: 60 22 30

Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _____________________ Giang Thị Thủy THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ QUỲNH NGA

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn ban chủ nhiệm

khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cùng những thầy cô đã

trực tiếp giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho tôi, đồng thời giúp tôi rèn luyện nhân cách

trong suốt khóa học 2006 - 2009, chương đào tạo trình sau đại học, chuyên ngành Văn học

nước ngoài.

Xin đặc biệt gửi lời cảm ơn TS. Trần Thị Quỳnh Nga - người đã tận tình hướng dẫn

tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học, giúp tôi từng bước hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn các thầy cô thuộc Phòng Khoa học – Công nghệ sau đại học

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, cùng toàn thể cán bộ, nhân viên thư

viện Trường Đại Học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong

suốt quá trình thực hiện luận văn.

Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn sự động viên, ủng hộ của gia đình, các chị, các

em, bạn bè. Xin cảm ơn người đã lặng lẽ chia sẻ cùng tôi những giai điệu bí ẩn của tâm hồn,

cảm ơn những người bạn tuy họ không ở bên cạnh tôi nhưng tôi vẫn nhận được lời động

viên, khuyến khích của các bạn ấy, giúp tôi có thêm niềm tin trên bước đường tìm hiểu khoa

học.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2010

Học viên thực hiện

Giang Thị Thủy

Quy ước chung

Khi phiên âm tiếng Việt, tên của nhà văn Kônxtantin Pauxtôpxki hiện có nhiều

cách viết, ví dụ: Constantin Paustovski, Konstantin Paustovski, Konstantin

Paustovsky, Kônxtantin Pauxtốpxki, Kônxtantin Pauxtôpxki… Trong luận văn này

chúng tôi xin quy ước viết tên tất cả các tác giả văn học Nga và thế giới, tên các nhà

nghiên cứu phê bình, lí luận văn học thế giới… theo cách phiên âm trong Từ điển

Văn học (2003) do Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá

chủ biên, nhà xuất bản Thế giới ấn hành.

Do trích dẫn từ những nguồn tài liệu khác nhau, tên một số tác giả, tên địa

danh, tên nhân vật không tránh khỏi đôi chỗ khác biệt. Để tỏ ý tôn trọng bản quyền

tác giả, chúng tôi xin được giữ nguyên văn tên những danh từ riêng này đúng như tác

giả của bài viết đã sử dụng.

DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài

Văn học Nga là một nền văn học lớn, có tầm ảnh hưởng đáng kể đối với lịch sử

phát triển của văn học thế giới trên nhiều phương diện. Nền văn học viết của Nga

hình thành từ thế kỉ XI, tuy nhiên văn học xứ sở bạch dương chính thức ghi danh tên

tuổi của mình vào nền văn học thế giới bằng những thành tựu rực rỡ của văn học thế

kỉ XIX. Đây là thời kì được mệnh danh là thế kỉ vàng trong lịch sử văn học Nga với

tên tuổi của A.Puskin, M.Lecmôntôp, N.Gôgôn, Ph.Đôxtôiepki, L.Tônxtôi,

A.Sêkhôp…

Những năm đầu thế kỉ XX, lịch sử nước Nga bước sang trang mới với thắng lợi

của Cách mạng tháng Mười vĩ đại, lật đổ chế độ Nga hoàng, đánh dấu một mốc son

trong bề dày lịch sử hào hùng của dân tộc. Sau khi bình ổn cuộc nội chiến (1918 -

1922), Đảng và nhà nước Xô viết đã lãnh đạo nhân dân từng bước tiến hành công

cuộc xây dựng, đổi mới đất nước. Những thành quả đạt được từ kế hoạch 5 năm lần

thứ nhất, 5 năm lần thứ hai, giúp đất nước và con người Xô viết có những bước

chuyển mình lớn lao trên mọi phương diện từ chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục đến

khoa học kĩ thuật. Tiếp tục giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại,

chống lại chủ nghĩa phát xít, thế giới một lần nữa khâm phục sự vươn lên mạnh mẽ,

vượt bậc của một dân tộc kiên cường, bất khuất. Văn học luôn song hành với bước

tiến của lịch sử. Hiện thực sống và chiến đấu của nhân dân Xô viết được phản ánh

chân thực, sinh động trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Trong giai đoạn phong

ba bão táp của lịch sử, các tác phẩm văn nghệ Xô viết vẫn chứa đựng niềm tin mãnh

liệt vào tương lai tốt đẹp. Khuynh hướng chung của văn học Xô viết lúc bấy giờ là tái

hiện bức tranh sử thi hoành tráng có tầm khái quát rộng lớn về con người và xã hội.

Kônxtantin Pauxtôpxki đến với cuộc đời giữa lúc xã hội Nga đang trong bầu

không khí sục sôi của đêm trước trước Cách mạng tháng Mười. Ông trưởng thành

trong thời kì nước Nga trải qua những bước thăng trầm của cuộc nội chiến. Trong thế

chiến thứ Hai, ông làm phóng viên chiến tranh của mặt trận phía Nam. Ông đi nhiều,

và chủ yếu viết dựa trên những ấn tượng sống trực tiếp. Hơn nửa thế kỉ hoạt động

trên nhiều lĩnh vực: làm báo, viết văn, tham gia giảng dạy tại Học viện Gorki,

Pauxtôpxki đã để lại một khối lượng tác phẩm phong phú, đa dạng về thể loại - tiểu

thuyết, truyện vừa, tiểu luận, chân dung văn học, đặc biệt là truyện ngắn. Hòa vào

dòng mạch chung của văn xuôi Nga hiện đại, Pauxtôpxki vẫn chọn cho mình một lối

đi riêng. Tiếp thu tinh hoa từ những bậc tiền bối trong lịch sử văn học dân tộc, không

ngừng tôi rèn bản thân, học tập kinh nghiệm từ bạn bè và đồng nghiệp, Pauxtôpxki đã

khẳng định được vị trí của ông trên văn đàn Nga bên cạnh những tên tuổi trụ cột của

dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đương thời như M. Gorki, A. Tônxtôi, A.

Fađêep, M. Sôlôkhôp…

Người viết chọn đề tài này xuất phát từ lòng yêu mến văn học Nga - một nền

văn học giàu chất nhân văn, vừa trung thành với hiện thực vừa đậm chất trữ tình, một

nền văn học ca ngợi những con người kiên cường trong chiến đấu, miệt mài trong lao

động, chung thủy trong tình yêu, cống hiến hết mình vì nghệ thuật. Những tác phẩm

vừa hiện thực vừa trữ tình, chất thơ trong văn xuôi cùng lối kể chuyện nhẹ nhàng của

Pauxtôpxki đánh thức những rung động mỏng manh, khẽ khàng của tâm hồn, mở ra

chiều sâu thăm thẳm của cái đẹp ẩn giấu sau những điều bình dị, giản đơn. Mỗi câu

chuyện của Pauxtôpxki là một bài ca ngọt ngào về tình yêu con người và cuộc sống.

Đặc biệt, bầu không khí trong ngần bao quanh thế giới nhân vật Pauxtôpxki để lại ấn

tượng sâu đậm trong kí ức người viết cũng như bao bạn đọc từng tiếp xúc với tác

phẩm của ông ngay từ lần đầu tiên. Vì tình yêu và niềm say mê dành cho tác giả

truyện ngắn Nga này, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Thế giới nghệ thuật truyện

ngắn Kônxtantin Pauxtôpxki.

2. Lịch sử vấn đề

Pauxtôpxki là nhà văn Nga nổi tiếng. Với khuynh hướng lãng mạn và phong

cách trữ tình độc đáo, sáng tác của ông đã làm say mê bao thế hệ độc giả. Trong

những bài viết, giới nghiên cứu, phê bình khẳng định những đóng góp của

Pauxtôpxki và dành cho nhà văn tình cảm trân trọng, quý mến.

