BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thắm

TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM – TRUYỆN NGẮN PAUXTỐPXKI: SỰ GẶP GỠ CỦA PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị Phương,

người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu,

thực hiện và hoàn thành bản luận văn này.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn

Nam Phong, người đã dịch và cung cấp nhiều tư liệu quý giúp cho tôi

có thể tìm hiểu vấn đề toàn diện hơn.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong tổ

Văn học Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, phòng Quản lí sau

đại học – trường Sư phạm TP. HCM, Ban giám hiệu nhà trường –

trường Dự bị đại học TP. HCM, tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên,

giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học.

TP. HCM, ngày 02 tháng 12 năm 2010

Trần Thị Thắm

DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài

Quá trình toàn cầu hóa diễn ra từ cuối thế kỉ XX, đồng đều ở mọi lĩnh vực, hầu như đã

xóa bỏ sự ngăn cách giữa các nước, làm cho các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau

hơn. Trong bối cảnh ấy, văn học so sánh ra đời nhằm khám phá mối liên hệ văn học giữa

các quốc gia, bổ sung quan trọng cho hướng nghiên cứu văn học dân tộc biệt lập từ trước

đến nay.

Quả thật, ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc trên thế giới là khác nhau, nhưng tư

duy, tình cảm, tâm lí, thẩm mĩ lại có nhiều điểm tương đồng. Nghiên cứu văn học Việt

Nam trong mối tương quan với văn học thế giới giúp chúng ta ý thức về vị thế, thân phận,

tư cách của văn học dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Đó còn là con đường khám

phá bản sắc dân tộc.

Một điều không thể phủ nhận là mặc dù cách xa nhau hơn “nửa vòng trái đất” nhưng

Việt – Nga có quan hệ “thâm tình”, gắn bó. Văn hóa của hai nước phương Đông –

phương Tây này có nhiều điểm tương đồng. Hơn nữa, cả hai dân tộc đều có số phận lịch

sử thật lắm thăng trầm: từng chịu nhiều khổ đau, mất mát, từng trải qua nhiều cuộc chiến

tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền và cũng từng lập nên nhiều chiến thắng vẻ vang, ghi

dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của mỗi dân tộc. Vì thế mà mặc dù đến Việt

Nam muộn hơn văn học Trung Quốc và văn học Pháp, song văn học Nga vừa gặp đã trở

nên gắn bó, thân quen.

Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam đóng góp ở

nhiều thể loại. Mặc dù ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, với một số lượng tác phẩm chưa đạt

đến mức “đồ sộ”, nhưng nhà văn đã sớm xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi

có tầm vóc, một người viết truyện ngắn xuất sắc, không thể thay thế. Nhìn sang văn học

Nga, ta thấy có sự “hội ngộ bất ngờ” giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki trong địa hạt văn

xuôi trữ tình, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nổi

tiếng với những truyện ngắn “không có chuyện”.

Tác phẩm của Pauxtốpxki được đón nhận một cách nồng nhiệt ở Việt Nam. Bình minh

mưa và Bông hồng vàng trở thành tập sách gối đầu giường của độc giả yêu văn học, nhất

là giới trẻ. Truyện ngắn của ông đã đi vào thơ của nhiều cây bút người Việt, những tâm

hồn đã tìm thấy ở đây sự đồng cảm, chia sẻ, những rung động mãnh liệt, chẳng hạn Bằng

Việt, Thúy Toàn, Phạm Ngọc Lan… Với bản thân người viết, những trang sách của Pauxtốpxki luôn là “áng mây ngũ sắc ngủ trong đầu” 1, là người bạn trong hành trình

tuổi trẻ và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những vần thơ viết về tình yêu và cuộc

sống.

Trong cuộc sống xô bồ, nhộn nhịp hôm nay, những truyện ngắn của Thạch Lam –

Pauxtốpxki vẫn luôn là những món ăn tinh thần quý giá, là bến nước trong êm ả, an lành

cho tâm hồn mỗi chúng ta tìm về neo đậu.

Đặt truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki bên cạnh nhau trong thế đối

sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về hai tác giả, đồng thời vẻ đẹp văn hóa của

mỗi dân tộc cũng được phát hiện, tôn tạo thêm.

Trên đây là những lí do chính thôi thúc chúng tôi lựa chọn “Truyện ngắn Thạch

Lam – truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật” làm đề tài

nghiên cứu cho bản luận văn này.

2. Lịch sử vấn đề

Thạch Lam và Pauxtốpxki lâu nay đã chiếm lĩnh được nhiều tình cảm của độc giả

Việt Nam. Từ những năm 30 trở đi, xuất hiện với 3 tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937),

Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Thạch Lam được coi như một trong những cây bút

truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ thập niên 50, qua các

bản dịch của Vũ Minh Thiều, Bửu Kế, Cẩm Tâm, Kim Ân, Mộng Quỳnh, Phan Hồng

Giang…, bạn đọc Việt Nam biết đến Pauxtốpxki như một tài năng đoản thiên tự sự, làm

không ít người bất giác liên tưởng đến Thạch Lam.

Một thực tế rằng ở Việt Nam, từ trước 1945 đến nay, các công trình, bài nghiên cứu về

Thạch Lam khá đồ sộ. Khoảng mười năm trở lại đây, có nhiều công trình có quy mô, tầm cỡ

nghiên cứu về đặc trưng truyện ngắn của Thạch Lam. Truyện ngắn của ông đã được khám

phá từ mọi giác độ, mọi bình diện: tư tưởng, quan điểm của tác giả, nội dung phản ánh, nghệ

thuật thể hiện, phong cách văn xuôi nghệ thuật… Số lượng công trình, bài viết về

Pauxtốpxki, so với Thạch Lam, “mỏng” hơn nhiều. Những vấn đề liên quan đến đặc trưng

phong cách nghệ thuật Pauxtôpxki không phải là quá mới mẻ, ở những bài giới thiệu khái

1 Thơ Bằng Việt

quát, hầu hết các dịch giả trên đều đề cập đến. Riêng việc nghiên cứu truyện ngắn Thạch

Lam trong thế đối sánh với truyện ngắn Pauxtốpxki thì vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng tôi xem vấn

đề này là một mảnh đất trống đầy hấp lực và thách thức trong việc tìm hiểu, khám phá nó.

Vì tránh sự trùng lặp không cần thiết với công việc nhiều nhà nghiên cứu đã làm, ở

đây chúng tôi xin phép không bàn đến những công trình nghiên cứu về truyện ngắn ở mỗi tác

giả (Thạch Lam hoặc Pauxtốpxki) mà chỉ quan tâm đến các tài liệu trực tiếp đề cập đến đề

tài.

Phan Hồng Giang, một trong những dịch giả có đóng góp rất lớn với việc đưa tác

phẩm của Pauxtốpxki đến với người đọc Việt Nam, trong bản dịch của tập tiểu luận Một

mình với mùa thu, đã có những nhận xét rất xác đáng về Pauxtốpxki: “Có thể coi là một tấm

gương cùng soi chung của tâm hồn hai dân tộc Nga – Việt. Ông đã là biểu hiện cụ thể cho

cái đồng cảm, đồng điệu giữa tâm hồn hai dân tộc vốn có rất nhiều điểm chung trong số

phận lịch sử hình thành và phát triển” (Chúng tôi nhấn mạnh) [64, tr. 325]. Bùi Việt Thắng

trong cuốn Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại cho rằng: “Đọc văn

Thạch Lam chúng ta thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác mà sinh thành. Nhân vật của

ông nhận biết hết thế giới xung quanh và giao hòa được với người khác cũng chủ yếu nhờ

vào cảm giác. Đọc Thạch Lam ta nhớ tới A. Đôđê (Pháp), Pauxtốpxki (Nga), A. Môroa

(Pháp) – những nhà văn có sức mạnh của trực giác trong văn” (Chúng tôi nhấn mạnh) [

80, tr. 187]. Đó là những nhận xét mang tính mở đường, gợi dẫn mà chúng tôi tiếp tục

nghiên cứu trong bản luận văn.

Tóm lại, chưa có một công trình nào đi vào nghiên cứu truyện ngắn Thạch Lam trong

thế đối sánh với truyện ngắn của Pauxtốpxki. Tiếp thu, kế thừa những thành tựu của người đi

trước, vừa nỗ lực tìm kiếm một hướng khám phá mới, chúng tôi chọn đề tài Truyện ngắn

Thạch Lam – Truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật với hi vọng

bổ sung vào phần khiếm khuyết, góp thêm một tiếng nói khiêm nhường trong việc nghiên

cứu truyện ngắn của hai tác giả này, tuy chắc chắn không thể toàn diện.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Tiếp thu có chọn lọc thành quả nghiên cứu đã có, luận văn của chúng tôi nhằm tìm

hiểu và xác lập những đặc trưng thẩm mĩ của kiểu truyện ngắn “không có truyện” ở Thạch

Lam và Pauxtốpxki. Trên cơ sở đó, chúng tôi soi chiếu vào văn hóa của mỗi nước để thấy

được đâu là “phần giao thoa” văn hóa giữa hai quốc gia, đâu là bản sắc dân tộc của mỗi

nước.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Từ

những hiện tượng văn học gần gũi nhau, chúng tôi xác định đặc trưng thẩm mĩ của loại

truyện ngắn làm nên phong cách của hai nhà văn.

Về Thạch Lam, chúng tôi tìm hiểu và khảo sát 33 truyện ngắn của ông. Về

Pauxtốpxki, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu đã được dịch, chọn lọc trong các

tập “Bông hồng vàng” và “Bình minh mưa”. Giữa các ấn phẩm của Thạch Lam và

Pauxtốpxki, chúng tôi tin tưởng chọn hai cuốn: Thạch Lam – 33 truyện ngắn, Nxb. Văn học,

2009 và cuốn Pauxtốpxki , Bông hồng vàng và Bình minh mưa (dịch giả Kim Ân và Mộng

Quỳnh dịch), Nxb Văn học, 2003 làm tư liệu khảo sát chính.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học: Bằng kết quả khảo sát, phân tích, người viết mong chỉ ra những

nét đặc sắc trong phong cách truyện ngắn ở hai tác giả, đặc biệt nhấn mạnh những chỗ tương

đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng. Luận văn cũng đặt ra một

hướng đi mới mẻ trong việc tiếp cận truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki

cũng như cung cấp một số kiến thức bổ ích về văn hóa của nước ta và nước bạn.

Ý nghĩa thực tiễn: Thêm một tiếng nói khiêm nhường đưa truyện ngắn của hai nhà

văn đến gần hơn với độc giả, góp phần vào việc tìm hiểu cũng như giảng dạy truyện ngắn

Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trong trường phổ thông và đại học.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau:

– Phương pháp so sánh: đặt truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki trong cái

nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt. Vì không tìm thấy mối quan hệ trực

tiếp giữa hai tác giả, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh loại hình, lí giải các

tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi trường

văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, chúng tôi đặt hai tác giả này trong mối quan hệ với

một số nhà văn xuất hiện cùng thời hoặc trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền

chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học.

– Phương pháp thống kê, phân loại: dùng để thống kê các câu văn, các chi tiết nghệ

thuật, biện pháp tu từ thể hiện rõ đặc trưng thẩm mĩ trong truyện ngắn Thạch Lam và

Pauxtốpxki, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào các nội dung chung phục vụ cho mục đích

nghiên cứu.

– Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm

kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần.

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm có 167 trang. Ngoài phần Dẫn nhập (8 trang), Kết luận (3 trang), Phụ

lục (18 trang), Thư mục tham khảo (8 trang), phần nội dung chính của luận văn gồm 130

trang, được triển khai trong ba chương:

Chương 1: Thạch Lam – Pauxtốpxki: con người và quan niệm nghệ thuật

Ngoài phần giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp, những tác phẩm chính, chúng tôi trình bày

sự gặp gỡ về quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtôpxki ở các phương diện: đối

tượng của văn chương (cái đẹp), nghề văn, sứ mệnh nhà văn. Từ sự tương đồng về quan

niệm nghệ thuật, họ đã có sự gặp gỡ ở hình thức thể loại, cụ thể là loại truyện ngắn trữ tình

“phi cốt truyện”. Đây là tiền đề quan trọng của sự “giao thoa” về phong cách truyện ngắn

đặc sắc giữa họ.

Chương 2: Nội dung tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki

Từ những tiền đề của chương trước, chương này nhằm cụ thể hóa những vấn đề về nội

dung tác phẩm

Chương 3: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki

Tiếp theo chương 2, chương này chỉ ra sự giống và khác nhau ở những đặc điểm về

hình thức và kĩ thuật kiến tạo truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki.

Chương 1:

THẠCH LAM – PAUXTỐPXKI: CON NGƯỜI VÀ QUAN NIỆM NGHỆ

THUẬT

1.1. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Con người

Thạch Lam (1910 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường

Lân. Ông sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức quê gốc ở Quảng Nam. Còn

Kônxtantin Pauxtôpxki (1892 – 1968) sinh ra tại Mátxcơva, trong một gia đình gốc Côdắc

miền Dapôrôgiê. Giữa hai nhà văn thuộc hai quốc gia, hai nền văn hóa khác nhau lại có

những điểm gặp gỡ tình cờ trên những chặng đường đời.

1.1.1. Hoài niệm tuổi thơ

Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng sinh trưởng trong gia đình yêu thích văn chương

nghệ thuật. Cả hai trải qua những năm tháng tuổi thơ khá êm đềm bên những người thân yêu

trong gia đình, nơi đã vun trồng nên nhân cách và tài năng cho họ. Thủa nhỏ, cậu bé Nguyễn

Tường Vinh (tên thật của Thạch Lam), chịu ảnh hưởng tích cực từ hai người anh trai học

giỏi, ngoan ngoãn (sau này là hai nhà văn nổi tiếng Nhất Linh, Hoàng Đạo). Khi lên bảy,

Tường Vinh mất cha nên cậu bé lớn lên hầu như trong sự yêu thương, chăm lo của bà nội và

mẹ. Hình ảnh người bà hiền từ, rất mực yêu thương con cháu và người mẹ đảm đang, tháo

vát với nghề buôn gạo nuôi con đã chạm khắc vào trái tim nhà văn từ tấm bé. Còn

Pauxtốpxki lại chịu ảnh hưởng nhiều từ người cha lãng mạn và vui tính, vốn là một người

thích “xê dịch” và giàu mơ ước. Cụ không bao giờ ngồi yên một chỗ. Sau khi làm việc ở

Matxcơva, cụ xin đổi đi Vinnô, rồi Pơxcốp và cuối cùng mới định cư tương đối lâu dài ở

Kiép. Nhà cậu bé Kôchia đông người, đủ mọi tính nết khác nhau nhưng đều là những người

yêu nghệ thuật. Cậu lớn lên trong những tiếng hát, những bản dương cầm, các cuộc tranh

luận về âm nhạc, hội họa, văn chương.

Cả hai nhà văn đều thông minh, nhạy cảm, có bản lĩnh độc lập và sớm phát lộ tài

năng bẩm sinh. Theo các tư liệu tiểu sử và hồi kí của những người thân trong dòng họ

Nguyễn Tường, tuổi thơ của Thạch Lam gắn với Cẩm Giàng quê ngoại – một phố huyện

nghèo đã in đậm bóng dáng trong những trang văn của ông. Khi lên sáu tuổi, Thạch Lam

theo gia đình rời Hàng Bạc (Hà Nội) về đây. Cũng từ đó, phố thị đông vui, huyên náo và đầy

ánh sáng chỉ còn là một nơi xa xăm trong miền kí ức đẹp đẽ mà tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm

như Thạch Lam đôi lúc vẫn khao khát tìm về.

Thủa nhỏ, “người em thứ sáu” vốn là một đứa trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, dạn dĩ, “thông

minh và lãng mạn nhất nhà” [3, tr. 342]. Cậu bé có đôi mắt sâu trên gương mặt khôi ngô ấy

lại có một tâm hồn rất nhạy cảm, biết thương yêu, sẻ chia với những người nghèo khổ quanh

mình. Ngoài ra cậu còn học rất giỏi, từng khai tăng tuổi để học Ban thành chung. Tuy còn

nhỏ, Tường Vinh sớm có ý thức phụ giúp gia đình. Công việc trông coi cửa hàng tạp hóa

(cùng người chị gái) ngày ấy đã để lại những kỉ niệm khó phai mờ trong kí ức của nhà văn

Thạch Lam về sau.

Các tư liệu viết về Pauxtốpxki cho biết thủa nhỏ, cậu là đứa trẻ bản lĩnh, hoạt bát. Khi

đang học lớp 6, gia đình cậu bị khánh kiệt. Đó cũng là thời điểm mở đầu cho cuộc sống tự

lập của Pauxtốpxki. Việc làm nghề gia sư để tiếp tục con đường học vấn dang dở đã chứng

tỏ nghị lực và ý chí phi thường đang sục sôi trong trái tim non trẻ của cậu thiếu niên ham học

hỏi này.

Ngoài ra, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng ước mơ về những chuyến đi xa, khát

khao khám phá những chân trời mới mẻ. Ngoài thú vui “đi chơi chân không quanh quẩn

chỗ mẹ và bà ngồi” [3, tr. 342] trong những đêm sáng trăng hay “đi chơi quanh quẩn nơi

xóm chợ” [3, tr. 344], cậu bé Tường Vinh còn có một sở thích đặc biệt là “xem tàu hỏa, ngày

nào cũng ra đợi ngắm chuyến tàu kéo gạo hai giờ trưa” [3, tr. 344]. Với tính bạo dạn và hiếu

kì, cậu đã chui cả vào gầm toa, sờ tay vào những vành bánh sáng loáng mặc dù mọi người ở

ngoài được một phen thót tim. Còn cậu bé Kôchia vốn là một đứa trẻ ưa khám phá. Cậu say

mê bản đồ địa lí đến mức có thể ngồi hàng tiếng đồng hồ liền với chúng. Chính Pauxtốpxki

từng bộc bạch:“Tôi nghiên cứu dòng chảy của những con sông chưa bao giờ biết tới, những

bờ biển kì cục, đi sâu vào rừng Taiga, nơi những trạm không tên tuổi chuyên mua da, lông

thú của những người đi săn được đánh dấu bằng những vòng tròn tí xíu, hoặc nhắc đi nhắc

lại những tên đất kêu như những vần thơ: Quả cầu Iugor, quần đảo Ebriđơ, Guađagama và

Invécnetxơ, Onhêga và Koócđie. Dần dần tất cả những vùng đất đó sống dậy trong trí tưởng

tượng của tôi rõ rệt đến nỗi tôi tưởng có thể viết nổi những cuốn nhật kí hành trình bịa đặt

qua các lục địa và các xứ sở khác nhau.” [65, tr. 81].

1.1.2. Biến động cuộc đời

Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều là chứng nhân của một thời đại bão táp gắn với

những sự kiện trọng đại của lịch sử, bao đổi thay lớn lao của dân tộc. Mà ta biết, mọi ba

động của đời tất thảy đều vang lên khác lạ trong tâm hồn nhạy cảm của người trí thức, nhất

là những trí thức nghệ sĩ như họ.

Thạch Lam sinh ra và lớn lên trong tình cảnh “sự đã rồi” của đất nước. Sau khi tạm

“bình định” Việt Nam về mặt quân sự, từ đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác

thuộc địa theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Xã hội Việt Nam mặc nhiên phải chấp nhận

bao sự đổi thay, mà đổi thay lớn nhất là cuộc sống “buổi giao thời” dưới chế độ thực dân

thuộc địa. Bao làng quê yên ả, thanh bình với cốt cách “dĩ nông vi dân” nay bỗng chốc “làng

xoay ra phố”, dung nạp thêm lối sống thị thành. Tư tưởng, văn hóa phương Tây hiện đại

ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Được đào

tạo bài bản như một trí thức Tây học, nhưng trước sau Thạch Lam vẫn là “một người Việt

Nam sâu xa, một người Việt Nam thành thực” [3, tr. 357]. Còn Pauxtốpxki đến với cuộc đời

giữa lúc xã hội Nga đang trong bầu không khí sục sôi của đêm trước Cách mạng tháng Mười.

Ông là người đã kinh qua hai cuộc Thế chiến chấn động cả địa cầu, sống trong đói rách, giặc

giã, cách mạng, nội chiến, hòa bình.

Hai nhà văn có cách “ứng xử” khác nhau trước thời cuộc. Khi chiến tranh Thế giới

thứ nhất nổ ra, Pauxtốpxki rời ghế nhà trường và lao vào các công việc: làm nhân viên

đường sắt, phụ lái tàu điện, bán vé tàu điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương. Cuộc

cách mạng tháng Hai bùng nổ khi Pauxtốpxki đang ở Matxcơva, ông bước vào ngành báo.

Cũng ở đây, ông hạnh phúc được tham dự Cách mạng tháng Mười, nghe Lênin nói chuyện

và tiếp tục chứng kiến những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Trong cuộc nội chiến,

Pauxtốpxki gia nhập Hồng quân, nguyện hiến thân mình cho Tổ quốc. Chiến tranh thế giới

thứ hai nổ ra, một lần nữa, hiện thực bề bộn ấy đã cuốn theo nhà văn trong vai trò phóng viên

mặt trận phía Nam. Nếu như Pauxtốpxki tích cực với các hoạt động chính trị, xã hội thì

Thạch Lam dường như không tham gia một tổ chức chính trị nào. Cuộc đời ngắn ngủi của

ông trôi qua trong bầu không khí tù đọng, bức bối của xã hội Việt Nam thời kì đêm trước

cuộc cách mạng tháng Tám. Bao cuộc khởi nghĩa chống Pháp diễn ra sôi nổi, tuy có thất bại

nhưng ngọn lửa đấu tranh vẫn âm ỉ cháy và được nhen nhóm để chờ thời cơ là bùng lên

mạnh mẽ. Hầu hết giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đều mang tâm trạng cô đơn, bất lực trước thời

thế bởi họ chưa tìm thấy lối đi hay còn đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” 1. Có người cho

rằng tuổi đời Thạch Lam quá ngắn nên ông chỉ kịp sống trọn vẹn cuộc đời của một nghệ sĩ

chân chính. Lại có ý kiến nhận xét Thạch Lam đã chịu ảnh hưởng của nhà văn A. Gide với

một quan niệm tự do gần như tuyệt đối. Nếu Pauxtốpxki giống như cây kim bé nhỏ trước

thỏi nam châm cuộc đời thì Thạch Lam tựa sợi tơ giăng ngang giữa một trời bão táp.

Cả hai nhà văn đều có cuộc đời gắn với những chuyến đi. Trong cuộc đời “ở trọ trần

gian” thoáng chốc, Thạch Lam cũng nhiều lần “xê dịch” trong phạm vi của đất nước: từ Hà

Nội về Cẩm Giàng (Hải Dương), Tân Đệ (Thái Bình). Sau khi về lại Hà thành, Thạch Lam

sống ở phố Hàng Bún, phố cầu Gỗ, rồi lần lượt chuyển đến Giám, Đỗ Hữu Vị, Hàng Bè,

Quán Thánh… Ông cũng có vài năm theo Hoàng Đạo vào sống ở Sài Gòn. Thế nhưng ông

sống và sáng tác chủ yếu ở một lớp nhà gỗ nhỏ ven Hồ Tây, có cây liễu rủ bóng thướt tha

ngoài cửa sổ và khóm tre xanh mát đầu nhà, mộc mạc như ở chốn quê. Còn dấu chân

Pauxtốpxki đã in khắp mọi miền Tổ quốc Nga, từ bán đảo Cônxki đến những sa mạc miền

Trung Á, từ các thành phố băng tuyết miền cực Bắc đến bờ biển ấm áp vùng Krưm và những

khu rừng Taiga rậm rạp của Xibêri... Ông đã nghe giọng nói âm vang và du dương của người

Ôđétxa, ngỡ ngàng với những đêm trắng ở Karêli, uống nước của những hồ trong đầm lầy

đen kịt ở vùng Mêsora, rảo chân lang thang trên những nẻo đường vùng Mikhailốp… Giữa

những năm 50 của thế kỷ XX, Pauxtốpxki đã mở rộng biên độ xê dịch ra nước ngoài như đến

thăm Tiệp Khắc, Ba Lan, Bungari, đi du lịch vòng quanh Châu Âu.

1.1.3. Sáng tạo nghệ thuật

Thạch Lam và Pauxtốpxki là hai nhà văn đồng đại. Cùng được nuôi dưỡng với nguồn

sữa nghệ thuật từ gia đình và mạch nguồn văn hóa dân tộc, các ông đã đến với văn chương

như quy luật tất yếu của tình yêu và đam mê. Năm 21 tuổi, sau khi đỗ tú tài I, Thạch Lam

thôi học, bắt đầu làm báo, viết truyện ngắn, luận thuyết văn học, thời đàm. Khi Nhất Linh

sáng lập nhóm “Tự lực văn đoàn”, một tổ chức văn học nổi tiếng thời bấy giờ, Thạch Lam

nhanh chóng trở thành một cây bút chủ chốt của báo Phong hóa, rồi Ngày nay (cơ quan ngôn

luận của nhóm). Tuy cầm bút sáng tác theo tuyên ngôn của “Tự lực văn đoàn”, ông vẫn lặng

lẽ kiếm tìm cho mình một lối đi riêng. Kết quả là sách của ông bán ế nhất bởi nó luôn đi bên

lề của “mốt thời thượng”. Tuy vậy, thời gian – thước đo công bằng, khách quan nhất – đã trả

lại cho văn chương ông giá trị đích thực vốn có. Ngày nay, những truyện ngắn của Thạch 1 Thơ Tố Hữu

Lam vẫn là một thứ rượu quý, nhẹ nhàng thấm vào hồn người, ngọt ngào và say sưa. Bạn bè

của Thạch Lam còn nhớ như in một con người khiêm nhường, nhỏ nhẹ, ít nói ở ngoài đời

nhưng lại sâu sắc trong văn chương và rất nghiêm túc trong nghề nghiệp. Thạch Lam viết

một cách thận trọng, khó khăn bởi mỗi trang văn được viết ra đều “có rất nhiều Thạch Lam ở

trong đó” [3, tr. 148]. Năm 1940, khi đang ở vào thời kì sung sức nhất trong sáng tác, Thạch

Lam phát hiện mình mang trong người căn bệnh lao phổi quái ác. Nhà văn đã bình tĩnh đón

nhận điều không may và sống, làm việc như ngọn nến trong đêm cạn mình để cháy.

Còn Pauxtốpxki sớm bộc lộ lòng đam mê văn chương với những truyện ngắn được

đăng trong tạp chí Những ngọn lửa ở Kiép khi ông còn là học sinh năm cuối trung học, tuy

nhiên nó chẳng để lại tiếng vang gì đáng kể. Với mục đích “đặt cuộc đời lên trên trang viết”,

từ năm 1913 Pauxtốpxki đã thực hiện một cuộc sống lang thang gần như khắp nước Nga.

Những chuyến đi khắp các vùng miền Tổ quốc trong bối cảnh đất nước trải qua những biến

cố lớn đã cho Pauxtốpxki vốn sống phong phú, nguồn tư liệu đầy đặn, chân thực, đồng thời

cũng bồi đắp cho quan điểm nghệ thuật tiến bộ ở ông. Ngoài ra, Pauxtốpxki còn là tấm

gương tích cực học hỏi kinh nghiệm của thế hệ nhà văn tiền bối và các đồng nghiệp đương

thời.

Với tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy như dây đàn, luôn sẵn sàng rung lên trước những xung

động của cuộc sống, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã dệt nên những trang văn nồng ấm hơi

thở đời thường. Tất nhiên, với tuổi đời, tuổi nghề lớn hơn, Pauxtốpxki đã mở rộng độ xê

dịch và để lại cho hậu thế khối lượng tác phẩm đồ sộ hơn. Với non mười năm cầm bút,

Thạch Lam đã xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi có tầm vóc, một phong cách

truyện ngắn đặc sắc dù khối lượng tác phẩm chưa nhiều. Ông để lại các tập truyện ngắn: Gió

đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết: Ngày mới (1939), tập

tiểu luận phê bình: Theo dòng (1941); Bút kí: Hà Nội băm sáu phố phường (1943). Ngoài ra

còn có hai cuốn truyện viết cho thiếu nhi là Quyển sách, Hạt ngọc (1940), và một số truyện

dài còn đang ở dạng bản thảo như Thập niên đăng hỏa, Huyền… Đó là kết quả của một hành

trình miệt mài, cần mẫn chắt chiu cái đẹp bằng tất cả tấm lòng.

Cuộc hành trình chắt chiu từng mảy bụi vàng của Pauxtốpxki đã kết thành “trái ngọt

hoa thơm” – những tiểu thuyết, truyện dài, chân dung văn học, bút kí, tiểu luận, đặc biệt là

truyện ngắn. Ông để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ: Những phác thảo biển khơi

(1925), Những đám mây lấp lánh (1929), Vịnh Kara – Bunga (1932), Số phận Sáclơ

Longxêvin (1933), Miền Cônkhiđa (1934), Hắc Hải (1936), Những ngày hè (1937), Ôrext

Kiprenxki (1937), Câu chuyện phương Bắc (1938), Miền rừng Mêsora (1939), Bông hồng

vàng (1955), Truyện cuộc đời (1967). Ở Việt Nam, những tác phẩm của Pauxtốpxki được

đông đảo bạn đọc biết đến qua các bản dịch: Bông hồng vàng (in 1961, tái bản 1982), tập

Truyện ngắn Pauxtốpxki (1962), Vịnh Mõm Đen (1978), Bình minh mưa (1982).

Những nét tương đồng giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki ngoài đời là tiền đề cho cuộc

gặp gỡ thú vị trong nghệ thuật giữa họ mà chúng tôi sẽ trình bày trong phần tiếp theo của

luận văn.

1.2. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Quan niệm nghệ thuật

Sáng tác văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, theo phương thức “cá

thể”. Vì vậy, mỗi tác phẩm là một “chứng minh thư” tâm hồn của nhà văn, nó chịu sự chi

phối sâu sắc của quan niệm nghệ thuật của ông ta. Thuật ngữ quan niệm nghệ thuật có nội

hàm rộng, là “nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật,

đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [25, tr.229]. Quan

niệm nghệ thuật của một nhà văn là một phương diện quan trọng góp phần định dạng phong

cách nghệ thuật của nhà văn ấy.

Ở Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ trong quan niệm nghệ thuật về tác phẩm

văn chương, về cái đẹp và vai trò của người nghệ sĩ. Những quan niệm ấy hé mở với người

đọc cái nhìn độc đáo của các ông về thế giới và con người.

1.2.1. Văn chương đòi hỏi “sự thật và giản dị”

Giá trị và ý nghĩa của nội dung tác phẩm văn học được đánh giá theo mức độ phản ánh

chân thật và sâu sắc hiện thực đời sống. Do vậy, tính chân thật, giản dị là những phẩm chất

không thể thiếu của một tác phẩm đích thực. Theo Thạch Lam, để có được điều đó, người

nghệ sĩ phải “bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp

đẽ, tìm cái giản dị, sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động đúng” (Chúng tôi

nhấn mạnh) [43, tr. 322]. Thạch Lam từng nhắc lại câu nói của André Bellesort với sự chia

sẻ sâu sắc: “Không gì bằng sự thực; sự sống là cái chuẩn đích, là mực thước của mọi vật”

[43, tr. 328]. Quan niệm về tác phẩm văn học của Thạch Lam trực tiếp hé lộ mĩ cảm của nhà

văn: cái đẹp là sự sống được cảm thấy. Nhà văn đã đề cao tính chủ thể trong việc phát hiện,

thụ hưởng và miêu tả cái đẹp, cái thẩm mĩ. “Cái đẹp được cảm thấy” nghĩa là nó phải sống

động, tự nhiên, giản dị và chân thật. Nó hoàn toàn xa lạ với cái trơ cũ, đoán định, sáo mòn.

Nó là cái cốt lõi làm nên tác phẩm văn học. (Đành rằng văn chương không chỉ nói đến cái

đẹp). Điều đó có nghĩa là phẩm chất chân thật, giản dị của tác phẩm văn học chỉ có thể được

dưỡng nuôi từ tình cảm, sự rung động thành thực trong con tim tác giả. Đó là vì “cái gì nhà

văn không cảm thấy mà bịa ra, nó vẫn có vẻ một vật thừa, một vật vô ích” [43, tr. 311].

Thạch Lam lưu ý“sự rung động thật với sự văn chương”. Khi được khơi nguồn, hoài thai từ

cái đẹp được cảm thấy bởi tâm hồn nhà văn, tác phẩm tự bản thân nó đã mang một vẻ đẹp vô

cùng – vẻ đẹp của sự sống xanh non.

Thạch Lam thú nhận bản thân ông từng ca tụng hoa liễu, bắt chước những câu văn sáo

rỗng “như người ta thường vẫn làm” nhưng rồi nhà văn sớm nhận ra sự tẻ nhạt, giả dối trong

hành động đó. Không né tránh những mặt trái kém phần thi vị của cuộc đời, những góc khuất

tăm tối trong hồn người, nhưng Thạch Lam cũng không tô đậm hay bôi đen chúng mà

chuyển tải hiện thực đó lên trang văn của mình với thái độ chia sẻ, cảm thương. Cái đói khổ,

túng quẫn của kẻ làm thuê; sự cay cực vì miếng ăn của người trí thức; việc mưu sinh khó

khăn của người lao động nghèo… Tất cả hiện lên sống động, xác thực qua những truyện

ngắn như Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Người bạn cũ, Đói, Người bạn trẻ… Không chỉ miêu tả

hiện thực đời sống con người, Thạch Lam còn đi sâu vào cái chân thật trong cảm xúc, tâm

trạng của họ. Đó là những tình cảm “phiền phức” nhưng hiện hữu ở con người: nỗi băn

khoăn khó hiểu khi lần đầu làm cha (Đứa con đầu lòng); niềm hạnh phúc say sưa của cô gái

lần đầu biết đến men say tình yêu (Tình xưa); cảm giác ngỡ ngàng khi suýt nữa chạm tay vào

việc xấu (Sợi tóc), hay ân hận, dày vò vì đã trót làm điều ác (Một cơn giận)…

Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki cho rằng tác phẩm văn học nói chung,

truyện ngắn nói riêng cần phải có “sự thật và giản dị” [65, tr. 45]. Ông chia sẻ kinh nghiệm

viết truyện ngắn đầu tiên của mình: “Tôi vật lộn mãi với truyện ngắn này và không hiểu

được vì sao khi viết ra nó lại cứ khô héo và nhợt nhạt mặc dầu nội dung câu chuyện thật thê

thảm” [65, tr. 44]. Để có một truyện ngắn đích thực, tác giả đã viết lại “và ngạc nhiên vì

không sao đặt được vào trong truyện những từ cầu kì và đẹp” [65, tr. 45]. Pauxtốpxki nhấn

mạnh: “Tôi viết không phải vì tôi đã đặt ra cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì tâm hồn, trái tim,

khối óc tôi đòi hỏi phải làm như vậy” [65, tr. 47]. Do vậy, ông đã mạnh dạn đưa “những cái

tưởng chừng như vặt vãnh” vào truyện ngắn của mình và chúng đã phát huy hết nội lực. Một

món quà, một cuộc gặp gỡ tình cờ, thoáng qua mà đầy dư âm dư vị… đã được diễn tả chân

thực, cảm động qua các truyện ngắn Lẵng quả thông, Gió biển, Tuyết, Cây tường vi…

Mặt khác, cái đẹp được cảm thấy theo Thạch Lam và Pauxtốpxki là cái đẹp mới mẻ,

trong trẻo, thuần khiết như lần đầu được biết đến. Trong bài tiểu luận Chất thơ của văn xuôi,

Pauxtốpxki cho rằng người nghệ sĩ phát hiện ra cái đẹp ấy nhờ “khả năng nhìn cuộc sống lúc

nào cũng như mới, như lần đầu được thấy, trong tất cả dáng vẻ tươi nguyên và đầy ý nghĩa”

[64, tr. 10]. Trong truyện ngắn Thạch Lam, vẻ đẹp thanh tân, tràn đầy sức sống của các thiếu

nữ như Lan (Tình xưa), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Trăng sáng)… luôn được tác giả miêu

tả qua sự rung cảm của các chàng trai trẻ – những thanh niên đang sống trong men say của

mối tình đầu. Thạch Lam cũng nhiều lần nói đến cái sự sống bí ẩn mà thiêng liêng trong bản

thân mỗi sự vật: “Những cây lan trong chậu, lá rung động và hình như sắt lại vì rét” [44, tr.

88]; “Trong cái giờ khắc này, Tân như thấy cảnh vật đều có một tâm hồn, mà lớp sương mù

kia là tâm hồn của đất màu đã nuôi hạt thóc cần cho sự sống của loài người” [44, tr. 100];

“Bông hoa vừa hé nở, cánh nhỏ còn khép giữ một giọt sương long lanh trong như ngọc. Từ

đóa hoa bốc lên một mùi hương quen mến, mùi hương mộc mạc và đầm ấm của hồng nhà”

[44, tr. 250]. Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki tập trung mô tả những tình cảm

đột khởi trong tâm hồn con người: cái mới mẻ của tình yêu chợt đến (Tuyết, Suối cá hương,

Cầu vồng trắng…), sự rung cảm kì lạ trước sức lay gọi mãnh liệt của âm nhạc (Lẵng quả

thông, Người đầu bếp già)…v.v

1.2.2. Đi tìm cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp

Có thể nói người nghệ sĩ là tín đồ của cái Đẹp. Cái đẹp, cái thẩm mĩ là đích đến trong

hành trình nghệ thuật của họ. Thế nhưng, quan niệm về cái đẹp của họ cũng muôn màu vạn

vẻ như chiếc kính vạn hoa. Có người say đắm với cái đẹp của những giá trị văn hóa tinh thần

một thời quá khứ huy hoàng đã qua, lại có kẻ thích cái đẹp ước lệ kiểu phong, hoa, tuyết,

nguyệt… hay đi tìm cái đẹp kì bí, siêu phàm. Với Thạch Lam, “nhưng cái đẹp chỉ cứ ở hoa,

ở liễu thôi đâu mà? Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm

tàng ở mọi vật tầm thường” (chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 326]. Quan niệm về cái đẹp của

Thạch Lam tương đồng với quan niệm của Pauxtốpxki. Nhà văn xứ bạch dương cho rằng

trong mọi sự vật bình thường đều tiềm ẩn bụi quý:“Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và

mỗi cái nhìn tình cờ ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi rung động thầm lặng

của con tim, cũng như cả đến một bông xốp của hoa hướng dương đang bay hay lửa sao

trong một vũng nước đêm – tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng” [65,

tr. 20]. Đó chính là cái đẹp khuất lấp, tiềm tàng trong đời sống hằng ngày.

Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mở ra nguồn “chất liệu” phong phú

và vô tận của tác phẩm văn chương. Quả thật, cái đẹp là một trong những hiện tượng thẩm

mĩ phong phú nhất và phạm vi bộc lộ rất rộng rãi. Có cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp của

những sản phẩm do con người tạo ra, cái đẹp trong hoạt động của con người, cái đẹp của con

người và cái đẹp trong nghệ thuật. Những “mảy bụi vàng” ấy hiện diện quanh ta, kể cả

những nơi tưởng chừng khó tìm thấy nhất nhưng chúng vốn khuất lấp, ẩn chìm. Chúng đòi

hỏi người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường, sự dấn thân để khám phá và tâm hồn tinh tế,

nhạy cảm để phát hiện, lĩnh hội. Thạch Lam và Pauxtốpxki đã đề cao việc phát hiện nhân tố

mới của cái đẹp, cái thẩm mĩ. Ngược lại, chúng cũng xác lập vị trí, yêu cầu đối với nghề văn

– một hình thái lao động đặc thù – là “phát hiện cái đẹp ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái

đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn, thưởng thức”

(chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 26], hay: “Nghề văn không phải là một nghề thủ công và cũng

không phải là một thứ công việc”, đó chính là “cái lao động tuyệt mĩ nhưng cay cực” [65, tr.

24]. Quan niệm về nghề văn của Thạch Lam và Pauxtốpxki gần gũi với quan niệm của Nam

Cao. Cây bút truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam cho

rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa

cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. 1

Thạch Lam đã phát hiện cái đẹp trong cái nên thơ, bình dị, yên ả của những làng quê,

phố huyện nghèo ở Việt Nam (Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Tình xưa, Nắng trong

vườn), còn Pauxtốpxki thiết tha với vẻ đơn sơ, trong lành mà đầy quyến rũ của các làng mạc,

tỉnh lị xa xôi trên đất Nga (Tuyết, Bình minh mưa, Cây tường vi, Bình nguyên tuyết phủ).

Một buổi sớm mai tươi mát, trong lành, một con đường làng mấp mô bước chân trâu, cánh

đồng lúa rập rờn theo làn gió, khu rừng bạch dương màu trắng bạc, ngọn núi phủ tuyết khi

đông về… tất cả đều được các nhà văn khơi dậy cái chất sống tươi mới bên trong. “Bóng tối”

thường tạo ra một ấn tượng kinh hoàng, lo sợ cho con người, nhưng Thạch Lam tìm thấy vẻ

đẹp bí ẩn, mê hoặc của nó: “Trời đã bắt đều đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng

qua gió mát. Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối” (Hai đứa trẻ) [44, tr. 149]. Dưới

cái nhìn của Pauxtốpxki, bóng tối trở nên thân quen như một người bạn. Bóng tối trộn hòa

với mưa bụi, tạo ra một không gian êm dịu, những giọt âm thanh khẽ khàng, xôn xao (Bình

minh mưa). Bóng tối bao bọc và làm thăng hoa tình cảm thiêng liêng của con người (Suối cá

hương). Nếu như Thạch Lam phát hiện ra cái đẹp ở những đối tượng mà khi nhắc đến họ,

người ta nghĩ ngay đến cái xấu, cái ác như Huệ và Liên (Tối ba mươi), bà cả (Đứa con), bà 1 Theo sách Văn học 11, tập 2, Sách chỉnh lí hợp nhất 2000, trang 198.

đầm (Bà đầm), thì trong con người đại diện cho quyền lực quân đội, Pauxtốpxki tìm thấy

một tâm hồn nhạy cảm, khát khao tình yêu (Suối cá hương). Với Thạch Lam và Pauxtốpxki,

cái đẹp không chỉ toát ra ở những cô gái đôi mươi, trẻ trung, ngời ngời xuân sắc như Nga

(Dưới bóng hoàng lan), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Đêm sáng trăng), Đanhi (Lẵng quả

thông), Masa (Cây tường vi), Maria Tsernưi (Suối cá hương) mà ngay cả những phụ nữ đứng

tuổi, có vẻ ngoài thô kệch như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), Mađam Bôvê (Lời cầu nguyện của

Mađam Bôvê) cũng nổi bật với nét mặn mà, đằm thắm, đặc biệt là vẻ đẹp của lòng nhân hậu,

vị tha.

Quả thật, trong bất cứ hoạt động nào con người cũng đều sáng tạo “theo quy luật của cái đẹp”,1 nhưng không ở đâu quy luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc tìm tòi và phát

hiện ra những nhân tố mới của cái đẹp lại chiếm một vị trí quan trọng đến như vậy trong

nghề văn. Những nhà văn tận tụy, tâm huyết với nghề sẽ biết cách chọn cho mình một đường

hướng phù hợp, tránh sa vào lối mòn và tạo ra “những đứa con tinh thần” xơ cứng, yểu

mệnh. Và nghề văn sẽ dẫn dắt người nghệ sĩ đến với chân trời vô tận của cái đẹp nếu họ có

năng lực nhìn cuộc sống bằng cặp mắt “xanh non”.

1.2.3. Chắt chiu “bụi quý”, đúc “bông hồng vàng”

Sứ mệnh cao cả của nhà văn là nghệ thuật hóa cái đẹp mà mình đã khổ công chắt chiu,

gom góp trong đời sống thường nhật, biến chúng thành những “bông hồng vàng” (theo cách

nói hình tượng của Pauxtốpxki). Một khi đã “tìm được hạt nhân tiêu biểu chứa đựng trong

từng điều vặt vãnh” [64, tr. 19], nhà văn làm đầy vốn sống của mình bằng sự cần mẫn chắt

chiu từng mảy “bụi vàng”. Với hoạt động sáng tạo nghệ thuật, chính họ đã làm cho cái đẹp

thăng hoa, bất tử. Bởi “nghệ thuật không phải là nơi độc quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng

nó là hình thức chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao nhất, tập trung nhất, lãnh trách nhiệm

nặng nề nhất trong việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của xã hội” [48, tr. 155], nên vai trò, vị

trí và tư chất của người nghệ sĩ luôn được đưa lên hàng đầu.

Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nêu cao vai trò của nhà văn trong hành trình chiếm

lĩnh và sáng tạo cái đẹp. Dù Thạch Lam nêu ra trực tiếp: “Chúng ta không cần bắt chước ai

(mà công việc bắt chước không phải là công việc sáng tác). Chúng ta cứ việc diễn tả tâm

hồn (An Nam) của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ mà chúng ta ấp ủ trong thâm

tâm” [43, tr. 318] hay Pauxtốpxki phát biểu gián tiếp bằng hình tượng: “Chúng ta, những 1 Chữ dùng của Mác, dẫn theo Lê Ngọc Trà [ 48, tr. 155]

nhà văn, chúng ta bòn đãi chúng (bụi vàng) trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát

đó, lặng lẽ thu góp lại cho mình, biến chúng thành một hợp kim rồi từ hợp kim đó ta đánh

‘bông hồng vàng’ của ta, truyện, tiểu thuyết hay là thơ” [65, tr. 20], thì sự sáng tạo của

người nghệ sĩ luôn được các ông đặt lên hàng đầu. Điều đó có nghĩa là từ vô vàn hạt bụi

vàng quý hiếm – nguồn chất liệu sống, cái “vốn” của nhà văn – sẽ có những “bông hồng

vàng” được khai sinh bằng tài năng và cảm xúc của họ. Mỗi nhà văn có những “bông hồng

vàng” – tác phẩm – của riêng mình. Chúng có số phận hoàn toàn khác nhau nhưng cái thành

quả ấy một mặt chứng tỏ nhà văn đã chạm đến “đích” của hành trình nghệ thuật, mặt khác

xác lập vị trí và sự đóng góp của họ đối với nền văn học nước nhà (và cả trên thế giới). Vì

vậy, sự sáng tạo là điều kiện tiên quyết để nhà văn sản sinh ra cái đẹp trong nghệ thuật. Ở bài

tiểu luận Niềm vui sáng tạo, Pauxtốpxki đã chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao của nhà văn khi

dấn thân trên hành trình nghệ thuật: “Nhà văn đi rất sâu vào mỗi cuốn sách của mình, như

các nhà thám hiểm và chinh phục đi đến miền đất bao la của xứ sở xa lạ. Nhà văn nhiều khi

không biết cái gì đang đợi anh, dòng sông, cánh rừng, dãy núi nào anh sẽ ghi lại trên bản

đồ, những con người bất ngờ nào anh sẽ gặp, những sự kiện nào anh sẽ may mắn chứng

kiến” [64, tr. 54]. Còn Thạch Lam chỉ rõ hậu quả của việc chạy theo lối mòn: “Những nhà

văn nào ồ ạt theo thời chỉ tạo ra được những số phận mỏng manh. Bởi họ chỉ nghe theo

tiếng gọi của sự háo hức, lòng hám danh, sự chiều lòng công chúng” [43, tr. 313].

