ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-----------**&**-----------
LÊ THỊ QUỲNH
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH
TRONG CÁC SÁNG TÁC TRƢỚC NĂM 1945
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Lê Hồng My
Thái Nguyên năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 1
0.1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 5
0.2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 6
0.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Nhất Linh ....................................... 6
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh ............... 9
0.3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 10
0.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 11
0.4.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại ........................................................ 11
0.4.2. Phƣơng pháp so sánh .......................................................................... 11
0.4.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp ....................................................... 12
0.4.4. Phƣơng pháp lịch sử ........................................................................... 12
0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành ................................................... 12
0.4.6. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả ......................................................... 12
0.4.7. Phƣơng pháp hệ thống ........................................................................ 13
0.5. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 13
0.6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 13
0.7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 13
B - NỘI DUNG ........................................................................................... 15
Chƣơng 1: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH ................................................................. 15
1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ......................................... 15
1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật" ..................................................... 15
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................... 16
NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH .............................................................. 19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ
1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ
XX ........................................................................................................ 19
1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây ................................................ 19
1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ .................................... 21
1.2.1.3. Khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí
thức tân học đầu thế kỷ XX ................................................................... 23
1.2.2. Hành trình đến với văn học của Nhất Linh ......................................... 28
1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học ............................ 28
1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm
xã hội và văn chương của Nhất Linh ..................................................... 31
1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị
về văn chương”, "làm giàu văn sản trong nước”. ................................. 33
Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT NHẤT LINH TRƢỚC VÀ SAU KHI
THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ................................................... 39
THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TRONG "NHO PHONG" VÀ
"NGƢỜI QUAY TƠ") ................................................................................... 39
2.1. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRƢỚC KHI
2.1.1. Ngôn ngữ trong "Nho phong" và "Người quay tơ "mang đậm
dấu ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại ...................................................... 39
2.1.1.1. Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn xuôi trung đại .......................... 39
2.1.1.2. Ngôn ngữ "Nho phong” và "Người quay tơ” mang đậm dấu
ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại ........................................................... 41
2.1.2. Ngôn ngữ văn học của buổi giao thời ................................................. 48
2.1.2.1. Tính chất giao thời trong dùng từ, đặt câu ....................................... 48
2.1.2.2. Bước đầu có sự kết hợp giữa ngôn ngữ trần thuật và ngôn
ngữ nhân vật ......................................................................................... 51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
2.1.2.3. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, chưa được cá tính hóa ................ 55
ĐOẠN THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TỪ "ĐOẠN TUYỆT"
ĐẾN "BƢỚM TRẮNG") .............................................................................. 57
2.2. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRONG GIAI
2.2.1. Ngôn ngữ trong "Đoạn tuyệt" và "Lạnh lùng" – “một lối văn
giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối v ă n thật có tính cách
An Nam" ............................................................................................... 58
2.2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật giản dị, mạch lạc, trong sáng .......................... 59
2.2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả sinh động, tinh tế, giàu chất tạo hình .................. 66
2.2.1.3. Ngôn ngữ nhân vật bước đầu được cá tính hoá, phù hợp
tính cách nhân vật ................................................................................. 76
2.2.2. Ngôn ngữ trong "Đôi bạn" và "Bƣớm trắng" mang tính hƣớng
nội, đặc tả đời sống nội tâm nhân vật .................................................... 80
2.2.2.1. Ngôn ngữ kể chuyện nhập vào nội tâm nhân vật .............................. 81
2.2.2.2. Ngôn ngữ miêu tả gắn với cảm xúc, tâm trạng nhân vật ................. 85
2.2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật biểu hiện chiều sâu nội tâm ............................... 88
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH ............................................................... 100
LƢU ............................................................................................................100
3.1. TẠO SẮC THÁI NGÔN NGỮ CỦA TẦNG LỚP THỊ DÂN TRUNG
NGÀO .........................................................................................................105
3.2. CÓ NHỮNG KẾT HỢP TỪ MỚI TẠO CẢM GIÁC ÊM ÁI NGỌT
MANH .........................................................................................................108
3.3. DÙNG NHIỀU TÍNH TỪ DIỄN TẢ NHỮNG CẢM GIÁC MONG
3.4. NHỮNG SO SÁNH ĐẸP, BAY BỔNG, TINH TẾ VÀ GỢI CẢM ..............112
C - KẾT LUẬN ......................................................................................... 121
PHỤ LỤC ................................................................................................. 123
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 128
A- PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
0.1.1. Ngôn ngữ“là yếu tố thứ nhất của văn học” (M. Go-rơ-ki)
[69;215], “là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng
tạo, phong cách, tài năng của nhà văn" [69; 215]. Từ ngôn ngữ nghệ
thuật đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn là con đƣờng tiếp nhận văn
học phù hợp với bản chất của nghệ thuật ngôn từ.
0.1.2. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945, Tự lực văn
đoàn là "nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền
văn học Việt Nam hiện đại" (Hoàng Xuân Hãn). Trong Tự lực văn đoàn,
Nhất Linh là ngƣời sáng lập, ngƣời điều hành, đồng thời cũng là cây bút
trụ cột của nhóm. Mặc dù sáng tác không nhiều, nhƣng Nhất Linh đã
"vạch ra một con đường riêng", cách tân mạnh bạo trong các sáng tác cả
về nội dung và nghệ thuật, góp phần tạo danh tiếng cho tổ chức văn học
này. Nhất Linh và Tự lực văn đoàn "đã có những đóng góp lớn vào nghệ
thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào câu văn
của dân tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam" (Huy Cận).
0.1.3. Sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã đƣợc nhiều ngƣời quan
tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong số những công trình nghiên cứu về sự
nghiệp văn học của Nhất Linh đã công bố, chƣa có công trình nào tập
trung tìm hiểu sâu vào ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Vấn đề này,
cách đây hơn 50 năm, đã đƣợc gợi ra: "Vấn đề ngôn ngữ Nhất Linh là
một điểm thiết tưởng cần phải được để ý và đề cao" (Nguyễn Văn Trung,
Tạp chí Văn số 14, 15.7.1964); nhƣng sau nhiều năm trôi qua, việc
nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh vẫn chƣa có sự tiến triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đáng kể.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Linh trong các sáng tác trước năm 1945" nhằm đi sâu nghiên cứu quá
trình vận động trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh và thấy đƣợc những
đóng góp của nhà văn đối với quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học
dân tộc.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tên tuổi và sự nghiệp văn học của Nhất Linh gắn liền với một tổ
chức văn học đã từng hoạt động sôi nổi, góp phần làm thay đổi diện mạo
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Chính vì vậy, sự nghiệp văn học
“vang bóng một thời” của Nhất Linh đã trở thành một đối tƣợng nghiên
cứu văn học trong nhiều thập niên qua.
0.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Nhất Linh
Trong qua trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tập hợp đƣợc trên 60
tài liệu nghiên cứu về Nhất Linh từ những nguồn khác nhau: giáo trình,
sách nghiên cứu; bài báo, tranh, ảnh trên mạng Internetr.v.v…
Những tài liệu về Nhất Linh tập trung vào các nội dung sau:
- Thứ nhất: Cuộc đời, sở thích, tính cách của Nhất Linh và mối
quan hệ của nhà văn với gia đình, đồng nghiệp, bạn bè.
- Thứ hai: Những hoạt động chính trị của Nguyễn Tƣờng Tam
(Nhất Linh) trong khoảng 20 năm cuối đời.
- Thứ ba: Sự nghiệp văn chƣơng của Nhất Linh (tác phẩm, bài phê
bình, nghiên cứu…).
Qua những tài liệu đã tập hợp đƣợc về Nhất Linh, có thể nhận xét
khái quát nhƣ sau:
Về cá tính và con đƣờng chính trị của Nguyễn Tƣờng Tam (Nhất
Linh) có nhiều nhận định, đánh giá chƣa thống nhất, có khi trái ngƣợc
nhau. Song, về sự nghiệp văn chƣơng của Nhất Linh thì hầu hết các ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
kiến đều khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà văn đối với Tự
lực văn đoàn và đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam thời kì
từ nửa đầu thế kỉ XX đến tháng 8/1945. Tiêu biểu là ý kiến của các nhà
nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Trƣơng Chính, Bạch Năng Thi,
Phạm Thế Ngũ, Đỗ Đức Hiểu, Trần Thanh Mại.v.v.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (xuất
bản lần đầu năm 1942) đã đánh giá Nhất Linh ở nhiều phƣơng diện và
khẳng định thành công về thể loại tiểu thuyết của nhà văn: "Đọc Nhất
Linh từ trước đến nay, người ta thấy tiểu thuyết của ông tiến hoá rất
mau. Từ cái còn cổ lỗ như Nho phong, tiểu thuyết của ông đã đi vào loại
tình cảm, rồi đi thẳng lối tiểu thuyết luận đề, là một lối văn rất mới ở
nước ta. Đến nay trong loại tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết của Nhất
Linh vẫn là những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả" [70;234].
Trƣơng Chính quan tâm nhiều hơn tới các tác phẩm của Nhất Linh
(Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tối tăm). Ông đánh giá chung
về các tác phẩm đó với những lời trân trọng: "Cả hình thức và nội dung
thoát hẳn khỏi cái sáo cũ ngày trước và vạch ra một con đường riêng
khiến người đọc không thể không thích được" [44; 233].
Phan Cự Đệ đã viết một công trình nghiên cứu công phu với tựa
đề: Tự lực văn đoàn - con người và văn chương; và viết lời giới thiệu
cho các tác phẩm Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh khi tái bản.
Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn, ông khẳng định: "Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài miêu tả những
mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín đáo và ý
nhị" [44;66].
Nguyễn Hoành Khung đã giới thiệu, đánh giá khái quát về sự
nghiệp sáng tác của Nhất Linh và đƣa ra những so sánh về nghệ thuật
miêu tả nhân vật giữa tác phẩm Lạnh lùng và Đôi bạn: "Với Lạnh lùng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Nhất Linh không còn gò cốt truyện, dàn nhân vật nhằm minh hoạ cho
một luận đề nữa, mà đã đưa ngòi bút đi sâu hơn vào việc phân tích tâm
lí (...) và đạt tới một trình độ tiểu thuyết già dặn, thành thục. Đến Đôi
bạn (…) tác phẩm đào sâu tâm tư, khát vọng của một lớp thanh niên;
không luận đề, không tuyên ngôn, nhưng Đôi bạn lại như tác phẩm được
ấp ủ, gửi gấm tâm sự, phô diễn tâm trạng nhiều nhất của nhà văn" [47;
32].
Các tác giả Bạch Năng Thi, Bùi Xuân Bào, Thế Phong, Nguyễn
Hữu Hiếu, Hoàng Xuân Hãn, Phạm Thế Ngũ, Đặng Duy Diễn, Đỗ
Đức Hiểu, Trần Hữu Tá,… đều có bài nghiên cứu con ngƣời và văn
chƣơng của Nhất Linh. Họ đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội
dung và nghệ thuật trong sáng tác của ông và khẳng định Nhất Linh là
"văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn" [44; 171].
Nhiều tác giả khác nhƣ Hà Minh Đức,Trần Đình Hƣợu, Lê Chí
Dũng, Trịnh Hồ Khoa, Lê Thị Đức Hạnh,… khi nghiên cứu về văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX và Tự lực văn đoàn đều có ý kiến đánh giá về
Nhất Linh. Các tác giả đã nêu ra những điểm hạn chế trong cuộc đời, sự
nghiệp chính trị của ông, nhƣng cũng thấy đƣợc những tiến bộ trong tƣ
tƣởng nghệ thuật và cách viết của nhà văn.
Gần đây, xuất hiện nhiều hơn các chuyên luận, luận văn, luận án
về Nhất Linh, tiêu biểu nhƣ: Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá
văn học (Vu Gia, NXB Văn hoá thông tin, H.1995); Tiểu thuyết của
Nhất Linh trước cách mạng tháng Tám (Luận án phó tiến sĩ khoa học
ngữ văn của Vũ Thị Khánh Dần, 1996); Nhất Linh con người và tác
phẩm (Lê Cẩm Hoa biên soạn, NXB Văn học; H. 2000); Nhất Linh -
cây bút trụ cột của Tự Lực văn đoàn (Mai Hƣơng tuyển chọn, NXB
Văn hoá thông tin; H. 2000); Truyện ngắn Nhất Linh trước năm 1945
(luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Song Bình, H. 2004); Nghệ thuật xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
dựng nhân vật trong tiểu thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh (luận
văn thạc sĩ của Hà Đình Sơn, H. 2006); Nghệ thuật xây dựng nhân vật
từ "Đôi bạn" đến "Bướm trắng" (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị
Mai Hƣơng, TN. 2008).v.v…
Các tác giả đã xác định rõ vai trò và đóng góp của Nhất Linh trong
Tự lực văn đoàn và trong quá trình hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết Việt
Nam
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
Hiện nay chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về ngôn ngữ
nghệ thuật của Nhất Linh. Tuy nhiên, một số tác giả khi tìm hiểu về Nhất
Linh cũng đã đƣa ra một số những nhận xét về ngôn ngữ nghệ thuật của
ông.
Vũ Ngọc Phan cho rằng lời văn Nhất Linh: "nửa giản dị, nửa đài
điếm" [44; 170].
Trƣơng Chính trong bài "Nhất Linh" đã so sánh: "Lối hành văn
của Nhất Linh là một lối hành văn rất thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời. Nhất
Linh không đẽo gọt, trau chuốt câu văn của mình như Khái Hưng nhưng
tự nó có nhịp điệu , tự nó đã du dương vì ý bao hàm ở trong là một ý
thơ" [44; 239].
Vu Gia cũng có nhận xét về ngôn ngữ của Nhất Linh ở một số tác
phẩm nhƣ Bướm trắng: "Ông vẫn duy trì được lối viết trong sáng, giàu
chất thơ, chất hoạ vốn đã quen thuộc trong nhiều tác phẩm trước, nhưng
đến Bướm trắng đã thể hiện một phẩm chất nghệ thuật mới, tuy đôi chỗ
còn gượng gạo, thiếu tự nhiên, nhưng tác giả đã khai thác tinh tế những
tầng, những lớp, những ngóc ngách tâm lí éo le, khuất khúc của con
người" [43; 379]; hay Lạnh lùng: "Ông thường dùng một câu mà tả hết
mọi tâm hồn. Con mắt ông Nhất Linh quan sát quen đến nỗi một nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
vật chỉ vụt qua truyện mà ông cũng vẽ được hoàn toàn. Theo với óc nhận
xét chặt chẽ của ông , lời văn của ông cũng thu hình lại, chắc đẹp vì đã
thực thà như tâm hồn ông tả".
Bạch Năng Thi trong bài Nhất Linh - tác giả tiêu biểu đã đƣa ra
những lời đánh giá về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh: "... lời văn
ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, vừa giản dị, vừa chọn lọc (…) Văn Nhất
Linh vừa rành mạch, trong sáng, vừa có nhạc điệu, có hình ảnh. Nó diễn
tả được những cảm giác tinh vi. Nó sử dụng các so sánh cụ thể, có khả
năng tạo hình và gợi cảm ".
Trong công trình nghiên cứu "Những cách tân trong nghệ thuật
văn xuôi Tự lực văn đoàn", Trịnh Hồ Khoa cũng đã nêu ra ý kiến xác
đáng: " Văn Nhất Linh ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, giản dị nhưng
không thiếu chất thơ. Giống con người Nhất Linh, văn ông tế nhị, có
chừng mực, trang nhã, tả rất đạt những tâm tình thanh sạch…" .
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mai Hƣơng - ĐHSP Thái
Nguyên - 2008, có đề cập đến một số thủ pháp xây dựng nhân vật, trong
đó có nhắc đến đặc điểm về ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nhất Linh
trong hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Song Bình - ĐHSP Hà Nội -
2004, có chỉ ra một số đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn
của Nhất Linh.
Nhìn chung các nhà nghiên cứu mới đã đƣa ra những nhận xét
khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh hoặc đề cập đến một số
đặc điểm ngôn ngữ trong một vài tác phẩm chính. Song những nhận xét
của ngƣời đi trƣớc cũng đã gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài này.
0.3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Quá trình sáng tác của Nhất Linh trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn thứ
nhất là trƣớc năm 1930 với các tác phẩm: Nho phong, Người quay tơ; giai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đoạn thứ hai là thời gian tham gia Tự lực văn đoàn, với các tác phẩm tiêu
biểu nhƣ: Đoạn tuyệt, Đôi bạn…và giai đoạn thứ ba là những tác phẩm
đƣợc viết sau cách mạng tháng Tám năm 1945 nhƣ: Xóm Cầu Mới, Dòng
sông Thanh Thuỷ.
Để phù hợp với điều kiện và mục đích nghiên cứu, đề tài chỉ tập
trung vào ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nhất
Linh ở giai đoạn sáng tác trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945:
Nho phong - Tiểu thuyết - 1924
Người quay tơ - Truyện ngắn - 1926
Nắng thu - Truyện dài - 1934
Đoạn tuyệt - Tiểu thuyết - 1934
Lạnh lùng - Tiểu thuyết - 1936
Tối tăm - Truyện ngắn - 1936
Hai buổi chiều vàng - Truyện ngắn - 1937
Đôi bạn - Tiểu thuyết - 1939
Bướm trắng - Tiểu thuyết - 1941
Các tác phẩm viết chung với Khái Hƣng không nằm trong đối tƣợng
nghiên cứu của đề tài vì theo chúng tôi đã có sự hoà lẫn về ngôn ngữ nghệ
thuật của hai tác giả. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi cũng
không mở rộng tới số tác phẩm Nhất Linh viết sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
0.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
0.4.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp thống kê, phân loại. Phƣơng pháp
này giúp nhận diện những lớp từ, kiểu câu, những biện pháp tu từ … mà
Nhất Linh sử dụng trong các sáng tác.
0.4.2. Phƣơng pháp so sánh
Để thấy rõ sự chuyển biến của ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trong quá trình sáng tác và cá tính sáng tạo của nhà văn, chúng tôi sử
dụng phƣơng pháp so sánh: so sánh ngôn ngữ của chính nhà văn qua các
giai đoạn sáng tác và so sánh ngôn ngữ của ông với các nhà văn khác
cùng thời, trong cùng khuynh hƣớng nhƣ Hoàng Ngọc Phách, Thạch
Lam, Khái Hƣng hoặc khác khuynh hƣớng nhƣ Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao.
0.4.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Chúng tôi phân tích những đặc điểm cơ bản trong cách dùng từ,
đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ… của Nhất Linh, từ đó tổng hợp đi
đến những nhận xét khái quát.
0.4.4. Phƣơng pháp lịch sử
Ngôn ngữ bao giờ cũng mang dấu ấn văn hoá của thời đại, khi
nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh, chúng tôi luôn đặt
trong hoàn cảnh xã hội văn hoá cụ thể. Việc vận dụng phƣơng pháp này
giúp chúng tôi thấy đƣợc bƣớc chuyển trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất
Linh qua quá trình sáng tác và những đóng góp của ông trong việc hiện
đại hoá ngôn ngữ văn học dân tộc.
0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
Vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật có mối liên quan đến nhiều lĩnh vực
khoa học khác nhƣ lý luận văn học, ngôn ngữ học, thi pháp học, tâm lý
học,… Do đó chúng tôi vận dụng tổng hợp phƣơng pháp nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học. Chúng sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau để soi sáng các
khía cạnh của vấn đề.
0.4.6. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả
Muốn tìm hiểu đƣợc ngôn ngữ nghệ thuật phải đặt đối tƣợng
nghiên cứu trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
nhà văn. Chúng tôi đặc biệt coi trọng và vận dụng triệt để phƣơng pháp
nghiên cứu tác giả trong quá trình nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Nhất Linh.
0.4.7. Phƣơng pháp hệ thống
Ngôn ngữ nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều yếu
tố quan hệ chặt chẽ với nhau, nó lại nằm trong những chỉnh thể trọn vẹn
khác là văn bản nghệ thuật và thế giới nghệ thuật của nhà văn, là dòng
văn học, trào lƣu văn học nhà văn có mặt. Vì vậy các vấn đề cụ thể đƣợc
triển khai trong luận văn đều đƣợc đặt trong mối quan hệ hệ thống.
Chúng tôi luôn coi trọng phƣơng pháp hệ thống khi tiến hành nghiên cứu
đối tƣợng.
0.5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Ứng dụng lí thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật vào nghiên cứu ngôn
ngữ nghệ thuật của Nhất Linh, đề tài nhằm đạt đƣợc các mục đích sau:
1. Phân tích, đánh giá các bước chuyển biến của ngôn ngữ nghệ
thuật Nhất Linh trong quá trình sáng tác ( trước1945).
2. Tìm hiểu một số nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Linh
3. Rút ra kết luận về những đóng góp của Nhất Linh đối với quá
trình phát triển của ngôn ngữ văn học nước nhà và chỉ ra hạn chế (nếu
có).
0.6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên về ngôn ngữ nghệ thuật
của Nhất Linh.
- Công trình góp phần khẳng định rõ hơn cá tính sáng tạo và vai
trò cách tân văn học của Nhất Linh.
- Góp thêm một tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập về nhà văn
Nhất Linh và về ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học Việt Nam hiện đại.
0.7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
của luận văn gồm ba chƣơng:
Chương I: Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật và những yếu tố cơ
bản chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh.
Chương II: Sự vận động trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
(trƣớc và sau khi tham gia Tự Lực văn đoàn).
Chương III: Một số đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Linh
B - NỘI DUNG
Chƣơng 1
GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH
1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật"
Theo cuốn Lí luận văn học (Phƣơng Lựu chủ biên), Ngôn ngữ
nghệ thuật là: "…một hệ thống các phương thức, quy tắc thông báo
bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta
có thể nói "ngôn ngữ ba lê", "ngôn ngữ chèo", "ngôn ngữ điện ảnh".
Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp
độ đó" [55; 185/186]. Khái niệm này đã nêu ra cách hiểu khái quát về
ngôn ngữ nghệ thuật nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc những nét riêng của ngôn
ngữ nghệ thuật với tƣ cách là phƣơng tiện biểu hiện của các sáng tác văn
học - loại hình nghệ thuật ngôn từ. Vì thế khái niệm "Ngôn ngữ nghệ
thuật" cần đƣợc khu biệt rõ hơn.
Theo chúng tôi "Ngôn ngữ nghệ thuật" là ngôn ngữ đƣợc sử dụng
một cách nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, đó là ngôn ngữ mang
tính hình tƣợng, tính biểu cảm và thể hiện rõ cá tính sáng tạo của nhà
văn. Trong thực tế, thuật ngữ này thƣờng đƣợc dùng tƣơng đƣơng với
các thuật ngữ: Ngôn từ nghệ thuật, Ngôn ngữ văn học, Lời văn nghệ
thuật.
Bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính toàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
vẹn, cụ thể, sinh động, có tính thẩm mĩ trong các tác phẩm văn học, chứ
không phải là ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác hoặc ngôn
ngữ với tƣ cách đối tƣợng chuyên biệt của ngôn ngữ học.
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật
* Trong hoạt động sáng tạo:
Với nhà văn: ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu để nhà văn
xây dựng hình tƣợng văn học và giao tiếp nghệ thuật, qua đó gửi gắm ý
đồ nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật có "cội nguồn từ ngôn ngữ
nhân dân", nhƣng đƣợc chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của
nhà văn, trở thành phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật. Nhà nghiên cứu
Phan Cự Đệ nhận thấy: "Ngôn ngữ khoa học không mấy khi có nhiệm vụ
tái hiện lại mối quan hệ tình cảm giữa người nói với đối tượng được nói
đến. Còn ngôn ngữ nghệ thuật thì bao giờ cũng tìm cách truyền các quan
điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy cái lối nhìn
sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giới của anh ta, nói tóm lại là
ngôn ngữ đó mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ. Đặc điểm
nói trên tạo nên sức rung cảm, thuyết phục và thu hút đặc biệt của ngôn
ngữ nghệ thuật" [32; 343].
Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật đối với hoạt động sáng tạo của
nhà văn cũng đƣợc các tác giả cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" khẳng
định: "Ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện
cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn" [69; 215]. Thông
qua ngôn ngữ nghệ thuật, mỗi nhà văn có điều kiện bộc lộ tài năng và cá
tính sáng tạo độc đáo của mình.
Với các thời kì, các trào lưu văn học: ngôn ngữ nghệ thuật chịu sự
chi phối của môi trƣờng văn hoá xã hội. Kho ngôn ngữ là của toàn dân,
đƣợc bồi đắp qua các thời kỳ lịch sử, nhƣng cách sử dụng nhƣ thế nào lại
phụ thuộc vào nhãn quan ngôn ngữ của mỗi thời đại, mỗi trào lƣu văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
học. Ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hoá của thời đại, mỗi
một trào lƣu văn học, mỗi một thể loại văn học có những nét riêng trong
sử dụng ngôn ngữ. Trong những đặc điểm chung về thời đại, về trào lƣu
sáng tác, mỗi nhà văn với cá tính, với vốn sống, trình độ văn hoá và quan
điểm thẩm mĩ của mình lại tạo ra phong cách ngôn ngữ riêng. Vì thế
ngôn ngữ nghệ thuật cũng góp phần tạo ra diện mạo phong phú, đa dạng
của một nền văn học.
Với các thể loại văn học: mỗi thể loại có đặc điểm ngôn ngữ riêng.
Ngôn ngữ của thể loại trữ tình mang đậm dấu ấn cảm xúc chủ quan của
nhà nghệ sĩ. Sự lựa chọn từ ngữ, phƣơng thức tu từ trong tác phẩm trữ
tình bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự
đồng cảm hay phê phán của chủ thể trở nên nổi bật. Mỗi câu thơ dƣờng
nhƣ đều có những từ chứa đựng sức nặng của tình cảm. Ngƣời xƣa gọi
đó là "thi nhãn" tức là những tiêu điểm để từ đó nhìn thấu tâm hồn tác
giả. Còn thể loại tự sự tái hiện đời sống thông qua việc miêu tả sự kiện, ở
loại này tác giả có thể đứng ngoài kể, cũng có thể để cho nhân vật tự kể.
Vì thế ngôn ngữ của thể loại tự sự là ngôn ngữ mang tính khách quan:
"lời tự sự là lời miêu tả, trần thuật theo lối kể lể, phân tích, chỉ ra các
thuộc tính một cách khách quan" [55; 365].
Giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ tiểu thuyết, còn nhận thấy sự khác
biệt nhƣ sau: "Nếu như trong thơ, ngôn ngữ trước hết cần phải đẹp, cao
cả và trang trọng thì trong tiểu thuyết, ngôn ngữ trước hết cần phải
chính xác, có khả năng tái tạo lại các đối tượng trong hình thái cá thể,
không lắp lại của nó" [32; 349].
Không chỉ có sự khác nhau trong ngôn ngữ giữa các thể loại, mà
ngay trong cùng một thể loại ở mỗi thời đại khác nhau lại có cách sử
dụng ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ tự sự trung đại khác với ngôn ngữ
tự sự hiện đại. Thậm chí trong cùng một thể loại, ở cùng một hoàn cảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lịch sử, nhƣng ở những phƣơng pháp sáng tác khác nhau thì ngôn ngữ
nghệ thuật cũng có những điểm khác nhau. Ngôn ngữ tiểu thuyết hiện
thực cũng khác với ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Ngôn ngữ của tiểu
thuyết hiện thực giản dị, chân thật, "mỗi từ đều phải dễ hiểu đối với
người đánh xe ngựa chở các cuốn sách từ nhà in đi" (Tônxtôi)" [32;
325]; đồng thời phải mang tính điển hình nghĩa là phản ánh đúng tính
cách, gắn liền với tâm lí xã hội và hoàn cảnh sinh sống của nhân vật,
phản ánh đúng cái điển hình trong cuộc sống.
Còn "trong tiểu thuyết lãng mạn, dấu ấn chủ quan của nghệ sĩ bộc
lộ rất rõ trong màu sắc ngôn ngữ, trong lối nói cường điệu và phóng đại,
lối nói trang trọng gây hưng phấn, lối dùng các biện pháp tu từ, lối dùng
một thứ văn giàu nhạc điệu…" [32; 347].
Tóm lại, ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ mang đặc trƣng ngôn
ngữ thời đại, ngôn ngữ thể loại, trào lƣu mà còn thể hiện rõ cá tính sáng
tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật sẽ
giúp các nhà nghiên cứu khám phá sâu hơn về về thế giới nghệ thuật và
phong cách nghệ thuật của nhà văn trên nền chung của một thời đại, một
trào lƣu văn học, một thể loại văn học.
* Với hoạt động tiếp nhận văn học:
Trong hoạt động tiếp nhận, ngôn ngữ nghệ thuật cũng có vai trò
quan trọng. Đó là "yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc đối
với tác phẩm" [49; 148]; là "hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại
nội dung tác phẩm" [17; 308]. Và từ yếu tố trực tiếp, đầu tiên, duy nhất
ấy mà ngƣời đọc có thể tìm hiểu, khám phá tƣ tƣởng nghệ thuật, thế giới
hình tƣợng…đã đƣợc nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
Tiếp nhận văn học dù với mục đích nào thì cũng đều phải bắt đầu
từ ngôn ngữ nghệ thuật, bởi vì "cả hình tượng nhân vật, bức tranh phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật về thế
giới và con người… chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của ngôn từ"
[40; 170].
Ngôn ngữ nghệ thuật chứa đựng trong đó cả thế giới nghệ thuật
mà nhà văn đã sáng tạo, từ nhân vật đến không gian, thời gian, chi tiết,
cốt truyện, kết cấu… không một bình diện nào nằm ngoài ngôn ngữ nghệ
thuật. Chính vì thế muốn nắm bắt đƣợc thế giới nghệ thuật ấy của nhà
văn, ngƣời đọc không thể không đi sâu khám phá ngôn ngữ trong tác
phẩm.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của một tác giả hay của một thể
loại, một trào lƣu văn học là một phƣơng diện quan trọng trong nghiên
cứu văn học.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH
1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có sự biến đổi sâu sắc từ xã hội
phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến trong cuộc tiếp xúc với
phƣơng Tây. Những thay đổi này một mặt nằm trong kế hoạch khai thác
thuộc địa tàn bạo mà thực dân Pháp đã vạch ra. Mặt khác theo hƣớng
tích cực, với vai trò là "công cụ vô thức của lịch sử", nó lại có tác dụng
đƣa Việt Nam dần thoát khỏi sự trì trệ ngàn năm của chế độ phong kiến
lạc hậu, dần bƣớc vào con đƣờng hiện đại Tây phƣơng. Sự thay đổi ấy
kéo theo sự biến đổi trong ý thức, tâm lý ngƣời dân, mà văn học là sự thể
hiện tập trung và cao độ nhất.
Song song với quá trình biến đổi ấy là sự xuất hiện của các đô thị
theo mô hình Tây phƣơng. Các đô thị mọc lên đã làm thay đổi hẳn cơ
cấu giai cấp, những tầng lớp mới đƣợc hình thành đã tạo nên sự đa dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
và phức tạp cho đời sống chính trị xã hội của đất nƣớc. Trƣớc kia, trong
xã hội Việt Nam có bốn hạng "tứ dân": Sĩ - Nông - Công - Thƣơng. Thì
thời điểm này có thêm những ông thông, ông phán làm việc cho Pháp,
công nhân làm việc trong các công xƣởng, hầm mỏ, nông dân bị phá sản,
mất hết ruộng đất phải lên thành phố kiếm sống. Tại đây có thể gặp đƣợc
đủ hạng ngƣời, từ lƣu manh, thất nghiệp đến lớp bình dân nghèo, tầng
lớp trung lƣu và cả giới thƣợng lƣu tƣ sản đua nhau thanh lịch, học theo
kiểu cách, lối sống phƣơng Tây. Họ phải quen với cuộc sống khác xƣa:
"Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây.
Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp(…). Nói làm sao
cho xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới chúng
ta. Cho đến những nơi hang cùng, ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn
giữ nguyên hình ngày trước. Nào dầu Tây, diêm Tây, nào vải Tây, chỉ
Tây, kim Tây, đinh Tây" [76; 16].
Lối sống coi trọng vật chất, hàng hoá, tiền bạc phá vỡ các quan
hệ luân thƣờng. Nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa ở thành thị đã làm con
ngƣời trở thành những cá nhân. Mà "trong một xã hội cá nhân trở thành
thực tế, thì luân thường - những quan hệ đạo lí bất biến - quá đơn giản,
chật hẹp, không thể chứa đựng nổi sự phức tạp đa dạng sự biến động
của thực tế cuộc sống. Ân tình không thể giải quyết hết các quan hệ.
Người ta phải tìm thế giới xã hội cách khác, có thái độ khác và chờ đợi
văn học đưa lại cho mình những cái khác trước" [36; 24].
Lối sống thay đổi đã tạo nên sự thay đổi trong tƣ tƣởng, tình cảm,
tâm lí của con ngƣời thời đại. Điều đó đòi hỏi văn học cũng phải thay đổi
từ tƣ tƣởng, quan niệm thẩm mĩ đến hình thức thể hiện. Quan niệm "văn
dĩ tải đạo", "thi dĩ ngôn chí" của văn học trung đại không còn phù hợp
với nhu cầu thƣởng thức của tầng lớp công chúng chủ yếu của văn học
lúc này nữa (tầng lớp thị dân). Trong cuộc sống mới , thế lực đồng tiền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lên ngôi, con ngƣời cá nhân cần khẳng định và tự tôn, ngƣời ta chờ đợi
và mong muốn một nền văn học sát với cuộc sống hiện thực đang diễn ra
hàng ngày: "Người ta cần hiểu rõ, hiểu kĩ cuộc sống với tất cả những chi
tiết đầy đủ, những chi tiết cụ thể trong cuộc sống bình thường thế tục.
Người ta muốn nếm trải cái có thật (hay có thể có thật), chứ không phải
được khích lệ bằng những tấm gương trung hiếu, minh hoạ bằng đạo
nghĩa… Người ta cũng muốn xúc cảm, muốn mở mang như những con
người cá nhân, chứ không phải xúc động như khi chiêm ngưỡng tấm
gương cao cả của các vị thánh xuất chúng" [36; 24 / 25].
Khát vọng đó của tầng lớp công chúng đã trở thành nhu cầu, thành
thị hiếu văn học, đòi hỏi nền văn học mới đáp ứng. Điều đó cũng góp
phần lí giải tại sao những đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
lại gắn với tầng lớp công chúng đông đảo này.
1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ
Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ là một cuộc cách mạng trong hệ
thống ngôn ngữ - văn tự của dân tộc ta. Trong thời kì phong kiến, chữ
Hán là văn tự chính thống đƣợc điển phạm hoá và hành chính hoá. Với
tƣ cách là văn tự vay mƣợn, lại đƣợc coi là "chữ thánh hiền", chữ Hán
chỉ đƣợc phổ biến trong phạm vi hạn hẹp của tầng lớp Nho sĩ theo đòi
"cửa Khổng. sân Trình". Hơn nữa nó không dựa trên cơ sở ngôn ngữ (lời
ăn tiếng nói) dân tộc, nên cũng không thể đƣa ra phổ biến rộng rãi trong
nhân dân. Chữ Nôm tuy là sáng tạo của nhân dân ta nhƣng lại lấy cơ sở
Hán tự mà cải biên đi, dùng ghi âm tiếng Việt nên cũng không thực thích
hợp. Chính điều đó đã tạo nên tính chất bó hẹp của văn học cổ điển trong
sáng tạo và thƣởng thức.
Sang tới chữ quốc ngữ, tình hình lại khác hẳn. Với ƣu điểm dễ
đọc, dễ viết, chữ quốc ngữ đã nhanh chóng đƣợc phổ biến trong nhân
dân. Bất cứ ngƣời dân bình thƣờng nào cũng có thể học và tự ghi chép
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lại lời ăn, tiếng nói hàng ngày. Nhiệm vụ "văn - ngữ nhất thể" mà văn
học Việt Nam thực hiện trong quá trình hiện đại hoá đầu thế kỷ XX
không thể thực hiện đƣợc nếu không có sự xuất hiện của chữ quốc ngữ.
Ngƣợc dòng thời gian, có thể thấy chữ quốc ngữ đã có một lịch sử
dài lâu nhƣng suốt ba thế kỷ trƣớc nó không có điều kiện phát triển. Năm
1651, với việc cuốn Từ điển An Nam - La tinh - Bồ Đào Nha do cố đạo
A.de Rhode soạn đƣợc in ở Vatican, Roma, đƣợc coi là mốc ra đời của
chữ quốc ngữ. Tuy nhiên thứ văn tự này chỉ tồn tại trong phạm vi những
ngƣời công giáo. Mãi hơn 200 năm sau, năm 1862 thực dân Pháp chiếm
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ và ra tờ "Gia Định báo" (1865 - 1909), nhằm
ban bố những chính sách với dân thuộc địa. Từ đây, chữ quốc ngữ mới
bắt đầu đƣợc phổ biến rộng rãi.