Tại Nga, đồng nghiệp cũng như các nhà văn thuộc thế hệ sau Pauxtôpxki đều

dùng những hình dung từ rất đẹp khi bàn về tài năng nghệ thuật của ông. Trong lời

giới thiệu Truyện chọn lọc - Kônxtantin Pauxtôpxki, Ilia Êrenbua nhận định: “Nếu

không kể đến những tác phẩm của Kônxtantin Pauxtôpxki thì nền văn học Nga đã bỏ

sót một nét đẹp hiếm có. Trong lịch sử văn học Nga có rất nhiều tài năng lỗi lạc mà

tên tuổi của họ đã được thế giới công nhận, nhưng thật khó có thể tìm được một tấm

gương tận tụy, miệt mài trong hoạt động sáng tác như Pauxtôpxki Bạn đọc yêu mến

Pauxtôpxki bởi vì lòng tốt không có giới hạn của ông dành cho con người và cuộc

đời. Trong tác phẩm của ông, con người nào cũng nhân hậu, con người nào cũng hào

hiệp, con người nào cũng sẵn lòng giúp đỡ người khác. Đừng ngần ngại trao tặng

lòng yêu thương, sự chia sẻ đến mọi người xung quanh – đó là cách để được mọi người yêu quý và kính trọng. Pauxtôpxki được mọi người nhớ mãi cũng vì thế”. 1

Nữ thi sĩ Ônga Becgôn – người mà những bài thơ tình sâu lắng của bà làm trái

tim bao thế hệ độc giả Việt Nam phải xao xuyến – cho rằng: “Không thể kể hết những

người cầm bút thuộc thế hệ chúng tôi xem Kônxtantin Pauxtôpxki như bậc thầy đáng

kính của mình. Có lẽ chính Pauxtôpxki cũng không ngờ ông có nhiều học trò đến vậy.

Bản thân tôi cũng là một học trò nhỏ của ông. Còn hạnh phúc nào hơn nếu tôi có thể

học tập từ người thầy của mình dù chỉ một chút tinh hoa từ nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, có sức truyền cảm mạnh mẽ nhường ấy”2.

Pauxtôpxki được đánh giá là một trong những bậc thầy của nghệ thuật truyện

ngắn Xô viết đương đại. Bitôp khẳng định: “Liệu có cần nói gì thêm về Pauxtôpxki

khi tất cả chúng ta đều mong “đan dệt” được những truyện ngắn đẹp đẽ, trong suốt,

những truyện ngắn lương thiện đến như thế” [33, tr. 135]. Đánh giá những đóng góp

của Pauxtôpxki đối với thể loại truyện ngắn, S. Aimatôp viết: “Hãy nhớ lại

Pauxtôpxki. Trong truyện của ông, dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Không ai

đuổi bắt ai mà cũng không ai rời bỏ ai. Vậy mà đọc truyện ta cảm thấy rất thú” [33,

tr. 147].

I.Bônđarep khâm phục tài năng của người thầy Pauxtôpxki trong việc xây dựng

tình huống truyện mà “thiếu nó thì nhân vật không có da thịt và mờ nhạt. Cái trò chơi

lạ thường sáng tối, sự phối hợp chính xác màu sắc, âm thanh, mùi vị, nhịp điệu,

1 Nguồn: http://www.flipkart.com/selected-stories-konstantin-paustovsky/1410104575-4nx3f91yic 2 http://www.flipkart.com/selected-stories-konstantin-paustovsky/1410104575-4nx3f91yic

thanh điệu là khả năng tuyệt vời không phải luôn luôn bắt gặp trong văn học chúng

ta” [45, tr. 145]. Đặc biệt Bônđarep nhấn mạnh đến biệt tài tạo dựng bầu không khí

trữ tình như thực như mơ bao trùm khắp các sáng tác của bậc thầy truyện ngắn này.

Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn học, các dịch giả đã sớm giới thiệu

những sáng tác của Pauxtôpxki tới bạn đọc trong nước. Tập Bông hồng vàng được

xuất bản ở Nga năm 1955, không bao lâu sau, một số truyện ngắn tiêu biểu của

Pauxtôpxki đã được các dịch giả miền Nam dịch sang tiếng Việt.

Ở miền Nam, năm 1953, truyện ngắn Mưa trong bình minh do Vũ Minh

Thiều dịch được đăng trên Tập san Nhân loại do Đông Hồ chủ trương, các số 16 - 17

- 18 (Số 16 ra ngày 9 tháng 11 năm 1953).

Ở miền Trung, truyện Mưa lúc rạng đông được Bửu Kế và Cẩm Tâm dịch, in

trong tập Truyện ngắn quốc tế, nhà xuất bản Hương Bình ở Huế ấn hành năm 1955.

Ngay từ những ngày đầu, truyện ngắn Pauxtôpxki đã nhanh chóng chinh phục

được đông đảo những người yêu văn học nghệ thuật Việt Nam bởi phong cách văn

xuôi đậm chất lãng mạn, trữ tình. Trong bài “Trả lời phỏng vấn văn nghệ của Bách

khoa Sài Gòn”, số 66 ra ngày 1 tháng 11 năm 1959, tác giả Nguyễn Phúc và nhà văn

Võ Phiến khẳng định khả năng truyền cảm đặc biệt của truyện Mưa lúc rạng đông

(Truyện ngắn quốc tế do Bửu Kế và Cẩm Tâm dịch): “Khung cảnh và tâm tình nhân

vật đều mờ mờ như làn mưa bụi lúc rạng đông” [38, tr. 42], “những tình cảm trong

đó bàng bạc, vương vít khắp nơi, ở một lóe nắng, một bụi cỏ, ở tiếng nói cười trong

truyện rải rác gần như vô tình” [38, tr. 48].

Sang đầu những năm 60 của thế kỉ XX, Bông hồng vàng đã được giới thiệu ở

nước ta qua bản dịch của Vũ Thư Hiên. Với tất cả tình yêu và sự đồng cảm dành cho

những áng văn giàu chất trữ tình của nhà văn Xô viết này, Vũ Thư Hiên và Mộng

Quỳnh đã dồn hết tâm huyết để chuyển tải một cách trung thực và trọn vẹn nhất chất

văn xuôi ngọt ngào, cái duyên kể chuyện mượt mà sâu lắng trong văn phong của

Pauxtôpxki sang tiếng Việt.

Các sáng tác của Pauxtôpxki được đánh giá là có một sức hút đặc biệt. Anh

Trúc ca ngợi những sáng tác của Pauxtôpxki là kết tinh vẻ đẹp của tâm hồn Nga, tính

cách Nga. Trong Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài, Nguyên An đề cập đến yếu

tố bất ngờ, tính ngẫu nhiên trong truyện Pauxtôpxki và khẳng định giá trị nhân văn

sâu sắc chứa đựng trong những trang viết của Pauxtôpxki có khả năng thanh lọc tâm

hồn con người. Nguyễn Hải Hà tôn vinh Pauxtôpxki là “Người dẫn đường tới cái

đẹp”. Theo ông, biệt tài của Pauxtôpxki là phát hiện và chuyển tải chất thơ trong cuộc

sống bình dị vào trang viết. Phan Hồng Giang - nhà nghiên cứu văn học, đồng thời là

một dịch giả rất tâm huyết với văn học Nga - ca ngợi Pauxtôpxki là người gom góp,

chắt chiu cái đẹp: “Như con ong chuyên cần bay cuối đất cùng trời, hút nhụy hoa

tươi, chắt chiu thành mật ngọt, Pauxtôpxki đã run rẩy đón nhận từng vẻ đẹp li ti nhất

rồi đem lại cho chúng ta những vẻ đẹp ấy với sắc màu, hương vị tươi nguyên” [35, tr.

314].

Pauxtôpxki là một trong những tác giả được các nhà văn Việt Nam chọn là tấm

gương học tập trong nghệ thuật viết truyện ngắn. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên được

đánh giá là một trong những yếu tố góp phần tạo nên chiều sâu thăm thẳm của cái đẹp

trong các sáng tác của ông. Vũ Thị Thường nhận xét về nghệ thuật miêu tả mang đậm

sắc thái hội họa trong văn Pauxtôpxki: “Đọc văn Pauxtôpxki, nhiều đoạn như xem

tranh, ông tả rừng mà vẽ lên từng cái gân lá, sau đó ông xóa đi để vẽ nên lớp sương

mù” [33, tr. 14].

Đặng Thị Hảo nhấn mạnh một phương diện nghệ thuật của truyện ngắn

Pauxtôpxki, đó là chất thơ trong văn xuôi:

“Chất thơ trong văn xuôi là một biểu hiện đặc sắc trong phong cách

nghệ thuật của Pauxtôpxki. Đó là sự kết hợp nhuần nhị cái khí sắc lãng mạn –

đặc điểm xuyên suốt từ những sáng tác đầu tay của ông – với bút pháp trữ tình

cùng cái duyên mượt mà của một văn phong điêu luyện, làm cho những “bài

thơ văn xuôi” của ông thấm vào hồn người một cách nhẹ nhàng, tinh tế…”

[26, tr. 1341 – 1342].

