu nghi vấn 19,61% Ø Ø Cháu trai hay cháu gái? 233
CKDĐ là câu mệnh lệnh 15,90% Ø Đừng bắt con bỏ bóp! 189
CKDĐ là câu cảm thán 7,00% Ø Ø Đồ đểu! 83
0 Tổng số 0%
1188 100%
3.3.3.2. Câu không đầy đủ là câu trình bày (câu trần thuật)
Đây là kiểu phổ biến nhất trong số bốn kiểu câu không đầy đủ xét theo
mục đích thông báo (chiếm 57,49%).
Về nội dung, câu trình bày thường được dùng để thuật lại (kể lại) một sự
việc đã xảy ra (vì vậy, ngữ pháp học truyền thống thường gọi kiểu câu này là
“câu trần thuật”, “câu kể”). Tuy nhiên, trên thực tế, câu trình bày còn được
dùng để miêu tả, thông tin về một sự việc sẽ diễn ra hoặc giải thích, nêu ý kiến,
nhận định, đánh giá về một sự việc, một vấn đề.
Ví dụ:
(88) (Chợ đã vãn dần.) Đã bớt tanh. Đã bớt ồn ào. Đã bớt hơi người. Đã bớt
chen chúc. (Bữa no ... đòn, tr.234)
(89) (Nó ngã lăn ra. Mẩu khoai bị nắm chặt, nát bét trong tay nó.) Vẫn chửi.
Vẫn kêu. Vẫn đấm. Vẫn đá. Vẫn thụi. Vẫn bịch. Vẫn cẳng tay. Vẫn cẳng chân.
Vẫn đòn càn. Vẫn đòn gánh. (Bữa no ... đòn, tr.236)
80
Ở ví dụ (88), bốn câu không đầy đủ trình bày (trần thuật) về tình trạng
của phiên chợ khi sắp tan. Ở ví dụ (89) 10 câu không đầy đủ trình bày (thuật
lại) các sự việc xảy ra liên tiếp đối với tên ăn cắp (hành động chửi mắng, đánh
đập với công cụ là tay, chân, đòn càn, đòn gánh).
(90) (Nó chẳng nghe ra sao cả.) Mà cứ bước một bước thì lại bị gọi. (Thanh! Dạ!,
tr.243)
(91) (Nó tưởng tượng được làm con chim kia để bay nhảy một chốc.) Thì rồi
sau có bị mắc cạm bẫy cũng cam. (Thế cho nó chừa, tr.247)
(92) (Bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính.) Vì đèn
sáng nên trông rõ lắm. (Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.122)
(93) (Bà lão bước xuống thềm đi theo.) Vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi
rộng. (Báo hiếu: trả nghĩa cha, tr.123)
Trong những ví dụ từ (90) đến (93), các câu không đầy đủ (in nghiêng)
trình bày hay kể lại các sự việc liên quan đến các nhân vật Thanh, nó , bà lão.
2) Câu không đầy đủ là câu nghi vấn
Đây cũng là kiểu khá phổ biến (chiếm 19,61%) trong tổng số câu không
đầy đủ xét theo mục đích thông báo.
Về nội dung, câu nghi vấn biểu thị nội dung mà người nói thấy cần được
làm sáng tỏ bằng câu trả lời nhận định. Về hình thức, câu nghi vấn được đặc
trưng bởi các từ có ý nghĩa nghi vấn (các từ dùng để hỏi) gồm: đại từ như, ai ,
gì, nào, đâu, mấy, bao nhiêu, bao giờ; các phó từ như: có....không. đã...chưa;
quan hệ từ hay.