Cùng với quá trình mở rộng xâm lƣợc và đặt nền bảo hộ của thực
dân Pháp trên xứ An Nam, thứ văn tự mới cũng đƣợc mở rộng phạm vi
sử dụng. Ngƣời Pháp đã sớm nhìn thấy những mặt mạnh của của loại
văn tự này so với chữ Hán trong việc truyền bá những chính sách cai trị:
tính dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đánh vần, ghi âm. Mặt khác, nhằm nhanh
chóng xoá bỏ những ảnh hƣởng của chế độ phong kiến xứ thuộc địa mà
một trong số đó, đầu bảng là Hán văn nên trong thời kì đầu, Pháp ra sức
ủng hộ chữ quốc ngữ. Nghị định ngày 6/4/1878 viết : "Kể từ
ngày1/1/1882 không một tuyển dụng nào được thi hành, không một
thăng trật nào cho phép trong ngạch phủ, huyện. tổng đối với bất cứ ai ở
trong tình trạng không viết được chữ quốc ngữ" [48; 34]. Tiếp theo đó,
ngày 18/ 9/1924, Nghị định của toàn quyền Đông Dƣơng cho phép dạy
chữ quốc ngữ ở ba năm đầu trong sáu năm cấp tiểu học
Tuy nhiên, công lao hàng đầu trong việc phổ biến rộng rãi chữ
quốc ngữ đầu thế kỉ XX, qua đó hình thành nền quốc văn mới, phải kể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đến những nhà Nho yêu nƣớc cùng các trí thức có đầu óc tiên tiến "như
Trần Quý Cáp, Nguyễn Phan Lãng, Nguyễn Quyền, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng:
"Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách Âu Mỹ, sách Chi na
Chữ kia, chữ nọ dịch ra tỏ tường"
(Trần Quý Cáp)
(…) Và trong sáu chương trình của Văn minh tân học sách thì việc
học và dạy quốc ngữ ở vị trí số 1. Số 1, bởi nó có tầm quan trọng nhất
đối với việc xây dựng một nền văn hoá mới, để thay cho toàn bộ nền văn
chương học thuật cũ" [Dẫn theo giáo sƣ Phong Lê, Tạp chí Hán Nôm
số 5 (66) - 2004].
Tất cả họ - những nhà làm cách mạng văn tự mới đầu thế kỉ XX -
đã tạo ra những ảnh hƣởng cực kì to lớn cho hậu thế và cho ngay chính
thời kì đó. Một là mở đầu cho một ngành mới là báo chí, hai là mở đầu
cho một nghề mới là nghề in ấn - nghề trọng yếu trong xã hội hiện đại,
ba là khơi nguồn cho các loại hình văn học khác nhau phát triển. Với tất
cả những lí do trên, sự xuất hiện và phổ biến của chữ quốc ngữ đã tạo
một nền tảng quan trọng, là tiền đề trực tiếp cho nền quốc văn mới hình
thành. Sống trong giai đoạn lịch sử đang có những biến chuyển mạnh mẽ
ấy, cũng nhƣ nhiều trí thức tân học đƣơng thời, Nhất Linh không chỉ tiếp
nhận đƣợc những thành tựu do sự phát triển của chữ quốc ngữ đem lại,
mà còn khao khát xây dựng một nền quốc văn mới bằng chữ quốc ngữ.
1.2.1.3. Khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí
thức tân học đầu thế kỷ XX
Những năm đầu thế kỉ XX, văn học viết bằng chữ Hán lặng lẽ dần
rồi tàn lụi, văn học Việt Nam đã đƣợc chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ
của văn học quốc ngữ. Tuy nhiên, nói một cách đầy đủ hơn về mặt hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thống ngôn ngữ đƣợc sử dụng thì "có thể coi văn học mới như một nền
văn học kế thừa trực tiếp văn học Nôm của văn học dân tộc mười thế kỉ
trước" [36; 213]. Nhƣng những thành tựu của văn học chữ Nôm, thời kỳ
trung đại chủ yếu ở địa hạt thơ ca, còn văn xuôi không phát triển: "Nền
văn học truyền thống của ta căn bản là một nền văn học văn vần. Văn
xuôi cũng phải có nhạc điệu, tiết tấu hoặc là viết theo thể biền ngẫu,
hoặc là phải viết chen vào những đoạn văn vần. Văn xuôi viết bằng tiếng
nói thông tục không phát triển" [36; 32]. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các
nhà văn hiện đại là phải xây dựng ngôn ngữ văn xuôi mới: "Sự hình
thành văn xuôi mới , văn xuôi hiện đại được coi là sự kiện quan trọng
nhất của ngôn ngữ văn học Việt Nam thế kỷ XX" [34; 819].
Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, phong trào sáng tác văn xuôi
bằng chữ quốc ngữ đã đạt đƣợc những thành tựu bƣớc đầu. Có thể kể đến
các tác phẩm: Truyện thầy Lazazo Phiền (năm 1887) của P.J.B. Nguyễn
Trọng Quản, tác phẩm đƣợc coi là "cuốn tiểu thuyết bằng Quốc ngữ viết
theo phương Tây sớm hơn cả ở miền Nam" [34; 12]; tiểu thuyết chƣơng hồi
Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (năm 1910) của Trƣơng Duy Toản,
Hoàng Tố Oanh hàm oan (năm 1910) của Trần Chánh Chiểu, Giấc mộng
con của Tản Đà (1915) và một loạt truyện ngắn của Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Bá Học.v.v.
Tuy nhiên văn xuôi trong khoảng 20 năm đầu thế kỉ XX còn rơi vào
hai hƣớng: Một là dấu ấn của văn xuôi truyền thống còn đậm đặc trong các
sáng tác của những nhà Nho, những trí thức chịu ảnh hƣởng Hán học nhƣ
truyện của Phan Bội Châu, truyện của Tản Đà. Hai là văn xuôi có thiên
hƣớng vay mƣợn về cốt truyện, phóng tác, phỏng theo một cuốn sách có
giá trị nào đó của phƣơng Tây. Chẳng hạn nhƣ Hồ Biểu Chánh có nhiều
cuốn tiểu thuyết viết theo lối này nhƣ Chúa Tàu kim quy (phỏng theo Bá
tƣớc Monto Crito của Alexandre Du mas), Không gia đình (phỏng theo
Sans famili của Hectơ Malot), Ngọn cỏ gió đùa (phỏng theo Những ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khốn khổ của Victor Huygo).
Nói nhƣ Kiều Thanh Quế "Văn học chữ quốc ngữ chậm tiến bộ!... Sự
chậm tiến ấy là do chúng ta - những ông đồ nho không chịu nhìn xa trông
rộng - những ông đồ Tây chỉ biết ca tụng cái hay, cái giỏi của Tây phương,
rập khuôn theo người phương Tây, quên thuần phong mỹ tục nước nhà…"
[43; 33].
Tinh thần Hán Việt là nguồn gốc của lịch sử, của văn minh dân
tộc. Trên tinh thần ấy, cụ Nguyễn Bá Trạc, một nhà nho uyên thâm, có
thiện cảm với phái tân học, đã nói trong bài duyễn thuyết ở hội Trí Tri
(Hà Nội), ngày 7.10.1920: "…muốn bảo tồn quốc tuý cũng có thể lấy
chữ quốc ngữ mà bảo tồn, không cần phải Hán tự. Nhưng mà chữ Hán
thật là tài liệu tốt cho văn quốc ngữ (…). Tôi xin khuyên các ngài tân
học đã thành tài nên nghiên cứu cho thâm Hán học. Các ngài sẽ là
những bậc văn học chủ công ở trong thời đại mới mẻ này, học thuật Thái
tây nhờ có các ngài mà truyền bá trong nước ta, quốc dân cũng lấy làm
cảm ơn các ngài lắm (…). Tôi chỉ trông rằng sau này sẽ có một ngày kia,
học mới, học cũ cùng chung đúc lại một lò, mà thành ra một nền văn học
riêng của Việt Nam ta, thế thì con đường học vấn của ta vinh hạnh biết
dường nào! Nhưng mà, muốn cho đạt được sự ao ước ấy thì đương trông
mong ở các ngài vậy" [43; 34].
Nhƣ thế, bƣớc vào thập niên 20 của thế kỷ XX các cây bút cựu
học không còn đảm đƣơng nổi trọng trách mà lịch sử giao cho. Và nhiệm
vụ đó đƣợc trao cho "những người tân học yêu quê hương, yêu tiếng
Việt, đặc biệt phần lớn họ sinh vào thế kỉ XX, chính họ "đã nhận lãnh
phiên gác mới", làm sáng lên nền văn chương quốc ngữ " [43;35].
Những năm 20 của thế kỉ trƣớc đã dấy lên một phong trào sôi nổi
cổ động "xây đắp nền quốc văn mới", rất nhiều nhà văn hƣởng ứng.
Trong văn xuôi, một loạt tiểu thuyết viết theo lối mới đã ra đời nhƣ Giọt
máu chung tình (1920 - Tân Dân Tử), Cành lê điểm tuyết (1921 - Đặng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Trần Phất), Oan kia theo mãi (1922 - Lê Hoằng Mƣu)… Đặc biệt Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách (viết từ 1922, đăng nhiều kì ở tập kỷ yếu
của hội Cao đẳng ái hữu, rồi đến năm 1925 mới xuất bản), đó là tác
phẩm cho thấy "sự tác động mãnh liệt của lối văn chương mới của Trung
Quốc và văn chương lãng mạn phương Tây với ông Hoàng Ngọc Phách"
[43; 38].
Lúc này có nhiều dòng tiểu thuyết đƣợc xuất hiện. Tiểu thuyết xã
hội đƣợc xuất bản ở Sài Gòn nổi trội nhiều tác giả nhƣ Nguyễn Chánh
Sắc, Lê Hồng Minh, Phú Đức, Bửu Đình, Phạm Minh Kiên, Hồ Biểu
Chánh. Tiểu thuyết lịch sử của Trƣơng Duy Toản, Nguyễn Tử Siêu và
Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm.
Luồng gió văn hoá phƣơng Tây đã ùa vào Việt Nam, đem đến biết
bao sự mới mẻ, hấp dẫn và chính nó đã tạo một lực đẩy to lớn cho nền
văn hoá và văn học Việt Nam trên đƣờng hiện đại hoá. Nhƣng đồng thời,
ngƣời ta có thể nhìn thấy và lo lắng về một cuộc "xâm lăng văn hoá" từ
phƣơng Tây. Vấn đề xây dựng một nền quốc văn mới thực sự Việt Nam,
đang trở thành một thách thức với những ngƣời trí thức, những nhà văn,
nghệ sĩ đƣơng thời.
Nguyễn Tƣờng Tam lúc này đang là một thanh niên tràn đầy nhiệt
huyết, cũng đã hƣởng ứng tích cực phong trào xây đắp nền quốc văn mới.
Hồi tƣởng về những ngày tháng ấy, Tú Mỡ đã kể: "Tôi quen anh Tam từ
khi anh với tôi cùng làm sở Tài chính. Khi ấy anh chưa sang Pháp du học
nhưng đã rất để ý đến quốc văn. Khi ấy sở Tài chính còn ở Bờ Hồ, trong
sở chúng tôi bày ra nhiều trò chơi có ích cho sự tiến thủ về mặt luyện tập
quốc văn " [43; 42].
Tuy nhiên để thực hiện đƣợc khát vọng xây dựng một nền quốc
văn "đậm tính cách An Nam" không phải là điều dễ dàng. Trong buổi
đầu của cuộc tiếp xúc Á - Âu, câu văn quốc ngữ phát triển theo hai
hƣớng. Xu hƣớng thứ nhất là "câu văn biền ngẫu gần gũi với câu văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
của thể phú", "cấu trúc đăng đối, diễn đạt kiểu cách, lạm dụng vốn từ
ngữ Hán Việt" [34; 819], do ảnh hƣởng của câu văn trong văn học trung
đại còn nặng nề.
Xu hƣớng thứ hai là sự áp dụng cứng nhắc những mẫu câu của
ngôn ngữ Pháp vào ngôn ngữ Việt tạo ra những câu văn ngắn gọn tới
mức "cộc lốc", không chút nghệ thuật nhƣ kiểu Hoàng Tích Chu: "Canh
khuya, buồn. Thân gái, cực. Dặm trường, khổ".
Sự hình thành ngôn ngữ văn xuôi ở nƣớc ta đầu thế kỉ XX có sự
đóng góp tích cực của báo chí. Nhà nghiên cứu Đinh Văn Đức đã nhận
thấy: "Ở nước ta (…), ngôn ngữ văn học, nhất là văn xuôi đầu thế kỉ XX,
lại thừa hưởng thành tựu ngôn ngữ báo chí mà trưởng thành. Nhiều nhà
văn đã trưởng thành từ nhà báo, những áng văn xuôi mới hay nhất đã
từng xuất hiện trên báo chí trước khi được in thành sách. Lối văn trọng
sự thật, gãy gọn vốn là đặc trưng của ngôn ngữ thông tấn đã là tiền đề
cho ngôn ngữ trong các sáng tác văn xuôi mới với các thể loại khác
nhau…" [34; 820].
Những năm đầu thế kỉ XX là thời kì dựng nghiệp của báo chí Việt
Nam, nhất là báo chí quốc ngữ. Rất nhiều tờ báo đƣợc ra đời, đặc biệt từ
năm 1910 trở đi, báo chí càng phát triển, có thêm những xu hƣớng mới,
ngoài nhiệm vụ thông tấn, còn có các tạp chí dành cho học thuật và
chuyên khảo nhƣ: Đông Dƣơng tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí
(1917), Đại Việt tạp chí (1918), An Nam tạp chí (1926),… Báo chí lúc
này đã thiên về văn chƣơng, có lối diễn đạt của ngôn ngữ văn chƣơng.
Nhiều tờ báo đã có những chuyên mục văn nghệ, đăng các tác phẩm văn
học, cả các tác phẩm dịch thuật văn học nƣớc ngoài. Có thể nói báo chí đã
trở thành "bà đỡ" cho văn chƣơng mới đang thành hình. Đúng nhƣ Mã
Giang Lân khẳng định: "Quá trình chuyển từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ
bắt buộc tất cả những nhóm nhà văn, dù tân học hay cựu học, đều phải
trải qua một quá trình "tập làm văn" bằng tiếng mẹ đẻ, hay nói cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khác: đặt nền tảng xây dựng một thứ ngôn ngữ văn học mới bằng tiếng
Việt. Báo chí chính là môi trường thuận lợi cho những thể nghiệm đó"
[48; 150].
Có lẽ chính vì nhận thấy vai trò quan trọng của báo chí trong sự
phát triển văn học dân tộc, mà sau này Nhất Linh- Nguyễn Tƣờng Tam
đã bắt đầu từ con đƣờng báo chí để thực hiện khát vọng văn chƣơng.
1.2.2. Hành trình đến với văn học của Nhất Linh
1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học
Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam, sinh ngày 13 tháng 9
năm 1906 tại phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dƣơng, là con thứ ba trong gia
đình có sáu anh em trai và một ngƣời em gái. Nhƣ các anh em khác trong
gia đình, Nhất Linh đƣợc ăn học chu đáo, bản thân ông cũng rất chăm
học. Cha ông là công chức nhà nƣớc bảo hộ, nhƣng mất sớm (năm ông 12
tuổi), ngƣời mẹ tần tảo nuôi bảy đứa con ăn học. Sau khi cha mất, gia đình
lâm vào cảnh khó khăn, ông phải bỏ học hai năm, năm 1920 mới thi vào
trƣờng Bƣởi. Sau ba năm trung học, đỗ bằng Thành Chung, ông xin làm
thƣ kí ở sở Tài chính Hà Nội.
Theo Phạm Thế Ngũ, Nhất Linh là ngƣời năng khiếu "đa dạng đủ
vẻ, Pháp văn và khoa học giỏi, lại có tài vẽ, thích làm thơ văn quốc âm"
[44; 9]. Việc đi làm ở sở Tài chính Hà Nội chỉ là công việc tạm bợ trong
khi chờ đợi chuẩn bị công việc lâu dài và tại đây ông đã gặp gỡ, chơi
thân với thầy kí trẻ Hồ Trọng Hiếu - tức nhà thơ Tú Mỡ sau này. Tháng
11 năm 1925, chia tay ngƣời bạn thân thiết Hồ Trọng Hiếu, Nguyễn
Tƣờng Tam vào học trƣờng Cao đẳng Y khoa, có lẽ muốn tìm một nghề
nghiệp có địa vị hơn. Song cuối năm đó, nhà nƣớc bảo hộ mở trƣờng
Cao đẳng Mỹ thuật, vì tiếng gọi quyến rũ của "nàng Mỹ thuật", ông lại
bỏ trƣờng thuốc, thi vào trƣờng Mỹ thuật. Với tài hội họa bẩm sinh của
mình, Nguyễn Tƣờng Tam đã đỗ đầu, vào học và đƣợc hoạ sƣ ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Pháp - Victor Tardieu hết sức dìu dắt. Khả năng hội hoạ cùng những
kiến thức thu nhận đƣợc từ ngành học này đã có ảnh hƣởng khá rõ đến
ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh sau này. Những bức hoạ ngôn từ tinh
tế về thiên nhiên có khả năng nói thay tâm trạng con ngƣời trong tác
phẩm, chỉ có thể có đƣợc từ nhà văn có năng khiếu hội họa tài hoa.
Tƣ chất nghệ sĩ là nét nổi bật ở con ngƣời Nhất Linh, ngoài làm
văn, viết thơ, vẽ tranh, ông còn mê sáo trúc. Sau này khi chán nản, mệt
mỏi trong hoạt động chính trị, ông đã tìm đến Đà Lạt say sƣa kiếm lan,
thổi sáo cho lan nghe, đắm chìm trong thế giới thanh khiết. Chính những
phẩm chất nghệ sĩ đó đã tạo cho văn phong Nhất Linh chất thơ, chất
nhạc hiếm có, làm say lòng biết bao chàng trai, cô gái trong giai đoạn Tự
lực văn đoàn. Tuy nhiên trong những phẩm chất nghệ sĩ ấy thì niềm say
mê văn học với ông là hơn cả.
Nhất Linh ham đọc sách từ nhỏ, thói quen này ông giữ tới lúc lâm
chung. Trong tác phẩm Viết và đọc tiểu thuyết, ông cho biết đã đọc độ
vài ba trăm cuốn tiểu thuyết Việt, ba bốn chục truyện Tầu, năm sáu trăm
truyện trinh thám Anh, Mĩ và khoảng ngần ấy tác phẩm khác của Anh,
Mĩ, Pháp. Thủa nhỏ "độ 10,11 tuổi thường cùng các bạn trong nhà trọ
góp tiền thuê truyện Tàu để đọc to cho nhau nghe vào giờ nghỉ" [15; 97].
Những tác phẩm đƣợc đọc đã tạo cho Nhất Linh một niềm say mê văn
học từ rất sớm. Ông nói rằng từ lúc 13, 14 tuổi đã từng viết một vài
truyện ngắn nhƣng không bao giờ cho đăng. Tới khoảng những năm
1921, 1922 - khi 15, 16 tuổi - ông đã từng làm thơ Đƣờng luật đƣợc đăng
trên báo Trung Bắc tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh (bài Vịnh Tây Hồ).
Khi học trung học, từ năm đầu ban Thành Chung, Nhất Linh đã
tham gia bình luận truyện Kiều trên báo Nam Phong. Theo ông: "Truyện
Kiều thực là một tấm gương luân lí thiên cổ". Và: "Ngẫu nhiên Kiều, kể
đã hơn 100 năm rồi, cũng chưa có sách nào hay bằng. Cái đặc tài của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cụ Nguyễn Du về đường văn chương như vậy ở nước ta thật là không ai
(…). Nói đến cái hay của Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được" (Nhất
Linh) [43; 36].
Không ngạc nhiên khi với quan điểm "Ta chỉ nên nhận rằng văn
chương Kiều có thể làm cái mẫu rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và
người nào làm văn cũng nên theo cách làm văn trong truyện Kiều" [43;
36], hai tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tƣờng Tam: tiểu thuyết Nho
phong (1924) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1926) có sự ảnh hƣởng
truyện Kiều nói riêng và văn học cổ điển nói chung rất rõ. Đó là tƣ tƣởng
đạo nghĩa phu phụ, lối kể truyện của văn xuôi trung đại, câu văn đăng
đối du dƣơng.
Nhất Linh có khát vọng về một sự nghiệp văn chƣơng hơn ngƣời,
ông không muốn sống cuộc đời của một công chức nhà nƣớc bảo hộ
"Sáng vác ô đi, tối vác về". Ông đã từng tâm sự với Hồ Trọng Hiếu: "Tôi
không có ý trở thành ông tham, ông đốc… như ai. Nguyện vọng tha thiết
của tôi là được viết văn, làm báo, sống bằng ngòi bút của mình, sống
bằng nghề tự do ngoài vòng kiềm toả" [43; 522].
Niềm say mê văn học cộng với tƣ chất nghệ sĩ và khát vọng dùng
ngòi bút để hoạt động văn học nghệ thuật đã hình thành từ rất sớm trong
con ngƣời Nhất Linh. Chính điều đó đã thôi thúc ngƣời thanh niên
Nguyễn Tƣờng Tam tìm lối đi mới cho mình.
Theo Trƣơng Bảo Sơn, trong con ngƣời Nhất Linh có hai khuynh
hƣớng: "nghệ sĩ" và "cách mạng". Khuynh hƣớng nghệ sĩ thì đã rõ. Còn
khuynh hƣớng cách mạng là sự quan tâm của Nhất Linh với các vấn đề
xã hội. Ông "muốn san bằng mọi bất công trong xã hội loài người".
Trong thời gian học ở trƣờng Mỹ thuật, Nhất Linh đã nhiều lần vác giá
vẽ về những vùng nông thôn, tận mắt chứng kiến cuộc sống lam lũ khổ
cực của ngƣời nông dân. Chàng hoạ sĩ trẻ đã nhận ra đƣợc "hai vẻ đẹp"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trái ngƣợc: một bên là ngƣời dân với những kiếp: Nghèo, Nô lệ, Đầu
đường xó chợ. Cuộc sống lam lũ của ngƣời dân quê đã làm cho ngƣời
thanh niên ấy xúc động và thấy rằng không thể nào vui riêng với cái vui
của ngƣời nghệ sĩ. Thêm vào đó, sự sôi động của thời cuộc khoảng 1925
- 1926 càng kích thích Nguyễn Tƣờng Tam cái chí làm việc ích lợi cho
nƣớc, cho dân. Muốn thực hiện đƣợc chí đó, Nguyễn Tƣờng Tam phải
xuất ngoại, mong tìm học hỏi lấy những kiến thức và phƣơng tiện cần
thiết. Năm 1927, khi tìm đƣợc cơ hội, ông ném cây cọ, bỏ giá vẽ xin đi
Tây du học.
1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm xã
hội và văn chương của Nhất Linh
Năm 1927, đƣợc sự giúp đỡ của Hội du học bảo hộ - một tổ chức
của các quan đại thần Huế - Nhất Linh đã sang Pháp du học. Với tài
năng nhiều mặt, Nhất Linh đã theo học ban Khoa học, trong vòng 24
tháng giật đủ ba chứng chỉ để trở thành Cử nhân lý hoá. Nguyễn Tƣờng
Tam đã giải thích về việc muốn trở thành nhà văn, nhƣng lại đi học lấy
bằng "cách trí": "…sang Pháp chủ yếu là nghiên cứu nghề làm báo, để
khi về sẽ mở một tờ báo thể tài mới, khác hẳn các báo. Còn cái bằng cử
nhân khoa học? Chỉ là cứu cánh để phòng xa, nếu làm báo thất bại sẽ ra
làm giáo sư cũng tốt" [43; 526].
Quả đúng nhƣ vậy, trƣớc khi đi du học, ông đã nung nấu một con
đƣờng nghệ thuật khác hẳn với đƣơng thời và cũng nhìn thấy vai trò
quan trọng của báo chí với đời sống và văn chƣơng. Do vậy, trong những
tháng ngày du học, ngoài việc học ở nhà trƣờng, ông còn để ý đến đời
sống xã hội Pháp, những nét mới của văn chƣơng nghệ thuật, nhất là vai
trò tiền phong của báo chí, tiếng nói hữu quyền của nhà ngôn luận. Ông
đặc biệt đi sâu nghiên cứu đời sống văn học phƣơng Tây, cách điều hành
một tờ báo ở Pháp, từ việc tổ chức, sắp xếp bài vở đến nghệ thuật trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
bày. Trƣơng Bảo Sơn kể về Nhất Linh: "Có tiền, anh chỉ mua sách, mua
báo, say mê đọc, nghiền ngẫm nghệ thuật viết văn của họ, hầu có thể áp
dụng vào văn chương Việt Nam, để cải tiến nghệ thuật viết văn Việt
Nam. Trong khi ấy anh học thêm và tốt nghiệp cử nhân lý hoá" [43;
187].
Những kiến thức đƣợc trực tiếp thâu nhận từ nền văn hoá phƣơng
Tây nói chung và văn học Pháp nói riêng đã giúp Nhất Linh có những
thay đổi trong quan niệm về xã hội và văn chƣơng. Ông đã sớm nhận ra
những trì trệ trong xã hội Việt Nam đƣơng thời (tất nhiên cả trong văn
học) và mong muốn xây dựng một nền văn học mới. Ông không còn ca
ngợi tƣ tƣởng đạo nghĩa phu - phụ theo quan niệm của lễ giáo phong
kiến nhƣ trong các tác phẩm: Nho phong, Người quay tơ, Bạch Liên,…
viết trƣớc đây. Ông nhìn thấy rõ những mâu thuẫn gay gắt giữa con
ngƣời cá nhân với đại gia đình phong kiến, giữa ý thức hệ tƣ sản với lễ
giáo phong kiến. Ông mong muốn giải phóng phụ nữ ra khỏi chế độ đại
gia đình, tránh cho phụ nữ nỗi tình duyên ép buộc, cảnh mẹ chồng, nàng
dâu, cảnh goá bụa lạnh lùng. Và với tƣ tƣởng của một trí thức tiểu tƣ sản,
ông chủ trƣơng cải cách xã hội. "Phải cải cách vì xã hội chưa hợp lý:
Còn những cô Loan bị mẹ cha gả bán, những cô Nhung giam cầm trong
goá bụa, những bà Phán Lợi tàn ác mà không biết, (…). Còn những
cảnh "'tối tăm", những nơi "bùn lầy nước đọng" những "xã hội quê bao
giờ cũng khốn nạn, cũng nghèo xơ xác như bây giờ"…[43; 89]. Những
quan điểm mới mẻ về xã hội đó của ông đã đƣợc gửi gắm qua những
hình tƣợng nghệ thuật trong các tác phẩm về sau này nhƣ Loan, Dũng
trong Đoạn tuyệt, Nhung trong Lạnh lùng, Doãn trong Hai vẻ đẹp,…
Theo Nhất Linh, để cải thiện cuộc sống của ngƣời nông dân, phải
làm cho họ có học thức, hiểu biết, không để họ "sống mãi trong đêm tối
vì không ai soi sáng họ, dạy họ biết một cách sống khác". Và ông rất có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ý thức đấu tranh bằng văn nghệ cho những quan niệm xã hội của mình.
Ông thấy rằng không thể viết nhƣ trƣớc mà phải đổi mới cách viết. Đúng
nhƣ Phạm Thế Ngũ nhận xét: "Năm 1930, Nguyễn Tường Tam 24 tuổi
trở về nước, với trong đầu óc một chân trời mới, những quan niệm thay
đổi hẳn về xã hội và văn chương. Con người Nho phong đã nhường chỗ
cho nhà "cách mạng xã hội". Nhà văn chỉ biết khâm phục truyện Kiều
thấy cần phải đổi mới cái không khí văn học do phái Nam Phong thổi ra
từ trên 10 năm nay" [44; 11].
Từ Pháp trở về, Nhất Linh đã đem theo những hiểu biết về nền
văn học phƣơng Tây, đặc biệt văn học Pháp và những kiến thức mới mẻ
về khoa học, về xã hội, về nghề báo,… Đó chính là những cơ sở cho sự
thay đổi về quan điểm sáng tác, ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm
mới của ông.
1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị về
văn chương”, "làm giàu văn sản trong nước”.
* Ý tưởng táo bạo, mới mẻ về văn chương
Về nƣớc năm 1930, trong lúc chờ thực hiện hoài bão văn chƣơng
của mình, chàng cử nhân trẻ làm giáo sƣ dạy ở trƣờng trung học Thăng
Long, đồng thời không quên theo dõi tình hình báo chí đƣơng thời.
Những kiến thức thâu lƣợm đƣợc từ nhiều tờ báo ở Pháp đã giúp Nhất
Linh nhận thấy loại báo trào phúng rất hợp với sở thích mọi ngƣời, điều
này ở Việt Nam lại chƣa có. Nhất Linh nộp đơn xin ra báo Tiếng Cười
và tích cực chuẩn bị mọi thứ cho tờ báo tƣơng lai, từ bài vở cho đến nhân
sự toà soạn. Tú Mỡ đã kể:
"Anh thuê một căn nhà nhỏ trong ấp Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để
làm việc. Ở đó, tôi đã gặp mặt anh em trong toà soạn tương lai của tờ
báo, lúc đầu chỉ có năm người: anh Nguyễn Tường Tam, anh Nguyễn
Tường Long, anh Nguyễn Tường Lân và hai người ngoài là anh Trần
Khánh Giư và tôi - Hồ Trọng Hiếu(…) chủ trương sáng tác theo một tôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
chỉ đúng đắn: cải tạo xã hội cũ, đả phá mọi phong tục tập quán hủ bại,
xây dựng một đời sống mới tiến bộ, vui vẻ trẻ trung (…). Chúng tôi có
một đường lối sáng tác thuần tuý Việt Nam, lời văn bình dân trong sáng,
dễ hiểu" [43; 529 / 530].
Những hồi ức trên của Tú Mỡ đã tái hiện quãng thời gian sơ khai
của Tự lực văn đoàn. Có thể khẳng định rằng, trong quá trình chuẩn bị cho
báo Tiếng Cƣời với năm thành viên này, trong suy nghĩ của Nhất Linh đã
hình dung ra một nhóm nhà văn "vừa là đồng nghiệp, vừa là anh em",
hoạt động theo một tôn chỉ, một mục đích, cùng mong đóng góp vào sự
tiến bộ của văn học nƣớc nhà. Nhƣng báo Tiếng Cười không đƣợc phép
xuất bản vì không đủ tiền.
Nhƣng Nhất Linh không chịu đầu hàng. Năm 1932, tờ Phong Hoá
của mấy bạn đồng nghiệp cùng dạy học ở trong trƣờng ra đời, do Phạm
Hữu Ninh - ngƣời sáng lập trƣờng Thăng Long - làm quản lý, Trần
Khánh Dƣ - giáo sƣ Thăng Long - làm chủ bút. Phong Hoá mới ra đời
đã đƣợc nhiều ngƣời chú ý, nhƣng cái tôn chỉ "xét trong hai nền văn hoá
cái gì tốt đẹp thì thâu góp làm văn hoá nước nhà" của ông Phạm Hữu
Ninh chìm vào trong cái luận điệu dung hoà của thời đại, tờ báo không
đem lại điều gì mới mẻ và đi xuống. Nguyễn Tƣờng Tam thấy đây là
một cơ hội tốt để làm một thử nghiệm. Nhất Linh tập hợp bạn bè, đồng
nghiệp, ngƣời thân và tuỳ vào khả năng từng ngƣời, ông phân công từng
ngƣời đảm nhiệm những vị trí và công việc thích hợp. Tiếp đó, ông điều
đình với Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai (ngƣời chính thức có
giấy phép) để đứng ra làm lại tờ báo. Ngày 22 tháng 9 năm 1932, Phong
Hoá đổi mới ra mắt độc giả.
Với tài tổ chức của mình, Nguyễn Tƣờng Tam đã biến một tờ báo
vô thƣởng, vô phạt thành một tờ báo trào phúng đầu tiên của làng báo Việt
Nam. Và từ một tờ báo không ai biết đến, báo Phong Hoá mới đã đƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
quần chúng hoan nghênh nhiệt liệt, nổi tiếng khắp ba kỳ. Bởi vì: "Nó đáp
ứng đúng nhu cầu của trí thức, của bình dân; vạch mặt, làm bia chế giễu
những kẻ tai to mặt lớn, sống trên áp bức bóc lột dưới cúi luồn xu nịnh mà
người bình dân căm ghét; nó bàn đến và tìm cách thực hiện một cuộc đời
tươi sáng thay vào cuộc sống tối tăm, bùn lầy nước đọng; nó phát huy một
lối văn quốc ngữ trong sáng, đánh rấp các thứ văn lai căng đặc sệt những
danh từ Hán học" [43; 532].
Với niềm say mê nghệ thuật, với tƣ tƣởng xã hội và văn chƣơng
mới mẻ và tài tổ chức của mình, Nguyễn Tƣờng Tam đã thực hiện đƣợc
khát vọng làm báo để tuyên truyền, thực hiện "bài phong đả thực, xây
dựng một đời sống mới, một xã hội mới, một nền quốc văn mới" [44; 13].
Không dừng lại ở thành công đó, ông còn tính đến chuyện hoạt
động lâu dài. Đề cƣơng hồi ký của Thế Lữ (thành viên của toà soạn báo
Phong Hóa) ngày 18 tháng 6 năm 1977 có ghi: "Bài thơ đầu tiên: "Con
người vơ vẩn" trên báo Phong Hoá số tết (…) cùng Ngô Bích San đến
thăm Tú Mỡ(...) Buổi gặp gỡ ấy mở đầu (làm đà mạnh dạn) cho những
buổi khác đến thăm Nguyễn Tường Tam (…) Ngay từ buổi ấy Tam đã nói
đến formation dun noyan. Cái Noyan ấy tức là Tự Lực văn đoàn sau
này". Với tƣ liệu này, một lần nữa khẳng định việc thành lập một văn
đoàn đƣợc Nguyễn Tƣờng Tam nung nấu ngay từ những ngày hoạt động
văn học nghệ thuật đầu tiên sau khi từ Pháp trở về.
* Quan niệm về nghệ thuật của Nhất Linh
Nhất Linh là một con ngƣời làm việc nghiêm túc và say mê, không
bao giờ hoàn toàn hài lòng về cái mà mình viết. Có những tác phẩm mà
ông viết đến năm sáu lần. Vậy mà khi đã "xếp chữ tại nhà in, Nhất Linh
còn sửa đi sửa lại" [39; 471]. Với việc chọn bài báo, ông cũng đặt tiêu
chí đầu tiên là phải hay, phải giá trị: "Nhất Linh không bao giờ vì tình
hoặc vị nể ai mà đăng một bài văn hoặc một bài thơ mà anh cho là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
không hay, không giá trị" [43; 197]. Ông không chỉ mang "triết lý tuyệt
hảo trong cuộc đời", mà trong cả văn chƣơng nghệ thuật. Quan điểm
nghệ thuật của ông không chỉ đƣợc biểu hiện qua các hình tƣợng nghệ
thuật trong các tác phẩm mà còn đƣợc phát biểu qua cuốn Viết và đọc
tiểu thuyết, ông viết vào những năm cuối đời.
Trong tác phẩm, Nhất Linh đã bày tỏ khát vọng của ông là phải
viết đƣợc những cuốn sách hay, đó là những "cuốn sách có nghệ thuật
cao siêu, bền mãi với thời gian, được đời đời công nhận" [43; 61]. Cụ
thể là: "Những cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng sự thực cả bề
trong lẫn bề ngoài; diễn tả được một cách linh động các trạng thái phức
tạp của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến
mong manh tế nhị của tâm hồn bằng cách dùng những chi tiết về người
và việc để làm hoạt động những nhân vật cùng hành vi, cảm giác và ý
nghĩ của họ " [43; 388].
Để viết đƣợc những cuốn tiểu thuyết nhƣ thế, Nhất Linh nhận thấy
ngƣời viết phải xác định rõ đối tƣợng mà mình định viết phải là vấn đề
mà mình thích, xây dựng đƣợc đại cƣơng của cốt truyện, rồi định hình về
các nhân vật. Đặc biệt muốn tạo dựng đƣợc các nhân vật, ngƣời viết phải
có sự quan sát tinh nhạy con ngƣời, để nhân vật đó "đúng sự thực, có vẻ
sống, linh động", có nét riêng và "không lờ mờ", nhân vật hiện lên phải
có cả "tính tình, cử chỉ, hình dáng" cụ thể, đặc biệt là "đi sâu vào tâm
hồn người đời". Quan niệm nhƣ thế về một tác phẩm hay, tất yếu đƣa
ngòi bút Nhất Linh đi sâu khám phá thế giới tâm hồn con ngƣời với
những rung động tinh tế nhất.
Về cách diễn đạt trong văn chƣơng, Nhất Linh cho rằng: "Văn ấy
trước hết phải thật giản dị (…) Nên tránh mọi câu cầu kì (…) Nên tránh
những câu đăng đối (…). Văn tức là chọn cho thật đúng chữ để diễn tả
cái mình định nói…" [43; 414]. Quan niệm này khác hẳn quan niệm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ông trƣớc khi đi du học, ông chỉ thích viết những câu "đăng đối du
dƣơng, nghe êm tai". Ông cũng khẳng định rằng: "Mỗi người có một lối
văn khác biệt, không ai giống ai. Tâm hồn nhà văn, ý tưởng cùng sở
thích riêng của từng nhà văn không ít thì nhiều cũng biểu lộ ra trong
cách hành văn" [43; 416].