Theo Phong Lê, tài năng đặc sắc của tác giả trong việc nắm bắt chất thơ lung

linh muôn màu từ hiện thực cuộc sống là yếu tố tạo nên giá trị bền vững của truyện

Pauxtôpxki giữa dòng chảy muôn trùng lớp sóng của văn học thế giới: “Có thể nói

nếu có một chất thơ đích thực nhưng khó nắm ở đời thì Paustovski chính là bậc thầy

cao nhất để nhận ra và lưu giữ được nó khiến cho mỗi chuyện đời bình dị qua ông

bỗng trở nên lung linh trong Tuyết, Cô gái làm ren, Lẵng quả thông…” [29, tr. 22].

Nhìn chung, những vấn đề liên quan đến đặc trưng phong cách nghệ thuật

Pauxtôpxki không phải là quá mới mẻ. Tuy nhiên, ngoài những bài giới thiệu khái

quát vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về thế giới nghệ thuật truyện

ngắn Kônxtantin Pauxtôpxki. Vì vậy, việc đi sâu phân tích làm rõ hơn những đặc sắc

trong nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki là điều cần thiết.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi thực hiện đề tài này dựa trên việc khảo sát, phân tích các tác phẩm

của ông qua văn bản tiếng Việt. Cụ thể, chúng tôi sẽ tìm hiểu thế giới nghệ thuật

truyện ngắn Pauxtôpxki trên một số phương diện: Thế giới nhân vật, cốt truyện và kết

cấu, không gian – thời gian nghệ thuật, chất thơ trong văn xuôi. Đây là những yếu tố

tiêu biểu tạo nên dấu ấn riêng của tác giả.

Những truyện ngắn của Pauxtôpxki khảo sát trong luận văn chủ yếu được viết

bắt đầu từ những năm 1930, nở rộ nhất là thời kì trước và sau chiến tranh thế giới thứ

Hai, sau đó là các tác phẩm được sáng tác rải rác đến trước khi ông qua đời vào năm

1968. Những truyện ngắn này được in trong tập Bông hồng vàng và Bình minh

mưa.

4. Đóng góp của luận văn

Tìm hiểu những nét đặc trưng trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn

Pauxtôpxki, luận văn – trong chừng mực nhất định – đem lại cho người đọc cái nhìn

tương đối toàn diện về một gương mặt truyện ngắn đã và đang được nhiều bạn đọc

yêu mến. Đề tài khảo sát một cách hệ thống truyện ngắn Pauxtôpxki để nhận diện

phong cách nhà văn, chỉ ra những nét đặc sắc về phương diện nghệ thuật. Từ đó có

thể khẳng định những đóng góp của Pauxtôpxki đối với sự phát triển của thể loại

truyện ngắn Nga hiện đại.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản

sau:

Phương pháp lịch sử được áp dụng trong việc tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp

sáng tác, quan niệm nghệ thuật của tác giả. Phương pháp này còn giúp chúng tôi tìm

hiểu thế giới truyện ngắn Pauxtôpxki dựa trên những đặc trưng của thể loại truyện

ngắn đã có bề dày truyền thống trong lịch sử phát triển của văn học thế giới.

Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm làm nổi bật nét độc đáo trong thế

giới nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki qua việc đối sánh tác phẩm của ông với tác

phẩm của các nhà văn khác.

Trong khi sử dụng các phương pháp trên, chúng tôi đồng thời sử dụng thao tác

phân tích để đi sâu đánh giá tác phẩm theo hướng cảm thụ, cảm nhận.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Dẫn nhập (9 trang), Kết luận (3 trang), Phụ lục (20 trang), luận

văn được triển khai trong ba chương.

Chương 1: Kônxtantin Pauxtôpxki - Con người và quan niệm nghệ thuật (15

trang)

Ngoài phần giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp, những tác phẩm chính, chúng tôi

trình bày một số quan niệm của Pauxtôpxki về nghề văn, sứ mệnh nhà văn, kinh

nghiệm sáng tác văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng. Đây là tiền đề quan

trọng hình thành nên phong cách truyện ngắn đặc sắc của ông.

Chương 2: Thế giới nhân vật truyện ngắn Kônxtantin Pauxtôpxki (17

trang)

Chương này được triển khai nhằm miêu tả và phân tích vẻ đẹp của tâm hồn

Nga, tính cách Nga qua thế giới nhân vật trong truyện ngắn Pauxtôpxki.

Chương 3: Phương thức biểu hiện của truyện ngắn Kônxtantin Pauxtôpxki (31

trang)

Phân tích những đặc trưng nghệ thuật đặc sắc làm nên vẻ đẹp của thế giới nghệ

thuật truyện ngắn Pauxtôpxki trên một số phương diện: Cốt truyện và kết cấu, không

gian - thời gian nghệ thuật, chất thơ trong văn xuôi là nhiệm vụ đặt ra trong chương

3.

Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki có sức truyền cảm mạnh mẽ, để lại

những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Kể từ những ngày đầu tác phẩm của ông

được giới thiệu tại dải đất hình chữ S trên bản đồ thế giới, bạn đọc Việt Nam đã dành

cho Pauxtôpxki tình cảm thiết tha, trìu mến suốt dọc dài thời gian. Vì thế, luận văn

dành phần Phụ lục trình bày những suy nghĩ của bản thân về quá trình Pauxtôpxki

được đón nhận tại Việt Nam, sự tác động sâu sắc từ những trang văn của Pauxtôpxki

đến đời sống tinh thần bạn đọc, đặc biệt là các bạn trẻ và dấu ấn Pauxtôpxki trong

sáng tác của một số nhà văn Việt Nam.

Chương 1

KÔNXTANXTIN PAUXTÔPXKI –

CON NGƯỜI VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

1.1. Kônxtantin Pauxtôpxki – Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

1.1.1. Cuộc đời

Kônxtantin Pauxtôpxki sinh ngày 31 tháng 5 năm 1892 tại Matxcơva. Gia đình

ông gốc Côdắc miền Dapôrôgiê, sau đó chuyển tới ngụ tại vùng ven sông Rôtxi, gần

tỉnh lị Bêlaia Séccôp. Thân phụ của Pauxtôpxki là một công chức thống kê trong

ngành đường sắt. Hầu như suốt cuộc đời, cha ông gắn bó với những tuyến đường sắt

phần Châu Âu của nước Nga. Do yêu cầu công việc của cha, gia đình Pauxtôpxki

thường phải thay đổi chỗ ở nên từ nhỏ nhà văn được đi đến nhiều vùng khác nhau

trên đất nước. Từ những tháng năm tuổi thơ, cuộc sống của cậu bé Pauxtôpxki đã gắn

liền với những chuyến đi.

Ông Ghêoócghi Măcximôvich - cha của Pauxtôpxki - là một người lãng mạn,

phóng khoáng. Ông rất tôn trọng thế giới tâm tư, tình cảm riêng của các con. Trong

một lá thư gửi con trai trong thời gian đi công tác xa nhà, ông viết: “Ba vẫn vững tin

rằng rồi đây trong cuộc đời, con sẽ vươn tới được những hoài bão của mình và sẽ trở

thành một con người chân chính. Hãy nhớ lấy lời khuyên mà có lần ba đã thổ lộ với

con: Đừng bao giờ đánh giá con người qua những ấn tượng ban đầu, trước khi am

hiểu tường tận mọi cảnh huống xui khiến người ta có một hành động nào đó, trước

khi có đầy đủ từng trải để hiểu hết những điều mà giờ đây con chưa thể hiểu được”

[36, tr. 288]. Mẹ của Pauxtôpxki là người có tấm lòng nhân hậu, độ lượng song cũng

rất nghiêm khắc trong việc dạy dỗ con cái.

Các thành viên trong gia đình Pauxtôpxki đều yêu thơ ca, nghệ thuật. Ông nội

Măcxim Grigôriêvich là cựu chiến binh Côdăc dưới thời Nga hoàng Nicôlai I, từng

tham gia cuộc chiến tranh chống Thổ Nhĩ Kì. Ông cụ thường hay kể cho Pauxtôpxki

những truyền thuyết cổ xưa, khơi dậy trong tâm hồn người cháu tình yêu văn học

nghệ thuật. Theo lời tác giả bộc bạch trong bộ tự truyện, bà ngoại ông là một người

rất yêu thơ ca. Vào dịp tác phẩm đầu tay của Pauxtôpxki được đăng báo, bà đã chúc

phúc cậu cháu trai trong nỗi vui sướng nghẹn ngào: “Hãy lao động và hạnh phúc

cháu ạ. Phải tin rằng Đức Chúa thương hại bà vì Người đã dành cho bà niềm hạnh

phúc này trước khi nhắm mắt” [36, tr. 356].