Ví dụ:
(94) (Nó đứng lại. Chờ.). Nhưng chờ gì? (Bữa no ...đòn, tr.235)
(95) (Mày làm ăn thế nào mà chả có giọt nước nào rửa chân thế?). Muốn sống
đi gánh nước về mau không? (Thanh! Dạ!, tr.238)
(96) (Nó ngắm lại người nằm cạnh như ngắm một kì quan.) Có lẽ nào vào tù
nhiều thế? (Thế cho nó chừa, tr.250)
81
(97) (Nó thấy rằng trước nó hèn nhát vô cùng.) Làm gì mà phải sợ? (Thế cho
nó chừa, tr.251)
(98) (Cụ muốn ngồi hẳn dậy mà bộc bạch tâm sự, rồi đông đủ cả nhà, mình thề
độc mấy câu cho nó đỡ nghi.) Nhưng chắc đâu? (Mất cái ví, tr.153)
(99) (Người vợ hỏi:)
- Làm thế nào mà về cho kịp đây? (Thằng điên, tr.271)
(100) (Lấp mồm tôi, ông phải kiếm mấy cái nút.)
- Bằng gì nào? Bằng “giấy đỉnh” nhé? (Đàn bà là giống yếu, tr.197)
Ở những ví dụ từ (94) đến (100) đều có những câu không đầy đủ là câu
nghi vấn (in nghiêng) trong đó có những câu tự vấn (những câu (96), (97), (98)
và câu hỏi hướng tới người tham gia cuộc thoại (câu 100); có những câu hỏi
chính danh (những câu (99), (100) ) và câu hỏi không chính danh (câu (95) tuy
có hình thức câu hỏi nhưng lời là đe dọa).
3.3.3.4. Câu không đầy đủ là câu cầu khiến
Kiểu câu này xếp thứ ba về số lượng (chiếm15,9%) trong số câu những
câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo.
Về nội dung, câu cầu khiến biểu thị hành vi ngôn ngữ thuộc lớp điều
khiển (yêu cầu, ra lệnh, mời, khuyên, cấm, xin...) của người nói hướng tới
người nghe nhằm đặt người nghe vào việc thực hiện một hành động nào đó. Về
hình thức, câu cầu khiến thường được đặc trưng bởi việc sử dụng các động từ
ngôn hành (động từ ngữ vi) như: cấm, mời, khuyên, ra lệnh, yêu cầu, xin...hoặc
các hư từ chỉ yêu cầu, mệnh lệnh như: hãy, đừng, chớ, đi.
Ví dụ:
(101) (Nhà tôi ở phố Bờ Sông số 36.) Nhớ nhé! (Thằng điên, tr.274)
(102) (Thế thì chúng em xin lỗi các anh nhé.). Đừng chê chúng em là rùa nhé!
(Thanh! Dạ!, tr.239)
(103) (Cô Nhuận giục:)
- Chạy lên! (Thanh! Dạ!, tr.241)
82
(104) (Cô Ngọc ngần ngừ:)
- Nhưng mà hãy gượm! (Thanh! Dạ!, tr.242)
(105) (Cụ đi đi lại lại vài lượt ra ý nghĩ ngợi rồi gọi anh đầy tớ thân và sai rằng:)
- Đội khăn, đi hầu tao! (Cụ Chánh Bá mất giày, tr.140)
(106) (Đến chiều, cậu cai ra lệnh:)
- Im mồm! Ngủ đi! (Thế cho nó chừa, tr.249)
Trong các ví dụ từ (101) đến (106) đều có các câu không đầy đủ là câu
cầu khiến (in nghiêng). Những câu này đều mang nội dung nhắc nhở (câu
(101)), đề nghị (câu (102)), thúc giục (câu (103)), ra lệnh (câu (câu 105),câu
106)). Phương tiện hình thức chỉ ra ỹ nghĩa mệnh lệnh chủ yếu là ngữ điệu
(nhấn giọng) hoặc các phó từ (hãy, đừng, đi) hoặc trợ từ (nhé).
3.3.3.5. Câu không đầy đủ là câu cảm thán
Kiểu câu này chiếm 7,00% tổng số câu không đầy đủ. Về nội dung, câu
cảm thán biểu thị trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người nói trước một sự vật,
sự việc nào đó. Về hình thức, câu cảm thán được đặc trưng bởi ngữ điệu riêng
và các thán từ hoặc các từ, tổ hợp từ có ý nghĩa cảm thán.