Nhất Linh rất để tâm đến giọng điệu của nhà văn thể hiện trong tác
phẩm. Theo ông, nhà văn nào khi viết cũng phải xác định đƣợc lối văn
sở trƣờng của mình, không nên bắt chƣớc ai. Và với ông, giọng điệu
tuyệt đích mà ông hƣớng đến là "viết giản dị mà không lạt lẽo, rất bình
thường mà vẫn sâu sắc, giọng văn hơi điểm một chút khôi hài nhẹ, kín
đáo" [43; 419]. Trong thực tế, ông chƣa thấy nhà văn nào đạt đƣợc tới
điều "tuyệt đích" đó. Nhƣng việc xác định rõ đƣợc hƣớng đi cho văn
phong của mình sẽ chi phối đến việc lựa chọn ngôn ngữ của nhà văn
trong quá trình sáng tác.
Trên con đƣờng văn nghệ, Nhất Linh luôn chủ trƣơng học tiếng
Việt, luyện tiếng Việt. Tƣờng Hùng trong bài viết "Một vài nét về chân
dung Nhất Linh" in trong Tạp chí Văn số 61 ngày 1/7/1966, đã xác nhận:
"Thường Nhất Linh rất ghét các câu quá Tây, những câu bí hiểm đầy
chữ khó hiểu, những sáo rỗng. Ông chủ trương một lối văn hoàn toàn
Việt Nam và thực giản dị".
Chủ trƣơng đó của Nhất Linh không chỉ đƣợc thể hiện thông qua
các tác phẩm, mà còn bằng việc tổ chức, tập hợp các nhà văn cùng chí
hƣớng với mình để xây dựng nên một văn đoàn độc lập đầu tiên. Sau
một thời gian chuẩn bị, năm 1933 văn đoàn đã ra mắt độc giả với tên gọi
là Tự lực văn đoàn. Lấy tên gọi Tự lực là có ý họ tự sức mình gây lấy
một cơ sở chứ không cậy nhờ bàn tay chính phủ hoặc một thế lực tài
chính nào, do đó có tƣ cách độc lập không tuân theo một chỉ thị nào,
ngoài đƣờng lối do chính họ vạch ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Tôn chỉ hoạt động của phái này đã nêu ra mƣời điểm nhƣ sau:
"1 - Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ
không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách
văn chương thôi. Mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2 - Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho
người và xã hội ngày một hay hơn lên.
3 - Theo chủ nghĩa bình dân; soạn những cuốn sách có tính cách
bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
4 - Dùng một lối văn giản dị, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính
cách An Nam.
5 - Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự
tiến bộ.
6 - Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình
dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không
có tính cách trưởng giả, quí phái.
7 - Trọng tự do cá nhân.
8 - Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9 - Đem phương pháp khoa học của thái Tây ứng dụng vào văn
chương An Nam.
10 - Theo một trong chín điều trên cũng được miễn là đừng trái
ngược với những điều khác."
Những nội dung trong tôn chỉ hoạt động của Tự lực văn đoàn đã
thể hiện rõ hoài bão của Nhất Linh cũng nhƣ của các nhà văn trong
nhóm về văn hoá dân tộc, mong muốn xây dựng một nền văn chƣơng
hoàn toàn có tính cách An Nam.
Là ngƣời chủ xƣớng, ngƣòi điều hành mọi hoạt động của tờ báo,
tất nhiên Nhất Linh đã tuân thủ nghiêm túc tôn chỉ sáng tác của văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đoàn. Và với tài năng, cá tính sáng tạo của mình, ông đã trở thành một
tiểu thuyết gia tài năng, một "cây bút trụ cột của Tự lực văn đoàn" [Mai
Hƣơng].
Khát vọng xây dựng một nền văn chƣơng hoàn toàn có tính cách
An Nam đã chi phối lớn đến việc lựa chọn ngôn ngữ trong các tác phẩm
của Nhất Linh, nó đã khiến ông có đƣợc những bƣớc tiến dài trên con
đƣờng nghệ thuật.
Chƣơng 2 QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NHẤT LINH TRƢỚC VÀ SAU KHI THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
2.1. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRƢỚC KHI THAM
GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TRONG "NHO PHONG" VÀ "NGƢỜI
QUAY TƠ")
2.1.1. Ngôn ngữ trong "Nho phong" và "Người quay tơ "mang đậm
dấu ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại
2.1.1.1. Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn xuôi trung đại
Tự sự Việt Nam thời trung đại xuất hiện dƣới hai hình thức: tự sự
bằng thơ và tự sự bằng văn xuôi. Thời trung đại, văn xuôi tự sự chủ yếu
đƣợc viết bằng chữ Hán và đƣợc chia thành ba nhóm: truyện, tiểu thuyết
chƣơng hồi và ký. Bị chi phối bởi mỹ học trung đại coi cái đẹp chỉ có ở
thời quá khứ, ngôn ngữ văn học trung đại nói chung và văn xuôi tự sự
nói riêng cũng mang những đặc trƣng của thời đại.
Vì tự sự trung đại chỉ quan tâm đến sự kiện và hành động của nhân
vật nên ngôn ngữ văn học trung đại ít chú ý đến miêu tả. Trần Đình Sử chỉ
ra đặc trƣng của ngôn ngữ trần thuật trong văn xuôi trung đại nhƣ sau: "Văn
học trung đại thường dùng sáo ngữ, công thức trong trần thuật, miêu tả,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
định danh; sử dụng chất liệu cao quý, đầy hoán dụ, ví von, định ngữ nghệ
thuật làm cho lời văn được mỹ lệ (tường gấm, mặt hoa, nghìn vàng, gót
sen, giọt ngọc,…)" [74; 69].
"Một đặc điểm khác là hay dùng lời trích, dẫn ngữ, dùng câu sẵn
để cải biên làm thành bài mới. Họ tìm các tiền lệ trong quá khứ để dẫn
giải việc thực tế, tạo thành các điển cố. Ngôn ngữ văn học trung đại đầy
những hình ảnh, biểu trưng cố định như tùng, cúc, trúc, mai, ngọc, rồng,
mây,…" [73; 174].
Do tính chất nghi thức đó cho nên khi miêu tả từng loại nhân vật
phải tuân theo yêu cầu của từng loại nhân vật ấy. Chẳng hạn khi miêu tả
một ông vua thì thƣờng gắn với: sự sinh hạ kì lạ, thuở nhỏ có sự cố phi
thƣờng, khẩu khí phi phàm, tƣớng mạo xuất chúng,… Nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Na nhận thấy: "Trong văn học phương Đông, diện mạo
nhân vật thường được quy vào một số công thức. Chẳng hạn "mặt rồng
mũi cao", "mắt sáng như sao', "tiếng nói như chuông", "sức bạt sơn, cử
đỉnh", "ngày đi ngàn dặm", "thân cao bảy thước ", "mắt phượng mày
ngài", "râu hùm hàm én" …" [67;82]. Và chính vì phải tuân theo những
công thức ấy mà có khi tạo ra những mâu thuẫn trong miêu tả nhân vật.
Ví dụ khi miêu tả Lê Chiêu Thống - nhân vật mà chính các tác giả đã phê
phán là "Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay chưa từng thấy bao
giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế" (trang 348). Song Chiêu Thống
vẫn đƣợc tô điểm: "mặt rồng mắt phượng, tiếng nói như chuông" (trang
66).
Đặc điểm của câu văn tự sự thời trung đại là tạo thành những vế
đăng đối nhịp nhàng. Đọc những tác phẩm nhƣ Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ, Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, … ta đều thấy rõ đặc
điểm này. Chẳng hạn đoạn văn sau trích trong Thượng kinh kí sự: "Trời
xuân sáng láng, hoa cỏ tốt tươi, mấy cây ở trước sân nhà U Trai (…) nở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
hoa, kết quả, tuyết rủ, hương bay…Trong cái ao ở mé tây vườn, đàn cá
tung tăng ra đớp những vành trăng nhấp nhô trên sóng. Chim oanh qua
lại vun vút như thoi đưa, bay vào lùm cây mát rượi. Tôi thường dắt tiểu
đồng lên núi. Tha hồ ngắm cảnh khói mây để tiêu khiển: hoặc ngồi ở
đình Nghênh Phong mà buông câu; hoặc ngồi ở đình Tối Quảng mà đọc
sách; hoặc ngủ trước bàn thờ ở nhà Di Chân" [68; 221], có năm câu thì
đã có tới bốn câu đƣợc viết theo hình thức này, tạo nên nhạc điệu du
dƣơng, réo rắt.
Nhƣ vậy, có thể thấy ngôn ngữ trong văn xuôi tự sự thời trung đại
mang tính công thức ƣớc lệ, chất hiện thực ít đƣợc chú ý, vẻ riêng của
ngôn ngữ tác giả cũng có song rất hiếm hoi. Lời văn hài hoà, nhịp nhàng,
cân đối mang đặc điểm của câu văn biền ngẫu. Ngôn ngữ nhân vật hầu
nhƣ chƣa có, phần nhiều là lời của tác giả nói thay vì thế nhân vật thiếu
sắc thái cá tính. Những đặc điểm đó đều do thời đại quy định.
2.1.1.2. Ngôn ngữ "Nho phong” và "Người quay tơ” mang đậm dấu ấn
ngôn ngữ văn xuôi trung đại
Nho phong (1924) và Người quay tơ (1926) đƣợc Nhất Linh viết
trong giai đoạn văn học Việt Nam đang có sự chuyển giao từ phạm trù
trung đại sang phạm trù hiện đại.
Ở giai đoạn này, văn học Việt Nam đang "ngổn ngang", "hỗn độn"
vì cái cũ vẫn còn, cái mới đã xuất hiện nhƣng chƣa đủ mạnh để chiến
thắng hoàn toàn trong cuộc tranh chấp. Có thể thấy rõ điều này qua ba
tác giả tiêu biểu của văn học cận đại Việt Nam: Tản Đà, Hồ Biểu Chánh,
Hoàng Ngọc Phách.
Nhận xét về Tản Đà, các tác giả của Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900 - 1945 đã viết: "Tản Đà đã làm giàu cho thơ ca dân tộc,
chuẩn bị cả về nội dung, cả về nghệ thuật cho Thơ mới ra đời". [36;
205]. Tản Đà đã đƣa đƣợc tình cảm của con ngƣời cá nhân trong đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thƣờng với những buồn, vui, lo âu, hy vọng, khao khát yêu đƣơng vào
văn học. Ông đã đi từ kinh nghiệm viết văn cũ, cách tân thể loại, phong
cách, làm cho văn chƣơng nhuần nhị, duyên dáng hợp với công chúng
thành thị. Nhƣng ông mới chỉ "dừng lại ngay tại ngưỡng cửa của tiểu
thuyết hiện đại". Trong lĩnh vực ngôn ngữ cũng vậy, câu văn của Tản Đà
vẫn chƣa thoát khỏi tính chất ƣớc lệ khuôn sáo, đăng đối của câu văn
trung đại.
Trƣớc năm 1930, Hồ Biểu Chánh là ngƣời viết nhiều tiểu thuyết
nhất ở Việt Nam. Tuy trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh đã đậm chất
hiện thực, làm nổi rõ con ngƣời và cảnh sắc Nam Kỳ, có ngôn ngữ gần
với lời ăn tiếng nói của đời thƣờng. Nhƣng ngôn ngữ văn xuôi Hồ Biểu
Chánh còn mộc mạc, chƣa trau chuốt, chƣa tạo đƣợc sự hấp dẫn với
đông đảo bạn đọc thành thị.
Đặc biệt Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (viết năm 1922, in thành
sách 1925) là một mốc quan trọng trong sự phát triển của tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại. Nó đã khắc phục, vƣợt thoát lối kết cấu chƣơng hồi
của tiểu thuyết truyền thống bằng cách kết cấu theo quy luật tâm lí.
Trong tác phẩm, thiên nhiên đã xuất hiện nhiều hơn so với văn học
truyền thống nhƣng Hoàng Ngọc Phách vẫn dùng lối văn biền ngẫu để
miêu tả, nên thiên nhiên chƣa đạt tới vẻ đẹp tự nhiên sinh động: "Xa
trông những hạt mưa bay mờ mờ trắng, mấy hàng tre gió lướt đổ ngà
ngà, những con chim bạt gió kêu bầy, mấy con bê lạc đàn gọi mẹ" (Tố
Tâm).
Mặc dù tác phẩm đƣợc đánh giá là "đánh dấu một cuộc cách mạng
trong làng văn về tư tưởng và lối viết" (Vũ Bằng). Nhƣng ngôn ngữ của
Tố Tâm cũng còn nhiều hạn chế nhƣ dùng nhiều từ cổ, chƣa tránh đƣợc
một số câu triết lí dài dòng, chƣa tránh đƣợc cái réo rắt của câu văn biền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ngẫu.
Hai năm sau kể từ khi Tố Tâm đƣợc viết, năm 1924, tiểu thuyết
Nho phong của Nguyễn Tƣờng Tam bắt đầu đƣợc viết. Tác phẩm đã kể
lại câu truyện tình giữa Lê Nƣơng - ngƣời con gái thảo hiền và Dƣơng
Văn - một hàn sĩ để ngợi ca những mẫu ngƣời lí tƣởng theo quan niệm
phong kiến. Thể hiện chủ đề truyền thống ấy, ngôn ngữ trong các tác
phẩm của Nguyễn Tƣờng Tam còn mang rất nhiều dấu ấn của ngôn ngữ
văn xuôi trung đại.
* Câu văn đăng đối, nhịp nhàng mang dáng dấp của câu văn biền
ngẫu
Là một trí thức Tây học, nhƣng từ nhỏ Nhất Linh đã mê đọc
truyện Tàu, đọc đi đọc lại không chán những truyện Đông chu liệt quốc,
Tam quốc, Tây Hán, Thuỷ hử…, lại "là một độc giả khâm phục Nam
phong, một tín đồ của văn chương Nguyễn Du" [44; 9] nên trong tác
phẩm đầu tay này ông có ảnh hƣởng của lối viết truyền thống cũng là
điều dễ hiểu. Khảo sát hai văn bản Nho phong và Tố Tâm - căn cứ vào
số chữ trên dòng (Nho phong: 10 chữ trên dòng, Tố Tâm: 12 chữ trên
dòng) và số dòng trên một trang văn bản (Nho phong: 26 dòng và Tố
Tâm: 33 dòng), chúng tôi đã tính đƣợc tỉ lệ 65 trang truyện Nho phong
tƣơng ứng với 50 trang truyện Tố Tâm - và thu đƣợc kết quả nhƣ sau:
Số câu Tỉ lệ TB tính trên trang văn Tác phẩm Số trang dạng bản Nho phong biền ngẫu
65 138 2,1 câu Nho phong
50 80 1,2 câu Tố Tâm
Nhìn vào kết quả trên, có thể nhận thấy Nguyễn Tƣờng Tam rất
thích sử dụng kiểu câu đăng đối này. Điều đó sau này đã đƣợc ông công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nhận trong Viết và đọc tiểu thuyết. Chúng ta có thể trích ra đây rất nhiều
những câu văn đƣợc kết cấu thành những vế cân xứng, chẳng hạn nhƣ
các câu trong trang 1 của văn bản Nho phong:
"Cánh buồm theo gió, ròng rã năm ngày đến ấp An Thi. Cụ Phủ
Lê bấy lâu đi làm quan xa quê hương đã ngoại hai mươi năm, tuổi già,
râu tóc đã bạc, mới được về thăm chốn cũ(1). Tuy nhậm phủ Thanh
Lương trong bấy nhiêu năm mà nhà vẫn thanh bần như lúc còn nho
sĩ(2).
Bà phủ mất sớm, chỉ để lại một người con gái tên là Lê - nương,
năm ấy tuổi mới trăng tròn(3). Cụ phủ thấy mình không ai nối dõi, nên
đêm ngày buồn bã bèn đem con về vui thú điền viên, không nề hai chữ
công danh, cho bận chiếc thân già yếu(4). Vả Lê - nương đã lớn các nhà
quan gia quen thuộc có ý dòm nom, cụ nghĩ rằng còn chút con gái không
muốn gả chỗ xa xôi, định về làng xem có nơi nào xứng đáng thì gả, không
cứ nghèo giầu, chỉ mong sao lúc đau yếu con cái có người gần gụi, có
người trông nom săn sóc đến mình (5).
Bấy giờ hồi tưởng đến thưở niên thiếu mà ngậm ngùi. Nhớ khi còn
là học trò, những ao ước đỗ đạt làm quan, đến nay lẩn thẩn về già,
đường công danh đã trải mà ngắm lại có khác chi đâu (6)".
Cả trang văn có 8 câu thì 6 câu đƣợc viết theo hình thức cân xứng
. Ở câu (1), câu văn đƣợc chia làm ba nhịp cân đối, các thanh bằng trắc
có sự luân phiên nhịp nhàng. Câu (2) chia làm hai vế nói về hai thời khắc
của cuộc đời cụ Phủ Lê, mỗi vế lại chia thành hai đoạn, mỗi đoạn cân đối
nhau về số lƣợng từ ngữ, đem lại sự nhịp nhàng cân đối cho lời văn. Ở
câu (3) và (4) các vế câu đăng đối còn có sự kết hợp với các sáo ngữ:
"tuổi mới trăng tròn", "vui thú điền viên", "hai chữ công danh" "chiếc
thân già yếu", tất cả tạo nên nhạc điệu ngân nga, trầm bổng, mang đậm
chất thơ cổ phƣơng Đông. Tuy nhiên hạn chế của kiểu câu này là nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
dung thông tin đem đến cho ngƣời đọc ít, câu văn nhiều khi dài lê thê ,
khó đọc, có lẽ vì thế mà sau này Nhất Linh nhận thấy đó là những câu
"nhịp nhàng êm ái (nhưng trống rỗng)" [43; 363].
Việc sử dụng nhiều câu viết theo kiểu biền ngẫu này là do ảnh
hƣởng của nền văn chƣơng lúc đó. Ông đã lý giải về điều này: "Tôi bị ảnh
hưởng tai hại của nhà trường, của văn chương Pháp và của văn chương
Tàu hay ta hồi ấy(quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe
êm tai, nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ viết ra
những câu như thế và cho ngay là truyện của tôi hay" [43; 363]. Sự ảnh
hƣởng này có lẽ chỉ là do tác động tự nhiên, chứ Nguyễn Tƣờng Tam
không phải là nho sĩ, không đƣợc đào tạo nơi "cửa Khổng, sân Trình", nên
dấu ấn không sâu đậm (vì vậy sau khi đi du học về, câu văn nghệ thuật
của ông đã có sự biến đổi rất nhanh chóng).
* Dùng nhiều từ ngữ cổ mang tính ước lệ
Trong Nho phong, số lƣợng từ cổ đƣợc sử dụng rất nhiều, đặc biệt
là các từ Hán - Việt cổ, làm cho lời văn nặng nề, khó hiểu. Chẳng hạn
các từ "thỉnh nghiệp", "tác thành" trong câu văn sau: "Bà Huấn liền
nhân tiện nhắc đến việc muốn cho con giai sang thỉnh nghiệp , xin cụ
nghĩ đến tình thân mà ra công tác thành cho" [trang 5]; từ "thƣơng
tâm" với ý nghĩa chỉ lòng thƣơng ngƣời trong câu: "Cụ khuyên người ta
nên lấy thƣơng tâm làm gốc" [trang 7]; hoặc từ "kinh lịch" với nghĩa
chỉ sự hiểu biết trong câu: " Cụ giảng giải bao giờ cũng minh bạch,
tường tận, tỏ ra rằng tuy tuổi già mà tinh thần còn tráng kiện, càng ngày
sự kinh lịch càng rộng thêm ra và lại hay suy nghĩ về nghĩa lý ở đời"
[trang 6]...
Khảo sát từ cổ hai tác phẩm Nho phong và Tố Tâm với số trang
tƣơng ứng nhau, ta thu đƣợc kết quả: Tố Tâm xấp xỉ 7,5 từ / trang văn
bản, còn ở Nho phong khoảng 9 từ / trang văn bản. Nhƣ vậy tỉ lệ từ cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trong Nho phong nhiều hơn hẳn Tố Tâm.
Căn cứ vào kết quả đó, ta thấy, mặc dù Nho phong đƣợc viết sau
Tố Tâm 2 năm nhƣng ngôn ngữ của Nguyễn Tƣờng Tam lại cổ hơn ngôn
ngữ của Hoàng Ngọc Phách rất nhiều. Có lẽ vì thế mà Tố Tâm đã gây
nên cả một "cơn bão" trên văn đàn trong khoảng 10 năm trời, còn Nho
phong lại bị rơi vào quên lãng không chỉ vì nội dung mà còn cả về nghệ
thuật.
Ở Nho phong và Người quay tơ, Nguyễn Tƣờng Tam còn sử
dụng nhiều từ ngữ cố định, mang tính chất ƣớc lệ đã mòn sáo kiểu nhƣ:
"tuổi mới trăng tròn" [1; 1] để nói đến ngƣời thiếu nữ, "làn thu ba như
nhuộm vẻ sầu" [1;14] hoặc "làn thu ba đắm đuối như hỏi như han như
oán trách vô ngần" [6; 39] để tả đôi mắt; những hình ảnh ƣớc lệ:
"…Nhưng bóng hoa thấp thoáng, dáng liễu thanh tân, làm cho chàng
nhiều phen phải man mác trong lòng" [1; 8] để miêu tả dáng vẻ mềm
mại của ngƣời thiếu nữ; tả cảnh cũng vậy: "Thỉnh thoảng thấy cảnh đẹp,
trời chiều man mác, điếm cỏ cầu sương …" [6; 29], hay "… xa xa toàn
là núi, ngọn nọ ngọn kia không dứt, sắc núi mầu lam, buổi sáng buổi
chiều mây bay sương phủ" [6; 30],...
Trong tác phẩm, tâm trạng Dƣơng Văn khi đến tìm Lê Nƣơng khi
không thấy nàng cũng chẳng khác tâm trạng Kim Trọng khi trở lại vƣờn
Thuý tìm Kiều. Ngôn ngữ miêu tả vì thế cũng có nhiều nét giống ngôn
ngữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: "Đứng ngoài trông ngẩn ngơ
trăm nỗi, nhớ đến cụ Phủ mà ngậm ngùi, không biết bây giờ cụ đã đi đến
chốn nào xa xôi mịt mù, linh hồn không biết còn quanh quất đâu đây nữa
không; nếu cụ còn trông thấy cái cảnh song trăng quạnh quẽ; vách mưa
rã rời này , tuy cụ có tính điềm đạm thật, chắc cũng phải đau lòng vì
cuộc đời thay đổi" [1; 32].
Biện pháp so sánh bóng bẩy quen thuộc, cổ kính cũng hay đƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tác giả sử dụng, ví dụ nhƣ: "…tóc nàng không năng trải trông bối rối
như mây thu"[1; 13], "… thấy nàng đi vào mặt tươi như hoa và lạnh như
sương, thời lòng tôi phấp phới như bướm trên hoa" [6; 39].
Tính chất công thức, sáo mòn của từ ngữ làm cho những sự vật,
hiện tƣợng, tâm trạng đƣợc miêu tả trong Nho phong chƣa rõ nét, chẳng
hạn miêu tả Từ Nƣơng: "Cô trông xinh lắm, người thanh thanh vừa tầm,
hai con mắt êm đẹp, mỗi khi trời nắng, gió lạnh, cô ra sân hai tay ngọc
xe sợi tơ vàng dệt lụa là cho người trong làng mặc" [6; 13]. Hoặc có khi
cầu kì khó hiểu nhƣ: "Ngày trước Lê - nương như đoá hoa lan ở nơi u
cốc lạnh lẽo nên tuy đẹp mà trong cái đẹp có vẻ yếu ớt, ẻo lả. Từ hôm
sang ông chú, như được vào chỗ ôn thất, không ngại mưa rầm, gió bấc,
thành ra dung nhan lại tươi tốt thêm bội phần, chàng phải lấy làm lạ,
nửa buồn, nửa vui; vui vì người của mình yêu thật đáng bậc quốc sắc,
thiên hương, buồn vì tiếc cái hình dung vẫn tơ tưởng như phảng phất
quanh mình" [1; 33].
Trong tập truyện Người quay tơ còn có một số tác phẩm dịch,
ngôn ngữ văn dịch của Nguyễn Tƣờng Tam cũng mang nhiều nét cổ
kính nhƣ vậy. Đây là một đoạn văn trong truyện ngắn Truyện người ca
kĩ họ Nguyễn (dịch ở Kiến văn lục) mang dấu ấn đậm nét của ngôn ngữ
Truyện Kiều (Nguyễn Du): "Thiếp nếu có phải là người trăng hoa thời
thiếu gì trai tơ trong thiên hạ, tự nghĩ phận mình hát xướng khó kiếm
được tấm chồng danh giá, nên phải đem con mắt tinh đời mà kén chọn
anh hùng từ khi rồng mây chưa gặp, để hòng sau nương gửi tấm thân.
Nếu chàng coi thiếp như liễu ngõ hoa tường thời nay xin từ biệt" [6; 64].
Đoạn văn sau thì lại đậm đặc từ Hán - Việt làm cho lời văn nặng
nề, khó hiểu: "…Có lòng kiên tính , có tính nghĩa hiệp, có mắt tinh đời,
nàng gồm cả ba điểm đó, không cứ trong bọn quần thoa, dẫn trong đám
tu mi cũng ít ngưòi sánh kịp, thế mà phải lưu lạc giang hồ, cùng cực đến
thế. Có lẽ những người tài nữ kiêm bị thời dẫu cho nhi nữ, con tạo kia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cũng ruồng rẫy đi chăng?" [6; 67]. Những từ Hán - Việt cổ trong câu
văn trên đã có phần xa lạ đối với độc giả Việt Nam những năm 20 của
thế kỷ trƣớc, khi "một buổi hoà nhạc tân kì đƣơng sắp sửa".
Nhƣ vậy, ngôn ngữ của Nguyễn Tƣờng Tam trong hai tác phẩm Nho
phong và Người quay tơ còn rất cổ cả về dùng từ, kiểu câu, các biện pháp
tu từ. Nhất Linh sau này khi trò chuyện với Nguyễn Ngu Í đã tự nhận: "Nho
phong, Người quay tơ í cũ, lời xưa. Vẫn còn trong khuôn khổ gò ép của thời
chữ quốc ngữ mới phôi thai" (Nguyễn Ngu Í – “Sống và viết với…”).
Trong thời điểm đó, văn học Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ "một năm
của ta bằng ba mƣơi năm của ngƣời" (Vũ Ngọc Phan), lại đem so với ngôn
ngữ trong Tố Tâm mới thấy rõ Hoàng Ngọc Phách có bƣớc tiến vƣợt bậc,
bỏ xa ngôn ngữ của Nguyễn Tƣờng Tam. Nguyên nhân sự cổ kính về mặt
ngôn ngữ của Nguyễn Tƣờng Tam nhƣ trên đã nói vừa do ảnh hƣởng của
thời đại vừa do ảnh hƣởng của quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Giai
đoạn này ông rất đề cao lối hành văn trong truyện Kiều, coi đó là chuẩn
mực của văn chƣơng đƣơng thời.
2.1.2. Ngôn ngữ văn học của buổi giao thời
2.1.2.1. Tính chất giao thời trong dùng từ, đặt câu
Trong việc dùng từ, tác giả đã chú ý đến cách nói giản dị, nhƣng
bộc lộ đúng và rõ cảm xúc của nhân vật. Có nhiều từ đƣợc dùng theo
cách nói hiện đại, gọi tên cảm xúc cụ thể, chân thực, bình dị, chứ không
bóng bẩy nhƣ từ ngữ của văn học trung đại. Ví dụ nhƣ: "Dương Văn chờ
mãi không thấy Lê Nương đến chơi, nhớ quá mặc áo, sang nhà ông Cử
họa may có thấy mặt nàng cho bõ tấm lòng khao khát" [1; 33].
Có khá nhiều từ ngữ hiện đại đƣợc đƣa vào trong tác phẩm của Nhất
linh, những từ ngữ này chỉ có thể có đƣợc trong xã hội hiện đại - khi đã tiếp
xúc nhiều với văn hoá phƣơng Tây, chẳng hạn nhƣ: "đồn điền", "thư viện",
"công nghệ", "hoà hợp", "xã hội", "văn minh", "thoát li"…[2;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
19/20/21/31,…].
Tuy nhiên, trong Nho phong và Người quay tơ, ta còn thấy có hiện
tƣợng từ dùng không đúng nghĩa, hoặc sắc thái biểu cảm không phù hợp.
Chẳng hạn nói về Lê Nƣơng, ngƣời con gái vẫn đang ở thời thiếu nữ tác giả
viết: "từ thủa trẻ long đong khổ sở" [1; 35] (1); hay khi miêu tả Thu Lan
con gái thứ ba của ông Cử: "… Thu Lan mới lên 14 tuổi, trông ngoan
ngoãn, Lê - nương đem lòng yêu dấu hơn cả" [1; 32] (2), …Ở câu (1) từ
"thủa trẻ" nay dùng là "thủa nhỏ", và câu (2) ta thấy "ngoãn ngoãn" là từ chỉ
phẩm chất của con ngƣời, không thể "trông" mà thấy đƣợc nên không thể
kết hợp với từ "trông".
Hoặc khi tả Lê Nƣơng ốm tƣơng tƣ, đau khổ vì không lấy đƣợc
ngƣời mình yêu, nửa đêm tỉnh giấc khóc. Tiếng khóc của nàng đƣợc
miêu tả là: "rầm rĩ", đôi mắt thì: " thiu thiu như đã mất cả khí sắc"[1;
63]; hay "vừa đặt mình thì nước mắt tầm tã" [1; 35]…
So sánh với từ ngữ hiện đại, ta còn thấy nhiều chữ viết không
chuẩn chính tả. Khảo sát toàn bộ truyện Nho phong ta thấy có 80 chữ
viết khác với cách viết ngày nay, chẳng hạn nhƣ: dau, suềnh soàng, xuốt
(xuốt ngày, xuốt đêm), chơ chẽn...(Xem bảng phụ lục 3).
Về kiểu câu: Trong Nho phong và Người quay tơ, Nhất Linh đã
sử dụng câu khá hiện đại. Nhiều câu văn có cấu trúc rõ ràng, gọn gàng,
dùng dấu câu phù hợp nên diễn đạt ý mạch lạc, trong sáng. Chẳng hạn:
"Đêm đã khuya, cô con gái thôi hát, người đến xem cũng tản mát gần
hết. Vườn lại vắng vẻ, chỉ còn lơ thơ vài ba cái đèn giấy treo trên cây,
trông lại sân gạch đằng sau, bóng giăng xuống trắng soá" [1; 39]. Có
nhiều câu văn dài nhƣng nhờ biết sử dụng liên từ hợp lí nên không chỉ
diễn đạt ý rõ ràng, mà còn biểu đạt đƣợc trạng thái cảm xúc của ngƣời
phát ngôn - nhân vật - trong tác phẩm. Ví dụ nhƣ: "Hôm nay có lắm câu
thơ hay, không có chị nghe cũng hoài mất. Người con gái hát đây, giọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đã trong, đối đáp lại tài, hát lên lắm câu thơ rất buồn và rất hay; những
câu ấy nghe đâu như của chàng Dương Văn đã đặt sẵn ở nhà cho" [1;
38]. Cặp liên từ: " đã" - "lại" đƣợc sử dụng hợp lí trong câu thứ hai, vừa
thể hiện đƣợc ngữ điệu của ngƣời nói, vừa bộc lộ thái độ ca ngợi của
ngƣời nói với đối tƣợng đƣợc nói đến.
Hoặc ở đoạn văn sau, tác giả đã biết sử dụng kết cấu câu theo kiểu
đối lập, rồi tăng tiến (nhờ các cặp liên từ), kết hợp với dấu câu phù hợp
để diễn đạt rất khéo lời khuyên của ông Cử với Lê Nƣơng: "Lúc bác mất,
cháu đã có lời giao ước với Dương Văn, nhưng chú xét ra như sức cháu
không sao chịu được tình cảnh nhà ấy đâu; nghèo là khổ, cháu có lạ gì.
Bấy lâu cháu quen ăn sung, mặc sướng, kẻ hầu, người hạ, nếu về làm
dâu, bao nhiêu công việc nặng đều đến tay cả, tuy cháu cũng chăm làm
thật, nhưng sức yếu ớt thế kia, gánh vác sao nổi. Chú càng nghĩ lại càng
áy náy cho cháu lắm"[1; 43].
Tuy nhiên, bên cạnh thành công ấy ta có thể nhận thấy nhiều câu
văn còn kết cấu lỏng lẻo, mối quan hệ giữa các thành phần câu chƣa rõ,
chẳng hạn: "Càng phân vân bao nhiêu thì cái thương yêu lại càng tăng
lên bấy nhiêu, yêu vì cái sắc đẹp tuyệt trần mà kín đáo là ngần nào,
thương vì thân liễu yếu ớt mà gặp phải tình cảnh nặng nề như thế" [1;
18]. Câu văn chia làm hai vế, kết cấu theo lối tăng tiến, nhƣng dùng từ,
đặt câu còn vụng nên nội dung diễn đạt chƣa rõ ràng, thiếu mạch lạc.
Có những câu dài dòng, nhiều vế, kết cấu cú pháp không rõ, liên
kết không chặt, chỉ chú ý đến cấu trúc đăng đối, ngân nga: "Hai tay đưa
chiếc thoi, trông rất sinh sắn, mềm mại đương dệt, thỉnh thoảng quay mặt
trông ra vườn mai, bóng cành cây lay động trên bức lan can, tiếng hát
dưới trăng trong, giáng người cũng thảnh thơi, đối cảnh tình tứ nhẹ
nhàng man mác, lòng vui như hiện ra nét cưòi trên miệng" [1; 37]. Chỉ
một câu văn mà quá nhiều nội dung: tả hành động của nhân vật, nêu nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
xét của ngƣời kể chuyện, miêu tả tâm trạng nhân vật, lại không sử dụng
các liên từ cần thiết để làm rõ mối quan hệ giữa các vế câu, nên ý nghĩa
không rõ, mạch văn lủng củng.
Có khi câu văn nhiều vế, nhƣng chủ thể của hành động không có,
mối quan hệ giữa các vế câu không rõ: "Một hôm, đương ngồi quay tơ
ngoài sân thời có một trò nho đi qua, thấy nàng đẹp quá mê đứt đi, ngày
nào cũng hai lần trèo qua cái đồi cao sang để gặp mặt nàng như thế, được
gần một năm" [6; 13].
Thống kê về cách sử dụng kiểu câu trên 50 trang văn bản Nho
phong, ta nhận thấy dấu vết giao thời rất rõ. Trong số 353 câu thì có tới
168 câu văn viết chƣa đúng chuẩn của cách diễn đạt hiện đại, nghĩa là
câu văn dài, nhiều vế câu nhƣng mối quan hệ giữa các vế câu chƣa rõ do
chƣa biết sử dụng liên từ phù hợp, mang dáng dấp câu biền ngẫu, chiếm
tỉ lệ tới 47,6% tổng số câu.
Tất cả những đặc điểm về cách dùng từ, đặt câu trong Nho phong
và Người quay tơ của Nguyễn Tƣờng Tam đều mang đậm dấu ấn của
ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, mà tác giả Đinh
Văn Đức gọi là "ngôn ngữ văn xuôi sơ kì".
2.1.2.2. Bước đầu có sự kết hợp giữa ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ
nhân vật
Ngôn ngữ miêu tả đã mang vẻ đẹp tự nhiên gần gũi, bớt chất cổ
kính, ước lệ.
Khác với đặc điểm ngôn ngữ trung đại khi miêu tả thiên nhiên
thƣờng mang vẻ ƣớc lệ, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên trong Nho phong
và Người quay tơ của Nguyễn Tƣờng Tam đã mang vẻ đẹp tự nhiên hồn
hậu, đầy sức sống của sự vật: "Hôm ấy là ngày mồng ba tháng ba. Trời
sáng mà êm đềm gió thổi mạnh, lá cây phấp phới, những ngọn dâu ướt
mưa đêm hôm qua, ánh nắng chiếu vào trông như lấm tấm vàng. Dưới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
gốc lá tước gần hết, qua cành cây nhỏ và lơ thơ trông thấp thoáng thấy
dòng sông Thôn chảy. Cảnh vật hình như tươi cười hớn hở" [1; 22].
Cảnh vật tƣơi tắn, thân thuộc biết bao với con ngƣời nơi thôn quê, mang
nét riêng của vùng quê có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ƣơm tơ, dệt vải.
Ngôn ngữ miêu tả khá trong sáng, với những so sánh, liên tƣởng
giản dị, có khi bay bổng, lãng mạn: "Tiếng hát lúc to, lúc nhỏ, khi nhẹ
nhàng như sợi tơ bay, khi trong vắt như bóng trăng lai láng, điệu thơ thanh
thoát, nhời nhẽ tự nhiên, câu đối đáp nhau có ý nhị,…" [1; 37]. Có khi xuất
hiện những so sánh cụ thể, mang dấu ấn ngôn ngữ hiện đại, tuy nhiên còn
rất mộc mạc: "…mỗi một tiếng khóc của Lê - nương như một chiếc đinh
đóng vào quả tim" [1; 28]; hoặc "trong lòng tình muốn yêu như nước thuỷ
triều lên chan chứa" [1; 15].