Pauxtôpxki trải qua thời niên thiếu tại Ucraina. Ông học trung học tại Kiep và

là bạn học của Mikhain Bungacôp. Đang học trung học thì bố mất, Pauxtôpxki phải

làm gia sư để có thêm tiền ăn học. Một phần tuổi hoa niên và tuổi trẻ của Pauxtôpxki

đã trôi qua trong hoàn cảnh không nhiều thuận lợi nhưng ông vẫn ấp ủ, nuôi dưỡng

cho mình những ước mơ đẹp.

Năm 1912, Pauxtôpxki trở thành sinh viên khoa Lịch sử tự nhiên của Đại học

Kiep. Hai năm sau ông chuyển sang học khoa Luật trường Đại học Matxcơva. Năm

1914, chiến tranh thế giới thứ Nhất nổ ra, ông bỏ dở việc học làm nhân viên đường

sắt, phụ lái tàu điện, bán vé tàu điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương. Năm

1915, trong thời gian điều trị vết thương ở chân trái do bị trúng mảnh đạn trái pháo

của Đức tại thị trấn Nhêxvigơ, tình cờ lật xem một tờ báo cũ, Pauxtôpxki biết tin hai

anh trai đã hi sinh ngoài mặt trận. Ông vội trở về Matxcơva để an ủi mẹ già. Ông bị

mất việc tại đoàn tàu cứu thương vì đã giễu cợt chuyến đi thăm mặt trận miền Tây

của Nga hoàng Nicôlai II. Pauxtôpxki lại bôn ba khắp nước Nga, làm nhiều nghề:

Công nhân nhà máy luyện kim, công nhân nhà máy hơi nước, làm nghề đánh cá…

Đây là cơ sở để ông viết những tác phẩm sinh động về cuộc sống người công nhân và

những truyện ngắn về biển.

Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, Pauxtôpxki trở lại

Matxcơva làm nhân viên biên tập cho một tờ báo và sống trong không khí hào hùng

của cuộc Cách mạng. Nội chiến xảy ra, ông gia nhập Hồng quân. Sau đó ông đi khắp

Liên bang Xô viết từ Kiep đến Ôđetxa, qua Batum, rồi sang tận Bacu. Bước chân ông

in dấu trên khắp nẻo đường của Tổ quốc. Trong khoảng thời gian đó, Pauxtôpxki tích

lũy kiến thức, vốn sống, tìm tư liệu cho sáng tác. Những gì ông đã sống và trải

nghiệm đều phục vụ trực tiếp cho hoạt động sáng tác sau này. Năm 1932, ông trở

thành biên tập viên của hãng Thông tấn Nga, sau đó viết báo cho tờ Sự thật (Pravda).

Trong thế chiến thứ Hai, ông làm phóng viên tại mặt trận phía Nam. Năm 1943

ông từng viết kịch bản phim “Lecmôntôp” cho xưởng phim Gorki.

Từ năm 1948 đến năm 1955, ông là giảng viên của Trường Viết văn Gorki.

Giữa những năm 50 của thế kỷ XX, ông đi du lịch qua nhiều nước Châu Âu như Ý,

Tiệp Khắc, Hà Lan, Pháp, Anh, Hi Lạp, Bungari… Bằng tất cả sự kiên trì, nỗ lực

phấn đấu không ngừng, Pauxtôpxki đã biến những khát khao ấp ủ từ thuở ấu thơ bên

những bản đồ địa lí thành hiện thực. Trên hành trình thực hiện ước mơ ấy, ông đã

nâng đỡ, chắp cánh cho ước mơ của bao người bằng những áng văn xuôi mượt mà,

dạt dào niềm tin vào bản chất cao đẹp và khả năng sáng tạo kì diệu của con người.

Năm 1965, ông được đề cử giải Nôben Văn học. Tuy nhiên, năm đó giải được

trao cho nhà văn Mikhain Sôlôkhôp với bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm.

Pauxtôpxki mất ngày 14 tháng 7 năm 1968 tại Matxcơva, kết thúc cuộc hành

trình gom bụi quí nhưng bông hồng vàng ông để lại đã ươm mầm cho biết bao vườn

hoa ngạt ngào sắc hương mới.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác

Pauxtôpxki bắt đầu cầm bút khi còn là một học sinh trung học. Ban đầu ông

thử sức trong lĩnh vực thơ ca. Một lần Pauxtôpxki gửi những bài thơ do ông sáng tác

đến cho I. Bunhin, Bunhin khuyên ông nên chuyển sang viết văn. Trong thư gửi

Pauxtôpxki, Bunhin viết: “Tôi nghĩ thế giới thực sự của cậu là những tác phẩm văn

xuôi. Nếu cậu thực sự chuyên tâm tới lĩnh vực đó, tôi chắc chắn cậu sẽ làm được điều gì đó đáng kể”3. Pauxtôpxki dồn tất cả mối tình không thành cho thơ ca sang văn

xuôi và gặt hái nhiều thành công.

Năm 1912, truyện vừa Trên mặt nước (Na Vode) - tác phẩm đầu tay của

Pauxtôpxki - ra đời, tiếp theo là tác phẩm Bộ tứ được đăng trên Những ngọn lửa

(Kiep) nhưng tác phẩm chưa gây được tiếng vang. Sau khi cho đăng một vài truyện,

nhận ra rằng những đứa con tinh thần của mình còn thiếu chất sống, ông quyết định

tạm ngừng sáng tác để tự nếm trải thăng trầm của cuộc đời, tìm kiếm vẻ đẹp từ cuộc

sống cần lao. Và Pauxtôpxki biết rằng nhất định một lúc nào đó ông sẽ cầm bút trở

lại. Trong Bông hồng vàng, nhà văn tâm sự: “Tôi sống, tôi làm việc, tôi yêu, tôi đau

3 http://vi.wikipedia.org/wiki/Konstantin_Georgiyevich_Paustovsky

khổ, tôi hi vọng, tôi mơ ước, chỉ biết chắc một điều rằng, sớm hay muộn, đến tuổi

trưởng thành hoặc hơn nữa, thậm chí có thể khi đã về già, tôi sẽ viết. Tôi sẽ viết

không phải vì tôi đã đặt ra cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì tâm hồn, trái tim, khối óc

tôi đòi hỏi phải làm như vậy, Và bởi vì văn học, đối với tôi, là một hiện tượng đẹp đẽ

nhất thế giới” [34, tr. 47].

Năm 1925, tập Những phác thảo biển khơi được xuất bản, đến năm 1929, tiểu

thuyết lãng mạn Những đám mây lấp lánh ra mắt bạn đọc. Trong những năm ba

mươi, Pauxtôpxki đi đến những công trường hừng hực khí thế của phong trào tập thể

hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên khắp nước Nga. Những

sáng tác của Pauxtôpxki nở rộ trong thời kì này:

Số phận Sáclơ Longxêvin (1933)

Miền Cônkhiđa (1934)

Hắc Hải (1936)

Những ngày hè (1937)

Ôrext Kiprenxki (1937)

Câu chuyện phương Bắc (1938)

Miền rừng Mêsora (1939)

Năm 1932, Pauxtôpxki viết Vịnh Kara-Bunga (Vịnh Mõm Đen) đánh dấu một

bước trưởng thành vượt bậc trong phong cách cũng như trong sự nghiệp sáng tác của

ông. Trong tác phẩm này, Pauxtôpxki tập trung thể hiện công cuộc xây dựng nhà máy

liên hợp hóa chất ở Kara – Bunga nhằm biến cải mảnh đất này từ một vùng khô cằn,

hoang hóa thành ốc đảo xinh tươi. Nguyễn Hải Hà nhận định: “Truyện Kara – Bunga

của Pauxtôpxki chính là bức tranh hùng vĩ về cuộc đấu tranh lớn lao của con người

nhằm chính phục biển, đẩy lùi sa mạc, đem lại no ấm và màu xanh đến cho cuộc sống

con người” [23, tr. 279]. Đây là tác phẩm dào dạt chất lãng mạn, phơi phới tinh thần

dũng cảm. Thế giới nhân vật trong Kara – Bunga là những con người mạnh mẽ và

quyết đoán: Kĩ sư Prôcônhiep, nhà địa chất Vaxiliep, kĩ sư Đavưđốp, kĩ sư Khôrôbức

và nhiều nhân vật khác - những đại diện tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ

nghĩa. Cùng chủ đề với Kara- Bunga, truyện dài Miền Cônkhiđa khai thác những

bước chuyển mình kì diệu của nhân dân Xô viết trong công cuộc chinh phục và cải

tạo vùng đất gần dãy núi Capca. Đầu những năm hai mươi, với tư cách là phóng viên

tờ Ôđetxa, Pauxtôpxki từng đến Cônkhiđa. Khi đó, miền đất này chỉ là vùng đầm lầy,

cây cối xác xơ, không để lại nhiều ấn tượng với tác giả. Năm 1933, Pauxtôpxki trở lại

đây, diện mạo Cônkhiđa hoàn toàn thay đổi dưới bàn tay cải tạo, xây dựng của những

người dân Xô viết. Sức sống mới bao trùm mảnh đất xưa đã khơi nguồn cảm hứng

cho ông viết thiên truyện này.