Ngoài sự sáng tạo, bản lĩnh, cá tính là nhân tố không thể thiếu trong lao động nghệ

thuật của một nhà văn. Đó là “cái can đảm mình dám là mình” như Thạch Lam chia sẻ [43,

tr. 319] hay việc “thể hiện mình một cách đầy đủ nhất và rộng rãi nhất trong bất cứ tác

phẩm nào, dù chỉ ở một truyện ngắn nhỏ” [65, tr. 45] mà Pauxtốpxki tâm đắc tỏ bày. Nếu cá

tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, thì đó là một sự tự

sát trong văn học. Bởi văn học làm giàu cho xã hội không phải ở số lượng của cải như sản

xuất vật chất mà ở những giá trị về mặt tinh thần. Nếu như chân lí mà khoa học mang lại chỉ

mang tính khách quan, duy nhất thì chân lí của văn học còn xuyên thấm những sắc thái chủ

quan. Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ với quan niệm L. Tônxtôi.

Đại văn hào Nga vĩ đại này từng cho rằng: “Khi ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ

thuật của một tác giả mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là

như sau: nào, anh ta là con người thế nào đây nhỉ. Anh ta có gì khác với tất cả những người

mà tôi biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc cần phải nhìn cuộc

sống chúng ta như thế nào” (dẫn theo Lê Ngọc Trà [48, tr. 204]).

Bên cạnh đó, hai nhà văn còn cho rằng sự sáng tạo trong nghệ thuật luôn song hành

với “tiếng gọi trái tim”. Bởi chỉ có dấn bước trên hành trình sáng tạo, trái tim người nghệ sĩ

mới đột khởi những tình cảm “phức tạp” trước những điều mới mẻ, kì lạ. Thạch Lam thường

lưu ý người cầm bút nên có thái độ quan tâm nhiều hơn đến những cảm giác và ý nghĩ của

mình. Còn Pauxtốpxki lí giải cụ thể “niềm xúc động” của nhà văn: “Lo âu và mừng vui – hai

tình cảm mạnh mẽ nhất ấy đã đi theo nhà văn trên suốt chặng đường” [64, tr. 54]. Nhà văn

lo âu “liệu có tìm ra được những từ ngữ rõ ràng, đầy sức thuyết phục để kể lại tất cả những

gì đã nhìn thấy, đã suy nghĩ, kể lại tất cả cho người dân, mà với nhà văn, thì anh luôn cảm

thấy nhân dân là bạn”, hay “cảm thấy niềm vui từ sự quan sát cuộc sống, từ những điều

nghiền ngẫm, từ tâm trạng căng thẳng và lặng lẽ đặc biệt bên trong vẫn thường thấy trước

khi cuốn sách ra đời” [64, tr. 55].

Với tư chất nghệ sĩ sẵn có, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mang đến cho người đọc cái

đẹp của sự sáng tạo từ quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, nghiêm túc. Với 32 năm

ngắn ngủi ở cõi đời, Thạch Lam đã khẳng định vị trí không thể thay thế của mình trong dòng

chảy của văn xuôi hiện đại Việt Nam, còn Pauxtốpxki cũng xác lập tên tuổi trên văn đàn bên

cạnh những trụ cột của dòng văn học Nga đương thời như M. Gorki, A. Tônxtôi, A. Fađêep,

M. Sôlôkhôp… Cuộc đời và hành trình nghệ thuật của hai nhà văn đã trở thành tấm gương

của người nghệ sĩ chân chính.

Cái đẹp của “sự thật và giản dị”, cái đẹp tiềm tàng khuất lấp, cái đẹp của sự sáng tạo

là những nét đặc sắc trong quan niệm nghệ nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtốpxki, hé lộ

cái nhìn độc đáo, tiến bộ của họ về thế giới và con người.

1.3. Thạch Lam – Pauxtốpxki: nhà văn của thể loại truyện ngắn

1.3.1. Sự gặp gỡ trong sở trường truyện ngắn

Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều cầm bút ở nhiều thể loại: tiểu luận phê bình, chân

dung văn học, bút kí, tiểu thuyết, truyện dài… nhưng có thể nói truyện ngắn mới là thể loại

“đo ni đóng giày” của hai nhà văn này, làm nên tên tuổi và thành công cho họ. Ngày nay,

nhắc đến Thạch Lam là người ta nghĩ ngay đến những truyện ngắn nhẹ nhàng mà ám ảnh,

chẳng hạn như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa… Một số

truyện ngắn của ông được xem là mẫu mực của thể loại này. Tương tự, ở Nga, Pauxtốpxki

được xưng tụng là bậc thầy về truyện ngắn, những đồng nghiệp đương thời và lớp nhà văn

hậu thế luôn xem ông là tấm gương để học hỏi, noi theo. Thế giới biết đến tên tuổi của

Pauxtốpxki cũng do bởi những câu chuyện ngọt ngào của ông trong tập Bông hồng vàng,

Bình minh mưa, Truyện ngắn chọn lọc Pauxtốpxki.

Để chuyển tải đến người đọc cái đẹp – những mảy bụi quý được chắt lọc từ những sự

vật bình dị, nhỏ bé của đời thường hay của tâm hồn con người, Thạch Lam và Pauxtốpxki

đều tâm đắc với hình thức tự sự cỡ ngắn. Gọn, cơ động, nhanh nhạy, cập nhật – những đặc

trưng và cũng là “lợi thế” của truyện ngắn – đã được hai nhà văn khai thác tối đa để khai sinh

những đứa con tinh thần, cho chúng đạt đến tầm cao và chiều sâu ý tưởng mà vẫn sống động,

tự nhiên.

Tìm tòi một đường hướng sáng tạo phù hợp với “điệu tâm hồn mình”, cả Thạch Lam

và Pauxtốpxki đều lấy thế giới tâm trạng của con người làm hướng khai thác chủ đạo,

quan tâm tới những cảm xúc đột biến, tức thì, thoáng qua, cỏn con. Truyện ngắn Thạch

Lam, Pauxtốpxki được khơi nguồn từ dòng chảy của văn xuôi trữ tình, xác lập một diện mạo

độc đáo: truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện.

“Trữ tình” là một trong dãy khái niệm về “loại” trong văn học, gồm trữ tình, tự sự,

kịch. Đây là quan niệm của Châu Âu, nguồn gốc từ Aristote, du nhập vào phương Đông

(Đông Á) và vào Việt Nam thời hiện đại, ngày nay trở thành “chuẩn” của lí thuyết văn học

thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Nhắc đến thuật ngữ này, người ta thường nghĩ ngay

đến một thể loại của “loại trữ tình” là thơ. Truyện ngắn trữ tình là thuật ngữ chỉ một thể loại

của “loại tự sự” (văn xuôi) có sự kết hợp hài hòa giữa tố chất “tự sự” và “trữ tình”. Theo

M.Khrapchencô, dấu ấn chủ quan và chất trữ tình đậm đặc là hai đặc điểm nổi bật của truyện

ngắn trữ tình. G.N.Pospelov chỉ ra bản chất của văn xuôi trữ tình (cũng là của truyện ngắn

trữ tình) là “tự sự một cách trữ tình” [69, tr. 100]. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng một trong

những đặc điểm quan trọng của truyện ngắn hiện đại là “gần với thơ” [30, tr. 113]. Phan

Quốc Lữ khẳng định sự ảnh hưởng của thơ với văn xuôi: “Tiến trình văn học hiện đại đã ghi

nhận sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ ca và phá phách lãnh địa độc quyền của thơ ca.

Nhưng sự thâm nhập theo chiều ngược lại – tức là sự trộn hòa trở lại của thơ vào văn xuôi

cũng không phải là hiếm và điều này được xem như là một dấu hiệu biến đổi tất yếu của

truyện ngắn hiện đại” [46, tr. 51].

Mặt khác, tính chất “phi cốt truyện” ở truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki quy định

sự thưa thoáng, gọn nhẹ, ít sự kiện của câu chuyện. Mỗi truyện là một tâm tình, gây ấn tượng

mạnh bởi phong vị trữ tình và chất thơ bàng bạc, man mác tỏa ra từ những trang văn.

Khám phá truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki, người đọc như bước vào địa hạt

của chất thực và chất thơ, giữa tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn. Việc phân định rạch

ròi đường biên của các trào lưu, phương pháp, thể loại là không đơn giản bởi chúng có sự

trộn lẫn, chuyển hóa và xuyên thấm vào nhau.

1.3.2. Khái quát về truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki

1.3.2.1. Về chất thực

Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki tuy chưa phải là bức

tranh toàn cảnh nhưng đó là những mảnh ghép của cuộc đời thực và chúng đủ sức tái tạo

hình ảnh một xã hội khá đầy đủ.

Chất thực trong truyện ngắn Thạch Lam bắt nguồn từ cuộc sống khổ cực của bao cảnh

đời, bao số phận trong cái “ao đời” phẳng lặng, mòn mỏi, đơn điệu. Thạch Lam thường đặt

các nhân vật trong không gian hiu hắt và ngập đầy bóng tối để cuộc sống tù túng, tẻ nhạt và

tình cảnh bế tắc, cùng quẫn của họ đồng hiện. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, mỗi con

người một duyên phận, nhưng mẫu số chung của cuộc đời họ là sự đói nghèo, bất hạnh. Mẹ

con bác Lê (Nhà mẹ Lê) phải đối diện với cảnh đói rét và chạy ăn hàng ngày như đó là một

phần định sẵn của cuộc đời họ. Mai, Sinh (Đói) vì cái đói hành hạ mà phải hành động theo

bản năng để rồi phải “hy sinh” cả nhân phẩm như một nỗi cùng đường tuyệt vọng. Bác Dư

phu xe và cái gia đình khốn khổ của mình sống trong “một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè,

xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà” (Một cơn

giận) [44, tr. 32]. Vì vợ đau, con ốm, bác phải chạy một cuốc xe lậu và bị bắt, bị hành hạ,

thật là thân phận con ong cái kiến.

Không chỉ cái đói nghèo, thiếu thốn mà chính cái chất tù đọng, mỏi mòn trong cuộc đời

của những dân nghèo thành thị hay dân quê tỉnh lẻ này đã làm nên “hạt nhân” của chất thực.

Trong cái kiếp sống nhỏ nhoi giữa dòng đời xám nhờ, nhạt nhẽo, các nhân vật là nạn nhân

của thất nghiệp, của túng nghèo và hàng trăm thứ tai họa bỗng nhiên ập đến. Họ sống lay lắt

trong cái vòng đời luẩn quẩn, kéo lê từ ngày này sang tháng nọ cho hết kiếp người. Điều đó

còn nặng nề và cay cực hơn cả cái đói dày vò. Cuộc đời Tâm (Cô hàng xén) gắn liền với

chiếc đòn gánh trên vai – gánh hàng xén và cũng là gánh nặng cơm áo gia đình. Từ khi là

thiếu nữ cho đến lúc trở thành thiếu phụ, gánh hàng ấy vẫn đeo đẳng lấy Tâm và dường như

theo thời gian, nó càng oằn nặng trên vai nàng. Cuộc đời của những cô gái như Dung (Hai

lần chết), Liên (Một đời người) lại là những bức tranh sẫm màu hơn bởi họ không chỉ chịu

cảnh khổ về thân xác mà còn phải chịu sự đọa đày về tinh thần ở nhà chồng. Trong Hai đứa

trẻ, những mảnh đời lầm lụi như mẹ con chị Tý, chị em Liên, An, bác Siêu bán phở, bà cụ

Thi nghiện rượu hơi điên, gia đình bác xẩm… như ngọn đèn con trước cái tối tăm, mênh

mông của đất trời. Đọc truyện ngắn Thạch Lam, người ta không khỏi rùng mình, ám ảnh

trước cái đói nghèo và thực trạng trì trệ, tối tăm của xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki không né tránh thực tại mờ xám, đói nghèo của bao

cảnh đời trong xã hội. Sự tàn tạ, túng thiếu của ông lão (Ông lão trong quán điểm tâm ngoài

ga); cảnh sống và chết trong đơn chiếc, tủi buồn của bà cụ Katêrina (Bức điện); cuộc đời cô

đơn, thiếu thốn, u buồn của Alan – một văn sĩ có tài (Bình nguyên tuyết phủ)… đã đi vào

trang văn của Pauxtốpxki thật chân thực, cảm động.(Trong văn học Xô Viết thời bấy giờ ít ai

đưa ra bức tranh hiện thực này). Thế nhưng, về nỗi khổ, niềm đau và sự bất hạnh của phận

người, Pauxtốpxki chỉ đề cập thưa thoáng, mờ nhạt trong một vài tác phẩm chứ không dành

nhiều bút lực như Thạch Lam. Có thể nói gương mặt chiến tranh là một hiện thực rộng lớn,

bao trùm lên không khí thời đại trong những truyện ngắn của Pauxtốpxki. Ở Trái tim nhút

nhát, chiến tranh hiện ra với những mảng màu đậm đặc khói súng. Chiến tranh mở đầu với

việc ngụy trang: “lấy bùn nâu màu đất chung quanh nhà để quét lên tường” [65, tr. 266];

tiếp diễn trong tâm trạng hoang mang, lo sợ của người dân: “lạnh toát người khi nhìn thấy

những con chim sắt khổng lồ gầm thét, lượn đi lượn lại trên thành phố và ở dưới chân

chúng, trên mặt đất bùng lên những cột lửa vàng” [65, tr. 268]. Bức tranh chiến sự có đầy đủ

cái ác liệt trong một trận đối đầu đầy căng thẳng giữa những chiếc phi cơ Xô Viết và trọng

pháo của quân Đức: “Đất rung chuyển theo mỗi tiếng nổ. Ngói rơi lả tả. Bụi bốc lên thành

những đám mây lớn bên trên thành phố. Súng cao xạ gầm thét hết giọng. Những cành da hợp

gẫy văng vào tường. Bọn lính mặc áo choàng xám xịt và chạy đi chạy lại, những mảnh bom

rú rít, những ngọn lửa của trận bom nhấp nhoáng liên hồi trong những đám mây đen. Còn ở

ngoài cảng, lửa đã cháy phần phật trong những kho hàng, làm bung những tấm mái kẽm”

[65, tr. 267]. Chiến tranh bộc lộ tính hai mặt, có sự mất mát, hy sinh: “một thiếu phụ còn trẻ

và ông lão chủ hiệu thuốc đang ốm bị chết bom” [65, tr. 268], anh phi công dũng cảm Ivan

Gêraximốp bị bắt và xử tử; có chiến công vang dội “Trọng pháo của Đức bị đánh tan tác,

đất cát phủ đầy. Ngôi nhà cổ có những cửa cuốn tò vò ngoài phố chính, nơi Bộ chỉ huy Đức

đóng, cháy rừng rực. Ngoài bến, chiếc tàu vận tải Rumani xanh lốm đốm như một con ếch,

bốc khói, chìm dần. Xác lính Đức ngổn ngang khắp phố” [65, tr. 268]. Bóng dáng chiến

tranh còn hiện ra ở các chi tiết rải rác trong phần lớn truyện ngắn của Pauxtốpxki: cuộc sống

tản cư của mẹ con ca sĩ Tachianna, công việc biểu diễn trong “các trạm quân y lưu động”

của cô, bức thư anh lính thủy Nicôlai Pôtapôp gửi cho người cha kính yêu (Tuyết); một

chuyến đi trên chiếc xe tải quân sự đầy bất trắc vì máy bay địch xả liên thanh, “đạn cày lên

từng cột bụi” (Trên thùng xe tải); anh thiếu tá Kuzmin chuyển giùm người bạn nằm cùng

quân y viện một bức thư cho người vợ anh ta nhân chuyến nghỉ phép (Bình minh mưa); anh

sĩ quan “bị thương vào đầu” được gửi đến một nhà nghỉ để hồi sức sau vết thương nặng nề

(Cầu vồng trắng); chú bé bỏ bức thư vào chai để gửi cho người cha ngoài mặt trận (Chú bé

chăn bò)… Hiện thực chiến tranh hiện lên qua trang viết của Pauxtốpxki mang màu sắc bi

tráng, trong đó chất “tráng” bao giờ cũng lấn lướt, nổi bật hơn “bi”.

Dù luôn nỗ lực chắt lọc lấy phần thi vị trong cuộc sống nghèo nàn, tối tăm nhưng ngòi

bút Thạch Lam, Pauxtốpxki không vì thế mà lãng quên những vấn đề có phần bi thảm, dữ

dội của hiện thực. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều sống ở thời đại đất nước trải qua nhiều

biến cố lịch sử, bao cuộc “chuyển dạ” đớn đau. Hiện thực phản ánh của hai nhà văn khác

nhau vì họ có xu hướng phản ánh chính cái đời sống xã hội đã và đang diễn ra xung quanh

mình. Xã hội Việt Nam thời kì này đã bị Pháp “bình định”, mối xung đột giữa nông dân và

thực dân nằm ở bề sâu chứ không nổi lên ở bề mặt như giai đoạn trước đó. Bóng dáng thực

dân không hiện lên trực diện trong trang viết của Thạch Lam. Dưới sự khai thác bóc lột của

Pháp, xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc, cuộc sống người dân rơi vào thảm họa đói

nghèo, nhất là ở làng quê, tỉnh lẻ. Thực tại ấy đã phả vào truyện ngắn Thạch Lam tính chất

“âm âm, u u” của những số phận, kiếp người. Còn hiện thực mà Pauxtốpxki đắm mình trong

đó là những sự kiện long trời lở đất: chiến tranh thế giới, cách mạng, nội chiến, chiến tranh

vệ quốc. Đề tài chiến tranh trở thành đề tài quán xuyến toàn bộ văn học Xô Viết thời bấy giờ.

Do vậy, những trang viết của ông, dù ít dù nhiều, không thể thiếu mùi “khói súng”.

Tuy nhiên, Thạch Lam và Pauxtốpxki đều không chiếm lĩnh và đồng hóa hiện thực với

cái nhìn nghiêm nhặt, tỉnh táo như các cây bút của chủ nghĩa hiện thực cùng thời. Viết về

chiến tranh, Sôlôkhốp đã đào sâu tận cùng nỗi đau, sự mất mát của những con người chịu

nạn. Chất thực trong truyện ngắn Số phận con người của ông thật đậm đặc, xù xì với bi kịch

của người lính Anđrây Xôcôlốp và cậu bé Vanhia. Chiến tranh đã cướp đi của họ mái ấm gia

đình và tất cả những người thân, để lại cho họ sự cô đơn, trơ trọi với khoảng trống hun hút

trong tâm hồn. Còn chất thực trong truyện ngắn của Pauxtốpxki đã được giảm bớt chất “thô

mộc” của nó. Cùng viết về cuộc sống bế tắc của người dân nghèo trong xã hội thực dân bán

phong kiến, nếu Thạch Lam có phần “nâng đỡ” các nhân vật về đạo đức, phẩm chất thì Nam

Cao lạnh lùng phanh phui, mổ xẻ tính cách lưu manh hóa ở họ. Nhân vật Chí Phèo trong

truyện ngắn cùng tên của ông là một điển hình cho lớp người nông dân bị dồn đến bước

đường cùng, bị biến dạng về nhân hình (quỷ dữ), méo mó về nhân tính (lưu manh), rơi vào bi

kịch bị cự tuyệt quyền làm người và phải tìm đến cái chết như một hướng giải thoát duy

nhất. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lấy cuộc đời thường nhật làm điểm xuất phát để

vươn tỏa đến những ước mơ, khát vọng tươi sáng, điểm tô thêm cho những tin yêu, mong

mỏi ở lòng tốt, điều thiện của con người. Đó là cái nhìn hiện thực theo phương thức nội

cảm hóa. Tố chất hiện thực trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki có màu sắc riêng bởi

nó được khúc xạ qua tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của tác giả với cái nhìn thương yêu, trìu

mến. Tuy chiều rộng của hiện thực có phần co lại nhưng chiều sâu và sức gợi của nó thì

thăm thẳm khôn cùng.

1.3.2.2. Về chất thơ

Với cái nhìn chuyên chú phát hiện cái đẹp, vẻ nên thơ giữa bộn bề cuộc sống, cả

Thạch Lam và Pauxtốpxki đều tạo nên những áng văn xuôi mượt mà, truyền cảm. Không

thiếu chất thực để neo giữ câu chuyện ở cõi đời, tránh sa vào “ánh trăng lừa dối” nhưng có

thể nói, mức độ, liều lượng dồi dào của chất thơ mới là phần nổi trội trong truyện ngắn

Thạch Lam, Pauxtốpxki, hình thành nên một phương thức chiếm lĩnh cuộc sống độc đáo.

Chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki, trước hết được chắt lọc từ cuộc

đời thường nhật. Dường như cả hai nhà văn đã gạn lọc đi nhiều “lớp váng” vẩn đục của cuộc

sống hàng ngày và phủ lên bao thứ vụn vặt, bình thường một chất thơ bàng bạc, một cảm xúc

trữ tình dồi dào, khiến nó có sức lay động mạnh mẽ, sâu xa. Điều này thì Thạch Lam và

Pauxtốpxki giống cách nhìn của Mácxim Gorki.

Dưới ngòi bút của Thạch Lam, cuộc sống hiu hắt, quẩn quanh vẫn toát lên vẻ lãng

mạn, thi vị từ những cảnh đời lam lũ, nhỏ nhoi. Đó là niềm hạnh phúc nguyên sơ được cất

lên từ những căn lều lụp xụp của một phố chợ tồi tàn.“Những ngày nắng ấm quanh năm”,

“những buổi chiều mùa hạ”, “những đêm sáng trăng” là thời khắc nhàn hạ, vui vẻ:“Dưới

bóng trăng, những đá rải đường trông đẹp và lấp lánh sáng. Đất hãy còn giữ cái nóng buổi

trưa và bốc lên một cái mùi riêng lẫn mùi rác bẩn và mùi cát. Mọi người họp nhau nói

chuyện, trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ. Hình như quên cái khổ sở, hèn mọn, ai ai

cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cười to và dài của người lớn xen lẫn tiếng khúc khích của các

cô gái chúm chụm sát nhau trong bóng tối”[44. tr. 16] (Nhà mẹ Lê). Đó còn là một thiên

đường giữa cõi nhân gian xô bồ – ngôi nhà tuổi thơ thân quen với con đường gạch Bát Tràng

rêu phủ, bể nước giếng ngọt lành, giàn thiên lí tỏa bóng mát, hương thơm hoàng lan quyến

rũ… và nhất là người bà hiền từ và cô bạn gái xinh đẹp luôn chờ đợi, thương yêu (Dưới bóng

hoàng lan). Ở các truyện ngắn như Hai lần chết, Một đời người, Người bạn cũ, Người lính

cũ… Thạch Lam đã đánh thức ở người đọc nỗi niềm xao xác, da diết trước những số phận

mờ xám, tối mịt như bóng đêm.

Cùng lối khám phá đầy rung cảm, xôn xao trước thực tại, Pauxtốpxki đã tìm thấy chất

thơ từ những cuộc gặp gỡ vô tình mà như định mệnh giữa cõi đời. Mặc dù họ gặp nhau rồi

chia xa mãi mãi hay hứa hẹn cuộc hội ngộ đầy hạnh phúc về sau, thì cuộc đời của mỗi người

dường như đẹp hơn, có ý nghĩa hơn từ lần gặp ấy. Cuộc hội ngộ trong Bình minh mưa, Tuyết,

Gió biển, Chú bé chăn bò, Suối cá hương tựa như luồng gió lạ, làm dịu đi cái ác liệt, căng

thẳng của chiến tranh, thổi vào tâm hồn con người niềm tin yêu mãnh liệt vào ngày mai.

Chiến tranh dữ dội, mất mát là thế, nhưng Pauxtốpxki đã khéo léo khơi cái phần thi vị, nồng

ấm bị nhòe lẫn, khuất lấp trong đó, mang đến chất “tráng” cho những trang văn.

Một trong những ưu thế nổi trội, làm nên thế mạnh của ngòi bút Thạch Lam,

Pauxtốpxki chính là việc khám phá chất thơ của tâm hồn con người với tất cả chiều sâu, sự

tinh tế, vẻ phong phú vô tận của nó. Trước hết, đó là thái độ, cách nhìn đời đầy trân trọng,

nâng niu, soi chiếu tâm hồn giàu cảm xúc, nhân hậu của nhà văn. Các ông như trải lòng mình

lên những trang văn, những gì viết ra đều thấm đượm cái nhìn, nếp nghĩ và không ít máu thịt

của nhà văn trong đó. Ngoài ra, chất thơ còn được lắng lọc qua tâm hồn của nhân vật. Thạch

Lam bước vào tâm hồn trẻ thơ để khám phá lòng tốt thuần khiết, vô tư (Gió lạnh đầu mùa);

nỗi buồn thơ ngây (Hai đứa trẻ). Ông phát hiện những rung động khẽ khàng, tế vi trong tâm

hồn người con gái đang yêu (Bắt đầu, Tình xưa, Nắng trong vườn), hay vẻ đẹp ngời sáng của

đức hi sinh, lòng nhân hậu, vị tha của người phụ nữ Việt Nam (Nhà mẹ Lê, Hai lần chết, Một

đời người)…

Vẻ đẹp của lòng nhân ái là ngọn nguồn trong lành làm tuôn chảy chất thơ ngọt ngào,

tươi mát cho những trang viết của Pauxtốpxki. Qua những truyện ngắn như Lẵng quả thông,

Âm nhạc Vécđi, Bông hồng vàng, Người đầu bếp già, Chiếc nhẫn bằng thép… người đọc bắt

gặp vẻ đẹp của lòng tốt vô biên; nét trong trẻo của tâm hồn trẻ thơ hay xúc cảm mãnh liệt,

dạt dào của con người trước âm nhạc.

Mặt khác, thiên nhiên với gương mặt muôn màu muôn vẻ cũng là những nguồn thơ

phong phú, tạo cảm hứng cho Thạch Lam và Pauxtốpxki trong phần lớn truyện ngắn của các

ông. Thiên nhiên trong truyện của Thạch Lam là những bức tranh có hồn về cảnh sắc bình dị

của làng quê Việt Nam. Cảnh chiều tà ở một phố huyện nghèo gợi nhiều thi hứng, nhạc cảm

cho tâm trạng: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra

để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và đám mây ánh hồng như hòn than sắp

tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” (Hai đứa trẻ) [44, tr.

149]. Đêm sáng trăng đẹp, yên ả, sắc sảo từng đường nét, chẳng khác gì một bức danh họa

chốn đồng nội: “Ngày chưa tắt hẳn, mặt trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ từ từ lên ở

chân trời, sau rặng tre đen của làng xa. Mấy sợi mây còn vắt ngang qua, mỗi lúc một mảnh

dần, rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng dâng

hương thơm ngát. Sau tiếng chuông của ngôi chùa độ một giờ, thì thật là trăng sáng hẳn:

trời bấy giờ trong thăm thẳm và cao; mặt trăng đã nhỏ lại, sáng vằng vặc, du như sáo diều;

ánh trăng trong chảy khắp cả trên ngành cây, kẽ lá, tràn ngập trên con đường trắng xóa”

[44, tr. 196]. Cánh đồng quê, con đường làng mấp mô, mùi của cỏ, ao, bèo, rơm rạ, đất

ẩm…, tất cả quyện hòa vào nhau, khơi gợi cảm giác bình yên, ấm áp, thoảng chút hiu hắt,

man mác buồn nhưng rất nên thơ.

Nếu như hình ảnh, màu sắc, hương vị của làng quê Việt Nam đem lại cho văn Thạch

Lam vẻ thi vị, quyến rũ thì những tỉnh lị xa xôi hay các miền thảo mộc của Nga đã làm nên

khí sắc mượt mà cho trang viết của Pauxtốpxki. Đó là cảnh “khi đông về và tuyết rơi phủ đầy

[…] sông mãi chưa đóng băng, mặt nước màu xanh lá cây bốc khói” (Tuyết) [65, tr. 275];

“Trời mưa phùn […] tiếng mưa rơi tí tách trong những bụi cây, mùi thìa là, mùi hàng rào

ướt và hơi ẩm của sông bốc lên” (Bình minh mưa) [65, tr. 308]. Theo mỗi bước chân, cảnh

hiện ra “thêm vẻ bí ẩn và nên thơ”: “Lúc thì có những cánh rừng nhỏ toàn liễu hoàn diệp

làm thành một bức ường màu xám trên bờ sông dựng đứng và những dây hốt bố vàng treo lơ

lửng trên từng khóm liễu những chiếc chiếu gai mới. Lúc thì một cây liễu thủng lỗ chỗ nằm

vắt ngang sông như một cái cầu, và bên cầu, những con cá tung mình lên trên mặt nước. Lúc

thì dòng sông oai vệ uốn khúc đi vào những cánh rừng vàng óng và xanh biếc mùa thu” (Chú

bé chăn bò) [65, tr. 295]. Ngắm bức tranh bình minh ở vùng thảo nguyên, người thưởng thức

như đi lạc vào xứ sở thần tiên, tâm hồn trở nên tươi mát, thanh thản lạ thường: “Trời nổi gió.

Màn sương mù lay động và gió cuốn trôi đi từng mảng trên mặt sông. Những bờ bụi hiện ra,

ướt đẫm sương đêm và ở giữa nhô lên một túp lều mái lợp bằng những cành liễu kết lại với

nhau. Bên vạnh là một đống lửa bập bùng. […] Ngay lúc đó mặt trời đã nhô lên khỏi đám

sương mù. Cỏ mọc xung quanh xanh thẫm như mặt nước lặng lờ và sâu thẳm. Giá lạnh buổi

đêm toát ra từ đám cỏ” (Cây tường vi) [65, tr. 253]. Không chỉ ghi lại dáng vẻ, hương sắc

của thiên nhiên mà Pauxtốpxki còn gợi ra cái thần thái riêng của chúng.

Chính cái khí sắc lãng mạn kết hợp với bút pháp trữ tình đã tạo nên chất thơ mượt

mà cho từng truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Đây cũng là điểm “giao thoa” giữa

hai nhà văn với các cây bút xuôi tự sự của văn học Nga và Việt Nam như Tuôcghênhep,

Sêkhôp, Bunhin, Prisvin, Đỗ Chu, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Tuân…

Không hẹn mà gặp, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lựa chọn thể loại truyện ngắn

trữ tình để dệt nên những trang đời từ nguồn chất liệu dung dị, nhỏ bé, bình thường của cuộc

sống hàng ngày. Cả hai nhà văn đều bước lên văn đàn dân tộc khi khuynh hướng văn học

hiện thực và lãng mạn đã đạt được những thành tựu đáng kể. Việc xác lập cho mình một

“chỗ đứng” đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi, dấn bước. Nét đặc sắc ở truyện ngắn Thạch Lam,

Pauxtốpxki là tính chất “trữ tình”, “phi cốt truyện”, biểu lộ không phải ở chất thực hay chất

thơ mà là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhụy giữa chúng.

Sự dung nạp chất thơ vào văn xuôi, sự hòa quyện, thẩm thấu lẫn nhau giữa tố chất

“hiện thực” và “trữ tình” đã mang lại cho truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki vẻ mềm mại,

tinh tế, có khả năng biểu hiện những rung cảm tinh tế, khẽ khàng của tâm hồn con người.

Bởi vì chất thực khi đi vào văn xuôi thường giảm đi cái xô bồ, xù xì của “chất liệu đời sống”.

Ngược lại, chất thơ dựa trên nền tảng vững chãi của chất thực thường có sức ngân vang, lan

tỏa khôn cùng nhưng vẫn bám rễ vào cuộc sống thực tại.

Việc gặp gỡ về hình thức thể loại giữa Thạch Lam – Pauxtốpxki, rõ ràng chịu sự chi

phối mạnh mẽ bởi quan niệm nghệ thuật của hai nhà văn. Mặt khác, đó còn là sự gặp gỡ của

“tạng riêng” người nghệ sĩ. Rõ ràng, cách cảm, nếp nghĩ, giọng điệu thiên bẩm … của tác giả

có sự tham gia rất quan trọng của cá tính sáng tạo. Chúng tôi hiểu tạng riêng của chủ thể

sáng tạo ở đây tuy có một quan hệ nhất định với con người tác giả ngoài đời (theo phương

diện tiểu sử) nhưng không hoàn toàn trùng khít. Đó là bản sắc tinh thần bên trong của tác giả

– những dấu ấn riêng được hiện diện và khắc ghi ở văn bản. Do vậy “tạng riêng” của Thạch

Lam, Pauxtốpxki là yếu tố góp phần định dạng phong cách nghệ thuật của hai nhà văn này.

Tóm lại, Thạch Lam và Pauxtốpxki là hai nhà văn có những gặp gỡ tình cờ về cuộc

đời, về phương diện con người tiểu sử cũng như con người tác giả trong văn học. Từ sự

tương đồng về quan niệm nghệ thuật, họ còn “gặp nhau” ở việc lựa chọn loại truyện ngắn trữ

tình phi cốt truyện trong sáng tạo nghệ thuật. Những nét đặc sắc trong quan niệm nghệ thuật

của hai nhà văn sẽ chi phối sâu sắc và có hiệu lực đến cách lựa chọn nội dung và nghệ thuật

tự sự của họ mà chúng tôi sẽ tiếp tục xem xét ở các chương tiếp theo của luận văn.

Chương 2:

NỘI DUNG TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ

PAUXTỐPXKI

Con người xuất hiện trong cõi đời và trở thành chứng nhân của thời đại, mỗi số phận

đều chứa một phần lịch sử. Cùng sống trong giai đoạn mà đất nước diễn ra nhiều sự đổi thay

mới mẻ, những vấn đề trọng yếu của thời đại như đói nghèo, chiến tranh, hạnh phúc và bất

hạnh, đổi thay và tha hóa… ít nhiều vang vọng vào các truyện ngắn của Thạch Lam,

Pauxtốpxki. Thế nhưng, chúng chưa đủ điều kiện để trở thành nội dung tự sự. Chúng tôi

đồng tình với quan điểm cho rằng nội dung tự sự phải là “những nội dung đã thực sự trở

thành cảm hứng nghệ thuật và chịu sự chi phối của đặc trưng thể loại” [93, tr. 49].

Trong hầu hết truyện ngắn của mình, Thạch Lam và Pauxtốpxki thường kể với người

đọc những câu chuyện về các cảnh đời, số phận trong xã hội, những buồn vui thế sự mà bề

mặt chúng dường như vặt vãnh, cỏn con nhưng ẩn sâu trong đó là vẻ đẹp của cuộc sống và

con người. Hai nhà văn đều không cốt tả chân các biến cố, sự kiện mà chỉ cốt diễn tả cho

chân xác tâm trạng, tình cảm con người. Nhiều khi đó chỉ là những cảm xúc bất chợt, thoáng

qua nhưng nếu tập hợp lại, chúng trở thành chiếc kính vạn hoa của tâm hồn.

2.1. Cảm xúc mới mẻ, bất chợt…

2.1.1. …Trong tình yêu lứa đôi

Tình yêu lứa đôi là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ

thuật, đồng thời cũng là một cánh cửa hé mở thế giới tâm hồn con người. Viết về tình yêu,

Thạch Lam và Pauxtốpxki không “gia công”, sắp đặt mà để cho nhân vật lắng nghe và cảm

nhận những biến thái, rung động tế vi diễn ra trong hồn mình.

Khác với các các nhà “tiểu thuyết luân lí” hay “tiểu thuyết sầu thảm” đương thời,

Thạch Lam không mượn tình yêu phát ngôn cho tư tưởng hay phủ lên chúng màu sắc lâm li.

Tình yêu trong truyện ngắn của ông mang màu sắc tươi tắn, lãng mạn và dù kết thúc không

trọn vẹn, nó vẫn rất đẹp và đầy dư âm dư vị. Tình yêu, trước hết là những cảm giác chân

thực, sống động mà nhân vật “nghe thấy”, “cảm thấy”: cảm giác “dịu ngọt chăng tơ” (Dưới

bóng hoàng lan) hay “tâm hồn say sưa như nhấp rượu” (Cô hàng xén) của tình yêu mới

chớm; “một cảm giác êm dịu tràn lấn vào người” và “tim đập mạnh” khi bồi hồi thương

nhớ người yêu (Bắt đầu); lòng “chán nản”, “khó thở”, “đau đớn nghẹn ngào” lúc tình yêu

đứng bên bờ vực tan vỡ (Trong bóng tối buổi chiều)… Bước vào thế giới của tình yêu, nhân

vật phơi trải tâm hồn với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc. Có cảm xúc hồn nhiên thơ trẻ

của một cậu bé với một người đẹp lớn tuổi hơn: “Khi Thúy để tay lên vai tôi, tôi cảm thấy

rung động cả người. Tôi cảm thấy tôi bắt đầu yêu nàng” [44, tr. 192] (Bên kia sông) (Chúng

tôi nhấn mạnh). Chẳng hạn, trong Tình xưa, tâm hồn Bình đã có một quá trình tiếp diễn

“phiền phức” (từ dùng của Thạch Lam), từ một khởi đầu êm đềm:“Đôi mắt nàng nhìn tôi,

tôi bỗng rung động cả người; đôi mắt nàng phản chiếu một tình yêu mãnh liệt và tha thiết

quá. Tôi hiểu ngay rằng nàng yêu tôi. Tự nhiên, một sự cảm động tràn lấn vào người.[…]

Tôi còn trẻ và tình yêu của một cô gái khiến tôi tự đắc” [44, tr. 232]; đến lúc sóng gió: “tôi

thấy lòng nao nao vừa bực vừa buồn như thấy một sự gì êm đẹp đang mất đi mà không còn

can đảm giữ lại được nữa”, “thấy lòng dửng dưng” [44, tr. 237]; và một kết thúc buồn trong

xa cách: “một sự bâng khuâng nhẹ nhàng dìu tâm hồn người đến những tình cảm man mác,

tôi bỗng thấy cả người xúc động vì nhận ra trong bọn người lác đác ở bến một cái xe đỗ vội,

và trên xe bước xuống một người con gái ngơ ngác nhìn về phía tôi” [44, tr. 239]. Trong tình

yêu, cảm xúc mới mẻ, bất chợt thường đi cùng trạng thái tâm lí khác lạ, kì quặc, tưởng chừng

vô lí nhưng lại rất phù hợp với quy luật riêng của nó – quy luật dành cho những người lần

đầu bước vào thế giới của ái tình. Chàng trai và cô gái (Cô áo lụa hồng) cùng “bịa” ra cái tên

(Tân và Lan) và mối quan hệ quen biết để “tiếp cận” nhau, rồi họ cùng vui vẻ tha thứ cho

nhau vì những cái cớ dễ thương đó. Lan (Tình xưa) vốn là một cô gái hiền lành, nhu mì, ít

nói mà nay “tính nết nàng hình như đổi hẳn, hay bây giờ nàng mới biểu lộ hết cái tính nết

thực của nàng ra. Nàng không còn là cô gái lặng lẽ và kín đáo như trước kia nữa. Lan nói

năng luôn miệng và tiếng cười của nàng vang lên trong nhà, mắt nàng sáng lên, và hơi một

chút việc cũng làm cho nàng vui sướng [44, tr. 233]. Còn Hậu (Nắng trong vườn) cũng trở

thành một con người mới: “Hậu thành điềm đạm băn khoăn hơn trước, với những lúc bồng

bột, những lúc tin yêu, càng ngày càng trở nên kì dị” [44, tr. 113]. Nếu như ngày trước cụ

Nguyễn Du – bậc thầy miêu tả tâm lý con người – đã để cho Thúy Kiều “Xăm xăm băng lối

vườn khuya một mình” đến nơi hẹn hò với Kim Trọng thì các nhân vật của Thạch Lam, các

cô gái vốn là “gái quê” như Mai (Đêm sáng trăng), Lan (Tình xưa), Loan (Bắt đầu), Hậu

(Nắng trong vườn) cũng bạo dạn, mạnh mẽ hành động theo tiếng gọi của trái tim.

Tình yêu còn có một sức hút ma mị không cưỡng nổi. Chuyện của Thân và Tiến trong

Tiếng sáo là một trường hợp điển hình. Mặc dù biết Tiến là một gã đàn ông vũ phu, “tính rất

cộc, hàng xóm ai cũng chê anh chàng lười và bất hiếu”, lại nổi tiếng là “con người lừa lọc,

tệ bạc” mà Thân, “cô thiếu nữ xinh đẹp, người rất có duyên và biết chữ nghĩa” lại mê mẩn

tiếng sáo tài hoa của Tiến và bỏ nhà đi theo cậu ta. Dường như Thạch Lam đã gửi gắm vào

câu chuyện trên một thông điệp thú vị: Tình yêu chân thực vốn không có “bài học”. Những

người đi sau cứ phải dẫm lên bước chân của người đi trước, dẫu đó là bi kịch, thì mới chắt

chiu, gom góp được cho mình chút buồn vui cùng vài ba sự nhận biết về lẽ đời từ những trải

nghiệm thiết thực của bản thân.

Phần lớn các câu chuyện tình trong truyện ngắn Thạch Lam được xây dựng theo

môtíp: chàng là học sinh, sinh viên hoặc công chức từ chốn thị thành về thăm quê, hoặc trọ

học; nàng là cô bạn thủa thiếu thời hoặc con gái gia chủ; họ gặp nhau, nảy sinh tình yêu

nhưng rồi phải xa cách nhau vì nhiều nguyên do. Có nguyên do khách quan (Đêm sáng

trăng). Nhưng phần lớn là nguyên nhân chủ quan, do người trong cuộc cảm thấy sự cách biệt

về mặt tâm hồn, nếp sống (Tình xưa, Nắng trong vườn, Trở về). Chàng trai chia tay với cô

gái cũng là chia tay với chính mình, với những tình cảm hồn nhiên thơ trẻ. Cùng với sự ra đi

để tiếp nhận cái mới mẻ, để nhận biết cuộc sống toàn diện hơn, họ không còn cách nào khác

là giã từ dĩ vãng và những xúc cảm bồng bột vừa trải qua. Ở đây, dấu ấn của buổi giao thời

đã thấp thoáng qua mỗi câu chuyện, bởi con người được đặt giữa điểm giao tranh văn hóa,

nếp sống cũ – mới, việc lựa chọn một hướng đi phù hợp là không dễ dàng, có khi phải kèm

theo cả sự đánh đổi.

Với cảm quan của một bậc thầy tâm lý, Thạch Lam đã thấu hiểu và miêu tả chân thực

tâm trạng, cảm xúc của những đôi lứa đang yêu.

Trong các truyện ngắn của Pauxtốpxk, “tình yêu giống như gió thoảng” [65, tr. 287] –

những cơn gió mát lành thổi vào hồn người, chữa lành những vết nứt đau, làm tươi lại con

tim cằn héo, đem lại chút ấm êm cho những chiếc đời vắng lạnh… Để rồi, cõi “kì bí, huyền

diệu” của tâm hồn lại đột khởi những cảm xúc mới mẻ, trong trẻo từ sự rung động của con

tim. Cuộc đời của Nikôlai – Tachiana (Tuyết), Onga – Kuzmin (Bình minh mưa), vị thống

chế quân đội Napôlêông – Maria Tsernưi (Suối cá hương), Pêtrốp – Êlêna Pêtrốpna (Cầu

vồng trắng), anh lính thủy – người thiếu phụ (Gió biển) đã được sưởi ấm bởi những cơn gió

kì diệu ấy. Trong truyện Tuyết, Tachiana tình cờ biết được nỗi khát khao về hạnh phúc bình

dị của Nikôlai qua nội dung bức thư anh gửi cho người cha. Chính sự đồng cảm sâu sắc với

người con trai chưa một lần gặp mặt đã khiến nàng nỗ lực làm tất cả đúng như ước nguyện

của anh. Khi Nikôlai trở về thăm nhà, anh “không sao xua đuổi được cái cảm giác kì lạ là

mình đang ở trong một giấc mộng nhẹ nhàng nhưng vững chắc” [65, tr. 277]. Bất chợt ở anh

một sợi dây cảm xúc nối liền giữa quá khứ và hiện tại, anh có linh cảm nàng là người con gái

mình đã thầm yêu và chờ đợi cả quãng đời. Tình yêu của Maria đã mang đến cho vị thống

chế, vốn là “người nhà binh”, “chẳng hề biết gì gia đình, lễ tết và yên vui cả” niềm xúc

động lớn lao: “những giọt lệ của đàn ông về điều mà trái tim không bao giờ ngờ trước, về sự

dịu hiền, sự âu yếm, về tiếng thì thầm không dây mối giữa đêm rừng tịch mịch” (Suối cá

hương) [65, tr. 407]. Khi hai tâm hồn giá lạnh, hai nỗi cô đơn tìm thấy và hòa vào nhau, nó

sẽ biến thành một niềm vui chất ngất – “cảm giác của một niềm hạnh phúc hư ảo gần như

không thể chịu đựng nổi” [65, tr. 330]. Đó là chuyện tình giữa Êlêna Pêtrốpna, cô gái có

giọng nói “nghe như một lời hứa hẹn của hạnh phúc”, và anh sĩ quan Pêtrốp (Cầu vồng

trắng). Vì muốn mang lại sự ấm áp, an ủi dành cho người con trai cô đơn “đang bị thương ở

đầu”, Êlêna đã không quản ngại bao khó khăn, nguy hiểm để tìm đến với anh vào thời khắc

nửa đêm, và cô đã tìm thấy tình yêu đích thực mà mình chờ đợi cả cuộc đời. Ở Bông hồng

vàng, tình yêu với “tất cả sự trìu mến” mà Giăng Samet dành cho Xuyzan đã cho anh được

nếm trải sự loạn nhịp của con tim: “Ai chưa từng được xúc động với hơi thở nhè nhẹ của

thiếu nữ trong giấc ngủ, người đó chưa hiểu thế nào là dịu dàng. Môi nàng tươi hơn cả

những cánh hoa ẩm ướt và đôi hàng mi nàng lấp lánh những giọt lệ đêm” [65, tr. 16], và cả

nỗi đắng cay tuyệt vọng: “Thoạt đầu, Samet thậm chí còn thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi tất

cả sự chờ đợi cuộc gặp gỡ đầm ấm với Xuyzan, không hiểu sao, đã biến thành một mảnh sắt

gỉ. Mảnh sắt nhọn ấy mắc trong lồng ngực anh, ngay ở bên tim và Samet cầu trời cho nó

mau mau đâm thẳng vào trái tim ốm yếu ấy đi, cho tim anh vĩnh viễn ngừng đập” [65, tr.

18]. Tình yêu, đôi khi chỉ là dự cảm mơ hồ nhưng dư âm của nó hẳn còn vang vọng mãi

trong lòng những con người có duyên hạnh ngộ. Tình yêu của Onga – Kumin (Bình minh

mưa) là một trường hợp như thế. Với việc chuyển giúp cho người bạn nằm cùng quân y viện

một bức thư cho vợ cậu ta, Kumin đã gặp Onga trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Tình yêu

của họ, hay chính xác – những xúc cảm dường như là…tình yêu – tựa một bản nhạc không

lời giữa đêm tối, nơi “mưa vẫn đều đều xào xạc” [65, tr. 317]. Tình yêu ấy sưởi ấm hai tâm

hồn buồn bã, cô đơn để giờ phút li biệt, họ cảm thấy “tim se lại”, lưu luyến, bùi ngùi.

Hầu hết các câu chuyện tình trong truyện ngắn của Pauxtốpxki thật bất ngờ và lãng

mạn, giữa một bên là “người nhà binh”, một bên là người phụ nữ nhạy cảm và đầy nữ tính.

Những người lính vốn là những tấm gương về lòng gan dạ, quả cảm, phi thường, hình ảnh

của họ thường được bao bọc trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng ca. Ở họ, phần “riêng tư”

dường như là một khoảng trống bị lãng quên. Đồng cảm sâu sắc với nỗi niềm của người lính,

và trên hết là mong muốn tạo ra những nhân vật văn học mang dáng dấp của con người đời

thường, Pauxtốpxki đã đi vào thế giới tâm hồn họ: nỗi cô đơn, sự mong chờ, khao khát hạnh

phúc, niềm vui khi tìm thấy tình yêu... Với tấm lòng ấm áp thương yêu, Pauxtốpxki “mang

lại” cho người lính những cuộc gặp gỡ bất ngờ, thoáng qua nhưng hứa hẹn hạnh phúc, bởi

ông hiểu rằng họ cũng cần lắm một điểm tựa tinh thần, một “hậu phương” vững chắc. Tất cả

dịu ngọt như “chăng tơ” trong tâm hồn người lính, khiến chân dung họ hiện ra chân thực

hơn.