Ngôn ngữ miêu tả nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại thƣờng
chỉ chú ý khắc họa diện mạo, hành động, rất hiếm khi miêu tả tâm trạng
nhân vật. Hoặc có miêu tả tâm trạng nhân vật cũng bằng một cái nhìn
khách quan, tác giả đứng ngoài quan sát: "Ngay cả những đoạn phân tích
tâm lí nhân vật, người viết vẫn tỏ ra "hững hờ" ngoài cuộc" [67; 96].
Chính vì thế tâm trạng nhân vật không đƣợc biểu hiện cụ thể. Nhƣng
trong Nho phong và Người quay tơ, tác giả đã chú ý khắc hoạ những
trạng thái tâm lí của nhân vật, tuy nhiên ngôn ngữ miêu tả còn đơn giản,
mộc mạc. Chẳng hạn câu văn miêu tả tâm trạng Dƣơng Văn: tình yêu bắt
đầu chớm nở từ khi chàng biết ngƣời con gái của cụ Phủ rất xinh đẹp
"Một ngày hai ngày cái tình cứ dần dà thấm vào lòng, chàng không để ý
mà cũng không ruồng rẫy cứ để yên mà hưởng cái thú phảng phất vô
song" [1; 12]. Tình yêu e ấp của cả hai ngƣời trong buổi ban đầu đƣợc
miêu tả thú vị qua hành động: "Dương Văn đâm ra có tính tò mò, đương
viết có khi dừng bút nhìn qua vườn để trông bóng nàng đi lại bên kia sân;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nàng qua lại luôn, có khi lại quay mặt về bên này. Dương Văn tưởng
nàng nhìn thấy vội cúi mặt xuống, lấy tay bóp chán ra dáng nghĩ ngợi" [1;
12].
Lời kể của tác giả đã bắt đầu nhập được vào ý nghĩ của nhân vật:
"Từ thủa trẻ long đong khổ sở, nhưng còn có người thương yêu đến, tới
nay cha mẹ qua đời cả, anh em không có, cô độc một thân, cái hy vọng ở
đời chỉ còn trông mong về đường chồng con mà lại không được như ý thì
khổ biết đến thế nào?" [1; 35]. Tâm trạng đau khổ của Lê Nƣơng khi
không đƣợc chú cho lấy ngƣời mình yêu đã đƣợc khắc hoạ rõ nét qua lời
kể ấy. Rõ ràng tác giả đã không chỉ đứng ngoài mà miêu tả con ngƣời.
Ở tác phẩm Người quay tơ còn xuất hiện kiểu nhân vật tâm lí,
chẳng hạn nhƣ Phạm Đài trong truyện ngắn Làm gì mà băn khoăn thế.
Anh ta luôn trăn trở, băn khoăn không lúc nào yên khi nhận thấy cái tẻ
nhạt , nhàm chán đơn điệu của cuộc sống "ngày hai buổi ung dung lên
xe nhà vào sở ". Để bộc lộ tâm trạng của nhân vật, trong tác phẩm còn
xuất hiện kiểu ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm. Trong truyện có
ba đoạn độc thoại thành lời và hai đoạn độc thoại nội tâm. Đây là một
đoạn độc thoại của nhân vật: "Cái buồn cái lo nhỏ mọn làm gì mà bứt
rứt thế ? Ôi! Con người ta sinh ra là mảnh bụi làm gì mà băn khoăn
thế ? Ta hãy quên đi, ta hãy nguôi đi" [6; 53]. Lời độc thoại đã bộc lộ
nỗi trăn trở của con ngƣời không thể tìm thấy niềm vui trong cuộc sống
hiện tại, thấy mình sống vô nghĩa. Anh ta tìm mọi cách để quên đi những
đau khổ, băn khoăn ấy, kể cả bỏ việc, không xem sách, tìm mọi thú vui
khác để không còn phải nhớ. Thậm chí trốn tránh cuộc đời tìm vào nơi
rừng xanh, núi đỏ để sống ẩn dật,… nhƣng không thể thoát đƣợc.
Lời độc thoại thứ hai đã thể hiện sự thức tỉnh của nhân vật về lí do
nỗi đau khổ đó: "Nhưng đem thân mình đến đâu là nó theo đuổi đến
đấy, có khi tức quá lấy tay chỉ lên đầu mà than với mình rằng: "Nó ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
đây, đi đâu mà không có nó được " [6; 55] và độc thoại thứ ba bộc lộ suy
nghĩ, sự tự ý thức của nhân vật khi so sánh với ngƣời khác: "Phạm Đài
lại tự hỏi: nhưng cũng có nhiều người như mình mà vẫn được yên tâm,
vẫn sống như người khác có làm sao đâu" [6; 56]. Trƣớc các độc thoại,
bao giờ tác giả cũng có lời chỉ dẫn cụ thể, báo trƣớc cho ngƣời đọc biết
nhân vật sắp tự nói một mình bằng các từ nhƣ: "tự than", "than với mình
rằng ", "tự hỏi ".
Trƣớc hai đoạn độc thoại (2) và (3) thể hiện sự thức tỉnh của Phạm
Đài tác giả đã dùng hai độc thoại nội tâm để bộc lộ những suy nghĩ sâu
xa trong tâm hồn nhân vật.
Đoạn độc thoại nội tâm thứ nhất: "Phạm Đài tự nghĩ mình hay suy
xét về nghĩa lý ở đời mà công việc mình làm đây lại không có nghĩa lý gì
mới nên thế chăng" đã bộc lộ tính toán cá nhân cá nhân của Phạm Đài.
Nghĩ vậy nên anh ta bỏ việc, làm việc khác, rồi không làm gì cả, ăn chơi
cho quên đời.
Đoạn độc thoại nội tâm thứ hai: "Phạm Đài tưởng tượng bây giờ
đi làm nghề kéo xe thời có khác gì không, chắc vẫn thế mà thôi, chỉ đổi
cái bề ngoài không ăn thua, cốt chính là ở mình, muốn thoát ly thời phải
giữ lòng mình được thảnh thơi, giá lúc bấy giờ có cái suối tiên nào mà
tắm được nhẹ nhàng tấm thân, làn nước nào làm trôi sạch cả cái bực tức
ấy đi thời khoan khoái đến đâu" [6; 55], đã bộc lộ tƣ duy của nhân vật
thấy rõ có thay đổi nghề nọ hay nghề kia cũng không thể thoát đƣợc nỗi
khổ tâm về cuộc sống vô nghĩa, nên anh ta quyết định bỏ lên rừng sống
ẩn dật.
Tác giả đã kết hợp lời kể với lời độc thoại và độc thoại nội tâm của
nhân vật giúp cho nhân vật hiện lên rõ nét hơn, bắt đầu có đời sống nội
tâm. Nhƣng ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm trong Người quay tơ
còn ở mức rất thô sơ, đơn giản, mới chỉ thể hiện đƣợc những suy nghĩ "lộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thiên" của nhân vật, chứ chƣa đi sâu đƣợc vào những vùng "mờ tối",
những uẩn khúc, éo le trong tâm trạng con ngƣời nhƣ ngôn ngữ trong các
sáng tác giai đoạn sau.
2.1.2.3. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, chưa được cá tính hóa
Các nhân vật trong truyện Nho phong và Người quay tơ đã đƣợc
xây dựng nhƣ những con ngƣời có ý thức về cá nhân, có khát vọng về
cuộc sống hạnh phúc, nhƣng ý thức cá nhân đó chƣa mạnh, chƣa vƣợt
lên khỏi tƣ tƣởng đạo lý Nho giáo. Vì thế đối thoại của các nhân vật
nhiều khi nhƣ là lời phát ngôn cho số đông, cho truyền thống đạo nghĩa
từ ngàn đời. Chẳng hạn lời tâm sự giữa Lê Nƣơng và Dƣơng Văn. Trong
một không gian trữ tình của đêm trăng, lúc vắng vẻ, không ai có thể ngăn
trở họ bộc lộ tình yêu, thế nhƣng cả hai đều không dám bày tỏ nỗi lòng,
mà đều khuyên nhau tuân theo sự sắp đặt của gia đình, thuận theo lễ giáo
phong kiến:
"Dương Văn nghe cũng cảm thương
- Bây giờ quyền gả bán ở tay ông Cử, bổn phận cô là phải nghe
theo, tôi cũng không dám trách cô nữa, cô cứ an tâm mà ăn ở thế nào
cho phải đạo. Nếu sự đã quá đi rồi, cô không thể không nhận lời với bên
kia được, thời thật đêm nay là đêm đôi ta ra đây than thở để từ biệt
nhau.
Nàng cứ lặng yên ngồi nghe, Dương Văn nói đến câu cuối cùng
thì nàng hơi dươm dướm nước mắt như muốn khóc, thổn thức mà nói
rằng:
- Giao ước với nhau cũng là ngỡ về sau ân ái một lòng, nếu biết
trước rằng giở dang như thế này thì thà như không biết nhau cho xong.
Nhưng đã biết rồi thì dứt ra cũng đau lòng lắm. Cái cảnh tôi thật là khó
nghĩ quá. Nếu không nhận lời thì không sao ở đấy được nữa" [1; 54/ 55].
Qua lời đối thoại, Dƣơng Văn, Lê Nƣơng cơ bản vẫn là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ngƣời phát ngôn cho quan niệm lễ giáo phong kiến: "cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy". Những tình cảm khát khao chân thật, tha thiết của con tim
chƣa thốt ra lời.
Lê Nƣơng là ngƣời phụ nữ lý tƣởng theo quan niệm xƣa, lời nói
của nàng thƣờng dịu dàng. Nhƣng cũng có khi nàng nặng lời khi biết
Văn Dụ là kẻ đã gây tai vạ cho ngƣời mình yêu mà ông chú lại bắt nàng
phải lấy hắn:
"- Thưa chú, chuyện này chỉ có mình cháu biết thôi; nói ra thì bảo
là binh Dương Văn, chứ thật thì chàng bị oan uổng, có đứa nó thù hãm
hại đấy thôi, mà đứa ấy chính là Văn Dụ, đồ mạt kiếp; nó thấy con với
Dương Văn sắp sửa lấy nhau, nó tức mà nghĩ mưu, đổ xấu cho Dương
Văn để cho chú bắt con phải lấy nó. Nhưng đời nào con lại chịu thế, thà
chết còn hơn, chứ không bao giờ thèm lấy đứa vô loại ấy" [1; 70/ 71].
Một loạt từ ngữ bộc lộ rõ cảm xúc đã cho thấy giọng điệu phẫn nộ
cực điểm của Lê Nƣơng, nàng không tiếc lời mạt sát Văn Dụ, gọi hắn là
"đứa", "nó", chửi hắn là "đồ mạt kiếp", "đứa vô loại" và khẳng định quyết
liệt "thà chết còn hơn chứ không bao giờ thèm lấy" hắn. Cá tính của nhân
vật cũng bƣớc đầu bộc lộ qua ngôn ngữ. Nhƣng những lời đối thoại nhƣ
thế chƣa nhiều.
Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong Nho phong và Người
quay tơ đã có những chuyển biến so với ngôn ngữ văn xuôi trung đại.
Nhƣng khi so sánh với các tác phẩm cùng thời đó (ví dụ: Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách) thì ta thấy ngôn ngữ của Nhất Linh còn rất cổ, mang
đậm dấu ấn trung đại. Có nhìn thấy rõ những hạn chế trong ngôn ngữ
nghệ thuật của ông giai đoạn này, mới thấy rõ những biến chuyển lớn
sau cuộc Pháp du đối với ngôn ngữ Nhất Linh trong các tác phẩm sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
này.
2.2. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRONG GIAI ĐOẠN
THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ( TỪ "ĐOẠN TUYỆT" ĐẾN "BƢỚM
TRẮNG")
Nhiều nhà nghiên cứu đã chia tiểu thuyết của Nhất Linh trong giai
đoạn này thành hai loại: Tiểu thuyết luận đề và Tiểu thuyết tâm lí. Theo
Nhất Linh tiểu thuyết luận đề là "… tiểu thuyết để nêu lên một vấn đề lý
thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì đó mà tác giả cho là tốt
đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng
sự, để chứng tỏ một cái gì đó…" [15; 367]. Nói một cách giản dị thì tiểu
thuyết luận đề là những tác phẩm viết ra để minh hoạ cho một chủ đề,
một tƣ tƣởng nào đó của tác giả. Còn tiểu thuyết tâm lý "tập trung cái
nhìn hướng nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới bên trong thầm kín của
con người. Ở đây cảm hứng chủ đạo của nhà văn là khám phá, phân tích
tâm lý nhân vật" [34; 231].
Sau khi đi học ở Pháp về, với một tầm nhìn mới, một quan niệm
mới về cuộc đời và con ngƣời, Nhất Linh đã sớm nhận ra những trì trệ,
cổ hủ trong xã hội Việt Nam đƣơng thời. Ông rõ cuộc xung đột giữa "cái
cũ" và "cái mới", giữa tƣ tƣởng phong kiến bảo thủ với tƣ tƣởng dân chủ
tân tiến. Hai tác phẩm tiêu biểu viết về nội dung này là: Đoạn tuyệt và
Lạnh lùng. Trong những tác phẩm từ sau 1938, ông lại đi sâu khám phá
đời sống nội tâm của con ngƣời , hai cuốn tiêu biểu cho tiểu thuyết tâm
lý của ông là: Đôi bạn và Bướm trắng.
Trên cơ sở nhất trí với cách chia sáng tác của Nhất Linh trong thời
kì Tự Lực văn đoàn thành hai giai đoạn nhƣ vậy , chúng tôi đi tìm hiểu
sự biến đổi ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả trong hai giai đoạn. Bởi
ngôn ngữ là biểu hiện về mặt hình thức, mà "hình thức của tác phẩm
không phải là chiếc vỏ ngoài thuần tuý mà là phương thức tồn tại và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
phương tiện biểu hiện của nội dung" [65; 4].
2.2.1. Ngôn ngữ trong "Đoạn tuyệt" và "Lạnh lùng" – “một lối văn
giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối v ă n thật có tính cách An
Nam"
Sau khi tuyên bố thành lập Tự lực văn đoàn, ngoài nhiệm vụ tổ
chức , sắp xếp mọi hoạt động của văn đoàn và tờ báo Phong Hoá, Nhất
Linh còn say mê sáng tác. Giai đoạn này ông sáng tác khá nhiều: Nắng
thu (viết 1934, in 1942), Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1934), tập
truyện ngắn Tối tăm (1936)và hai tác phẩm viết chung với Khái Hƣng:
Gánh hàng hoa (1934), Đời mưa gió (1935).
Với khát vọng xây dựng một "nền văn chương mang đậm tính
cách An Nam" và những kiến thức thâu nhận đƣợc từ văn minh phƣơng
Tây, Nhất Linh đã tạo ra đƣợc nhiều đổi mới trong tƣ tƣởng, đề tài, cốt
truyện và ngôn ngữ nghệ thuật, đem đến sự say mê cuốn hút với ngƣời
đọc. Sự cuốn hút ấy trƣớc hết là ở những nội dung tƣ tƣởng mới mẻ mà
nhà văn nêu ra trong các tác phẩm, đó là vấn đề con ngƣời cá nhân, là sự
đấu tranh quyết liệt của cái mới chống lại cái cũ. Đoạn tuyệt đã ca ngợi
tình yêu lứa đôi tự do và chủ trƣơng giải phóng ngƣời phụ nữ ra khỏi đại
gia đình phong kiến. Còn Lạnh lùng đã đề cập đến nỗi khổ của ngƣời
phụ nữ goá bụa, còn trẻ nhƣng vì lễ giáo phong kiến bó buộc, bị dƣ luận
áp chế mà không dám tái giá, phải ở vậy để sống một cuộc đời "trong
sạch" giả dối. Từ những mối quan hệ trong gia đình, Nhất Linh đã nêu
lên thành những vấn đề xã hội đòi hỏi sự quan tâm của công luận và đã
giải quyết theo hƣớng tiến bộ. Tác giả đòi hỏi những ngƣời con gái nhƣ
Loan quyền đƣợc sống đời tự do độc lập, mong muốn ngƣời đàn bà goá
trẻ nhƣ Nhung quyền đƣợc hƣởng hạnh phúc yêu đƣơng, tất cả đƣợc
sống tự nhiên theo sở thích cá nhân, thoát khỏi sự kìm kẹp của lễ giáo và
cổ tục. Những tƣ tƣởng mới mẻ đó của tác giả đã nói hộ nỗi lòng của biết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
bao nam thanh, nữ tú thời kì này, đã gây ra nhiều xôn xao cho dƣ luận
trên báo chí lúc bấy giờ. Không chỉ vậy, tƣ tƣởng ấy còn đƣợc thể hiện
qua cách viết mới mẻ, hiện đại với ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu vì thế
thực sự đã tạo nên sự say mê, lôi cuốn, sự "say sƣa thấm vào tận đáy
lòng", làm cho tất cả những gì mà "cơn bão" Tố Tâm gây ra trƣớc đó đi
vào quên lãng.
2.2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật giản dị, mạch lạc, trong sáng
* Với quan điểm viết văn "giản dị, rõ ràng, nói sao, viết vậy, mà
viết cho có đầu có đuôi, hay ở chỗ gọn gàng lƣu loát", câu văn của Nhất
Linh trong Đoạn tuyệt và Lạnh lùng đã thoát hẳn đƣợc kiểu câu văn
dạng biền ngẫu dài lê thê, nặng nề, nhiều Hán tự, điển tích, điển cố hoặc
những từ khuôn sáo nhƣ trong Nho phong, Người quay tơ.
Kiểu câu đƣợc sử dụng chủ yếu trong các tác phẩm này là câu có
mệnh đề sáng rõ. Đây là một đoạn văn trong Đoạn tuyệt:
"Loan lại tìm đến phố Dũng ở. Vì hôm đó trời nắng ráo, nên dãy
nhà trông bớt vẻ tồi tàn. Loan tò mò nhìn vào trong mấy gian nhà tối
tăm, lạnh lẽo. Thấy từng gia đình lúc nhúc trong bóng tối, trong khi ở
ngoài trời nắng mới, ánh sáng rực rỡ phấp phới trên lá cây. Loan bùi
ngùi liên tưởng, nghĩ đến những người tự dấn thân vào một cuộc đời ảm
đạm, đi bên cạnh những sự vui sướng trời đã dành riêng cho mà vô tình
không biết. Rồi Loan nghĩ đến chính thân mình: đời nàng xoay về ngả
nào chỉ lát nữa nàng sẽ rõ; nàng đương ở một ngã ba, hiện giờ còn
lưỡng lự chưa biết bước theo con đường nào. Hai cảnh đời vẽ ra trước
mắt nàng, một cảnh đời nàng thấy lộng lẫy, nhưng chứa chất đầy những
sự nguy hiểm, nàng còn sợ chưa dám cả gan bước vào, và một cảnh đời
bằng phẳng đầy những sự tầm thường nhỏ mọn mà có lẽ là cảnh đời của
nàng về sau này" [8; 175/ 176].
Đoạn văn có sự kết hợp hài hoà giữa câu ngắn và câu dài, nội
dung đƣợc diễn đạt rõ ràng, trong sáng. Ở các câu dài nhiều mệnh đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
mối quan hệ giữa các vế câu rất rõ nhờ các liên từ. Không còn dạng câu
biền ngẫu đăng đối, nhƣng Nhất Linh hay sử dụng kiểu câu dài, nhiều
mệnh đề để đi sâu phân tích lí giải tâm trạng nhân vật, tạo ra lời văn nhịp
nhàng, uyển chuyển phù hợp với tâm trạng con ngƣời. Có lẽ vì thế mà
nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã nhận xét "lời văn của ông lại nửa giản
dị, nửa đài điếm".
Đối chiếu câu văn truyền thống với câu văn trong Đoạn tuyệt của
Nhất Linh, các nhà nghiên cứu Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Hiệp,
Dƣơng Hồng Nhung đã nhận thấy "có một bước tiến đột phá trong cách
thể hiện của câu văn tiếng Việt hiện đại (…). Câu văn tiếng Việt trở nên
trong sáng hơn, không còn hiện tượng biền ngẫu, chồng chất điển tích và
từ Hán Việt; thể hiện sự phản ánh lời ăn, tiếng nói của nhân dân. Đó là
những câu văn được xây dựng theo một hệ thống kiến trúc mới, có thể
phân tích thành các thành phần câu (chính - phụ), có thể phân tích các
phương tiện ngôn ngữ theo chức năng" [34; 880 / 881].
Nguyên nhân là do ông đã "áp dụng những công cụ ngữ pháp mới
thể hiện tính tự nhiên vốn có của ngôn ngữ giao tiếp, làm câu văn thoát
khỏi khuôn khổ gò bó của văn vần, thoát khỏi tính nặng nề của câu văn
biền ngẫu" [34; 896].
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, sau khi đi học ở Pháp về, Nhất
Linh đã có bƣớc tiến dài trong cách sử dụng câu văn nghệ thuật, chuyển
từ đậm màu sắc trung đại trong Nho phong, Người quay tơ sang đặc
điểm hiện đại trong Đoạn tuyệt, Lạnh lùng.
Trong cách dùng từ, tác giả không còn thích sử dụng những từ
bóng bẩy, các sáo ngữ, mà sử dụng những từ ngữ giản dị, gần với lời nói
thông thƣờng, ví dụ: "nắng ráo", "bớt vẻ tồi tàn", "lúc nhúc trong
bóng tối", "đời nàng xoay về ngả nào",….
Khảo sát từ cổ trong văn bản một số tác phẩm của Nhất Linh và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Khái Hƣng, mỗi tác phẩm 50 trang, riêng Nho phong do số chữ trên
dòng và số dòng trên trang ít hơn, chúng tôi khảo sát số trang tƣơng ứng
là 62, thu đƣợc bảng số liệu sau:
Tác phẩm Số trang
62 (50) Số từ cổ 606 Tỉ lệ tính trên trang văn bản 12,1 từ Năm sáng tác 1924 Nho phong
50 91 1,8 từ 1933 Hồn bướm mơ tiên
50 53 1,1 từ 1934 Nửa chừng xuân
50 32 0,6 từ 1934 Nắng thu
50 39 0,78 từ 1935 Đoạn tuyệt
50 30 0,6 từ 1936 Lạnh lùng
Dựa vào kết quả trên, ta thấy ngôn từ của Nhất Linh và Khái Hƣng
đã khắc phục tính nệ cổ. Đặc biệt, Nhất Linh trong việc dùng từ đã có sự
chuyển biến nhanh chóng từ trung bình 12,1 từ cổ / một trang văn bản
trong Nho phong đến Nắng thu, Đoạn tuyệt và Lạnh lùng chỉ còn chƣa
đầy trung bình 1 từ / một trang văn bản. Từ ngữ của ông đã đạt đến độ
trong sáng và tinh tế, có thể diễn đạt đƣợc cả những trạng thái cảm xúc
phức tạp trong tâm trạng con ngƣời. Chẳng hạn nhƣ lời xƣng hô của
Nhung và Nghĩa: "cậu" - "mợ", trong buổi hai ngƣời về thăm quê Nghĩa
chứa đựng trong đó biết bao tình âu yếm, bao khao khát của đôi tình
nhân muốn thoát khỏi vòng cƣơng toả của lễ giáo phong kiến để nên vợ,
nên chồng. Cảm xúc ấy đã đƣợc ngôn từ của Nhất Linh phân tích khá rõ:
"Nghĩa lấy ví bảo Nhung:
- Mợ để tôi trả.
Hai người nhìn nhau; trên má Nhung hơi nhuộm vẻ hồng. Lần đầu
gọi nhau bằng cậu mợ, trước mặt mọi người, Nhung và Nghĩa thấy thẹn
thùng một cách sung sướng" (Lạnh lùng).
Nhiều khi Nhất Linh đã tạo đƣợc những so sánh tu từ mới mẻ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
giàu ý nghĩa biểu cảm, ví dụ nhƣ diễn tả tâm trạng Nhung khi thoát khỏi
cảnh sống bó buộc ở nhà chồng để đi chơi với Nghĩa đƣợc miêu tả nhƣ
sau: "Khi thuyền ra giữa sông, nhìn dải nước rộng rãi bao la chạy dài
đến tận những rặng núi màu lam sẫm chắn ngang về mạn Hoà Bình,
Nhung ngây ngất lảo đảo như con chim ở lâu trong lồng được thả ra nơi
đồng ruộng" (Lạnh lùng).
So sánh ấy đã diễn tả đƣợc cảm giác hạnh phúc, sung sƣớng đến
choáng ngợp của Nhung khi thoát khỏi cuộc đời tù đọng, tẻ nhạt, không
biêt gì đến tình yêu của "một ngƣời sƣ nữ", để đƣợc tự do bên ngƣời yêu
dấu, không còn phải băn khoăn, trăn trở về những bổn phận, trách nhiệm
của một ngƣời phụ nữ goá bụa trong gia đình chồng.
Nhƣ vậy cách đặt câu và dùng từ của Nhất Linh trong Đoạn tuyệt
và Lạnh lùng đã có những biến đổi tích cực theo hƣớng hiện đại, đạt đến
độ trong sáng, tinh tế, uyển chuyển, ý nghĩa mạch lạc, diễn tả đƣợc đời
sống tâm hồn giàu cảm xúc của ngƣời Việt Nam.
* Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả trong Đoạn tuyệt và Lạnh lùng
đi sâu khai thác đời sống tâm hồn. Nếu ở truyện Nho phong và Người
quay tơ, tác giả chủ yếu đứng bên ngoài thuật chuyện bằng cái nhìn
khách quan, theo trình tự thời gian, xâu chuỗi các sự kiện hiện tại để thúc
đẩy cốt truyện vận động, hoặc đôi lúc đoán định tâm trạng nhân vật theo
lô gíc thông thƣờng trong cuộc sống; thì ở Đoạn tuyệt và Lạnh lùng, tác
giả đã thâm nhập đƣợc vào thế giới tâm hồn bí ẩn của con ngƣời. Với vị
trí ngƣời trần thuật ở ngôi thứ ba, ẩn tàng, có thể thay đổi liên tục điểm
nhìn, có thể đi ngƣợc quá khứ, hoặc len lỏi vào ngõ ngách sâu tối nhất
của nhân vật, mà không một thế lực nào cản trở, ngôn ngữ kể của Nhất
Linh đã trở nên sinh động, đa dạng, không đơn giản chỉ là lời kể về các
tình tiết, xâu chuỗi các sự kiện để tạo nên sự vận động của cốt truyện. Có
lúc tác giả dùng lời kể khách quan ghi lại diễn biến của câu chuyện, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lúc nhập vào tâm trạng của Loan để suy tƣởng, tranh luận, triết lí, có lúc
hoà vào dòng suy nghĩ của nhân vật, tạo ra sự đa dạng về giọng điệu, sắc
thái trong ngôn ngữ.
Ngôn ngữ kể của Nhất Linh đã có thể tạo ra sự liên hệ giữa sự kiện
này với với sự kiện khác. Từ một câu nói, một tình huống đang đƣợc đề
cập ở hiện tại, tác giả đã để cho nhân vật liên hệ với những gì liên quan
trong quá khứ hay trực tiếp ngƣời kể chuyện kể lại, để tạo ra những liên
tƣởng phong phú.
Chẳng hạn, ngay những trang đầu của Đoạn tuyệt, ngƣời trần
thuật đã để Loan trong lúc đang trò chuyện với các bạn việc cô Minh
Nguyệt tự tử, đã chạnh nghĩ đến hoàn cảnh của mình trong hiện tại: cô bị
ép gả cho Thân trong khi tình cảm của cô lại dành cho Dũng:
"Câu nói đùa làm cho Loan buồn rầu cúi mặt. nghĩ đến việc nhân
duyên của mình. Nàng bị cha mẹ ép phải lấy Thân, một người bạn học
nhỏ của nàng, con một nhà giàu ở ấp Thái Hà.(…). Loan vẫn đinh ninh
không chịu không phải là Loan chê gì Thân, vì Thân đối với nàng chỉ là
một người quen, nàng không yêu mà cũng không ghét. Nhà Thân lại
giàu, Loan chắc chắn rằng khi về nhà chồng sẽ được sung sướng, an
nhàn. Nhưng chỉ vì Loan ngày càng ngày càng thấy cái tình của mình
đối với Dũng không phải chỉ là cái tình bè bạn như trước kia. Nàng yêu
Dũng và cái hy vọng của nàng lúc đó là được làm vợ Dũng. Tuy định
bụng không lấy Thân, nhưng nàng cũng hằng lo lắng, vì nàng biết cha
mẹ nàng đã quả quyết về việc đó. Nếu nàng cưỡng tất có sự rắc rối trong
gia đình".
Sự liên tƣởng này giúp ngƣời đọc biết đƣợc cuộc sống của Loan,
đồng thời nó còn giải thích cho những sự kiện tiếp theo đó nhƣ vì sao
Loan lại tìm đến chỗ Dũng ở, vì sao Loan buồn và khó chịu khi thấy nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Thân mang sêu tết đến, vì sao có cuộc cãi nhau giữa hai mẹ con
nàng,…Và quan trọng hơn nhờ đó ta biết đƣợc những ƣớc mong, khao
khát thầm lặng nàng giữ kín trong lòng, mà không thể tỏ bày.
Sự liên hệ tình tiết này với tình tiết khác, đặc biệt là để cho nhân
vật tự liên tƣởng thông qua ngôn ngữ kể chuyện đã giúp cho tác giả đi
sâu miêu tả đời sống tâm hồn nhân vật. Tâm trạng của các nhân vật
không chỉ đƣợc miêu tả ở thời điểm hiện tại, cụ thể, mà còn có thể bộc lộ
những kí ức tuổi thơ, những quan điểm, tƣ tƣởng, những điều uẩn khúc
khó nói… Chính nhờ sự liên hệ này mà đời sống nội tâm của nhân vật
đƣợc thể hiện phong phú hơn.
Đặc biệt, ngôn ngữ kể chuyện của Nhất Linh đã tham gia vào quá
trình biểu hiện tâm lí, nội tâm nhân vật một cách sâu sắc. Nếu nhƣ ở Nho
phong và Người quay tơ, khả năng này còn rất hạn chế, thì sang Đoạn
tuyệt và Lạnh lùng ngôn ngữ ngƣời kể chuyện nhiều khi thâm nhập vào
tâm trạng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật thông qua
những hành động, suy nghĩ. Ngôn ngữ có khả năng gợi đƣợc những cảm
xúc thầm kín không dễ bày tỏ của con ngƣời một cách linh hoạt, tinh tế.
Những dòng đầu tiên của tiểu thuyết Lạnh lùng, Nhất Linh đã cho
chúng ta biết biểu hiện của một sự biến chuyển nào đó đang diễn ra trong
đầu óc Nhung - ngƣời phụ nữ goá bụa nổi tiếng là đoan chính - khiến
nàng trằn trọc không ngủ đƣợc, cố "áp gối bông vào mặt để cho làn vải
êm mát làm dịu đôi má nóng bừng". Vì sao đôi má nàng lại nóng bừng
lên nhƣ vậy ? Và tại sao lại phải làm dịu lại? Phải chăng một nỗi khát
khao thầm lặng đang dâng trào mãnh liệt mà nàng đang cố kiềm chế?
Không những thế "nàng lại vật mình xoay người, hai tay ôm ghì chiếc
gối vào ngực", chi tiết "hai tay ôm ghì" đã hé lộ đôi chút nguyên nhân,
đó là do chất xúc tác nào đã làm trào lên dòng cảm xúc yêu đƣơng trong
ngƣời đàn bà goá xinh đẹp này. Nhƣng Nhung còn mập mờ trong việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
xác định nó "nàng thấy mang máng là bất chính, nhưng nàng không biết
tại sao lại bất chính, và cũng không muốn tìm xem cho rõ là những ý
nghĩ gì". Nhung vừa muốn nghĩ đến cái ý nghĩ bất chính ấy, lại vừa thẹn,
vừa sợ nó. Hai dòng cảm xúc này cứ trở đi, trở lại, giằng co không dứt
trong tâm trí nàng. Ý nghĩ "bất chính" làm nàng không ngủ đƣợc, làm
nàng vật vã, còn chống lại nó thì nàng lại không muốn, lại tiếc nuối, nên
buộc phải: "thở dài thật mạnh một lần nữa cho khỏi thấy cái cảm giác
nặng nề đè nén trên ngực, rồi nhắm mắt cố ngủ".
Nhƣng mọi cố gắng thoát ra khỏi hai thái cực đó đều vô hiệu và có
lẽ cái "bất chính" đang tiến dần đến chiến thắng. Cuối cùng Nhung phải
chạy trốn bằng một thái độ bực tức vứt mạnh cái gối vào góc màn. Cảm
giác "trong người nóng bừng" ấy không phải là do thời tiết, vậy nên "cơn
gió mát ban đêm cũng không làm bớt được", nó buộc nàng phải tìm cách
khác và Nhung đã lấy quần áo đi ra bể nƣớc, mong nhờ làn nƣớc mát mẻ
xoa dịu đi.
Nhung đã thấy lòng dịu xuống thì lại để ngay một cơn gió đến.
Ngay sau đó một cơn gió đến, cơn gió ấy rất lạ, nó đƣợc nhà văn kể
"mơn man cánh tay (Nhung) như một chiếc hôn nhẹ nhàng". Cách so
sánh ấy đã mở ra cho ngƣời đọc biết niềm khao khát hạnh phúc đang
dâng trào mãnh liệt trong Nhung, nàng đang cố kìm nén mà không nổi.
Để rồi sau đó, khi bắt gặp mùi hƣơng của hoa huệ lẫn hoa lí, hoa lài
phảng phất, Nhung chợt nhớ đến "đêm động phòng hoa chúc năm năm
về trước" - cái ngày hạnh phúc đã lùi vào quá khứ xa lắc, càng gợi lên
trong nàng "cái dư vị chua chát của một quãng đời ân ái chưa thoả
mãn". Tất cả những cảm xúc ấy nhân vật không nói, mà chỉ qua câu chữ
kể của ngƣời trần thuật, ngƣời đọc có thể cảm nhận đƣợc tất cả những gì
đang diễn ra trong nội tâm Nhung.
Nhƣ vậy, có thể nói ngôn ngữ kể chuyện của Nhất Linh trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Đoạn tuyệt và Lạnh lùng đã có một bƣớc tiến dài so với ngôn ngữ kể
chuyện trong Nho phong và Người quay tơ. Ngôn ngữ kể ở đây đã đƣợc
sử dụng phong phú, linh hoạt có nhiều giá trị, bên cạnh việc kể để triển
khai cốt truyện, ngƣời trần thuật còn đi sâu đƣợc vào thế giới tinh thần
của nhân vật để bày tỏ nó thông qua lời kể của mình. Khả năng này của
ngôn ngữ trần thuật còn đƣợc phát huy hơn nữa trong những tác phẩm về
sau của Nhất Linh.
2.2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả sinh động, tinh tế, giàu chất tạo hình
*Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên
Thiên nhiên trong Đoạn tuyệt và Lạnh lùng mang vẻ đẹp gần gũi,
trữ tình, giàu chất thơ, chất họa. Ta có thể bắt gặp khá nhiều những bức
tranh thiên nhiên gần gũi thân quen, mang đậm hồn quê Việt Nam.
Đây là cảnh một buổi sáng đẹp trời qua cảm nhận của Nhung:
"Nhung nhìn thấy trời cao và rộng hơn mọi ngày. Sau những ngọn tre
non, lấm tấm lá xanh, nghiêng ngả trước gió, mấy đám mây trắng bay lẹ
làng và trông rung động trong ánh sáng rực rỡ" [10; 50]. Cảnh vật đã
hiện lên với vẻ đẹp tự nhiên, gần gũi, sinh động, không còn dấu ấn của
bút pháp ƣớc lệ nhƣ trong Nho phong và Người quay tơ.
Trong Nho phong, Người quay tơ, thiên nhiên là khách thể độc
lập. Đoạn tuyệt và Lạnh lùng, thiên nhiên đã hoà hợp với tâm trạng con
ngƣời. Mỗi bức tranh thiên nhiên trong Đoạn tuyệt và Lạnh lùng là một
bức tranh tâm trạng, đó là một thứ thiên nhiên "biết nói". Cảnh bầu trời
cao rộng, với những hình ảnh, màu sắc rực rỡ đã góp phần bộc lộ niềm
hạnh phúc, sung sƣớng của Nhung khi đón nhận tình yêu của Nghĩa. Qua
con mắt ngập tràn tình yêu, cảnh vật hiện ra cũng vui vẻ, náo nức, rực rỡ,
sắc nét cả ở màu sắc và hình khối, những chuyển động cũng đầy chất
hồn nhiên, tƣơi tắn: bầu trời dƣờng nhƣ cao và rộng hơn, "những ngọn
tre non mơn mởn" thì "nghiêng ngả đùa rỡn trong gió", những đám mây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trắng "nhẹ nhàng" bay và dƣờng nhƣ đang rung động cùng tâm trạng con
ngƣời trong ánh sáng rực rỡ - ánh sáng thực của đất trời và cũng là ánh
sáng của tình yêu vừa bừng nở, xôn xao trong lòng Nhung.
Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của Loan khi đến tìm Dũng để
bày tỏ tình yêu, nhƣng Dũng đã bỏ đi nơi khác: "Sau mấy rặng xoan
thưa lá, dòng sông Nhị thấp thoáng như một dải lục đào. Bên kia sông,
gió thổi cát ở bãi tung lên trông tựa một đám sương vàng lan ra che mờ
cả mấy cái làng con ở chân trời. Xa nữa là dãy núi Tam Đảo màu lam
nhạt, đứng sừng sững to tát, nguy nga, ngọn núi mù mù lẫn trong ngàn
mây xám" [8; 179].