Những ngày hè tập trung khai thác đề tài vẻ đẹp của thế giới tự nhiên. Thiên

nhiên trở thành yếu tố nghệ thuật quan trọng trong các sáng tác của Pauxtôpxki. Miền

rừng Mêsora khắc họa khung cảnh tuyệt diệu của miền Trung nước Nga đồng thời

thể hiện niềm tự hào của tác giả khi chứng kiến những đổi thay lớn lao trên khắp các

nẻo đường Tổ quốc.

Mùa thu năm 1955, tập Bông hồng vàng ra đời, lần đầu được đăng trên Tạp

chí Tháng Mười (số tháng 9, tháng 10). Trước chiến tranh thế giới thứ Hai,

Pauxtôpxki đã ấp ủ ý định viết một cuốn sách về nghề văn, thiên chức của người cầm

bút, một số vấn đề về tâm lí học sáng tạo văn học. Trải qua một quá trình thai nghén,

tác phẩm được hoàn thành. Có thể nói đây là tác phẩm mà Pauxtôpxki dành nhiều

tâm huyết. Những quan niệm nghệ thuật được Pauxtôpxki nêu ra trong Bông hồng

vàng trở thành những bài học kinh nghiệm quý giá cho những nhà văn trẻ của Nga và

thế giới. Vậy mà, ngay khi mới ra đời, tập sách và người cha tinh thần của nó đã phải

gánh chịu không ít lời chê trách khá nặng nề của giới phê bình văn học Nga lúc bấy

giờ. Họ không ngại ngần phê phán những quan điểm Pauxtôpxki trình bày trong

Bông hồng vàng là sự cách li văn học khỏi hiện thực cuộc sống. Hình tượng bông

hồng vàng chỉ là một vật trang trí cho văn học, một biểu tượng của quan niệm “nghệ

thuật vị nghệ thuật”. Song những lời chỉ trích này nhanh chóng bị chìm vào quên lãng

bởi những gì thuộc về lẽ phải sẽ có sức sống vĩnh hằng, đúng như lời đề tựa cuốn

sách: “Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận

cái chết” (Xantưcôp Sêđin).

Truyện cuộc đời được viết trong khoảng thời gian từ năm 1947 đến năm 1967,

gồm sáu quyển được xuất bản tại Nga: Những năm tháng xa xưa, Tuổi trẻ không

bình lặng, Mở đầu một thế kỉ lạ lẫm, Thời kì những mong đợi lớn lao, Phóng về

Nam, Cuốn sách phiêu lưu. Nội dung tập truyện là lời tự thuật của Pauxtôpxki về

những cột mốc quan trọng trong cuộc đời nhà văn, những người để lại ấn tượng sâu

sắc trong lòng tác giả, kỉ niệm về những chuyến đi, bài học quý trong kinh nghiệm

sống và sáng tác. Truyện cuộc đời gồm nhiều câu chuyện nhỏ, mỗi mẩu chuyện có

thể được xem như một truyện ngắn độc lập.

Các tác phẩm của Pauxtôpxki ngày càng được độc giả thế giới biết đến nhiều

hơn. Ngay từ giữa thập niên những năm 50, các truyện ngắn của ông được dịch ra

nhiều thứ tiếng khác nhau. Với những đóng góp lớn lao về văn học, ông được nhà

nước Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin – một phần thưởng cao quí trong cuộc

đời nhà văn.

Tìm hiểu cuộc đời lao động nghệ thuật của ông, chúng ta càng trân trọng tấm

lòng nhân hậu của một nghệ sĩ ngôn từ luôn yêu người, yêu đời, yêu cái đẹp.

1.2. Quan niệm nghệ thuật

Một quan niệm nghệ thuật bao giờ cũng là tiền đề của một thi pháp nghệ thuật

tương ứng. Những quan niệm của Pauxtôpxki về sáng tác văn học nói chung và

truyện ngắn nói riêng là nền tảng hình thành phong cách nghệ thuật của ông.

Trong Bông hồng vàng, Pauxtôpxki nêu lên ý nghĩa, tầm quan trọng của văn

học nghệ thuật, sứ mệnh của nhà văn, một số vấn đề về tâm lí học sáng tạo văn học.

Bên cạnh đó, ông truyền lại cả những kinh nghiệm quý giá của bản thân trong hoạt

động sáng tác từ việc thu thập tư liệu cuộc sống, hình thành ý tưởng, cảm hứng sáng

tác, gọt giũa câu chữ cho đến khi đứa con tinh thần của nhà văn chào đời.

Nhà văn chân chính không thể không có vốn sống, không thể không hiểu biết

về con người và thời đại mình. Cuộc sống của nhà văn không thể tách rời nhiệm vụ đi

sâu, khám phá bản chất đời sống.

1.2.1. Trên những cuộc hành trình

Theo Pauxtôpxki, nghề văn là một nghề cao quý, đòi hỏi nhà văn phải bỏ nhiều

tâm sức để có được những con chữ chắt lọc từ tâm can mình. Nhà văn phải biết

chuyển “lượng sống” thành “chất sống”, nghĩa là chuyển những trải nghiệm của mình

thành một hiện thực thứ hai trong văn chương ở dạng cô đọng nhất, tinh chất nhất.

Ông quan niệm mỗi ngày sống là một ngày đi thực tế và trải đời mình ra để viết. Đó

chính là quá trình khai thác những vỉa quặng cuộc sống đã kết tinh trong bản thân

người cầm bút. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Pauxtôpxki là ví dụ điển hình

cho quan niệm nghệ thuật ấy.

Để tìm đúng hướng đi trong việc thể hiện mình trên con đường nghệ thuật,

Pauxtôpxki đã trải nghiệm quá trình đấu tranh không ngừng với bản thân. Trước khi

đến với văn xuôi, Pauxtôpxki tập làm thơ. Khi còn là học sinh trung học, Pauxtôpxki

làm thơ nhiều đến nỗi chỉ trong một tháng đã hết một quyển vở dày. Không bao lâu

sau, Pauxtôpxki nhận ra “đó chỉ là cái hào nhoáng bề ngoài, là những bông hoa làm

bằng vỏ bào nhuộm khéo, một thứ vàng mạ” [34, tr. 35] và chuyển sang viết truyện

ngắn. Ông hiểu rằng những cái sặc sỡ, hào nhoáng bề ngoài không bao giờ có thể tạo

nên một tác phẩm văn học chân chính, một nhà văn chân chính.