Không phải là kiểu tình yêu sét đánh, không có sự hiện diện của dối trá, phụ bạc, lọc

lừa, tình yêu trong truyện ngắn của Pauxtốpxki mang vẻ đẹp trong trẻo, thuần khiết, lấp lánh

ánh sáng của lòng bao dung, vị tha.

Cùng viết về đề tài tình yêu, Thạch Lam và Pauxtốpxki đều cố gắng diễn tả sâu sắc

đời sống nội tâm phiền phức của những người đang yêu. Đó là một “dải quang phổ” tình cảm

cực kì tinh tế, phức tạp của những cảm xúc, cảm giác mới mẻ đột khởi từ tâm hồn, sự rung

động của con tim. Bởi lẽ, bản chất của tình yêu là luôn tươi mới, nhất là với những ai lần đầu

bước vào thế giới đầy bí ẩn, mê hoặc của nó. Những câu chuyện tình trong truyện ngắn của

Thạch Lam có màu hồng của hạnh phúc, đam mê; vị chát của lãng quên và duyên nợ không

thành; chút bâng khuâng, ngậm ngùi tiếc nhớ… Dấu ấn của xã hội buổi giao thời hiện lên

qua khoảng cách giữa chốn thị thành và thôn quê. Tình yêu tan vỡ vì sự xa cách về tâm hồn,

lối sống nhưng ý thức cá nhân của nhân vật được khẳng định. Còn tình yêu trong trang viết

của Pauxtốpxki là những chuyện tình đẹp như cổ tích, dù chỉ mới những dự cảm ban đầu thì

nó cũng đầy ám ảnh. Nó phảng phất tính chất hồi sinh và khả năng cứu rỗi của tình yêu cá nhân – một mô típ tình yêu phổ biến trong văn học Nga trung đại1. Mặt khác, phải chăng âm

hưởng của thời đại đã chi phối cách xây dựng những con người lí tưởng với tình yêu lí tưởng

qua cái nhìn lãng mạn, bay bổng ở Pauxtốpxki.

2.1.2. …Trong khoảng tối tâm hồn

Tâm hồn con người là một thế giới phong phú, huyền bí với bộn bề cảm xúc. Có

những trạng thái vui buồn, hờn giận, yêu thương… người ta có thể đoán định qua các hành

vi, cử chỉ của nhân vật. Nhưng cũng có các cảm giác, cảm xúc mới mẻ nảy sinh trong vùng

khuất lấp, nó là cả một kho bí mật, “thách thức” sự khám phá của con người. 1 Tình yêu của Onhêghin – Tachianna ( Épghênhi Ônhêghin), Anđrây – Natasa (Chiến tranh và hòa bình), Rakônikốp – Sonya (Tội ác và trừng phạt)

Tìm vào nội tâm, đào sâu cảm giác, Thạch Lam nhẹ nhàng xâm nhập lãnh địa tâm hồn

con người, bóc tách các vỉa tầng sâu thẳm của nó và trải lên trang viết những trạng thái cảm

xúc phức tạp, sống động, bất ngờ. Thạch Lam đã chạm đến “khoảng tối” của tâm hồn: một

cơn giận vô cớ xui khiến người ta hành động nhẫn tâm với người phu xe khốn khổ (Một cơn

giận); một ý định muốn lấy cắp tiền của bạn vốn được “xếp đặt đâu vào đấy rất chu đáo,

phòng ngừa đủ mọi việc xảy ra” (Sợi tóc); một ý nghĩ vô tâm, tàn nhẫn với người yêu (Tình

xưa, Nắng trong vườn); cơn tự ái nhỏ nhen khiến người chồng mặc dù biết lỗi vẫn “giận dữ

thêm lên để lấy phần phải về mình” [44, tr. 11]... Đó là những điều người ta không hề chờ

đợi bởi chúng phô ra cái xấu xa, đớn hèn trong mỗi cá nhân. Thế mà, chúng ào đến, không

hề báo trước. Mặt khác, Thạch Lam còn cho ta thấy tâm hồn con người vốn đa đoan, phức

tạp, day trở nhiều chiều. Trong Một cơn giận, khi nỗi bực tức đi qua, nhân vật Thanh không

thể nguôi yên với sự dày vò diễn ra trong trí: “Sự hối hận dần thấm thía vào lòng tôi; tôi

thấy một cái chán nản, bực tức rung động trong người. […] Tôi càng nghĩ đến bao nhiêu lại

càng khinh bỉ tôi bấy nhiêu” [44, tr. 31]. Tâm trạng của Thành lúc thức tỉnh ở truyện Sợi tóc

lại càng “phúc tạp” hơn : “Tôi cảm thấy một cái thú khoái lạc kì dị, khe khẽ và thầm lặng

rung động trong người, có lẽ là cái khoái lạc bị cám dỗ. Và một mối tiếc ngấm ngầm, tôi

không tự thú cho tôi biết và cũng cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm

hồn tôi thêm một vẻ rờn rợn và sâu sắc” [44, tr. 248]. Tân sau khi ân hận đã “nhận thấy

chính những cái bé nhỏ, hèn mọn hằng ngày nó phá hoại cuộc đời” (Đứa con đầu lòng) [44,

tr. 8]. Bình từng đến với tình yêu bằng cả con tim thiết tha, say đắm: “Hậu chiếm đoạt hết cả

ý nghĩ của tôi. Tình yêu của nàng vừa làm tôi say sưa vừa làm tôi kì dị, như người đầu tiên

bước vào một mảnh vườn đầy hoa cỏ lạ” (Nắng trong vườn) [44, tr. 113] . Thế mà chẳng bao

lâu sau, ở Bình lại xuất hiện những ý nghĩ tàn nhẫn đến không ngờ: “Tôi nghĩ đến những cô

gái lộng lẫy và đài các ở Hà thành, những bông hoa quý. Trong tâm can tôi đầy những ham

muốn, nhớ tiếc, và tôi bắt đầu thấy hận mình vì một cô gái còn non mà những lời âu yếm đối

với tôi bỗng trở nên xa lạ” [44, tr. 116]. Tương tự, nhân vật Bình trong Tình xưa cũng có lúc

thật vô tâm: “Tôi không kịp có thì giờ hối hận cho sự tàn ác vô tình có thể thấy trong câu

đùa cợt. Tôi cũng không muốn nghĩ rằng Lan lúc đó lại có thể đau lòng vì tôi. Lan không còn

liên lạc với tôi nữa” [44, tr. 239]. Những nét tính cách trên tưởng chừng mâu thuẫn, loại trừ

nhau nhưng chúng lại “chung sống hòa bình” trong cấu trúc tâm lí nhân vật, tạo thành một

chỉnh thể thống nhất, hài hòa. Bởi tâm trạng, cảm giác của con người vốn là một chuỗi phức

hợp, tập hợp cả những phần khuất lấp, tiềm tàng.

Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, các nhân vật hầu hết là người tốt, có nhân cách cao

đẹp. Naxtia – cô thư ký xinh đẹp, giỏi giang trong Hội nghệ sĩ Mỹ thuật – là trường hợp

hiếm hoi mà Pauxtốpxki soi ngắm cả những ý nghĩ khuất tối của tâm hồn. Naxtia là người có

công đưa một họa sĩ tài năng ra ánh sáng nhưng cô lại lãng quên người mẹ già ở chốn quê.

Người con gái vốn bận rộn này ngại về thăm nhà với những lý do:“Nàng nghĩ đến những

chuyến tàu chật ních, đến việc phải chuyển từ xe hỏa sang tàu thoi, đến chiếc xe ngựa xóc

nảy người, khu vườn khô héo, những giọt nước mắt không thể nào tránh được của mẹ, về cái

buồn dai dẳng không có gì tô điểm được của những ngày sống ở làng quê” (Bức điện) [65,

tr. 342]. Trong buổi triển lãm, mặc dù “cảm động, lúng túng” và chìm vào niềm hân hoan

được ngợi ca, Naxtia “lúc nào cũng cảm thấy có một đôi mắt nặng nề nhìn mình, thấu suốt

tâm can và nàng không dám ngẩng đầu lên”, “cảm thấy như Gôgôn nói khẽ qua hàm răng

nghiến chặt: Ồ, mày !” [65, tr. 342].

Quả thật, những cảm xúc mới lạ đột khởi từ “khoảng tối” của tâm hồn đã góp phần

làm cho tính cách nhân vật trở nên “đầy đặn”, chân thực hơn. Tuy vậy Thạch Lam và

Pauxtốpxki không để nhân vật đi đến tận cùng chiều dài và chiều sâu vùng khuất tối đó. Bao

giờ họ cũng “phanh” lại kịp thời. Bên cạnh những “bí mật”, vùng khuất lấp của tâm hồn còn

lấp lánh điểm sáng của những tình cảm cao đẹp chợt đến, đánh dấu sự thức tỉnh của lương

tri. Thạch Lam, Pauxtốpxki đã nắm bắt rất “nhạy” những vang động tinh tế đó. Vân, người

chồng từng hành hạ, ngược đãi vợ, bất chợt thấy “rùng mình cho sự tàn ác ấy, tự giận mình

đã ích kỉ và tự ái nhiều” (Bóng người xưa) [44, tr. 260]. Bính, người con từng ăn chơi trụy

lạc khiến người mẹ già nhiều lần khóc vì con, nay lại thấy “lòng thương mẹ rung động khẽ

trong tâm” (Một buổi sớm) [44, tr. 253]. Tân lần đầu nhận ra sợi dây tình cảm thiêng liêng

vô hình nối chàng với đứa con: “lòng rung động khẽ như cánh bướm non, một tình cảm sâu

xa và mới mẻ chàng chưa từng thấy” (Đứa con đầu lòng) [44, tr. 12]. Bà cả, người đàn bà

nổi tiếng “kiệt ác” bất chợt nảy nở tình thương : “Tôi thấy người bà rung động, một tiếng thở

dài sẽ thoát ra môi rồi đôi mắt ráo của bà bỗng mờ đi như ướt lệ. Bà lặng nhìn đứa bé đang

rúc bú đôi vú căng sữa trong yếm mẹ” (Đứa con) [44, tr. 165]. Khi cơn giận vô cớ “bốc

hơi”, Thanh bất ngờ với cảm xúc: “Sự hối hận dần thấm vào lòng tôi, tôi thấy một cái chán

nản, bực bức rung động trong người” (Một cơn giận) [65, tr. 31]. Naxtia bừng tỉnh khi tình

yêu thương mẹ trong cô đột nhiên trỗi dậy: “Naxtia rùng mình vì lạnh và bất thần, nàng chợt

hiểu rằng không có ai yêu nàng như cái bà lão bé nhỏ, già yếu và bị hết thảy mọi người quên

lãng kia, trong cái làng Zabôriê đáng ngán ấy” (Bức điện) [65, tr. 343].

Chính tình cảm cao đẹp bất chợt nảy sinh là sợi dây bảo hiểm cao đẹp giúp các nhân

vật được bảo toàn về nhân cách. Vì vậy, tuy có những lúc chòng chành, chông chênh giữa

lằn ranh thiện – ác, tốt – xấu nhưng hầu hết các nhân vật đều kịp thời điều chỉnh để luôn

sống đúng với nghĩa vụ làm người. Khác với việc miêu tả tính cách, tâm trạng nhân vật một

cách nghiêm ngặt, tỉnh táo của các nhà văn hiện thực, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã dành cho

nhân vật sự trân trọng, nâng niu, dường như là sự nâng đỡ về mặt tâm hồn.

2.1.3. …Trong sự “giải mã” bản thân

Không tìm hiểu, nắm bắt hiện thực khách quan, con người còn tìm vào cõi nội tâm

nhằm thỏa mãn nhu cầu tri giác của mình. Tuy nhiên, thế giới nội cảm của con người vô

cùng phong phú đa dạng với bao chuyện bất ngờ, bí mật, chẳng phải điều gì cũng nói cho

rành rọt, tường minh. Vì vậy, khát vọng “giải mã” chính bản thân mình là biểu hiện cao nhất

của ý thức cá nhân ở nhân vật.

Các nhân vật chính trong truyện ngắn của Pauxtốpxki thường có nỗi băn khoăn về

những trạng thái cảm xúc bất chợt hiện hữu trong tâm hồn mình. Masa, một cô gái vừa tốt

nghiệp đại học lâm nghiệp và đang đi về hạ lưu sông Vônga để trồng rừng cho một công

trường, tự vấn bản thân: “Không hiểu tại sao mình lại buồn thế này nhỉ ? […] Có lẽ tại mình

đang chờ đợi một cái gì chăng? Mà chờ gì, chính mình cũng không biết nữa” (Cây tường vi)

[65, tr. 248]. Tuy tự trấn an mình bằng câu trả lời có vẻ logic: “Cuộc sống tự lập của mình

đang bắt đầu, và vì thế mình mới có vẻ lo sợ ít nhiều đấy thôi” [65,tr. 249] nhưng nỗi buồn

của cô vẫn không dứt. Êlêna trăn trở với hàng loạt suy tư khi trở lại Maxcơva: “Lại về với

công việc quen thuộc, với bạn bè. Mọi chuyện lại như cũ. Còn muốn gì hơn nữa? Vậy mình

còn mong muốn điều gì hơn nữa. […] Giá mà biết được hạnh phúc bí ẩn là gì? Nó ở đâu?”

(Cầu vồng trắng) [65, tr. 326]. Và dường như cô đã giải đáp được ngọn nguồn của cảm xúc

bí ẩn len lỏi trong lòng – nỗi cô đơn: “Khó mà sống thui thủi mãi một mình và nhìn thấy tất

cả, dù chỉ là đêm nay, và suy nghĩ về mọi điều, không mỉm cười với ai, không đặt tay lên vai

ai và không bảo: Anh xem, tuyết đang rơi kìa” [65, tr. 327]. Tương tự, chàng sĩ quan Pêtrốp

vô cùng ngạc nhiên trước sự đổi thay diễn ra trong tâm hồn mình: “Pêtrốp ngạc nhiên nghĩ

rằng thành phố này một năm trước đây tưởng chừng như ảm đạm và dữ dội, giờ đây kí ức

khô cứng của anh lại hé ra trong quá khứ những ngày tươi sáng, bầu trời trong trẻo, mùi lá

mục và vẻ yên tĩnh của những khu vườn xưa, trước đây, anh không nhận ra điều đó. Vì

sao?” [65, tr. 330]. Và trái tim anh tìm được sự lí giải: “Có thể vì anh chỉ một mình và nhìn

tất cả chỉ có một mình. Vì bên anh không có bàn tay ấm áp, không có đôi mắt tươi cười và

giọng nói trầm ấm” [65, tr. 330]. Còn thiếu tá Kuzmin lại bất ngờ với cảm xúc chợt đến

trong đêm mưa bụi: “Ý nghĩ về sự qua đi không thể nào lấy lại mỗi khoảnh khắc nhỏ nhất

của thời gian, cái ý nghĩ dằn vặt con người thế kỉ này qua thế kỉ khác, đã đến với chàng

chính lúc này, ban đêm, trong ngôi nhà xa lạ, và từ ngôi nhà ấy, mấy phút nữa thôi, chàng sẽ

ra đi và không bao giờ trở lại” (Bình minh mưa) [65, tr. 316]. Kuzmin phân vân đưa ra lời

giải cho tâm trạng: “Do tuổi già mà mình nghĩ thế hay sao?” [65, tr. 316].

Nếu như các nhân vật của Pauxtốpxki băn khoăn với các trạng thái cảm xúc bất chợt

xâm chiếm tâm hồn mình và nỗ lực giải đáp chúng (và họ đã tìm thấy lời giải) thì những

nhân vật của Thạch Lam lại day dứt với các trạng thái nhân cách của bản thân. Hàng tá câu

hỏi chất chứa trong tâm họ: Tôi là ai mà bất chợt biến đổi thành con người khác: kẻ có ý

muốn ăn cắp (Sợi tóc), kẻ độc ác nhẫn tâm (Một cơn giận), người chồng và người cha tử tế

(Đứa con đầu lòng), kẻ bạc tình (Tình xưa, Nắng trong vườn), kẻ an phận (Người bạn cũ)…

Họ không dễ gì tìm được lời lý giải thấu đáo. Khi kể những câu chuyện như thế, điều tác giả

quan tâm không phải ở câu trả lời hợp lí của nhân vật mà chủ yếu là khơi gợi được một suy

tư chân thật, tâm đắc với người đọc. Vấn đề này không chỉ khiến nhân vật trong truyện riết

róng với việc “giải mã” mình mà còn khiến độc giả suy tư về những thói tật vốn hiện hữu ở

bản thân: Đôi khi ta cũng vô tâm, tàn nhẫn, hèn yếu, an phận, thỉnh thoảng những thói tật lại

trỗi dậy theo bản năng. Bên cạnh nỗi băn khoăn rất lành mạnh về nhân cách, các nhân vật

của Thạch Lam còn nỗ lực khám phá nguyên do chi phối, quy định mọi ứng xử khác thường

ở họ. Không cố gắng đưa ra câu trả lời duy lí như các nhà tâm lý học xã hội, Thạch Lam dẫn

dắt, khơi gợi vấn đề bằng hình tượng “sợi tóc”: “Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không biết... Có lẽ

chỉ một lời nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này hay phía kia, đã khiến tôi có ăn

cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới của hai bên… Tôi

có tiếc đã không lấy hay không, hay bằng lòng mình vì đã chống giữ lại cái ý xấu? Tôi cũng

không tìm biết rõ hơn. Hình như ý nghĩ ham muốn hay trù trừ tối ấy không phải là của tôi,

hình như của ai ấy, của một người nào khác lạ, khác với cái người thường của tôi bây giờ”

[44, tr. 248]. Những suy tư về trạng thái, tình cảm bất chợt của nhân vật đã đem đến cho

người đọc một thoáng “giật mình”: ranh giới giữa cái Thiện và cái Ác rất mong manh. Con

người lương thiện vẫn có thể bị xui khiến làm điều ác một cách dễ dàng. Lý giải rành rọt cái

bản năng xui khiến con người làm điều ác (cũng như đột nhiên kéo họ trở về với điều thiện)

là không dễ dàng. Câu trả lời là vấn đề của triết học và tâm lí học với sự hiện diện của cái vô

giác, vô thức trong tầng sâu tâm hồn con người.

Mang trong mình khát vọng giải mã bản thân, các vai chính trong truyện ngắn của

Thạch Lam và Pauxtốpxki đã thể hiện đầy đặn ý thức cao độ về bản ngã, về quá trình tự hoàn

thiện mình để phần “người” trong mỗi con người luôn thắng thế.

Những khám phá của Thạch Lam và Pauxtốpxki về cảm xúc mới mẻ, bất chợt trong

tâm hồn con người đã mở ra một diện rộng cho sự phản ánh của văn học, đồng thời xác lập

một kiểu con người trong văn chương – con người tâm lý với cõi nội tâm thầm kín.

Lựa chọn và xem thế giới nội tâm của con người như một hiện thực phong phú để đặt

những “đường cày”, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã tạo ra một nội dung tự sự mới mẻ trong

truyện ngắn của mình. Sự lựa chọn ấy là phù hợp với quy luật vận động và phát triển của văn

học Việt Nam và văn học Nga (không ít thời kì phát triển của văn học ở hai quốc gia có sự

tương ứng). Trước thời Thạch Lam và Pauxtốpxki, trong các loại hình tự sự dân gian, nhân

vật chỉ khóc, cười, buồn, vui đúng theo “chức năng” đã định vị. Trong văn xuôi trung đại,

các tác giả đã chú ý miêu tả các trạng thái cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Sự đóng góp của

nhà văn thể hiện ở chỗ họ đã xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật về con

người với những nét tính cách khó lẫn. Thế nhưng miêu tả nội tâm suy cho cùng vẫn chỉ

được coi như một yếu tố thuộc về kĩ thuật của truyện ngắn, tiểu thuyết. Đến với văn học hiện

đại, nhiều tác giả đã chú trọng đến gương mặt tinh thần, đời sống bên trong của con người và

có sự “đột phá” về kĩ thuật miêu tả nội tâm của nhân vật. Một số cây bút hiện thực bậc thầy ở

Việt Nam và Nga, chẳng hạn như Nam Cao, Sôlôkhốp đã gửi gắm vào tác phẩm của mình

nhiều trang phân tích nội tâm đặc sắc với sự khám phá hay diễn tả thành công những xung

đột hay quá trình biện chứng tâm hồn của nhân vật. Tuy vậy, với nhiều lí do, không phải bao

giờ mô tả nội tâm cũng trở thành một nội dung tự sự chủ yếu.

Mặt khác, việc lựa chọn nội dung tự sự trên ở Thạch Lam và Pauxtốpxki còn có sự chi

phối bởi xu hướng của thời đại. Triết học thế kỉ XX đã trôi qua dưới khẩu hiệu “Sự phồn

vinh của nhân học”. Mọi vấn đề đều xoay quanh cái trục là con người. Con người trở thành

trung tâm của vũ trụ, là chiếc chìa khóa để mở ra mọi vấn đề. Hơn nữa, những thành tựu của

khoa tâm lý học thế kỉ XX mà tiêu biểu là học thuyết tâm lý học vực thẳm (phân tâm học)

của Sigmund Freud đã gián tiếp trở thành chiếc cầu nối cho người nghệ sĩ, trong đó có Thạch

Lam tìm đến được với bờ cõi vừa huyền bí, sâu thẳm vừa kì diệu của tâm hồn con người.

2.2. Cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp…

Cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp cũng là một nội dung tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam

và Pauxtốpxki, một “kênh” thể hiện chân xác những tìm tòi của hai nhà văn về cuộc sống và

con người. Đồng thời, đó cũng là một hướng tiếp cận giúp họ thể hiện bản thân mình đầy đặn

nhất trong văn chương.

2.2.1. …Trong những con người dung dị, đời thường

Thạch Lam và Pauxtốpxki hiếm khi kể chuyện về các “đại nhân”. Các nhà văn thường

đi sâu vào những mảnh đời, số phận của bao con người nhỏ bé, bình thường trong xã hội để

lắng nghe “tiếng lòng”, những xao động trong tâm tư nhân vật và trên hết là phát hiện ra

những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn họ.

Con người từ khi sinh ra đã được đặt trong vô vàn giềng mối phức tạp. Thạch Lam và

Pauxtốpxki đã khai thác văn hóa ứng xử, giao tiếp của con người, thể hiện trong mối quan hệ

giữa con người với quê hương, đất nước, nguồn cội, với đồng loại, gia đình và bản thân. Do

vậy những vẻ đẹp của họ lần lượt được khơi mở, bóc tách và trải lên trang văn Thạch Lam và

Pauxtốpxki thật sống động, bất ngờ.

2.2.1.1. Tấm tình gắn bó thiết tha với quê hương xứ sở

Tình yêu quê hương đất nước vốn là “mẫu số” chung của con người ở mỗi quốc gia,

mọi thời đại. Tuy vậy, cách biểu lộ tình cảm thiêng liêng ấy lại in dấu cách nhìn, cách nghĩ,

hướng tiếp cảm của mỗi dân tộc. Theo quan niệm của Thạch Lam và Pauxtốpxki, trước hết

đó là tình cảm thiết tha với những sự vật bình dị, thân quen trong cuộc sống hằng ngày. Đây

cũng là cảm xúc thường trực trong mỗi con người. Đọc truyện ngắn Thạch Lam, ta bắt gặp

ở người lao động chân chất hay người trí thức bình dân sự gắn bó thiết thân với đồng đất quê

hương. Chẳng hạn, ở Cô hàng xén tần tảo tên Tâm, dù trên vai trĩu nặng gánh hàng mưu sinh

nhưng cô “bớt mệt hẳn đi khi thấy cây đa và cái quán gạch lộ ra trong sương mù” [44, tr.

210]. Tâm thuộc cả con đường “mấp mô vì trâu bước”; quen với tiếng lá tre khô “xao xác”;

dễ dàng nhận ra “mùi bèo dưới ao và mùi rạ đưa lên ẩm ướt”, “mùi phân trâu nồng ấm sặc

ngay vào cổ” [44, tr. 211]. Cả “cái cổng gạch cũ”,“con cá sấu phục ngay trên bệ” ngoài

đình cũng quá gần gũi với cô. Với Tân, con người mà cuộc đời vốn gắn chặt lối sống ở chốn

đô thành lại tiềm ẩn một tình yêu sâu đậm với hương đồng gió nội chốn quê. Sau quãng thời

gian bươn bả ở phố thị, Tân chợt nhận ra quê nhà mới là nơi đem lại cho chàng niềm hạnh

phúc thực sự. Hòa mình vào “cái đời giản dị của người làm ruộng”, sống chân thành, gắn

bó với những người nông dân chất phác, thật thà, Tân đã tìm thấy cảm giác bình yên, thanh

thản:“Mùi lúa chín thơm lại phảng phất lẫn với mùi rạ ướt mới cắt” đã “làm chàng say sưa

như men rượu” [44, tr. 95]. Khi không còn “dửng dưng với những cái chung quanh mình”,

Tân thụ cảm được cái đẹp của đời và cái đẹp trong tâm chàng nảy nở thật diệu kì: “Tân có

cảm giác rằng mình sống” [44, tr. 100]. Tương tự, tình cảm cao đẹp ấy cũng chất chứa trong

tâm hồn anh thanh niên trẻ trai hay những đứa trẻ thơ dại. Sự trìu mến, yêu thương với

những cảnh vật thân thuộc chốn quê đã khiến Thanh “vẫn có cảm giác như ở nhà” dù chàng

xa nhà đã gần hai năm. Cái trường kỉ, ngọn đèn con và cái điếu cũ kĩ, con mèo già mắt lim

dim… cảnh tượng cũ mà có một sức hút mạnh mẽ đối với chàng: “Lần nào trở về với bà

chàng, Thanh cũng thấy thong thả và bình yên như thế” (Dưới bóng hoàng lan) [44, tr. 181].

Chàng đón cảm giác thanh lọc tâm hồn với mùi hoàng lan thoảng trong gió ngát: “Thanh

thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khí tươi

mát này” [44, tr. 182]. “Ngôi nhà và thửa vườn”, người bà nhân hậu, cô bạn láng giềng xinh

xắn…, tất cả trở thành “máu thịt” của Thanh, quyến luyến bước chân ra đi, chắp cánh niềm

vui mỗi lần trở về. Khi mở rộng các giác quan để thu nhận mọi cảnh vật của miền hạ du quê

mình, cậu bé thiếu niên trong Bên kia sông đã khám phá bao điều mới mẻ: “Tôi qua ở đấy

tất cả cái tuổi niên thiếu của tôi, sung sướng và nhảy nhót như một con chim giữa cuộc sống

hoạt động kia bao bọc lấy tôi, để hết cả mắt mà trông, cả tai mà nghe, cả mũi mà ngửi cái

mùi cát, mùi đất lẫn mùi khói rác người ta đốt ở đầu làng buổi chiều, theo gió với sương mà

tràn vào trong phố” [44, tr. 188]. Vì thế sự gắn bó đến thật tự nhiên như hơi thở: “Tất cả

chợ huyện, những kẽ ngách bãi không đối với tôi đều quen thuộc, thân mật như một vật cũ

trong nhà” [44, tr. 189]. Trong tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ cũng vang động những tình

cảm mến yêu đối với phố huyện nghèo: “một mùi âm ấm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn

mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương

này” [44, tr. 150]. Ở Bính, con người mà cuộc sống chỉ đo đếm bằng những cuộc truy hoan,

vẫn le lói ngọn lửa yêu đời, yêu sống, chờ những cơn gió khơi nguồn là bùng lên mạnh mẽ.

Chính không khí mát mẻ, trong lành của buổi sớm mai với “tiếng gà gáy” báo hiệu ngày

mới, vẻ quen thuộc của “thềm gạch”, “gốc cau”, “mảnh vườn nhỏ” đã đánh thức những

tình cảm trong trẻo, tốt đẹp ở chàng, người con từng lầm lạc, chìm đắm trong bao cuộc truy

hoan: “Nhưng hôm nay, cái mát của buổi mai làm tươi lại những cảm giác trong sạch, thanh

cao ngày nhỏ. Tiếng gù gù của chim bồ câu bên hàng xóm không còn nữa, nhưng tiếng cười

nói của những người đi chợ sớm vẫn vang lên bên giậu thưa. Nước mưa bên bể vẫn mát như

ngày còn trẻ; trên cao, trời xanh thẳm không một gợn mây, trời lát nữa sẽ rực rỡ những ánh

hồng của nắng” (Buổi sớm) [44, tr. 252]. Chắc rằng cuộc đời của Bính sẽ sang trang khi cái

đẹp của cuộc đời thường nhật đã trở lại trong chàng. Thậm chí cả những cô gái vốn thuộc

tầng lớp dưới đáy xã hội như Huệ, Liên (Tối ba mươi), qua ngòi bút của Thạch Lam, ở họ

vẫn toát lên vẻ đẹp của một tâm hồn thanh sạch. Tuy ở trong nhà săm, họ vẫn cố gắng bày

biện lễ cúng giao thừa và tấm lòng thành kính hướng về tổ tiên,

Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki đã phát hiện ở những con người tuy khác nhau về

lứa tuổi, nghề nghiệp nhưng có sự gặp gỡ ở nét đẹp tâm hồn - tấm tình sâu nặng với quê

hương xứ sở. Anh lính thủy Nikôlai (Tuyết) yêu thiết tha cái tỉnh lị quê hương, tình yêu ấy

tiếp thêm sức mạnh cho anh để chiến đấu chống lại kẻ thù. Trong một bức thư gửi cha,

Nikôlai chân thành bộc bạch: “Con biết rằng con đang bảo vệ không riêng gì tất cả đất nước

mà cả cái góc nhỏ bé và thân yêu ấy trong lòng con: tức là cả cha, cả khu vườn nhà ta, cả

những em bé đầu bù tóc rối trong làng ta, cả những cánh rừng bạch dương bên kia sông và

cả con mèo Ackhíp nữa” [65, tr. 277]. Trong trái tim thơ trẻ của cô bé Varusa chất chứa tình

cảm mãnh liệt và niềm tự hào về vẻ đẹp của ngôi làng thân yêu:“Không ở đâu trên thế gian

này đẹp bằng làng Mokhova, làng mình. Không phải vô cớ ông Kudơma bảo rằng quê mình

là thiên đường và thực sự chẳng đâu có được mảnh đất tuyệt vời như vậy trên khắp đất nước

này” [65, tr. 354]. Tình yêu quê hương đất nước trải dài theo những vùng đất xa xôi của Tổ

quốc, nơi con người đặt chân đến. Thiếu tá Kuzmin khát khao được ở lại cái tỉnh Navôlôki

xa lạ cũng bởi: “Chàng yêu những tỉnh lị Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể nhìn thấy

những cánh đồng cỏ bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở

rơm trên những chuyến phà. Tình yêu ấy làm cho chính chàng cũng phải ngạc nhiên” (Bình

minh mưa) [65, tr. 312]. Chàng còn muốn nhảy ngay ra khỏi toa tàu khi nó đang chạy để

được ở lại với “một cánh rừng bạch dương thưa thớt và một lưới mạng nhện mùa thu ánh

lên trong nắng” [65, tr. 319], thu vào tầm mắt “những cánh rừng, những bãi cỏ, những con

ngựa, những nẻo đường đang vùn vụt chạy về phía sau” [65, tr. 319] và biết rằng đó là điều

mà bản thân chàng “chờ mãi suốt đời”. Những cô gái đôi mươi vốn là “liễu yếu đào tơ”

mang trong mình bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, vẻ đẹp của họ toát ra từ sự cứng cỏi, mạnh mẽ,

khát vọng cống hiến cho quê hương. Masa tình cờ ghé thăm cánh đồng quê, nơi con tàu dừng

lại dọc đường, và cô thật khó khăn khi phải chia tay với nó: “Masa cảm thấy bịn rịn phải xa

bờ sông này, với cánh đồng hoa, với mái lều và ông già đan lát nọ. Tất cả cảnh vật chợt đã

trở nên thân thuộc đối với cô hệt như cô đã lớn lên ở đây, và ông lão kia là người đã nuôi

nấng, dạy dỗ cô” (Cây tường vi) [65, tr. 254]. Sau đó, cô sinh viên mới tốt nghiệp này đã trải

qua tháng ngày tuổi trẻ ở một vùng đất mới; tâm huyết với việc trồng rừng và chăm chút,

nâng niu từng cây con. Tương tự, cô gái trong truyện Hạt cát cảm thấy ngày càng gắn bó với

những vùng đất trồng nho miền Krưm, cả cái khắc nghiệt ở đây cũng trở nên đáng yêu lạ

lùng. Cô sung sướng chia sẻ với một nhà văn:

“Đất chẳng khác gì đá, rễ nho cũng rắn như đá, chung quanh, đá bị mặt trời hun đốt,

phả hơi nóng hầm hập. Lúc đầu cháu khổ vì nóng, thậm chí phát khóc lên. Ấy thế mà bây giờ

cháu lại đâm ra yêu cái nóng ấy, giò đây cháu có cảm giác nó làm cho đất đai đẹp thêm.

Nhưng khoảng thời gian thú nhất là lúc cái nóng dừng lại lúc gần tối, nó bắt đầu giảm dần

đi một cách khó nhận thấy và không khí trở nên yên lặng, có thể nói là dịu dàng, đến nỗi

cháu cảm thấy cháu thực hạnh phúc” [65, tr. 418].

Với tâm trạng “nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương” 1, các nhân vật trên cùng

chuyến tàu tốc hành Ximfêrôpôn (nhà thổ nhưỡng học, nhà văn, cô bé Naxtia) có chung lòng

say mê với những làng mạc đã đi qua. Thậm chí, nhân vật “tôi” còn nảy sinh ý định: “bỗng

muốn bỏ con tàu ở ngay ga sau để quay lại làng đó, đến ở ngay ngôi nhà gỗ bé nhỏ với

những cây cẩm quỳ giữa đồng cỏ kia, dưới những đám mây lười biếng, trong đại dương vô

tận của lúa mì” [65, tr. 385]. Tình yêu quê hương xứ sở còn được bồi đắp thêm lòng tự hào,

tự tôn dân tộc khi con người đặt chân đến một vùng đất nằm ngoài đường biên của đất

nước:“Chỉ có qua nước ngoài ta mới biết được đến đầu đũa hai chữ ‘của mình’. Mùi cây

dâu, những sườn đồi đất sét hung đỏ, tiếng vó ngựa trên những đường qua đầm lát gỗ trong

rừng, tiếng cà cưỡng hót, tất cả những cái đó là ‘của mình’. Cái ‘của mình’ khi nào cũng

làm lòng ta tĩnh lại và làm tim ta tràn ngập sự dịu dàng” (Pari chốc lát) [65, tr. 471].

Chính tình yêu Tổ quốc làm cho những con người bình thường trong truyện ngắn

Pauxtốpxki bỗng trở nên lớn lao. Vania, một thanh niên hiền lành, tính tình vốn nhút nhát lại

sở hữu một lòng dũng cảm phi thường. Anh lái máy bay tiêu diệt trọng pháo Đức, dọn đường

cho “quân ta” tiến vào thành phố. Khi sa vào tay giặc, đối mặt với cái chết, Vania vẫn thể

hiện rõ bản lĩnh mạnh mẽ, gan góc của một đấng anh hùng. Trong Lời cầu nguyện của

Mađam Bôvê, có ai ngờ ở người đàn bà giúp việc nhà lớn tuổi bỗng bừng lên vẻ đẹp của lòng

yêu nước nồng nàn, của cốt cách một quý tộc chân chính. Dù sinh sống trên đất Nga, trái tim

bà vẫn đau đáu hướng về Tổ quốc Pháp thân yêu. Giọt nước mắt của Mađam đã nhỏ xuống

cho niềm hạnh phúc vô bờ khi hay tin quân phát xít bị đẩy lùi khỏi quê hương. Bà đã mở tiệc

ăn mừng, chơi những bản đàn hay nhất, gửi gắm khát vọng trong những lời cầu nguyện chân 1 Thơ Chế Lan Viên

thành: “Lạy Đức mẹ Maria Đồng trinh! Hãy cho con lại được trông thấy nước Pháp, được

hôn ngưỡng cửa nhà con và lấy hoa tô điểm nấm mồ anh Sáclơ yêu dấu của con ! ” [65, tr.

306]

Với lòng trân trọng mến yêu, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã phát hiện ở những con

người vốn bình dị, mộc mạc tấm tình thiết tha với quê hương xứ sở – một vẻ đẹp tinh túy của

tâm hồn. Chính lòng yêu nước kín đáo, thâm trầm ở Thạch Lam hay sôi nổi, bộc trực ở

Pauxtốpxki và cả yếu tố thời thế ở hai quốc gia Việt – Nga lúc bấy giờ, đã khúc xạ lên cái

nhìn và suy nghĩ của các nhân vật trong trang viết của hai ông. Nếu như các nhân vật của

Thạch Lam thường có sự gắn bó, gần gũi, yêu thương với cảnh sắc quê hương, nơi mình sinh

ra và lớn lên thì trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, con người lại có mối ràng buộc về mặt

tình cảm với những vùng đất khác lạ trên mọi nẻo đường của Tổ quốc, nơi mà mình vừa đặt

chân đến hay đi ngang qua. (Có lẽ Pauxtốpxki đã truyền “cảm hứng xê dịch” sang nhân vật

chăng ?!). Mặt khác, với các nhân vật của Pauxtốpxki, yêu nước còn đồng nghĩa với dấn

thân, chiến đấu với quân phát xít để bảo vệ từng tấc đất cho quê hương.

2.2.1.2. Tình cảm tránh nhiệm với gia đình

Tình cảm, trách nhiệm với gia đình là một trong những “hệ quy chiếu” nhân cách con

người. Cả Pauxtốpxki và Thạch Lam đều đặt con người vào “tọa độ gia đình” để soi rọi vẻ

đẹp tâm hồn, nhân cách của họ. Đây là những mối quan hệ phổ biến mà mỗi dân tộc trên thế

giới đều giữ gìn, vun đắp và phát huy.

Bức tranh gia đình trong các truyện ngắn của Pauxtốpxki tuy phần lớn có tính chất

“neo người” nhưng chúng luôn toát lên bầu không khí hòa thuận, yêu thương. Ở người mẹ

già nua, cô đơn làng Zaboriê chất chứa một tình thương con bao la, vị tha mặc dù cô con gái

của bà đã ba năm không trở về nhà: “Ngày nào bà cũng ngồi trên mép chiếc đi văng đã võng

xuống mà nghĩ đến nàng” (Bức điện) [65, tr. 335]. Khi bác Piốt ra trận, cậu con trai của bác

đã tiếp thêm sức mạnh cho cha bằng một món quà dễ thương – con bọ sừng. Trong cuộc

chiến khốc liệt, bác vẫn cố gắng nâng niu gìn giữ “báu vật nhỏ đó” như một biểu hiện tình

yêu dành cho đứa con trai. Từ mặt trận xa xôi, trung úy Nikôlai bày tỏ lòng kính yêu, quan

tâm, lo lắng cho cha qua bức thư dạt dào cảm xúc:“Cha yêu quý, thế là con đã nằm bệnh

viện được một tháng. Vết thương của con không nặng lắm. Nó đang lên da non. Xin cha

đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Con van cha đấy! Con luôn

nhớ đến cha, đến ngôi nhà của cha con ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu

mãi chân trời...” (Chú bọ sừng già) [65, tr. 277]. Người đầu bếp già Iôhan đến phút cuối

cuộc đời vẫn khắc khoải với mong muốn có người sẽ săn sóc cho cô con gái.

Qua những bức thư của người con viết cho cha hay cuộc đối thoại giữa các thành viên

trong gia đình, người đọc hiểu rõ hơn về tình cảm, trách nhiệm của con người Nga. Chẳng

hạn, bức thư của chú bé chăn bò gửi cho cha thật thắm thiết:

“Cha ạ! Đây là thư của con trai Alếchxây Kuđưsin gửi cho cha. Trong khi cha đang

đánh nhau ngoài mặt trận, ở nhà ta vẫn bình thường và đang đợi cha về. Mẹ đi chăn bò và

con thì giúp mẹ. Nhưng con lại muốn làm người chăn ngựa. Bởi vì chăn bò thì cứ phải loay

hoay với nó, không được nhìn thấy gì hết. Chăn ngựa thì còn có thể có công việc đi nơi này

nơi khác, còn chăn mấy con bò sữa thì chỉ biết độc mấy con đường, quanh đi quẩn lại hết

cánh đồng cỏ Gôrêlưi lại cánh rừng Litin. Ở đó chẳng có gì mà xem cho đã mắt. Mà con thì

lại muốn xem, muốn biết tất cả mọi thứ. Nếu mẹ mà cho đi thì con xuống ngay bè, bỏ làng ra

tận Xtalingrat với cha, nhưng mẹ lại không cho. Người ta bảo không có giấy thông hành thì

không được ra mặt trận. Ở đó, cha có thể nhận con vào, đi theo cha, để mang đạn hoặc làm

một việc gì khác trong đơn vị. Con có thể làm được những việc ấy lắm ...” [65, tr. 297].

Và đây là cuộc đối thoại giữa Tachiana và cô con gái Varia trong truyện Tuyết:

– Sao mẹ lại đụng vào đồ vật của người khác? Mẹ cấm con, còn mẹ thì lại đụng

vào đủ mọi thứ: nào chuông, nào nến, nào đàn. Mẹ lại đặt những bản nhạc của người

ta lên trên dương cầm nữa.

– Bởi vì mẹ là người lớn [65, tr. 279].

Hay cuộc đối thoại giữa cụ Kudơma cô cháu gái Varusa:

– “Này cháu ơi – ông già nói – cháu cứ như cái chong chóng, ra khỏi nhà quên

cả đóng cửa và gió nhẹ thổi ùa vào phòng. Thế là ông hết cả bệnh. Giờ ông ngồi hút

thuốc một lát, rồi cháu lấy cái rìu để ông chẻ ít củi, ta nhóm lò làm một mẻ bánh ăn

chơi

Varusa cười phá lên, vuốt mớ tóc bạc bù xù của ông và bảo:

– Cảm ơn chiếc nhẫn! Nó đã làm cho ông khỏe đấy ông ạ (Chiếc nhẫn bằng

thép) [65, tr. 353].

Quả thật, các thành viên trong gia đình gắn kết với nhau dựa trên tình cảm yêu

thương, gần gũi và thân mật. Bức tranh gia đình thường có “khoảng trống” của người

chồng, người cha, người con trai ra trận nhưng hình ảnh của họ vẫn hiện ra đậm nét qua tình

cảm của người ở lại.

Cũng như Pauxtốpxki, Thạch Lam cũng xây dựng các nhân vật trong mối quan hệ gia

đình với tình cảm nồng thắm yêu thương. Tình yêu thương của mẹ Lê dành cho mười một

đứa con thật cảm động. Trong tình cảm ưu ái người con thứ chín của mẹ có sự yêu thương

dành cho người chồng quá cố: “Bác thường bế nó lên lòng, hôn hít, rồi khoe với hàng xóm:

nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác ôm con ngồi lặng yên một lát, như

để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm” (Nhà mẹ Lê) [44, tr. 16]. Dưới bóng hoàng lan mang đến

cho người đọc niềm xúc động với tình bà cháu ấm áp. Người bà “gầy còng” lại là điểm tựa

cho đứa cháu trẻ trai và chính lòng yêu kính bà khiến Thanh thêm gắn bó và mến yêu ngôi

nhà ở chốn quê. Bóng người xưa là tình cảm vợ chồng keo sơn nồng thắm giữa Vân và người

vợ hiền sau những va chạm, lầm lẫn...

Nét riêng giữa không khí gia đình trong truyện Thạch Lam (so với truyện của

Pauxtốpxki) là lối xưng hô trang trọng, mực thước, đúng nghi lễ của nhân vật, phản ánh đúng

phận vị của họ trong gia đình. Chẳng hạn, cuộc đối thoại giữa Tâm và mẹ cô trong truyện

Cô hàng xén:

– “Tâm, con đã về đấy ư?

– Thưa u, vâng ạ!

– Sao về muộn thế, con?

– Thưa u, hôm nay con ngồi chợ Son ạ” [44, tr. 212].

Hay cuộc đối thoại giữa anh con trai và bà cụ ở truyện Trở về:

– “Con đã về đấy ư?

– Vâng, chính tôi đây; bà vẫn được mạnh khỏe đấy chứ?

– Bà ở đây có một mình thôi à?

– Vẫn có con Trinh ở đây với tôi.

[...] Cô Trinh nào? Có phải cô Trinh con bác cả không? [44, tr. 23]

Lối xưng hô ấy cho thấy người Việt rất chú trọng nghi lễ, đặc biệt là thứ bậc, vai vế

trong các mối quan hệ xã hội, kể cả mối quan hệ trong gia đình.

Trong mối quan hệ với gia đình, bên cạnh khía cạnh tình cảm, các nhân vật trong

truyện Thạch Lam, điển hình là người phụ nữ, còn được xã hội đặt trong những bổn phận,

trách nhiệm và chính điều ấy làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là những con người

chịu thương chịu khó, tần tảo, giàu đức hi sinh với vẻ đẹp truyền thống tồn tại từ ngàn đời.

Họ là mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), Tâm (Cô hàng xén), Mai (Bóng người xưa), Liên (Một đời người),

chị Tý (Hai đứa trẻ)... Những người phụ nữ này tuy khác nhau về cảnh ngộ nhưng đều gặp

nhau ở vẻ đẹp tâm hồn và đặc biệt là sự ý thức về bổn phận, trách nhiệm của mình. Mẹ Lê

đầu tắt mặt tối, quanh năm làm thuê làm mướn để nuôi mười một người con. Không đành

lòng để con nhịn đói, mẹ đành liều vào nhà lão phú hộ trong làng xin gạo và bị chó cắn dẫn

đến cái chết thảm thương. Cô Tâm lúc ở nhà chăm chỉ buôn bán để phụng dưỡng cha mẹ,

chăm sóc các em, khi lấy chồng cô vẫn tần tảo với gánh hàng xén để vừa đảm đương công

việc nhà chồng, vừa có đồng “để ra” phụ nuôi các em ăn học. Mai luôn chu toàn bổn phận

người vợ hiền mặc dầu không ít lần nàng bị chồng đối xử tệ bạc. Tuy bị mẹ chồng và cả

người chồng vũ phu ngược đãi, Liên vẫn cam chịu ở lại ngôi nhà tựa “ngục thất chốn trần

gian” để làm tròn bổn phận, trách nhiệm của người vợ, người mẹ, bởi vì nàng không đành

lòng bỏ chồng con để “được sung sướng riêng lấy mình nàng” [44, tr. 66]. Chị Tý chịu

thương chịu khó, chắt chiu từng đồng một để nuôi con. Ban ngày chị lặn lội mò cua bắt tép,

tối đến chị lại dọn hàng nước, dù “chẳng kiếm được bao nhiêu” nhưng “chiều nào chị cũng

dọn hàng từ chập tối cho đến đêm” [44, tr. 151]... Những người phụ nữ chân chất, giản dị ấy

là nguồn sáng cho bức tranh gia đình. Đẹp trong những lo toan, bận bịu hằng ngày. Như cây

tre đã qua nhiều phong ba bão táp, những người phụ nữ này luôn nhẫn nại, bền bỉ để đương

đầu với giông gió cuộc đời.