Cảnh vật hiện lên nhƣ mờ nhoè trong ánh nhìn đẫm lệ, buồn bã của
ngƣời thiếu nữ khi thấy mối tình đầu không đƣợc đáp lại. Tất cả cảnh vật
đều nhƣ bị trùm phủ lên một nỗi buồn, nên hiện ra mờ mờ, không rõ nét,
con sông thì "thấp thoáng", bãi cát gió thổi tung tựa "đám sương vàng",
"mấy cái làng con ở chân trời" mờ đi qua làn sƣơng bụi. Còn dãy núi Tam
Đảo ở phía xa "mù mù lẫn trong ngàn mây xám". Có thể nói không gian
ấy trĩu nặng nỗi niềm tâm sự của Loan. Cảnh vật đã nói thay biết bao cảm
xúc hoà trộn: cảm giác xa vắng, cảm giác mất mát, cảm giác nuối tiếc,
cảm giác lo sợ,... rất nhiều những xúc cảm mong manh không dễ gọi tên
dâng trào trong tâm hồn nhân vật.
Và đây là cảnh vật qua đôi mắt Dũng sau những tháng ngày bƣơn
trải hoạt động, một ngày cuối năm dừng chân ở nhà một ngƣời bạn thân:
"Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng của một
năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt thướt trên những
cánh đồng cỏ màu xanh già. Những thôn xóm rải rác dưới chân đồi hay
bên bờ con sông trắng cong queo như bị đè nén dưới vẻ to tát của trời
đất rộng rãi. Khói thổi cơm chiều ở một vài nhà dân không có sức lên
cao nữa, toả ra thành từng đám màu lam ôm ấp lấy các mái tranh" [8;
231 / 232]. Đoạn văn đã miêu tả cảnh vật một chiều cuối năm nhƣ một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
bức hoạ của nhà nghệ sĩ tài hoa. Bức tranh hài hoà với những gam màu
dịu nhẹ, sắc nắng nhạt của buổi chiều còn đọng trên ngọn cây, đỉnh đồi,
rải trên đồng cỏ. Phía xa những ngôi nhà rải rác nơi chân đồi và bên bờ
con sông quanh co uốn lƣợn. Khói lam chiều vờn toả trên các mái nhà.
Bức tranh không chỉ nên thơ, nên họa, mà sự quấn quyện, lƣu luyến của
cảnh vật còn gợi lên trong lòng ngƣời biết bao niềm thƣơng mến. Hình
ảnh những thôn xóm nhỏ bé, thƣa thớt bị "đè nén" dƣới sự to tát rộng rãi
của đất trời gợi lên trong Dũng ý thức về sự nhỏ bé, bất hạnh của ngƣời
dân quê. Những ngọn khói lam chiều yếu ớt càng gợi lên trong lòng
chàng niềm thƣơng cảm với những kiếp ngƣòi bé nhỏ. Để sau khi ngắm
cảnh Dũng thấy mình gắn bó với họ, chàng khao khát đƣợc sống hoà hợp
với những ngƣời dân hiền lành ấy, để mong muốn đem lại cho họ cuộc
sống tốt đẹp hơn.
Những bức tranh trong Đoạn tuyệt và Lạnh lùng không chỉ đem
đến cho ngƣời đọc cảm nhân về vẻ đẹp trữ tình nên thơ của phong cảnh
quê hƣơng đất nƣớc, mà còn hoà hợp với điệu tâm hồn cảm xúc của nhân
vật. Cảnh vật không chỉ đƣợc nhìn bằng mắt, mà bằng cả nội tâm con
ngƣời. Với những bức "tâm cảnh" nhƣ vậy, ngƣời trần thuật không đơn
giản đứng ở vị trí khách quan để quan sát, mà đã nhập mình vào nhân
vật, cảm nghĩ theo nhân vật và vẽ cảnh tự nhiên từ nỗi rung động tâm
hồn ấy. Trong các tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, những bức tranh
thiên nhiên lãng mạn ấy quả là đã đem lại cho ngƣời đọc cảm giác thƣ
thái, bớt đi sự ngột ngạt của bầu không khí nóng bỏng những xung đột
xã hội đƣơng thời.
So sánh ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên với các nhà văn khác trong
Tự lực văn đoàn, ta thấy Nhất Linh đã có một cách nhìn thiên nhiên
riêng. Ông rất có tài khi miêu tả những cảnh sắc, tƣởng nhƣ vô hình, khó
nắm bắt với sự nhạy cảm, về màu sắc, đƣờng nét của ngƣời họa sĩ. Đọc
những câu nhƣ: " Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cuối cùng của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt
thướt trên những cánh đồng cỏ màu xanh già ", ta liên tƣởng đến những
vần thơ của Xuân Diệu
"Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối
Vài miếng đêm u uẩn lẩn trong cành".
Quả là có một cảm nhận rất gần giữa hai nhà nghệ sĩ lãng mạn
trong hai lĩnh vực thơ và văn xuôi. Có sự gần gũi đó một phần là do
ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên của Nhất Linh rất bay bổng, lãng mạn,
đậm chất thơ.
Khi so sánh ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên giữa Nhất Linh và Khái
Hƣng ta cũng thấy có những điểm khác biệt. Ngôn ngữ miêu tả thiên
nhiên của Nhất Linh nghiêng về vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng. Còn ngôn
ngữ thiên nhiên của Khái Hƣng thì nghiêng về vẻ hiện thực, sắc nét.
Chẳng hạn đoạn văn sau của Khái Hƣng miêu tả hình ảnh ngôi chùa
trong buổi chiều tà, từng sự vật, từng mảng màu sắc, hình khối đƣợc
khắc họa rất rõ ràng, cụ thể:
"Phía tây, sau dãy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng lấp loáng qua các
khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất, cùng
cây, cùng cỏ. Khoảnh khắc, mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi
chỉ còn in hình trong cảnh nhuộm đồng một màu tím thẫm" (Hồn bướm
mơ tiên)
Thiên nhiên đƣợc miêu tả mang vẻ đẹp thơ mộng là đặc điểm
chung trong các sáng tác của Nhất Linh cũng nhƣ của các nhà văn lãng
mạn - Tự lực văn đoàn. Các nhà văn hiện thực rất ít miêu tả thiên nhiên,
có chăng lại là những bức tranh thiên nhiên ảm đạm, xác xơ, u tối của
nông thôn Việt Nam trƣớc cách mạng. Chẳng hạn trong Bước đường
cùng của Nguyễn Công Hoan, rất hiếm những đoạn văn tả cảnh thiên
nhiên, cả tác phẩm chỉ có vài dòng tả quang cảnh ngƣòi dân nghèo đói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
cơ cực, lam lũ chống chọi với thiên nhiên hung dữ:
"Mặt trời như thiêu vào lưng. Phu phen chỉ đóng chiếc khố mồ hôi
nhễ nhại, Nước ào ào cuộn. Trống thùng thùng đánh liên hồi. Các người
coi đê, quần lấm như trát đất, đi lại tấp nập hò hét. Sức nước xem thế rất
mãnh liệt, nhưng sức người cũng găng. Cả một dãy dài hàng hai cây số,
hoạt động không ngừng, nhưng bên kia, bên cánh đồng, chạy rộng như
một bức thảm nhung xanh, gió hiu hiu, lúa má vẫn bình tĩnh lơi lả, có vẻ
êm đềm như các ông điền chủ đợi ngày thu thóc.
Đến chiều, trời oi bức, như báo trước một tai nạn chẳng vừa. Quả
nhiên, lúc mọi người đương nghỉ tay, ngồi ở vệ đê bốc cơm ăn thì một
cơn giông nổi lên. Sóng to vỗ mạnh vào con chạch kêu óc ách. Mây đen
kéo mù mịt. Rồi mưa to như trút đổ xuống" [39; 158].
Thiên nhiên ở đây không phải là những bức tranh lãng mạn, thơ
mộng mà cực kì dữ dội. Cùng với những thế lực vạn ác trong xã hội,
thiên nhiên cũng đã gây ra bao thảm cảnh cho cuộc sống của ngƣời dân
nghèo.
Hoặc khung cảnh ngột ngạt, trong Tắt đèn:
"Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt.
Hơi nước dưới đồng bốc lên, nóng như bơi trong chõ xôi.
Những con cua chửa và những con rắn nước chịu không nổi sức
nóng của nước trong ruộng, rủ nhau bò lên mặt đường và núp vào các
khóm cỏ" [86; 32].
So sánh ngôn ngữ thiên nhiên của Nhất Linh với các nhà văn khác,
ta thấy đƣợc nét riêng trong sử dụng ngôn ngữ và cá tính sáng tạo của
ông. Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên sống động gợi hình, gợi cảm, giàu
chất thơ, chất họa ấy trong Đoạn tuyệt và Lạnh lùng có lẽ bắt nguồn từ
tâm hồn và tài năng của ngƣời viết tiểu thuyết biết cả làm thơ, chơi nhạc,
vẽ tranh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
* Ngôn ngữ miêu tả nhân vật (con người)
Khi miêu tả con ngƣời, ngôn ngữ của Nhất Linh trong Đoạn tuyệt
và Lạnh lùng rất chú ý đến miêu tả vẻ đẹp thể chất, đây là một nét mới so
với Nho phong và Người quay tơ. Trong Nho phong và Người quay tơ,
con ngƣời đã đƣợc hiện lên qua hành động, lời nói để bộc lộ nhân cách,
nhƣng sang đến Đoạn tuyệt và Lạnh lùng các nhân vật không chỉ đƣợc
khắc hoạ qua hành động, tâm lí, tính cách mà còn đƣợc chú ý phân biệt
bằng diện mạo bên ngoài.
Chú ý miêu tả vẻ đẹp thể chất của con ngƣời là một biểu hiện rõ
rệt của quan niệm thẩm mỹ mới. Nhà nghiên cứu Lê Thị Dục Tú đã viết:
"Việc thể hiện vẻ đẹp thể chất trong văn xuôi Tự lực văn đoàn thể hiện
một quan niệm thẩm mỹ mới có tính thời đại về vẻ đẹp của con người,
đặc biệt là con người đô thị. Quan niệm này chịu ảnh hưởng của hai yếu
tố: truyền thống mỹ học phương Đông và sự xâm nhập của mỹ học
phương Tây" [84; 21].
Vẻ đẹp ngoại hình của con ngƣời cũng đã đƣợc miêu tả trong Nho
phong và Người quay tơ, nhƣng còn rất hạn chế. Cả tác phẩm Nho
phong chỉ một lần nhà văn miêu tả vẻ đẹp của Lê Nƣơng qua một vài từ
ngữ: "… lúc ngẩng lên má đỏ hồng hồng, hai con mắt hơi ươn ướt nhìn
Dương Văn" [1; 17]. Ở Đoạn tuyệt và Lạnh lùng, vẻ đẹp ngoại hình
nhân vật đã đƣợc chú ý miêu tả nhiều hơn. Loan là ngƣời con gái ý thức
đƣợc giá trị của mình không chỉ về kiến thức, mà còn cả về vẻ đẹp nhan
sắc. Cô thấy rõ lối sống cổ hủ trong đại gia đình phong kiến đã làm cho
ngƣời phụ nữ tàn tạ cả về tinh thần lẫn thể xác, qua cảm nhận của cô về
chị cả Đạm: "Rồi Loan nhìn cô cả Đạm, hồi tưởng lại dăm năm trước
đây, khi cô ta còn là một thiếu nữ đào tơ mơn mởn có tiếng là một hoa
khôi Hà thành. Ai ngờ bây giờ chỉ còn là một nạ dòng, quê mùa, đờ đẫn,
ăn nói vào khuôn phép, sống bó buộc trong sự phục tùng" [ 8; 182]; "Hai
con mắt Đạm đen nhánh trước kia, giờ đã mờ và sắp đến ngày nhắm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
hẳn, lộ ra một vẻ đẹp não nùng như trách móc, oán hờn ai" [8; 277]. Rất
nhiều lần tác giả miêu tả Loan soi mình trong gƣơng để xem nét mặt của
mình có gì thay đổi qua thời gian.
Trong Lạnh lùng, tác giả càng chú ý miêu tả vẻ đẹp nhan sắc của
Nhung. Vẻ đẹp ấy không chỉ hiện lên qua gƣơng mặt, ánh mắt mà còn
qua mái tóc, bờ vai, cánh tay, làn da,…: "Dưới bóng trăng, hai cánh tay
tròn trĩnh của nàng đã trắng lại càng trắng hơn; mấy dòng nước từ từ
chảy từ vai xuống bàn tay lấp loáng ánh sáng. một cơn gió thổi qua mơn
man cánh tay như một cái hôn nhẹ nhàng.(…) Nhung tưởng như tóc
nàng, áo nàng và cả da thịt nàng cũng đượm hương thơm ngát". Nhung
cũng là ngƣời phụ nữ rất có ý thức về vẻ đẹp ngoại hình của mình, nhiều
lần tác giả miêu tả cô biết đánh phấn trang điểm, biêt ăn mặc để tôn vẻ
đẹp của mình: "đôi giày kiểu mới,mũi lấp lánh cườm bích và chiếc quần
lụa kim cương trắng nõn, bóng loáng rủ xuống che khuất bàn chân". Cô
ý thức đƣợc vẻ đẹp của mình khiến cho bao ngƣời phải trầm trồ, ngƣỡng
mộ, đặc biệt là các chàng trai trẻ và Nhung cũng cho rằng: "việc đánh
phấn và trang điểm là rất tự nhiên, là một việc cần nữa".
Ý thức về vẻ đẹp ngoại hình, ý thức làm cho mình đẹp hơn của các
nhân vật nữ trong sáng tác của Nhất Linh giai đoạn Tự lực văn đoàn là
một biểu hiện của sự tự ý thức của con ngƣời cá nhân, của cái tôi đã nảy
nở trong xã hội Việt Nam lúc đó. Đúng nhƣ nhận định của Lê Thị Dục
Tú: "Vẻ đẹp hình thức là yếu tố của giá trị cá nhân". Điều đặc biệt nữa là
vẻ đẹp thể chất trong tiểu thuyết của Nhất Linh giai đoạn này có màu sắc
nhục cảm nhẹ nhàng, những tác phẩm về sau nhƣ Đôi bạn và Bướm
trắng ấn tƣợng này càng rõ nét hơn. Đây là nét mới của tiểu thuyết các
nhà văn "thế hệ 32". Trong việc miêu tả vẻ đẹp thể chất của con ngƣời,
ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh đã khắc hoạ thành công vẻ đẹp hình
thể của nhân vật trong mối quan hệ với vẻ đẹp nội tâm, nhất là ở các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nhân vật nữ, khiến cho nhân vật hiện lên rất cụ thể, gần gũi và hấp dẫn.
Ở Nho phong và Người quay tơ, tác giả miêu tả nội tâm nhân vật
bằng ngôn ngữ mộc mạc, có phần đơn điệu:
"Mấy ngày sau, cụ phủ chưa về. Dương Văn cũng không dám sang
nữa, phân vân không biết ý nghĩ Lê - nương thế nào, hôm hỏi nàng lại
khóc như thế; có lẽ nàng sợ hãi quá, hay vì tơ duyên đã ràng buộc nơi
khác, nên đau đớn trong lòng mà nên thế chăng. Càng phân vân bao
nhiêu thì cái thương yêu lại càng tăng lên bấy nhiêu, yêu vì cái sắc đẹp
tuyệt trần mà kín đáo là ngần nào, thương vì thân liễu yếu ớt mà gặp
phải tình cảnh nặng nề như thế.
Nếu biết trước thì thà đừng dan díu cho xong, nàng là phận gái,
sự nhân duyên là ở tay cha mẹ, nàng giữ mình như thế thật là phải lắm,
chỉ tại ta đem lòng quyến luyến mới nên nông nỗi này. Nghĩ vậy lại tự
trách mình, lại thương và tiếc cho mình, nhìn ra ngoài vườn thấy giăng
đã nhạt, sương đã xuống cây lơ thơ mà chán ngán không còn thiết sự gì
nữa" [1; 18].
Song đến Đoạn tuyệt và Lạnh lùng, thế giới nội tâm nhân vật.
Tiếp thu những thành tựu của tiểu thuyết phƣơng Tây, Nhất Linh đã
đƣợc mô tả khá tinh tế với những trạng thái phức tạp của tình cảm. Việc
miêu tả tâm lí đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật giúp nhà văn đi sâu
khám phá thế giới bên trong sâu kín và phức tạp của tâm hồn con ngƣời.
Ông đã có nhiều biện pháp để miêu tả tâm lí nhân vật nhƣ: qua lời của
ngƣời trần thuật ở "tiêu cự" gần, qua khung cảnh thiên nhiên, qua ngôn
ngữ nửa trực tiếp và đặc biệt qua biện pháp độc thoại và độc thoại nội
tâm của nhân vật.
Các tác phẩm của Nhất Linh giai đoạn này đều rất chú ý đến thế
giới cảm giác của con ngƣời. Tuy nhiên ở các tác phẩm luận đề thì phần ý
chí cũng rất đƣợc coi trọng. Ở Đoạn tuyệt, ngôn ngữ mang tính lí trí có
phần nổi trội hơn ngôn ngữ miêu tả cảm giác. Chúng tôi tiến hành khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
sát về số lƣợng câu dùng từ "nghĩ", "ngẫm nghĩ",…tức là những từ chỉ
hoạt động của lí trí và những từ miêu tả tâm trạng, cảm xúc của con ngƣời
nhƣ "cảm", "cảm thấy","lo lắng", "sợ hãi"… trong Đoạn tuyệt và Lạnh
lùng và thu đƣợc kết quả sau:
Số câu chỉ hoạt động
Số câu chỉ tâm trạng,
Tên tác
Tổng số câu
lí trí, tỉ lệ % / tổng số
cảm xúc, tỉ lệ % / tổng số
phẩm
toàn văn bản
câu
câu
3347
279 (8,3 %)
255 (7,6 %)
Đoạn tuyệt
1919
154 (8,5 %)
419 (21,8%)
Lạnh lùng
Căn cứ vào kết quả trên, ta có thể thấy ngôn ngữ trong Đoạn tuyệt
mang tính lí trí hơn so với Lạnh lùng. Điều này có lẽ xuất phát từ chỗ
tính luận đề trong Đoạn tuyệt rõ ràng hơn. Để chứng minh cho luận đề:
cuộc xung đột giữa cái mới và cái cũ, giữa luân lí cổ hủ của đại gia đình
phong kiến với cái Tôi cá nhân là không thể điều hoà, ngôn ngữ của tác
giả đã đi vào khai thác đời sống nội tâm của cá nhân, thấy đƣợc sự trăn
trở diễn ra trong suy nghĩ và tình cảm của cá nhân. Nhƣng đời sống tình
cảm của cá nhân còn ít đƣợc chú ý, nên các nhân vật hiện lên còn cứng
nhắc, chƣa thật sống động nhƣ nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét.
Còn sang Lạnh lùng, Nhất Linh vẫn nhằm nêu cao luận đề giải
phóng cá nhân , nhƣng ở một lĩnh vực riêng tƣ và rất tế nhị đó là đời
sống tình cảm của ngƣời phụ nữ đã goá chồng. Ngôn ngữ trần thuật ở
đây đã khơi sâu đƣợc vào đời sống nội tâm của con ngƣời, vì thế ta thấy
tỉ lệ số câu miêu tả nội tâm nhiều hơn hẳn so với Đoạn tuyệt. Đặc biệt
tác giả chú ý miêu tả thế giới tình cảm của nhân vật Nhung với biết bao
những giằng xé. Nàng vừa muốn sống thực với lòng mình: yêu Nghĩa và
lấy Nghĩa, lại vừa lo sợ không dám để giữ tiếng thơm cho gia đình mình
và gia đình chồng. Nhung phải sống trong sự giả dối, dù nhiều lần nàng
có ý thức về điều đó: "Nhung thấy em chăm chú nhìn mình như dò ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
tưởng, nên không nói hết câu. Nàng nhận thấy nàng nói có vẻ giả dối,
giả dối như đời nàng sống bấy lâu: nàng nghĩ một cách, mà sống một
cách khác" [8; 32].
Trong Lạnh lùng, Nhất Linh rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng
của nhân vật trong từng sự việc, sự kiện. Chẳng hạn tâm trạng của
Nhung khi biết Nghĩa về tìm mình trong lúc cả nhà đi vắng, nàng vừa
khao khát, mong mỏi, vừa e ngại, ngƣợng ngùng đƣợc miêu tả khá tinh
tế:.
"Nhung định ngẩng đầu nói mấy câu bảo Nghĩa ra ngay khỏi
buồng, nhưng nàng không đủ can đảm để ngửng đầu lên, nhìn rõ mặt
Nghĩa lúc đó. Thấy bàn tay Nghĩa đặt lên cổ tay nàng, nàng mới giật
mình mà trở nên bạo dạn, toan cất tiếng đuổi Nghĩa ra, nhưng Nghĩa đã
nắm lấy tay nàng và đắm đuối van xin. Nhung làm bộ đuổi Nghĩa ra để
khỏi ngượng với Nghĩa, cho nên khi thấy Nghĩa đã biết mình có cái ý
định rồi, thì nàng hết ngượng và nhìn lại Nghĩa như nhìn một người tình
nhân đã yêu từ lâu(…).Nhung ngây dại cả người; nàng mơ màng thấy
Nghĩa đứng lên nhẹ đặt bàn tay lên vai nàng, rồi cúi xuống nói mấy câu
thì thầm không rõ(…) Nhung sẽ đẩy Nghĩa ra, đứng ngay dậy. Nàng hốt
hoảng, như vừa thấy một sự sợ hãi ở đâu tự nhiên đến".
Thế nhƣng khi Nghĩa đi rồi thì: "Nàng hối hận rằng đã trót bảo
Nghĩa đi và lấy làm tiếc bỏ mất một dịp tốt, ít khi họ gặp được nữa" [10;
53/ 55].
Chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng, cảm giác của nhân vật với
những khát khao, những e ngại, phân tích kĩ từng hành động, từng cảm
xúc trong từng sự việc và những trăn trở sau những sự việc đó, ngòi bút
Nhất Linh đã khiến cho nhân vật đƣợc hiện lên sống động, có đời sống
nội tâm phong phú. Sự phát triển tâm lí của nhân vật nhìn chung phù hợp
với quy luật của đời sống tình cảm con ngƣời, điều đó giúp cho nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trong các tác phẩm của ông gần "đời hơn", "thật hơn".
Nhƣ vậy, ngôn ngữ trần thuật của Nhất Linh trong Đoạn tuyệt và
Lạnh lùng đã vƣợt xa lối văn kể chuyện đơn thuần là kể lại xâu chuỗi lại
sự việc diễn ra theo thời gian nhƣ trong Nho phong, Người quay tơ. Nó
đã đạt đến độ trong sáng, sinh động, tinh tế, có khả năng đi sâu vào đời
sống nội tâm của con ngƣời, gợi ra nhiều liên tƣởng phong phú, hấp dẫn
ngƣời đọc.
2.2.1.3. Ngôn ngữ nhân vật bước đầu được cá tính hoá, phù hợp tính
cách nhân vật
Với quan niệm coi con ngƣời là những cá nhân đƣợc đặt trong mối
quan hệ đối lập với xã hội, các tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Lạnh lùng của
Nhất Linh đã xây dựng con ngƣời là những cá thể toàn vẹn. Ngôn ngữ
của nhân vật trong các tác phẩm này đã đƣơc cá tính hóa phù hợp với
tính cách nhân vật. Đây là một đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ văn
xuôi hiện đại mà trƣớc đó trong Nho phong và Người quay tơ ta chƣa
thấy có.
Các tác phẩm của Nhất Linh chƣa xây dựng đƣợc những nhân vật
điển hình nhƣ trong tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực, nhƣng các
nhân vật đã có nét tính cách riêng, có đời sống nội tâm riêng và có ngôn
ngữ mang nét riêng. Với đặc điểm của tiểu thuyết luận đề phản ánh
những vấn đề xung đột trong xã hội, các nhân vật trong tiểu thuyết của
Nhất Linh thƣờng chia làm hai phe: một phe đại diện cho cái cũ, những
quan niệm đạo đức phong kiến đã lỗi thời(ví dụ: bà Phán, bà Hai, bà Án,
…) còn một phe đại diện cho cái mới, với tƣ tƣởng tự do, với khát vọng
hạnh phúc riêng tƣ vƣợt ra khỏi khuôn khổ đạo đức phong kiến (ví dụ:
Loan, Dũng, Nhung, …).
Trong Đoạn tuyệt, Loan là một cô gái tân thời, có học thức, có
khát vọng về một cuộc sống tự do. Ngôn ngữ của cô từ đối thoại cho đến
độc thoại đều thể hiện rõ điều đó. Ta hãy nghe một đoạn trong cuộc trò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
chuyện của cô với các bạn mình về việc cô Minh Nguyệt tự tử:
"Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở,
chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con
gái thì phải lấy gia đình chông là gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là
đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể
một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình sung
sướng. Sao đàn ông bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường" [8; 150].
Quả thật đó là những lời của một ngƣời con gái có tính cách mạnh
mẽ, có ý thức rõ về quyền sống cá nhân của mình, không chịu sự đè nén
của gia đình chồng chỉ vì những thói quen cũ, một tƣ tƣởng hết sức tiến
bộ trong xã hội bấy giờ.
Kể cả khi trò chuyện với bố mẹ, Loan cũng hết sức thẳng thắn bộc
lộ quan điểm của mình: "Thưa thầy me, thầy me cho con đi học, thầy me
không thể cư xử với con như con vô học được nữa. Không phải con kiêu
ngạo gì, đó chỉ là sự dĩ nhiên. Lỗi ấy không ở con. Phân bày phải trái với
bố mẹ không phải là bất hiếu như con tưởng" [8;172]. Cô không ngần
ngại đấu tranh cho việc nhân duyên của mình: "Thưa me, sao me hứa với
người ta, trong bao nhiêu năm me nhận lễ của người ta. Nếu me nghe con
ngay từ trước? Người ta đến ăn hỏi, me cũng cứ nhận, lỗi đó không phải
ở con, vì me không cho con hay. Việc của con mà thầy me coi con như là
không có ở nhà này" [8; 171].
Loan là ngƣời có ý thức về bảo vệ nhân phẩm và danh dự, nói với
mẹ chồng, cô cũng dõng dạc: "Không ai có quyền chửi tôi, không ai có
quyền đánh tôi". Hoặc cứng cỏi tuyên bố: "Bà là ngưòi, tôi cũng là
ngưòi, không ai hơn kém ai".
Đến những lời độc thoại của Loan, ta cũng thấy rõ sự tự tin của
một ngƣời có học và có ý thức rõ về sự đối lập của mình với nền nếp gia
đình cổ hủ. Loan yêu Dũng, vậy mà khi đăm đăm nhìn Dũng, cô lại nghĩ:
"Học thức của mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Dũng, sống một đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quẩn quanh trong
vòng gia đình, yếu ớt sống một đời nương dựa vào người khác để quanh
năm phải kình địch với những sự cổ hủ mà học thức của mình bắt mình
ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh hợp với quan niệm mới của
mình" [8; 154].
Đến cả khi đi chơi, nhìn những ngƣời thiếu nữ tƣơi tắn, rực rỡ,
Loan cũng nghĩ đến sự đối lập giữa họ và mình: "Họ tươi cười thế kia, vẻ
mặt hớn hở như đón chào cái vui sướng của tuổi trẻ, nhưng biết đâu lại
không như mình đây ngấm ngầm mang nặng những nỗi chán chường
thất vọng về cái đời tình ái hay bị những nỗi giày vò nát ruột nát gan ở
trong gia đình. Nhưng họ vẫn vui, vẫn sống không lẽ mình lại không như
họ được" [8; 182].
Ngôn ngữ của Loan bộc lộ rõ cá tính của cô gái mới khao khát
cuộc sống tự do, phê phán sự cổ hủ của luân lý đại gia đình phong kiến.
Ngôn ngữ của bà Phán - mẹ chồng Loan đƣợc tác giả miêu tả sinh
động hơn. Bà là đại diện cho nền luân lý đại gia đình phong kiến, ngôn
ngữ của bà có khi thể hiện rõ uy phong của một bà mẹ chồng khi yêu cầu
con trai phải biết dạy vợ : "Này anh, anh xem vợ anh đấy. Tôi cưới nó về
cho anh để làm vua làm tướng ở cái nhà này à? Có đời thuả nhà ai như
thế không. Tôi, tôi không cần đến thứ ấy giúp đỡ tôi, nhưng anh nghĩ
xem, ngày giỗ, ngày tết mà nó là con dâu trưởng, nó bỏ đi không nói với
tôi lấy nửa lời" [8; 222].
Có lúc bà mát mẻ, bóng gió, giả nhân, giả nghĩa quan tâm đến
Loan:
"Bà Phán Lợi ngồi ở sập uống nước, thấy nàng về ngọt ngào hỏi:
- Mợ đi chơi mát về?
Loan cúi đầu không đáp, đi rẽ sang buồng bên cạnh. Bà Phán hỏi
to:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- Mợ đã xơi cơm chưa để bảo nó dọn cơm
Rồi bà lên tiếng gọi con gái:
- Bích ơi! Con dọn cơm lên để chị xơi đi" [8; 221]
Có lúc bà đay nghiến, mỉa mai độc ác:
"- Ác như thế …Không trách tuyệt đường sinh đẻ!" [8; 286]
Và khi tức giận bà sẵn sàng dùng những từ ngữ thô tục, hạ lƣu:
"Khê mẹ nó rồi còn gì nữa!" [8; 284]
"Ai hành hạ nó, ai giết nó, hở con kia?" [8; 262]
Bản chất của một bà mẹ chồng cổ hủ, ghê gớm, coi con dâu nhƣ là
một đồ vật đã đƣợc mua về, muốn làm gì cũng đƣợc lộ rõ qua ngôn ngữ
của bà:
"Tao thử đánh mày một cái tát, xem mày còn bảo là hèn nhát nữa
không?"
"Đánh chết nó đi cho tôi. Chết đã có tôi chịu tội" [8; 291].
Ngôn ngữ của bà Phán, khi thì ngọt ngào giả dối, khi thì đay nghiến
độc ác.
Đoạn tuyệt và Lạnh lùng là hai tiểu thuyết tiêu biểu cho tiểu
thuyết luận đề của Nhất Linh. Ngôn ngữ nghệ thuật trong hai tác phẩm
này đã có chuyển biến đáng kể, có thể coi là bƣớc ngoặt so với ngôn ngữ
trong Nho phong của tác giả và các tác phẩm đƣơng thời của các tác giả
khác. Tuy nhiên vì hƣớng tới các vấn đề xã hội nên ngôn ngữ nhân vật từ
đối thoại đến độc thoại, độc thoại nội tâm đều đƣợc đặt trong mối quan
hệ cụ thể với các sự việc, hành động xảy ra bên ngoài, nói cách khác là
mang tính hƣớng ngoại. Chẳng hạn Loan nghĩ đến việc mình bị ép gả
trong khi lại dành tình cảm cho Dũng xuất phát từ câu đùa của Thảo:
"- Chỉ trừ khi nào chị Loan lấy được người chồng không có gia
đình như anh.
Câu nói đùa làm cho Loan buồn rầu cúi mặt, nghĩ đến việc nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
duyên của mình" [8; 151].
Hoặc từ câu đùa của Lâm với vợ Loan nghĩ đến phận mình: "…
hai cảnh đời trái ngược nhau: một cảnh đời yên tĩnh ngày nọ trôi theo
ngày kia như dòng sông êm đềm chảy, nhẫn nại sống trong sự phục tùng
cổ lệ như mọi người con gái khác và một cảnh đời rộn rịp, khoáng đạt,
siêu thoát ra hẳn ngoài lề lối thường" [8; 153].
Hình thức độc thoại và độc thoại nội tâm trong Đoạn tuyệt và
Lạnh lùng còn ở mức độ đơn giản, gắn bó chặt với hành động và sự việc
trong hiện tại chứ chƣa tạo thành dòng ý thức, chƣa mang tính hƣớng nội
nhƣ trong các tác phẩm về sau này của Nhất Linh.
Điều đó có lẽ do quan niệm của nhà văn khi xây dựng nhân vật.
Nhân vật trong tiểu thuyết luận đề thƣờng có tính cách khớp với
những vai trò xã hội mà nó đảm nhận (bà Án - mẹ chồng cổ hủ, Loan -
gái mới, Thân - ngƣời chồng nhu nhƣợc bất lực,…), tính cách nhân vật
hầu nhƣ không biến đổi, đời sống tâm lí của nhân vật cũng ít vận động
biến chuyển. Vì thế khi miêu tả tâm lí nhân vật, mới chỉ thấy đƣợc các
trạng thái tâm lí của nhân vật qua hành động, ngôn ngữ, chứ chƣa khai
thác sâu đƣợc vào các quá trình tâm lí phức tạp.
2.2.2. Ngôn ngữ trong "Đôi bạn" và "Bƣớm trắng" mang tính
hƣớng nội, đặc tả đời sống nội tâm nhân vật
Đôi bạn và Bướm trắng là hai tác phẩm thuộc tiểu loại tiểu thuyết
tâm lí. Ở tiểu thuyết tâm lí đối tƣợng chính giành đƣợc cảm hứng chủ
đạo của tác giả là tâm lí nhân vật: "Tiểu thuyết tâm lý tập trung cái nhìn
hướng nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới bên trong thầm kín của con
người. Ở đây cảm hứng chủ đạo của nhà văn là khám phá, phân tích tâm
lý nhân vật" [31; 231]. Với đặc điểm đó, cốt truyện của tiểu thuyết tâm
lý sẽ phát triển theo dòng tâm lý nhân vật. Cốt truyện không nhằm làm
nổi bật sự kiện nữa mà chủ yếu bộc lộ tâm trạng nhân vật. Cốt truyện có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khuynh hƣớng "thu vào vòng tròn tâm lý hướng tâm". Sự vận động trong
tác phẩm là sự vận động của các kỷ niệm, hồi ức, liên tƣởng. Những hoạt
động bên ngoài không còn giữ vai trò quan trọng, nhân vật đƣợc đặt
trong mối quan hệ với đời sống nội tâm của cá nhân, chứ không còn
trong mối quan hệ với xã hội nhƣ trong các tiểu thuyết luận đề.
Nhƣ vậy sự thay đổi về cốt truyện, về nhân vật đã khiến cho ngôn
ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm tiểu thuyết tâm lý cũng phải có sự
thay đổi. Các phƣơng diện của ngôn ngữ đều tập trung vào biểu hiện đời
sống nội tâm của con ngƣời trong tác phẩm, ta sẽ thấy rõ điều này khi
tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong Đôi bạn và Bướm trắng.
Nét nổi bật nhất của ngôn ngữ Nhất Linh trong "Đôi bạn" và "Bướm
trắng" là ngôn ngữ mang tính "hƣớng nội", đặc tả đời sống nội tâm của con
ngƣời.
Các phƣơng diện khác nhau của ngôn ngữ: lời kể, lời tả, lời nhân
vật (đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm) đều tập trung vào làm rõ đời
sống nội tâm của nhân vật.
2.2.2.1. Ngôn ngữ kể chuyện nhập vào nội tâm nhân vật
Vẫn tiếp tục những thành công trong ngôn ngữ kể chuyện ở Đoạn
tuyệt và Lạnh lùng, ngôn ngữ kể chuyện trong Đôi bạn và Bướm trắng
đã đi sâu khai thác tâm lý nhân vật. Vẫn là điểm nhìn của ngƣời trần
thuật ở ngôi thứ ba là chủ yếu nhƣng ngôn ngữ tác giả không phải là thứ
ngôn ngữ khách quan đứng ngoài để ghi lại sự việc, hành động của nhân
vật một cách khách quan mà chủ yếu nhập vào cảm xúc, vào tâm trạng
của nhân vật, hoặc để nhân vật tự bộc lộ.