Giai đoạn mới sáng tác, ông viết nhiều nhưng “những nhân vật của ông vẫn

chơi vơi trong bầu trời lạnh lẽo của những cá nhân tự coi mình là phi thường nên

đơn độc. Họ cảm thấy mình ở ngoài cuộc sống chung, vì thế họ bị coi là những con

người tình cờ đến sống giữa thế gian này” [23, tr. 275]. Nhận ra sắc màu nhợt nhạt

của những đứa con tinh thần của mình, Pauxtôpxki quyết định phải đặt cuộc đời lên

trên trang sách, phải sống đã rồi mới có thể viết. Niềm say mê khám phá những điều

mới lạ thôi thúc nhà văn lên đường. Đến những vùng đất mới, quan sát sắc xanh

quyến rũ của những chân trời lạ, tiếp xúc với đủ kiểu người giúp nhà văn thấu hiểu

hơn bản chất cuộc sống. Với Pauxtôpxki, “mỗi chuyến đi là sự thâm nhập vào lĩnh

vực những gì lớn lao và đẹp đẽ” [35, tr. 279]. Những chuyến đi giúp ông nhận ra

chuỗi nối tiếp bất tận của cái đẹp trong đời sống. Ta bắt gặp trong sáng tác của ông

những bức họa thiên nhiên bốn mùa tuyệt đẹp bằng ngôn từ với gam màu tươi sáng,

nồng ấm. Ông không chỉ nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên Nga mà còn phát hiện vẻ

đẹp của con người Nga đôn hậu, bình dị. Trên hành trình sống và viết, Pauxtôpxki

không chỉ thực hiện nhiệm vụ của một nhà văn tích lũy kinh nghiệm sáng tác mà ông

còn sắm vai nhà sử học, một họa sĩ, một nhiếp ảnh gia, một kiến trúc sư, một nhà

thơ… nhằm không ngừng đào sâu, mở rộng mọi biên độ nắm bắt cái đẹp của sự sống.

Chính những chuyến đi đã tạo nguồn cảm hứng cho hoạt động sáng tác của nhà

văn. Pauxtôpxki bộc bạch: “Bản thân nghề nghiệp viết văn bắt buộc nhà văn phải

sống một cuộc sống đa dạng, không bình yên, can thiệp vào những hiện thực khác

nhau của cuộc sống, gặp gỡ đủ loại người, đi đến mọi ngõ ngách, mọi miền của đất

nước” [35, tr. 13 – 14]. Bức tranh sinh động về hiện thực sống và đấu tranh của đất

nước Xô viết, vẻ đẹp tâm hồn Nga, tính cách Nga tỏa sáng rạng ngời trong hi sinh,

gian khổ đã được tái hiện trong các tác phẩm Thép đã tôi thế đấy (N. Ôxtrôpxki), Đội

cận vệ thanh niên (A. Phađêep), Số phận con người (M. Sôlôkhôp), Tính cách Nga

(A. Tônxtôi)… Pauxtôpxki cũng không rời xa hiện thực, bởi theo ông: “không thể

hình dung ra nhà văn Xô viết, người sống cùng với thời đại chúng ta, lại không biết

đất nước mình, không đến những công trường xây dựng và không trực tiếp tham gia

vào cuộc sống của nhân dân mình” [35, tr. 14]. Hòa mình vào sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội sôi nổi, sáng tác của Pauxtôpxki tập trung phản ánh không khí thời

đại. Đó là thời kì cả nước Nga như một công trường hùng vĩ của những kế hoạch 5

năm. Tác phẩm của ông là bài ca ca ngợi sức sáng tạo của tuổi trẻ Xô viết trong công

cuộc chinh phục thiên nhiên và xây dựng xã hội mới. Để có những trang viết thật sự

có giá trị, nhà văn phải sống trọn vẹn với thời đại mình. Pauxtôpxki đến những chân

trời mới, tái hiện “chân dung những con người đẹp đẽ và bình dị, sống trên khắp

miền đất bao la của tổ quốc chúng ta” [35, tr. 46]. Từng con người ông đã gặp gỡ,

tiếp xúc đều được nhà văn nhìn nhận với tư cách “những con người của tương lai đẹp

đẽ” [35, tr. 46]. Pauxtôpxki bao giờ cũng đặt con người ở góc độ nhiều ánh sáng

nhất. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Pauxtôpxki là con người làm chủ cuộc

sống, con người tạo dựng tương lai. Theo trang viết của tác giả qua chiều dài tháng

năm, ta như nghe thấy nhịp điệu của những cuộc hành trình đến vùng đất mới - tiếng

lăn bánh của đoàn tàu, cái tĩnh lặng của sân ga giữa đêm đông giá buốt, tiếng còi tàu

thủy, nỗi bâng khuâng của con người trong những chuyến đi xa, sự chuyển mình của

nước Nga những tháng năm sôi nổi.

Kết quả gặt hái trên hành trình cuộc sống đã tôi đúc trong trái tim nhà văn một

bản lĩnh nghệ thuật cứng cỏi, giúp ông từng bước khẳng định cá tính sáng tạo trên

những chặng đường khám phá, chinh phục nghệ thuật.

1.2.2. Chắt chiu từng mảy bụi vàng

Theo Pauxtôpxki, “văn xuôi có sức lay động sâu xa nhất là thứ văn xuôi cô

đúc” [35, tr. 12], trong đó nhà văn loại bỏ tất cả những gì thừa thãi, chỉ giữ lại những

gì cần thiết nhất, giá trị nhất. Bản thân nhà văn cho rằng mỗi một lần cầm bút viết là

thêm một lần chắt lọc và ngưng kết xúc cảm ở dạng tinh túy nhất. Từ đó, Pauxtôpxki

nêu ra nguyên lí bông hồng vàng trong lĩnh vực sáng tác văn học. Ông quan niệm nhà

văn là người gom góp những mảy bụi vàng trong cuộc sống, sàng lọc qua tháng năm

để đúc nên những bông hồng vàng dâng tặng cho đời. Cuộc sống vốn bộn bề, phức

tạp và trong vô vàn tạp chất bụi bặm của nó có những hạt bụi vàng ẩn giấu kín đáo.

Nhà văn phải là người biết chắt lọc từ những hạt bụi đó những gì tinh hoa nhất để kết

thành quặng quý.

Những mảy bụi vàng trong trang viết của Pauxtôpxki được gom nhặt từ những

điều tưởng như nhỏ bé vẫn diễn ra trong cuộc sống mỗi ngày. Ông viết trong tập

Bông hồng vàng: “Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và mỗi cái nhìn tình cờ ta

bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi rung động thầm lặng của con tim, cũng

như cả đến một bông xốp của hoa hướng dương đang bay hay lửa sao trong một

vũng nước đêm – tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng” [34, tr.

20]. Cái đẹp của nghệ thuật, theo Pauxtôpxki, chính là ở những cái chợt đến ấy,

những cái tưởng chừng rất nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường lại là chất liệu để

làm nên những tuyệt tác. Tựa đề các truyện ngắn: Bức điện, Hạt cát, Chiếc nhẫn

bằng thép, Lẵng quả thông, Cây tường vi, Một món quà… là tên gọi những sự vật

quen thuộc ta vẫn bắt gặp hằng ngày nhưng trong tác phẩm của Pauxtôpxki chúng lại

phát ra thứ ánh sáng trong trẻo, lung linh, mới lạ. Những tác phẩm này là sự hóa thân

từ những mảy bụi vàng của hiện thực cuộc sống mà nhà văn chắt chiu trên con đường

tìm kiếm cái đẹp.

Mảy bụi quý trong hành trang sáng tạo của Pauxtôpxki là những phẩm chất cao

đẹp trong tâm hồn mỗi người bị khuất lấp giữa dòng đời bề bộn mà Pauxtôpxki đã

nhận biết và trân trọng, là những khoảnh khắc đáng nhớ làm bất tử những vẻ đẹp chợt

hiện ra. Mảy bụi quý còn là sự chắt lọc những chi tiết nghệ thuật cô đọng, hàm súc và

có sức khái quát. Đọc Pauxtôpxki, ta thấy ông rất chú trọng đến vai trò của chi tiết

trong cấu trúc tác phẩm. Ông khẳng định: “Không có chi tiết thì tác phẩm không sống

được” [34, tr. 129]. Với Pauxtôpxki, không có điều gì là nhỏ nhặt, vấn đề là làm thế

nào để tìm được chất thơ thực sự của cuộc sống chứa đựng trong những điều bình dị,

giản đơn. Đây chính là nét độc đáo để Pauxtôpxki thể hiện cái hồn riêng của ông

trong làng truyện ngắn Xô viết.

Những mảy bụi vàng trong sáng tác của Pauxtôpxki còn là sự chắt lọc lời ăn

tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ông cho rằng: “Chúng ta cần phải tìm kiếm, thu

lượm những mẫu đẹp của lời ăn tiếng nói như đãi cát lấy vàng, ở khắp nơi, trên xe

hỏa, tại các nông trường, bên những người ở những ngành nghề khác nhau nhất…”

[35, tr. 21]. Song nhà văn không chỉ có nghĩa vụ bảo tồn cái hay, cái đẹp vốn từ vựng

phong phú của dân tộc mà còn phải biết thổi vào chúng sức sống mới. Trong quá

trình sáng tác, Pauxtôpxki đã đưa thơ ca vào văn xuôi theo cách của ông như một

biện pháp nghệ thuật độc đáo để trẻ hóa ngôn từ. Những trang văn của Pauxtôpxki vì

thế là kho lưu trữ vẻ đẹp tinh túy của ngôn ngữ Nga.