2.2.1.3.Tình người cao cả nồng đượm

“Tình người” mà chúng tôi đề cập ở đây là cái tình của con người đối với tha nhân,

với đồng loại. Có thể nói, truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki là mảnh đất màu mỡ,

nơi những hạt giống tâm hồn được ươm gieo và nảy nở đóa hoa của lòng tốt vô biên.

Ở truyện ngắn của Thạch Lam, người đọc bắt gặp tình cảm ấm áp giữa những người

lao động nghèo. Chính tình cảm mộc mạc mà đáng quý vô ngần ấy tựa như những ngọn nến

trong đêm thắp sáng hay chí ít cũng góp phần soi rọi cho những cảnh đời, số phận tăm tối

vốn buồn nhiều hơn vui. Đó là sự san sẻ giúp đỡ nhau trong cơn túng quẫn theo tinh thần “lá

rách gói lá rách hơn” bởi họ cùng phận nghèo như nhau. Thật cảm động biết bao trước nghĩa

cử của người nghèo ở xóm ngụ cư với mẹ Lê: “Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho

bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ ở đầu làng”

(Nhà mẹ Lê) [44, tr. 19]. Hành động ấy tương phản hoàn toàn với thái độ độc ác, ghẻ lạnh

của “nhà ông Bá” giàu có bậc nhất trong xóm. Đôi khi cái tình người biểu hiện đơn thuần là

những câu hỏi han, chào thăm thông thường mà nồng ấm, thân thương. Chẳng hạn cuộc trò

chuyện giữa Liên và chị Tý:

– “Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?

– Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.

– Còn cô chưa dọn hàng à?” (Hai đứa trẻ) [44, tr. 150]

Hay câu nói đùa hóm hỉnh của bác Đối về đàn con đông đúc mười một đứa của nhà mẹ Lê:

– “Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất”. (Nhà mẹ Lê) ( [44,

tr. 15]

Bên cạnh đó, sự cảm thông, chia sẻ giữa những người trí thức nghèo cũng thật sâu sắc.

Trước hoàn cảnh bất hạnh của người bạn học, Bình cảm thấy đồng cảm, xót xa. Anh quan

tâm, lo lắng, san sẻ cho Bào dù chỉ là vài hào vì khả năng tài chính của anh rất hạn chế. Bình

cũng đau đớn, xót xa, “nghẹn ngào như muốn khóc” khi hồi tưởng anh bạn trẻ nay đã thành

“người quá cố” (Người bạn trẻ). Nhân vật tôi xót thương cho Minh, một người bạn gặp tai

nạn, bị què chân, phải chịu đựng “vết thương ngoài hình thể và trong tâm hồn” (Cái chân

què) [44, tr. 51]. Hơn nữa, tình người trong truyện ngắn của Thạch Lam được mở rộng biên

độ về mọi phía. Nó gắn liền với sự đồng cảm, yêu thương nhân loại. Người lính cũ bệnh tật

với cuộc đời lắm thăng trầm đã nhận được sự chia sẻ, cảm thông: “Chúng tôi đi yên lặng

nghĩ đến người lính khốn nạn kia, bây giờ lại đắp manh chiếu rách không đủ che thân, nằm

nhớ lại những lúc khoác tay vợ đầm bước vào tiệm nhiều ánh sáng, tận bên kia Trái Đất.

Những kỉ niệm sung sướng ấy đối với anh ta chua xót biết bao” (Người lính cũ) [44, tr. 73].

Ngay cả người đầm, người đàn bà phương Tây cũng được đón nhận với cái nhìn khách quan

trìu mến. Cảm phục trước thái độ cư xử lịch thiệp của bà, nhân vật “tôi” đã: “tự nhiên đem

lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn

lây” [44, tr. 148]. Điều đáng quý nữa trong tình người mà Thạch Lam khai thác là tấm lòng

thơm thảo của con trẻ. Đó là những tình cảm trong trẻo, hồn nhiên mà đáng quý vô ngần.

Tấm lòng nhân ái đột khởi từ tâm hồn thơ trẻ được dưỡng nuôi, vun đắp từ truyền thống gia

đình và cội nguồn văn hóa dân tộc. Trong Hai đứa trẻ, cảnh ngộ của những đứa trẻ ở xóm

chợ lay động lòng trắc ẩn ở Liên: “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên

mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất kì cái gì có thể dùng

được của các người bán hàng để lại. Liên trông thấy động lòng hơn nhưng chính chị lại

không có tiền mà cho chúng nó” [44, tr. 150]. Ánh mắt dõi theo, cảm xúc dâng lên trong

lòng nén tiếng thở dài bất lực đã phác họa một người con gái nhân hậu và nhạy cảm. Ở Tiếng

chim kêu, vào một đêm mưa bão, hai anh em cậu bé được ở trong căn nhà gạch yên ấm lại

đem lòng ái ngại cho những người nhà nghèo bên hàng xóm hay người lữ khách đêm khuya.

Trong Gió lạnh đầu mùa, lòng người chợt ấm lại trước tình cảm của chị em Sơn dành cho

những đứa trẻ nghèo xóm chợ, đặc biệt là với Hiên – một cô bé “co ro”, “chỉ mặc có manh

áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay” [44, tr. 92]. Với tất cả sự hồn nhiên trẻ thơ, Sơn đã đề nghị

chị Lan chạy về lấy áo cho Liên. Tất cả xuất phát từ lòng thương người thơm thảo: “Sơn

thấy động lòng thương cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn

chơi cũng với Hiên, đùa nghịch ở vườn nhà” [44, tr. 92]. Và chính lòng tốt ấy đã đem lại cho

Sơn phần thưởng xứng đáng: “Trong lòng thấy ấm áp, vui vui” [44, tr. 92]. Lòng tốt của đứa

trẻ ấy đã “lây lan” sang người lớn, mẹ Sơn sau khi biết chuyện đã cho mẹ Hiên mượn tiền

mua áo và ngợi khen hai con.

Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki đã đưa vào truyện ngắn của mình khúc ca về tình

người cao cả. Dù chưa một lần gặp gỡ hoặc chỉ gặp nhau trong khoảnh khắc thì trong giây

phút hạnh ngộ, những nhân vật của Pauxtốpxki vẫn đối đãi với nhau bằng tất cả tấm lòng.

Bởi vậy, tình người đã trở thành điểm khởi đầu của nhiều mối quan hệ, đặc biệt là tình yêu.

Ở chuyện Tuyết, Tachiana đã đón Nikôlai trong bầu không khí gia đình ấm cúng, hạnh phúc,

một món quà ý nghĩa bất ngờ mà nàng nỗ lực tạo dựng theo ước nguyện của anh. Khi nhận

được bức thư Nikôlai viết dọc đường, nàng lựa chọn cách ứng xử vì hạnh phúc của anh và

cũng là của chính bản thân mình: “Trời, mình có ở Krưm bao giờ đâu? Chưa bao giờ!

Nhưng lúc này cái đó có gì là quan trọng? Và để cho anh ấy tuyệt vọng làm gì? Và cả mình

nữa...” [65, tr. 284]. Gió biển cũng là một câu chuyện ấm áp về tình người. Người thiếu phụ

từng làm y tá ở Xêvaxtôpôn đã dựa vào địa chỉ mà anh lính thủy ghi trong vỏ bao thuốc lá để

viết thư cho người con gái anh quen, báo tin anh bị thương. Có lẽ vì muốn anh có sự quan

tâm, an ủi, sự nâng đỡ về mặt tinh thần mà cô đã mạnh dạn làm một việc mạo muội như

vậy!? Dù kết quả ngoài ý muốn nhưng anh lính thủy cảm thấy: “tất cả những cái đó thật kì

lạ. Và thật là tốt đẹp...” [65, tr. 291]. Nghĩa cử của chị đã cho cả hai một cơ hội để sau bao

nhiêu năm gặp lại, anh nhận ra chị, cảm phục và mến yêu.

Với trái tim nhân hậu, bao dung, với phương châm sống là để yêu thương, các nhân

vật trong truyện ngắn của Pauxtốpxki không kể tuổi tác, nghề nghiệp, luôn nỗ lực mang đến

niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Và trong niềm vui của tha nhân, họ cảm thấy dường

như đã được an ủi, thỏa mãn. Thấu hiểu tình thế khó khăn, khổ tâm của ca sĩ Xônxeva, anh

thợ lò Vaxia Tsukhốp đã tự ý hạ màn trong khi buổi biễu diễn mới bắt đầu, “bất chấp tiếng

kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo” và “người phụ trách nhà hát mặt tái đi vì tức giận” (Âm

nhạc Vécđi) [65, tr. 242]. Giọt nước mắt và tiếng hát run run của Xônxeva đã lay động

Vaxia, khiến anh hành động theo lí lẽ của lòng nhân ái. Anh báo cáo việc này với chỉ huy tàu

và nhận được sự đồng thuận từ ông. Viên chỉ huy – vị tư lệnh trưởng – đã kiên quyết hủy

buổi biểu diễn và thu xếp chuyến đi cho Xônxeva để cô có thể ở bên cậu em trai trước giờ

chú bé bước vào cuộc phẫu thuật quan trọng. Lòng nhân ái của vị tư lệnh đã lan truyền sang

các chiến sĩ hải quân đỏ và họ đã hành động vì tình người: “Mọi người đứng cả dậy. Vị tư

lệnh không kịp nói vở kịch sẽ hoãn lại đến một thời gian tốt đẹp hơn. Điều đó các chiến sĩ

đều hiểu, không cần lời giải thích của chỉ huy” [65, tr. 243]. Đúng như ý nghĩ của vị tư lệnh

hải quân nhân hậu: “Không có gì làm cho tài năng nảy nở bằng tình bạn và sự quan tâm

giản dị của những người đồng chí” [65, tr. 245], tiếng hát của Xônxeva trong lần biểu diễn

sau đó như được chắp thêm đôi cánh, bay bổng trên vùng biển bao la.

Ở Bức điện, những việc ông lão Tikhôn làm cho bà Katêrina thật cảm động. Lão “săn

sóc bà một cách vô tư”, giúp bà những công việc vặt trong nhà và hỏi thăm về cô con gái xa

nhà. Vì mong mỏi bà Katêrina được gặp cô con gái duy nhất trong giờ phút lâm chung, lão

đã gửi điện báo tin cho cô gái, thậm chí lão còn “bịa chuyện” để an ủi bà. Chắc rằng trong

quãng đời cô đơn về già của bà Katêrina sẽ bớt đi phần nào hiu quạnh khi có người hàng

xóm tốt bụng như lão Tikhôn. Tương tự, ông lão Êgô trong Trái tim nhút nhát cũng là một

người bạn rất mực tốt bụng. Ông cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ bà Vacvara, nhất là thời

điểm bà phải chứng kiến cái chết của đứa cháu trai, người thân duy nhất và cũng là điểm tựa

của đời bà.

Xem việc mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác là nguyên tắc sống, các

nhân vật trong truyện ngắn của Pauxtốpxki sẵn sàng “sống là cho” bởi họ luôn ý thức “cho”

tức là đang “nhận”. Tựa như khi trao cho người khác một một đóa hoa mà hương thơm của

nó còn đọng lại mãi trong tâm hồn người đem cho, các nhân vật của Pauxtốpxki vui sướng

dành cho nhau những món quà – tặng phẩm của tình yêu thương. Có những món quà hữu

hình như bông hồng vàng mà Samét chắt chiu dành cho Xuyzan; con matriôska mà người

ngoại quốc trao cho cô bé người Ý (Đám đông trên đại lộ bờ biển); chú bọ sừng cậu bé

Xtêpa tặng cho người bố khi ông ra trận (Cuộc phiêu lưu của bọ sừng); Chiếc nhẫn bằng

thép Varusa được nhận từ người lính thủy (Chiếc nhẫn bằng thép)... Bên cạnh đó, có những

món quà vô hình mà người nhận phải dùng cả trái tim, tâm hồn để thụ cảm: bản nhạc Môda

tặng người đầu bếp Iôhan Mâye trước lúc ông qua đời (Người đầu bếp già), bản tình ca mà

nhạc sĩ Êđua Griđơ dành riêng cho Đanhi năm cô mười tám tuổi (Lẵng quả thông); cảm giác

bình yên ấm cúng mà Tachiana mang lại cho Nikôlai (Tuyết). Với mô típ những món quà,

truyện của Pauxtốpxki đã mở ra một bầu không khí cổ tích nhiệm màu. Ở đó, con người

được trân trọng, nâng niu, yêu quý, đặc biệt là trẻ thơ – những mầm non cuộc sống. Các tặng

vật trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, vì thế nó vượt lên trên ý nghĩa vật chất thông thường,

nó là biểu tượng của tình người. Nó được kết tinh từ tình cảm hồn hậu, trong sáng, cao quý

vô ngần mà con người hào phóng dành cho nhau. Rõ ràng, cuộc sống của mỗi người đẹp và

có ý nghĩa hơn sau khi nhận được quà tặng. Chẳng hạn, Nikôlai cảm thấy ấm lòng biết bao

khi trở về thăm nhà dù người cha của anh không còn nữa. Chính “cô tiên” Tachiana đã mang

đến cho anh những khoảnh khắc như mơ giữa cuộc đời thực. Cả Tachiana cũng ngập tràn

niềm vui khi bắt tay làm việc tốt: “Má ửng hồng, cười nói ầm ĩ, mắt quầng tâm vì xúc động”

[65, tr. 278], “Mặt nàng tươi hẳn lên vì nom nàng giống cái cô thiếu nữ tóc vàng đã đánh rơi

chiếc hài pha lê trong cung vua nhiều hơn” [65, tr. 279]. Trong Chiếc nhẫn bằng thép, cô bé

Varusa tin vào điều kì diệu của chiếc nhẫn và điều đó đã mang lại cho em niềm vui lớn:

“Varusa cười rộ vang cả khu rừng và chạy về nhà. Và một niềm vui lớn – lớn đến không thể

ôm xuể được – rộn ràng reo vui trong ngực em” [65, tr. 354]. Món quà bằng âm nhạc mà

nhạc sĩ vĩ đại Êđua Grigơ dành tặng Đanhi đã khiến em bật khóc, nhưng đó là những giọt

nước mắt biết ơn, là cảm giác hạnh phúc tột cùng khi “thấy cái tuyệt mỹ”. Và cuộc đời của

cô gái với niềm hạnh phúc vô biên sẽ “không qua đi vô ích”.

Không chỉ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người nhận, món quà còn có quyền

năng vĩ đại, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Cụ Iôhan Mâye đã ra đi thanh thản,

sung sướng bởi tiếng đàn của nhạc sĩ thiên tài Môza đã đưa cụ về với một chân trời hoài

niệm, sống với những kỉ niệm tươi đẹp tuổi đôi mươi, gặp lại người yêu dấu. Tiếng đàn có

một sức mạnh phi thường: “đêm đang đen bỗng thành màu lam nhạt, rồi lại thành màu da

trời và ánh sáng ấm áp đã từ một nơi nào trên cao kia chiếu xuống. Trên những cành khô

của cây cối vườn cội, những bông hoa trắng đang nở [...] tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức

tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó, hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ẩm ướt

nước tuyết tan đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi và

từng đàn chim đang bay trên thành Viên cổ kính của chúng ta về phương bắc” [65, tr. 376].

Quả thật, những món quà đã làm cho tâm hồn con người rộng mở, ngập tràn niềm vui

bởi nó được bao bọc trong bầu khí quyển của lòng nhân ái.

Tóm lại, con người trong các mối quan hệ với đất nước, gia đình, cộng đồng là những

“kênh” chân xác để nhìn nhận về vẻ đẹp của con người thời hiện đại. Từng mô thức ứng xử

cuả họ trong các mối quan hệ cụ thể trên không phải là con đẻ cuả kinh nghiệm cá nhân, hay

kinh nghiệm của riêng một thế hệ. Nó được truyền đạt từ thế hệ trước sang thế hệ sau, cứ thế

mà được giữ gìn qua thời gian lâu dài theo cơ chế tinh lọc. Vì vậy nó mở ra cánh cửa để

khám phá con người và nền văn hóa ở từng vùng, miền, quốc gia, sắc tộc khác nhau.

Văn hóa vốn là một hiện tượng vừa phổ biến vừa mang tính cá biệt. Nó phổ biến với

tính chất ở đâu, con người cũng được xem xét trong “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, cách

ứng xử của anh ta “xuất phát từ một hệ thống những nguyên lý trừu tượng của cái thế giới ý

niệm mà anh ta tiếp nhận một cách gần như tự nhiên” [90, tr. 97]. Tuy vậy, “cá biệt” vẫn là

một thuộc tính đậm nét. Mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc có sự lựa chọn riêng, biểu hiện

thành lối sống, khí chất riêng làm nên cái “bản sắc” của mình. Nước Nga và Việt Nam có

khoảng cách xa về mặt địa lý, hai gương mặt văn hóa phương Tây – phương Đông, có dáng

vẻ, hình hài riêng nhưng giữa chúng lại có nhiều nét gần gũi, tương đồng. Văn hóa Việt Nam

chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương Đông còn văn hóa Nga có nền tảng là tư

tưởng triết học phương Tây. Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông Tây là tĩnh, ổn định

đối nghịch với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết

học chặt chẽ thống nhất thành hệ thống của Tây. Theo thống kê, triết học phương Tây thiên

về hướng ngoại, chủ động, tư duy lí luận, đấu tranh sống còn, cạnh tranh, chú ý nhiều đến

thực thể... Trong khi đó khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động,

trực giác huyền bí, hòa hợp, chú ý nhiều tới quan hệ... Trong quá trình tiếp nhận văn hóa, có

thể nói nguồn mạch linh hồn của Việt Nam chính là gốc rễ văn hóa bản địa kết hợp với văn

hóa Trung Quốc và Ấn Độ, tiếp thu có chọn lọc tinh duy linh của Ấn Độ, tính duy lý của

Trung Quốc nhưng văn hóa Việt Nam lại thiên về duy tình. Quả thật cái tinh hoa trong cốt

cách của người Việt chính là tấm lòng nhân ái, vị tha. Vốn bắt rễ từ mạch nguồn văn hóa dân

tộc Việt, những truyện ngắn của Thạch Lam nồng đượm hương vị tình người. Đây cũng là

chỗ gặp gỡ thú vị về vẻ đẹp tâm hồn con người giữa truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn

Pauxtốpxki. Người đọc bắt gặp ở trang viết của Pauxtốpxki những tâm hồn Nga đồng điệu,

những con người vừa khác lạ, mới mẻ, lại vừa rất quen thuộc như chính mình vậy. Là nước

có diện tích lớn nhất thế giới, trải dài từ Âu sang Á, với tôn giáo chính là Nga chính thống

nên nền văn hóa Nga có nhiều điểm giao thoa với văn hóa phương Đông, trong đó có Việt

Nam. Đi tìm nét đẹp tâm hồn ẩn giấu trong những con người dung dị, đời thường, Thạch

Lam và Pauxtốpxki đã thực hiện một cuộc hành trình “về nguồn”, chắt chiu từng mảy bụi

vàng để gặt hái những vụ mùa trĩu hạt.

2.2. ... Trong thiên nhiên làng quê, tỉnh lị

Truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki đã tái hiện chân thực gương mặt thiên

nhiên với nét “duyên” riêng của cảnh sắc làng quê, tỉnh lẻ. Người đọc bắt gặp trong văn

Thạch Lam những bức tranh làng cảnh Việt Nam: cảnh phố huyện miền hạ du, cảnh vùng

đồi trung du…; tập hợp những mùi vị quen thuộc của nông thôn Việt Nam: mùi rác bẩn, mùi

cát, mùi đất, mùi ẩm, mùi rác đốt, mùi lá tươi non phảng phất trong không khí, mùi bèo dưới

ao, mùi rạ ướt…; “những mảnh ruộng mạ non như nhung”, “những thửa ruộng nước sáng

lên như tấm gương”, những sân sắn, vườn chè, thềm gạch, gốc cau, sân đình, cây đa…

Trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, người đọc bắt gặp những mùi vị rất đặc trưng của thiên

nhiên, làng mạc Nga: mùi thìa là, mùi cát ướt, hơi lạnh của đêm khuya, mùi vỏ cây, mùi hắc

ín, hương những cây keo khô bị bắn gãy, mùi mái sắt ướt, mùi khói bạch dương thoang

thoảng, mùi bánh mì, mùi thuốc và ngải cứu, mùi hoa đoạn ngọt ngào… Khung cảnh vùng

thảo nguyên, bình nguyên, vùng biển với những tỉnh lị Nga xa xôi, những cánh đồng, bến

phà, khu rừng bạch dương trắng bạc… tất cả hiện lên sống động, xôn xao trên trang viết của

Pauxtốpxki.

Mặt khác, Pauxtốpxki đã nắm bắt và tạo dựng đúng cái “thần thái” của tỉnh lị Nga với

nét đìu hiu, tĩnh lặng, đẹp mà buồn. Nơi đó, “từ sáng sớm đến lặn mặt trời, lũ quạ kêu quàng

quạc, bay thành từng đám mây đen trên những ngọn cây trần trụi, báo hiệu trời xấu” [65, tr.

275], hay “ngày trắng ra và bầu trời khô khan, sáng nhưng xám, như có ai căng ở trên đầu

một mảnh vải gai giặt sạch, cứng đơ vì băng giá” [65, tr. 346]. Bức tranh tỉnh lị có nét dịu

dàng tiết trời vào thu, cái khắc nghiệt của mùa đông tuyết trắng, cái dữ dội của những cơn

gió nóng vùng Trung Nga. Những ngôi nhà bé nhỏ, những cánh cửa hàng rào kêu ken két,

những buổi tối vắng lặng, những đêm mưa bụi, con đường rộng bò lên núi, chiếc xe chở rơm

trên những chuyến phà, cánh đồng quê bát ngát hương hoa, một đại dương vô tận lúa mì…

Những nét chấm phá đó đã tái tạo nên gương mặt thiên nhiên làng mạc Nga thật nên thơ,

quyến rũ. Riêng cái chất u buồn, trầm lắng của các tỉnh lị, tự thân nó đã mang một vẻ đẹp rất

Nga. Thơ Êxênin từng nhắc đến vẻ đẹp trong sáng mà đượm buồn đó:

“Ôi nước Nga, cánh đồng màu thắm đỏ

Và màu xanh ngả xuống những dòng sông

Tôi yêu đến sướng vui và đau khổ

Nỗi buồn thương hồ nước trải mênh mông” 1

Bước vào những trang văn của Pauxtốpxki, người đọc bắt gặp một thế giới của tuyết

trắng. Có thể nói, Pauxtốpxki đã mở ra trong truyện ngắn của mình cả một bảo tàng về tuyết.

Tuyết có mặt ở khắp mọi nơi: tuyết trên nóc toa chở hàng (Âm nhạc Vécđi), tuyết chảy trên

mõm ngựa nóng hổi (Suối cá hương), tuyết rắc trên các đỉnh núi (Cầu vồng trắng), tuyết tan

trên mặt người hòa lẫn với nước mắt (Bức điện), tuyết thành những giải trắng rũ rượi sà

xuống trên mặt biển (Chữ đề trên tảng phiêu nham)… Tuyết tồn tại dưới nhiều trạng thái:

tuyết ướt, tuyết già, tuyết khô, tuyết tan thành giọt…; màu sắc: “tuyết trắng xóa cả bình

nguyên” (Bình nguyên tuyết phủ), “tuyết trên núi Kalimangiarô cũng nhuốm màu xanh chàm

của nó (Nghiên cứu bản đồ địa lí), “tuyết giống như bạc xỉn trải dài trên những cánh đồng

bên ngoài thành phố” (Gió Xôrănggiơ), “tuyết trong rừng đen lại” (Chiếc nhẫn bằng

thép)…; kích thước: “những đám tuyết dày”, “đêm Châu Á vun tuyết thành đống giữa các

toa xe”, “những bãi tuyết và những khu vườn cứng lạnh” (Cầu vồng trắng), “mưa tuyết rơi

chậm rãi” (Suối cá hương), “bụi tuyết còn quay cuồng trong không khí”, “gió tuyết rơi mù

mịt”, “bão tuyết quay cuồng trên những mái nhà” (Chiếc nhẫn bằng thép), “qua bức màn

tuyết còn nghe tiếng sóng ầm ầm” (Ông lão trong quán điểm tâm ngoài ga)…Tuyết xuất

hiện với dáng vẻ, tư thế thật đa dạng: “từ những ngọn thông vòi vọi, tuyết không ngừng bay

xuống như những món tóc dài và tan ra thành bụi” (Chữ đề trên tảng phiêu nham), “tuyết

phủ đầy trên các cành cây cổ thụ, trên hàng rào và cả đường dây điện thoại” (Cầu vồng

trắng), “tuyết rơi lao xao trượt từ trên mái nhà xuống” (Chiếc nhẫn bằng thép), “những

bông tuyết bay chênh chếch cố bám lấy ngọn cây” (Lẵng quả thông); lúc dữ dội: “bay tung

làm mờ cả mắt”, “quay cuồng trên các mái nhà”; lúc u buồn: “hương tuyết buồn thảm, thứ

không khí buồn và nhẹ như hương mộc lan”; lúc huyền ảo: “tuyết bồng bềnh”, “tuyết rơi

êm ả”, “tuyết lấp lánh một cách huyền ảo trong ánh sáng của những vì sao lung linh”; lúc

đẹp rực rỡ: “những bông hoa điểm tuyết trắng rung rinh chào đón bình minh”, “đường phố

to rộng sáng chói như được xé từ những đống tuyết lấp lánh muôn vàn hình sao tuyết”… Cái

lạnh giá, khắc nghiệt của tuyết không thể làm đông cứng tình yêu của con người dành cho

nó, cho vẻ đẹp của sự thanh sạch, tinh khôi (Thậm chí họ còn “thèm được người ta vùi vào

tuyết” (Gió biển) [65, tr. 286]). Đây là vẻ đẹp đặc trưng của Nga, được chuyển tải vào trang

1 Thơ Êxênin, sách Ngữ Văn 12, tập 2, chỉnh lí hợp nhất 2000.

văn của Pauxtốpxki với một sự đam mê xen lẫn tự hào.

Cùng với tuyết, hình ảnh của biển và những cánh rừng bạch dương cũng xuất hiện với

tần số cao trong các truyện ngắn của Pauxtốpxki. Biển xuất hiện trong 11 truyện ngắn với

nhiều dạng vẻ: “Biển xám, lạnh và yên tĩnh. Bờ biển ngập trong bóng tối màu tro” [65, tr.

40]; “Nước biển bao la đang dần xanh lên màu da trời nhợt nhạt” [65, tr. 44]; “Đại dương

đẩy những bọt sóng dài lên bãi cát. Năm qua tháng lại sóng ầm ĩ không mỏi” [65, tr. 60];

“Hắc Hải lấp lánh bốc khói. Biển đuổi vào bờ hàng ngàn con sóng bạc đầu nho nhỏ” [65, tr.

70 ]… Ở mọi góc nhìn, mọi thời điểm trong ngày, biển đều có nét đẹp riêng: “Bình minh

mang đến màu đồng ảm đạm cho sóng” [65, tr. 368]; “trên vùng biển trời lặng gió, sương

chiều tỏa mờ” [65, tr. 239]; chân trời biển cả tuy đã về đêm vẫn sáng đến hàng chục hải lí

như hoàng hôn vừa đổ xuống” [65, tr. 245]. Biển là một sinh thể có hồn được con người kí

thác bao niềm nỗi: “Biển Bantich mùa đông hoang vắng và sầu tư [65, tr. 200]; “Hắc Hải

ầm ì một cách buồn thảm”[65, tr. 250]; “Bantich gầm thét trong phong ba và sủi lên bọt

sóng lạnh giá như trong vạc dầu của quỷ sứ” [65, tr. 23] , “đại dương nổ tung và lay chuyển

mọi bến bờ” [65, tr. 358]… Khám phá vẻ đẹp của biển, Pauxtốpxki đã có dịp bày tỏ tình yêu

lớn của mình với một “người bạn” mà ông yêu thích từ thủa bé. Trong một chuyến theo cha

đến Nôvôrôsiích vào mùa xuân, cậu bé Pauxtốpxki đã bị biển mê hoặc: “Từ xa tôi có cảm

giác biển giống như một bức tường màu xanh lơ. Hồi lâu tôi không đoán ra đó là cái gì. Lát

sau, tôi thấy một cái vịnh màu lục, một ngọn đèn biển, tôi nghe thấy tiếng ầm ầm của một

con đập chắn sóng và biển cả đi vào tâm hồn tôi như một giấc mơ kì diệu, rất đẹp nhưng

huyền ảo” [66, tr. 47]. Mặt khác, biển đã gắn liền với tâm thức của người Nga. Với diện tích

lớn nhất thế giới, Nga có 2/3 đường biên giới là hải giới, phía Bắc và Đông tiếp giáp với hai

đại dương là Bắc Băng dương và Thái Bình Dương, tiếp giáp với nhiều biển trong đó có hai

biển nội địa là Hắc Hải và Lí Hải. Tâm hồn Nga luôn hướng đến cái rộng lớn, khoáng đạt.

Thiên nhiên trong truyện ngắn Thạch Lam là những bức tranh của làng cảnh Việt

Nam. Theo thống kê, có 18/33 truyện ngắn của Thạch Lam có sự xuất hiện của hình ảnh

đồng ruộng. Đây là nét nổi bật của một đất nước nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cảnh:

“ruộng mạ non phớt theo chiều gió” [44, tr. 114]; “Cánh đồng lúa xanh rờn hiện ra trước

mắt” [44, tr. 137]; “Cánh đồng lúa chín vàng dưới mặt trời buổi trưa. Từng chỗ, ở thửa

ruộng nào đã gặt rồi, gốc rạ lấp lánh như giọt bạc” [44, tr. 98]; “Trên quãng đồng rộng,

cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng dâng hương thơm ngát” [44, tr. 196]… Gương

mặt mùa đông Việt Nam với đầy đủ dáng nét khắc khổ (mưa phùn, gió bấc, cái rét cắt da…),

khi bước vào trang văn Thạch Lam, nó lấp lánh vẻ đẹp của chất thực hòa quyện trong chất

thơ.

Ngoài ra, bức tranh thiên nhiên trong truyện ngắn của Thạch Lam tăng thêm nét duyên

dáng bởi sự góp mặt của cây tre Việt Nam. Nếu như người Nga có niềm kiêu hãnh về xứ sở

bạch dương của mình thì người Việt cũng tự hào về cây tre, loài cây tượng trưng cho cốt

cách dân tộc. Trong trang viết của Thạch Lam, tre là một nét chấm phá cho khung cảnh làng

phố, gợi vẻ đẹp gần gũi, thân quen: “Một cái cảm giác mát lạnh bỗng trùm lên hai vai: Tâm

ngẩng đầu lên nhìn; chàng vừa đi vào dưới vòm tre xanh trong ngõ” [44, tr. 22]; “Dãy tre

làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” [44, tr. 149]; “Chàng nhìn trăng qua

cành lá tre, cành lá sắc và đen như mực vắt qua mặt trăng, như một bức tranh Tàu” [44, tr.

196]. “Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và cô

nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két” [44, tr. 210], “Cái vòng đen của rặng tre

làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc” [44, tr. 225]…

Với nhãn quan của một họa sĩ, nhạc sĩ bậc thầy, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đã phát

hiện ở phố huyện, tỉnh lị đìu hiu vẻ thi vị, quyến rũ và chuyển tải vẻ đẹp đó vào trang văn

của mình với những bức tranh thiên nhiên chân thực, sống động bằng ngôn từ, có sự hòa

phối nhuần nhụy giữa thanh âm và hương sắc. Cảnh sống động, quyến rũ, có hồn bởi nó

được kí thác tâm hồn con người.

Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, không gian tĩnh mịch của tỉnh lị vào thời khắc “nửa

đêm” với bến vắng, mưa bụi, sương mù đã khơi gợi ở Kuzmin cảm giác cô đơn, lẻ loi xen

lẫn niềm yêu mến. Đặc biệt, đêm tối và tiếng mưa rơi trong những bụi cây đã trở thành

“người đệm đàn” cho những cung bậc tình cảm xôn xao trong lòng chàng và người thiếu phụ

Onga. Mưa trong bình minh, “bầu trời sũng nước đã rạng xanh bên kia sông”, “mùi cát ướt,

hơi lạnh của đêm khuya” (Bình minh mưa) [65, tr. 321], khu vườn xao động khi gió kéo

qua… tất cả đã dệt nên một bầu không khí lãng mạn và dịu êm bao bọc lấy Kuzmin và Onga

trong cuộc chia tay đầy nuối tiếc. Một bức tranh giao thoa tối, sáng với cảnh vật thơ mộng,

nhuốm màu kì ảo và tiếng mưa rơi tựa bản nhạc không lời đã làm nổi bật một tình yêu lặng

lẽ mà dư ba. Cũng vào ban đêm, sương mù, không khí tươi mát với mùi lá liễu dịu ngọt đã

khơi gợi những xúc cảm mới mẻ ở cô sinh viên vừa tốt nghiệp: “Masa có cảm tưởng như

con tàu không rõ vì sao bỗng dưng mọc lên giữa mặt đất, giữa những bụi cây rậm rạp” (Cây

tường vi) [65, tr. 247]. Bản hợp xướng của tiếng hót chim họa mi, tiếng cá quẫy, tiếng tù và

mục đồng là khúc nhạc nền cho cảnh gặp gỡ tình cờ, thú vị giữa Masa và anh phi công. Bức

tranh cánh đồng quê rực rỡ, sống động thật hòa hợp với tâm trạng vui tươi, háo hức khám

phá điều mới mẻ ở họ. Những màu sắc được hòa phối khéo léo, tạo thành một bức tranh

tuyệt mĩ của vùng thảo nguyên. Ở đó, Pauxtốpxki như nhà họa sĩ tài hoa đã nắm bắt được cái

hồn của hoa cỏ và tạo nên những tuyệt tác của thiên nhiên:

“Hai bên đường, những cây tường vi mọc cao lút thành một bức tường dựng đứng. Hoa

tường vi nở còn ướt át, đỏ rực như những ngọn lửa, đến nỗi những tia nắng nằm trên vùng lá

bên những bông hoa tường vi cũng trở nên lạnh lẽo và nhợt nhạt hơn. Tưởng như những đóa

hoa tường vi đó đã vĩnh viễn đứt lìa khỏi những cành đầy gai góc và lơ lửng trên không như

những ngọn lửa nhỏ rực rỡ.

[…] Từng quãng một, những bụi tường vi lại cắt quãng bằng những bụi hoa cựa gà nở

rộ chĩa lên những bông hoa hình nến màu xanh sẫm gần như màu đen. Phía sau, cỏ và hoa

đủ các loại, quấn quýt vào nhau, lấp lánh gờn gợn như những làn sóng đầy nắng, cả một khu

vườn um tùm trăm hồng nghìn tía: xa trục thảo đỏ và trắng, hoa hồng tử thái, hoa cẩm quỳ

dại, ánh sáng rọi vào cánh hoa trong suốt hồng lên, hoa cúc trắng như tuyết và hàng trăm

thứ hoa khác mà cả hai đều không biết gọi chúng là gì” [65, tr. 254].

Bức tranh hoa đồng cỏ nội có thêm nét duyên dáng, sinh động bởi sự góp mặt của các

loài vật vùng thảo nguyên:

“Trong rặng tường vi, những con ong vàng vành đen cần mẫn bay vo vo.Thực vậy,

trong bầy ong giống như những dải băng ngắn của những chiếc mề đay Xanh Gioóc ngày

xưa. Và bọn ong này cũng dũng cảm như những chiến sĩ dạn dày chiến trận, chúng chẳng sợ

người, lại còn sẵn sàng gây gổ với người nữa.

[...] Những con cun cút phành phạch vụt bay lên từ mặt đất. Một con gà nước núp dưới

cái hốc ẩm ướt của một thân cây đã chết, cất tiếng kêu cùng cục, nhạo bác tất cả mọi chuyện

trên đời. Đàn sơn ca run rẩy bay lên không, nhưng tiếng hót của chúng lại không từ nơi

chúng đang bay lên mà như từ phía sông đưa lại” [65, tr. 254].

Quả thật, sự phối hợp, đan cài giữa chúng đã tạo nên bức tranh toàn cảnh tựa như một

kì quan của tạo hóa.

Ở Gió biển, trong phút giây bối rối vì hạnh phúc, ngỡ ngàng, cảnh được khúc xạ qua

tâm trạng của anh lính thủy thật lãng mạn:

“Sương mù đẫm nắng nằm trên Maxcơva. Mọi cửa sổ đều mở toang. Cái tươi mát của

ban đêm ùa vào những khung cửa sổ ấy. Buổi sáng ra đời trong ánh lấp loáng ẩm ướt của

trận mưa vừa qua. Trong buổi sáng này người ta đã cảm thấy trước một mùa hè dài, những

cơn mưa rào ấm áp, những buổi hoàng hôn trong suốt, những cánh hoa đoạn bay dưới

chân” [65, tr. 289].

Trong Cầu vồng trắng, lúc Pêtrốp cô đơn, cảnh thật ảm đạm, đìu hiu: “Dãy núi Alatao

đứng sững ở phía nam thành phố như một bức trường thành màu xám. Tuyết đã rắc lên các

đỉnh núi. Buổi tối trong những căn nhà đều giá lạnh, im lìm và tối tăm”, “ban đêm vừng

trăng nhô lên trên những rặng thùy dương trơ trụi và trong ánh sáng chói chang, thành phố

có một vẻ gì dữ dội” [65, tr. 324]. Còn trong niềm hạnh phúc vô biên khi chạm tay đến tình

yêu, cảnh bỗng chuyển đổi đầy thơ mộng: “Và vùng sáng xanh biếc của những vì sao mọc

trên đỉnh núi nối đuôi nhau thành chuỗi dài lấp lánh” [65, tr. 331]. Ở Bình nguyên tuyết phủ,

ngay từ những dòng đầu của truyện, cảnh vắng lặng, rợn ngợp bởi tuyết trắng, báo hiệu một

cuộc đời cô đơn, u buồn: “Đại dương đẩy những bọt sóng dài lên bãi cát. Năm qua tháng lại

sóng ầm ĩ không mỏi và Alan đã quen với tiếng sóng đến nỗi chàng không còn để ý đến nó

nữa. Ngược lại, sự yên lặng ở chung quanh đã làm chàng ngạc nhiên. Chàng có cảm giác

cùng với tuyết, yên lặng đang từ trên trời rơi xuống” [65, tr. 355]. Bóng tối và sắc trắng của

bình nguyên tuyết phủ đan dệt thành một khung cảnh kì ảo, êm đềm, làm dậy lên trong Alan

dòng tâm tư như những đợt sóng cồn

Cũng theo cơ chế ấy, truyện của Thạch Lam là những bức tranh xoay theo cái trục tâm

trạng của nhân vật. Đó là cảnh đẹp thần tiên của một đêm trăng vùng hạ du ở Nắng trong

vườn: “Trên mặt sông, một cơn gió mát hiu hiu thổi, tiếng sông róc rách vỗ vào mạn thuyền

như một thứ nhạc vui (…) Hai bên bờ sông, ruộng mạ non phớt theo chiều gió, nương chè

sắn thắm ở ven đồi, mờ dần đằng xa sau một làn sương nhẹ” [44, tr. 69]. Bức họa vùng quê

có sự đan cài giữa các điệu xanh của cây cối thể hiện một sức sống tràn trề và những thanh

âm trong trẻo, mộc mạc từ thiên nhiên. Cảnh làm nổi bật “cái tình yêu đang réo rắt trong

lòng nàng (nhân vật Hậu – người viết chú thích)” [44, tr.69] và cả nhân vật tôi. Hai đứa trẻ

mở đầu với bức tranh phố huyện chiều tối. Bức tranh ấy mở ra khung cảnh yên ả, thanh

bình:“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng

theo gió nhẹ đưa vào” [44, tr. 149].

Tóm lại, chính tình yêu nước thiết tha và niềm rung cảm mãnh liệt trước cái đẹp của tạo

hóa là “nội lực” để Thạch Lam và Pauxtốpxki, qua những truyện ngắn của mình, đã tái tạo

nên gương mặt thiên nhiên mang đậm phong vị, “hồn cốt” dân tộc.

Ở phương diện nội dung tự sự, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã có sự gặp gỡ trong việc

lựa chọn hiện thực phản ánh là những cảm xúc mới mẻ, bất chợt của con người và cái đẹp

tiềm tàng, khuất lấp. Bằng sự nhạy cảm bản năng của người nghệ sĩ đích thực, Thạch Lam và

Pauxtốpxki đã lắng nghe những vang động trong tâm hồn nhân vật và khắc họa một thế

giới nội cảm đa dạng, phong phú mà hết sức vi tế của con người.

Bên cạnh đó, ngòi bút của Thạch Lam và Pauxtốpxki hướng đến những con người dung

dị bình thường trong cuộc sống, khai quật vỉa quặng tâm hồn, lối sống của họ và trải lên

trang văn những nét đẹp sống động, bất ngờ. Pauxtốpxki đã phát hiện trong những con

người Nga chân chất, bình dị một tâm hồn đa cảm, thánh thiện, yêu cái đẹp, luôn hướng đến

những điều cao cả. Họ đại diện tiêu biểu cho tính cách Nga: nhân hậu, bộc trực, bao dung,

cao thượng. Thạch Lam phơi bày lên trang văn của mình vẻ đẹp kín đáo của tâm hồn Việt,

(nhất là vẻ đẹp của người phụ nữ): danh dự, nghĩa tình, triết lí sống dung hòa, cởi mở.

Sự giao thoa giữa văn hóa Việt và Nga đậm nhất ở lĩnh vực lối sống là cách ứng xử

đậm đà tình nghĩa của họ. Tình người được thăng hoa. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa

Việt Nam, văn hóa ứng xử của người Việt là trọng tình: “Xét về quan hệ giao tiếp, nguồn

gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn đến người Việt Nam lấy tình cảm,

lấy sự yêu, sự ghét làm nguyên tắc ứng xử. Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài

hòa âm dương làm nguyên lý chủ đạo nhưng vẫn thiên về âm tính thì trong cuộc sống, người

Việt Nam sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lí thì

tình được đặt cao hơn lí” [90, tr. 181]. Trong ứng xử hàng ngày với nhau, người Việt luôn

tâm niệm: “Một trăm cái lí không bằng một tí cái tình”, “Chín bỏ làm mười”, “Giơ cao

đánh khẽ”... Mặc dù chuộng sự bình đẳng, rành mạch, rõ ràng, trong ứng xử và quan hệ

giữa người và người, ta vẫn cảm nhận được ở con người Nga tấm lòng hào hiệp, đôi mắt hiền

từ, nhân hậu và trái tim đằm thắm yêu thương.

Mặt khác, chính tình yêu nước thiết tha và niềm rung cảm mãnh liệt trước cái đẹp của

tạo hóa là “nội lực” để Thạch Lam và Pauxtốpxki, qua những truyện ngắn của mình, đã tái

tạo nên gương mặt thiên nhiên mang đậm phong vị, “hồn cốt” dân tộc.

Chương 3

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ

PAUXTỐPXKI

Lí thuyết tự sự học hiện đại thường quan tâm, xem xét đến năm bình diện cơ bản của

nghệ thuật tự sự: Phương thức trần thuật (Chủ thể kể), Điểm nhìn trần thuật, Tổ chức cốt

truyện và tình huống, Ngôn ngữ trần thuật, Giọng điệu trần thuật. Chúng tôi sẽ lần lượt mô

tả, đối chiếu truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki theo mô hình trên nhằm tìm

ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghệ thuật tự sự của hai nhà văn.

3.1. Phương thức và điểm nhìn trần thuật

Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành với một chủ thể kể nhất định. Đó là người

đứng ra kể lại câu chuyện và tổ chức các yếu tố khác loại vào trong chỉnh thể của cái nhìn và

sự thụ cảm. Vì vậy, đặc điểm tư duy, cá tính, cái nhìn, quan niệm của người trần thuật được

khắc ghi trong mỗi văn bản nghệ thuật.

Sử dụng một cách nghệ thuật hai phương thức trần thuật cơ bản 1, kết hợp với sự lựa

chọn điểm nhìn linh hoạt, Thạch Lam – Pauxtốpxki đã tạo ra cái “duyên” của lời kể, cách kể,

“thổi hồn” cho những truyện ngắn vốn không có chuyện.

3.1.1. Lối kể chủ quan

Theo thống kê, Trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki, phương thức trần thuật

chủ quan chiếm một tỉ lệ đáng kể.

Phương thức chủ Phương thức Phương thức trần thuật

quan khách quan

Truyện Tần số Tỉ suất Tần số Tỉ suất

(truyện) (%) (truyện) (%)

Truyện ngắn Thạch Lam 13 39 20 61

Truyện ngắn Pauxtốpxki 14 35 26 65

(Bảng thống kê các phương thức trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki)

1Lí thuyết tự sự học ghi nhận có hai hình thức trần thuật cơ bản từ trước đến nay: trần thuật theo ngôi thứ nhất (phương thức chủ quan) và trần thuật theo ngôi thứ hai (phương thức khách quan).

Cùng sử dụng hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”, ở truyện ngắn Thạch

Lam, Pauxtốpxki, sự tương đồng và khác biệt vẫn rõ nét. Chủ thể kể trong truyện ngắn

Thạch Lam, Pauxtốpxki trước hết là “tôi” – nhân vật trong câu chuyện kể. Đây là người tham

gia vào các sự kiện, biến cố của chuyện và kể lại một sự việc nào đó đã xảy ra trong quá khứ

với trường nhìn của chính mình. Độ lùi không lớn lắm về mặt thời gian tạo nên tính thời sự

cho câu chuyện. Dạng thức này ở Thạch Lam đã tìm được một lối biểu hiện chân thực dưới

lời của nhân vật (Một cơn giận, Sợi tóc). Ở đây, lối kể “chuyện trong truyện” (kể chuyện

kép) thường được bắt nguồn từ một cuộc chuyện trò, hàn huyên tâm tình như một duyên cớ

khơi gợi câu chuyện. Chẳng hạn, truyện Một cơn giận mở đầu với lời giới thiệu của người kể

chuyện giấu mình: “Một buổi tối mùa đông, chúng tôi ngồi trước lò sưởi, trong một căn

buồng ấm áp. Tự nhiên trong câu chuyện, một người nói đến những cơn giận tự nhiên đến

tràn ngập cả tâm hồn ta và có khi gây nên cái kết quả không hay. Rồi mỗi người đều bày tỏ ý

kiến riêng của mình. Anh Thanh từ nãy đến giờ vẫn lặng yên, có vẻ trầm ngâm, cất tiếng

nói” [44, tr. 28]. Thế là từ đó, vai người kể chuyện được chuyển giao cho Thanh. Anh ta đảm

đương vai trò tường thuật câu chuyện từ đầu đến cuối với trường nhìn của chính mình.

Tương tự, ở Sợi tóc, sau lời mào đầu ngắn gọn: “Anh Thành nhỏm dậy, nghiêng mình chống

khuỷu tay xuống giường rồi bắt đầu nói với một giọng trầm và thong thả khiến người nghe

hiểu được hết các ý tứ của câu chuyện” [44, tr. 240], nhân vật Thành xuất hiện, trực tiếp kể

lại câu chuyện mà bản thân mình vừa trải qua. Nhân vật với điểm nhìn bên trong đã nghiêm

khắc mổ xẻ, phanh phui những mặt trái của tính cách, phẩm chất dưới sự phán xét của tòa án

lương tâm. Qua lời tự thú của nhân vật Thanh (Một cơn giận), Thành (Sợi tóc), người đọc

được chứng kiến sự vận động, va đập trong cõi sâu thẳm tâm hồn họ. Việc đặt điểm nhìn trần

thuật nơi nhân vật thường hình thành một phạm vi chủ quan cho tự sự, tạo nên tính tự nhiên,

chân thực cho việc bộc lộ những cảm giác ngỡ ngàng, sửng sốt cũng như những trạng thái

tâm lí phức tạp.