Ở phần đầu của tiểu thuyết Đôi bạn, ngôn ngữ kể chuyện là ngôn
ngữ của một nhân vật, ngƣời đã chứng kiến và ghi lại câu chuyện về một
ngƣời bạn của mình. Nhƣng ở phần trọng tâm của tác phẩm ngôn ngữ
đóng vai trò kể chuyện, dẫn chuyện rất ít, chủ yếu nhập vào tâm trạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nhân vật. Với đặc điểm của cốt truyện tâm lý là chỉ chú ý đến dòng tâm lý
của nhân vật, nên sự kiện, hành động ít đƣợc quan tâm. Nếu kể lại cốt
truyện thì hầu nhƣ không có sự kiện gì để kể, một số sự kiện ít ỏi trong tác
phẩm chỉ là để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật mà thôi: "Điểm nổi
bật của mỗi chương là một trạng thái tâm lý, là một cung bậc trong đời
sống tình cảm, cảm giác của nhân vật " [41; 54]. Sự vận động trong tác
phẩm là sự vận động của các kỷ niệm, hồi ức, liên tƣởng. Mở đầu chƣơng
một là cảm giác của Trúc, tiếp đến là tâm trạng của Loan, của Dũng, trạng
thái cảm xúc của Thái, của Cận,… Tràn ngập trong tác phẩm là những hồi
ức, liên tƣởng, những mộng ƣớc xa xôi của Loan và Dũng. Đặc sắc nhất
của ngôn ngữ kể chuyện ở đây là đi sâu miêu tả đƣợc những xúc cảm
mong manh, những rung động tinh tế của mối tình đầu:
"Ánh trăng đang mờ bỗng sáng hẳn lên. Gió đưa tà áo Loan khẽ
chạm vào tay khiến Dũng sực nghĩ mình đi sát gần bên Loan quá. Chàng
nhớ đến hôm lễ thọ và cái mơ ước được đi chơi với Loan trong vườn cỏ
thơm, gió đưa tà áo nàng phơ phất chạm vào tay êm như một cánh
bướm… Dũng không dám quay mặt nhìn Loan; chàng chỉ thấy bên
chàng có một bóng trắng hoạt động, nhẹ và thơm, lúc sáng hẳn lên dưới
ánh trăng, lúc mờ đi trong bóng cây lưa thưa. Dũng nghe rõ tiếng chân
bước của Loan nhịp nhàng xen với tiếng chân chàng bước. Quả tim
chàng đập mạnh… Chàng như trông thấy trước mặt bàn tay hơi rung
rung của Loan, hôm nào, cời những quả đậu non trong rá, chàng nhớ
đến cái cảm tưởng ngây ngất được thấy đôi môi Loan mềm và thơm như
hai cánh hoa hồng; bao nhiêu thèm muốn ngấm ngầm bấy lâu trong một
phút rạo rực nổi dậy. Bốn bàn chân vẫn bước đều đèu… Chàng nghĩ nếu
lúc đó ngừng lại thì Loan sẽ cũng theo chàng ngừng lại; chàng sẽ đưa
cánh tay đỡ lấy Loan và miệng chàng sẽ nói câu mà chàng vẫn thầm nhủ
với Loan và bao lần trong giấc mơ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- Anh sẽ yêu em trọn đời "
Ngôn ngữ của tác giả đã nhập đƣợc vào ngôn ngữ nhân vật tạo
thành dạng lời nửa trực tiếp bày tỏ đƣợc những cảm xúc, những khát khao
thầm kín đang ngất ngây trong tâm hồn Dũng khi đƣợc đi bên Loan. Hai
câu đầu là lời của ngƣòi kể chuyện, nhƣng từ những câu sau dƣờng nhƣ là
lời tự bạch của Dũng, tâm trạng, cảm xúc của nhân vật vì thế đƣợc diễn tả
một cách chân thực hơn. Phạm Thị Phƣơng Anh đã có những lời bình khá
sắc sảo về ngôn ngữ của đoạn văn này: "Đọc những câu chữ ấy, người
đọc cảm thấy mình cũng không dám động cựa mạnh khiến nhân vật giật
mình và không gian thần tiên biến mất. Ngôn ngữ kể đã kết hợp đa dạng
với các từ ngữ gợi cảm xúc đẹp, dịu dàng, nhiều chất thơ: "khẽ chạm",
"cỏ thơm", "êm như một cánh bướm", "nhẹ và thơm", "rung rung", "mềm
và thơm như hai cánh hoa hồng" với những từ ngữ biểu hiện sự dồn nén
cảm xúc đến cực độ: "đập mạnh", "ngây ngất", "ngấm ngầm", "rạo rực".
Các từ ngữ trộn lẫn này tạo ra một động lực như thúc giục, như van nài
hãy nói nhưng lại e thẹn, lại kìm nén, ngăn trở. Để tạo ra cảm giác mong
manh, người kể kéo dài nhịp điệu bằng những dấu chấm lửng, một đoạn
văn ngắn vậy thôi nhưng có tới ba dấu chấm lửng. Nhờ chúng, người đọc
cảm nhận sâu sắc hơn sự nhùng nhằng chợt muốn, chợt thôi ở cả phía
Dũng và Loan. Cả hai nhân vật cùng sợ cảm giác đang có ở nhau biến
mất, họ giơ tay lại phía nhau, chậm, thật chậm nhưng đến khi gần chạm
vào nhau rồi thì họ lại nhút nhát… rụt tay lại" [18; 77 / 78].
Ngôn ngữ kể trong tiểu thuyết Bướm trắng càng đi sâu hơn vào
nội tâm của nhân vật, dƣờng nhƣ nhập hẳn vào dòng suy nghĩ, cảm giác
của Trƣơng, đƣa ngƣời đọc vào miền miên man khó nắm bắt của tiềm
thức, của vô thức, thấy đƣợc cả những vùng "mờ tối " của tâm thức con
ngƣời. Ngay từ những dòng đầu tiên của truyện, tác giả đã đƣa ngƣời
đọc đến với thế giới tâm hồn Trƣơng với biết bao bất ngờ, ẩn chứa bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
mâu thuẫn. Chàng "vô cớ" thấy lòng vui đột ngột, khác thƣờng, nhìn
cuộc sống khốn khó của con ngƣời trong một ngày mùa đông lại thấy thú
vị, "tự nhiên" thấy vui thích khi nhìn bà cụ già bán hàng cho một cậu bé;
nhìn cơn gió thổi bay "mấy chiếc lá khô", bất chợt cảm thấy nỗi buồn hiu
quạnh của cuộc đời cô độc; "thốt nhớ đến Liên", ngƣời yêu của mình "đã
chết vì bệnh lao ba năm trƣớc"; nghĩ đến tâm trạng mình khi mắc bệnh
lao, Trƣơng hy vọng là sẽ khỏi bệnh nên "thấy mình náo nức muốn sống,
yêu đời và vui vẻ", nhƣng lại một ý nghĩ khác chợt len đến: "Thế ngộ
nhỡ mình không khỏi bệnh?"… Để thâm nhập vào thế giới phức tạp của
tâm hồn nhân vật, tác giả dùng chủ yếu ngôn ngữ nửa trực tiếp, độc thoại
và độc thoại nội tâm để nhân vật tự bộc lộ Trong nhiều đoạn văn miêu tả
tâm trạng của nhân vật, nhà văn đã trần thuật theo giọng điệu, ngôn ngữ,
tình cảm và ý thức của nhân vật. Sau khi gặp Chuyên và biết mình sắp
chết, Trƣơng vô cùng đau khổ, ngồi uống cà phê cùng Quang nhƣng tâm
trí Trƣơng chỉ nghĩ đến cái chết. Miêu tả lại tâm trạng ấy, ngƣời trần
thuật dƣờng nhƣ đã nói cùng Trƣơng những toan tính trong lòng: "Chàng
sẽ nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống cho hết
để không còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường. Trương thấy mình
nô nức hồi hộp mà lại sung sướng nữa. Chàng sung sướng chỉ vì thấy
mình như một con chim thoát khỏi lồng, nhẹ nhàng trong sự tự do không
bờ bến. Những cái ràng buộc, đè nén của đời sống thường không còn
nữa, chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè được hoàn toàn sống như ý mình"
[13; 40]. Còn đây là sự thú nhận của nhân vật sau những cuộc hành lạc
thâu đêm qua ngôn ngữ ngƣời kể chuyện: "Trương nhận thấy mình là
một người hấp hối cần suy nghĩ bao quát cả đời sống của mình trước khi
nhắm mắt. Ngay lúc đó, thực tình chàng còn mệt mỏi chán sống hơn cả
thân thể chàng. Chàng đã đạt tới mục đích: là không sợ cái chết nữa.
Giá đời mình không có Thu! Giá Thu không yêu chàng hoặc hơn thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nữa, chàng ghét được Thu thì thực là hoàn toàn thoát nợ, thoát khỏi
ngục đời… " [13; 151]. Lời kể của ngƣời trần thuật ở đây thể hiện ở cách
gọi nhân vật bằng ngôi thứ ba, còn phần vị ngữ thì giống với lời trực tiếp
của nhân vật. Nếu ta thay "Trƣơng" và "chàng" bằng "tôi" hoặc "mình"
thì câu văn sẽ không có gì thay đổi về ý nhƣng hình thức sẽ là độc thoại
nội tâm.
Nhƣ vậy ở những tiểu thuyết tâm lý, ngôn ngữ kể chuyện của Nhất
Linh đã khơi sâu đƣợc vào thế giới nội tâm của nhân vật, dƣờng nhƣ
ngƣời trần thuật đã thâm nhập đƣợc vào ý nghĩ của nhân vật với cái nhìn
từ bên trong, vì thế dạng lời nửa trực tiếp xuất hiện nhiều hơn, hoàn
chỉnh hơn.
2.2.2.2. Ngôn ngữ miêu tả gắn với cảm xúc, tâm trạng nhân vật
Với tài năng thiên bẩm cộng với vốn kiến thức hội hoạ, Nhất Linh
đã có những trang tả cảnh nên thơ, nên họa trong các tác phẩm ở giai
đoạn trƣớc. Đến Đôi bạn và Bướm trắng, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên
của ông vẫn giữ đƣợc những nét tài hoa ấy. Thiên nhiên đẹp, hài hoà với
tâm trạng con ngƣời đƣợc hiện lên qua những hình ảnh, màu sắc lung
linh và đƣợm hƣơng thơm ngát: "Những giọt mưa đọng rơi từ lá cây này
xuống lá khác lộp độp hai bên vườn. Hai người đi qua một quãng đường
nức mùi thơm của một cây bưởi gần đó. Trời vừa im gió nên khi ra khỏi
chỗ hương thơm, hai người tưởng như vừa ra khỏi một đám sương mù
bằng hương thơm của hoa bưởi đọng lại" [12; 345].
Đặng Tiến đã có một nhận xét về bƣớc phát triển của ngôn ngữ
miêu tả của Nhất Linh: "Trong tác phẩm của Nhất Linh, hương của thiên
nhiên Việt Nam phảng phất khắp nơi và quyện vào hồn nhân vật: hương
hoa khế, hoa cam, hoa bưởi, hoa lan rừng, hương cốm, hương lúa chín,
hương rạ rơm mới gặt, hương gỗ mục và đất mới xới…Hương là bản
chất của thực tế nhưng của một thực tế không còn cụ thể nữa mà đang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
vượt cụ thể để trở thành trừu tượng. Hương là bản chất của ngoại giới
nhưng của một ngoại giới không còn vị trí nữa mà đang tan thành cảm
giác" (Đặng Tiến - Hạnh phúc trong tác phẩm của Nhất Linh) [43; 69].
Nhƣ vậy, đến Đôi bạn và Bướm trắng, thiên nhiên dƣờng nhƣ chỉ
là cái cớ để con ngƣời bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, thế giới nội tâm mới là
chủ thể. Thiên nhiên đƣợc hiện lên qua thế giới cảm giác của con ngƣời:
"Mùi hoa khế đưa thoảng qua, thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như không
phải là hương thơm của một thứ hoa nữa. Đó là một thứ hương lạ để đánh
dấu một quãng thời khắc qua trong đời; Dũng thấy trước rằng độ mươi
năm sau thứ hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến cái phút
chàng đương đứng với Loan ở đây. Cái phút không có gì lạ ấy chàng thấy
nó sẽ ghi mãi ở trong lòng chàng cũng như hương thơm hoa khế hết mùa
này sang mùa khác thơm mãi trong vườn cũ". Không gian thanh khiết,
ngát hƣơng thơm ấy là không gian lãng mạn trong trẻo của "cái thủa ban
đầu lƣu luyến", thật ngọt ngào và khó quên.
Có khi đó là không gian của tiềm thức, gợi cho con ngƣời nhiều
liên tƣỏng: "Ngoài đường cái có tiếng lăn lạch cạch của một chiếc xe bò
đi qua, Trương đoán là một chiếc xe rau ở ngoại ô lên chợ sớm. Lòng
chàng lắng xuống và từ thời quá vãng xa xăm nổi lên một hình ảnh yêu
quý của tuổi thơ trong sáng: khu vườn rau của mẹ chàng với những
luống rau diếp xanh thẳm, những luống thìa là lá nhỏ như sương mù và
hôm nào trời nắng, những mầm đậu hà lan tươi non nhú lên qua lần rơm
ủ dột. Rồi đến khi luống đậu nở hoa trắng có những con bướm rất xinh ở
đâu bay về…" (Bướm trắng).
Không gian tƣơi tắn, trong trẻo ấy không phải của thực tại, thực tại
là cuộc sống trụy lạc của Trƣơng trong một nhà "xăm", sau một đêm mệt
mỏi, chìm đắm trog khói thuốc phiện. Không gian đƣợc miêu tả ở đây là
một không gian mang tính biểu tƣợng cho một quá khứ tƣơi đẹp đối lập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
với hiện tại. Là không gian của tiềm thức, của miền thiêng trong tâm hồn
Trƣơng bất chợt thức dậy tiếp thêm cho chàng sức sống, buộc chàng phải
nhìn lại mình để mà thay đổi.
Nhƣ vậy, thiên nhiên trong Đôi bạn và Bướm trắng đã trở thành
một thủ pháp để bộc lộ cảm giác, tâm trạng của con ngƣời. Dòng suy
nghĩ của con ngƣời vận động đôi khi chỉ nhờ sự liên tƣởng tới một hình
ảnh thiên nhiên ở bên ngoài: một cánh buồm nâu với một ít nắng vàng
nhạt rung động trong gió gợi đến chuyện ra đi; một cánh bƣớm trắng gợi
nên hình ảnh ngƣời yêu mặc áo lụa trắng; một bến đò trong mƣa với mấy
cái quán tiều tụy, xơ xác làm Dũng nghĩ đến kiếp sống tù đọng của
những con ngƣòi cô đơn, buồn tủi.
Nét mới trong ngôn ngữ miêu tả ngoại hình của con ngƣời trong
Đôi bạn và Bƣớm trắng là vẻ đẹp ấy gắn liền với những cảm nhận của
nhân vật trong tác phẩm mang màu sắc nhục cảm hơn trƣớc. Đây là một
số đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của Loan: - ''Một sự thèm thuồng mới mẻ từ
trước đến nay chàng chưa thấy bao giờ làm chàng hổ thẹn không dám
nhìn lâu vào đôi môi của Loan, đôi môi mà chàng ngây ngất thấy trước
rằng sẽ mềm và thơm như hai cánh hoa hồng non" [12; 62].
- "Dũng chú ý đến gò má của Loan và câu nói vô tình khơi chàng
nghĩ đến một cái thú được đặt một cái hôn đầu tiên lên má người yêu"
[12; 165].
Vẻ đẹp của Loan không đƣợc miêu tả trực tiếp mà qua cảm nhận
của Dũng - ngƣời yêu cô, một vẻ đẹp gợi cảm qua cách sử dụng một loạt
tính từ chỉ cảm giác "thèm thuồng", "hổ thẹn", "ngây ngất", "mềm",
"thơm", so sánh "nhƣ hai cánh hoa hồng non". Điều đó khiến cho các
nhân vật trong tác phẩm của Nhất Linh mang vẻ đẹp cả hình thể lẫn tâm
hồn, thể hiện quan niệm thẩm mỹ của ông có sự kết hợp hài hoà cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
truyền thống phƣơng Đông và hiện đại phƣơng Tây.
Nhƣ vậy, ngôn ngữ miêu tả vẻ đẹp hình thể của con ngƣời trong
các tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh cũng góp phần khắc họa thế giới
cảm xúc rất thật trong tâm hồn của các chàng trai, các cô gái trẻ đang
yêu, phản ánh sự thay đổi về tƣ tƣởng và nghệ thuật biểu hiện của ông
trong lĩnh vực tiểu thuyết. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn cho các sáng
tác của Nhất Linh không chỉ ở một thời.
2.2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật biểu hiện chiều sâu nội tâm
Với đặc điểm của cốt truyện tâm lý luôn chú ý đi sâu vào đời
sống nội tâm của con ngƣời, vì thế ngôn ngữ trong Đôi bạn và Bướm
trắng của Nhất Linh đã rất thành công trong miêu tả tâm lý con ngƣời.
Ông đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để miêu tả nội tâm mà ta đã
tìm hiểu: ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên và bƣớc
chuyển biến quan trọng nhất trong miêu tả tâm lý nhân vật của ông trong
Đôi bạn và Bướm trắng so với các tác phẩm trƣớc đó có lẽ là ở ngôn
ngữ nhân vật. Cả ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật đều
hƣớng đến thể hiện thế giới tâm hồn phức tạp và đầy bí ẩn của con
ngƣời.
* Đối thoại tâm lí
Ngôn ngữ đối thoại trong Đôi bạn và Bướm trắng vẫn giữ đƣợc
nét giản dị, đời thƣờng và phần nào thể hiện tính cách nhân vật nhƣ ở các
tiểu thuyết luận đề. Nhƣng ở tiểu thuyết tâm lý, ngôn ngữ đối thoại đã đi
sâu vào miêu tả đời sống nội tâm của con ngƣời hơn. Các hình thức của
đối thoại đều nhằm bộc lộ những cảm xúc của con ngƣòi một cách tinh
tế hơn. Do hƣớng vào thể hiện đời sống tình cảm của con ngƣời cá nhân
trong lĩnh vực tình yêu - một lĩnh vực rất đỗi riêng tƣ - nên tác giả đã sử
dụng nhiều thủ pháp đối thoại đặc biệt để các nhân vật dù cùng sống
trong môi trƣờng đông ngƣời, dù cùng giao tiếp với những ngƣời khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nhƣng những ngƣời yêu nhau vẫn tìm đƣợc những tín hiệu riêng mà chỉ
có họ mới hiểu, còn những ngƣời khác thì không. Các thủ pháp nghệ
thuật này đã đƣợc Nguyễn Thị Mai Hƣơng phân tích khá kỹ trong luận
văn của mình. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đƣợc điểm qua đó là các thủ
pháp: đối thoại mang tính chất ám chỉ hay còn gọi là đối thoại ngầm, đối
thoại qua hành vi cử chỉ hay là đối thoại không lời.
Đối thoại mang tính chất ám chỉ đƣợc sử dụng khá nhiều (Đôi
bạn: 9 lần, Bƣớm trắng: 8 lần). "Thủ pháp này cũng đã được xuất hiện
trong các tiểu thuyết luận đề nhưng chỉ nhằm để mỉa mai, khích bác
bóng gió một người thứ ba" [45; 75]. Chẳng hạn đối thoại giữa mẹ con
bà Phán khi Loan không biết nhà có giỗ, đi chơi vừa về đến nhà:
"Bà Phán Lợi ngồi ở sập uống nước, thấy nàng về ngọt ngào hỏi:
- Mợ đi chơi mát về?
Loan cúi đầu không đáp, đi rẽ sang buồng bên cạnh. Bà Phán hỏi
to:
- Mợ đã xơi cơm chưa để bảo nó dọn cơm.
Rồi bà lên tiếng gọi con gái:
- Bích ơi! Con dọn cơm lên để chị xơi đi.
Bích đang nói chuyện với em là cô Châu, thấy mẹ gọi, vội đáp:
- Thưa mẹ, nhà hết cơm rồi, chỉ còn ít cháy thôi ạ" [8; 221].
Lời đối thoại giữa hai mẹ con bà Phán nhằm mục đích chính là
châm biếm, mỉa mai Loan đã không làm tròn phận sự một ngƣời con dâu
theo quan niệm của bà.
Đối thoại ám chỉ trong Đôi bạn và Bướm trắng đƣợc dùng để các
nhân vật tìm hiểu, thăm dò thái độ, tình cảm của nhau, có khi trƣớc mặt
ngƣời khác mà vẫn giữ đƣợc sự kín đáo. Chẳng hạn trong buổi chiều
mồng ba tết đến chơi nhà Thu, đánh bạc với mọi ngƣời, Trƣơng muốn
"dò ý tứ Thu, dò ý trước mặt mọi người mà không ai có thể nghi ngờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
được", nên chàng nói: "Ván này ăn được đồng hào mới … ngon lạ". Việc
cố tình nhấn mạnh vào từ "ngon lạ" là muốn gợi xem Thu có còn nhớ tới
lời nói mà hai ngƣời đã dùng trong buổi đầu gặp nhau không. Nếu nàng
còn nhớ thì có nghĩa là Thu đã để ý đến chàng. Trƣơng sung sƣớng khi
thấy Thu đã hiểu ý mình và phép thử của chàng có hiệu quả. Vì thế,
chàng đáp lại lời Thu: "Sống lúc nào cũng như phút này thì cảnh nào
cũng đẹp. Nắng cũng đẹp mà mưa cũng đẹp…". Hiểu lời Trƣơng bày tỏ
sự đồng cảm với mình, Thu cũng nói: "Đánh để thua với được. Người
được thì vui người thua cũng thích không kém gì…" Tâm trạng sung
sƣớng ấy của Thu chỉ có Trƣơng mới hiểu đƣợc còn mọi ngƣời khác thì
thấy câu ấy là vô lý, vì thế Hợp cƣời: "Cái đó thì hơi nghi ". Qua những
lời đối thoại ám chỉ ấy Trƣơng và Thu đã hiểu đƣợc tình cảm của nhau,
họ đang hƣớng về nhau, thăm dò tình cảm của nhau, đồng cảm với nhau,
trong khi những ngƣời khác không biết gì cả.
Biện pháp đối thoại qua hành vi cử chỉ hay đối thoại không lời
(Phạm Thị Phƣơng Anh gọi là đối thoại gián tiếp) cũng đƣợc Nhất Linh
sử dụng thành công để các nhân vật Dũng - Loan, Trƣơng - Thu "trao
đổi tình cảm". Trong đó cách trao đổi bằng ánh mắt đƣợc sử dụng nhiều
nhất: Dũng - Loan bày tỏ tình yêu bằng ánh mắt trên đồi Quỳnh Nê,
Trƣơng - Thu trò chuyện với nhau rất nhiều lần bằng ánh mắt.
Chúng tôi cũng đồng tình với Nguyễn Thị Mai Hƣơng khi cho
rằng: "Hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ và đối thoại không lời
đã làm rõ cảm giác về người khác trong nhân vật của Đôi bạn và Bướm
trắng" [45; 83]. Ở tiểu thuyết luận đề hình thức giao tiếp này không
đƣợc phát huy tác dụng do phải phù hợp với bƣớc phát triển của luận đề.
Còn ở tiểu thuyết tâm lý mối giao cảm giữa những nhân vật đƣợc nâng
lên bình diện thứ nhất, nên hình thức này đã phát huy đƣợc tác dụng giúp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
các nhân vật "cảm nhận về nhau và cùng cảm nhận về thế giới. Chính
quá trình khám phá về nhau ấy là một nét mới Nhất Linh đem đến cho
nghệ thuật và nhân vật trong tiểu thuyết của mình" [45; 83].
Nhƣ vậy, trong Đôi bạn và Bướm trắng ngôn ngữ đối thoại đã có
nhiều hình thức phong phú để phản ánh muôn vàn những cách biểu hiện
tình cảm trong đời sống của con ngƣời. Sử dụng loại ngôn ngữ này, tác giả
đã khiến cho ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trở nên nhiều màu sắc biểu
cảm hơn. Ngôn ngữ đối thoại không chỉ đơn thuần là công cụ truyền đạt nội
dung thông tin trực tiếp mà còn là mật khẩu để những ngƣời trong cuộc
thông báo cho nhau, tìm hiểu, khám phá lẫn nhau, khiến nhân vật hiện lên
gần gũi với đời thực hơn.
* Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Độc thoại nội tâm là một thủ pháp quen thuộc của Nhất Linh trong
khi đi sâu khám phá thế giới tâm hồn của con ngƣời. Ngôn ngữ độc thoại
nội tâm trong các tác phẩm tiểu thuyết tâm lý ngày càng hoàn thiện hơn.
Thống kê về tỉ lệ dòng văn bản độc thoại và độc thoại nội tâm so với
toàn văn bản trong tài liệu nghiên cứu, chúng tôi thu đƣợc bảng số liệu
sau (có tham khảo số liệu thống kê của Nguyễn Thị Mai Hƣơng):
Số dòng độc thoại Tổng số dòng Tác phẩm và độc thoại nội Tỉ lệ % văn bản tâm
114 5060 2,26% Đoạn tuyệt
111 4904 2,26% Đôi bạn
385 5161 7,46% Bƣớm trắng
Qua kết quả trên, ta thấy việc sử dụng hình thức ngôn ngữ này ở
Đoạn tuyệt và Đôi bạn có mật độ tƣơng đƣơng nhau, riêng Bướm trắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
dày đặc hơn.
Tuy nhiên khi đi sâu tìm hiểu về cách sử dụng hình thức ngôn ngữ
này trong việc thể hiện nội tâm nhân vật, chúng tôi nhận thấy từ Đôi bạn
ngôn ngữ độc thoại nội tâm đã có bƣớc phát triển hơn so với các tiểu
thuyết luận đề. Trong các tiểu thuyết luận đề độc thoại hay độc thoại nội
tâm của các nhân vật bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ , hoặc do một
sự tác động cụ thể nào đó trực tiếp từ ngoại cảnh (điều này chúng tôi đã
phân tích qua một số ví dụ ở trang 71 của luận văn). Khi có một tác động
khác từ bên ngoài thì dòng suy nghĩ đó dễ bị đứt đoạn chuyển sang một
vấn đề khác. Chẳng hạn trong Đoạn tuyệt, Loan đang nghĩ về việc nhân
duyên của mình khi nghe hai vợ chồng Thảo nói đùa về về sự khác biệt
trong hai cách sống giữa Lâm và Dũng thì lại chuyển sang nghĩ đến hai
cảnh sống trái ngƣợc nhau: "một cảnh đời yên tĩnh ngày nọ trôi theo ngày
kia như dòng sông êm đềm chảy, nhẫn nại sống trong sự phục tùng cổ lệ
như mọi người con gái khác và một cảnh đời rộn rịp, khoáng đạt siêu
thoát ra hẳn ngoài lề lối thường". Tuy nhiên sự liên tƣởng đó còn dễ hiểu
vì dù sao cũng cùng một đề tài, suy tƣ tiếp theo của nàng khi nhìn Dũng
thì thật sự là xa với suy nghĩ của nàng lúc ban đầu, khi nàng so Dũng với
mình và muốn tạo ra cuộc sống hợp với quan niệm của mình.
Nhƣng độc thoại nội tâm trong Đôi bạn đã phát triển nhƣ một
dòng suy nghĩ, điều nhân vật nghĩ có khi tách ra khỏi môi trƣờng giao
tiếp hiện tại. Chẳng hạn Loan đang nói chuyện về Thái, Dũng không
muốn Loan hỏi về Thái nữa nên hỏi xin thuốc lá, Trúc đƣa thuốc lá mời,
Loan đùa với Trúc nhƣng trong đầu vẫn nghĩ đến Thái. Hay Dũng trong
một buổi sáng chủ nhật rỗi rãi, sang nhà vợ chồng Thảo chơi, dù nói đến
chuyện gì cũng vẫn nhớ đến Loan, hình dung về Loan, mong mỏi Loan,
kể cả khi Loan đang ngồi trƣớc mặt chàng thì trong lòng Dũng vẫn suy
nghĩ về Loan. Hoặc khi ngồi đánh tổ tôm với mấy anh chị em trong nhà,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
mọi ngƣời nói gì thì nói, trong đầu chàng nghĩ đến lẽ sống, kể cả tham
gia trò chuyện với mọi ngƣời, thì Dũng vẫn nghĩ về điều đó. Dòng nội
tâm của nhân vật nhƣ tách ra khỏi môi trƣờng hoạt động của nhân vật để
nhân vật chỉ sống với cõi riêng của tâm hồn mình.
Sang đến Bướm trắng hình thức độc thoại nội tâm không chỉ dày
đặc trong tác phẩm mà còn hoàn chỉnh hơn rất nhiều so với các tiểu
thuyết luận đề. Điều này biểu hiện những điểm sau:
Độc thoại nội tâm trong các tác phẩm trƣớc đó thƣờng có dấu hiệu
báo trƣớc của ngƣời trần thuật bằng những từ ngữ nhƣ : "nghĩ thầm", "tự
hỏi", "ngẫm nghĩ", "nghĩ bụng", "thầm nhủ", "nghĩ",… trƣờng hợp
không báo trƣớc trực tiếp bằng các từ ngữ trên thì có thể là: "Loan đưa
mắt nhìn Dũng cảm động", "mỉm cười chua chát", "mỉm cười sung
sướng", "cau mày",… Một dấu hiệu khác báo trƣớc các độc thoại nội
tâm của nhân vật là dấu gạch đầu dòng đặt trƣớc hoặc dấu ngoặc kép
chứa toàn bộ nội dung nhân vật tự đối thoại trong đầu. Ví dụ "- Cô nào
tốt số về làm dâu bà này thì phải biết. Ấy là đối với mình, một người
không thuộc quyền họ, mà họ còn thế đấy" [8; 212].
Đến Bướm trắng độc thoại nội tâm đƣợc tái hiện sống động hơn,
dƣờng nhƣ không có sự can thiệp của tác giả, tiếng nói nội tâm vang lên
đột ngột giữa dòng trần thuật. Chẳng hạn : "Trương không nghe Tuyển
nói: mắt chàng nhìn vào cửa sổ hé mở để lộ ra một khu vườn nắng (1).
Chắc không bao giờ chàng quên được cái vườn nắng lúc đó, những
chòm lá lấp lánh ánh sáng và màu vàng của một bông hoa chuối tây nở
ở góc giậu (2). Hình như trời nắng ở bên kia thế giới (3). Tai chàng
không nghe thấy tiếng Tuyển nói bên cạnh, nhưng nghe rõ cả những
tiếng chim rất nhỏ ở ngoài kia, tiếng gió trong lá cây, tiếng một con
chim sâu bay chuyền trong giậu và cả tiếng một cái ghế hay cái chõng
người ta kéo bên hàng xóm với tiếng một đứa trẻ nói còn ngọng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- Cho tôi uống nước (4).
Trương thấy hiện ra trước mắt cũng một cảnh trời nắng một tháng
trước ở Hà Nội (5)…." (Bướm trắng). Câu đầu của đoạn văn là lời tƣờng
thuật lại hành động của Trƣơng. Câu 2 bắt đầu đi vào cảm giác và từ câu
3 trở đi tiếng nói nội tâm thực sự cất lên. Trƣơng dƣờng nhƣ không sống
ở thực tại mà sống trong tiềm thức của cá nhân mình. Những âm thanh
mà chàng nghe thấy là những âm thanh của quá khứ vang lên trong tâm
trí, sau đó chàng tiếp tục những hồi ức về Thu trong lần gặp cách đó một
tháng.
Có lúc ngôn ngữ độc thoại nội tâm đƣợc cấu tạo ở dạng thức cao
hơn nhƣ dòng tâm trạng, với nhiều trạng thái, nhiều suy tƣởng thậm chí
đối lập nhau vang lên trong nội tâm nhân vật nhƣ lời đối thoại nội tâm .
Trƣơng về quê dự đám cƣới Lan, nhìn các cô phù dâu trang điểm cho
nhau, chàng chợt nảy ra ý tƣởng cƣới Thu làm vợ. Chàng nghĩ đến
những ngày vui, những giây phút hạnh phúc khi có Thu, rồi sau đó "chết
thì chết". Trong lòng Trƣơng vang lên những đối thoại ngầm:
"- Rồi được chết trong tay Thu còn hơn… còn hơn là chết dần
chết mòn không ai thương, chết một cách khốn nạn như bây giờ.
Nhưng ngay trong lúc nghĩ vậy, chàng vẫn biết có một tiếng
ngầm bảo chàng:
- Làm như thế xấu lắm.
Chàng tự bảo đối với chàng thì không có cái gì là xấu cả, chàng
là một người sắp chết đến nơi thì còn cần gì xấu với tốt. Tuy không cần
gì cả, tuy việc xấu đến đâu chàng cũng có thể làm được không bao giờ tự
khinh mình, mà chàng vẫn thấy trước rằng không thể nào làm nổi việc
cưới Thu".
Những suy tƣ ấy đã cho ngƣời đọc thấy cả những phần xấu và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
phần tốt, "rồng phƣợng lẫn rắn rết" trong nội tâm nhân vật.
Có khi độc thoại nội tâm đƣợc xây dựng nhƣ dòng ý thức, trong
dòng suy tƣ ấy ngƣời đọc đƣợc sống trong những hồi ức, liên tƣởng của
nhân vật về quá khứ, hiện tại, nghĩ về tƣơng lai. Dòng suy nghĩ của
Trƣơng sau khi ở tù ra là một ví dụ tiêu biểu. Trong nội tâm chàng có:
niềm "vui ngây ngất của một người đi xa lâu năm sắp được về thăm
nhà"; niềm khát khao đƣợc trông thấy Thu; những hồi ức trong trẻo về
quá khứ tuổi thơ với vòm trời êm dịu, với vƣờn rau của mẹ. Hồi ức gợi
cho chàng nhớ đến Nhan và mong muốn trở về làng lấy Nhan để sống
một cuộc đời lƣơng thiện. Trƣơng cũng thấy rõ những điều xấu xa, tội
lỗi khi chàng không có cách gì để sống, việc trở về làng lấy Nhan là
chàng đã để cho "tƣ lợi đi đôi với ái tình", bởi chàng không hề yêu Nhan.
Nghĩ vậy chàng lại nhớ đến Thu và khẳng định : "sống nghèo khổ đến
đâu đi nữa cũng không sao miễn là lúc nào cũng có Thu bên cạnh". Thế
nhƣng vì không lần nào Thu vào trong tù thăm chàng, nên Trƣơng cho
rằng Thu quên mình rồi, chàng tự trách mình: "trước lấy quách Thu có
phải xong không? Giờ chỉ còn một cách là rủ Thu trốn… không xong thì
ta sẽ về làng lấy Nhan". Thế rồi, Trƣơng sung sƣớng nghĩ đến tƣơng lai:
cuộc đi trốn với Thu, việc hạ Thu xuống ngang hàng với mình, việc sẽ
đến nhà Chuyên chơi để khám bệnh và trêu chọc Chuyên,…
Diễn biến tâm lý theo kiểu dòng ý thức đã khiến nhân vật trôi miên
man trong dòng liên tƣởng, chuyển liên tiếp từ dự định này sang dự định
khác, làm cho quá trình tâm lý đầy những ngả rẽ bất ngờ. Trƣớc đó cũng
vậy, Trƣơng đã cố gắng xa Thu đƣợc sáu tháng, vì sợ làm phiền nhƣng chỉ
có một lần duy nhất nhìn cảnh vƣờn nắng khi về quê nhà: "những chòm lá
lấp lánh và màu vàng của một bông hoa chuối tây nở ở góc giậu. Hình
như trời nắng ở bên kia thế giới", "chàng liền nhớ ngay đến một kỷ niệm
cũng gắn với cảnh trời nắng và có cảm giác hình như Thu vừa mới đi
ngang khu vườn nắng ngoài cửa sổ" [13; 91], lập tức Trƣơng nảy ra ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
định rời quê lên Hà Nội gặp Thu.
Giáo sƣ Phan Cự Đệ cho rằng: "Dòng tâm lý của các nhân vật
phát triển cũng nhờ sự vận động của những kỷ niệm, hồi ức, liên tưởng.
Những kỷ niệm, liên tưởng này sẽ gây thành một phản ứng dây chuyền,
làm cho dòng nội tâm trôi chảy không ngừng và chính cái đó tạo nên
chiều sâu tâm lí nhân vật. Sự chồng chất về lượng của những dòng hồi
ức đưa đến những tình cảm mới, hành động mới" [44; 70].
Từ nhận xét trên soi vào dòng tâm lí của Trƣơng trong cuộc gặp
gỡ với Mùi, ta thấy đƣợc những biến động mãnh liệt trong tâm hồn
Trƣơng. Mùi là cô hàng xóm trong sáng ngày xƣa, nay trở thành gái
giang hồ. Gặp lại Mùi Trƣơng thấy "in trên nét mặt mếu máo và gầy gò
của Mùi tất cả cái đau khổ của đời chàng", con ngƣời Mùi là tấm gƣơng
soi của đời chàng, từ những ngƣời lƣơng thiện trong sáng, nay trở thành
những kẻ sa đọa, cả hai đều "tã" nhƣ nhau. Trƣơng khao khát Mùi lại trở
về cô hàng xén ngày xƣa với cuộc sống trong sạch. Trong dòng độc thoại
của mình, chàng nhớ lại quá khứ. Ký ức hiện về trong hƣ vô, vừa thực
vừa ảo, hình ảnh Thu, ngồi tù, bác sĩ Chuyên nhe răng cắn nát đời chàng,
đứa bé con cắn quả táo, …Tiếp sau đó là một đoạn độc thoại dài của
Trƣơng, chính xác hơn là đối thoại với Mùi, nhƣng Mùi không thể hiểu
đƣợc những điều chàng nói, nên Trƣơng nói chậm chạp "cốt cho một
mình mình nghe" nhƣ để an ủi, biện minh cho mình:
"Chàng thấy cần phải nói để cho nhẹ bớt gánh nặng, và như một
tín đồ sám hối với Đức Chúa Trời, trước khi nhắm mắt, chàng cũng đem
hết các tội lỗi, các nỗi đau khổ ra kể lể với Mùi. Mùi vừa nghe vừa ngơ
ngác nhìn Trương; nàng không hiểu Trương định nói gì, và hiểu chăng
nữa Mùi cũng chỉ cho là những lời vu vơ của một người quá say.