1.2.3. Tiếng gọi trái tim

Với Pauxtôpxki, nghệ thuật phải lấy con người làm trung tâm, nghệ thuật ra

đời vì con người, đó là nguyên tắc cao cả nhất trong cuộc sống. Nhà văn sáng tác là

để “cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, cho niềm vui và

tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn con người, cho sức mạnh của trí tuệ sẽ chiến

thắng bóng tối, để chúng vĩnh viễn rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt” [34, tr.

20]. Chính cảm quan nghệ thuật tiến bộ ấy đã giúp nhà văn sáng tạo nên một thế giới

nghệ thuật mà mỗi truyện ngắn là một “nốt trầm xao xuyến” lặng lẽ cất lên ca ngợi vẻ

đẹp con người. Tác phẩm văn học là tấm gương phản chiếu thế giới tinh thần của

người sáng tác. Đến với Pauxtôpxki, độc giả luôn thấy được cái nhìn nhân hậu từ

những câu chuyện ấm áp tình người, tình đời. Phan Hồng Giang nhận định: “Đọc

Pauxtôpxki, dễ nhận ra ngay một chân lí đơn sơ trong tư chất nhà văn của ông:

Pauxtôpxki đến với nghề văn theo quy luật của tình yêu (…). Pauxtôpxki cũng đã viết

theo quy luật của tình yêu – không thể viết những gì trong lòng còn cảm thấy gượng

gạo khiên cưỡng, chỉ viết những gì không thể viết, những gì ám ảnh, bức bách, thôi

thúc tâm hồn ông” [35, tr. 312 - 313]. Văn Pauxtôpxki được viết từ những rung động

chân thành của trái tim. Ông không thích lối văn cầu kì, hoa mĩ. Sau khi sáng tác

truyện ngắn đầu tiên, Pauxtôpxki đã hiểu rằng nghệ thuật chân chính đòi hỏi “sự thật

và sự giản dị” [34, tr. 45]. Đó là con đường ngắn nhất để đến với trái tim người đọc.

Một cách tự nhiên, như mạch suối nguồn trong trẻo đang thì thầm kể với ta những

câu chuyện đẹp, truyện của Pauxtôpxki bao giờ cũng tìm được sự đồng cảm thiết tha

với tâm hồn bạn đọc.

Lòng trắc ẩn, tình yêu thương giữa con người với con người là yếu tố nền tảng

trong quan niệm sáng tác của Pauxtôpxki. Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm của ông

là sự quan tâm đối với cái thiện, cái đẹp. Nó chi phối nhà văn trong toàn bộ quá trình

sáng tạo nghệ thuật, từ nội dung đến hình thức, từ nhân vật đến giọng điệu, cảm

xúc… Tất cả đem lại cho văn mạch trong truyện ngắn Pauxtôpxki một hơi thở ấm áp,

đôn hậu chan chứa tình người, tình đời. Vì vậy, đến với thế giới nghệ thuật của

Pauxtôpxki, ta như được bước vào một thế giới của tình thương yêu vô điều kiện -

lòng tốt ở khắp mọi nơi, mọi lúc, đến đâu cũng bắt gặp những tâm hồn phóng khoáng,

cao đẹp. Đọc Pauxtôpxki để nhận thấy rằng con người cần phải sống cao thượng, có

trái tim rộng mở, biết ước mơ, và không ngừng vươn tới tương lai tươi đẹp.

Pauxtôpxki dùng nghệ thuật để tôn vinh những con người phụng sự nghệ thuật.

Đọc những bài viết chứa đựng biết bao tâm tình của Pauxtôpxki về những tấm gương

cống hiến hết mình vì nghệ thuật, ta nhận ra rằng trước khi nói đến tài năng thiên

phú, niềm đam mê, sự miệt mài trong lao động, người nghệ sĩ cần phải có một trái

tim thương yêu và trân trọng con người. “Các ý tưởng vĩ đại bao giờ cũng sinh ra từ

đáy sâu con tim, tấm lòng hào hiệp của người viết văn cũng sẽ mãi dành được trái

tim của người đời” [35, tr. 24].

Để có những trang viết đi vào lòng người, khẳng định dấu ấn riêng trong phong

cách cá nhân, Pauxtôpxki đã đặt ra cho mình những yêu cầu khắt khe trong công việc.

Theo ông, nhiệm vụ cao cả nhất và duy nhất của nhà văn là phải“nói được với mọi

người những điều mới mẻ, có ý nghĩa và thú vị, nhìn thấy những gì mà người khác

không thể nhận ra” [34, tr. 47], phải “đưa vào từng tác phẩm của mình tất cả những

gì quý giá nhất mà chúng ta có” [35, tr. 36]. Nhà văn chỉ có thể nói được

những điều mới mẻ khi có được “tiếng nói của mình”. Sức mạnh của một tác phẩm

nghệ thuật chân chính là ở chỗ khám phá ra cái mới trong thế giới quanh ta, góp phần

làm phong phú thêm thế giới tinh thần của nhân loại. Mục đích của nghệ thuật là làm

phong phú tâm hồn con người. Chọn con đường nào để hướng người đọc đến cái đích

đó tùy thuộc quyền năng của người sáng tạo. Và bất cứ con đường nào dẫn con người

đến với cái đẹp đều xứng đáng được tôn vinh.

Bông hồng vàng là cuốn sách độc đáo về lao động nhà văn. Văn học là bông

hoa của lòng kiên trì và tình yêu cuộc sống. Sáng tác của nhà văn là việc gom góp bụi

vàng để đúc nên những bông hồng vàng dâng tặng cho đời. Suốt cuộc đời cầm bút,

Pauxtôpxki luôn trung thành với quan điểm tìm kiếm, chắt chiu cái đẹp từ cuộc đời

dưới muôn ngàn biến thể và thể hiện nó trên trang viết theo cách cảm hiểu rất riêng từ

chính trái tim và tâm hồn nhà văn. Nét độc đáo là Pauxtôpxki không trình bày các

quan niệm nghệ thuật của mình dưới dạng lí luận thuần túy. Bao giờ ông cũng khéo

léo truyền tải đến người đọc quan niệm nghệ thuật của mình thông qua các mẩu

chuyện, qua chân dung các nghệ sĩ nổi tiếng và qua thực tế sáng tác của bản thân. Vì

thế, những suy nghĩ, trăn trở của ông về nghề văn đến với người đọc hết sức nhẹ

nhàng mà sâu sắc, thấm thía.

Chương 2

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN

KÔNXTANXTIN PAUXTÔPXKI

Nói đến văn học là nói đến nhân vật bởi nhân vật là thế giới thu nhỏ trong đó

diễn ra mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người

với xã hội. Nhân vật là một hệ thống hình tượng tạo nên chỉnh thể tác phẩm. Có thể

nói, nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sức sống của tác

phẩm. Dù ít hay nhiều, bất cứ nhân vật nào trong tác phẩm cũng mang trong mình

quan niệm tư tưởng của nhà văn, thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả đối với thế

giới hiện thực.

Thế giới nhân vật là một trong những yếu tố làm nên sức quyến rũ đặc biệt

trong các tác phẩm của Pauxtôpxki. Truyện Pauxtôpxki không có bóng dáng của

nhân vật phản diện, cũng không có sự xuất hiện của nhân vật trung tâm. Khoảng cách

giữa nhân vật chính và nhân vật phụ dường như bị xóa nhòa. Có những truyện, nhân

vật không có tên riêng cụ thể, mà được xưng hô theo tên nghề nghiệp của nhân vật:

chị y tá, anh phi công, anh lính thủy, bác nhà văn, nhà họa sĩ... Chi tiết nghệ thuật này

hàm chứa ý nghĩa khái quát cho chủ đề nhân văn trong thế giới nhân vật của

Pauxtôpxki: Trên mọi miền Tổ quốc Nga, ta đều bắt gặp nét đẹp của những con

người thời đại - nhân hậu, phóng khoáng và giàu lòng trắc ẩn. Pauxtôpxki không chú

trọng miêu tả ngoại hình nhân vật mà ông tập trung khắc họa những sắc thái cảm xúc,

trạng thái tâm lí và những biểu hiện cao đẹp trong tính cách của họ.