Ví dụ:
(107) (Hết cảnh đầu!) Sao mà lâu thế! (Kép Tư Bền, tr.165)
(108) (Chỉ tại thằng này mà hỏng cả việc.) Đồ khốn nạn! (Cái lò gạch bí mật,)
(109) (Thế là em nó chơi được mãi.) Lâu đáo để! (Con ve, tr.593)
(110) (Cô Tuyết lên giọng đanh đá mắng nó:)
Chậm như sên! (Thanh! Dạ!, tr.241)
(111) (Bà cụ đã nổi tam bành, tay cầm thanh củi trỏ vào thau nước, trợn tròn
con mắt, rồi phang vào đầu, vào mặt, vào lưng con Thanh túi bụi để đánh nhịp
với tiếng:).
-Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! (Thanh! Dạ!, tr.244)
Trong các ví dụ từ (107) đến (111) đều có các câu không đầy đủ là câu
cảm thán (in nghiêng). Những câu này biểu thị các trạng thái tình cảm, cảm xúc
83
khác nhau như sốt ruột (câu (107)), chê bai (câu 110)), bực tức, chửi rủa (các
câu (108), (111)), khen ngợi (câu (109)).
3.4. Tiểu kết
Trong Chương 3, luận văn đã trình bày kết quả nghiên cứu câu không
đầy đủ về các mặt ngữ nghĩa, ngữ dụng. Qua việc trình bày đặc điểm ngữ nghĩa
của câu không đầy đủ, luận văn đã chỉ ra tính phụ thuộc về ngữ nghĩa và các
kiểu tỉnh lược ngữ nghĩa ở câu không đầy đủ. Sự phụ thuộc ngữ nghĩa cùng với
sự phụ thuộc về ngữ pháp cho thấy câu không đầy đủ chỉ có được tính hợp thức
khi tồn tại trong văn bản với sự hỗ trợ của ngữ cảnh (chủ yếu là văn cảnh). Sự
tỉnh lược ngữ nghĩa, cùng với tỉnh lược cú pháp tạo cho câu không đầy đủ
không chỉ có được tính ngắn gọn, tiết kiệm mà còn thể hiện được bản lĩnh,
nghệ thuật đặt câu của nhà văn Nguyễn Công Hoan.
Qua việc trình bày đặc điểm của câu không đầy đủ về ngữ dụng, luận văn
đã làm rõ được tổ chức của kiểu câu này xét trên ba khía cạnh: cấu trúc thông
tin, cấu trúc đề thuyết và nghĩa tình thái mục đích phát ngôn.
Kết quả khảo sát câu không đầy đủ về ngữ dụng cho thấy so với câu câu
đầy đủ, câu không đầy đủ rõ ràng có nhiều nét khác biệt về thông tin (hàm
lượng thông tin mới cao hơn), về cách tổ chức phần đề, phần thuyết (phong phú
hơn về kiểu cấu trúc đề thuyết) và cũng không hề kém phần đa dạng về kiểu
mục đích thông báo.
84
KẾT LUẬN
Trên đây, sau khi đã tổng quan về tình hình nghiên cứu và xác lập cơ sở
lí luận của đề tài, luận văn đã trình bày kết quả nghiên cứu về các mặt ngữ
pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn
lọc Nguyễn Công Hoan. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được qua
ba chương, có thể rút ra những kết luận sau:
1. Câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan có
số lượng khá phong phú (gồm 1188 câu/ gần 600 trang in). Số lượng này cho
thấy Nguyễn Công Hoan là một trong những tác giả sử dụng phổ biến câu
không đầy đủ với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật.