… Em là một con đĩ, nhưng anh còn tệ hơn em vì anh là một thằng
đĩ lừa… quá thế nữa…một thằng ăn cắp, nhưng ngồi tù xong là trả được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
nợ. Còn như đi lừa một người con gái, yêu người ta, nhưng lại muốn
người ta hết sức đau khổ vì mình lại sướng ngầm trong bụng… biết mình
không xứng đáng nhưng cũng cố làm cho người ta trọng mình… đau
khổ vì thấy mình khốn nạn nhưng lại sung sướng mong mỏi người ấy
cũng khốn nạn như mình; cái tội ấy không có pháp luật nào trị vì thật
ra không phải là một cái tội. Anh thấy anh thật là khả ố, hành vi của
anh khốn nạn, nhưng nếu bắt buộc phải sống trở lại thì anh lại làm
đúng như thế (…) Nếu anh ngủ với Thu như với Mùi, rồi thôi, mai
không nghĩ đến nữa, hết yêu, như vậy có lẽ đểu giả thật - thiếu gì người
đểu giả như thế - đểu giả nhưng tội không lấy gì làm to lắm, vì hành vi
ấy thường có. Đằng này không, anh lấy nê là yêu để đánh lừa người ta
một cách khoái trá và cứ muốn kéo dài cuộc lừa dối ấy ra mãi mãi để
cho mình vui thích. Mùi có thấy thằng nào đốn mạt như anh không?"
[13; 210].
Trong đoạn độc thoại ấy, "lời nói của nhân vật còn hàm chứa
những lời nói khác đã bị nhại lại: nhân vật lặp lại nguyên xi sự khẳng
định của người khác về mình, chỉ đặt vào đó một sự đánh giá mới và
nhấn mạnh nó theo cách của mình" [73; 73]. Đây chính là một nét phong
cách trong lời văn của Đôtxtôepxki mà M.Bakhtin đã chỉ ra. Đó là việc
nhà văn quan tâm đến "cái trạng thái chƣa xác định - chƣa quyết đoán",
miêu tả con ngƣời ở trƣớc cái quyết định cuối cùng, ở thời điểm khủng
hoảng và đột biến - một sự đột biến chƣa kết thúc và không thể định
trƣớc của tâm hồn con ngƣời. Bên cạnh những lời nhại lại ấy là những
lời đối thoại ngầm của nhân vật đối với những nhận xét đó (những dòng
in nghiêng đậm). Nhờ những đối thoại ngầm ấy, khi miêu tả nội tâm
nhân vật, Nhất Linh đã "khám phá ra được con người bên trong con
người" [59; 23]. Và nhân vật từ chỗ bị coi là đối tƣợng đã trở thành chủ
thể nhận thức và ý thức. "Cái gì trước kia tác giả làm, giờ đây nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
làm, nó tự soi rọi nó từ tất cả các giác độ có thể có, còn tác giả không
còn soi sáng cái hiện thực của nhân vật nữa, mà soi sáng cái tự ý thức
của nhân vật như một hiện thực cấp hai" [66; 242].
Kiểu độc thoại nhƣng mang tính đối thoại ấy đã khiến cho những
biện pháp miêu tả tâm lý đƣợc chuyển hoá thành sự tự nhận thức tâm lý
của nhân vật. Điểm nhìn từ phía nhân vật với những nhận thức chủ quan
về các biểu hiện tâm lí, tình cảm của chính mình, cùng một số yếu tố
nghệ thuật miêu tả tâm lí khác nhƣ đối thoại tâm lí, độc thoại nội tâm…
đã tạo nên thế giới khép kín của tâm hồn nhân vật.
Độc thoại nội tâm trong Bướm trắng đã chạm tới cả phần ý thức,
phần tiềm thức, vô thức và cả bản năng trong tâm hồn nhân vật. Nhà
nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã cho rằng Nhất Linh đã để "ngòi bút của
mình phiêu lưu với cuộc sống tâm linh của nhân vật (…) Ở đây, nhà văn
sử dụng cả phân tích tâm lý, cả bản năng, cả linh cảm, tiềm thức, vô
thức, nhà văn pha trộn quá khứ, hiện tại tương lai trong một phút
giây…" [43; 388].
Có thế nói với sự thay đổi về đối tƣợng phản ánh chuyển từ những
vấn đề xã hội sang thế giới nội tâm sâu kín của con ngƣời, ngôn ngữ
nghệ thuật của Nhất Linh đã có bƣớc phát triển mới, đạt đƣợc tới đặc
điểm hiện đại trong việc khám phá và biểu hiện thế giới tâm hồn con
ngƣời đầy bí ẩn và phức tạp.
Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh phát triển theo thời gian sáng
tác, càng ngày càng đi sâu đƣợc vào thế giơí tâm hồn của con ngƣời. Từ
Nho phong, qua Đoạn tuyệt và Lạnh lùng đến Đôi bạn và Bướm trắng
đã thể hiện những tìm tòi, đổi mới của ông từ nội dung đến hình thức thể
hiện.
Với kiến thức sâu rộng về văn hoá, văn học phƣơng Tây, với ý
thức về một nền văn chƣơng mang đậm tính dân tộc, với tài năng của
mình, Nhất Linh đã tạo cho mình một lối văn hiện đại với cách diễn đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trong sáng, tinh tế, giàu chất thơ, chất họa. Ngôn ngữ của ông đã đạt đến
đỉnh cao của văn học lãng mạn 1930- 1945 trong việc đi sâu khám phá
tâm hồn con ngƣời, đặc biệt ở lĩnh vực tình yêu. Tuy nhiên do quan niệm
sáng tác, ông mới chỉ chú ý đến đời sống tâm hồn của con ngƣời trong
một tầng lớp hạn hẹp đó là tầng lớp trung lƣu tiểu tƣ sản ở thành thị với
những mâu thuẫn trong lối sống, trong tâm trạng, chứ chƣa có cái nhìn
bao quát, mở rộng ra cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo trong
xã hội, đặc biệt là nông dân với trên 90% dân số lúc đó. Chính vì thế
ngôn ngữ nghệ thuật của ông mới chỉ giới hạn trong ngôn ngữ của tầng
lớp đó, với cách diễn đạt trong sáng, đẹp đẽ, nhƣng lặp đi lặp lại nhiều,
lại trở nên ƣớc lệ, xa cách với lời ăn tiếng nói của đời thƣờng lầm lụi.
Tuy nhiên với những thành công trong ngôn ngữ nghệ thuật,Nhất
Linh đã đem đến cho ngƣời đọc đƣơng thời một lối văn mới mẻ, cuốn
hút, vƣợt xa ngôn ngữ văn chƣơng trƣớc đó với những cách diễn đạt còn
mộc mạc, hay bóng bẩy với các sáo ngữ, hoặc lổn nhổn những từ Hán -
Việt. Quá trình chuyển biến trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
phản ánh sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc, chuyển từ ngôn
ngữ giao thời với những ngổn ngang cũ - mới, với những lủng củng,
rƣờm rà sang ngôn ngữ hiện đại với cách diễn đạt trong sáng, uyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
chuyển phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của ngƣời Việt Nam.
Chƣơng 3
MỘT SỐ ĐẶC SẮC TRONG NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH
Trong văn đoàn, Nhất Linh không những là thủ lĩnh, ngƣời quản lí
và điều hành toàn bộ hoạt động, mà ông thực sự trở thành "cây bút trụ
cột của tổ chức" này. Bạch Năng Thi đã không quá lời khi nhận xét:
"Trong Tự lực văn đoàn, nghệ thuật của Nhất Linh vững vàng nhất. Các
nhà văn của nhóm này, học hỏi nhiều ở văn học Tây phương, có một
trình độ tương tự nhau, cùng chung một quan niệm sáng tác. Họ chịu
ảnh hưởng khá sâu của Nhất Linh, người đứng đầu nhóm. Cho nên có
thể nói rằng những ưu điểm của Nhất Linh, của Khái Hưng về cách xây
dựng tác phẩm, sáng tạo nhân vật, phân tích tâm lí, hành văn, ấy cũng là
những ưu điểm của Nhất Linh" [43; 101/ 102]. Tìm hiểu về ngôn ngữ
nghệ thuật của Nhất Linh, ta không thể không đi sâu vào cách sử dụng từ
ngữ của ông bởi cách sử dụng ấy vừa tạo ra nét riêng trong ngôn ngữ của
ông, vừa tạo ra những dấu ấn của cả một văn đoàn.
3.1. TẠO SẮC THÁI NGÔN NGỮ CỦA TẦNG LỚP THỊ DÂN TRUNG
LƢU
Với thế giới nhân vật chủ yếu là những con ngƣời thuộc tầng lớp
trên của xã hội - tầng lớp thị dân trung lƣu. Họ có địa vị, có học thức, đời
sống vật chất khá giả. Nhân vật của Nhất Linh sống trong một môi
trƣờng đƣợc lí tƣởng hoá. Ngôn ngữ giao tiếp của họ cũng mang những
nét riêng của môi trƣờng sống ấy.
Điều đầu tiên ta thấy tên các tác phẩm của Nhất Linh cũng nhƣ tên
nhân vật của ông bao giờ cũng rất đẹp. Bắt đầu từ Nho phong, Người
quay tơ đến Đoạn tuyệt, Đời mưa gió, Gánh hàng hoa, Lạnh lùng, Đôi
bạn, Bướm trắng, Nắng thu, với Minh, Loan, Dũng, Trúc, Tuyết, Hà,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Liên, Nhung, Thu, Trâm,…Tất cả những cái tên ấy khác hẳn với những
Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, Trạch Văn Đoành, cu Lộ, mụ Lợi, Lang
Rận, … trong các sáng tác của Nam Cao. Một cái tên đẹp là dấu hiệu của
cả một quan niệm thẩm mỹ mới. Đọc một cái tên đẹp lên không chỉ là
vấn đề đẹp xấu mà nghe bớt cực nhục, khốn khổ hơn trong cuộc đời.
Những cái tên đẹp ấy đã phần nào thể hiện ánh nhìn lãng mạn, mang tính
lý tƣởng của Nhất Linh về những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội.
Trong tiểu thuyết của Nhất Linh, các nhân vật xƣng hô với nhau
bằng ngôn ngữ mang tính chừng mực với sắc thái biểu cảm nhẹ nhàng,
vừa phải. Vợ chồng xƣng với nhau bằng cậu - mợ, mình - em, con cái
gọi cha mẹ bằng thầy - me, chàng và nàng gọi cô xƣng tôi, hoặc gần gũi
hơn thì là anh với em. Con ngƣời buộc mình vào khuôn phép mà xã hội
thị dân quy định. Ngƣời ta bộc lộ tình cảm gần gũi, thân mật, nhƣng
không hề suồng sã, đặc biệt trong tình yêu. Tình yêu của Dũng và Loan
âm thầm nhƣng rất sâu sắc thế nhƣng khi trò chuyện họ không dám bộc
lộ tình cảm. Dũng vẫn gọi Loan bằng cô xƣng tôi, có khi buột mồm gọi
em xƣng anh cũng làm chàng ngƣợng ngập xin lỗi. Cách xƣng hô khuôn
sáo ấy làm cho tình yêu của các nhân vật có phần xa cách, khó có cơ hội
thể hiện cảm xúc mãnh liệt, chân thực.
Điều đó khác hẳn ngôn ngữ trong sáng tác của các nhà văn hiện
thực, chẳng hạn Nam Cao. Ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật trong
sáng tác của Nam Cao rất tự nhiên, chân thật, mang hơi thở cuộc sống
của ngƣời lao động. Cách xƣng hô rất mộc mạc ngay cả trong lĩnh vực
tình yêu. Những sự đổi thay trong cách gọi đã thể hiện những bƣớc
chuyển trong tình cảm của các nhân vật diễn ra rất nhanh chóng. Chẳng
hạn cách xƣng hô của Mô và Hà trong Sống mòn rất tự nhiên, thân mật.
Ngay câu đầu tiên Mô nói với Hà đã thể hiện rõ mối quan hệ thân tình,
suồng sã:
- "A! Người chị em!...".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Hà đáp lại cũng không kém: "Rõ thối nhà anh lắm!".
Tiếp đó Mô thân mật: "…Chỗ bạn máy nước với nhau, tôi hỏi thế
đã sao chưa?".
Hà ngúng nguẩy: "Ai khiến hỏi?".
Cách nói dấm dẳng đã thể hiện rõ cảm xúc của các nhân vật họ
đều đã có tình cảm với nhau nhƣng còn cố giấu. Nhƣng chỉ vài hôm sau,
khi Hà nhờ Mô lấy nƣớc hộ, Mô đã dám gọi Hà là "Nhà tôi đấy!". Đó là
những cách nói dân dã, bình dị của ngƣời lao động mang đậm cảm xúc
tự nhiên, chân thật.
Nhất Linh không vội vàng, không quá xúc động, bao giờ nhà văn
cũng kiểm soát đƣợc tình cảm, cảm xúc trong ngôn ngữ của tác phẩm.
Cách gọi tên các nhân vật ở ngôi thứ ba trong tác phẩm của ông đã thể
hiện rõ thái độ chừng mực và tinh tế. Ông thƣờng gọi nhân vật là
"chàng" hoặc "nàng", tên riêng của nhân vật: Dũng, Loan, Thảo,…. Với
các nhân vật có tuổi, tác giả không bao giờ gọi tên tục mà thƣờng gọi
"ông", "bà" kết hợp với danh vị của chồng, chẳng hạn: Bà Án, bà Phán,
bà Hai,…Kể cả ở những lúc xung đột diễn ra rất căng thẳng, cách xƣng
hô của các nhân vật vẫn giữ đƣợc chừng mực thể hiện rõ bản chất của
ngƣời có học thức. Loan trong lúc xô xát với chồng, với mẹ chồng vẫn
không có lời nào xúc phạm đến chồng vẫn gọi "cậu" xƣng "tôi", với mẹ
chồng cô cũng không dám có lời xúc phạm quá đáng, chỉ tỏ thái độ quyết
liệt qua cách xƣng hô "bà" và "tôi": "Bà là người, tôi cũng là người,
không ai hơn kém ai" [8; 290].
Tinh tế trong ngôn ngữ từ lời của ngƣời kể chuyện đến lời của nhân
vật, Nhất Linh luôn giữ đƣợc sự cân bằng, thái độ chừng mực. Cách gọi
tên nhân vật ở ngôi thứ ba trong tác phẩm của ông vẫn thể hiện một cái
nhìn âu yếm, chủ quan của một nhà tiểu thuyết lãng mạn, khác hẳn với cái
nhìn khách quan đến sắc lạnh của nhà văn hiện thực nghiêm nhặt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Cao thƣờng gọi nhân vật của mình là hắn, y, thị, gã, mụ, anh cu, chị
cu,…"thậm chí ngay cả những nhân vật có tên hẳn hoi cũng có xu hướng
bị thay thế bằng hắn hoặc y" [85; 234].
Cùng viết về đời sống của con ngƣời trong xã hội thị dân đang
trên đƣờng "Âu hoá", nhƣng ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh và Vũ
Trọng Phụng hoàn toàn khác nhau do quan điểm, tƣ tƣởng sáng tác khác
nhau. Vì thế, cách sử dụng từ ngữ của các tác giả cũng khác nhau. Nhất
Linh là nhà văn lãng mạn, đề cao tính lí tƣởng, quan tâm đến cuộc sống
của tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản, ông cổ vũ cho những cái mới tiến bộ
đang diễn ra trong xã hội. Các nhân vật của ông không phải lo lắng nhiều
về chuyện miếng cơm, manh áo, mà chủ yếu là suy nghĩ, trăn trở về
quyền sống tự do, hạnh phúc, tự do yêu đƣơng, khát khao sống một cuộc
sống có ý nghĩa hơn, ngôn từ đi sâu vào đời sống tâm hồn của con ngƣời.
Các lớp từ ngữ đƣợc sử dụng đều mang một vẻ đẹp trong sáng, tinh tế,
chừng mực nhƣ đã nói ở trên.
Còn Vũ Trọng Phụng lại khác, với cái nhìn hiện thực muốn lột tả
những mặt trái của xã hội thực dân Âu hoá, tác phẩm Số đỏ của ông đã
giễu nhại cả cả một xã hội, một phong trào chính trị, một thời đô thị hoá.
Nên ông đã sử dụng ngôn ngữ giễu nhại "nhại một ngôn ngữ đang hình
thành, hổ lốn, táp nham, lổn nhổn, không ăn khớp, ngôn từ khấp khểnh,
xiêu vẹo, tạp pí lù" [41; 32]. Ngôn ngữ trong Số đỏ là ngôn ngữ đô thị: "
…cái đô thị khốn khổ trong công cuộc đô thị hoá khốn khổ ở một xứ sở
đầy ắp những tư tưởng, phong tục tập quán phong kiến nham nhở, lai
tạp. Cái cặn bã "nội hoá" của đô thị(…) cộng với cái cặn bã văn minh
ngoại lai (…)cộng với chất sa thải của Paris (…), chỉ có thể tạo ra
những cái quái gở, những người dị dạng" [41; 33]. Trong xã hội lộn xộn
ấy , ngôn từ cũng lai căng, hỗn tạp, ngay cả từng cái tên nhân vật cũng
vậy: Typn, Minđơ, Mintoa, Me -xừ Xuân, Victor Ban, Văn Minh,…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Đúng nhƣ Đỗ Đức Hiểu nhận xét : "Ngôn từ Vũ Trọng Phụng tung
hoành đầy hứng thú và hiểu biết cái đô thị điêu toa, giả dối này. Những
cảnh nghịch bợm, phi lí, đối nghịch thật và giả, nịnh bợ nhau, động viên
nhau, công kênh nhau, tôn sùng nhau, dắt díu nhau đến "vinh quang"
điếm nhục, được biểu đạt bằng ngôn từ đầy nghịch lí của Vũ Trọng
Phụng, một loạt nghịch dụ, với những từ đối nghịch. (…)Ngay cái tên
Xuân Tóc Đỏ cũng mang những ý nghĩa trái ngược.(…) Nhà văn luôn
luôn sử dụng những đối nghịch để diễn đạt tính nhiều mặt của nhân vật.
Xuân mang trên đầu nó một kí hiệu đối ngẫu" [41; 33].
Nhất Linh đã tạo cho tác phẩm của ông một "bầu khí quyển" ngôn
ngữ lãng mạn với hệ thống từ ngữ đẹp, mực thƣớc và tinh tế, không có từ
nghịch dị, rất ít từ thông tục. Những đặc điểm này trong ngôn ngữ của
Nhất Linh cũng là những đặc điểm chung của ngôn ngữ văn chƣơng Tự
lực văn đoàn. Tuy nhiên ở từng nhà văn vẫn có những nét riêng khác
biệt. Ta có thể thấy điều này khi so sánh với Khái Hƣng và Thạch Lam.
Trong văn đoàn, nghệ thuật của Nhất Linh và Khái Hƣng có
nhiều nét giống nhau, hai ông đã cùng viết chung hai tiểu thuyết: Gánh
hàng hoa và Đời mưa gió, nhƣng ngôn ngữ mỗi ngƣời vẫn có những
điểm khác nhau. Bạch Năng Thi đã chỉ ra điểm khác nhau đó nhƣ sau:
Nhất Linh thì "hay quan sát, phán đoán, nặng suy nghĩ, nên cách diễn
đạt tư tưởng thường có tính chất lí trí; người viết chủ động khi cầm bút,
lời văn ngắn gọn, chặt chẽ chính xác, vừa giản dị, vừa chọn lọc. Khác
với Khái Hưng réo rắt, êm đềm, phảng phất theo điệu tình cảm mơ hồ
(…). Ngôn ngữ Khái Hưng thường là ngôn ngữ mơ hồ, man mác, chỉ
thích ứng với những tình cảm phảng phất, những tình cảm mung lung,
những ý nghĩ thoáng qua, hoặc một thứ ngôn ngữ đặc biệt của trí thức
thành thị, một thứ ngôn ngữ kiểu cách của thính phòng" (Bạch Năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Thi) [44; 226 / 227].
So với Nhất Linh, ngôn ngữ Thạch Lam nghiêng về chất hiện thực
hơn, nhƣng vẫn đậm chất thơ bởi sự hoà đồng của đầy ắp màu sắc, âm
thanh và mùi vị. Đây là một bức tranh cuộc sống đƣợc vẽ lên qua những
cảm giác tinh vi của con ngƣời thật cụ thể và ấn tƣợng:
"Khi vào đến con đường khuất khúc trong làng trời nhá nhem tối.
Qua hàng cây, Tân thấy lấp lánh đèn ở sân các nhà, tiếng reo đập lúa
trên cối đá, tiếng hạt thóc bắn vào nia cót như mưa rào. Đâu đâu cũng
thấy tiếng cười nói vui vẻ, cảnh đêm trong làng thôn quê vẫn yên lặng
âm thầm thì chiều nay hoạt động vô cùng. Mùi lúa thơm vương lại trong
các bụi cây hoà lẫn với mùi đầm ấm của phân, cỏ bốc lên khắp cả"
(Những ngày mới).
Tuy có những nét khác biệt ấy, nhƣng trong việc sử dụng từ ngữ
của Nhất Linh (cũng giống nhƣ Thạch Lam) đều mang đậm cốt cách trí
thức, thị dân. "Vùng chữ" mang đậm cốt cách trí thức: trang nhã, thanh
tao, ý nhị, kể cả khi miêu tả đời sống phồn tạp cũng dùng những uyển
ngữ, nhã ngữ thay cho những từ khó nghe, thô tục. Chẳng hạn: "Mô tả
những đối tượng tầm thường như phân cỏ, rác hay bãi rác… nhà văn
cũng đem lại cho chúng một hương vị riêng: nồng ấm, đầm ấm, âm ấm
và rất đặc biệt. Hình như những hương vị ấy được phả ra từ chính trái
tim ấm áp tha thiết với cảnh sắc quê hương của nhà văn" [82; 46].
Rõ ràng Nhất Linh và các nhà văn Tự lực văn đoàn đã tạo ra lớp
ngôn ngữ mang dấu ấn riêng của tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản và tầng lớp
thị dân trung lƣu bay bổng, lãng mạn, trong sáng và tinh tế, phù hợp với
đối tƣợng tiếp nhận.
3.2. CÓ NHỮNG KẾT HỢP TỪ MỚI TẠO CẢM GIÁC ÊM ÁI NGỌT
NGÀO
Với khát khao "dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một
lối văn thật có tính cách An Nam" và quan điểm "đem phƣơng pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
khoa học thái Tây, ứng dụng vào văn chƣơng An Nam", Nhất Linh đã có
những cách kết hợp từ mới để diễn tả những cảm giác mới lạ và sự êm
ái, ngọt ngào cho ngôn ngữ nghệ thuật. Đây là một trong những nét
chung của các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Nguyễn Trác, Đái Xuân
Ninh đã nói: "…Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã thể theo mẫu của nước
ngoài (tiếng Pháp) tạo ra những từ trìu tượng bằng cách thêm một yếu
tố tiền tố vào một từ cơ bản để tạo thêm một từ nhánh có chất lượng cao
hơn.Yếu tố tiền tố được dùng nhiều nhất là "cái", "sự" [18; 103].
Trong sáng tác của Nhất Linh ta cũng bắt gặp nhiều những kết hợp
nhƣ vậy, chẳng hạn:
- Những cái ràng buộc, đè nén của cuộc đời thường không có nữa,
chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè, được hoàn toàn sống theo ý mình (Bƣớm
trắng).
- Cận cũng vừa có cái ý nghĩ buồn rầu ấy vì không phải lần đầu
Hà ho như vậy… (Đôi bạn).
- Chàng có cái cảm tưởng rằng mình sắp thoát khỏi một nơi u ám
nặng nề và một sự gì mới mẻ sắp nẩy nở ra trong tâm hồn (Đôi bạn).
- Chắc chàng sẽ buồn vì sự ngạc nhiên ấy và chàng sợ rồi sẽ
không tin rằng ngôi sao của chàng là đẹp nữa (Đôi bạn)…
Rõ ràng những kết hợp với tiền tố "cái" và "sự" đã làm cho các
cảm giác, tâm trạng nói đến đƣợc hình dung một cách cụ thể hơn, gợi
cảm hơn.
Đặc biệt Nhất Linh còn có nhiều kết hợp rất riêng để diễn tả
những cảm giác khó tả đồng thời tạo ra giọg điệu trẻ trung, êm ái nhƣ :
- Sau mấy ngày u ám, trông nắng mới ngon lạ (Bƣớm trắng).
- Thế mà em cũng vừa chợp được một giấc ngon lạ (Bƣớm trắng).
- Chiều ba mươi tết giời trông buồn lạ (Bƣớm trắng).
- Ván này ăn được đồng hào mới ngon lạ (Bƣớm trắng).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- Mắt em lúc này đẹp lạ (Những ngày diễm ảo)!
- Cái xe êm lạ, đi đường này êm như sân đất (Những ngày diễm
ảo).
- Chúng mình trẻ con lạ (Những ngày diễm ảo).
- Cỏ ngoài nắng thơm lạ (Những ngày diễm ảo)…
Những kết hợp từ mới của Nhất Linh rất giống với cách sáng tạo
từ ngữ theo phƣơng thức ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, có sự tƣơng giao
giữa các giác quan mà các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới đã sử dụng
rất thành công, kiểu nhƣ: "khúc nhạc thơm", "khúc nhạc hường", " tháng
giêng ngon như một cặp môi gần",… trong thơ Xuân Diệu; hay "chiều
mồ côi, đời rét mướt", "tiếng gió buồn thê thiết"… trong thơ Huy Cận…
Và có lẽ nhờ cách kết hợp từ tiếp nhận đƣợc từ các nhà thơ lãng mạn
phƣơng Tây đã làm cho lời văn của Nhất Linh rất êm ái, ngọt ngào, giàu
chất thơ.
Với mong muốn khám phá thế giới tâm hồn của con ngƣời, Nhất
Linh cũng tìm ra những kết hợp từ mới mẻ, chính xác, gợi cảm để miêu
tả hiện thực và bộc lộ tâm trạng của nhân vật. Phạm Thị Phƣơng Anh đã
nêu ra một số dẫn chứng cụ thể về cách sử dụng một số từ ngữ đạt đến
độ hàm súc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh:
"… từ "rít" trong câu: "Ở ngoài trời mưa và lẫn với tiếng kèn,
thỉnh thoảng cơn gió lại rít lên một tiếng dài"(Bướm trắng) vừa miêu tả
đƣợc âm thanh tạo ra từ cơn gió mùa đông lạnh lẽo, vừa bộc lộ đƣợc sự
tức bực, bức bách đến tức tối trong tâm hồn Trƣơng; từ "phơi" trong câu:
"Mặt trời chưa lên cao, bình minh còn phơi màu hồng nhạt, một cơn gió
lạnh đưa mùi thơm của hoa cau” (Đôi bạn), khiến cho ngƣời đọc nhƣ
chìm vào không khí trong lành, mát mẻ tràn ngập hƣơng hoa cau thơm
mát, mộc mạc, và ánh sáng chỉ kịp toả ra một thứ màu dịu nhẹ nhƣ
"phơi" tấm lụa khổng lồ lên mọi vật, "phơi" vừa có tác dụng mô tả vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
có tác dụng gợi hình; từ "phẳng lì" trong câu: "Cánh đồng chân rạ vắng
người phẳng lì đến tận chân trời" (Đôi bạn) lại mở ra một không gian
rộng lớn của cánh đồng mùa đông, "phẳng lì" có tác dụng gợi sự mênh
mông làm cho những nhấp nhô của các bờ ruộng nhƣ bị biến mất. Dũng
và Trúc nhìn mút tầm mắt , bị hút vào khoảng không mù mù, lạnh lẽo,
vắng ngƣời, vắng cả bóng dáng cây lúa - những biểu hiện của sự sống
nhƣ cuộc đời Dũng vậy, nhàm chán, buồn bã, cô đơn. "Phẳng lỳ" gây ấn
tƣợng mạnh ở nghĩa thứ hai của câu hơn là ở nghĩa thứ nhất… " [18;
105].
Phép đảo từ ngữ cũng đã đƣợc Nhất Linh sử dụng khá đắc địa, gợi
cảm, tô đậm ấn tƣợng, cảm giác. Ví dụ:
- “Nàng đỏ mặt và bên tai như văng vẳng có tiếng mắng” (Lạnh
lùng).
- “Trên rặng tre xơ xác, da trời tím thẫm thưa thớt điểm vài ngôi
sao long lanh” (Đoạn tuyệt).
Do chú ý đi sâu miêu tả cảm xúc, tâm trạng con ngƣời, nên trong
cách dùng từ của Nhất Linh ta hay thấy ông kết hợp tính từ với danh từ
hoặc tính từ với động từ nhằm làm nổi bật cảm giác của con ngƣời.
Chẳng hạn nhƣ:
- Kết hợp danh từ với tính từ: ý nghĩ khó chịu, ý nghĩ buồn, ý
mong mỏi ngấm ngầm, ý tƣởng chua cay, bến đò xa vắng, đêm khuya
lạnh, bóng tối giá lạnh,…
- Kết hợp tính từ với động từ: vui thích đƣa mắt nhìn theo, mê
man nhìn, lo lắng ngẫm nghĩ, hồi hộp ngắm nghía,…
Có lẽ chính vì cách sử dụng ngôn từ nhƣ vậy đã phần nào tạo nên
đặc điểm tràn ngập trong tác phẩm của Nhất Linh là "thế giới cảm giác".
3.3. DÙNG NHIỀU TÍNH TỪ DIỄN TẢ NHỮNG CẢM GIÁC MONG
MANH
Nét nổi bật trong từ ngữ của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đó là hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
thống tính từ đƣợc xuất hiện một cách dày đặc và đa dạng, nhiều hơn hẳn
so với các tác phẩm văn học hiện thực. Chẳng hạn, tỉ lệ tính từ / trang
văn bản của các tác phẩm Tự lực văn đoàn thƣờng rất cao, theo thống kê
của Phạm Thị Phƣơng Anh: Đoạn tuyệt (9,73 từ), Lạnh lùng (10,48 từ),
Nửa chừng xuân (11,59 từ), trong khi đó Số đỏ (3,74 từ), Giông tố
(4,79 từ) [18; 101]. Nguyên nhân là do các tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
tập trung khai thác đời sống nội tâm của con ngƣời với những xúc cảm
mong manh, tinh tế, còn các tác phẩm văn học hiện thực lại nghiêng về
miêu tả hiện thực, những cái biểu hiện ra bên ngoài thành hành động, lời
nói. Vì thế ở các tác phẩm hiện thực khi đi sâu miêu tả thế giới tâm hồn
nhân vật thì tỉ lệ tính từ cũng đƣợc sử dụng nhiều, ví dụ ở Sống mòn của
Nam Cao tỉ lệ này là: 8,5 từ / trang văn bản, tƣơng đƣơng với các tác
phẩm của Nhất Linh.
Khi so sánh cách sử dụng tính từ của Nhất Linh và Nam Cao ta
thấy có những điểm giống và khác nhau. Với việc chú ý miêu tả thế giới
tâm hồn của con ngƣời, cả hai nhà văn đều ƣa thích sử dụng nhiều tính
từ trong một câu văn để diễn tả những trạng thái cảm xúc, tƣ tƣởng dồi
dào. Chẳng hạn nhƣ:
- "Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên
khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng trong một giây chàng sống
lại hết cả những ngày mới trở rét trong đời" (Đôi bạn - Nhất Linh).
- "Nhưng sao trong cái vui của chàng vẫn phảng phất những lo
lắng vẩn vơ, khác nào như những bông hoa phù dung về mùa thu đương
độ nở đẹp lộng lẫy mà cái chết đã ngấm ngầm ở trong" (Đôi bạn - Nhất
Linh).
- "Qua khe cửa, trời hẵn còn tối, Trương thấy trong người mỏi
mệt, nhưng có một cái mỏi mệt dễ chịu của một người vừa hết sốt"
(Bướm trắng - Nhất Linh).
- Oanh nhỏ nhen, ích kỷ, tham lam, vì những cái đó, âu cũng là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
bản tính của loài người (Sống mòn - Nam Cao).
- "Đáng ghét, đáng nguyền rủa, ấy là cái lối sống lầm than nó đã
bắt buộc người ích kỷ, nó đã tạo ra những con người tàn nhẫn và tham
lam" (Sống mòn - Nam Cao).
- "Nhưng cái mặt Oanh khinh khỉnh, vênh vênh, trông khiêu khích
lạ lùng" (Sống mòn - Nam Cao).
Tuy nhiên khác với Nam Cao, Nhất Linh thích sử dụng kép tính từ
(một tính từ chỉ trạng thái và một tính từ chỉ mức độ trong mối quan hệ
chính phụ) để chỉ cùng một trạng thái, tâm trạng, điều đó góp phần biểu
hiện tinh tế hơn về trạng thái cảm giác và tạo ra giọng văn nhịp nhàng,
uyển chuyển. Nhƣ ở các câu trên đó là các tính từ: rung động êm ái, hiu
hắt buồn, lo lắng vẩn vơ, đẹp lộng lẫy, chết đã ngấm ngầm ở trong, mỏi
mệt dễ chịu. Còn ở Nam Cao các tính từ đƣợc sử dụng khá độc lập,
ngang hàng nhau về ý nghĩa, có phần tạo cho giọng văn sự dứt khoát,
mạnh mẽ hơn.
Khi tìm hiểu về việc sử dụng tính từ của Nhất Linh so với Thạch
Lam và Khái Hƣng ta cũng thấy có nét riêng rất dễ nhận ra là các tính từ
thƣờng nghiêng về diễn tả những cảm giác mong manh, tinh tế, nhẹ
nhàng. Cảm giác ấy có đƣợc là nhờ tác giả rất hay sử dụng các tính từ
diễn tả những khoảnh khắc thoáng qua nhƣ: đưa thoảng qua, muốn
thoáng qua, thơm thoảng, thoáng trông, thoáng qua,…; những tính từ
gợi lên những cảm giác mong manh không rõ, không dễ định hình: thơm
nhẹ quá, mờ sương, xa xôi, mờ mờ, phảng phất, xa xăm, êm ả, mong
manh, hoà hợp, nhẹ lướt, ngây ngất, tha thiết, mơ màng, xao xuyến, mê
man bàng hoàng, hiu quạnh, vu vơ, vẩn vơ, mang máng…
Không chỉ vậy Nhất Linh còn là ngƣời dùng rất tài tình những kết
hợp kép của tính từ nhƣ đã nói ở trên tạo ra những trạng thái cảm giác
mơ màng hơn, hoặc phong phú, phức tạp hơn. Chẳng hạn: lo lắng vẩn
vơ, sung sướng mong manh, sung sướng man mác, phất phơ vô định,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
buồn xa xôi, rụt rè ý nhị, mát dịu lạ lùng, bực tức vô cớ rạo rực, buồn xa
xôi, não nùng mong manh, ngây ngất nhớ, buồn bã lạ thường, hồi hộp
sung sướng, khát khao ngấm ngầm, rạo rực hối hận, ngây ngất lảo đảo,
rung động êm ái, buồn xa vắng mông mênh, rờn rợn sợ, mê man quên
hết cả, lặng yên mơ mộng, quạnh hiu lạnh lẽo, kiêu hãnh một cách ngây
thơ, vui một cách vô cớ, vui mừng rất êm ái…Chính cách sử dụng tính từ
nhƣ vậy đã tạo cho ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh có khả năng đi
sâu vào thế giới tâm hồn con ngƣời với những diễn biến tinh nhạy, kể cả
những vùng mờ tối, khuất khúc.
Tính từ trong tác phẩm của Khái Hƣng dù đƣợc sử dụng rất nhiều,
với tỷ lệ khá lớn, nhƣng không chỉ tập trung vào biểu hiện thế giới cảm
giác của con ngƣời nhƣ Nhất Linh mà mở rộng hơn về mọi lĩnh vực khác
của cuộc sống. Ông hay kết hợp các tính từ chỉ nhiều trạng thái với nhau,
mỗi tính từ là một trạng thái, chứ không kết hợp nhiều tính từ cùng chỉ
một trạng thái nhƣ Nhất Linh, vì thế tính từ mang ấn tƣợng cụ thể, rõ nét
hơn. Chẳng hạn: yên tĩnh êm đềm, khoan thai dõng dạc, đỏ ửng lấp loáng,
thong thả ngân nga, ủ ê chán ngán, ngượng nghịu lúng túng, đau đớn
phiền muộn, náo nhiệt nhộn nhịp, êm đềm tịch mịch, quê mùa cục mịch,
trắng trẻo xinh xắn, lạnh lẽo tẻ ngắt, thản nhiên tươi cười, sáng sủa sạch
sẽ, u ám buồn rầu, dịu dàng mơn mởn,…
So với Nhất Linh, ngôn ngữ của Thạch Lam nghiêng về chất hiện
thực nhiều hơn. Cách sử dụng tính từ của Thạch Lam cũng có điểm
khác: "Trong bảng từ loại của mình, Thạch Lam phân bố động từ, tính từ
tương đối đồng đều, độ chênh lệch gữa hai loại từ này rất thấp" [85; 76].