Hơn nữa, tư thế dẫn truyện này đã đem lại cho người đọc cảm giác tin cậy. Bởi chủ thể

kể là người am tường mọi hành vi của bản thân, anh ta kể về mình không phải với một nhân

cách toàn vẹn, tròn trĩnh mà bằng cả sự đớn hèn, ti tiện, nhỏ nhen. Vì vậy, việc kể chuyện

theo ngôi thứ nhất xưng tôi với điểm nhìn hướng nội là sự lựa chọn phù hợp nhất cho sự

phản tỉnh của nhân vật.

Hình thức này ở truyện ngắn Pauxtốpxki được thể hiện chủ yếu dưới dạng chủ thể kể

bộc bạch, giãi bày, chia sẻ những trải nghiệm thiết thực của bản thân về hoạt động sáng tạo

nghệ thuật. Con người ấy nhạy cảm, tinh tế, thành thật và giàu tâm huyết với văn chương.

Nếu người kể chuyện ở trang viết của Thạch Lam mang độ căng của những thao thức, dằn

vặt, những tấn kịch nội tâm sâu sắc qua những lời tự thú thì ở truyện ngắn của Pauxtốpxki,

chủ thể kể mang trong mình bầu nhiệt huyết sôi nổi, nhiệt thành với lời “tự bạch” chân tình.

Những đam mê, bốc đồng tuổi trẻ; những sở trường, sở đoản; thành công hay thất bại trong

hành trình nghệ thuật... tất cả đều được kể lại với trái tim trong sáng, hồn hậu. Điểm nhìn của

người trần thuật và nhân vật “tôi” “chập” làm một. Điều đó đã làm cho những truyện ngắn

này thoát khỏi nguy cơ giáo huấn một cách hời hợt, khô khan. Chẳng hạn, trong Những bông

hoa làm bằng vỏ bào, nhân vật “tôi” chia sẻ về những kỉ niệm khi mới bén duyên với văn

chương. Trong đó có niềm đam mê mãnh liệt với cái đẹp và cả “tính chuộng lạ”, ưa cái hào

nhoáng, hoa mĩ bề ngoài: “Phần lớn tuổi trẻ nghèo túng và thực ra rất cay đắng của tôi đã

qua đi trong những vần thơ và trong niềm xao xuyến mơ hồ. Sau đó tôi bỏ không làm thơ

nữa. Tôi hiểu rằng đó chỉ là cái hào nhoáng bề ngoài, là những bông hoa làm bằng vỏ bào

nhuộm khéo, một thứ vàng mạ” [65, tr. 35]. Ở Những vết khắc trong tim, người kể chuyện

bày tỏ những chiêm nghiệm về thời thơ ấu. Dẫu có cay cực, gian khổ, nó đã góp phần dưỡng

nuôi tâm hồn của mỗi người: “Cùng với năm tháng những ấn tượng lúc thiếu thời tưởng đã

quên đi. Nhưng, tất nhiên, nó vẫn tiếp tục sống trong đáy sâu của kí ức tôi và thỉnh thoảng

lại trôi ra ngoài. Nhất là trong những lúc hạn hán. Chúng bao giờ cũng dấy lên trong lòng

tôi một nỗi lo lắng khó hiểu” [65, tr. 66].

Mặt khác, nhân vật xưng tôi trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki còn là một

chứng nhân trong câu chuyện được kể. Nhân vật xưng tôi xuất hiện với tư cách là hình tượng

người trần thuật và có thể nhận xét, đánh giá, đối thoại trực tiếp với nhân vật, sự kiện trong

câu chuyện. Dạng thức này cho phép nhà văn tự biểu hiện bản thân một cách đầy đặn trong

tác phẩm. Anh ta sẽ kể lại câu chuyện theo trường nhìn của chính mình. Hình tượng người

trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam dù với nhiều dạng thức hóa thân: một công chức an

nhàn, trưởng giả (Người bạn cũ), một tri thức về thăm quê (Người lính cũ), anh học trò trọ

học (Tình xưa), một người có học (Người bạn trẻ)... thì họ vẫn luôn mang cốt cách của một

tri thức nhạy cảm, tự trọng, nhân hậu và giàu tình thương.

Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, hình tượng người trần thuật là một con người lãng du,

mải miết với cuộc hành trình khám phá cái đẹp. Con người ấy nhạy cảm, tinh tế, bằng những

trải nghiệm của bản thân đã trao truyền lại những kinh nghiệm quý báu cho thế hệ sau. Qua

hầu hết những truyện ngắn trong tập Bông hồng vàng (Chữ đề trên tảng phiêu nham, Hỏa

tinh, Trên thùng xe tải...), Pauxtốpxki đã định hình cho mình một chân dung tinh thần một trí

thức ham học hỏi, tìm tòi và có tinh thần nghiêm túc trong nghề nghiệp..

Lựa chọn lối kể chủ quan với phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, tác giả đã tạo

nên tính chất tâm tình, tri âm cho câu chuyện. Chuyện thường được kể dưới dạng những hồi

ức, kỉ niệm, vì vậy nó thấm đẫm chất thơ, đầy dư vị.

3.1.2. Lối kể khách quan

Đây là một phương thức trần thuật phổ biến, quen thuộc trong văn xuôi nghệ thuật. Ở

đây, người kể chuyện là “một người lạ” biết tuốt, am hiểu mọi việc và lường đoán được tất

cả. Điểm nhìn trần thuật được trao cho anh ta. Phương thức này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện

ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki. Nhà văn hóa thân, đặt mình vào vị trí người tham gia hoặc

chứng kiến sự việc trên cơ sở những ấn tượng, kỉ niệm đã đi qua trong cuộc đời. Vì vậy, dù

sử dụng lối kể khách quan, truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki vẫn mang dấu ấn tự thuật

đậm nét.

Dù nhà văn không trực tiếp, công khai đưa các yếu tố tự truyện vào truyện ngắn của

mình, người đọc vẫn có thể tìm thấy sự tương ứng nhất định giữa những trải nghiệm của nhà

văn và thế giới mà anh ta miêu tả. Những truyện ngắn của Thạch Lam như Gió lạnh đầu

mùa, Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa... được viết trên cơ sở kí ức và ấn tượng của

năm tháng ấu thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Bà Nguyễn Thị Thế (chị ruột của Thạch Lam) kể

lại rằng: “Vinh ưa cái áo đó lắm (cái áo dệt bằng tóc – chúng tôi chú thích) vì mặc ấm mà

không bẩn vì bụi đất dính vào chỉ đập mấy cái là sạch. Tuy quý cái áo như thế mà đến mùa

đông mặc nó, thấy con chị Lê bên hàng xóm rét run, cả ngáy không dám ra đường chơi, cứ

chúi vào ổ rơm nên Vinh đã cởi ra cho nó mặc” [3, tr. 343]. Thì ra chú bé Sơn với tấm lòng

trắc ẩn, thơm thảo là hình bóng của tác giả, và để xây dựng tác phẩm thì những kỉ niệm tuổi

thơ đã đóng vai trò quan trọng biết nhường nào. Trong Hai đứa trẻ, hình bóng tác giả lại là

chú bé An ngây thơ, nhạy cảm. Cái bối cảnh nửa làng nửa phố nhiều lần trở đi trở lại trong

văn Thạch Lam chính là cái mảng sống ông từng trải và gắn bó máu thịt, am hiểu kĩ lưỡng.

Vì vậy, nguyên tắc giấu mình trong trần thuật khách quan thường được Thạch Lam ít coi

trọng. Nhà văn luôn tìm cách để bày tỏ thái độ, cảm xúc của mình.

Những truyện ngắn trong tập Bình minh mưa, theo sự tiết lộ của Pauxtốpxki trong tập

Bông hồng vàng, được ông “thai nghén” từ những người thật việc thật mà ông đã gặp gỡ trên

đường đời. Ở đây những ấn tượng về đời sống hay các biến cố mà nhà văn đã kinh qua đã trở

thành căn rễ và ngọn nguồn của những sáng tạo nghệ thuật. Chẳng hạn, truyện ngắn Bức

điện đã được hình thành từ quãng thời gian nhà văn sống ở làng quê Riazan. Những nhân

vật, tình tiết chính trong truyện đều có nguồn gốc từ những điều nhà văn đã chứng nghiệm:

“Tôi (Pauxtốpxki) (chúng tôi chú thích) ở trong nhà của một nghệ sĩ khắc gỗ nổi danh một

thời là Pôgialôxtin. Ở đó còn bà lão già yếu và hiền hậu Katêrina Ivanốpna, con gái nhà

điêu khắc. Bà lão đã gần đất xa trời. Người con gái của bà là Naxchia ở Lêningrát đã quên

hẳn mẹ. Nàng chỉ gửi tiền về cho bà lão, hai tháng một lần” [65, tr. 90]. Tuy vậy, nội dung

tự truyện không trùng khít với những chi tiết, biến cố trong cuộc đời nhà văn mà nó rộng

hơn, bao gồm cả những kinh nghiệm sống, tư tưởng, tình cảm, cá tính… của bản thân tác

giả. Chính Pauxtốpxki cũng “thú nhận”: “Không phải những gì tôi đã thấy và đã suy nghĩ lại

lúc ấy đều được đưa vào ‘Bức điện’. Chuyện đó thường xảy ra” [65, tr. 96]. Vận dụng sáng

tạo hình thức kể chuyện theo phương thức khách quan, gửi gắm vào đó ít nhiều những yếu tố

có tính chất tự truyện, Pauxtốpxki (cũng như Thạch Lam) muốn giãi bày, giao tiếp với người

đọc những vấn đề trong cuộc sống thông qua những trải nghiệm thiết thực của bản thân. Dù

đã tránh “xuất đầu lộ diện” thì hình bóng, tâm hồn của tác giả vẫn đầy ắp sau mỗi trang văn.

Trong lối kể khách quan, Thạch Lam, Pauxtốpxki thường gửi điểm nhìn sang nhân vật.

Trong đa số trường hợp, chủ thể kể vô hình làm công việc giới thiệu bao quát và nhân vật

làm tiếp công việc còn lại. Do vậy, từ hướng ngoại, điểm nhìn dần di động vào thế giới nội

cảm của nhân vật, khơi mở những tầng sâu của tâm trạng. Chẳng hạn, ở truyện Hai đứa trẻ,

phần đầu được kể theo quan điểm người trần thuật, phần sau được nhìn theo cái nhìn của hai

đứa trẻ, cái nhìn ngây thơ, vô tư của tâm hồn trẻ thơ trước một vũ trụ già. Chuyến tàu đêm đi

qua phố huyện đã đánh thức những khao khát, ước vọng ở chị em Liên: “Chuyến tàu đêm

nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà

Nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” [44, tr. 156]. Trong Cô hàng

xén, chủ thể kể giới thiệu lai lịch, gia cảnh của Tâm, sau đó điểm nhìn được chuyển sang cho

cô. Người con gái đảm đang này nhìn thấu cả cuộc đời mình – một sự tự ý thức và xót xa cho

thân phận: “Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến

tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ” [44, tr. 225].

Truyện của Pauxtốpxki thường bắt đầu với cái nhìn của chủ thể (tác giả), sau đó là cái

nhìn của trẻ thơ (Chiếc nhẫn bằng thép, Vườn nhà bà), của cô gái đang hạnh phúc (Lẵng quả

thông, Âm nhạc Vécđi), của chàng trai hay cô gái đang yêu (Cầu vồng trắng, Tuyết)... Với cái

nhìn của Xônxeva, cô gái đang “được hưởng một niềm hạnh phúc thực sự” từ tình cảm nồng

hậu của những chiến sĩ trẻ, khung cảnh chung quanh trở nên đẹp lạ thường: “Ánh đèn lung

linh tỏa tới tận đáy vịnh. Nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những dòng nước

nóng không nhìn thấy. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lí

như hoàng hôn mới vừa đổ xuống” [65, tr. 245]. Cái nhìn lạc quan, yêu đời của anh sĩ quan

Pêtrốp đã phủ lên cảnh vật mùa đông vẻ thơ mộng: “Dãy núi Alatao tỏa sáng về thành phố

qua lớp băng xanh lam tinh khiết. Đôi khi đất lở trên triền núi và bụi trắng bốc mù

lên.những con la đủng đỉnh trên phố lắc lư đôi ta cứng lạnh. Nước óc ách trong các hố băng

và những bông hoa đại cúc phủ đầy tuyết mịn xòe nở trong các thửa vườn nhỏ như những

bông hồng mùa đông khổng lồ” [65, tr. 330]. Ở Pauxtốpxki, yếu tố trữ tình ngoại đề được sử

dụng một cách đắc địa, hài hòa. Những lời bình luận trực tiếp, những đánh giá khoa học

nhưng thấm đượm cảm xúc đã tạo nên màu sắc trữ tình đậm đà, sâu lắng cho trang văn của

ông. Chẳng hạn, cuối truyện Hạt cát là lời bình của tác giả: “Vâng, truyện ngắn này chỉ có

thế. Trong đó không có ý nghĩa giáo dục gì, nhưng có lẽ nó có cái “hạt cát” duy nhất có

thể đem lại cho con người dù chỉ chút ít niềm vui và buộc họ phải mỉm cười, mà lần này

không phải tìm trong câu chuyện ngắn củn ấy một ý nghĩa sâu xa” [65, tr. 420].

Tóm lại, dù trần thuật theo phương thức khách quan hay chủ quan thì dấu ấn cá nhân,

diện mạo tinh thần, tâm hồn, máu thịt của nhà văn vẫn in đậm trong từng trang văn. Mỗi tác

phẩm là một sự hóa thân đầy tâm huyết. Từ bỏ lối kể chuyện mang màu sắc trung tính, chung

chung, dung nạp thêm các yếu tố cảm xúc, tình cảm, trải nghiệm cá nhân mang tình chủ quan

đã tạo cho chủ thể trần thuật một diện mạo và cá tính riêng. Việc chuyển đổi linh hoạt các

điểm nhìn hợp lí với mạch truyện. Ở truyện ngắn của Thạch Lam, điểm nhìn của tác giả

thường được chuyển sang điểm nhìn của các bà, các cô, những người phụ nữ có hoàn cảnh

bất hạnh nên trong giọng văn có âm điệu bi ai, xót xa. Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki là cái

nhìn của trẻ thơ, của các chàng trai, cô gái thanh niên trẻ trung nên giọng văn thường mang

âm điệu lạc quan, tin tưởng.

3.2. Tự sự phi cốt truyện

3.2.1. “Giải phóng” cốt truyện

Một trong những yếu tố làm nên nét riêng của truyện ngắn so với các thể loại văn xuôi

tự sự khác là ở sự đa dạng của cốt truyện. Cốt truyện của truyện ngắn có khi li kì, gay cấn, rõ

nét với đầy đủ các phần theo truyền thống như: trình bày, khai đoan (thắt nút), phát triển,

đỉnh điểm (cao trào) và kết thúc (mở nút); có khi mờ nhạt hoặc thậm chí không có.

Sự kiện, biến cố vốn là chất liệu chính để tổ chức cốt truyện ở tác phẩm tự sự truyền

thống. Chúng thường được liên kết theo quan hệ nhân – quả, tập trung vào xung đột trọng

tâm, vươn đến đỉnh điểm, hướng tới kết thúc, nhằm bộc lộ tính “cố sự”. Thạch Lam và

Pauxtốpxki đã có sự đổi mới về cách thức tổ chức, sắp xếp các sự kiện, biến cố nhằm “giải

phóng” cốt truyện kể việc bằng cốt truyện tâm lí.

Việc “mã hóa” cốt truyện theo cơ chế “phi cốt truyện” không chỉ đòi hỏi yếu tố kĩ

thuật mà còn có cả sự nhạy cảm, tinh tế của nhà văn. Ở đây, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã

chọn giải pháp “hòa giải” các mâu thuẫn, xung đột bằng đời sống nội tâm phong phú, phức

tạp của nhân vật. Thế giới đời sống hiện thực vào tác phẩm ở đây đã được nội cảm hóa.

Chức năng chủ yếu của cốt truyện là bộc lộ trạng thái tâm tưởng. Bởi một khi trung tâm

hứng thú của câu chuyện là thế giới cõi lòng của con người thì cốt truyện chỉ có vai trò mờ

nhạt, là tiền đề khiêu khích các sự kiện nội tâm xuất hiện. Các trạng thái tâm tưởng trong

truyện của Thạch Lam thường là sự bừng thức của lương tri (Một cơn giận, Sợi tóc), sự phản

tỉnh (Những ngày mới, Dưới bóng hoàng lan, Buổi sớm), sự thanh lọc tâm hồn khi trở về

làng quê (Cô hàng xén, Dưới bóng hoàng lan, Trở về, Tối ba mươi), suy tư về hạnh phúc

đích thực: tiền bạc hay con cái, tinh thần (Cái chân què, Đứa con)... Còn ở truyện ngắn của

Pauxtốpxki , đó là sự suy tư về lẽ sống, về tình yêu, về nghệ thuật (Bông hồng vàng, Hạt cát,

Âm nhạc Vécđi, Một món quà, Tuyết, Bình minh mưa, Cầu vồng trắng…), niềm vui (Lẵng

quả thông, Đám đông trên đại lộ bờ biển, Gió biển, Cuộc phiêu lưu của bọ sừng…).

Truyện ngắn Thạch Lam không cần đến những sự kiện lớn lao, những kịch tính hay

tình huống khác thường. Tất cả được dệt nên từ những việc thông thường, nhỏ nhặt, cỏn con

từ chất liệu dung dị của đời sống hàng ngày. Thạch Lam đã khéo léo lựa chọn những thời

khắc lóe sáng, làm bùng lên ngòi nổ của tâm tư: một buổi sớm mai mát mẻ, trong lành

(Buổi sớm); một đêm giao thừa ở căn nhà xăm lạnh lẽo (Tối ba mươi); một cơn gió đầu mùa

se lạnh, rét mướt (Gió đầu mùa); một chuyến tàu đêm đi qua phố huyện (Hai đứa trẻ); một

lần gặp lại người bạn tâm giao (Người bạn cũ)… Ông tìm thấy ở những sự vật đời thường

tưởng chừng như vặt vãnh ấy một thế giới muôn màu những cảm xúc, những khát vọng,

những buồn vui, những mơ ước…

Buổi sớm là câu chuyện ít ỏi “sự kiện”, cốt truyện mờ nhạt và khó mà kể lại cho rành

rọt. Bối cảnh của buổi sớm mai với không khí trong lành và âm thanh quen thuộc của cuộc

sống sinh hoạt thường nhật ở một chốn quê đã đánh thức ở Bính, con người một thời lầm lạc,

những xúc cảm tươi đẹp và rung cảm tinh tế trước cuộc đời. Chàng ý thức được trách nhiệm

của mình trước cuộc sống và cảm thấy thương mẹ – người mẹ già đã nhiều lần khóc vì con.

Chuyện xoay quanh hai “sự kiện”: thức dậy sớm, suy tư về quãng đời lầm lạc, cảm thấy

thương mẹ; bày thức dâng buổi sớm lên bàn thờ gia tiên.

Dưới bóng hoàng lan là chuyện của tâm trạng. Khung cảnh bề ngoài với ngôi nhà tuổi

thơ rợp bóng mát, mùi hoàng lan thoang thoảng… là “chất xúc tác” làm dấy lên những tình

cảm phong phú bên trong của nhân vật Thanh, đặc biệt là lòng kính yêu người bà tổ mẫu và

tình yêu mới chớm với cô bạn láng giềng. Tóm lại, truyện xoay quanh ba “sự kiện”: trở về,

cảm giác mát mẻ; gặp lại, ngọt ngào, đầm ấm; ra đi, lưu luyến, vấn vương.

Hai đứa trẻ cũng là một truyện ngắn “phi cốt truyện”. Chuyện kể về chị em Liên, tuy

buồn ngủ ríu cả mắt nhưng đêm nào cũng cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.

Cùng với nỗi chờ đợi, thao thức là những hoài vọng về quá vãng, những khao khát thay đổi ở

tương lai. Câu chuyện bình thường nhưng gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi tính chất tù

đọng, mòn mỏi, tối tăm trong cuộc sống của người dân nghèo. Có ba “sự kiện” được huy

động trong truyện: buồn trước giờ khắc của ngày tàn; buồn trong đợi chờ, hoài niệm; buồn

sau khi ngắm chuyến tàu đêm đi qua.

Ở những truyện ngắn kể về một việc có đầu có cuối (Một cơn giận, Sợi tóc) hay có

dung lượng bao trùm cả đời người (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Người bạn trẻ, Một đời

người…), sức hấp dẫn của câu chuyện không nằm ở cốt truyện mà là thế giới nội tâm phức

tạp, đa dạng của nhân vật và năng lực thẩm mĩ tinh tế của nhà văn.

Cũng theo xu hướng sáng tạo trên, truyện của Pauxtốpxki thường gọn nhẹ, thưa

thoáng các “sự kiện”, thậm chí vắng mặt các xung đột, mâu thuẫn. Ông viết về những

chuyện cỏn con mà ý nghĩa, sức lay gợi của chúng rộng lớn vô cùng. Phần lớn những chuyện

viết về hoạt động lao động của nhà văn, cốt truyện dường như là cái cớ để Pauxtốpxki có thể

liên hệ, lồng ghép một cách thoải mái những suy tưởng, chiêm nghiệm bất ngờ, đa chiều ở

những đoạn trữ tình ngoại đề. Chẳng hạn, câu chuyện anh thợ hốt rác thành Pari gom nhặt

bụi vàng để đúc cho người con gái anh yêu một bông hồng đã gợi cho Pauxtốpxki những liên

tưởng thú vị:

“[…] Bông hồng vàng của Samét! Đối với tôi có phần nào là hình tượng tương lai của

hoạt động sáng tạo của chúng ta. Thật là lạ lùng khi chẳng có ai chịu bỏ sức lao động của

mình ra nghiên cứu xem từ những hạt bụi quý ấy đã phát sinh ra nguồn văn học sinh động

như thế nào

Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của người thợ hót rác già kia làm ra là để cho

Xuyzan được hạnh phúc, sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu

gọi đấu tranh vì hạnh phúc, vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh

trí tuệ chiến thắng bóng tối cho chúng rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt” [65, tr.

20]. Quả là, đóng vai trò quan trọng trong truyện ngắn của Pauxtốpxki không phải là bản

thân cốt truyện mà thường là các nhân tố ở ngoài nó.

Mặt khác, trong các truyện ngắn của mình, cái mà Pauxtốpxki tìm tòi không phải là

cốt truyện mà chính là sự tự biểu hiện của bản thân. Ông đã mở rộng khả năng của truyện

ngắn trữ tình bằng việc phá bỏ cái khung chật hẹp của thể loại, dung nạp vào đó cái kích

thước tối ưu của sự tự biểu hiện. Vì vậy, truyện của ông rất gần với thơ, không cốt truyện li

kì, không nhân vật có tính cách độc đáo.Và trong nhiều trường hợp, chúng có sai số không

nhiều so với tùy bút, tiểu luận. Chẳng hạn, Pari chốc lát có hơi hướng của một tùy bút – thơ.

Truyện kể cuộc dạo chơi Pari của tác giả, mỗi bước chân ông đi qua, một thế giới những điều

mới mẻ, tươi đẹp hiện ra. Ông đã thoải mái bày tỏ tình cảm với Pari và lòng yêu Tổ quốc dào

dạt trong lòng mình. Tương tự, Đám đông trên đại lộ bờ biển lại kể về chuyến đi đến nước

Ý. Cuộc hành trình này đã được nhân vật “tôi” ghi lại bằng cảm xúc phấn khởi, vui tươi và

niềm xúc động sâu sắc khi bản thân ông đã đem lại niềm vui to lớn cho một đứa trẻ và những

người dân nơi đây. Ông đã trao con búp bê matơriôska cho một bé gái người Ý và nhận được

lòng biết ơn vô bờ của cô bé cùng những người dân bản địa nơi đây, những người có dịp

chứng kiến một nghĩa cử cao đẹp. Những truyện ngắn khác của Pauxtốpxki cũng hấp dẫn bởi

những dòng cảm xúc bề bộn, ngồn ngộn ấy.

3.2.2. Dựng tình huống truyện

Tình huống (còn được gọi là tình thế) là thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra với

nhân vật, đặt trong cảnh huống đó nhân vật buộc phải thể hiện thái độ, hành động và có giải

pháp cụ thể. Nguyễn Minh Châu, một bậc thầy về truyện ngắn đã có những kiến giải sâu sắc

về vấn đề này: “Tình thế không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái

cớ chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương dựa vào

nhan đề, thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả, ví như một cây cọc vững chắc để cho

cây bí leo lên mà ra hoa trái” (dẫn theo [89, tr. 115])

Ở truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki, một khi cốt truyện bị đẩy xuống hàng thứ yếu

thì vai trò “chỗ dựa” của câu chuyện được chuyển sang cho tình huống truyện. Ở đây, tình

huống không nhằm thúc đẩy, phát triển hành động của nhân vật mà thường đóng vai trò khơi

nguồn, dẫn dắt cũng như việc lí giải nguồn cơn của tâm trạng, những chuyển biến phức tạp

của cảm xúc, cảm giác ở nhân vật.

Điểm tương đồng giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki trong tạo dựng tình huống truyện là

việc sử dụng thật đắc địa tình huống khơi mở tâm lí. Điều cốt yếu của tình huống này là tạo

được một bối cảnh, một không khí, một duyên cớ phù hợp bao quanh nhân vật nhằm khơi

gợi mạch nguồn tự sự, để tâm trạng, xúc cảm của nhân vật được bộc lộ, phơi bày. Dạng thức

phổ biến nhất là những khoảnh khắc, nhát cắt dồn nén chất nổ của bao cảm xúc, suy tư hay

tiềm ẩn những khả năng tâm lí bất ngờ.

Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều chọn khoảnh khắc “gặp gỡ” để thâu thái bao xung

động tâm lí căng, “nhạy”, gửi gắm bao ý tình. Với Thạch Lam, đó là những cuộc gặp gỡ

thoáng qua nhưng lại là “chất xúc tác” cho việc biểu lộ những chiêm nghiệm, suy tư ở nhân

vật. Chẳng hạn, cuộc gặp gỡ trên tàu giữa Thành và một cô gái xa lạ là điểm khởi đầu cho

bao trăn trở ở anh chàng văn sĩ đa cảm (Cuốn sách bị bỏ quên). Bất chợt chứng kiến thái độ,

hành động đúng mực, lịch sự của người phụ nữ phương Tây, nhân vật “tôi” xúc động, cảm

thương rồi suy nghĩ về cách đối xử phù hợp với những người ngoại quốc chân chính (Người

đầm). Tình cờ gặp lại người bạn cũ (Người bạn cũ) hay bỗng chốc với mảnh đời xa lạ

(Người lính cũ) cũng là tiền đề để nhân vật “tôi” phơi bày trạng thái nội tâm tiềm ẩn của

mình…

Với Pauxtốpxki, giây phút hội ngộ bất ngờ giữa hai nhân vật đã trở thành một môtíp

phổ biến trong hầu hết các truyện ngắn của ông. Khoảnh khắc gặp gỡ bất ngờ giữa anh chàng

phi công và cô gái trẻ Masa trong Cây tường vi đã để lại thật nhiều dư vị, để rồi nó vẫn đồng

hành với những giấc mơ của cô gái:“Những bụi cây tường vi sum suê ướt đẫm sương đêm.

Trời hoàng hôn. Trăng non dịu dàng giống như chiếc lưỡi liềm bạc của một cô thợ gặt nào

đó bỏ quên trên nền bức rèm xanh biếc nhạt của đêm khuya. Cảnh vật tĩnh mịch và lòng nhẹ

lâng lâng đến nỗi Masa cười thành tiếng ngay trong giấc ngủ” [65, tr. 260]. Những xúc cảm

của buổi ban đầu đầy lưu luyến ấy đã dẫn đường cho họ gặp lại nhau. Cuộc trùng phùng tựa

như một bản tình ca lãng mạn, đánh dấu sự nảy mầm của hạt giống tình yêu đã được ươm

gieo. Ở Gió biển, sự vô tình hay lối dẫn dắt của định mệnh đã khiến người thiếu phụ bước

lên tầng tám xem bắn pháo hoa. Tại đây, cô nghe được câu chuyện kì lạ của anh lính thủy

năm xưa. Họ có một cuộc gặp lại thật ngọt ngào. Trong Lẵng quả thông, thời khắc mà nhà

soạn nhạc nổi tiếng Êđua Grigơ gặp Đanhi, con gái ông gác rừng, đã trở thành nốt nhạc xao

xuyến mở đầu bản hòa âm tuyệt mĩ mà Đanhi được nhận năm mười tám tuổi. Còn biết bao

cuộc gặp gỡ bất ngờ khác là khởi đầu cho các mối quan hệ tình cảm như trong Bông hồng

vàng, Suối cá hương, Chú bé chăn bò, Cầu vồng trắng… Những khoảnh khắc bất chợt ở đây

như những tia chớp lóe sáng trong cuộc đời nhân vật, chúng làm đổi thay hay chí ít cũng

tăng thêm hương sắc cho cuộc sống của họ. Chúng có tính chất ngẫu nhiên, trùng hợp đến lạ

kì như có sự sắp đặt của bàn tay số phận. Xây những những khoảnh khắc gặp gỡ bất ngờ, thú

vị này, Pauxtốpxki đã gieo vào lòng người đọc niềm tin bất diệt vào cuộc đời, rằng nó vẫn

luôn tiềm tàng những điều bí ẩn diệu kì.

Nếu như Pauxtốpxki thường sử dụng những khoảnh khắc như tiêu điểm thu gọn để

khơi mở cảm xúc, cảm giác thì ở một dạng thức phức tạp hơn, Thạch Lam lại sử dụng những

tình huống tâm lí. Các quá trình và trạng thái tâm lí ở đây được thể hiện như một thực thể

sống động, biến thiên đa chiều, mong manh khó lường. Chẳng hạn, ở Cuốn sách bị bỏ quên,

tâm trạng của Thành thật phức tạp, có những chuyển biến mau lẹ khiến người đọc phải sửng

sốt, ngỡ ngàng. Đang đặt nhiều hi vọng vào cuốn sách mới xuất bản, Thành nhận được phản

hồi nó ế ẩm. Chàng buồn rầu chán nản rồi nhanh chóng vui tươi trở lại với ý nghĩ: “Sự lãnh

đạm của công chúng nhiều khi là cái dấu hiệu của một tài năng xuất chúng, không được

người ta hiểu, vì vượt ra ngoài khuôn sáo thường” [44, tr. 174]. Ở trên tàu, khi người thiếu

nữ lạ mặt lấy sách ra đọc, nhận ra sách của mình, lòng Thành phơi phới hi vọng. Chàng bàng

hoàng, sung sướng, hồi hộp, tưởng tượng ra sự ngưỡng mộ của cô gái nếu biết chàng là tác

giả. Sự đau khổ, ngờ vực trở lại với Thành khi chàng nhận ra người thiếu nữ kia đã để lại

cuốn sách trên ghế lúc rời tàu. Trong Đói, tâm hồn của Sinh cũng đầy biến động, day trở, bất

ngờ. Sinh đùng đùng nổi giận khi phát hiện ra những đồ ăn mà Mai đem về là do nàng bán

mình mà có. Chàng hất đổ chúng xuống sàn, đuổi vợ đi trong nỗi uất hận đỉnh điểm. Rồi cơn

giận dữ tan đi, chàng “thấy trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy ruột

gan” rồi “gục xuống bàn” [44, tr. 61]. Lúc tỉnh dậy, Sinh ăn ngấu nghiến những thức ăn

tung tóe dưới bàn theo bản năng bị cái đói dày vò. Sau đó chàng dần nhớ lại những gì đã xảy

ra, “một cái chán nản mênh mông ngập cả người” [44. tr. 62]. Tương tự, ở Một cơn giận,

Sợi tóc, Tình xưa… đều xuất hiện những động thái tâm lí nhiều mặt, biến chuyển nhanh

chóng đến không ngờ.

Mặt khác, nếu Pauxtốpxki tâm đắc với tình huống “ra đi” thì ở Thạch Lam, đó là

tình huống “trở về”. Sự trở về là kiểu tình huống đặt nhân vật sống lại với một quãng đời

đã qua với bao kỉ niệm, mộng ước. Trở về còn là sự đi tìm hoặc tìm lại một thế giới trong

lành, thanh sạch của tuổi thơ, của gốc gác cội nguồn. Vì vậy, có khi trở về con người được

“hồi sinh”, được tận hưởng cuộc sống hạnh phúc. Tân (Những ngày mới) sau khi từ bỏ thành

thị về chốn quê, đã tìm thấy niềm vui say trong cuộc sống và ý nghĩa của đời mình. Chàng

yêu công việc đồng áng, sống chan hòa với người dân quê, cùng gặt lúa, cùng uống bát nước

vối đượm hương. Tình yêu đời nảy nở mãnh liệt trong tâm hồn chàng. Thanh (Dưới bóng

hoàng lan) trở về với căn nhà tuổi thơ, với những cảnh vật đã quen thuộc nhưng biết bao yêu

mến...để được chìm đắm trong một thế giới đằm thắm tình người và đẹp như cổ tích và trên

hết là được hồi sinh.

Đôi khi, trở về lại gắn với cảm giác hụt hẫng, tiếc nuối vì thực tại đã đổi thay đến

chóng mặt so với quá vãng, chỉ còn nỗi than tiếc xót xa. Sau mười lăm năm trở lại chốn xưa,

nhân vật “tôi” trong Bên kia sông đã bàng hoàng với cảnh đổi thay dâu bể. Nơi xưa kia là

mảnh đất trù phú nay chỉ còn “một cảnh hoang tàn”. Cảnh khác xưa đến nỗi nhân vật “tôi”

đã “không dám đi xa nữa” vì mỗi bước chân qua là chạm đến những mất mát, đổ vỡ bởi một

thiên đường tuổi thơ đã không còn. Ở Đêm sáng trăng, Bóng người xưa, Trong bóng tối buổi

chiều, Tình xưa, tác giả đã đặt nhân vật trong những khoảnh khắc trở về để làm nổi bật sự

tương phản giữa thực tại và quá khứ, hôm qua và hôm nay. Đôi khi sự trở về khiến con

người thảng thốt tìm lại con người thật của mình (Người bạn cũ) hay đã thực sự đánh mất

chính mình (Trở về). Tuy vậy, tìm về với nguồn cội tinh thần trong sạch, con người có dịp

soi ngắm bản thân, phô bày cảm xúc, cảm hứng chung bao bọc nhân vật vẫn là vẻ đẹp của

tình người, tình đời. Trở về cũng là kiểu tình huống phổ biến trong văn học đổi mới sau 1986

ở Việt Nam. Nếu Thạch Lam là người khơi nguồn thì Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh

Châu, Vũ Thị Hồng, Hoàng Dân… tiếp tục và khơi sâu hơn dòng chảy “trở về” trong tâm tư

nhân vật. Chiến tranh đã đi qua nhưng con người vẫn tìm về với hồi ức một thời gian khổ và

hào hùng đó để tìm một điểm tựa trong cuộc sống thực tại. Sau chiến tranh, ông Thuấn trong

Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp trở về và đối diện với nỗi cô đơn ngay trong chính

ngôi nhà của mình. Trong cuộc sống thường nhật, vị tướng từng dọc ngang chinh chiến, chỉ

huy cả một đội quân vào sinh ra tử không thể nào chấp nhận được vị thế và những gì diễn ra

trong ngôi nhà, nơi người con dâu của ông mới đích thực là “tướng”. Ông lại khoác ba lô lên

đường, trở về với môi trường thân quen và chết oanh liệt nơi chiến trường. Tương tự, Lực

(Cỏ lau) của Nguyễn Minh Châu cũng là người lính trở về khi những trận đánh kết thúc và

đối diện với những mất mát, đổ vỡ không thể nào cứu vãn được. Người vợ hiền hết lòng yêu

anh đã có một gia đình yên ấm bởi chị đinh ninh chính tay mình đã chôn cất xác của người

chồng cũ (thực ra là một đồng đội của Lực). Còn nhiều cuộc đời tê tái như thế. Mấy chục

năm sau chiến tranh, Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) của Nguyễn Minh Châu

vẫn chìm trong cơn mộng du, lang thang trong những chuyến tàu tốc hành trong tâm tưởng

để trở về chiến trường xưa, gặp lại đồng đội và tìm lại trái tim mình. Tuân (Những giấc mơ

có thật) của Vũ Thị Hồng, cô thanh niên xung phong từng nổi tiếng là hoa khôi, cũng luôn bị

ám ảnh bởi tiếng gọi của một thời tuổi trẻ đã qua nơi chiến trường ác liệt. Những tác giả

truyện ngắn thời văn học sau đổi mới 1986 dường như thiên về lối viết theo sự gợi ý của trực

giác, linh cảm. Nhà văn cảm nhận cuộc sống không phải theo sự điều khiển của lí trí mà theo

tiếng gọi của trái tim.

Với tình huống ra đi, Pauxtốpxki thường đặt nhân vật trong những trạng huống: từ bỏ

hoàn cảnh sống hiện tại, dấn thân vào cuộc hành trình hay giã từ cuộc sống trần thế.

Anđécxen (Chuyến xe đêm) đã nén lòng dứt áo ra đi, chối bỏ tình yêu hiện tại để chung thủy

với “nàng Thơ” và “truyện cổ tích”. Tuy thành công trong sự nghiệp nhưng đến phút giã từ

cuộc sống trần thế, ông không khỏi xót xa, nuối tiếc. Người đầu bếp già đến cuối cuộc đời đã

chuẩn bị cho mình một cuộc “ra đi” thanh thản. Với mong muốn được một người lạ mặt rửa

tội cho mình, ông may mắn gặp nhạc sĩ thiên tài Môza, được hưởng niềm hạnh phúc bất tận

mà món quà âm nhạc mang lại. Alan (Bình nguyên tuyết phủ) chia tay cõi đời với niềm hạnh

phúc vì trí tưởng tượng của chàng đã chiến thắng lòng nghi ngờ, đố kị, cái nhỏ nhen tầm

thường.

Trong Pari chốc lát, nhân vật “tôi” lần đầu đến Pari đã háo hức, chờ đợi từng phút

giây: “Suốt đêm tôi cứ nằm trong một cảm giác đê mê kéo dài và khoan khoái, không đủ sức

cử động cánh tay” [65, tr. 445]. Mỗi bước chân qua, những điều mới lạ hiện ra cuốn lấy

nhân vật với sức hút của một nam châm có từ trường mạnh, đến nỗi “mỗi giờ của giấc mơ

thảng thốt, nói cho đúng hơn, của một cơn thiêm thiếp, đối với tôi là một tổn thất nặng nề.

Và thực quả là như vậy đấy [65, tr. 451]. Tuy vậy, “ra đi” trong truyện ngắn của Pauxtốpxki

không đồng nghĩa với quay lưng, lãng quên quá khứ. Dường như có một sợi dây bảo hiểm vô

hình mà vững chắc neo giữ nhân vật với nguồn cội, gốc gác tổ tiên: “Trên những bờ sông

Xen, tôi nhớ đến tổ quốc Xô viết của tôi. Trước mắt tôi, cảm xúc về đất nước đã bất thần

hiện ra trong một tính chất mới mẻ. Cảm xúc đó lớn hơn và phức tạp hơn một cách không tài

nào lường được với điều chúng ta nghĩ. Nó làm cho ta tức thở như là khi trống ngực đập

thình thình” [65, tr. 471]. Ở Đám đông trên đại lộ bờ biển, chuyến đi đến Ý đã đem đến cho

nhân vật “tôi” những cảm nhận thú vị về đất nước và con người nơi đây, đặc biệt là niềm

hạnh phúc khi mang lại cho trẻ thơ nỗi vui sướng lớn lao từ một món quà. Trong Cuộc phiêu

lưu của bọ sừng, thời điểm bác Piốt “từ giã xóm làng lên đường ra trận” cũng là lúc cậu con

trai nhỏ của bác có dịp bày tỏ tình cảm với cha bằng một món quà “đặc biệt” – một con bọ

sừng. Khát vọng ra đi, khám phá điều mới mẻ đã đem đến cho nhà thổ nhưỡng, anh thanh

niên và cô gái một cuộc gặp gỡ vui vẻ trên chuyến tàu tốc hành Ximfêrôpôn sự gặp gỡ về ý

tưởng: trở lại và góp sức dựng xây ngôi làng xa lạ mà con tàu đã đi qua. Nhìn chung sự ra đi

thường gắn với cái mới mẻ, kì lạ và tâm trạng hân hoan, thích thú của nhân vật.

Tóm lại, tình huống trở về của Thạch Lam hay ra đi của Pauxtốpxki tuy trái ngược

nhau nhưng chúng đều là những tình cảnh đặc biệt nhằm khơi gợi thế giới nội cảm phong

phú, đa dạng của nhân vật. Đó cũng là trạng huống phù hợp giúp nhà văn xây dựng tính cách

của con người thời hiện đại.

Mặt khác, trong kĩ thuật xây dựng tình huống, hai nhà văn rất chú ý tạo ra các chi tiết

giàu sức gợi. Pauxtốpxki từng đề cao vai trò của chi tiết: “Một chi tiết tốt còn gợi lên cho

người đọc biểu tượng trực giác và đúng đắn về toàn cục – hoặc về con người với tâm tình

của anh ta, hoặc về một sự kiện, hoặc hơn thế nữa, về cả một thời đại” [65, tr. 132]. Những

chi tiết dẫn đến tình huống của Thạch Lam và Pauxtốpxki thường là những “sự kiện” hay sự

vật nhỏ: chờ tàu, cơn gió lạnh đầu mùa, tiếng chim kêu trong đêm, bức thư, hộp thuốc lá,

chiếc nhẫn bằng thép… So với những “sự kiện” có tính chất lớn lao (lần đầu được làm cha,

tai nạn phải cưa chân, đêm giao thừa, ra trận, cái chết của người anh hùng), những chi tiết có

tính “vặt vãnh” luôn chiếm ưu thế. Chẳng hạn, chỉ với cơn gió mùa đông đến sớm mà

Thạch Lam đã dựng nên cả một câu chuyện cảm động về tình người, tình đời. (Gió lạnh đầu

mùa). Một bức thư bỏ ngỏ trên bàn, với tài năng của Pauxtốpxki, nó đã bắt đầu một chuyện

tình lãng mạn, ấm áp (Tuyết)… Những truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki thường

được xây dựng như thế. Khi nhà văn đã có trữ lượng dồi dào về vốn sống, kinh nghiệm và sự

tinh tế nhạy cảm thì chỉ cần một chi tiết vặt vãnh cũng đủ sức làm bùng lên “ngòi nổ” cảm

xúc, tâm tư.

3.2.3. Xây dựng nhân vật

Việc xây dựng bối cảnh, không khí cho câu chuyện gắn liền với việc tổ chức nhân vật,

bởi nhân vật là trung tâm điểm của bức tranh mà người nghệ sĩ đã dày công dàn dựng. Có thể

nói nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sức sống của một tác phẩm.

Nhân vật văn học trong tác phẩm, dù ít dù nhiều, đều thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí

tưởng của nhà văn về con người cũng như tình cảm thái độ của anh ta đối với thế giới hiện

thực. Như một số nhà văn khác, tác phẩm của Pauxtốpxki cũng có nhân vật là con vật (Cuộc

phiêu lưu của chú bọ sừng, Vườn nhà bà, Chiếc nhẫn bằng thép). Tuy nhiên, khi tìm hiểu

nhân vật dưới góc độ biểu hiện nghệ thuật kể chuyện trong cách dựng, kể, tả, bình… chúng

tôi chỉ đề cập tới những nhân vật là con người trong tác phẩm, trực tiếp xuất hiện, được kể

về, tự kể về mình hoặc kể về một ai đó trong tác phẩm.

Truyện của Thạch Lam và Pauxtốpxki hầu như không có nhân vật phản diện, khoảng

cách giữa nhân vật chính và nhân vật phụ dường như bị xóa nhòa. Cả Thạch Lam và

Pauxtốpxki đều không chú trọng miêu tả ngoại hình nhân vật mà tập trung khắc họa thế giới

nội tâm phong phú, những nét tính cách đặc trưng và đặc biệt là những biểu hiện cao đẹp của

nhân cách con người.

3.2.3.1. Con người bình dị của đời thường

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki là những con

người bình dị, thân thuộc trong cuộc sống hằng ngày, dường như ở bất kì đâu trên đất nước

Việt Nam, đất nước Nga ta đều có thể gặp họ. Đó là những người lao động bình thường như

nông dân, người làm thuê, người buôn bán nhỏ, công nhân, người thợ hót rác, kẻ giúp việc

nhà, người lính… Thạch Lam và Pauxtốpxki cũng viết về tầng lớp trí thức nhưng những học

sinh, sinh viên, trí thức thất nghiệp trong truyện ngắn của Thạch Lam hay những nghệ sĩ

trong trang viết của Pauxtốpxki đều toát lên vẻ giản dị, bình dân. Một điều dễ nhận thấy là

Thạch Lam và Pauxtốpxki dành nhiều trang viết của mình cho trẻ thơ và người phụ nữ.

Thế giới trẻ thơ trong truyện ngắn của Pauxtốpxki trong trẻo, thuần khiết như giọt

sương mai. Đó là thế giới của lòng tin vào phép màu cổ tích, của những câu nói, những nghĩ

suy ngây ngô con trẻ. Trong truyện Tuyết, cô bé Varia có những cử chỉ thật dễ thương: “Một

cô bé bím tóc đứng bên đi văng và nhìn anh (Nikôlai) bằng cặp mắt sung sướng. Nhưng nó

không nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền vàng trên tay áo anh” [65, tr. 281]. Cuộc đối thoại

giữa cô bé và Nikôlai cho thấy tính cách hồn nhiên của em:

– Mẹ cháu cứ tưởng mẹ cháu là người lớn. – Con bé thì thầm với một vẻ bí mật. –

Thế nhưng mà mẹ cháu chẳng phải là người lớn tí nào. Mẹ cháu chỉ là một cô bé nhóc

còn xoàng hơn cả cháu nữa kia.

– Tại sao – Anh hỏi?

Nhưng con bé không trả lời, nó nhoẻn miệng cười và chạy ra ngoài [65, tr. 282].

Chú bé chăn bò Alếchxây được miêu tả với những dáng nét bề ngoài cụ thể: “Chú

người nhỏ nhắn, tóc vàng hoe, đội mũ lưỡi trai rộng, mặc áo bông rách, tay cầm chiếc roi

dài. Chú kéo lê chiếc roi trên cỏ ướt” [65, tr. 293]. Nhưng điều khiến người đọc ấn tượng ở

chú là điệu bộ trẻ con: “Chú chăn bò hỉ mũi, đưa ống tay áo dài sát đất lên quệt ngang, nhìn

tôi và nói bằng một giọng rin rít: Chào bác! Sương xuống cứ như mưa ấy. Chịu hết nổi, bác

ơi!” [65, tr. 293]. Ở chú có một niềm tin mãnh liệt vào những điều kì diệu trong những câu

chuyện phiêu lưu kì thú của người lớn. Bằng niềm tin thành thực trẻ thơ ấy, chú đã bắt chước

những vị khách du lịch lạc trên hoang đảo, viết bức thư và bỏ trong cái chai để nhờ sóng biển

mang đến cho người cha thân yêu ngoài mặt trận xa xôi. Tương tự, cô bé Varusa, “cây hoa

tử la tết đuôi xam” với cặp mắt xanh biếc đã ngây thơ tin vào điều kì diệu mà chiếc nhẫn

bằng thép sẽ mang lại. Khi vô tình đánh rơi chiếc nhẫn, cô bé buồn khổ và có những biểu

hiện thật ngộ nghĩnh:

“Nó thường cứ chúi vào sau bếp lò và khóc khe khẽ vì thương ông và trách mình.