2. Về kiểu loại cấu tạo, câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn lọc
Nguyễn Công Hoan khá phong phú, đa dạng. Xét theo phương thức cấu tạo,
câu không đầy đủ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan gồm hai
kiểu chính: câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược và câu không
đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu trong đó, kiểu thứ nhất chiếm ưu thế
tuyệt đối (1092/1188 = 91,9%). Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh
lược gồm bảy kiểu cụ thể (gắn với tất cả các thành phần bắt buộc như chủ ngữ,
vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ bắt buộc). Trong số câu tỉnh lược, câu tỉnh lược chủ
ngữ là kiểu có số lượng lớn nhất (chiếm 69, 97%); câu tỉnh lược định ngữ của
danh từ chỉ bộ phận bất khả li có số lượng nhỏ nhất (chiếm 1,09%).
3. Xét về mặt ngữ nghĩa, câu không đầy đủ được đặc trưng bởi tính phụ
thuộc về ngữ nghĩa (tính hợp nghĩa). Đặc tính này cùng với tính không đủ về cú
pháp khiến câu không đầy đủ chỉ có được tính hợp thức khi tồn tại trong văn
bản với tư cách là thành tố của văn bản. Về tổ chức ngữ nghĩa, câu không đầy
đủ được coi là các đơn vị tỉnh lược về ngữ nghĩa trong đó sự lược bỏ các thành
tố ngữ nghĩa (gồm hạt nhân và các tham thể ngữ nghĩa) về cơ bản có sự tương
ứng với sự lược bỏ các thành tố cú pháp.
85
4. Xét về mặt ngữ dụng, câu không đầy đủ được đặc trưng bởi những đặc
điểm riêng về cấu trúc thông tin (có hàm lượng thông tin mới cao), cấu trúc đề -
thuyết (sự đa dạng về các kiểu cấu trúc đề thuyết trong đó cấu trúc chỉ gồm
phần đề hoặc chỉ gồm phần thuyết là nét riêng); nghĩa tình thái mục đích phát
ngôn (gồm bốn kiểu nghĩa gắn với bốn kiểu câu phân loại theo mục đích nói ).
Nghiên cứu câu không đầy đủ trong một tác văn học của một tác giả cụ
thể theo ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng là công việc thú vị
nhưng cũng rất phức tạp. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, những kết
quả mà tác giả đạt được chỉ là bước đầu. Chúng tôi hy vọng sẽ có điều kiện tiếp
tục nghiên câu sâu hơn về vấn đề này.
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
2. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
3. Tiêu Thị Thanh Bình (2013), Khảo sát trạng ngữ trong tiếng Việt từ góc độ
kết học, nghĩa học và dụng học (trên cứ liệu vài tác phẩm văn học giai đoạn
1930-1945), Luận văn Thạc sĩ, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn.
4. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt, Tiếng. Từ ghép. Đoản ngữ. H.
5. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Hữu Thung (1983), Giáo trình
ngữ pháp tiếng Việt. Tập II, Cú pháp tiếng Việt. H.
6. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt
Nam, Huế.
7. Nguyễn Đức Dân (1978), Thảo luận thêm về cấu trúc danh + là + danh.
N. Ngữ, số 7
8. Võ Thị Dung (2010), Chức năng ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát
ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.
9. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt. Từ loại. H.
10. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb.
Khoa học xã hội, H.
11. Lê Thị Đức Hạnh (2001), Nguyễn Công Hoan, về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Hiệp (2009), Cú pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
13. Đặng Thị Thanh Hoa (2016), "Vai trò của một đoạn câu trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan", Tạp chí ngôn ngữ, (8).
14. Nguyễn Thanh Liêm (2013), Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Cần Thơ.
15. Nguyễn Văn Lộc (1995), Kết trị động từ trong tiếng Việt, Nxb Giáo Dục,
Hà Nội.
87
16. Nguyễn Văn Lộc (1997), Vận dụng lý thuyết kết trị vào việc phân tích câu
tiếng Việt, Đề tài NCKH cấp Bộ.
17. Nguyễn Văn Lộc (2004), Động từ ngữ pháp trong tiếng Việt, Đề tài NCKH
cấp Bộ.
18. Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Hệ thống thành phần câu
tiếng Việt nhìn từ góc độ kết trị của từ, “Ngôn ngữ”, Số 9.
19. Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Thị Thu Hà (2015), Góp thêm một số ý kiến về
việc xác định hạt nhân ngữ nghĩa trong cấu trúc ngữ biểu hiện của câu
“Ngôn ngữ”. Số 10.
20. Nguyễn Văn Lộc (chủ biên), Nguyễn Mạnh Tiến (2017), Ngữ pháp tiếng
Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
21. M.A.K. Halliday (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
22. Hoàng Trọng Phiến (1986), Ngữ pháp tiếng Việt, Câu. Nxb. Đại học và
THCN, H.
23. Panfilov V.S (2009), Cơ cấu Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
24. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
25. Hoàng Thị Tố Quyên (2010), So sánh câu văn trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ ngôn ngữ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên
26. Simon C. Dik (2005), Ngữ pháp chức năng, NXB Đại học Quốc gia TP HCM.
27. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào phúng
Nguyễn Công Hoan, Nxb Đại học.
28. Văn Tân (1997), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội.
29. Lê Xuân Thại (1977), "Một số vấn đề về mối quan hệ chủ vị trong tiếng
Việt", “Ngôn ngữ”, số 4.
30. Lê Xuân Thại (1980), Về câu chủ vị có từ nối “là”, “Ngôn ngữ”, số 3.
31. Lê Xuân Thại (1989), Câu bị động trong tiếng Việt, “Ngôn ngữ”, số 3.
32. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Tập I, Nxb.
Khoa học xã hội, H.
88
33. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập II, Nxb.
Khoa học xã hội, H.
34. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội. H.
35. Nguyễn Kim Thản (1969), "Một số vấn đề về biên soạn một cuốn Ngữ pháp
phổ thông", “Ngôn ngữ” số 1.
36. Lê Xuân Thại (1975), Bàn về cấu trúc danh - là - danh, “Ngôn ngữ”, số 1.
37. Lê Xuân Thại (1975), Câu chủ vị tiếng Việt, NXB, KHXH.
38. Trịnh Xuân Thành (1977), Phân tích ngữ nghĩa của trạng ngữ mục đích,
“Ngôn ngữ”, số 1.
39. Thành Đức Bảo Thắng (2013) "Nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan", Tạp chí Văn học nghệ thuật, (343).
40. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb. Khoa
học xã hội, H.
41. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Bước đầu khảo sát cấu trúc câu văn truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.
42. Trần Thị Thủy (2008), Đối sánh ngôn ngữ trào phúng trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan và tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Luận văn
Thạc sĩ, Đại học Vinh.
43. Nguyễn Minh Thuyết (1986), Vai trò của các từ “bị”, “được” trong câu bị
động tiếng Việt (Trong tập: Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ
phương Đông, H.).
44. Nguyễn Minh Thuyết (1989), Động từ, tính từ và cụm chủ vị làm chủ ngữ,
“Ngôn ngữ”, số 3.
45. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần câu tiếng
Việt, Nxb Giáo dục.
46. Nguyễn Mạnh Tiến (2012), "Xác định thành tố chính của cụm chủ vị và
thành phần chính của câu dựa vào thuộc tính kết trị của vị từ", T/c Ngôn
ngữ, số 2.
89
47. Nguyễn Mạnh Tiến, Nguyễn Văn Lộc (2013), "Một số khó khăn, hạn chế
của việc vận dụng cách định nghĩa chủ ngữ, vị ngữ theo quan niệm truyền
thống vào dạy học ngữ pháp", T/c Ngôn ngữ, số 8, 2013
48. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Ngữ pháp tiếng
Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Hoàng Tuệ, Lê Cận, Cù Đình Tú (1962), Giáo trình về Việt Ngữ, (Sơ Thảo)
Tập I. Hà Nội
50. Hà Thị Tuyết (2010), Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn
Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ ngôn ngữ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
II. Tiếng nƣớc ngoài
51. Теньер Л (1988), Основы структурного синтаксиса, Москва «Прогресс».
90