Hệ thống tính từ trong sáng tác của Thạch Lam cũng nghiêng về miêu tả
cụ thể hiện thực cảnh vật và cuộc sống của con ngƣời, chứ không bay
bổng lãng mạn nhƣ Nhất Linh. Ông cũng hay dùng nhiều tính từ trong
một câu nhƣng thƣờng chỉ nhiều tính chất , trạng thái khác nhau, giữa
các tính từ thƣờng dùng từ "và" tạo thành từng cặp đôi. Ví dụ nhƣ:, xanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
xao và mệt nhọc, đen và mượt, âu yếm và nâng niu, êm đềm và phiền
phức, ẩm ướt và tối tăm, giản dị và sung sướng, lụp xụp và thấp lè tè,
đen và hôi hám, đáng thương và ái ngại, thất vọng và buồn rầu, tha thiết
và oán hờn, thiết tha và hi vọng, cảm động và mừng rỡ, âu yếm và mến
thương, bình yên và thong thả, mát mẻ và hiền lành… Điều này khiến
cho văn của Thạch Lam có phần giống Nhất Linh, nhƣng lại có điểm
khác trong những bức tranh miêu tả cảnh vật và con ngƣời. Nhƣ vậy,
cách sử dụng tính từ của Nhất Linh vừa mang những nét chung của ngôn
ngữ văn xuôi Tự lực văn đoàn, đó là sử dụng nhiều tính từ (chứ không
phải động từ), bởi đi sâu diễn tả thế giới tâm hồn của con ngƣời. Tính từ
nhìn chung đẹp, gợi cảm, trong sáng. Tuy nhiên cũng có nét riêng nhƣ ta
đã thấy là hệ thống tính từ của Nhất Linh nghiêng về diễn tả những xúc
cảm mong manh, tinh tế trong tâm trạng con ngƣời. Tính từ đƣợc dùng
ghép theo cách riêng để tăng khả năng biểu cảm và tạo ra giọng văn nhịp
nhàng, êm ái.
3.4. NHỮNG SO SÁNH ĐẸP, BAY BỔNG, TINH TẾ VÀ GỢI CẢM
So sánh là phƣơng thức tu từ quen thuộc, xuất hiện dày đặc trong
các tác phẩm Tự lực văn đoàn. Các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã
tận dụng tối đa những đối tƣợng có đặc tính giống nhau để đem ra so
sánh. Họ đã làm sinh động hơn rất nhiều cho tác phẩm của mình bằng
những hình ảnh so sánh, đặc biệt là những hình ảnh độc đáo. So sánh bao
giờ cũng nhằm làm tăng tính gợi hình và gợi cảm của ngôn ngữ, các so
sánh trong Tự lực văn đoàn có rất nhiều chức năng. Có khi nó đƣợc dùng
để cụ thể hoá đối tƣợng:
- "Một vài đám mây bay thấp vướng vào ngọn rừng kéo lan dài
như những dải lụa trắng" (Đôi bạn).
- "…Nét chữ tươi như hoa đào, già dặn như cành mai cỗi"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
(Nửa chừng xuân)
- "Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm như vừa tắm ở suối" (Dưới bóng
hoàng lan).
So sánh có khi đƣợc dùng để gợi hình hơn cho đối tƣợng đƣợc so
sánh:
- "Hôm ấy vào hạ tuần, trăng vừa mọc, trông như cặp sừng trâu
treo ngược trên đỉnh đồi" (Hồn bướm mơ tiên).
- "… Khói ở các nhà toả ra như mấy vết mực tàu đương lan trên
tờ giấy trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn).
- Có khi so sánh dùng để tăng tính sinh động cho đối tƣợng cần biểu
hiện:
- "Chàng lấy vợ cũng như người khác chơi cây cảnh" (Lạnh
lùng).
- "Và liền lúc đó, ba tiếng trống đánh dồn dập, hấp tấp, bất thần
như cái thức giấc hoảng hốt, kinh hãi của người đương chập chờn ngủ
gật" (Nửa chừng xuân).
Có một điều thú vị là ngƣời ta hay so sánh cái trừu tƣợng với cái
không trừu tƣợng để ngƣời đọc có thể hình dung, tƣởng tƣợng ra cái trừu
tƣợng kia là gì, thì các nhà văn Tự lực văn đoàn nhiều khi lại làm ngƣợc
lại. Họ lấy cái cụ thể để so sánh với cái trừu tƣợng hoặc lấy hai cái trừu
tƣợng so sánh với nhau để tạo ra những liên tƣởng mới.
- "Đêm khuya nữa… chậm chạp và thong thả, bác hàng quà, đi
nhẹ như chân ma… Tiếng rao buồn thảm, yếu ớt và uể oải như hàm một
nỗi thất vọng khôn cùng" [Thạch Lam].
- "Hoa kim liên sắc vàng thắm như một nụ cười thân yêu" [Khái
Hƣng].
- "Ở đâu vẳng lại tiếng ru em trong vắt như ánh nắng" [Nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Linh].
- "Trước mặt hai người, về phía bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà
ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi nhớ xa xôi đương
mờ dần" [Nhất Linh].
Đây là kiểu so sánh biểu hiện sự tinh tế trong tâm hồn ngƣời nghệ
sĩ, họ phải thực sự rung động trƣớc cảnh vật, con ngƣời, thực sự cảm
thấy đằng sau những cái tƣởng nhƣ không thể có sự liên hệ ấy một mối
quan hệ gần gũi. Trong các nhà văn Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là ngƣời
hay sử dụng nhất cách so sánh này. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của
Nhất Linh có một vẻ riêng bay bổng và lãng mạn.
Trong so sánh, nét riêng của ngôn ngữ tác giả thể hiện chủ yếu ở
cách dùng chuẩn so sánh và tƣơng quan so sánh, qua đó bộc lộ cái nhìn
độc đáo của nhà văn. Lấy tƣơng quan so sánh làm tiêu chí, chúng tôi
nhận thấy Nhất Linh thƣờng sử dụng hình thức so sánh tâm trạng, cảm
giác của con ngƣời với sự vật, tâm trạng đang trong trạng thái hoạt động.
Những so sánh kiểu này rất gợi hình, gợi cảm:
- "Nàng thấy hạnh phúc của nàng đẹp đẽ như ánh lửa lấp lánh
trong cốc rượu đương sóng sánh trên tay nàng" (Lạnh lùng).
- "Một luồng khói pháo thơm đưa thoảng qua cửa sổ đem lại cho
Dũng những cảm tưởng dịu dàng êm ái như ngọn gió xuân dịu dàng đem
mùa xuân tới" (Đôi bạn).
- "Một mùi thơm tựa như mùi cốm non phảng phất lẫn với bụi, với
gió, với ánh nắng" (Đôi bạn).
- "Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng
của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt thướt trên
những cánh đồng cỏ màu xanh già" (Đoạn tuyệt).
"Chàng sung sướng chỉ vì thấy mình như con chim thoát khỏi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến" (Bướm trắng).
Kiểu so sánh này, không chỉ gợi lên rất rõ cảm giác đƣợc nói đến
(dù là những cảm giác rất mong manh, mơ màng), mà còn có khả năng
gợi lên trong ngƣời đọc rất nhiều liên tƣởng. Các sự vật đƣợc đem ra để
so sánh không trong trạng thái tĩnh tại, mà đang hoạt động, biến đổi, vì
thế ngƣời đọc tuỳ theo cảm nhận của mình mà có thể có những liên
tƣởng khác nhau, những cảm xúc khác nhau. Tất cả những so sánh đó
đều gợi lên những hình ảnh thật đẹp, lãng mạn và bay bổng, bộc lộ
những cảm giác tế vi của con ngƣời. Qua những so sánh đó Nhất Linh đã
thể hiện những rung động sâu xa với con ngƣời và tạo vật. Các so sánh
của ông đều nhấn mạnh đến cảm giác tinh nhạy của con ngƣời trƣớc
cuộc đời, thể hiện những quan sát kĩ lƣỡng, sự gắn bó với cuộc sống đến
từng cảm giác.
Để miêu tả cảnh vật thiên nhiên, Nhất Linh cũng rất hay dùng
phƣơng thức so sánh giữa sự vật với sự vật, có điều thú vị là những sự
vật đem ra để so sánh ấy cũng không ở trong một trạng thái tĩnh tại,
chẳng hạn:
- "…Khói ở các nhà toả ra như vết mực tàu đương lan trên tờ giấy
trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn).
- "Thỉnh thoảng Trương phải cúi đầu cho khỏi chạm vào cành
cây; dưới một cái ao gần đây, bóng một cành tre in ngược, ngọn trúng
vào giữa một đám sao trông như một cây bông vừa toả hoa lấp lánh"
(Bướm trắng).
Hoặc có khi sự tĩnh tại chỉ là tạm thời, trong khoảnh khắc:
- "Trên một cây bàng nhỏ, những lộc mới đâm, màu xanh non hơi
phơn phớt hồng, trông như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yên" (Đôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
bạn).
- "Dưới chân nàng một vùng cỏ bóng loáng ánh nắng, trông nắng
in trên nền trời như hình một con chim trắng giương giương đôi cánh
sắp bay" (Đôi bạn).
Qua cách so sánh này, ta thấy cảnh vật hiện lên rất sống động, rất
đẹp - một vẻ đẹp trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời chứng tỏ khả năng liên
tƣởng phong phú, sự tài tình của nhà văn kiêm hoạ sĩ Nhất Linh trong
việc nắm bắt những vẻ đẹp linh động của ngoại cảnh. Những so sánh đó
cũng thể hiện một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, sự gắn bó thiết tha với
cuộc đời, với con ngƣời và tạo vật, kể cả ở những so sánh rất cụ thể, rất
thực tế, chẳng hạn: "Ở ngoài vườn, tiếng ếch nhái ran lên từng loạt,
thỉnh thoảng có tiếng chẫu chuộc kêu nghe lõm bõm như tiếng chân rút
mạnh của một người lội trong bùn" (Đôi bạn). Phải là ngƣời gắn bó với
cuộc sống nơi thôn quê, hay để ý quan sát và suy tƣởng mới có hình ảnh
so sánh chính xác và độc đáo đến vậy.
Các so sánh của Nhất Linh dù gắn với hiện thực hay bay bổng
lãng mạn cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi cảm và tinh tế, khác với
so sánh của Thạch Lam bình dị và chân chất. Thạch Lam rất hay sử dụng
so sánh cảm giác của tâm hồn với một sự vật bình dị hoặc yếu ớt thanh
mảnh, chẳng hạn:
- "Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời này, cuộc đời một cô hàng
xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia
như một tấm vải thô sơ" (Cô hàng xén).
- "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi, không biết, như
chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" (Hai đứa
trẻ).
- "Tất cả những cái đó bây giờ xa quá. Tâm trí tôi giãn ra, như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường" (Sợi tóc).
Những hình ảnh: "Tấm vải thô" cuộc đời đƣợc dệt lên bằng toàn
sợi khó nhọc (Cô hàng xén), ngọn đèn con của chị Tí và đêm đen nơi
phố huyện (Hai đứa trẻ), cây tre uốn cong lại thẳng (Sợi tóc) là những
hình ảnh rất đỗi bình dị, thân thuộc với cuộc sống con ngƣời vùng quê.
Những so sánh này đã gợi nên trong lòng ngƣời đọc bao xót xa thƣơng
cảm cho những cuộc đời tăm tối, khó nhọc.
Trong tác phẩm của Nhất Linh còn xuất hiện những so sánh giữa
đặc điểm, tính chất, hoạt động của ngƣời với đặc điểm, tính chất, hoạt
động của sự vật mang màu sắc nhục cảm, để tôn vinh cái đẹp hình thể
của con ngƣời, thể hiện những xúc cảm mãnh liệt, những khao khát thầm
kín trong tâm hồn những ngƣời đang yêu:
- "Chàng như trông thấy trước mặt bàn tay hơi rung rung của
Loan, hôm nào, cời những quả đậu non trong rá, chàng nhớ đến cái cảm
tưởng ngây ngất được thấy đôi môi Loan mềm và thơm như hai cánh hoa
hồng…" (Đôi bạn).
- "Lụa áo Trương thấy mềm như da người và một mùi thơm hơi
cay - không giống hẳn mùi thơm của nước hoa xông lên ngây ngất"
(Bướm trắng).
- "Lần đầu chàng nhận thấy vẻ đẹp của cái cổ tròn màu trắng dịu
và nom như một búp hoa ngọc lan sắp nở" (Bướm trắng).
- " Quả na phơi nắng suốt ngày, những múi na âm ấm và thơm
phảng phất như môi người yêu" (Đôi bạn).
- "Hoa mộc thơm như cô con gái quê mới dậy thì" (Lạnh lùng).
Dù có dùng phƣơng thức so sánh nào thì các hình ảnh so sánh của
Nhất Linh cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi lên trong lòng ngƣời
những cảm giác trong sáng, lãng mạn. Đây là nét khác với Thạch Lam
khi ông sử dụng những so sánh tƣơng tự nhƣ vậy, chẳng hạn:
- "Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô… Mẹ con bác ở một
căn nhà cuối phố, một cái nhà lụp xụp như những căn nhà khác… Mùa
rét thì rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một
cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc" (Nhà mẹ Lê).
- "Nhưng đến mùa rét… Dưới manh áo rách nát thịt chúng nó
thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết " (Nhà mẹ Lê).
Có thể thấy rằng "chuẩn so sánh ở đây dưới mức bình thường, là:
quả trám khô bị rút hết nước nhăn nheo đến thảm hại; là ổ chó, thịt trâu
chết. Nhưng có lẽ không gì có thể gợi ra hình ảnh mẹ con bác Lê trúng
hơn những sự vật tầm thường này" [20; 90]. Những so sánh này đã thể
hiện một cách xác thực thân phận thấp hèn và cuộc đời cơ cực, đắng cay
của họ, thể hiện một cái nhìn hiện thực của Thạch Lam về cuộc sống.
Qua cách so sánh của Thạch Lam, ta có thể nhận ra điểm giống và
khác nhau khá rõ trong cách sử dụng ngôn từ giữa hai nhà văn vừa là
đồng nghiệp, vừa là anh em này. Bên cạnh những so sánh nhằm làm tăng
giá trị gợi hình và biểu cảm nhƣ các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn,
Nhất Linh còn rất hay sử dụng kiểu so sánh mang đậm chất ẩn dụ, chúng
là những so sánh thực sự độc đáo, thực sự là điểm nhấn cho tác phẩm,
buộc ngƣời đọc phải tìm hiểu, phải khám phá xem vì sao tác giả lại so
sánh nhƣ vậy. Chẳng hạn trong Đôi bạn, tác giả đã để Dũng ví tình yêu
của mình với Loan "như một ngôi sao nhỏ ở một góc trời chỉ riêng đẹp,
riêng quý với chàng chính vì chàng đã chọn nó và không cho ai biết".
Cách so sánh ấy vừa gợi đƣợc vẻ đẹp, lung linh kì diệu của tình yêu
Dũng giành cho Loan, vừa biểu tƣợng cho tình yêu ấy mong manh, xa
vời, suốt đời Dũng khao khát nhƣng không thể nào với tới đƣợc.
Một lần nữa, cũng trong tác phẩm này, Dũng lại có một ý tƣởng so
sánh rất thú vị: "những con đom đóm bay qua ao bèo lúc tắt lúc sáng
như những ngôi sao lạc biết thổn thức". Để hiểu đƣợc hết ý nghĩa của so
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
sánh này, chúng ta không thể chỉ đọc riêng nó mà phải liên hệ với các
câu khác trong truyện. Khi Dũng có câu ví này là lúc chàng đang đi cùng
Loan vào một buổi tối mà trong lòng đang ngập tràn cảm xúc yêu thƣơng
dành cho Loan. Cảm xúc ấy dâng trào mãnh liệt nhƣ đã lên đến đỉnh cao,
nhƣng Dũng lại không đủ can đảm nói ra. Những con đom đóm nhắc lại
kỷ niệm thời thơ ấu bên Loan - cô bạn nhỏ hàng xóm và nhƣ trƣớc Dũng
ví tình yêu của mình với ngôi sao, thì nay kỷ niệm tuổi thơ lại càng làm
cho tình yêu ấy thêm đậm đà. Cái nhấp nháy của con đom đóm chính là
ngôi sao tình yêu trong lòng chàng bởi nó cũng đang nhấp nháy vì thổn
thức, vì xúc động, vì rạo rực - một nỗi rạo rực kín đáo. "Ngôi sao lạc " ấy
cũng xa vời, cũng không thể bắt đƣợc nhƣ đom đóm không bị đánh lừa
sà xuống cùng hai ngƣời - tình yêu của Dũng cũng vậy, thổn thức nhƣng
thật buồn!
Nhất Linh đã sáng tạo ra nhiều so sánh hết sức độc đáo, nhiều ẩn
ý. Trong Bướm trắng, lúc gặp Thu buổi đầu, ý nghĩ so sánh đầu tiên ập
đến trong Trƣơng đó là sự kiêu hãnh của Thu chỉ làm cho sắc đẹp của
nàng "ý vị hơn lên như chất chua của một quả mơ". Quả mơ ấy hấp dẫn
thật, nhƣng để có thể thƣởng thức đƣợc nó thì ngƣời ta cũng phải nếm
trải rất nhiều vị chua của nó. Còn Thu nhận ra tình yêu của mình với
Trƣơng khiến cho cuộc sống của nàng khác biệt hơn trƣớc, nhiều dƣ vị
hơn trƣớc, nhƣng trong cái dƣ vị ngọt ngào không phải là không có chút
gợn lòng vì những dƣ vị buồn, có lẽ không phải vô tình Nhất Linh để cho
nàng ví đời sống hiện tại của nàng so với những cái đã qua "có vị hơn…,
đậm đà hơn, một vị hương âm thầm không rõ rệt, ấm áp như hương thơm
đọng trong quả cam mới hái ngoài nắng vào chưa bóc vỏ".
Những so sánh này của Nhất Linh thật sắc sảo, tinh tế, vừa mang
lại sự sinh động gợi hình, vừa ẩn chứa trong đó biết bao cảm xúc, để
ngƣời đọc phải suy nghĩ, liên tƣởng, chiêm nghiệm mới có thể khám phá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ra. Không phải giản đơn chỉ là so sánh, Nhất Linh còn để một khoảng
trống cho ngƣời đọc nhận biết ý nghĩa của so sánh đó, để đồng cảm, sẻ
chia cùng nhân vật sâu sắc hơn.
So sánh là thủ pháp thƣờng thấy trong văn học. Nó có tác dụng
làm phong phú các hình ảnh, cảm giác… cho tác phẩm. Các nhà văn
mƣợn nó để thể hiện, phát huy khả năng tƣởng tƣợng, liên tƣởng vốn đã
nhiều màu vẻ của mình, giúp chúng ta có ấn tƣợng, cảm nhận đậm nét
hơn những điều nhà văn đang truyền đạt. Bằng tài năng của mình, Nhất
Linh đã tạo đƣợc những nét riêng trong cách sử dụng thủ pháp nghệ
thuật này, thể hiện cá tính sáng tạo, cách nhìn riêng của ông về con
ngƣời, về cuộc sống.
Để thực hiện khát vọng "đi sâu vào tâm hồn ngƣời đời", Nhất Linh
đã tạo ra đƣợc những cách dùng từ mới mẻ, tinh tế, giàu khả năng biểu
cảm, gợi hình. Các phép tu từ của ông đã diễn tả thành công những tâm
trạng, những trạng thái cảm xúc mong manh đầy biến ảo, phức tạp,
không dễ nắm bắt trong nội tâm con ngƣời, đó là điều mà không phải
nhà văn nào cũng có thể làm đƣợc. Những đặc sắc trong cách dùng từ
của Nhất Linh đã khẳng định tài năng của ông trong sáng tạo từ ngữ, góp
phần đƣa ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế, phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
phú.
C - KẾT LUẬN
1. Nhất Linh là vị “chủ soái” vững vàng của nhóm Tự lực văn
đoàn - tổ chức văn học có vị trí quan trọng trong quá trình hiện đại hoá
nền văn học dân tộc vào những năm 30 của thế kỷ XX. Không chỉ điều
hành mọi hoạt động của Văn đoàn, mà ông còn đi đầu trong sáng tác
theo những tôn chỉ mà tổ chức đã đề ra. Với sự chủ động, sáng tạo trong
sử dụng ngôn ngữ, Nhất Linh đã tuân thủ và thực hiện đƣợc tôn chỉ của
Văn đoàn là "xây dựng một lối văn giản dị, ít chữ nho, một lối văn thật
có tính cách An Nam".
2. Lớn lên trong môi trƣờng văn hoá xã hội Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX với nhiều biến động phức tạp, Nhất Linh đã tiếp nhận và
cộng hƣởng đƣợc khát vọng mãnh liệt của lớp nhà văn cùng thế hệ
trong việc xây dựng một nền quốc văn mới. Ông cũng đã tiếp thu đƣợc
những thành tựu của ngôn ngữ văn chƣơng tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ
của lớp nhà văn trƣớc qua văn chƣơng và báo chí đƣơng thời. Song, yếu
tố quan trọng nhất tác động đến ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là
chuyến du học ở Pháp. Sau chuyến đi Pháp, không chỉ quan điểm về
cuộc đời và nghệ thuật thay đổi mà ngôn ngữ nghệ thuật của ông cũng có
sự đổi mới rõ rệt.
3. Về phƣơng diện ngôn ngữ nghệ thuật, Nhất Linh luôn tích cực,
chủ động cách tân, sáng tạo. Từ Nho phong và Người quay tơ đến các
tác phẩm viết trong giai đoạn tham gia Tự lực văn đoàn, ngôn ngữ nghệ
thuật của Nhất Linh đã thoát dần tính “biền văn”, “sáo ngữ” để chuyển
sang ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Trong các sáng tác ở giai đoạn Tự lực
văn đoàn, ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh vận động theo hƣớng ngày
càng đi sâu vào biểu hiện nội tâm nhân vật. Nếu nhƣ ở Đoạn tuyệt và
Lạnh lùng, ngôn ngữ mới chỉ miêu tả đƣợc tâm trạng từ cái nhìn bên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ngoài; thì đến Đôi bạn và Bướm trắng, ngôn ngữ đã nhập đƣợc vào
dòng nội tâm của nhân vật, đã chạm đƣợc cả tới những vùng "mờ tối",
"khuất khúc", cả phần tiềm thức, bản năng. Qua các tác phẩm, ngôn ngữ
nghệ thuật của Nhất Linh đã chuyển tải đƣợc quan điểm sáng tác và
cảm xúc thẩm mĩ của nhà văn.
Tuy chƣa đạt đến đỉnh cao trong việc thể hiện những trạng thái nội
tâm căng thẳng, giằng xé đau đớn, nhƣng ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Linh đã rất thành công khi miêu tả những trạng thái cảm xúc nhẹ nhàng,
mong manh và đầy biến ảo của tâm hồn. Nhất Linh đã góp phần đƣa
ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế và uyển chuyển.
Nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là ở hệ
thống từ ngữ phong phú, mới mẻ; những hình ảnh so sánh đẹp, giàu tính
biểu cảm; cách diễn đạt tinh tế những rung động nội tâm sâu kín hoặc
những xúc cảm mơ hồ, mong manh. Nhất Linh đã đem đến cho văn học
đƣơng thời một lối văn mới mẻ, cuốn hút, làm say lòng ngƣời đọc - một
lối văn đặc biệt thích hợp với tầng lớp thanh niên trí thức thành thị nhiều
mơ mộng, lãng mạn.
4. Do “vùng thẩm mĩ” gắn với tầng lớp trung lƣu thành thị, nên
ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là thứ ngôn ngữ thi vị hoá cuộc sống,
thiếu hơi thở khoẻ khoắn, sôi động của cuộc đời rộng lớn; thiếu chất
sống “tƣơi ròng” của thực tế so với ngôn ngữ văn xuôi hiện thực cùng
thời. Điểm hạn chế của ngòi bút Nhất Linh cũng là hạn chế của ngôn ngữ
văn xuôi Tự lực văn đoàn và ngôn ngữ văn học lãng mạn đƣơng thời nói
chung,
5. Song, nhìn một cách khái quát, trong giai đoạn sáng lập và
tham gia nhóm Tự lực văn đoàn, với tƣ cách nhà văn, Nhất Linh đã có
nhiều tìm tòi, sáng tạo và thành công. Nói một cách hình tƣợng, ông là
một trong số không nhiều nhà văn đã bƣớc vững vàng từ "phòng chờ" lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
"chuyến tàu" văn học của thời kì mới; và chính ông cũng góp phần tạo
nội lực lớn giúp "con tàu" tăng tốc, nhanh chóng tiến thẳng vào quỹ
đạo hiện đại. Nhất Linh xứng đáng đƣợc ghi danh đối với quá trình hiện
đại hoá nền văn học Việt Nam.
PHỤ LỤC 1
Nhất Linh thời Tự Lực Văn Đoàn
PHỤ LỤC 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Một bức họa của Nhất Linh
PHỤ LỤC 3
KHẢO SÁT CÁC CHỮ TRONG TÁC PHẨM NHO PHONG
KHÁC VỚI QUY TẮC CHÍNH TẢ HIỆN NAY
STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay
1 dau 2,52 rau
2 suềnh soàng, xuềnh soàng 3,108 xuềnh xoàng
3 xuốt (ngày, đêm, đời, tháng) 3,7,10,21,22,27,28,39, suốt
41,44,47,48,52,105,108,
109,110,112,119,121
4 truyện (nói truyện) 4,7,12,14,15 chuyện
5 Danh (túp danh) 8 gianh
6 Dàn (thiên lí) 9 Giàn
7 Sinh (sinh đẹp, sinh quá) 9,109 xinh
8 Sinh sắn 16 Xinh xắn
9 rầm (mƣa rầm) 10,33 dầm
10 Rong (rong đèn) 120 Dong
(chongđèn)
11 Chán (bóp chán) 12,35,98 Trán
12 Giáng (ngƣợng ngùng) 12,19,26,80,104,120 dáng
13 trải (tóc) 13 chải
14 rứt (rứt tình, rứt tay) 13, 17 dứt
15 Soá (trắng soá) 13, 39, 53 xoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
16 Sa (sa lắc sa lơ) 13 xa
STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay
17 rời (rời tay) dời 13
18 Trõng (cái trõng, lều trõng) 14,92 chõng
19 trấn (cửa trấn song) 16,37 chấn
20 xẫm (tối xẫm) sẫm 19
21 Dũ (ủ dũ) rũ 19
22 Soay (soay sở) 21,102,111 xoay
23 Soàng (áo soàng) xoàng 21
24 rỗ (cúng rỗ) giỗ 23
25 xuông (canh xuông) 23,108 suông
26 dơm dớm rơm rớm 26
27 Sanh sao, xanh sao 27,57,105,114,122 Xanh xao
28 Soãi (tay bỏ soãi) xoãi 27
29 Sé (sé ruột, sé gan) 27,79 xé
30 Soa (đầu) xoa 27
31 Suôi (xong suôi, suôi gió…) 32,78,89,102 xuôi
32 Giã (giã rời) Rã rời 32
33 dắp (dắp bụng) rắp 34
34 giở (giở dang, hay giở…) 37,38,55,56,59 dở
35 xụt (xụt sùi) sụt 114
36 dốn (cắt dốn) rốn 108
37 Giòng (giòng chữ, giòng 40, 53, 55, 78, 113 dòng
dõi, giòng nƣớc…)
38 Xiêng (xiêng năng) siêng 41
39 giỗ (dạy giỗ) dỗ 42
40 Chơn (ăn trắng mặc chơn) trơn 44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
41 sấu sa xấu xa 44
STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay
tróng (tróng thành, tróng mạnh) 45, 60, 103 chóng 42
43 dộn (bận dộn) 47 rộn
44 Say (say thóc) 47 xay
45 Xút (xút kém) 52, 101 sút
46 Dun (dun rủi) 54 Run rủi
47 Dƣơm dƣớm 54, 62, 80 Rƣơm rƣớm
48 Xa xút 56, 84 Sa sút
49 Giao (giao cắt) 56 Dao
50 Giòng rã, giòng giã 60, 69, 84 Ròng rã
51 sếp (thu sếp) 61 xếp
52 Giƣơng (cái giƣơng) 62 rƣơng
53 Soã (tóc soã) 63 xoã
54 Chơ chẽn 66 Trơ trẽn
55 dủ (dủ đi) 66, 88, 91 rủ
56 Giò (giò la) 79 Dò
57 Chôi (chôi bập bềnh) 68 trôi
58 Sách (sách gói) 74 xách
59 chài Trài (thuyền trài) 75, 77, 79, 84
60 Trông (trông chênh) 76 Chông chênh
61 Giòng giòng 117 Ròng ròng
62 tráp Cháp (cái cháp) 89, 90
63 Chƣng (sáng chƣng) 90 trƣng
64 chống (vác cờ vác chống) 91 trống
65 chạc (chạc năm sáu mƣơi) 92 trạc
66 rễ (rễ chịu) 92 dễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
67 trậm (trậm quá) 93 chậm
STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay
68 Chơi (ma chơi) 95 trơi
69 Sô (sô đẩy) 95 Xô
sƣớng (sƣớng danh) 95,96,97,98,119,120,121 xƣớng 70
71 dật (dật mình) 98 giật
72 trống (trống lại) 101 chống
73 sốc (sốc vác) 103 xốc vác
74 trí (ngã trí) 103 chí
75 Dàn dụa 105 Ràn rụa
76 xuốt (sáng xuốt) 109 suốt
77 chằn chọc 118 trằn trọc
78 Chôi ( trôi chẩy) 119 Trôi
79 Trói (trói lọi) 120 Chói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
80 Rong (trống rong) 120 giong
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tác phẩm của Nhất Linh
1. Nho phong - Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản, Hà Nội, 1926
2. Người quay tơ - Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968.
3. Anh phải sống- Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1994
4. Gánh hàng hoa- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Tổng Hợp, 1998
5. Đời mưa gió- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1991
6. Nhất Linh truỵện ngắn, (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu), Nxb
Văn học, Hà Nội ,2000
7. Nắng thu - in trong Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Tập II,
Nxb KHXH Hà Nội, 1989
8. Đoạn tuyệt - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội, 1999
9. Đi Tây - Nxb Đời nay, Sài Gòn, 1968
10. Lạnh Lùng - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - tập 1;
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1999
11. Thế rồi một buổi chiều, Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968
12. Đôi Bạn, Nxb Đại học và giáo dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1991
13. Bướm trắng , Nxb Văn học Hà nội , 1996
14. Dòng sông thanh thuỷ - 3 tập , Nxb Đời nay , 1961
15. Viết và đọc tiểu thuyết , Nxb Đời nay , Sài Gòn , 1972
16. Xóm cầu mới - Nxb Phƣợng Giang, Sài Gòn , 1973
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
* Tác phẩm văn học và các sách - báo - tạp chí khác
17. Vũ Tuấn Anh (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc Gia, Hà Nội.
18. Phạm Thị Phƣơng Anh (2006), Đặc trưng ngôn ngữ tiểu thuyết Tự lực
Văn đoàn, luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà
Nội.
19. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc Gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Song Bình (1998), Truyện ngắn Nhất Linh trước năm 1945,
luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà Nội.
(1971), Sống mòn, tiểu thuyết in lần thứ ba, NXB 21. Nam Cao
Văn học, Hà Nội.
22. Ân Thị Vân Chi (1998), Độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Cửa
biển của Nguyên Hồng, luận văn thạc sĩ khoa học
văn học, Hà Nội.
23. Nguyễn Huệ Chi (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
24. Nguyễn Huệ Chi (1996), Hoàng Ngọc Phách đường đời và đường
văn, NXB Văn học, Hà Nội.
25.Phong Lê , Huệ Chi (1960), "Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930 -
1945 nhân đọc cuốn Lƣợc thảo lịch sử văn học
Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn", Tạp chí văn
học, (số 5).
26. Trƣơng Chính (1939), Dưới mắt tôi, Nxb Thuỵ Ký, Hà Nội.
27. Trƣơng Chính (1989), "Tự lực văn đoàn", Báo người giáo viên
nhân dân (số đặc biệt 27 -28 - 29 - 30 - 31 tháng
7).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
28. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tiểu thuyết của Nhất Linh trước cách
mạng tháng Tám, Luận án PTS, viện Văn học;
Hà Nội.
29. Nguyễn Đức Đàn (1958), "Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hƣng
- hai nhà văn tiêu biểu trong Tự lực văn đoàn",
Tập san Văn- Sử- Địa, (số 46).
30. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương
Tây hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
31. Đặng Anh Đào (1994), "Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học
Việt Nam 1930-1945", Tạp chí văn học (số 7).
32. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập I,
NXB ĐH& THCN, Hà Nội.
33. Phan Cự Đệ (1981), Những đặc trưng thẩm mĩ của ngôn ngữ
tiểu thuyết, NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn
(Chủ biên) đề lịch sử và lý luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.
35. Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
36. Lê Chí Dũng 1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời,
Trần Đình Hƣợu NXB ĐH & GDCN, Hà Nội.
37.GN Popelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học- Tập II,
Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê NgọcTrà dịch,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
38. Lê Cẩm Hoa (2000), Nhất Linh con người và tác phẩm, NXB
(Tuyển chọn và giới thiệu) Văn học, Hà Nội.
39. Nguyễn Công Hoan (2000), Bước đường cùng, NXB Đồng Nai.
40. Nguyễn Văn Hạnh (1999), Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
41. Đỗ Đức Hiểu (1990), "Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ";
Tạp chí ngôn ngữ (số 4), quý VI, Hà Nội.
42. Nguyễn Hữu Hiếu (1994), "Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh -
Nguyễn Tƣờng Tam", Tạp chí văn học (số 4).
43. Mai Hƣơng (2000), Nhất Linh- cây bút trụ cột của Tự lực văn
(Tuyển chọn) đoàn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
44. Mai Hƣơng (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học
(Tuyển chọn) dân tộc, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Mai (2008), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
Hƣơng thuyết của Nhất Linh từ Đôi bạn đến Bướm
trắng, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Thái
Nguyên.
46. Khái Hƣng (1999) Hồn bƣớm mơ tiên, Tuyển tập Tự lực văn
đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn.
47. Khái Hƣng (1999) Nửa chừng xuân, Tuyển tập Tự lực văn
đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn.
48. Nguyễn Hoành Khung (1983), Tự lực văn đoàn, Từ điển văn học, (Tập
II), Nxb KHXH, Hà Nội.
49. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 -
1945), tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội
50. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội
nhà văn Hà Nội.
(2004), "Chữ viết và yêu cầu xây dựng một nền 51. Phong Lê
quốc văn mới ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ
XX", Tạp chí Hán Nôm, số 5, (66).
52. Phạm Quang Long (1990), "Tự lực văn đoàn - một kiểu tƣ duy văn
học", Tạp chí khoa học, (số 2), Trƣờng Đại học
tổng hợp Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
53. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Phƣơng Lựu (Chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55.Phƣơng Lựu (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học , Nxb Giáo dục Hà Nội.
56. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây
hiện đại, NXB văn học, Hà Nội.
57. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm
văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
58. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB
Văn học, Hà Nội.
59. Nguyễn Đăng Mạnh 1998), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng tập 1, NXB
Văn học, Hà Nội. (Sƣu tầm, tuyển chọn)
60. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), "Quá trình hiện đại hoá văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX", Tạp chí văn học (số
5).
62. Nam Mộc (1962), "Sai lầm chủ yếu trong cuốn Viết và đọc
tiểu thuyết của Nhất Linh", Tạp chí văn học (số
7).
63. Tú Mỡ (1988), "Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn",
Tạp chí văn học (số 5, 6).
64. Tôn Thảo Miên (2007), Truyện ngắn Thạch Lam tác phẩm và lời
bình, NXB Văn học, Hà Nội. (Tuyển chọn)
65. Lê Hồng My (2004), Lời văn nghệ thuật trong văn xuôi
Nguyên Hồng, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, ĐHSP Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
66. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, trƣờng
viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
(2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - 67. Nguyễn Đăng Na
những vấn đề văn xuôi tự sự, NXB Giáo dục, Đà
Nẵng.
68. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,
tập 2, NXb Giáo dục, Hà Nội
69. Lê Bá Hán, Trần Đình (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo
Sử, Nguyễn Khắc Phi dục, Hà Nội.
(đồng chủ biên)
70.Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập I, NXB Văn học -
Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ
Chí Minh
71. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Hà Đình Sơn (2006), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh, luận văn
thạc sĩ ngữ văn, Hà Nội.
73. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb GD, Hà Nội.
74. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
(2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà 75. Hoài Thanh, Hoài Chân
Nội.
76. Bích Thu (Tuyển chọn) (1999, Nam Cao - về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
77. Ngô Văn Thƣ (2005), Tiểu thuyết của Khái Hưng, luận văn tiến
sĩ khoa học ngữ văn, Hà Nội.
78. Phạm Thị Thƣ (2008) Quan niệm văn chương của Xuân Diệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
trước 1945, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục,
Thái Nguyên
79. Trần Thị Trâm (2003), Hoàng Ngọc Phách - ngƣời đổi mới tiểu
thuyết, NXB Thanh niên, Hà Nội.
80.Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam giai
đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
(1994), Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ 81. Hoàng Tiến
viết đầu thế kỷ XX, NXB Lao động, Hà Nội.
82. Lê Thị Dục Tú (1996), Quan niệm về con ngƣời trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn, NXB Thanh niên, Hà
Nội.
83. Nguyễn Thị Thuý (2004), Ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn
Thạch Lam, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Toàn
Hà Nội.
84. Ngô Tất Tố (2000), Tắt đèn, NXB Đồng Nai.
85. Trần Đăng Xuyền 2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính
sáng tạo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Trần Đăng Xuyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Khoa học xã hội, Hà Nội.