Thật là đồ ăn hại! Cứ mải chơi mãi đến nỗi đánh rơi mất chiếc nhẫn. Thật đáng đánh

lắm. Đáng lắm!

Nó đấm vào mình để tự phạt mình. Cụ Kudơma hỏi:

– Cháu đang cãi nhau với ai đấy?

– Dạ, với Xiđơrơ. – Varusa trả lời. – Nó không nghe lời. Chỉ muốn gây sự thôi” [65,

tr. 352].

Cô bé Đanhi trong Lẵng quả thông được miêu tả với một vẻ đáng yêu: “Nó từ từ nhắm

mắt lại. Khi nó mở mắt, Grigơ nhận thấy con ngươi của nó có màu xanh lá cây nhạt và vòm

lá rừng lấp lánh trong mắt nó như những đốm lửa nhỏ” [65, tr. 387]. Trong cách Đanhi

thuyết phục Grigơ cho cô xem trước món quà hay mời nhà soạn nhạc này ghé nhà chơi,

người đọc nhận thấy sự nũng nịu dễ thương của trẻ thơ. Tương tự, cô bé Masa cũng có một

cuộc sống vô tư, vui vẻ bên những người bạn nhỏ – những loài vật ngộ nghĩnh trong vườn

nhà bà. Masa có những thắc mắc hồn nhiên trong sáng về cái cách anh bộ đội đếm lá cây cho

dễ ngủ: “Masa bước ra vườn và nhìn lên cây đoạn, bật cười. Ôi làm sao mà đếm hết những

chiếc lá đoạn được, chúng nhiều đến hàng nghìn, đến nỗi nắng cũng không thể xuyên qua

được. Chú bộ đội này ngộ thật” (Vườn nhà bà) [65, tr. 443].

Nhân vật trẻ thơ trong trang viết Thạch Lam thường là những đứa trẻ ở độ tuổi “ăn

chưa no lo chưa tới” nhưng ở chúng đã xuất hiện sự ý thức và lòng tốt trinh bạch đáng quý.

Lan và Sơn trong Gió lạnh đầu mùa bất chợt nảy ra ý định về lấy áo cho Hiên, đứa trẻ nghèo

ở xóm chợ. Khi chuyện bị phát hiện, chúng sợ mẹ mắng. Thạch Lam miêu tả ngắn gọn cuộc

đối thoại giữa hai chị em Lan, Sơn mà người đọc thấy được nét ngây thơ, hồn nhiên trong

tâm hồn chúng. Chẳng hạn:

“ Gần đến chiều, Sơn và chị chưa đòi được áo. Lan trách em:

– Sao em lại nghĩ đem cho nó cái áo ấy, có phải bây giờ mợ mắng chết không?

– Ai biểu chị về lấy? Nếu chị không về lấy thì em biết đâu?

Chị Lan đấu dịu:

– Thôi bây giờ phải về nhà vậy chứ biết làm thế nào?

– Nhưng mà em sợ lắm.” [65, tr. 93]

Hai anh em trong Tiếng chim kêu cũng là những đứa trẻ sớm có lòng trắc ẩn. Trong

một đêm mưa gió bão bùng, chúng cảm thương con chim bị nạn sau hè, muốn trở dậy cứu

con vật đáng thương ấy nhưng lại đùn đẩy nhau vì trời rét quá. Thạch Lam đã miêu tả rất thật

chất trẻ con ở chúng qua sự đùn đẩy nhau mở cửa hay nỗi vui sướng tột cùng của chúng khi

phát hiện ra chẳng có con chim nào bị nạn trong đêm hôm ấy. Ngoài ra, truyện của Thạch

Lam còn có những nhân vật trẻ thơ nhưng vì hoàn cảnh cuộc sống, chúng đã già trước tuổi.

Tâm hồn non nớt ngây thơ của chúng sớm bị “nhiễu” bởi những lo toan cơm áo hằng ngày.

Đó là mấy đứa trẻ nhà nghèo ở xóm chợ phải lom khom nhặt nhạnh kiếm tìm những thứ còn

dùng được trong đống rác rưởi mà người ta để lại; chị em Liên An còn nhỏ nhưng đã biết

trông coi cửa hàng tạp hóa, biết tính toán để buôn bán, nhất là Liên, cô bé đã ra dáng một

người chủ cửa hàng (Hai đứa trẻ). Đó còn là mấy đứa trẻ ở xóm ngụ cư, bươn chải cùng mẹ

để có miếng ăn (Nhà mẹ Lê). Chúng không chỉ chịu cảnh đói ăn mà còn khổ sở, tê tái vì rét

mướt (Gió lạnh đầu mùa).

Cùng dành nhiều trang viết cho trẻ thơ, Nguyên Hồng, Mácxim Gorki đã đưa cả

những đứa trẻ sớm bị dòng đời quăng quật vào những truyện ngắn, hồi kí của mình. Trong

tập hồi kí Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng đã mô tả chân thực cuộc sống tủi cực, cù bơ cù

bất của nhân vật “tôi” (cậu bé tên Hồng) và những “bạn bè” của cậu. Sống xa mẹ từ nhỏ, lớn

lên trong cảnh ghẻ lạnh của họ hàng bên nội, từ rất sớm Hồng đã trải qua cảnh lêu lổng đầu

đường xó chợ, học nhiều mánh khóe để có tiền. Với tài đánh đáo hạng “siêu”, cậu bé biết

“ăn cánh với những đứa gian ngoan, ngạo ngược”, “bóc lột những đứa khờ khạo”. “Bằng

hữu” và cũng là nạn nhân của cậu là “mọi hạng trẻ hư hỏng của các lớp cặn bã”: “Tụi trẻ

này tuy sống bằng những nghề nhỏ mọn như bán báo, bán xôi chè, bánh kẹo, hoa quả, bán

các đồ chơi lặt vặt, đi ở bế em hay đi nhặt bóng quần, hoặc ăn mày, ăn cắp từ con cá lá rau;

tụi trẻ này tuy rách rưới, bẩn thỉu, nhịn đói, mặc rét luôn, nhưng hễ kiếm được tiền là phung

phí. Quà gì chúng cũng ăn. Thua bạc bao nhiêu cũng không tiếc. Cảnh đời đày đọa chúng như phải có cái say sưa trong sự bê tha kia để mà an ủi” 1. Hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng

nói của chúng nhuốm màu sắc “bụi đời”. Chẳng hạn, chỉ qua mẩu đối thoại nhỏ, đứa trẻ lang

thang đã bộc lộ tính thất học:

“Một lần, tôi vỗ vai thằng bạn nằm duỗi dài trên bãi cỏ, phì phèo hút thuốc lá:

– Thôi mày ạ, trả nó mấy xu đi.

[…] Nó bĩu dài môi trả lời tôi: – Kệ mẹ nó, dại thì chết. Có thế mới mở mắt ra” 2.

Tương tự, bộ tự truyện Thời thơ ấu của Mácxim Gorki đã tái hiện cuộc sống cay đắng,

thiệt thòi của cậu bé Aliôsa. Cha mẹ mất sớm, cậu lớn lên trong những trận đòn của người

1 Theo http:// thuvien.maivoo.com/Truyendai/Nhung–ngay–tho–au/ Chuong8–d23120 2 Theo http:// thuvien.maivoo.com/Truyendai/Nhung–ngay–tho–au/ Chuong8–d23120

ông vốn khắc nghiệt, khó tính. Cậu sớm tự lập, bươn chải giữa dòng đời để kiếm sống và tích

lũy vốn kiến thức cho bản thân. Thế giới trẻ thơ trong truyện ngắn của Mácxim Gorki cũng

đầy ắp bao cảnh đời, số phận đáng thương. Người đọc bắt gặp ở đó những giọt nước mắt tủi

hờn của con trẻ, những ước mơ giản dị mà cháy bỏng đến se lòng. Chú bé ăn mày Liônka có

một cái chết thật bi thảm: “Trên một cái hố ngoài thảo nguyên, cách làng không xa mấy, thấy

có đàn quạ lượn vòng, và khi đến xem, người ta thấy thằng bé nằm sấp dưới hố, hai tay dang

rộng, mặt úp vào lớp bùn sền sệt đọng lại dưới đáy hố sau trận mưa” (Lão Arkhíp và bé

Liônka) [54, tr. 1893]. Còn Lenka, cậu bé tật nguyền sống dưới cái hầm đen ngòm và dơ bẩn,

hầu như không được thấy ánh sáng mặt trời. Cậu chỉ biết làm bạn với cái “sở thú” ngộ

nghĩnh của mình: những con nhện, con ruồi, lũ gián ... Trong cuộc sống cô độc và nhàm

chán, Lenka đã quen giao tiếp bằng tiếng chửi: chửi những con côn trùng, chửi cả mẹ mình.

Lời tâm sự của cậu bé với người khách lạ tốt hé lộ một niềm khát khao cháy bỏng: “Cháu sẽ

lớn lên. Mẹ sẽ làm cho cháu một chiếc xe lết, cháu sẽ lết qua các phố để ăn xin. Xin xong

cháu sẽ lết ra đồng thoáng” [54, tr. 526].

Viết về trẻ thơ, Pauxtốpxki và Thạch Lam không cần đến những kĩ thuật phức tạp

mà đã dùng cả tấm lòng để lắng nghe, thấu hiểu và diễn tả chân xác thế giới thần tiên

trong trẻo trong tâm hồn các em bằng một trái tim không hề già cỗi. Nhân vật trẻ thơ của

Thạch Lam và Pauxtốpxki thường là “trẻ ngoan”. Chúng hành xử nhẹ nhàng, tinh tế, đặc biệt

là không dùng ngôn ngữ đường phố. Các ông đã đặt vào những mầm non cuộc sống ấy lòng

tin tưởng, sự trân trọng, nâng niu và đặc biệt là lòng yêu thương vô bờ.

Ngoài nhân vật trẻ em, người phụ nữ cũng được Pauxtốpxki và Thạch Lam dành nhiều

bút lực để miêu tả, khắc họa. Khi miêu tả, Pauxtốpxki thường xuyên sử dụng những tiểu tiết.

Việc đi vào chi tiết một cách tỉ mỉ chứng tỏ sự quan sát tinh tế của tác giả. Trong các nhân

vật phụ nữ, hầu như người nào cũng để lại ấn tượng với những nét chấm phá mang dấu ấn

riêng biệt. Maria Tsernưi nổi bật với vẻ kiều diễm: “Nếu bạn cũng như tôi, cùng thời với

nàng, thì chắc hẳn phải nghe nói đến cái sắc đẹp thanh tú của người phụ nữ này, nghe nói

đến cái dáng đi thanh thoát, tính tình kiêu kì nhưng đầy quyến rũ của nàng” (Suối cá hương)

[65, tr. 408]. Chỉ với một phép so sánh, người đọc cảm nhận được nhan sắc tuyệt mĩ của

nàng: “Không một người đàn ông nào dám hi vọng ở tình yêu của Maria Tsernưi. Họa

chăng có những người như Sile mới xứng đáng tình yêu của nàng” [65, tr. 408]. Tachiana

thu hút với “khuôn mặt xanh xao và nghiêm trang”,“đôi mắt sâu thẳm và chăm chú” [65, tr.

281]. Người thiếu phụ trong Gió biển lại có vẻ đẹp ẩn giấu với “những ngón tay dịu dàng và

nhỏ nhắn” [65, tr. 291]. Onga (Suối cá hương) có vẻ quyến rũ kì lạ với: “dáng trẻ trung và

đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ”, “khuôn mặt trầm tư”,“vầng trán thanh sạch” [65, tr.

317]. Êlêna Pêtrốpna (Cầu vồng trắng) lại nổi bật với một giọng nói truyền cảm, “nghe như

lới hứa hẹn của hạnh phúc”. Giọng hát lanh lảnh, trong và cao vút của Xônxeva (Âm nhạc

Vécđi) đã biểu lộ ở cô gái một sức sống dạt dào của tuổi trẻ. Thế nhưng, với Pauxtốpxki, việc

khắc họa ngoại diện là để làm nổi bật tính cách, tài năng. Với ông, vẻ đẹp tâm hồn mới có

sức sống bền lâu. Các nhân vật nữ của ông để lại ấn tượng cho người đọc bởi vẻ đẹp vĩnh

cửu – vẻ đẹp của nhân cách, tấm lòng. Bằng sự dịu dàng và tấm lòng nhân ái, Tachiana đã

làm những việc tuy bình thường, thầm lặng nhưng chúng lại mang đến hạnh phúc ấm áp cho

Nikôlai. Người thiếu phụ từng làm y tá ở Xêvaxtôpôn đã cứu anh lính thủy và có một việc

làm tốt đẹp để đem lại sự an ủi cho anh trong những ngày dưỡng thương. Thiếu phụ Onga đã

đón tiếp thiếu tá Kuzmin chân tình như với một người bạn thân thiết và chu đáo tiễn anh ra

bến tàu, thận trọng dẫn anh qua những bậc thang mục. Êlêna đã nỗ lực đáp lại tấm tình của

một người bạn chưa từng quen biết và chị đã tìm thấy hạnh phúc của cả cuộc đời mình…

Những người phụ nữ đã lớn tuổi như người phụ nữ gốc Pháp trong Lời cầu nguyện của

Mađam Bôvê, người mẹ già trong Bức điện, người bà trong Vườn nhà bà cũng hiện lên rõ nét

với tấm lòng nhân hậu, dạt dào tình yêu thương. Chỉ với chi tiết nhỏ: “Đôi mắt sáng long

lanh, nụ cười, dáng điệu thoải mái khi bà ta gập chiếc quạt lại!” [65, tr. 304] tác giả đã khắc

họa cốt cách quý tộc của người đàn bà Pháp chân chính.

Nhân vật nữ trong sáng tác của Thạch Lam trước hết là những thiếu nữ trẻ trung, xinh

tươi. Miêu tả hình thức bề ngoài, Thạch Lam không miêu tả nhân vật theo kiểu cơ thể học

với đầy đủ mắt mũi, chân tay mà với những nét chấm phá độc đáo. Ông chủ yếu đi vào một

vài nét ngoại diện tiêu biểu, sống động để thể hiện tâm hồn nhân vật. Nga mang vẻ đẹp

của những bông hoa đồng nội, mơn mởn, xinh tươi với “tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông

trên cổ nhỏ”, bàn tay “trắng hồng nhỏ nhắn” [44, tr. 182], mái tóc thoang thoảng hương

thơm như giắt hoàng lan. Ở Hậu là một sức trẻ dẻo dai: “Người cô nổi trên nền lá xanh như

một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo chiều gió bay phất phới, và tất cả

ánh nắng, lá cây, bóng mát cũng hình như đang tưng bừng giỡn múa chung quanh người

thiếu nữ tươi tắn ấy” [44, tr. 109]. Còn Lan lại nổi bật với vẻ duyên dáng, nữ tính: “Thân thể

trẻ tươi và dẻo dang của nàng vươn cong dưới bóng cây và tấm áo mảnh căng sát để phô

hẳn những đường mềm mại” [44, tr. 231]. Mai mang vẻ đẹp của “một bông hoa quý”: “mặt

nàng đều đặn, cái cằm nhỏ, cái cổ tròn và trắng như sữa” [44, tr. 197]. Hầu hết các nhân vật

nữ trong trang viết của Thạch Lam mang vẻ đẹp trong sạch, thanh cao, không có dấu vết của

nhục thể.

Cũng như Pauxtốpxki, Thạch Lam đã dành nhiều chi tiết đặc tả tấm lòng nhân hậu,

đức hi sinh cao cả, sự tần tảo chịu thương chịu khó của những người phụ nữ Việt Nam. Họ

để lại ấn tượng sâu sắc bởi vẻ đẹp nhân cách và sự tận tụy với nghĩa vụ làm người. Cuộc đời

của Tâm (Cô hàng xén), Mai (Bóng người xưa), Tâm (Một đời người), mẹ Lê (Nhà mẹ Lê)...

luôn gắn liền với những bổn phận, trách nhiệm và họ đẹp trong những bổn phận đời thường

đó. Viết về người phụ nữ, nếu như Nhất Linh, Khái Hưng (những cây bút cùng nhóm “Tự

lực văn đoàn” với Thạch Lam) nỗ lực xây dựng hình tượng con người mới, dũng cảm đấu

tranh chống lại tư tưởng lỗi thời, cổ hủ để đòi quyền bình đẳng, quyền hạnh phúc cho bản thân 1 , thì Thạch Lam vẫn kiên trì với hình ảnh người phụ nữ truyền thống hiền lành, chân

chất. Do vậy, nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam là những con người nhỏ bé, phần

lớn họ an phận trong hoàn cảnh hiện tại. Chính sự nhẫn nại, cam chịu làm cho họ có phần

cao quý hơn nhưng mặt khác cũng làm cho họ bé nhỏ đi.

Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn của hai nhà văn là những thiếu nữ, thiếu phụ

trẻ trung, xinh đẹp, dịu dàng nữ tính hay những phụ nữ luống tuổi, nhưng tất cả đều gặp nhau

ở nhân cách cao đẹp. Cái thế giới ấy khác với thế giới các bà, các cô trong truyện ngắn của

Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Mácxim Gorki bởi nó hoàn toàn vắng bóng những

người phụ nữ méo mó về nhân hình, nhân tính. Là nhà văn của lớp người dưới đáy, Mácxim

Gorki đã dành nhiều sự ưu ái cho những người phụ nữ cùng khổ, kể cả con người có vẻ bề

ngoài tàn tạ như nhân vật Maska: “Chị ta cũng nói năng như con nít, câu kéo như của một cô

bé mới lớn. Mà đôi mắt của chị cũng trong trẻo như mắt trẻ thơ, khiến cho cái mặt không có

mũi, cái môi trên nhếch lên và hàm răng cửa để hở, trông lại càng quái gở hơn nữa. Một cơn

ác mộng biết đi, nhưng cũng là một trò đùa biết đi, và là một trò đùa vui vẻ” [54, tr. 528].

Nguyên Hồng cố gắng tìm tòi chút nhân cách còn le lói trong những người đàn bà tội lỗi,

phạm pháp như nhân vật Bảy Hựu, Chín Huyền trong truyện ngắn cùng tên của ông. Còn

Nguyễn Công Hoan phơi trần bộ mặt dối trá của những kẻ ra dáng đạo đức, chính chuyên:

1 Nhân vật Mai trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân (Khái Hưng), nhân vật Loan trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt (Nhất Linh) là những người phụ nữ mạnh mẽ, có tư tưởng mới mẻ, tiến bộ.

một bà quả phụ quan tuần phủ kia kiếm được bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” bằng cách vứt

bỏ chính cái tiết hạnh của mình (Một tấm gương sáng), một bà tham đã đền ơn chồng bằng

cách Thế rồi mợ nó đi Tây. Nhìn chung, các nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam và

Pauxtốpxki được chấm phá bởi những nét vẽ tinh tế về ngoại hình và họ nổi bật bởi sự

toàn vẹn, đầy đặn về nhân cách. Cả hai nhà văn đều ưa chuộng vẻ đẹp cổ điển với dáng nét

thanh sạch, tinh khiết, đặc biệt là sự cao quý về mặt tâm hồn.

Các nhân vật nam trong truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki thường ít ỏi hoặc

thiếu vắng đặc điểm về ngoại hình nhưng ngồn ngộn những chi tiết đặc tả tính cách, tâm

tư, tình cảm. Pauxtốpxki đã xây dựng thành công chân dung người lính với vẻ đẹp nội tâm

sâu sắc. Đó là những người con trai mang trong mình bầu nhiệt huyết cống hiến cho đất

nước, đặc biệt ở họ có sự kết hợp hài hòa giữa một tinh thần “thép” và một tâm hồn giàu cảm

xúc, giữa trái tim quả cảm và lòng nhân hậu cao cả. Kuzmin (Bình minh mưa), Pêtrốp (Cầu

vồng trắng), anh lính thủy (Gió biển), Vania (Trái tim nhút nhát), Nikôlai (Tuyết), vị tư lệnh

(Âm nhạc Vécđi) là những con người mang vẻ đẹp anh hùng chan hòa với vẻ đẹp dung dị đời

thường. Ngoài ra, nét riêng trong thế giới nhân vật của Pauxtốpxki là sự xuất hiện của những

con người nghệ sĩ. Họ là chủ thể sáng tạo nên cái đẹp ở đời với một tâm hồn tinh tế và tài

năng thiên bẩm. Tuy vậy, họ lại gần gũi và giản dị biết bao, dường như không có một ranh

giới nào giữa những nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ với những con người bình thường trong cuộc

sống. Nhà soạn nhạc nổi tiếng Êđua Grigơ (Lẵng quả thông) lại có một vẻ chất phác, nhân

hậu chẳng khác gì lão Êgo (Trái tim nhút nhát), cụ Kudơma (Chiếc nhẫn bằng thép). Vì vậy

mà cô bé Đanhi cứ thao thao bất tuyệt kể chuyện, “tranh cãi” với Êđua và mời ông về nhà.

Nhạc sĩ thiên tài Môda, người có tài năng làm xiếc với những giai điệu bổng trầm, tạo ra

những bản nhạc tuyệt vời, lại là “một người lạ mặt” rất mực thân thiện, tốt bụng, hào phóng

với cha con người đầu bếp già. Người kể chuyện cổ tích Anđécxen (Chuyến xe đêm) hay nhà

văn Alan (Bình nguyên tuyết phủ) đều mang dáng nét bình dị, mộc mạc, thậm chí cả những

khiếm khuyết rất đời thường. Những nhân vật nghệ sĩ xuất hiện với số lượng đáng kể trong

trang viết của Pauxtốpxki cũng bởi họ gần gũi quá với tâm hồn đa cảm và đắm say cái đẹp

của ông. Bên cạnh đó, Pauxtốpxki còn miêu tả những con người xấu xí với đường nét ngoại

hình “méo mó” và đây chính là “thủ pháp đòn bẩy” để làm nổi bật vẻ đẹp nhân ái tiềm ẩn

trong tâm hồn họ. Anh thợ hốt rác thành Pari Giăng Samét (Bông hồng vàng) với vẻ ngoài dị

dạng “thân hình gớm ghiếc lê lết trên đôi chân tế thấp khập khiễng” – nhưng lại mang trong

mình một đức hy sinh lớn lao vô bờ. Anh sẵn sàng làm tất cả để mang lại hạnh phúc cho

người mình yêu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp (Âm nhạc Vécđi) “nhỏ bé, chắc nịch” mà hành

động thì dứt khoát, kiên quyết vì hạnh phúc của người ca sĩ đang chịu áp lực vì khổ đau.

Những ông lão như cụ Kudơma (Chiếc nhẫn bằng thép), lão Tikhôn (Bức điện), ông Êgo

(Trái tim nhút nhát) lại là hiện thân của sự cứng cỏi, mạnh mẽ, nhân hậu như cây sồi cổ thụ

đã kinh qua bao biến thiên thời tiết, là chỗ dựa vững chắc cho những người thân.

Các nhân vật nam trong truyện Thạch Lam đa phần là những trí thức bình dân. Tân

(Đứa con đầu lòng) không rõ về ngoại hình, tuổi tác nhưng qua những biểu hiện: “tò mò

ngắm cái đầu bé phủ tóc đen và mượt”, “không thấy cảm động như chàng tưởng, và cũng

không thấy có một tình cảm gì đối với đứa con mới đẻ” [44, tr. 8] người đọc thấu hiểu tâm

trạng của một người đàn ông còn rất trẻ, rất lạ lẫm với vai trò lần đầu làm cha. Diên (Trong

bóng tối buổi chiều) hiện ra với cảm giác u uất, tủi buồn vì sự thay đổi đến quay quắt, chóng

mặt của cô bạn gái, vì sự lạc lõng bơ vơ ở chốn thị thành và sự vỡ tan của những mộng đẹp

ngày trước. Thanh (Dưới bóng hoàng lan) tuy đã trưởng thành nhưng khi trở về bên bà,

chàng lại có biểu hiện rất...trẻ con: “Nghe tiếng bà đi vào. Thanh nằm yên giả vờ ngủ” [44,

tr. 182]. Phần lớn, các nhân vật nam trong truyện Thạch Lam khi bị cuộc đời “dồn đẩy”, “xô

ngã”, họ đành bất lực, buông xuôi với cái nhìn tiếc hận thấm thía, như trường hợp của Minh

(Cái chân què), Bào (Người bạn trẻ), người lính (Người lính cũ). Một số là nhân vật chưa

hoàn kết về tính cách, chẳng hạn như Sinh (Đói), Tiến (Tiếng sáo), Bính (Buổi sớm), thật

khó để xếp anh ta vào người tốt hay kẻ xấu mà đòi hỏi người đọc phải có cái nhìn toàn diện,

soi ngắm nhiều chiều.

Nét riêng trong việc xây dựng nhân vật của Thạch Lam là tác giả đã tạo ra những con

người mang dấu ấn tự thuật của bản thân ông nhà khá rõ nét (nhân vật mang tính tự thuật ở

truyện của Thạch Lam “đậm đặc” và “sắc nét” hơn ở truyện của Pauxtốpxki). “Chất tiểu sử

trong văn xuôi Thạch Lam, bộc lộ ra trước tiên là ở nhân vật” [56]. Người ta có thể tìm thấy

bóng dáng của Thạch Lam qua mỗi truyện ngắn của ông, chẳng hạn qua chú bé Sơn (Gió

lạnh đầu mùa), An (Hai đứa trẻ), nhân vật xưng “tôi” (Người lính cũ, Người đầm, Người

bạn cũ, Người bạn trẻ), qua hàng loạt nhân vật người trí thức bình dân... Do bởi dù kể

chuyện mình hay chuyện người thì “ở đó hiện lên hình ảnh một con người thống nhất” – con

người tác giả. Trong Thạch Lam hay trong các nhân vật của ông, sự buồn chán không bao

giờ dẫn đến sự buông tuồng hay lối sống tùy tiện, mất hết nhân cách. Vì vậy thế giới nhân

vật của Thạch Lam hoàn toàn xa lạ với những con người bị lưu manh hóa, những “thằng

người” trong xã hội. Chính điều này làm nên nét riêng giữa Thạch Lam và các cây bút đồng

thời với ông như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan (Các nhà văn hiện thực này đã phơi

bày mặt trái của xã hội Việt Nam trước năm 1945 với những nhân vật bị “méo mó” về nhân

tính, mà tính cách phổ biến nhất là lưu manh). Nhân vật của Thạch Lam cũng bị ám ảnh với

cái đói (Đói, Nhà mẹ Lê) nhưng chưa bao giờ họ để miếng ăn làm mình biến chất như nhân

vật của Nam Cao. Dù ở vị trí nào, cảnh huống nào, các nhân vật trong trang viết của Thạch

Lam tuy nhỏ bé nhưng không thấp hèn, trước sau họ vẫn giữ được cốt cách cao quý của con

người được giáo dục chu đáo trên nền tảng đạo đức truyền thống.

3.2.3.2. Con người của những cảm xúc vi tế

Hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki tuy là những con

người bình thường, giản dị nhưng tâm hồn họ rất phong phú, nhạy cảm và tinh tế. Các nhân

vật trong trang viết của Pauxtốpxki đặc biệt “nhạy” với âm thanh. Tâm hồn họ sẵn sàng rung

lên với những xao động dù rất khẽ khàng của vạn vật. Trong một đêm không ngủ, trên boong

tàu, Masa “lắng tai nghe những tiếng động ban đêm”, cô nắm bắt được một bản hòa tấu của

thiên nhiên: “Một tiếng ầm ĩ xa xa vẳng lên trên bầu trời, rồi từ từ tắt dần. Có lẽ một chiếc

máy bay vừa lao qua. Một con cá quẫy mạnh ở gần bờ, rồi xa xa, tiếng tù và mục đồng nổi

lên, xa đến nỗi đầu tiên Masa không hiểu những tiếng ngân dài du dương đó là tiếng gì”

(Cây tường vi) [65, tr. 251]. Thiếu tá Kuzmin say sưa với “một tiếng reng reng mơ hồ”, “có

thể là rừng, hay không khí, hay là tiếng rít của những dây điện thoại. Mà cũng có thể là

tiếng reo khi tàu chạy” (Bình minh mưa) [65, tr. 319]. Pêtrốp nghe được trong giọng nói của

người con gái mình yêu cả dư vị của hạnh phúc: “Trong giọng nói của Elêna Pêtrốpna có cả

sự dịu dàng và sự lo âu như đêm tháng Chạp” (Cầu vồng trắng) [65, tr. 330]. Cô bé Varusa

cảm nhận rất rõ bước đi của mùa xuân: “Mùa xuân lướt trên đồng ruộng như một nữ chủ

nhân trẻ tuổi. Mùa xuân bước đi và mỗi bước đi các con suối reo ca càng nhộn nhịp tưng

bừng hơn” (Chiếc nhẫn bằng thép) [65, tr. 353]; và cả những thanh âm trong trẻo, mỏng

manh như “một con bọ dừa đánh chuông và đang đập chân vào những sợi mạnh nhện bằng

bạc” trong mỗi bông hoa. Tương tự, Alan trong đêm tối đã bắt nhịp với những vang động

tinh tế : “từ những đóa hoa phát ra một âm thanh mảnh dẻ, tưởng chừng trong mỗi bông hoa

có một sợi dây đàn nhỏ bé” (Bình minh tuyết phủ) [65, tr. 369].

Ngoài ra, con người trong các truyện ngắn của Pauxtốpxki có một tình yêu sôi nổi với

âm nhạc và tâm hồn họ trở nên “mềm mại”, tinh tế lạ thường trước những giai điệu được cất

lên từ phím đàn. Cụ Iôhan (Người đầu bếp già) đã gặp gỡ giấc mơ hạnh phúc của đời mình

từ bản nhạc của nghệ sĩ thiên tài Môza. Cô bé Đanhi cảm nhận được cái tuyệt mĩ của cuộc

đời với món quà âm nhạc của nhà soạn nhạc Êđua Grigơ: “bản nhạc đã không còn ca hát.

Nó đang kêu gọi. Nó kêu gọi con người đi theo nó đến một xứ sở, nơi không đau khổ nào có

thể làm nguội lạnh tình yêu, nơi không có ai giành giật hạnh phúc kẻ khác, nơi mặt trời sáng

chói như vòng triều thiên trên đầu một nàng tiên trong cổ tích” (Lẵng quả thông) [65, tr.

396]. Quả thật điều này chẳng hề xa lạ với những con người vốn được dưỡng nuôi từ chiếc

nôi âm nhạc

Cũng hướng vào thế giới nội cảm muôn màu muôn vẻ của con người, Thạch Lam

miêu tả họ trong những mảng màu xung đột sáng – tối. Trong bóng tối, thế giới nội tâm của

con người được phơi bày rõ rệt: những cảm xúc tốt đẹp nảy nở (Bóng người xưa, Bắt đầu,

Tiếng chim kêu); sự ngậm ngùi cho cảnh ngộ trớ trêu, (Tối ba mươi, Người lính cũ); ý thức

về thân phận (Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê). Vì cuộc đời bị bao quanh bởi bóng tối đậm đặc nên

nhân vật luôn hướng đến ánh sáng với bao ước vọng, khát khao. Chẳng hạn, trong Hai đứa

trẻ, những con người ở phố huyện nghèo mỗi ngày đều chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua bởi

nó dường như mang theo cả một thế giới thu nhỏ đầy ánh sáng. Mặt khác, trong trang viết

của Thạch Lam người đọc còn bắt gặp những con người rất “mẫn cảm” với mùi vị của đồng

đất quê hương. Cô hàng xén Tâm nhận ra mùi của ao bèo, bùn đất khi về đến đầu làng và

điều đó đem lại cho cô cảm giác thư thái. Tân (Những ngày mới) hạnh phúc với hương lúa

chín và mùi rơm rạ. Cô bé Liên (Hai đứa trẻ) nhận thấy trong mùi rác rưởi ở phố chợ “mùi

riêng của đất, của quê hương này”. Thanh (Dưới bóng hoàng lan), Bính (Buổi sớm) cũng rất

“nhạy” với mùi vị của chốn quê nhà...

Tóm lại, yếu tố kĩ thuật trong xây dựng nhân vật cho câu chuyện ở Thạch Lam và

Pauxtốpxki là việc chấm phá về ngoại hình, phô bày nội tâm nhân vật. Cả hai nhà văn đều

có xu hướng “khuynh nữ”, và “ưu ái” trẻ thơ. Thế giới nhân vật trong trang viết của Thạch

Lam và Pauxtốpxki là những con người bình dị, đời thường. Phải chăng họ là hiện thân của

cái đẹp mà các ông đang kiếm tìm hay là một ẩn ức chìm sâu trong vô thức của những nhà

văn có trái tim đa cảm này?! Với Thạch Lam, chắc hẳn tuổi thơ sống với bà nội và mẹ ở

chốn quê đã ít nhiều quy định cách tạo dựng nhân vật phụ nữ chiếm ưu thế ở ông.

Nếu như nhân vật của Pauxtốpxki luôn mang trong mình lòng yêu đời và tinh thần lạc

quan phơi phới thì hầu hết nhân vật của Thạch Lam không có xu hướng chống trả quyết liệt

lại hoàn cảnh. Điều này khúc xạ cái nhìn của tác giả về hiện thực khách quan trong hoàn

cảnh lúc bấy giờ. Trong cuộc sống đương thời, Pauxtốpxki đã tìm thấy cho mình hướng đi

với niềm tin, ước mơ được chắp cánh. Còn Thạch Lam sống trọn cuộc đời trong xã hội Việt

Nam đêm trước cách mạng tháng Tám, bản thân ông và một số nghệ sĩ cùng thời dường như

mất phương hướng, cái nhìn đời không khỏi mang màu sắc bi quan. Nếu như các nhân vật

của Pauxtốpxki nhạy bén với tình yêu và hạnh phúc thì hầu hết “những người con tinh thần”

của Thạch Lam tuy chưa đủ dũng cảm vượt lên hoàn cảnh thực tại để chạm tay vào cuộc

sống hằng mơ ước nhưng họ luôn biết quý trọng, nâng niu những niềm vui nho nhỏ hay

những điều tốt đẹp trong đời.

3.2.4. Tạo bối cảnh, không khí trữ tình

Có thể nói sức cuốn hút của truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki có sự đóng góp

không nhỏ của bối cảnh, không khí trữ tình. Chúng là cái khung, đường viền cho tâm trạng,

cảm xúc của nhân vật, tạo nên nguồn chất thơ dồi dào cho những trang văn.

Không gian và thời gian trong tác phẩm văn học vừa là một cảm thức nghệ thuật của

người nghệ sĩ, vừa là phương thức xây dựng tác phẩm nhằm tạo dựng một thế giới nghệ

thuật sống động. Vì vậy, xây dựng cái trục không – thời gian nghệ thuật chính là việc làm

nòng cốt trong kiến tạo bối cảnh, không khí cho câu chuyện.

3.2.4.1. Không gian nghệ thuật

@ Không gian phố huyện và không gian tỉnh lị

Nếu như truyện ngắn Thạch Lam mở ra không gian phố huyện thì ở truyện ngắn của

Pauxtốpxki là không gian tỉnh lị bao trùm nhân vật. Chúng tuy khác nhau về “dung nhan”

nhưng lại giống nhau về “chất”. Đó là vùng quê, cách trung tâm thành phố, gần với thiên

nhiên. Nơi đây thưa vắng tiếng ồn ào và sự bon chen, cuộc sống diễn ra gần như tẻ nhạt

nhưng tiềm ẩn những thú vị và thi vị. Nó mang hơi thở của hương đồng gió nội với gió mát,

trăng thanh, sắc lúa chín vàng, sương mù huyền ảo, sao trời lấp lánh…

Không gian phố huyện trong truyện Thạch Lam mang gương mặt riêng với mô hình

làng – phố, một nét đặc trưng của xã hội Việt Nam buổi giao thời. Tiêu biểu cho mô hình

này là cảnh sống: “Chúng tôi ở một căn nhà nhỏ ba gian ở giữa phố, mặt trước nhìn ra

đường xe hỏa, mặt sau trông ra cảnh đồng ruộng” (Bên kia sông) [44, tr. 188]. Người đọc có

thể quay về phía làng để chiêm ngưỡng “hai bên cánh đồng lúa xanh gió đưa như nổi sóng”

(Trở về) [44, tr. 22], rồi lại hướng ra phố để chứng kiến nhà ga, tàu hỏa, tiệm ăn, cao lâu.

Không gian này của Thạch Lam không thuần nhất như làng Vũ Đại của Nam Cao, mà cũng

khác xa với mô hình thành thị ở truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng. Nó là hệ quả tất yếu của

công cuộc “đô thị hóa” mà thực dân Pháp tiến hành ở Việt Nam. Nó vọng về âm thanh náo

nhiệt chốn thị thành nhưng cũng đủ yên tĩnh, lặng lẽ để con người suy ngẫm về cuộc sống và

cảnh ngộ của bản thân. Đây là kiểu mô hình cấu trúc không gian phù hợp để nhà văn chiêm

nghiệm cuộc đời, phơi bày thế giới nội cảm “phức tạp” của nhân vật và khám phá những vẻ

đẹp còn khuất lấp, đọng chìm trong tạo vật và con người.

Không gian huyện lị trong truyện ngắn Pauxtốpxki mang chất đìu hiu, lặng lẽ mà mơ

màng rất Nga. Đó là những vùng đất xa xôi, cách xa thủ đô, thành phố. Nó có đủ hấp lực để

“níu giữ” những con người tình cờ ghé qua hay lần đầu tiên đến “chung sống”. Không gian

như thực như mơ với cảnh sương mù đẫm nắng hay tuyết rơi trắng xóa, thảo nguyên rực rỡ

sắc hoa… thật phù hợp để Pauxtốpxki tạo ra một khung trời mơ mộng, nơi nhân vật thả hồn

cho bao suy tư hay mở lòng với những cảm xúc mới mẻ chợt đến…

@ Không gian đời tư, cá thể và không gian hành trình

Một kiểu không gian chiếm ưu thế trong truyện ngắn Thạch Lam là không gian đời

tư, cá thể. Dạng thức không gian này xuất hiện trong 20/33 truyện ngắn của Thạch Lam. Đó

là không gian sinh hoạt thường ngày của nhân vật: một căn phòng ấm cúng, một chỗ trọ, một

túp lều lụp xụp, một căn nhà tranh xơ xác, cái quán chơ vơ đầu làng, gian hàng tạp hóa nhỏ,

căn phòng nhà săm lạnh lẽo… Nó có tính chất tiếp nối, bắc cầu cái không gian bao quát của

phố huyện để “hiển thị” rõ hơn từng cảnh đời của nhân vật. Từ không gian phố huyện đến

không gian đời tư, cá thể, môi trường bao quanh con người càng lúc càng “co lại”, thu hẹp

đến mức bức bối, ngột ngạt. Nhân vật hiện ra trong bối cảnh ấy với bộn bề tâm trạng: nỗi lo

toan cơm áo, hạnh phúc gia đình, đau khổ và vui sướng, ấm êm và buồn tủi… Trong cái

quán nước chơ vơ đầu làng, người lính cảm thấy trơ trọi và hoài tiếc những mộng đẹp đã trôi

qua trong đời (Người lính cũ). Cô bé Liên (Hai đứa trẻ) thấm thía cái buồn man mác của

chiều quê khi ngồi trong gian hàng tạp hóa tối om và chứng kiến những liếp nhà xung quanh

chỉ hắt ra vài “hột sáng”. Cuộc đời cô hàng xén là cái vòng luẩn quẩn từ chợ trở về nhà mẹ,

rồi nhà chồng. Đây là kiểu không gian thể hiện rõ nhất chất tù đọng, mỏi mòn, âm u trong

cuộc sống các nhân vật ở trang viết của Thạch Lam.

Nếu như Thạch Lam tâm đắc với kiểu không gian sinh hoạt thì với Pauxtốpxki là

không gian hành trình. Không gian này trở lại trong nhiều truyện ngắn của Pauxtốpxki

(15/40 truyện), cho thấy dường như trong vô thức, tác giả đã lặp lại chính mình. Đây là kiểu

không gian “động”, “mở” với sự chuyển cảnh nhanh. Chuyến tàu thủy đưa Masa đi qua

những làng mạc, ruộng đồng, đặc biệt là vùng thảo nguyên rực rỡ sắc hoa và không gian của

chuyến đi đã cho cô những phát hiện thú vị: “mọi vật quanh cô quả thật rất bình thường,

nhưng cũng rất kì lạ” [65, tr. 257]. Cuộc hành trình từ nhà ga ở Matxcơva đến Ximfêrôpôn

trên một chuyến tàu đã mở ra một không gian rộng lớn với chuỗi khung cảnh phong phú mà

“lát cắt” của nó là những bức tranh tỉnh lị tuyệt đẹp: “Những cánh rừng bạch dương ẩm ướt,

những bãi lầy nhỏ và ánh sao mờ, những nhà ga lát đá được một ngọn đèn hộp cô độc chiếu

sáng, ánh lửa trong các làng, những cánh đồng cỏ vương vấn khói sương và rồi lại những

cánh rừng bạch dương xào xạc chạy trong bóng tối” [65, tr. 380]. Chiều dài của không gian

hành trình như “giãn nở” tối đa với các làng mạc nối tiếp nhau hiện ra trong tầm ngắm của

nhân vật. “Cánh đồng lúa chín vàng óng và thảo nguyên bát ngát xanh lại trải dài trước

mắt” [65, tr. 385]. Quả thật, không gian hành trình là sự “kéo giãn”, “nới rộng” không gian

tỉnh lị. Điểm đầu và điểm cuối trong không gian ấy thường là nhà ga, bến tàu – nơi diễn ra

những cuộc hội ngộ hay chia ly thú vị… Sân ga là nơi chàng sĩ quan Pêtrốp có cuộc gặp gỡ

Êlêna, người con gái có tâm hồn đồng điệu với anh (Cầu vồng trắng); nơi cô gái Naxtia thức

tỉnh và sống thật với cảm xúc đang trào dâng trong lòng. Cuộc chia tay bùi ngùi, lưu luyến

trong tình yêu giữa Masa và anh phi công (Cây tường vi); Onga – Kuzmin (Bình minh mưa)

đã diễn ra ở bến tàu thủy. Trên thùng xe tải, một chuyến xe đêm, hay tàu tốc hành, các nhân

vật có cuộc hội ngộ đầy bất ngờ, những cuộc chuyện thân tình, ấm cúng. Do vậy, không gian

hành trình còn là nơi gặp gỡ của tình yêu, của cái đẹp, là môi trường thích hợp để chủ thể

nhận thức khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của tạo vật và cảm xúc mới mẻ trong lòng mình. Việc

lựa chọn kiểu không gian này có sự chi phối của sở thích “xê dịch” mà ông đã thực hiện nó

trong hầu hết cuộc đời.

@ Không gian tâm tưởng

Không gian tâm tưởng là dạng thức không gian phổ biến trong cả truyện ngắn Thạch

Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki. Không gian này rất đa chiều, giàu sức biểu hiện, phụ thuộc

vào sự vận động tư tưởng, tình cảm, thế giới tinh thần của nhân vật, của tác giả. Nó có sự

trộn hòa giữa hiện thực và ước mộng. Pauxtốpxki đã sử dụng không gian tâm tưởng để biểu

đạt sự tưởng tượng phong phú của con người. Trên thùng xe tải, nhân vật “tôi” thả hồn phiêu

du vào miền thảo mộc thơ mộng: “Khu rừng kéo thành một dải hẹp (chỉ độ hai cây số, không

hơn), còn sau rừng là cả một bình nguyên cát, nơi những cánh đồng lúa mì đang chín, lấp

lánh và lay động theo chiều gió. Đằng sau bình nguyên là một rừng tùng bách hoang dại

thẳng cánh chim bay” [65, tr. 230]. Trí tưởng tượng tiếp tục dẫn dắt nhân vật xâm nhập sâu

hơn vào thế giới của rừng: “Nếu anh bước vào trong, anh sẽ cảm thấy như mình bước vào

một giáo đường to lớn, hùng vĩ, tràn đầy bóng mát. Thoạt đầu, anh phải theo con đường tắt

hẹp đi ngang một cái ao phủ đầy bèo tấm giống như một chiếc thảm cứng màu xanh lá mạ.

Nếu anh đứng lại bên ao, anh sẽ nghe thấy lép bép: đó là những con cá chép tìm ăn rong

nước” [65, tr. 231]. Không gian tâm tưởng của nhân vật mở rộng cả ba chiều theo dòng ý

nghĩ miên man của nhân vật “tôi”. Tương tự, Alan đã “đi” lạc vào cõi mộng, liều thuốc độc

không ngăn được đôi cánh của tâm hồn ông: “Trời trở nên tối và ngột ngạt hẳn, nhưng trong

bóng đêm Alan vẫn nhìn thấy bình nguyên nở đầy hoa tím” (Bình nguyên tuyết phủ) [65, tr.

371]. Một không gian của hoài niệm và mộng ước đã đồng hiện trong tâm trí của ông lão

Iôhan qua tiếng đàn diệu kì của nhạc sĩ thiên tài Môza: “Tôi thấy ngày tôi gặp Mácta và

nàng, vì xúc động đã đánh vỡ vò sữa. Lúc ấy vào mùa đông, và Mácta cười. Nàng cười”

(Người bếp già) [65, tr. 375]. Trong dòng chảy âm nhạc của Êđua Grigơ, cô bé Đanhi nhận

ra “đó đúng là cánh rừng của nàng, quê hương nàng”, “những ngọn núi của nàng, những bài

hát của những chiếc tù và, tiếng động của biển quê” (Lẵng quả thông) [65, tr. 395]. Không

gian tâm tưởng trong truyện ngắn của Pauxtốpxki thường sống động, tươi tắn, êm đềm như

một khung trời cổ tích để nhân vật tìm thấy sự chở che, nâng đỡ cho tâm hồn mình.

Không gian tâm tưởng trong truyện ngắn của Thạch Lam chủ yếu thể hiện qua dòng

hồi ức, sự cắt dán không gian quá khứ vào không gian hiện tại. Khung cảnh của những “hàng

cà phê”, “tiệm khiêu vũ”, “cánh đồng nho”, “giếng rượu nho giữa làng”, những tỉnh lị xa xôi

của nước Pháp được tái hiện qua sự hồi tưởng của người lính cũ với một niềm tiếc nhớ xót

xa. Khung cảnh của miền quê thân thương hiện lên trong trí Diên với bao hoài tiếc: “Diên lại

nghĩ đến cánh đồng ruộng ở quê hương, đến những rặng cây mà ánh sáng buổi ban mai làm

rung động đến cái hình dáng đáng yêu của Mai khi đi bên mình chàng” (Trong ánh sáng

buổi chiều) [65, tr. 169]. Không gian bao quanh chàng văn sĩ Thành nhuốm màu hiu hắt của

một tâm hồn hụt hẫng, chơi vơi: “Mưa bụi đã tạnh từ lâu và nền mây xám tách ra, để lọt một

tia nắng vàng dịu lướt nhẹ trên ruộng mạ xanh non, trong trẻo và mong manh quá như sắp

tắt” (Cuốn sách bỏ quên) [65, tr. 178]. Khung cảnh lạnh lẽo của Hà Nội đêm ba mươi dù

hiện lên qua sự miêu tả của người kể chuyện nhưng người đọc vẫn thấy rõ ràng nó thấm

đượm tâm tư của hai cô gái sống đời trụy lạc: “Mưa bụi vẫn bay tơi tả, hình như bóng tối

khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp này. Trên hè ướt át và nhớp nháp bùn, không một bóng

người qua lại. Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu đâu khắp cả các phố Hà Nội đêm

nay” (Tối ba mươi) [65, tr. 205]. Không gian tâm tưởng trong truyện Thạch Lam thường

được tái tạo bởi nỗi niềm hoài tiếc quá vãng của nhân vật nên nó mang dư vị xót xa, thể hiện

sự xung đột giữa quá khứ và hiện tại trong cuộc đời nhân vật.

3.2.4.2. Thời gian nghệ thuật

Con người tồn tại trong không gian và suy ngẫm bằng thời gian. Thời gian nghệ thuật

bao giờ cũng là thời gian được quan niệm, thời gian cảm nhận, lí giải theo một ý tưởng nghệ

thuật của người nghệ sĩ. Vì vậy, thời gian nghệ thuật mang tính cá nhân của chủ thể sáng tạo.

Hai dạng thức thời gian chủ yếu trong truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn

Pauxtốpxki là thời gian vật lí và thời gian tâm trạng

@ Thời gian vật lí

Thời gian vật lí được hai nhà văn lựa chọn trên cơ sở thời gian thời lịch. Đó là dạng

thời gian đơn giản, có tính chất ổn định, trực tiếp gắn liền với việc miêu tả các hành động,

các sự kiện và biến cố trong tác phẩm. Thời gian vật lí xuất hiện trong sáng tác của Thạch

Lam và Pauxtốpxki với sắc thái nhạt nắng. Với thời gian trong ngày, phần lớn các nhà văn

ưa thích thời gian không chói sáng nắng, thường là từ chiều tà, đêm tối, rạng sáng, buổi sớm.

Với thời gian trong năm, phần lớn họ chọn thu và đông, xuân ít hơn và hè rất hiếm hoi.

Gương mặt bốn mùa xuất hiện cụ thể (trong 33 truyện ngắn Thạch Lam và 40 truyện ngắn

Pauxtốpxki) với tần số như sau:

Truyện Truyện ngắn Truyện ngắn

Thạch Lam Pauxtốpxki

Gương Số lượng tác Số lượng tác

Mặt các mùa phẩm phẩm

Xuân 0 2

Hè 3 1

Thu 1 2

Đông 11 19

(Bảng khảo số tần số xuất hiện của các mùa trong truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn

Pauxtốpxki)

Qua khảo sát chúng tôi thấy mặc dù hai nhà văn tập hợp trong trang viết của mình

hương sắc bốn mùa thì gương mặt mùa đông vẫn chiếm vị trí chủ đạo.

Mùa đông trong trang viết của Pauxtốpxki nổi bật bởi sắc trắng của tuyết. Trong 40

truyện ngắn mà chúng tôi khảo sát, có 19 truyện có sự xuất hiện của tuyết. Ở một số truyện,

mật độ xuất hiện của nó thật dày đặc. Chẳng hạn:

Số lượng trang Tần số xuất

Tỉ Tác phẩm của truyện hiện của từ

suất “tuyết” (lần)

Tuyết 10 1.30 13

Chiếc nhẫn bằng thép 6 3.16 19

Cầu vồng trắng 7 2.14 15

Suối cá hương 6 1.33 8

(Bảng khảo sát tần số xuất hiện của từ “tuyết” trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki )

Do nằm ở vĩ độ cao nên khí hậu Nga thuộc loại hàn đới và ôn đới – mùa đông kéo dài

rất lạnh, mùa hè ngắn. Hơn nữa, “những vùng gần cực thì hầu như không có mùa hè, đất đai

quanh năm bị cứng lạnh do các dãy núi bao bọc phía Tây Nam và Đông đã ngăn chặn ảnh

hưởng của các đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương cũng như khối khí vùng

Nam Á. Riêng vùng băng giá và vùng đài nguyên, nhiệt độ rất lạnh, băng tuyết phủ kín chín

tháng liền” [90, tr. 32].

Nếu như mùa đông ở Nga ngập tràn tuyết trắng thì ở Việt Nam là cảnh mưa phùn, gió

bấc và cái rét cắt da. Dù chỉ xuất hiện trong 8/33 truyện ngắn nhưng gương mặt mùa đông

đồng bằng Bắc Bộ đã được Thạch Lam khắc họa rõ nét. Nó có đầy đủ những đường nét khắc

khổ, dữ dội: “gió lạnh rít qua mái tranh, giá lạnh và gió mưa lầy lội” [44, tr. 17], “mưa

phùn ẩm ướt và tối tăm” [44, tr. 35], “trời rét như cắt ruột mà gió lại thổi mạnh” [44, tr.

69], “mặt đất rắn lại và nứt nẻ những đường nho nhỏ, kêu vang lên tanh tách dưới nhịp

guốc hai chị em” [44, tr. 91], “gió bấc vi vút từng cơn” [44, tr. 210], “sương trắng còn đầy

ở các ngõ trong làng” [44, tr. 216]… Đây là vùng đồng bằng duy nhất ở Việt Nam có một mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 Co. Hơn nữa, khó khăn trở

ngại của khí hậu vùng này là tính chất thất thường của nó. Tuy nhiên, nó trở thành nét đặc

trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ, bước vào trang văn Thạch Lam, nó lấp lánh vẻ đẹp của chất thực hòa quyện trong chất thơ.

Cố nhiên, gắn liền với thời gian của giá lạnh, buồn bã ấy là một không gian thưa vắng

tiếng ồn ào, có nhiều khoảng tối. Bối cảnh ấy tương hợp với cái “gu” ưa sự nhẹ nhàng, sự

xao động không phải ở cảnh vật mà ở tâm tư con người của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Mặt

khác cái giờ khắc cuối ngày, cuối năm ấy kết hợp với không gian phố huyện tạo thành cái

trục không – thời gian thích hợp, hiển thị rõ chất tù đọng, bế tắc, mỏi mòn để cảnh đời các

nhân vật của Thạch Lam được phơi bày. Cũng trong bối cảnh ấy, một cuộc gặp gỡ tình cờ,

một cảm xúc mới mẻ chợt đến bỗng nhiên trở thành điều huyền diệu mà có lẽ nó “đi theo”

nhân vật của Pauxtốpxki suốt cả cuộc đời.

Phương thức thể hiện thời gian trong tác phẩm thường là tuyến tính, vận động xuôi, từ

buổi chiều đến đêm tối (thường gặp ở truyện ngắn Thạch Lam) hay từ đêm tối đến rạng sáng

(thường gặp ở truyện ngắn Pauxtốpxki). Tiết tấu của thời gian chậm, nhịp nhàng, không dồn

dập mà trầm lắng, hòa vào dòng chảy tâm trạng nhân vật.

@ Thời gian tâm trạng

Truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki đa phần được triển khai theo “hành trình”

tâm trạng của nhân vật. Đồng hiện với không gian tâm tưởng, thời gian tâm trạng đánh dấu

các cung bậc xúc cảm của con người trong sự nhận biết, thụ cảm về cuộc sống.

Thời gian tâm trạng trong truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki trước hết là thời

gian hồi cố. Ở thời điểm hiện tại, con người tìm về quá khứ với bao niềm nỗi. Thời gian hoài

niệm trong truyện ngắn Thạch Lam thường chùng xuống trước những giằng xé, thao thức khi

nhân vật nhớ lại những ý định hay hành động tội lỗi (Một cơn giận, Sợi tóc). Thời gian kéo

giãn, dài lê thê trong sự hồi tưởng về quãng đời từ lúc đi lấy chồng của Tâm: “Bảy tám năm

qua mà Liên tưởng đã lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người” [44, tr. 65]. Thời gian như

một cỗ máy với những vòng quay đều đều, rệu rã trong cái nhìn “tổng kết” cuộc đời của cô

hàng xén: “ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ” [44, tr. 225]. Trong trang viết của

Pauxtốpxki, thời gian của dòng hồi tưởng thường ánh lên những khoảnh khắc của niềm vui

và hạnh phúc. Masa “nghĩ luôn đến chuyến đi vừa qua của cô, đến nỗi có lần nằm mê thấy

chuyến đi ấy trở lại”[65, tr. 259]. Alan cảm thấy trong quãng đời đã qua của chàng “nếu như

bỏ đi những năm đói khổ, mất mát và lầm lạc, xuất hiện trong bất cứ lần nào chàng chung

đụng với mọi người thì cũng vẫn cứ còn lại vài chục ngày dịu dàng và êm ả như cái êm ả của

tuyết đang rơi này” [65, tr. 360]. Người đầu bếp già thấy được ngày đầu tiên ông gặp người

vợ hiền yêu dấu với bao bối rối, mê say…

Mặt khác, nếu thời gian tâm trạng trong truyện của Pauxtốpxki thường hướng đến

tương lai với niềm tin, hi vọng với thời khắc bắt đầu một ngày mới thì ở truyện ngắn Thạch

Lam, nó dường như “đóng khung”, ngưng lại trong hiện tại với đêm tối bao bọc. Biểu trưng

cho những thời khắc trên là hình ảnh“Bóng tối” và “ánh sáng”, hai đại lượng nghịch biến

đồng xuất hiện, tạo thành điểm nhấn đầy ấn tượng cho bức tranh phông nền trong truyện

ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki.

Truyện ngắn Thạch Lam Truyện ngắn Pauxtốpxki

Số lượng Số lần Số lượng Số lần

tác phẩm tác phẩm

Từ chỉ “bóng 14 50 14 24

tối”

Bình minh 3 3 8 28

(Bảng thống kê tần số xuất hiện của từ chỉ “bóng tối” và từ “bình minh” trong truyện ngắn Thạch

Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki)

Ý nghĩa bóng tối

Nghĩa (1) Nghĩa (2) Nghĩa (3)

Truyện ngắn Thạch Lam 57,1% 28,6% 14,3%

Truyện ngắn Pauxtốpxki 0 % 85,7% 14,3%

(Sơ đồ khảo sát ý nghĩa bóng tối trong 14 truyện ngắn của Pauxtốpxki và 14 truyện ngắn Thạch Lam)

Nghĩa (1): Bóng tối biểu trưng cho tình cảnh bế tắc, cuộc sống tối tăm, trì trệ của con người

(tập trung ở những tác phẩm Hai đứa trẻ, Một cơn giận, Người lính cũ, Tối ba mươi, Cô

hàng xén, Người bạn cũ, Trong bóng tối buổi chiều, Buổi sớm )

Nghĩa (2): Bóng tối là thời khắc vật lí, mang lại cho con người cảm giác bình yên, dễ chịu

(Nắng trong vườn, Tiếng chim kêu, Người đầm, Bóng người xưa; Chuyến xe đêm, Cội nguồn

sáng tạo, Đêm trắng, Binh minh mưa, Cầu vồng trắng, Người đầu bếp già, Chú bé chăn bò,

Suối cá hương, Truyện ngắn đầu tiên, Bức điện, Bình nguyên tuyết phủ, Lẵng quả thông)

Nghĩa (3): Bóng tối là không gian “an toàn”, giúp con người che giấu những bí mật (tập

trung ở các tác phẩm Bắt đầu, Đêm sáng trăng ; Gió biển, , Cây tường vi).

Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, trong tương quan giữa ánh sáng và bóng tối, ở

truyện ngắn Thạch Lam, bóng tối luôn chiếm ưu thế. Chẳng hạn, ở Hai đứa trẻ, bức tranh

cuộc sống sinh hoạt của con người đậm đặc bóng tối, tưởng như có thể xắn nó ra thành từng

miếng: “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”[44, tr. 153], “Vũ trụ thăm

thẳm bao la”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các

ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa” [44, tr. 154], “Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh,

đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng” [44, tr. 157]. Đối lập

với bóng tối là hình ảnh ánh sáng với đủ loại kích cỡ: “một khe ánh sáng” [44, tr. 153], “vệt

sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào cành cây” [44, tr. 153], “một

chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra”[44, tr. 153],

“ngọn đèn con của chị Tý”, “bếp lửa của bác Siêu”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ,

thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa” [44, tr.154], “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như

ma trơi”, “những đốm than đỏ bay tung trên mặt đất” [44, tr. 156]. Dường như ánh sáng

nhỏ nhoi ấy đã bị bóng tối “thôn tính” và “nuốt chửng”. Ở một số truyện ngắn khác của ông

như Đêm sáng trăng, Cô hàng xén, Người lính cũ, Người bạn cũ, Bóng người xưa, Tối ba

mươi, bóng tối vẫn là gam màu chủ đạo. Có những truyện mở đầu là buổi chiều tối và kết

thúc bằng buổi tối với bóng đêm bao bọc lấy nhân vật như Hai đứa trẻ, Trong bóng tối buổi

chiều, Cô hàng xén. Lại có những truyện, bóng tối vừa là điểm xuất phát và cũng là điểm kết

thúc của câu chuyện như Người lính cũ, Người bạn cũ, Tối ba mươi. Bóng tối đeo đẳng, theo

bám lấy con người như cái vòng đời luẩn quẩn, tăm tối, đầy lo sợ mà họ không cách gì thoát

ra được: “chung quanh chúng tôi, cái đen tối của đêm khuya dày đặc” [44, tr. 73]; “Nhưng

Liên không nghỉ được lâu; mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng

yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối” [44, tr. 157]; “Tâm dấn bước. Cái

vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc.[…] Nàng

cúi đầu đi mau vào ngõ tối” [44, tr. 225]… Bóng tối trong truyện ngắn Thạch Lam là hình

ảnh ẩn dụ. Phần lớn nó biểu trưng cho cuộc sống tối tăm, trì trệ của con người. (Một phần nó

đem lại cho con người cảm giác dễ chịu hay đồng lõa với bí mật của con người). Nó phản

ánh chân thật bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, trước cách mạnh

tháng Tám. Các nhà văn cùng thời với Thạch Lam như Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh,

Nam Cao cũng phản ánh hiện thực xã hội ấy thông qua những trang viết in dấu nỗi buồn cả

thế hệ.

Trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, tỉ lệ giữa bóng tối và bình minh xấp xỉ nhau, có

phần nghiêng về phía bình minh. Bình minh – những tia nắng tinh khôi, trong trẻo của một

ngày mới – là biểu trưng cho niềm vui, hạnh phúc và hi vọng, đem lại cho con người sự

ngưỡng vọng và tôn thờ. Họ canh bình minh, chờ đợi bình minh và say sưa đứng ngắm bình

minh (Cây tường vi, Đêm trắng, Cội nguồn sáng tạo). Cùng với bình minh là nguồn sáng rực

rỡ: ngọn nến, ánh đèn điện, mặt trăng, các vì sao, ánh sáng của tuyết trắng, mặt trời, đêm

trắng… Có những tác phẩm mở đầu là hình ảnh bóng tối và thời khắc ban đêm nhưng kết

thúc là hình ảnh của bình minh như Bình minh mưa, Người đầu bếp già. Phần lớn trong các

truyện ngắn của mình, Pauxtốpxki chọn bình minh là thời điểm kết thúc truyện, gieo vào

lòng người đọc niềm tin bất diệt ở tương lai, như ở các truyện Trái tim nhút nhát, Gió biển,

Lời cầu nguyện của Mađam Bôvê, Gió Xôrănggiơ, Đám đông trên đại lộ bờ biển. Có những

truyện kết thúc vào thời điểm cuối ngày hoặc ban đêm nhưng các nhân vật được bao bọc

trong nguồn sáng có cường độ mạnh, chói lòa: “Bên ngoài cửa sổ, hoàng hôn mờ mờ vẫn

còn cháy đỏ, mãi không sao tắt được” [65, tr. 284] (Tuyết), “Và vừng sáng xanh biếc của

những ngôi sao mọc trên đỉnh núi nối đuôi nhau lấp lánh” [65, tr. 331] (Cầu vồng trắng),

“Bầu trời chan hòa ánh sáng đến nỗi mắt cụ Kudơma thu hẹp lại và cụ luôn cười vui vẻ [65,

tr. 354] (Chiếc nhẫn bằng thép). Nhìn chung, bức tranh phong cảnh trong truyện ngắn

Pauxtốpxki luôn có sự vận động từ đêm tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn sang niềm vui, từ lạnh

giá, cô đơn sang hạnh phúc. Dường như các nhân vật của Pauxtốpxki luôn hướng đến nguồn

ánh sáng với niềm hi vọng mãnh liệt vào ngày mai. Bóng tối trong truyện ngắn Pauxtốpxki

cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể nhưng nó lại góp phần mang đến cho nhân vật và cả người đọc

cảm giác dễ chịu, yên bình.

Các dạng thức không gian và thời gian ở trên được các nhà văn thể hiện trong tác

phẩm không như các phần tử tách rời, rạch ròi mà chúng xâm nhập vào nhau, chuyển hóa

trong nhau, tạo nên bối cảnh và không khí trữ tình, làm “giá đỡ” cho câu chuyện vốn ít ỏi sự

kiện, biến cố nhưng giàu sự tình.

3.3. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật

3.3.1. Giọng thủ thỉ, tâm tình, thương mến

Giọng điệu trần thuật là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm văn học,

mang đầy đủ bản sắc, dấu ấn của cá tính sáng tạo. Vì vậy, giọng điệu thể hiện tài năng,

phong cách của nhà văn. Giọng điệu chịu sự quy định không chỉ của cá tính sáng tạo mà còn

cả ở phía loại hình. Truyện ngắn trữ tình thuộc loại hình văn xuôi trữ tình, nghiêng về phía

biểu cảm nên chất giọng thường đằm thắm, trữ tình sâu lắng, thấm đượm một nỗi buồn. Đây

cũng chính là nét tương đồng tạo thành bè chủ cho giọng điệu trần thuật của truyện ngắn

Thạch Lam, Pauxtốpxki.

Dấu ấn riêng trong giọng điệu Thạch Lam là chất giọng thuộc gam trầm, điềm tĩnh, khoan hòa, đượm một nỗi buồn thương. “Người thơ phong vận như thơ ấy”1, đọc văn ông ta

hình dung một con người nhỏ nhẹ, khiêm nhường, từ tốn, dù ông kể chuyện vui hay chuyện

buồn.

Chất giọng thủ thỉ, tâm tình một cách nhỏ nhẹ, kín đáo của Thạch Lam thật phù hợp

với những câu chuyện mang dáng dấp một lời tự thú, sám hối. Ngay từ phần mở đầu, nó đã

tạo được không khí thân mật, tự nhiên, sự đồng vọng, chia sẻ từ phía người nghe. Chẳng hạn:

“Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ. Tôi biết hơn ai hết,

vì chính tôi đã trải qua sự đó. Tôi sẽ kể cho các anh nghe một câu chuyện mà cái kỉ niệm

1 Thơ Hàn Mặc Tử

còn in sâu trong trí nhớ tôi” [44, tr. 28]; hoặc “Cuộc đời có nhiều cái chế giễu đắng cay và

đau đớn làm cho chúng ta đột nhiên hiểu ra cái ý nghĩa chua chát và sâu xa. Tôi sẽ kể câu

chuyện dưới đây làm chứng cho sự ấy” [ 44, tr. 47].

Cũng chất giọng ấy, khi kể về những số phận đáng thương, mòn mỏi, bế tắc, giọng kể

của Thạch Lam có pha nỗi xót xa, thương cảm, trìu mến. Tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác

giả lan tỏa, thấm đẫm từng trang viết, in dấu lên từng kiếp người, quy định chất giọng trầm

lắng nhưng có sức khơi gợi sâu xa. Chẳng hạn, ở Hai đứa trẻ: “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà

Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi

qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vùng sáng ngọn đèn của chị Tý và

ánh lửa bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng

ruộng mênh mang và yên lặng” [44, tr. 158] hay:“trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung

ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng mới là chết đuối, chết không

bấu vào đâu được, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa [44, tr. 87].

Cùng lấy chất giọng trữ tình làm bè chủ cho giọng điệu trần thuật, ở Xuân Diệu là

giọng trữ tình nồng nàn, mãnh liệt, ở Hồ Dzếnh là trữ tình thống thiết. Còn Thạch Lam, văn

ông luôn nhất quán chất giọng nhỏ nhẹ, từ tốn, chừng mực, thể hiện cái nhìn trìu mến thiết

tha trước vẻ đẹp bình dị, nên thơ của cuộc sống con người.

Văn Pauxtốpxki là những rung cảm thiết tha trước cái đẹp của cuộc sống và tình

người. Giọng văn của Pauxtốpxki thường mang một sắc điệu đằm thắm, dịu ngọt, phảng phất

nỗi buồn êm dịu. Chất trữ tình trong giọng văn ông được bộc lộ một cách nồng nàn trong

tình yêu đối với thiên nhiên tươi đẹp, với những tỉnh lị xa xôi, những miền quê yêu dấu.

Chẳng hạn:

“Sau khi phải thở hít cái không khí ngột ngạt của cánh rừng non mà được nằm nghỉ

ngay dưới cây thông đầu tiên cành lá lòa xòa thì thật là thú vị. Ta nằm ngửa ra, cảm thấy

đất mát rượi dưới lần áo mỏng và nhìn lên trời. Rồi có thể, thậm chí ta thiếp đi vì những đám

mây trắng với những viền chói lọi làm cho ta buồn ngủ” [65, tr. 120]

Trong bè chủ trữ tình ấy vang ngân những hợp âm trong trẻo, vui tươi, hóm hỉnh khi

ông viết về những con vật nhỏ bé trong Vườn nhà bà:

“Những con sáo thường đánh nhau với các con quạ con và khi đã bình tĩnh lại chúng

ngồi rải ra trên các cành cây đoạn bách niên hót ríu rít ấy không chỉ làm cho con ếch vốn

quen với yên tĩnh mà cả bà cũng phải thấy đau đầu. Bà ra tam cấp mắng lũ sáo, lấy khăn

mặt xua chúng. Khi đó những con sáo nhảy lên cành cao hơn, im hơi một lúc, rồi lại bắt

chước những người tiều phu cưa gỗ. Như thế lại còn tệ hơn cả những tràng liên thanh.

Con ếch sợ con ễnh ương – thứ ếch nhỏ chuyên sống bám vào gỗ, đùi to. Nó ngồi trên

cành cây giương mắt nhìn và im lặng. Ít khi nó kêu lắm, chỉ họa lúc trời sắp mưa. Lúc đó

trong rừng im phăng phắc và nghe thấy tiếng sấm từ bầu trời xa vang lại” [65, tr. 440].

Hay:

“Con sẻ già Xiđơrơ đang đậu trên chiếc sào ngủ, mình tròn như một quả bóng nhỏ.

Suốt mùa đông Xiđơrơ sống trong nhà ông Kudơma, đàng hoàng như chủ nhân. Nó không

những bắt Varusa phải vì nể nó mà cả ông Kudơma nữa” [65, tr. 351].

Những truyện viết về vẻ đẹp của tình người, của lòng nhân ái cũng cùng chất giọng ấy.

Những rung cảm tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu, dạt dào tình thương đã tạo

nên thi hứng nồng nàn và phong vị trữ tình, đằm thắm cho văn ông. Những truyện ngắn ở tập

Bông hồng vàng giọng văn ông thủ thỉ, tâm tình, không lên gân, không khoa trương, ông từ

tốn, chân thành chia sẻ những kinh nghiệm, đúc kết về “nghề văn và kinh nghiệm viết văn”.

Vì thế nó mang đến cho người đọc ấn tượng về sự chân thực cho những trang viết.

Kể về một cuộc chia tay đầy luyến tiếc của một mối tình vừa chớm (Bình minh mưa),

cuộc đời nhiều đau buồn của một nhà văn có tài (Bình nguyên tuyết phủ), nỗi mất mát trong

chiến tranh (Trái tim nhút nhát), giọng văn ông phảng phất nỗi buồn, thoáng ngậm ngùi

nhưng vẫn nồng nàn, tha thiết, nhẹ nhàng thấm vào hồn người như những giọt sương sớm

mai.

Như vậy, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lựa chọn chất giọng trữ tình làm bè chủ

cho giọng điệu nghệ thuật. Văn các ông mềm mại, uyển chuyển, giàu chất thơ mà vẫn tinh

gọn, giản dị như những bài thơ văn xuôi.

3.3.2. Ngôn ngữ của đời sống và của tâm hồn

Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Thạch Lam, truyện ngắnn Pauxtốpxki là

ngôn ngữ của đời sống hằng ngày đã được tinh lọc. Nó mang vẻ đẹp trong sáng, hiện đại,

giản dị mà tinh tế. Ấn tượng chung nhất khi đọc những câu văn của Thạch Lam và

Pauxtốpxki là tính nhạc cảm và hình tượng toát ra từ hệ thống ngôn từ. Sự huy động các

động từ chỉ hoạt động tâm lí, các tính từ; sự dung nạp các yếu tố ngôn ngữ thơ vào ngôn ngữ

văn xuôi đã mang lại cho truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki vẻ đẹp mượt mà sâu lắng. Ở

đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu sự giống và khác nhau của ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện

ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki ở những khía cạnh sau:

3.3.2.1. Sự xuất hiện với tần số cao các động từ chỉ hoạt động tâm lí và các tính từ

Là những bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ, Thạch Lam, Pauxtốpxki đã huy động vào

truyện ngắn của mình một loạt các động từ chỉ hoạt động tâm lí nhằm biểu lộ một cách sâu

sắc thế giới nội cảm của nhân vật: cảm thấy, cảm giác, suy nghĩ, lo lắng, hờn giận, yêu mến,

tưởng tượng, băn khoăn, ngờ vực, bối rối, sung sướng, cảm động, hạnh phúc...

Trong truyện ngắn Thạch Lam, động từ cảm thấy, thấy (với nghĩa là cảm thấy) xuất

hiện với mật độ dày đặc, tạo thành một “mã” nghệ thuật của văn phong Thạch Lam. Theo

thống kê, từ cảm thấy xuất hiện trong truyện ngắn Thạch Lam 90 lần. Riêng Pauxtốpxki ,

ông chọn mã nghệ thuật là : Có + cảm giác...; cảm giác.... Ví dụ:

Cử chỉ đó làm tôi có cảm giác cô là một cô bé... [65, tr. 79].

Tôi luôn cảm giác rằng sở dĩ có được những đêm như thế là nhờ ở lòng hào hiệp vô

cùng rộng rãi của thiên nhiên [65, tr. 133].

Nhưng tôi có cảm giác như vậy...cảm giác cô đơn, chán ngấy [65, tr. 320].

Nàng có cảm giác như người đàn ông gầy gò, mặc áo đuôi tôm đang tuyên bố chương

trình biểu diễn vừa gọi đến tên nàng [65, tr. 394].

Tôi có cảm giác rằng chỉ vì nàng mà những biển phương Nam đã đổ lên bãi cát những

tấm gương nước [65, tr. 458].

Tôi có cảm giác rằng trong tiếng kêu quốc tế ấy, ở đây, ở Pari, chúng mang một phong

cách tao nhã đặc biệt [65, tr. 460] ...v.v

Bên cạnh đó, lớp tính từ cũng xuất hiện với một mật độ dày đặc trong truyện ngắn

Thạch Lam – Pauxtốpxki. Khảo sát trong một số đoạn văn ngắn ta bắt gặp sự xuất hiện đông

đảo của chúng. Chẳng hạn trong truyện ngắn của Thạch Lam, với một đoạn văn 3 câu mà có

8 tính từ xuất hiện:

“Buổi chiều rất êm ả. Về phía tây, mây trời rực rỡ những mầu sáng lạn và ánh nắng

chiều loang một khúc sông, trông như một giải vàng nổi lên giữa đồi ruộng đã bắt đầu tím

lại. Một đàn chim đi ăn về vút bay ngang đầu, tiếng cánh vỗ rào rào như trận mưa; tôi

ngửng lên nhìn theo đến khi cái vết đen linh động của đàn chim lặn hẳn với chân mây” [44,

tr. 103].

Hay ở một đoạn văn khác, tính từ cũng được huy động với mật độ dày đặc:

“Thành khẽ thở dài. Những ý nghĩ ngờ vực đó xôn xao trong óc chàng. Thành mân mê

cuốn sách tựa như có thể tìm được trong ấy câu trả lời. Rồi thẫn thờ, chàng để sách xuống

lòng, áp trán vào cửa kính nhìn ra ngoài. Mưa bụi đã tạnh từ lâu và nền mây xám tách ra, để

lọt một tia nắng vàng dịu lướt nhẹ trên ruộng mạ xanh non, trong trẻo và mong manh quá

như sắp tắt, Thành thấy cái vui trong lòng chàng cũng trong sáng và mong manh như thế,

chỉ một chút nghi ngờ, một chút lạnh lẽo cũng đủ làm cho tan đi. Thành không nói gì nữa,

chàng khe khẽ khép cuốn sách lại, và ngồi yên lặng như mơ màng” [44, tr. 178].

Cả một đoạn văn dài êm mượt và trôi đi trong dòng cảm xúc miên man nhờ những tính

từ giàu sức gợi cảm giác:

“Vùng Sen cứ luôn luôn ám ảnh trí tưởng tượng non nớt của tôi. Nhiều lần, tôi lẻn ra

đằng sau nhà, đứng lên một mô đất nhìn sang bên kia sông, nhìn khu nhà nấp bên cây cối,

cái quán trơ vơ và rặng cây trên bờ đê, bên con đường đi không biết về đâu, về những chốn

xa xăm nào tận bên kia dải đồi núi lờ mờ xanh ở chân trời; với tôi, sinh trưởng ở chốn đồng

bằng bùn lầy nước đọng, đồi núi quyến rũ như một tiếng gọi lạ lùng. Trong dải núi ấy, có

một quả đồi mà những buổi chiều nắng trong, tôi thấy nổi đỏ lên trời xanh. Trên đỉnh đồi,

người ta thấy rõ một chùm cây, mẹ tôi bảo đó là chùa Thiên Thai. Thiên Thai! Cái tên huyền

ảo thần tiên ấy khiến tôi nghĩ đến những chốn bồng lai xinh đẹp, chốn vui chơi của những

tiên ông mà thầy tôi vẫn đọc đến tên trong các truyện và kể cho tôi nghe. Rôi tôi thơ thẩn

cho đến buổi chiều, đến lúc mặt trời thấp xuống, để được trông cả vùng bên kia sông chói

lòa, rực rỡ tia ánh nắng; rồi tối hơn nữa, lúc chỉ còn ráng chiều chiếu các nền mây, được

trông dãy nhà mờ đi và thấp xuống, lẫn vào mặt đất, và hai gốc thông cao lên, nổi đen trên

da trời [44, tr. 190].

Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki sử dụng tính từ với một số lượng lớn. Dù chỉ tiếp

xúc với những bản dịch nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được sự êm mượt, uyển chuyển sắc

thái biểu cảm cao của trang văn Pauxtốpxki do lớp tính từ mang lại. Chỉ xét một vài đoạn

văn ta thấy rõ điều đó:

“Chiếc xe ngựa cuối cùng rồi cũng đi vào tỉnh lị tăm tối. Chỉ có một ngọn đèn xanh

cháy sáng sau cửa kính một ngôi nhà, chừng là hiệu thuốc. Đường phố dẫn lên núi. Người

đánh xe bỏ chỗ ngồi, bước xuống cho xe nhẹ thêm. Kuzmin cũng xuống theo, chàng đi tụt lại

sau xe một quãng và bất thần chàng cảm thấy cả cái kỳ quặc của đời mình. Ta đang ở đâu

đây? – chàng nghĩ - Cái tỉnh lị Navôlôki nào đó, một nơi xa vắng, móng ngựa làm bật ra

những tia sáng. Ở đâu đây có một thiếu phụ mà ta không biết. Ta phải chuyển cho nàng,

giữa đêm hôm khuya khoắt thế này, một bức thư quan trọng và chắc chắn không phải là một

bức thư vui. Hai tháng trước đang còn là mặt trận, nước Ba Lan, con sông Vixoa êm đềm và

rộng. Thực kỳ quặc! Và cũng thực là thú vị!” [65, tr. 313]

Hay:

“Ở bục gỗ cuối cùng, họ dừng lại. Đã trông rõ bến, những ngọn đèn xanh đỏ của con

tàu. Hơi nước xả rít lên. Tim Kuzmin se lại, chàng nghĩ rằng, ngay bây giờ thôi, chàng sẽ

phải chia tay với một thiếu phụ không quen biết nhưng lại gần gũi biết bao, chia tay với

nàng mà không nói được gì; không nói gì hết. Cũng chẳng cảm ơn nàng đã gặp chàng trên

đường đời, đã đưa cho chàng bàn tay nhỏ bé, vững chãi sau lần bao tay ẩm, thận trọng dẫn

chàng đi trên chiếc cầu thang ọp ẹp và cứ mỗi lần có một cành cây ướt sũng rủ xuống phía

trên tay vịn có thể vướng vào mặt chàng thì nàng lại nói khẽ: “Anh cúi xuống”. Và chàng

ngoan ngoãn vâng theo [65, tr. 323].

Và ở một đoạn văn khác, các tính từ chỉ hình dáng, kích thước, màu sắc cũng được

huy động với tần số cao:

“Những con đường ngoằn ngoèo và hoang vắng từ thung lũng bị hạn hán thiêu đốt

chạy lên trên những thành phố ấy, và trên đường, những chú lừa lon ton chạy. Ta trông rõ

hơn và cả những đôi tai sẫm màu của chúng. Chân lừa khẳng khiu lẫn vào trong màu bụi đá

đen và vì thế không thể nào trông thấy. Tôi ngắm mãi những thành phố ấy, những thành phố

hẹp bên những mặt nhà héo khô vì già lão, những biển quảng cáo chiếu bóng sặc sỡ và đá

cẩm thạch nứt nẻ trong những bồn phun nước vỡ, những cây ôliu xù xì như đúc bằng thiếc

xốp trong các vườn, và nghĩ rằng có thể, trong thành phố kia tôi đã có một trái tim gần gụi –

trái tim kia cũng êm dịu như hơi ấm của bên má nhỏ bé và rực đỏ của cô thôn nữ nọ. Và nếu

như trong cuộc sống có lúc nào lòng tôi trĩu nặng thì trái tim hồn nhiên kia sẽ chẳng khi nào

từ chối giúp đỡ và an ủi tôi” [65, tr. 432].

Việc sử dụng các động từ chỉ hoạt động tâm lí và tính từ với tần số cao, có hiệu quả đã

khiến chúng phát huy hết “nội lực”, đem lại cho trang văn Thạch Lam và Pauxtốpxki vẻ đẹp

trong sáng, truyền cảm, hấp dẫn lạ thường.

3.3.2.2. Sự “gia nhập”, tăng cường các biện pháp tu từ

Thạch Lam, Pauxtốpxki đã tạo nên những trang văn giàu hình tượng và biểu cảm nhờ

sự “gia nhập”, tăng cường các biện pháp tu từ ẩn dụ và so sánh. Pauxtốpxki đã xây dựng

thành công những biểu tượng của văn chương như bụi quý, bông hồng vàng, “bòn đãi bụi

quý”, “đánh bông hồng vàng” (Bụi quý), hạt cát biểu trưng cho ý nghĩa giáo dục dù ít ỏi

nhưng đầy ý nghĩa (Hạt cát), tia chớp là hiện thân của “ý sáng tác” (Tia chớp) ...Chúng hiện

lên sống động trong tác phẩm, khiến những khái niệm tưởng như trừu tượng, vô hình trở nên

gần gũi, thân quen. Còn Thạch Lam thường tạo ra những biểu tượng như là kết tinh của sự

hòa hợp tuyệt vời giữa nội tâm và ngoại giới: bóng tối, ngọn đèn của chị Tý (Hai đứa trẻ);

sợi tóc phân chia lằn ranh thiện ác (Sợi tóc); tấm vải thô cuộc đời được dệt từ những nhọc

nhằn, lo toan (Cô hàng xén); những rung động “khẽ như cánh bướm non” (Đứa con đầu

lòng), cái “dịu ngọt chăng tơ” (Dưới bóng hoàng lan), “những vật tốt đẹp bày trong tủ kính

của cửa hàng” (Một cuộc đời)... Việc tạo ra những biểu tượng độc đáo đã mang lại cho

truyện ngắn Thạch Lam sức ám ảnh và dư âm.

Bên cạnh biện pháp ẩn dụ, biện pháp so sánh cũng được sử dụng với tỉ suất cao. Đây

là phép tu từ phổ biến, in đậm dấu vết thẩm mĩ thời đại hay phong cách ngôn ngữ cá nhân.

Trong 33 truyện ngắn của mình, Thạch Lam sử dụng 147 câu có chi tiết so sánh. Còn trong

40 truyện ngắn Pauxtốpxki mà chúng tôi khảo sát có 132 câu có chi tiết so sánh.

Truyện ngắn Thạch Lam Truyện ngắn Pauxtốpxki

- “Trời rét như cắt ruột, mà gió lại thổi - “Gió, giống như những bím tóc thiếu

mạnh” [44, tr. 69]. nữ xổ tung, thơm mát mơn man trên

mặt tôi” [65, tr. 80].

- “Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng - “Lúa chín rực chạy như sóng trên

thảo nguyên” [65, tr. 383]. kia đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ

- “Trên chân trời vàng ánh, ngôi sao cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi

dao sắc khía vào da” [44, tr. 14]. cuối cùng lấp lánh như một giọt bạc”

[65, tr. 252]

- “Những cuộc chơi bời của anh kịch - “Trong nhà vui hẳn lên như thể

liệt như một sự phản động mà chán người ta mở thêm nhiều cửa sổ nhỏ và

nản như một vụ tự tử” [44, tr. 51].

bên ngoài cửa sổ ấy lại xanh lên một

mảng trời và có gió ấm thổi” [65, tr. - “Quả tim buốt như có kim đâm” [44,

265]. tr. 58].

- “Tình yêu giống như gió thoảng” [65, - “Nàng yêu Minh như đứa trẻ mới bắt

tr. 285]. đầu yêu say sưa và lóa mắt vì chính cái

- “Chỉ có con đường nhựa là bóng tình yêu của mình” [44, tr. 137].

- “Sinh thấy trong lòng nguội lạnh, loáng như một dòng sông đen” [65, tr.

285]. một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy

ruột gan” [44, tr. 61]. - “Lá tùng nhỏ như những sợi tóc ngắn

- “Cơn đói lại nổi dậy như cào ruột, xé vàng óng rụng xuống không ngừng,

mặc dầu trời lặng gió”[65, tr. 292]. gan, mãnh liệt, át hẳn cả nỗi buồn”

[44, tr. 61]. - “Trong giọng nói của Êlêna Pêtrốpna

- “Khi thấy Tâm thất vọng quay đi, có cả sự dịu dàng và sự lo âu như đêm

tháng chạp” [65, tr. 330]. nàng đau đớn, uất ức như đứt từng

khúc ruột” [44, tr. 66]. - “Sau bức điện tất cả chuyển động

- “Nàng mắt đỏ lên như mới khóc, tha như một cơn lốc tuyết, làm lóa mắt,

thiết nhìn tôi, như muốn cùng tôi khoác ngạt thở, biến thế giới thành chiếc cầu

tay âu yếm” [44, tr. 118]. vồng trắng” [65, tr. 330].

- “Mùa xuân lướt trên đồng cỏ như một - “Thoạt nhìn đôi mắt cô ta, tôi choáng

nữ chủ nhân trẻ tuổi” [65, tr. 352]. váng như người nhắp cốc rượu mạnh”

- “Có cái gì ngân vang trong rừng như [44, tr. 122].

- “Một cảm giác đê mê dâng lên ngập có ai đang lắc những quả chuông nhỏ”

[65, tr. 354]. cả người nàng vào trong đó, như lúc

- “Những bông hoa điểm tuyết trắng tắm bể” [44, tr. 138].

- “Tâm hồn Thành trơ trọi như một rung rinh chào đón bình minh, mỗi

cánh đồng thấp mà lúa đã gặt rồi” [44, bông hoa đều ngân nga như trong đó

tr. 173]. có một con bọ dừa đánh chuông và

- “Tôi sung sướng như một người sắp đang đập chân vào những sợi mạng

được đi phiêu lưu mạo hiểm” [44, tr. nhện bằng bạc” [65, tr. 354]

191]. - “Chàng nói lớn một lần thứ ba và bất

- “Bính tưởng mùi hương dịu dàng và thần một âm thanh lanh lảnh vang dội

cao quý cũng như tình yêu của mẹ

khắp lều như thể có hàng trăm viên

chàng đối với chàng” [44, tr. 253]. pha lê rơi xuống sàn” [65, tr.375].

- “Lòng chàng đau đớn như chảy - “Rêu từ trên cành cây xõa dài trên

máu” [44, tr. 260]. mặt đất như những mớ tóc xanh” [65,

- “Vân thấy khổ sở như chính chàng bị tr. 386].

hành hạ” [44, tr. 260]. - “Đôi khi cuộc sống bỗng nhiên trở

(...) nên giống như âm nhạc trong phút

chốc” [65, tr. 409].

- “Những cây bạch dương đã điểm

những dải lá vàng giống như những

đốm tóc bạc đầu tiên của một người

chưa đến tuổi già” [65, tr. 411]…v.v

Ở truyện ngắn Thạch Lam, phần lớn các hình ảnh, sự vật được đem ra làm chuẩn trong

so sánh đều dựa vào cảm giác của thân thể và tâm hồn. Còn Pauxtốpxki thường chọn

những hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ, âm nhạc và vẻ đẹp của người con gái, đặc biệt là

hình ảnh mái tóc để làm “khuôn” để so sánh.

Tóm lại. từ việc so sánh, đối chiếu những phương diện chủ yếu của một tác phẩm tự

sự, chúng tôi nhận thấy giữa truyện ngắn và truyện ngắn có sự gặp gỡ về phong cách nghệ

thuật.

Kế thừa quan niệm của các nhà lí luận và nghiên cứu văn học, chúng tôi cho rằng

phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm. “Phong cách nghệ thuật

của một nhà văn, suy cho cùng là vấn đề cái nhìn, nhưng cái nhìn ấy phải toát lên từ tất cả

các yếu tố hình thức và nội dung của tác phẩm… Tuy vậy, các yếu tố này không đồng đẳng

với nhau mà có quan hệ thứ bậc tạo thành một cấu trúc mà ở đó có những yếu tố biểu hiện

trên bề mặt và những yếu tố tiềm ẩn ở những tầng sâu, chìm khuất của nó” [93, tr. 17].

Nói đến phong cách nghệ thuật của một nhà văn người ta nghĩ đến cái riêng, cái độc

đáo và dấu ấn cá nhân của nhà văn ấy. Thực tế cho thấy mặc dù phong cách mang đậm dấu

ấn cá nhân nhưng chúng cũng có những điểm giống nhau. Ngày nay trong điều kiện giao lưu

rộng rãi của thế giới hiện đại, khoảng cách giữa các nền văn học dân tộc, khoảng cách của

các nhà văn đã được rút ngắn lại, cho nên mặc dù có sự đa dạng hóa về phong cách nhưng

chúng tôi cho rằng có sự “gặp gỡ” giữa các phong cách, và chính sự “gặp gỡ” ấy (bao gồm

trong nó cái riêng và cái chung, dấu ấn cá nhân và xu hướng cộng đồng) đã tạo nên những

dòng, những xu hướng phong cách nhất định.

Thạch Lam cùng với Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh đã có những đóng góp đáng

kể trong trên hành trình canh tân và hiện đại hóa văn học dân tộc. Truyện ngắn của ông góp

phần làm nên diện mạo của văn xuôi trữ tình thời kì 1930 – 1945, phản ánh việc xây dựng và

phát triển văn xuôi dân tộc theo quỹ đạo hiện đại ở Việt Nam. Tương tự, thế kỷ XX có thể

nói là thời kì rực rỡ của văn học hiện đại Nga với nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong

lĩnh vực văn xuôi. Kế tục và phát huy chất thơ trong văn xuôi vốn đã có trong truyền thống

văn học Nga với các cây bút tên tuổi như Tuôcghênhép, Bunhin, Prisvin… Pauxtốpxki đã

biến phương tiện chuyển tải ý tưởng của văn học thành nghệ thuật, tạo ra những truyện ngắn

trữ tình với phong cách độc đáo. Thạch Lam, Pauxtốpxki, mỗi nhà văn một cội nguồn văn

hóa dân tộc nhưng lại có sự gặp gỡ bất ngờ, thú vị về phong cách nghệ thuật. Đó là quan

niệm về cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp; sự chú trọng khai thác thế giới nội cảm của nhân vật,

cách viết truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện. Đặt ra những tình huống tâm lí bất ngờ, những

khuất khúc ở tâm hồn con người và tìm cách lí giải chúng, truyện ngắn Thạch Lam –

Pauxtốpxki lần lượt mở các cánh cửa để bước vào thế giới nhân học. Dấu ấn văn hóa, thời

đại của mỗi quốc gia, dân tộc được khúc xạ qua lăng kính nhân học ấy.

KẾT LUẬN

Việc đặt truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki trong thế so sánh đã mở ra cho người

nghiên cứu văn học và độc giả quan tâm nhiều vấn đề mới mẻ và thú vị.

1. Như người lữ khách rong ruổi trên con đường kiếm tìm cái đẹp, Thạch Lam và

Pauxtốpxki đã có cuộc hội ngộ bất ngờ. Đây là sự gặp gỡ giữa hai con người có cái nhìn

chuyên chú phát hiện chất thơ trong cuộc sống bình dị hằng ngày, biết chi chút cái đẹp

đời thường, gom nhặt từng hạt bụi quý, mang đến cho tác phẩm văn chương vẻ đẹp chân

thật, giản dị, sống động và tươi mới. Từ sự tương đồng về quan niệm nghệ thuật, Thạch

Lam và Pauxtốpxki đã có sự gặp gỡ trong việc lựa chọn thể loại truyện ngắn trữ tình “phi

cốt truyện” để biểu đạt cái đẹp dung dị, đời thường trong những cái tưởng chừng như vặt

vãnh, xoàng xĩnh. Việc dung nạp một trữ lượng chất thơ dồi dào vào văn xuôi và kĩ thuật

hòa phối nhuần nhụy giữa chất thực và chất thơ đã đem lại cho truyện ngắn của Thạch Lam

và Pauxtốpxki vẻ sâu lắng, mượt mà. Chất thực được khúc xạ qua tâm hồn nhạy cảm, tinh tế

của tác giả, của nhân vật đã trở thành cái neo níu giữ cho con diều chất thơ, cảm xúc trữ tình

bay bổng, lan tỏa.

2. Lựa chọn và xem thế giới tâm trạng, cảm xúc của con người như một hiện thực

phong phú để đặt những “đường cày”; khám phá cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp từ thiên

nhiên tỉnh lị và con người dung dị, đời thường, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã tạo ra trong

truyện ngắn của mình những nội dung tự sự phong phú, hấp dẫn, có sức lay động sâu xa.

Điều đó đã đưa lại cách lí giải, cắt nghĩa mới mẻ về cái đẹp bằng nghệ thuật, đồng thời biểu

lộ cách tiếp cản, lối nhìn đời đầy trân trọng, nâng niu, phù hợp với xu hướng của thời đại.

Mặt khác, đặt nhân vật trong các giềng mối, quan hệ để tình cảm, tâm trạng của họ được

phơi bày, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mở ra một diện rộng để tìm hiểu về con người và văn

hóa mỗi dân tộc. Ở đây ta bắt gặp lối sống trọng nghĩa tình, nếp nghĩ duy cảm người Việt

thấm sâu vào từng mảnh đời, từng số phận nhân vật. Bên cạnh đó, ta cũng bắt gặp tâm hồn,

tính cách Nga vừa rất riêng lại vừa gần gụi, thân quen. Đó là con người Nga hăng hái, nhiệt

tình, hồn nhiên hòa quyện với tính chất thông minh, năng động, con người hiền hòa, đôn hậu

hòa quyện với sự từng trải, uyên thâm.

3. Có thể nói truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki ít “sự kiện” nhưng giàu “sự

tình”. Chúng hấp dẫn người đọc không phải bởi cốt truyện li kì, những xung đột, tình tiết

gay cấn mà ở tài dựng truyện phi cốt truyện, cách kể chuyện đầy lôi cuốn của tác giả. Việc

kiến tạo bối cảnh, không khí trữ tình đã bồi đắp sức sống cho câu chuyện vốn được tinh giản

các sự kiện, hành động. Với cảm quan của một thi sĩ, họa sĩ, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã

chắt gợn vẻ đẹp từ thiên nhiên và làng quê, tỉnh lẻ, hòa phối nhuần nhụy giữa màu sắc,

đường nét, ánh sáng để tạo nên những bức tranh đặc sắc, mang dấu ấn của dân tộc mình.

Việc lấy chất giọng trữ tình làm bè chủ cho giọng điệu nghệ thuật của Thạch Lam và

Pauxtốpxki đã tạo một ấn tượng đầy chất thơ cho những trang văn. Cũng chất giọng thủ thỉ,

tâm tình, trữ tình đằm thắm, giọng điệu nghệ thuật của Thạch Lam còn vang vọng âm hưởng

man mác, buồn thương, in dấu cái buồn chung của cả thế hệ. Ở Pauxtốpxki, sự chi phối của

cảm hứng lạc quan cách mạng đã mang lại cho giọng điệu nghệ thuật của ông những tiết tấu

trong trẻo, vui tươi, tràn đầy hi vọng. Tựa con tằm rút ruột ra tơ, con trai chắt chiu giọt máu

để kết thành ngọc sáng, mỗi nhà văn đều sử dụng ngôn ngữ dân tộc một cách tinh tế, phát

huy tối đa vẻ đẹp và sự trong sáng nó để dệt nên những trang văn mượt mà, sâu lắng

4. Hành trình nghệ thuật là hành trình bản ngã. Vì rằng, những sự khai phá trong

sáng tác cũng chính là do nhu cầu thể hiện ý thức cá nhân mãnh liệt nơi tác giả. Thạch Lam

và Pauxtốpxki là những nhà văn tài năng, có sự đóng góp đáng kể ở thể loại truyện ngắn trữ

tình “phi cốt truyện” – một hướng tìm tòi, thể nghiệm trong lịch sử tiến hóa của thể loại

truyện ngắn. Truyện ngắn của các ông luôn đứng trên các cung bậc của sự thách thức và trên

bậc cao nhất của nhu cầu nội cảm cá nhân. Chừng nào cái đẹp còn được tôn thờ, chừng nào

nhân loại còn hướng đến những lí tưởng cơ bản nhất thì truyện ngắn của Thạch Lam –

Pauxtốpxki vẫn còn làm say đắm lòng người. Sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật giữa

truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trước hết là sự gặp gỡ của hai cá tính

sáng tạo, hai “tạng người” nghệ sĩ, đằng sau đó là mạch nguồn văn hóa dân tộc. Hai

gương mặt văn hóa Việt – Nga, Đông – Tây có sự gần gũi, giao thoa bên cạnh bản sắc riêng

của mỗi dân tộc.

5. Mặc dù không cưỡng lại được hấp lực mà truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki

mang lại, chúng tôi đành tự bằng lòng với công việc đã làm. Nhiều tầng ý nghĩa ẩn chứa sau

lớp ngôn từ, yếu tố hư và thực trong truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki...

vẫn còn là những vỉa đá ngầm tiềm ẩn bao lớp quặng quý, chờ người đi sau đặt những mũi

khoan.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Nguyên An (1999), Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài, Nxb Văn học, Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (chủ biên) (1995), Thạch Lam – Văn chương và cái đẹp, (Kỉ yếu hội thảo

khoa học về Thạch Lam nhân 50 năm ngày mất của Thạch Lam), Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

3. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (2007), Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, tái bản lần 2, Nxb

Giáo dục, Đà Nẵng.

4. Lê Bảo (1999), Thạch Lam – Hồ Dzếnh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn – Lí luận tác gia và tác phẩm (tập 1, 2), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

6. Ngô Vĩnh Bình (2003), “Đi tìm cái “bí quyết” của nghệ thuật viết truyện ngắn”, Tạp chí

Văn nghệ Quân đội số (1), Hà Nội.

7. Bunhin, I (2002), Tuyển tập tác phẩm, (Phan Hồng Giang giới thiệu), Nxb Lao động, Hà

Nội.

8. Nguyễn Minh Châu (1994), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb. Văn học, Hà

Nội.

9. Phạm Vĩnh Cư (1994), “Mấy suy nghĩ về giao lưu văn hóa Việt Nam – Nga”, Tạp chí Văn

học số (6), Hà Nội.

10. Phạm Vĩnh Cư (1996), “Đọc lại mấy bậc thầy truyện ngắn Nga – Xô viết”, Tạp chí Văn

học nước ngoài số (3), Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam thời kì đầu

những năm 1930-1945: Nguyễn Công Hoan – Thạch Lam – Nam Cao, Luận án phó

tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội I.

13. Nguyễn Nhật Duật (1971), “Thạch Lam – hương thơm và nỗi u hoài”, Tạp chí Giao

Điểm, Sài Gòn.

14. Hoàng Xuân Dũng (2007), Giáo trình địa lí kinh tế thế giới (tập 2), Đại học Sư phạm

TP.HCM.

15. Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Trần Hữu Tá (1988), Tổng tập văn học Việt Nam

tập 29A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn – con người và văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.

17. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Phan Cự Đệ chủ biên (2007), Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử – Thi pháp – Chân dung,

Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

19. Hà Minh Đức (2001), Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), tái bản lần hai, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

21. Vu Gia (1994), Thạch Lam – Thân thế và sự nghiệp, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

22. Ngô Văn Giá (1994), “Trong bóng tối mênh mông và hiu quạnh”, Tiếng nói tri âm, tập I,

Nxb Trẻ, TP. HCM.

23. Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà (1987 – 1988), Văn học Xô viết (tập 1, 2), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

24. Nguyễn Hải Hà (2002), Văn học Nga – Sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2003), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

26. Lê Thị Đức Hạnh (1983), “Gió đầu mùa”, Tạp chí Văn học, số (5).

27. Lê Thị Đức Hạnh (1993), “Mấy nét về màu sắc dân tộc trong sáng tác của Thạch Lam”,

Tạp chí Sông Hương, số (5).

28. Lê Thị Đức Hạnh (2001), Nguyễn Công Hoan về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

29. Vũ Thư Hiên (1961), Bông hồng vàng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Hoàng Ngọc Hiến (1985), Văn học Xô Viết những năm gần đây, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

31. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Khái Hưng – Thạch Lam, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.

33. Vũ Thị Hồng (1994), “Những giấc mơ có thực” (Truyện ngắn chọn lọc 1992 – 1994),

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

34. Phạm Thị Thu Hương (1993), “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn

Thạch Lam”, Tạp chí văn học, số (6).

35. Phạm Thị Thu Hương (1995), Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945, nhìn từ

ba tác giả tiêu biểu: Thạch Lam- Hồ Dzếnh- Thanh Tịnh, Luận án tiến sĩ, Đại học

sư phạm I Hà Nội.

36. Đỗ Đức Hiểu, Trần Hữu Tá (2003), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

37. Khrapchenkô, M. B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,

Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

38. Khrapchenkô, M. B (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn

học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

39. Nguyễn Hoành Khung (1984), “Thạch Lam”, Từ điển văn học, tập II, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

40. Lê Đình Kỵ (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.

Hà Nội.

41. Huyền Kiêu (1965), “Thạch Lam - Một người Việt Nam thành thực”, Tạp chí Văn, Sài

Gòn số (36).

42. Thạch Lam (1998), Tuyển tập, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

43. Thạch Lam (2007), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

44. Thạch Lam (2009), 33 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.

45. Phong Lê (2009), “Phác thảo mối quan hệ văn học Xô viết và văn học Việt Nam thế kỉ

XX”, Nghiên cứu Văn học số (6), Hà Nội.

46. Phan Quốc Lữ (2003), Văn xuôi trữ tình thời kì 1930 – 1945, Mấy vấn đề về đặc điểm

thi pháp, Luận án tiến sĩ văn học, Đại học Sư phạm.Tp. HCM.

47. Thế Lữ (1943), “Tính cách tạo tác của Thạch Lam”, Báo Thanh Nghị, số (9).

48. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Đăng Mạnh (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 –

1945 (tập IV), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An (1987), Tác gia văn học Việt Nam

(tập I và II), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

52. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại – chân dung và phong cách,

Nxb Tác phẩm Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

53. Marx, Engels, Lênin (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.

54. Macxim Gorki, A.M (2004), Tuyển tập truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

55. Vương Trí Nhàn (1990), “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí văn học, số

(5).

56. Vương Trí Nhàn (1992), “Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác”, Tạp chí văn học, số (6).

57. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.

58. Nhiều tác giả (1977), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.

59. Nhiều tác giả (1983), Chân dung văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

60. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật Quảng Nam, Đà

Nẵng.

61. Nhiều tác giả (1994), Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, Tp. HCM.

62. Hoàng Kim Oanh (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ,

Trường Đại học Sư phạm. Tp. HCM.

63. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Tập I, II, Nxb. KHXH, Hà Nội.

64. Pauxtôpxki, K (1984), Một mình với mùa thu (Phan Hồng Giang dịch và giới thiệu), Tác

phẩm mới, Hà Nội.

65. Pauxtôpxki, K (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa (Kim Ân và Mộng Quỳnh

dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

66. Pauxtôpxki, K (2002), Kônxtantin Pauxtôpxki – Tự truyện, (Tạ Hồng Trung dịch), Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

67. Phạm Phú Phong (1992), “Mấy vấn đề thi pháp truyện ngắn Thạch Lam”, Tạp chí sông

Hương, số (5).

68. Vũ Trọng Phụng (2005), Tuyển tập truyện ngắn, (tập 1), Nxb Văn học.

(1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb 69. Pospelov, G.N chủ biên

Giáo dục.

70. Ngô Văn Phú, Vũ Đình Bình (tuyển chọn) (1998), 100 truyện ngắn hay Nga (tập 1, 2, 3,

4), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

71. Đào Trường Phúc (1971), “Thạch Lam những lời thủ thỉ của truyện ngắn”, Tạp chí Giao

điểm, Sài Gòn.

72. Phạm Văn Phúc (1989), “Nghĩ về Thạch Lam”, Báo Giáo viên nhân dân, (Số đặc biệt

7/1989).

73. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn, Tp. HCM.

74. Nguyễn Thu Phương (1997), “Dư vị truyện ngắn Thạch Lam”, Tạp chí Văn học và tuổi

trẻ, số (24).

75. Sêkhôp, A. P (2001), Tuyển tập truyện ngắn, (Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch),

Nxb Thông tin, Hà Nội.

76. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

77. Trần Đình Sử (1997), Lý luận và Phê bình văn học, Nxb Giáo dục.

78. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

79. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (2005), Văn học so sánh nghiên cứu và

triển vọng, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

80. Thúy Toàn biên soạn (1982), Các nhà văn Xô viết – Tập chân dung văn học, Nxb Tác

phẩm mới – Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

81. Thúy Toàn tuyển chọn và giới thiệu (1997), Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt, Nxb

Văn học, Hà Nội.

82. Thanh Tịnh (1994), Quê mẹ, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.

83. Thanh Tịnh (1998), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội

84. Nguyễn Tuân (1982), “Thạch Lam”, (viết 1957, in lại trong Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập

(2)), Nxb Văn học, Hà Nội.

85. Xuân Tùng (2000), Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng.

86. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp

chí Văn học, số (2).

87. Bùi Việt Thắng (1992), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học Hà Nội.

88. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn, tháng 1.

89. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

90. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Trường Đại học Tổng hợp TP.

HCM.

91. Nguyễn Thành Thi (1994), “Tối ba mươi và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài”,

Báo Lao động và xã hội.

92. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

93. Nguyễn Thành Thi (2001), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Luận án tiến sĩ,

Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.

94. Nguyễn Thành Thi (2001), Thạch Lam văn và người, Nxb Trẻ – Hội nghiên cứu và giảng

dạy văn học, Tp. HCM.

95. Nguyễn Huy Thiệp (1994), Những ngọn gió Hua tát, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

96. Đỗ Đức Thu (1965), “Thạch Lam”, tạp chí Văn, (36), Sài Gòn.

97. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, Tp. HCM.

98. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của văn hoá – Thách thức của sáng tạo, Nxb Thanh

Niên, Hà Nội.

99. Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh (1989), Về Tự lực văn đoàn, Nxb Tp. HCM.

100. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập kỉ 90,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP. Tp.HCM.

TÀI LIỆU TỪ INTERNET

101. www.nuocnga.net

102. http://en.wikipedia.org/wiki/Konstantin_Paustovsky

103.http://www.flipkart.com/selected-stories-konstantin-paustovsky/1410104575-

4nx3f91yic

104.http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237

nvnvntnqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn

PHỤ LỤC

1. Một số tài liệu về Pauxtốpxki

1.1 Паустовский Константин Георгиевич (1892 - 1968), прозаик. Родился 19 мая (31 н.с.) в Москве в Гранатном переулке, в семье железнодорожного статистика, но, несмотря на профессию, неисправимого мечтателя. В семье любили театр, много пели, играли на рояле. Учился в Киеве в классической гимназии, где были хорошие учителя русской словесности, истории, психологии. Много читал, писал стихи. После развода родителей должен был сам зарабатывать себе на жизнь и ученье, перебивался репетиторством. В 1912 закончил гимназию и поступил на естественно- исторический факультет Киевского университета. Через два года перевелся в Московский на юридический факультет. Началась первая мировая война, но его как младшего сына в семье (по тогдашним законам) в армию не взяли. Еще в последнем классе гимназии, напечатав свой первый рассказ, Паустовский решает стать писателем, но считает, что для этого надо "уйти в жизнь", чтобы "все знать, все почувствовать и все понять" - "без этого жизненного опыта пути к писательству не было". Поступает вожатым на московский трамвай, затем санитаром на тыловой санитарный поезд. Тогда он узнал и навсегда полюбил среднюю полосу России, ее города. Паустовский работал на металлургическом Брянском заводе, на котельном заводе в Таганроге и даже в рыбачьей артели на Азовском море. В свободное время начал писать свою первую повесть "Романтики", которая вышла в свет только в 1930-х в Москве. После начала Февральской революции уехал в Москву, стал работать репортером в газетах, оказавшись свидетелем всех событий в Москве в дни Октябрьской революции. После революции много ездил по стране, бывал в Киеве, служил в Красной Армии, сражаясь "со всякими отпетыми атаманами", уехал в Одессу, где работал в газете "Моряк". Здесь попал в среду молодых писателей, среди которых были Катаев, Ильф, Бабель, Багрицкий и др. Вскоре им снова овладела "муза дальних странствий": живет в Сухуми, Тбилиси, Ереване, пока наконец не возвращается в Москву. Несколько лет работает редактором РОСТА и начинает печататься. Первой книгой был сборник рассказов "Встречные корабли", затем повесть "Кара-Бугаз". После выхода в свет этой повести навсегда оставляет службу, и писательство становится его единственной любимой работой. Паустовский открывает для себя заповедную землю - Мещеру, которой обязан многими своими рассказами. Он по-прежнему много ездит, и каждая поездка - это книга. За годы своей писательской жизни он объездил весь Советский Союз. Во время Великой Отечественной войны был военным корреспондентом и тоже

изъездил много мест. После войны впервые был на Западе: Чехословакия, Италия, Турция, Греция, Швеция и т.д. Встреча с Парижем была для него особенно дорогой и близкой. Паустовский написал серию книг о творчестве и о людях искусства: "Орест Кипренский", "Исаак Левитан" (1937), "Тарас Шевченко" (1939), "Повесть о лесах" (1949), "Золотая роза" (1956) - повесть о литературе, о "прекрасной сущности писательского труда". В последние годы жизни работал над большой автобиографической эпопеей "Повесть о жизни". К.Паустовский умер 14 июля 1968 в Тарусе, где и похоронен. {От редакции сайта - ошибка в словаре ! Правильно: умер в Москве, похоронен в Тарусе}. Русские писатели и поэты. Краткий биографический словарь. Москва, 2000.

1.2 Nguyên văn:

Родился и умер К. Паустовский в Москве.

Его отец, потомок запорожских казаков, был железнодорожным статистиком, мать

происходила из интеллигентной польской семьи среднего достатка.

Детство и отрочество его прошли в Киеве. Окончив первую киевскую гимназию

(1912), поступил на естественное отделение физико-математического факультета Киевского университета. Проучившись первый курс, перешел на философское отделение историко-филологического факультета. В 1914 году перевелся в Московский университет.

К. Паустовский был неутомимым путешественником.

Он жил в шумной Москве и зеленом Киеве, слышал сочную и живописную речь одесситов, был в Прибалтике и в Сибири, восхищался белыми ночами Карелии, пил воду из черных болотных озер Мещорского края, благоговейно ходил по Михайловскому.

Бывал он и за границей: посетил Чехословакию, Болгарию, Польшу, совершил

путешествие вокруг Европы, в 1965 году жил на острове Капри.

Его путешествия не проходили даром. Он возвращал их людям щедро и неутомимо

– новым рассказом, повестью, новой книгой.

В первые месяцы первой мировой войны работал кондуктором и вожатым

московского трамвая, а затем – санитаром на тыловом и полевом санитарных поездах.

Писать начал в последних классах гимназии. Это были стихи, часто

подражательные. Сочинив целый ворох стихов, Паустовский почувствовал искушение попытать свои силы в прозе. Первые его рассказы «На воде» (1912), «Четверо». Затем он вновь вернулся к поэзии.

Житейские обстоятельства – необходимость зарабатывать на хлеб – обратили К.Паустовского к журналистике. Он перепробовал почти все газетные специальности. Паустовский писал о самых разнообразных событиях и людях. Писал рассказы, повести, романы.

В литературу Паустовский пришел в 20-е годы. Произведения Паустовского этого

периода отмечены абстрактностью; это объясняется мироощущением писателя.

Во второй половине 30-х годов взгляд Паустовского-художника обращен на пленительную в своей скромной красоте природу. В восприятии и изображении природы К.Г. Паустовский родственен И. Бунину и М. Пришвину.

Природа притягивала Паустовского как умиротворяющая, прекрасная в

неистощимом разнообразии среда, где человек освобождается от всего мелкого и суетного и обретает душевное равновесие.

С севером К. Паустовский впервые встретился в 1925 году, когда он, сотрудник

газеты «На вахте», был командирован в Ленинград на проводы в кругосветное путешествие первого советского парусного корабля.

Первая поездка писателя на север просто ошеломила его, здесь он узнал

пленительную власть севера. Первая белая ночь над Невой дала ему больше для познания русской поэзии, чем десятки книг и многие часы размышлений над ними.

С тех пор писателя не покидало желание снова побывать на севере, ближе познать его. «С давних пор, - признается он в «Книге скитаний», - Олонецкий край привлекал меня. Мне давно хотелось попасть туда. Почему-то мне всегда казалось, что именно там со мной случиться что-то очень хорошее». И такая возможность вскоре представилась.

В 1931 году по предложению А.М. Горького в нашей стране создается «История

фабрик и заводов». Из множества предложенных заводов Паустовский выбирает старинный завод в Петрозаводске. Весной 1932 года он отправляется на север.

Свою поездку Паустовский начинает с Мурманска, куда заехал по простому

любопытству. Прожив в Мурманске несколько дней, Паустовский уехал в Петрозаводск. О том, что случилось с ним в этом городе, писатель рассказал в «Золотой розе».

Сначала Паустовский жил в доме колхозника (теперь в этом здании находится филармония), а затем снял комнату у бывшей учительницы Серафимы Ионовны.

У него долго не получалось работа по книге о заводе, что он даже хотел покинуть город. Но старушка-учительница попросила его не горячиться и просто погулять по городу.

В Петрозаводске в те годы было два так называемых «немецких кладбища». Одно из них находилось на Зареке, через дорогу от церкви. Там были похоронены многие иностранные специалисты, некогда служившие на Александровском заводе. Среди всех могил выделялась одна надгробная плита. Она была обнесена чугунной оградой великолепного тяжелого литья. К этому памятнику и пришел однажды Паустовский. Надпись на памятнике заинтересовала его, и он стал собирать сведения об этом человеке. Все это описано автором в его книге «Золотая роза» (гл. «Белая ночь»). Так родилась его повесть «Судьба Шарля Лонсевиля», которую он начал писать в Петрозаводске, а закончил в Мещорских лесах.

История Онежского, бывшего Александровского завода нашла отражение не только

в повести «Судьба Шарля Лонсевиля», но еще и в очерках «Онежский завод».

Несомненной заслугой Паустовского является то, что он по существу первым

обратился к истории одного из крупнейших в России «чугунопушечных и железоделательных» заводов. Он собрал богатый, в том числе и архивный материал по истории завода, использовал многие подлинные имена и события. Но до 1932 года, когда писатель работал над этой темой, систематизированных исследований по истории завода не имелось. По этой причине у автора имеются некоторые неточности.

Жанр повести, в отличие от очерка, дает писателю возможность творческого

вымысла и выхода за рамки фактографии события, и К. Паустовский использовал это право.

Внимание автора к Карелии не ограничилось его интересом к Онежскому заводу. В

1933 году выходит в свет его историко-революционная повесть «Озерный фронт» (впервые была опубликована в журнале «30 дней» под названием «Озерная война»). В книге под пером художника оживают события гражданской войны в Карелии, «смелая и блестящая Видлицкая операция» 1919 года.

Находясь в Карелии, Паустовский посетил водопад Кивач, Кижи, Пудож и

Заонежье, побывал на Ладожском и Онежском озерах.

В своих заонежских встречах писатель повествует в рассказе очеркового типа

«страна за Онегой» (1932).

Интерес Паустовского к Заонежью не случаен. Оно населено «потомками

новгородцев. Они сохранили чистый новгородский язык, сохранили старые сказания, песни, былины». Также Заонежье привлекло его и народным искусством северного старинного зодчества. Паустовский видит истоки богатств русского языка в народной поэзии. Вот почему с такой теплотой рассказывает он о своих встречах с народными сказителями, вспоминает имена многих удивительных собирателей и исполнителей

народных песен. В своих произведениях о Карелии писатель создал целую галерею их портретов.

Очень часто в произведениях Паустовского можно встретить обращение к имени русского поэта А.С. Пушкина, и это не случайно. «Первая половина 19 века… ближе мне, чем любая другая историческая эпоха. Это начало золотого века русской культуры. Это время Пушкина…».

В повести «Судьба Шарля Лонсевиля» тоже присутствует ссылка на Пушкина.

Северный цикл повестей создавался писателем в 30-е годы. Это были годы творческого становления Паустовского, когда он уходит от писания «туманных и надуманных» рассказов раннего периода, когда экзотика, к которой он был так привержен в 20-е годы, начинает тяготить писателя и сковывать его творческие возможности. Этот перелом в творчестве художника происходит не сразу.

Север явился непродолжительным, но интересным этапом в творческой биографии

писателя. Впечатления, полученные на Севере, сыграли определенную роль в становлении его мировоззрения и мастерства.

В последние 15 лет жизни Паустовский активно выступал как публицист. Он

призывал оградить природу от варварских покушений на нее, заступался за гонимых и преследуемых, отстаивал свободу и независимость человеческой личности, осуждал жестокость и насилие, угодничество и бесчеловечность, поддерживал талантливых молодых писателей.

Его творчество и совестливая позиция, которую он неизменно занимал, создали ему

высокий нравственный авторитет в России и за рубежом. Книги Паустовского переведены на большинство языков мира и изданы на всех 5 континентах.

Bản dịch:

K. Pauxtốpki sinh ra và qua đời ở Mátxcơva

Bố của ông là dòng dõi của những người Côdắc vùng Dapa-rô-de làm nghề thống kê

đường sắt, còn mẹ xuất thân từ một gia đình trí thức Ba-lan bậc trung. Thời thơ ấu và niên thiếu của ông trôi qua ở Ki-ép.Tốt nghiệp trường phổ thông (năm 1912), ông vào học ở phân ban tự nhiên thuộc khoa toán lí trường Tổng hợp Ki-ép. Học hết năm thứ nhất, ông chuyển sang phân ban triết học của khoa sử-ngữ văn. Vào năm 1914, ông chuyển tới Trường Đại học tổng hợp Mát-xcơ-va.

K. Pauxtốpxki là một người đi du lịch không biết mệt mỏi. Ông đã nghe giọng nói âm vang và du dương của những người Ô-đéc-xa, ông đã đến vùng Ban tích, đã đến Xi-bi-ri, đã ngỡ ngàng với những đêm trắng ở Ka-re-li, đã uống nước của những hồ trong đầm lầy đen kịt ở vùng Me-sor, đã rảo chân thong dong trên những nẻo đường ở vùng Mi-khai-lốp. Ông cũng đi ra nước ngoài: ông đã đến thăm Tiệp khắc, Bun-ga-ri, Ba-lan, đã đi du lịch vòng quanh châu Âu. Vào năm 1965 ông đã sống ở đảo Ca-pri. Những chuyến đi của ông không phải là vô ích. Từ những chuyến đi, ông mang về cho mọi người những truyện ngắn, truyện vừa, cuốn sách mới.

Vào những tháng đầu tiên của chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ông làm người bán vé và lái tàu điện ở Mát-xcơ-va, rồi sau đó làm y tá trên những con tàu cứu thương ở hậu phương và ở tiến tuyến.

Ông bắt đầu viết vào những năm cuối của trường phổ thông. Những bài thơ đó thường là những bài bắt chước. Khi đã viết một loạt các bài thơ, Pauxtốpxki muốn thử sức mình trong văn xuôi. Những truyện ngắn đầu tay của ông là “Dưới nước” (1912), “Bốn người”. Sau đó ông lại quay lại với thơ ca.

Nhưng hoàn cảnh sống – sự cần thiết phải kiếm cơm đã làm cho Pauxtốpxki đến với nghề làm báo. Ông hầu như đã làm hết những công việc của nghề báo. Ông viết đa dạng về những sự kiện và những con người. Ông đã viết truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết. Pauxtốpxki đến với văn học vào những năm 20. Những tác phẩm của Pauxtốpxki thời kì này được đánh dấu bằng tính trừu tượng. Điều này được giải thích là do cách thụ cảm thế giới của nhà văn.

Vào cuối những năm 30, Pauxtốpxki nhà nghệ sĩ chú ý đến thiên nhiên quyến rũ với cái vẻ đẹp đơn sơ của nó.Trong sự cảm nhận và miêu tả thiên nhiên, Pauxtốpxki giống như I. Bu-nhin và M. Pri-svin. Thiên nhiên tuyệt vời, với cái đa dạng của nó, nơi mà con người được giải phóng khỏi cái nhỏ nhen, cái bận rộn đã lôi cuốn Pauxtốpxki, trấn tĩnh ông, làm cho ông có được sự cân bằng về tinh thần

Lần đầu tiên Pauxtốpxki đến với miền Bắc nước Nga là vào năm 1925 khi đó ông là cộng tác viên của tờ báo “Bảo vệ” đi công tác đến Lê-nin-grát để tiễn chiếc tàu buồm đầu tiên của Liên xô chạy vòng quanh thế giới.

Chuyến đi phương Bắc thực sự đã làm cho ông ngạc nhiên. Ở đây ông đã cảm nhận được sức quyến rũ của phương Bắc. Đêm trắng đầu tiên trên sông Nê-va đã cho ông nhận thức nhiều hơn về thơ Nga hơn là đọc hàng chục cuốn sách và suy ngẩm về chúng. Kể từ đó, nhà văn mong muốn được đến phương Bắc lần nữa, để nhận biết nó sâu hơn. Nhà văn đã thú nhận trong cuốn “Phiêu bạt” : “Đã từ lâu vùng Olen-nhi-xki đã quyến rũ tôi. Đã từ lâu tôi muốn tới đó. Không hiểu vì sao tôi luôn cảm giác rằng chính ở đó có điều gì đó rất tốt đẹp sẽ đến vối tôi.” Và mong ước này chẳng bao lâu nũa đã thành hiện thực.

Vào năm 1931 theo đề nghị của Gorki trong đất nước của chúng ta thành lập “Lịch sử các nhà máy và công xưởng”. Trong hang loạt các nhà máy được giới thiệu, Pauxtốpxki chọn một nhà máy cũ ở Pe-trô-da-vốt-xcơ. Mùa xuân 1932 ông lên phương Bắc.

Pauxtốpxki bắt đầu chuyến đi từ Mur-man-xcơ, nơi mà ông ghé lại là do tò mò. Pauxtốpxki sống một vài ngày ở Mur-man-xcơ rồi ông đến Pe-trô-da-vốt-xcơ. Chuyện gì xảy ra với nhà văn ở thành phố này, ông đã kể trong Bông hồng vàng.

Đầu tiên, Pauxtốpki sống trong nhà của một người nông trường viên (bây giờ trong ngôi nhà này là nhà khuyến nhạc), sau đó ông thuê một phòng ở nhà bà Xe-ra-phima Iô-nốp- na, một cựu giáo viên. Pauxtốpxki mãi không viết được cuốn sách về nhà máy, thậm chí ông còn muốn rời thành phố. Nhưng bà giáo già nói ông đừng tức giận và nên đi dạo phố.

Ở Pe-trô-da-vốt-xcơ vào những năm đó có hai nghĩa địa được gọi là “nghĩa địa Đức”. Một nghĩa địa nằm ở Da-re-ka, hướng từ nhà thờ sang bên kia đường. Ở đó chôn cất nhiều những chuyên gia nước ngoài đã làm việc tại nhà máy A-lếch-xăng đờ -rốp-xcơ. Trong những ngôi mộ đó nổi hẳn lên một tấm bia mộ. Tấm bia được viền bằng gang đúc trông nặng nề nhưng tuyệt đẹp. Một lần Pauxtốpxki đã đến ngôi mộ này. Những dòng chữ trên tấm bia đã làm ông chú ý và ông bắt đầu thu tập tư liệu về con người này. Tất cả những tư liệu này đã được tác giả miêu tả trong cuốn Bông hồng vàng (chương “Đêm trắng”). Và như vậy

truyện vừa “Số phận của Sác-lơ Lông-xe-vil “đã được ra đời. Cuốn này ông bắt đầu viết ở Pe-trô-da-vốt-xcơ và kết thức ở vùng rừng núi Me-sô-xki.. Lịch sử của nhà máy Ô-nhét-xki , trước đây là nhà máy A-lếch –xăng đờ-rốp-xcơ đã được phản ánh không những trong truyện “Số phận của Sác-lơ Lông-xe-vil” mà còn trong bút ký “Nhà máy Ô-nhét-xki”.

Không còn nghi ngờ gì nữa, công lao của Pauxtốpxki là ở chỗ, thực chất ông là người đầu tiên đề cập đến lịch sử của một trong những nhà máy luyện gang thép lớn nhất nước Nga. Ông đã thu tập được một kho tài liệu phong phú, trong đó có cả tài liệu lưu trữ về lịch sử của nhà máy, ông đã sử dụng nhiều những tên tuổi và sự kiện có thực. Nhưng cho đến trước năm 1932, khi nhà văn bắt đầu viết về chủ đề này, những nghiên cứu có hệ thống về lịch sử nhà máy vẫn chưa có. Do vậy, ở tác giả đã có những chi tiết thiếu chính xác. Thể loại truyện vừa, khác với thể loại bút ký, cho phép nhà văn khả năng hư cấu sáng tạo và vượt qua khuôn khổ của việc ghi chép sự kiện. Pauxtốpxki đã sử dụng cái quyền này.

Sự chú ý của Pauxtốpxki tới vùng Ka-re-li không làm hạn chế sự hứng thú của ông đối với nhà máy Ô-nhét-xki. Vào năm 1933 cuốn truyện vừa lịch sử – cách mạng “Mặt trận vùng hồ” được xuất bản (lần đầu tiên truyện này đăng trong tạp chí “30 ngày “ dưới nhan đề “Chiến tranh vùng hồ”. Trong cuốn sách, dưới ngòi bút của nhà văn những sự kiện của cuộc nội chiến, “chiến dịch Vit-đờ-lit-xki quả cảm tuyệt vời “ của năm 1919 được sống lại.

Khi ở Ka-re-li, Pauxtốpxki đã đến thăm thác Ki-vat, Ki-di, Pu-đóc và Da-ô-nhe-de, đã đến hồ La-đô-ga và Ô-nhe-ga. Về những cuộc gặp gỡ ở Da-ô-nhe-de, nhà văn đã thuật lại trong truyện ngắn dạng bút ký “Xứ sở Da-ô-nhe-de” (1932). Sự chú ý của Pauxtốpxki đến Da-ô-nhe-de không phải là sự tình cờ. Vùng này có nhiều “dòng dõi của những người ở thành phố Nôv-gô-rốt. Họ giữ giọng nói của Nôv-gô-rốt, giữ lại những chuyện cổ tích, những bài hát, cách làm bánh xèo”. Da-ô-nhe-de còn quyến rũ ông bởi nghệ thuật dân gian kiến trúc cổ ở phương Bắc. Pauxtốpxki đã nhìn thấy sự phong phú của tiếng Nga trong thơ dân gian. Vì vậy mà tại sao với lòng nhiệt thành, ông kể về những cuộc gặp gỡ với những người kể chuyện dân gian, ông nhớ lại tên tuổi của nhiều người sưu tầm và những người hát dân ca tuyệt vời. Trong những tác phẩm về Ka-re-li, ông đã tạo nên một loạt những chân dung của họ. Trong những tác phẩm của Pauxtốpxki thường thấy ông chú ý đế tên tuổi của nhà thơ Nga Pus-kin và điều này không phải là sự tình cờ. “Nửa đầu thế kỷ 19 gần gũi với tôi hơn bất kỳ thời đại nào khác. Đó là sự bắt đầu của thế kỷ vàng của nền văn hóa Nga. Đó là thời đại Pus-kin…”

Trong truyện vừa “Số phận của Sác-lơ Lô-xe-vil” cũng có lời viện dẫn ca ngợi Puskin. Hàng loạt các truyện về phương Bắc được nhà văn viết vào những năm 30. Đó là những năm hình thành sáng tác của Pauxtốpxki, khi mà ông thoát khỏi việc viết những truyện ngắn “Mơ hồ và giả tạo” của thời kì đầu, khi mà những chuyện kì lạ mà ông gắn bó trong những năm 20 bắt đầu đè nặng nhà văn, kìm hãm những khả năng sáng tạo của ông.

Phương Bắc không phải là giai đoạn dài nhưng là giai đoạn thú vị trong quá trình sáng tạo của nhà văn. Những ấn tượng mà nhà văn nhận được ở phương Bắc đã có một vai trò nhất định trong việc hình thành thế giới quan và nghệ thuật của nhà văn.

Trong 15 năm cuối đời, Pauxtốpxki hoạt động tích cực như một nhà chính luận. Ông kêu gọi bảo vệ thiên nhiên khỏi những cuộc tàn phá dã man, ông bênh vực những người bị truy bức, bị theo dõi, bảo vệ tự do và tính độc lập của cá nhân, lên án bạo lực và sự tàn bạo, ủng hộ những nhà văn trẻ có tài.

Sáng tác và lập trường có lương tâm mà Pauxtốpxki đã kiên trì đã làm cho ông có uy tín cao về đạo đức ở nước Nga và ở nước ngoài. Sách của Pauxtốpxki đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và được phát hành trên khắp năm châu. (Tiến sĩ Nguyễn Nam Phong dịch) 2. Thạch Lam – Pauxtốpxki và những trang thơ

Thạch Lam và Pauxtốpxki – người đan dệt những sợi tơ cảm giác, nhà văn của thể loại

truyện ngắn trữ tình với những trang văn mượt mà chất thơ. Cuộc đời, con người và những

tác phẩm của hai nhà văn cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho những tâm hồn yêu thơ. Bản

thân người viết cũng tìm thấy ở những truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki những

điều thật gần gũi với điệu tâm hồn mình.

ĐINH HÙNG

(Trích) Chiều mùa đông, Đốt ngọn lửa hồng, Ta đọc tập thơ sầu, cười với bóng Khói thuốc xanh bay về hư không. Trăng lên đầu phố vắng, Ồ bóng ta say ! Nhớ cố nhân tình sâu nặng, Cốc rượu ngọt uống cay nồng. * * * Bạn là người bạn chung tình, Đôi hồn lữ thứ Bốn phương lỡ gót đăng trình. Trời giăng sao tỏ, Bao mùa thu Cửa phòng ta để ngỏ ? Giấc mộng ta hững hờ ? Bạn với tôi xưa Đứng bên hồ Nằm chung mộng Ân ái cùng thơ. *

1. HOÀI NIỆM

* * Đêm hoa, cành nguyệt, Gió giăng xao động ngoài màn Bạn hát bài ca phóng đãng, Cười lên trăng xanh, tôi dạo đàn, Xuân đến giấc mơ đầy thiếu nữ, Ta nằm ta ngủ, Lệ đa tình chưa chan. Ôi thời gian ! Thời gian tình tự ! Mặc nỗi lòng người thở than Mộng cung tần Xoay nghiêng mặt gối. Ai cười ? Ai nói ? Ai xênh ca ? Lênh đênh nước biển trăng nhòa, Những vì sao lạ đã sa xuống gần. Trời buồn dáng điệu giai nhân...

NGUYỄN VŨ TIỀM

Trăm đường phố chọc trời xa khuất mấy Dễ quên sao ba mươi sáu phố phường Một thoáng gió đầu mùa sâu thẳm ấy Sợi tóc mềm trên ngưỡng cửa tha hương...

2. BAO GIỜ LẠI GIÓ ĐẦU MÙA?

“Chưa bao giờ anh ước đâu em Một ngôi nhà bão dừng sau cánh cửa.” (Bằng Việt) Những vì sao sáng đến tận cùng đêm khi em mười tám tuổi Trang sách Pauxtốpxki giấu ánh mắt thật hiền Ngọn nến lung linh cạn mình để cháy Có thể nào là cuộc sống của em? Anh chúc gì cho em những ngày em mười tám tuổi Bản sonat quê hương mang khát vọng dâng triều Những bông tuyết tan dần trong lòng tay ấm nóng Hay bông hồng vàng... những mảy bụi tình yêu Cho em khóc cùng Đanhi niềm vui mười tám tuổi Lãng quả thông thêm giấc mộng êm đềm

3. NHỮNG NGÔI SAO MƯỜI TÁM PHẠM NGỌC LAN

Cho em mở những lá thư phập phồng hy vọng Để trao đi một tấm lòng và nhận lại một trái tim Cuộc sống sẽ là gì từ trang sách của em? Nghe bàng hoàng ngày sóng xô biển động Nghe rừng thu xao xác lá muôn chiều Bao nỗi đau đi qua mới cháy thành hạnh phúc Trăm niềm thương lắng lại một niềm yêu. Anh có kết giùm em bông hồng từ gió bụi Mỗi nẻo em qua... vàng trong cát thầm thì Một thoáng ngậm ngùi len trong lòng hạnh phúc Để ta nhắc lại Pauxtốpxki Gửi lại Pauxtốpxki nỗi buồn mười tám tuổi Nhật ký tuổi thơ khép lại... Nhớ thương nhiều Lật trang sách từ một thời bão nổi Em soi cuộc đời minh trong đáy mắt tình yêu. Anh chúc gì cho em khi bầu trời tím đến tận cùng đêm.

4. LẠI NGHĨ VỀ PAUXTỐXKI BẰNG VIỆT

Đồi trung du phơ phất bóng thông già Rừng thông đứng. Hồn trong chiều lặng gió Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu "Lẵng quả thông " trong suối nhạc nhiệm màu Hay "Chuyến xe đêm" thầm thì mê đắm Mùi cỏ dại trong cánh đồng xa thẳm Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa. – "Có thể ngày mai ta cũng sẽ đi qua Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"? Có tiếng chuông rung và con mèo "Áckhíp" Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong..." Xa xôi sao!... Thời thơ ấu sau lưng Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu!

Cuộc đời không phải thế! Giọt nước trên tay không cùng mầu sóng bể Bể mặn mòi sôi sục biết bao nhiêu Khi em đến bên anh, trước biển cả dâng triều Ta thu hết xa khơi vào lòng ngực trẻ Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt tới Dấu đen sầm khi đáy bóng đêm trôi Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng Nốt cao quá trong đời xao động quá! Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả Lại ngọt ngào kì lạ lớn lao hơn. Anh đã đi qua bão lốc từng cơn Cây rụng lá trong chiều thanh thản nhất Anh qua cả màu không gian ngây ngất Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao Em đến rồi đi như một giấc chiêm bao...! Còn bây giờ anh biết nói gì hơn Có thể, ngày mai thôi...Có thể.. "Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ" Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xót lòng thêm... Pauxtốpki là dĩ vãng trong em Thành dĩ vãng hai ta bây giờ anh ngoảnh lại Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, Anh hiểu rằng không phải... Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời...! Đưa em đi.Tất cả thế xong rồi, Ta đã lớn. Và Pauxtốpxki đã chết ! ...Anh vẫn khóc khi nghĩ về chuyện "Tuyết" Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!

5. THƠ TÌNH NGÀY BIỂN ĐỘNG BẰNG VIỆT

Chưa bao giờ anh ước đâu em Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa… Trời ơi! Buổi sớm quá chừng thơm Anh gặp lại hương sen, năm anh mười tám tuổi, Một ánh vui táo tợn của mùa hè, Khi những vệt ong hôn vào nhuỵ hoa cháy bừng như vệt lửa, Những trận lốc, những cơn mưa trước hồn anh bỏ ngỏ…

Và ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa Có thể nào anh ước đâu em?… Rất nhiều chuyện qua rồi. Rất nhiều chuyện giống như quên Sau tuổi hai mươi, ngỡ không cần đến nữa: Chút xôn xao trong hàng cây nắng nhỏ, Giọt nước tròn rung rinh trong lá sen, Cả gợn sóng mơ hồ trong ánh mắt riêng em, Màu trời xám mênh mông ngày động biển, Cánh bướm mai hồng, cơn mưa chiều tím, Một cửa sổ lặng thầm chi chút những sao rơi… Hạnh phúc ta cần, thực cũng giản đơn thôi Như chỉ ở trước ta trên một tầm tay với, Ngỡ rảo bước là sớm chiều đã tới Suốt cuộc đời, sao vẫn giục mình đi? Em có thể là gì sau trang sách Pauxtốpxki Là một ánh bình minh xanh mờ không thể tắt? Hay hương mát rừng thông cao ẩm ướt? Một bóng mây khắc khoải cả mùa hè? Anh không biết dãy phố ta đi hôm ấy gọi là gì? Không biết lá cây trên đầu sao buổi chiều phát sáng? Giọt nước mắt long lanh giữa tình yêu, tình bạn, Những kỷ niệm nơi này xáo trộn với nơi kia Anh và em (chỉ thế thôi). Và không có Pauxtốpxki “Ta đã lớn. Mà Pauxtốpxki đã chết!” Chỉ còn lại cuối cùng những cảm thông da diết Của tất cả những gì vừa có lại vừa không… Tất cả có thế thôi! Em – Màu trong suốt của trời xanh trên phố thợ, Chỗ mặn nhất của đầu bọt sóng tự khơi xa, Lại cũng là vết thương của anh, tuổi thơ của anh, nơi ẩn kín của hồn anh bão tố, Lá cỏ bồng gió ru trên bãi cát khô cằn, Đốm lửa nhỏ bất ngờ trong một đêm ngủ rừng, hai bàn tay lạnh cóng, Hay màu ngói đỏ đầu tiên, sau cả cuộc chiến tranh dài! Em thao thức trong anh lòng yêu lớn – Con Người! Yêu những thứ bị tàn phá đi, bây giờ cần dựng lại Yêu một cái cây tự lúc phải gây mầm cho đến khi ra trái, Yêu cái đẹp của cuộc đời, để buộc nó sản sinh thêm… Chưa bao giờ anh ước đâu em

Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa!

(Cho Matx 1) TRẦN THỊ THẮM

“Anh và em (chỉ thế thôi). Và không có Pauxtốpxki “Ta đã lớn. Mà Pauxtốpxki đã chết!” Chỉ còn lại cuối cùng những cảm thông da diết Của tất cả những gì vừa có lại vừa không…”

(Bằng Việt)

6. HOÀI NIỆM NƯỚC NGA

1 Chúng tôi thường gọi Mátxcơva bằng cái tên thân mật là Matx

Những trang sách bên em từ thủa bé Như con thuyền chở ước mộng tuổi thơ Mãi trong em một nước Nga huyền thọai Xa xôi sao, xanh ngát một khoảng trời Mùa xuân đến dạo bản nhạc không lời Đường bạch dương thênh thang tràn nắng ấm Thảo nguyên xanh và con đường xa thẳm Một cánh đồng rực rỡ ngát hương hoa Thật diệu kì khi đàn sếu bay qua Mang sắc đỏ rải xuống nghìn mắt lá Thu quyến rũ dịu dàng đến kì lạ Cả không gian miên man nét thu vàng Em mơ về rừng thông mỗi chiều sang Cái rét ngọt giữa mùa đông tuyết trắng Cỗ xe ngựa trôi về miền xa vắng Ánh sao xanh trên nóc mỗi ngôi nhà… Cho em khóc cùng cô bé Đa–nhi Niềm vui sướng vỡ òa tuổi mười tám Pauxtốpki giấu tình thương sâu thẳm Trái tim Người ấm áp mỗi trang văn Hạnh phúc gần sao quá đỗi khó khăn Bông hồng vàng kết từ nghìn tim vỡ Trong bình yên lòng dâng lên nỗi sợ Cả niềm tin cũng có lúc mong manh… Anh kể em nghe về một nước Nga Của riêng anh. Của một thời trai trẻ

Rất đời thường mà bao điều mới mẻ Chín năm rồi thành máu thịt trong anh Giảng đường xa rộn rã bước chân Bao mùa dài lòng cồn cào cơn đói Bóng quê nhà chìm vào sương khói Những chiếc lá mang khuôn mặt người say Không giản đơn những phép cộng nồng, cay… Hạnh phúc còn rộng dài hơn thế Triết lí đời rồi chìm vào dâu bể Điều giản dị sẽ ở lại bên anh Vẫn trong anh tình yêu – Matx nguyên lành Dẫu bão thổi bốn bề miền đất hứa Bao khát vọng tuổi xanh thành điểm tựa Đã đẩy lùi những cay cực ngày qua Anh để lại gì cho Matxcơva? Mùa lá rụng khẽ chạm vào nỗi nhớ Bông tuyết tan trong lòng tay nóng bỏng Phải anh về Matx lạnh hơn không?! Từ bao giờ em nhớ những mùa đông Dẫu bên em đang giữa mùa nắng ấm Và thương cả cô gái Nga mắt biếc Tha thiết trong anh một mối duyên đầu Mãi trong em trong trẻo một tình yêu Lật trang sách về nước Nga –xứ tuyết Còn anh sẽ nói Matx lời từ biệt Nhưng trong lòng nào có dễ nguôi quên. VN, Tp.HCM, cuối tháng 10/2008.

truyện ngắn Tình xưa

của Thạch Lam)

(Nhân đọc TRẦN THỊ THẮM

7. CHIỀU MƯA

Ngày anh trở lại – một chiều mưa Con đường xưa hàng cây run rẩy Quán cóc trầm tư tiếng cười ấy Kỷ niệm gọi về hơi ấm bàn tay Trắng xóa trời thành phố mưa bay Những luồng xe trôi đi vội vã

(

Trích

http://123.30.128.11/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc/Tho-va-tuoi-

tre/105185/Thanh-pho-khong-mua-dong.html)

Lướt qua nhau dòng người xa lạ Còn mình anh với biển hoàng hôn Sóng nghĩ gì mà lặng lẽ hơn Gió trở mình hàng dương xào xạc Nghe đâu đây vọng về tiếng hát Bản tình ca sôi nổi đầu tiên Nghe xa xôi từng bước chân quen Ánh mắt ai buổi đầu hò hẹn Phía trời xa cánh chim lẻ bạn Trong tiếng kêu thảng thốt giật mình