Vẻ đẹp nhân cách trong thế giới nhân vật Pauxtôpxki là điểm sáng làm nên đặc

trưng riêng cho các sáng tác của ông. Sức quyến rũ đầy mê hoặc từ những sáng tác

của Pauxtôpxki được tạo nên bởi “sự trinh trắng rất người, sự cao thượng và lòng

dũng cảm tự nhiên của các nhân vật” [45, tr.145]. Ông thường đặt nhân vật trong tình

huống đặc biệt, hoàn cảnh không lặp lại, từ đó nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm hồn, để

lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi cách ứng xử đầy tính nhân văn. Khám phá

thế giới nhân vật trong truyện ngắn Pauxtôpxki giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về lí

tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Các nhân vật của ông, nói như Bônđarep, bao giờ cũng

“hiền hậu, dũng cảm, bình dị và trữ tình”.

Thế giới nhân vật trong tác phẩm Pauxtôpxki hầu hết là những con người bình

thường, song ở họ luôn toát lên tình yêu cuộc sống, sự chân thực, giản dị. Họ đẹp

ngay trong những sự bình dị, giản đơn ấy. Đó là những cô bé, cậu bé hồn nhiên,

trong sáng; những nam nữ thanh niên Xô viết cống hiến sức mình vì sự nghiệp bảo

vệ, xây dựng Tổ quốc; những lớp người đi trước giàu lòng nhân ái, sẵn sàng dìu dắt

lớp trẻ và truyền lại cho thế hệ sau kinh nghiệm sống quý báu. Thế giới ấy chỉ có điều

thiện, người tốt, và tình thương yêu vô điều kiện. Thế hệ đi trước là cội rễ vững chắc

cho những cây xanh, cây xanh lại ươm ủ cho những mầm non vươn lên trong ánh mặt

trời.

2.1. Mầm non hi vọng

Thế giới trẻ thơ là thế giới mở đầu cho mọi thế giới. Những tâm hồn bé bỏng

ấy cần được gieo trồng hạt giống của lòng trung thực, nhân hậu, yêu lao động và biết

ước mơ. Vì vậy, trẻ em phải được sống vui vẻ, hạnh phúc trong tình yêu thương,

chăm sóc của mọi người.

Thế giới tuổi thơ trong truyện ngắn Pauxtôpxki là thế giới của những nụ cười

thiên thần, những thắc mắc ngộ nghĩnh không ngớt. Lời thoại của nhân vật trẻ em

trong truyện Pauxtôpxki rất mực chân thật, bộc lộ sự hồn nhiên trong suy nghĩ. Bị cô

bé có đôi mắt màu xanh lá cây nhạt, với cái lẵng quả thông nặng trĩu trong tay chất

vấn hết câu hỏi này đến câu hỏi khác, nhạc sĩÊ Griđơ bối rối nghĩ thầm: “Cái con bé

Đanhi này làm mình rối tinh lên rồi đây” [3491, tr. 387] với tất cả sự vô tư và hào

hiệp của tuổi nhỏ. Cô bé Varia trách Tachiana: Mẹ cấm con không được đụng vào bất

cứ vật gì trong nhà cụ Pôtapôp, vậy mà mẹ lại đụng vào nào chuông, nào nến, nào

đàn. Khi Nicôlai bước vào nhà, Varia với hai bím tóc xinh xinh đứng bên đi văng

nhìn anh bằng cặp mắt sung sướng, “nhưng nó không nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền

vàng trên tay áo anh” [3491, tr. 281]. Bé còn thì thào với Nicôlai: “Mẹ cháu chỉ là

một cô bé nhóc con xoàng hơn cả cháu nữa kia” [3491, tr. 282].

Thế giới trẻ em là thế giới của niềm tin trong trẻo vào phép màu cổ tích, thế

giới của trí tưởng tượng phong phú. Dường như trong tâm thức, Pauxtôpxki đã nhận

ra một thế giới trẻ thơ với bao điều kì lạ và đẹp đẽ. Ở đó có những đứa trẻ cảm nhận

cuộc sống bằng tâm hồn thơ ngây trong trắng và sự nhạy cảm của lứa tuổi. Trong

Chú bé chăn bò, Alếchxây bỏ thư vào một cái chai thả xuống con sông của làng

mong sao thư đến được tay bố ngoài mặt trận. Những lời cậu bé viết cho cha thật cảm

động: “Người ta bảo không có giấy thông hành thì không được ra mặt trận. Ở đó,

cha có thể nhận con vào đi theo cha để mang đạn hay làm một việc gì khác trong đơn

vị. Con có thể làm được những việc ấy lắm. Và cha sẽ kể cho con đủ thứ chuyện nếu

trong trận đánh có những phút nghỉ. Con gửi thư này trong chai như người khách du

lịch đã làm vì gửi bằng bưu điện thì chả có gì thú vị” [3491, tr. 297]. Cô bé Varusa

trong Chiếc nhẫn bằng thép thì tin vào phép màu của chiếc nhẫn: nếu cháu đeo ở

ngón giữa nó sẽ mang lại sức khỏe, cho cả cháu lẫn ông Kudơma; nếu đeo nó vào

ngón thứ tư, cháu sẽ có niềm vui lớn; còn nếu cháu muốn xem tất cả cảnh đất trời với

trăm nghìn vẻ đẹp tuyệt diệu thì cháu đeo vào ngón trỏ, nhất định cháu sẽ thấy hết.

Varusa “cứ sờ vào chiếc nhẫn mãi, xoay đi xoay lại, nhìn nó sáng lên trong ánh sáng

mùa đông” [34, tr. 350]. Niềm tin ngây thơ với những suy nghĩ hồn nhiên trong trang

sách của Pauxtôpxki khiến người đọc như được sống lại một khoảng trời bình yên,

trong trẻo. Tuổi thơ là tuổi của ước mơ mà không ít người lớn quen nhìn là xa vời và

không tưởng. Ước mơ ấy chẳng bao giờ xuất hiện trong “vùng suy nghĩ” của người

lớn nhưng lại là khát khao có thật trong ý nghĩ trẻ thơ, có khả năng ươm mầm cho

niềm tin vào cuộc sống. Có một người đã tin vào những ước mơ ấy, đó chính là

Pauxtôpxki.

Trẻ em trong tác phẩm của Pauxtôpxki luôn sống trong thế giới lung linh của

những điều kì diệu được tạo nên từ lòng tốt, sự hào phóng trao tặng yêu thương từ

mọi người xung quanh. Phép nhiệm màu trong cuộc sống chẳng ở đâu xa lạ mà chính

từ tấm lòng nhân ái của con người luôn ấp ủ khát khao ươm mầm cho những chồi

xanh bé nhỏ vươn lên dưới ánh mặt trời. Lời văn chân thực miêu tả nỗi xúc động của

cô bé bán hàng rong trên đường phố Italia khi nhận quà tặng bất ngờ từ người khách

lạ khiến bạn đọc cảm động trước thái độ sống tích cực, tấm lòng rộng mở, sự sẻ chia

và cảm thông mà con người dành tặng cho nhau giữa dòng đời tất bật. Chiếc nhẫn

bằng thép hai chú bộ đội tặng bé Varusa lại mang niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc

sống cho cô bé có hai bím tóc như “cây hoa tử la tết đuôi xam”.

Trong Lẵng quả thông, năm Đanhi mười tám tuổi, nàng nhận được món quà từ

lời hứa của mười năm trước. Ngỡ rằng lời hứa năm nào đã chìm sâu trong kí ức tuổi

thơ. Khi nhận món quà cũng là lúc nàng biết tin người tặng quà đáng kính đã qua đời,

song tình cảm và những khát vọng thẳm sâu mà người lạ mặt gửi vào phím đàn dành

tặng cô bé con trong rừng năm nào vẫn vang ngân trong từng nốt nhạc: “Cháu như

mặt trời… Cháu như làn sóng êm dịu, như buổi sáng tươi mát. Một bông hoa trắng

ngần đã bừng nở trong tim cháu và làm ngập tâm hồn cháu hương ngát mùa xuân…

Cháu là đêm trắng với ánh sáng huyền ảo của nó. Cháu là hạnh phúc, cháu là lấp

lánh của ánh bình minh” [3491, tr. 389]. Bản nhạc quê hương dạt dào tình yêu

thương, lấp lánh niềm tự hào dành cho mảnh đất núi rừng quê hương nơi người thiếu

nữ đã sinh ra và lớn lên. Trong niềm xúc động lẫn lòng biết ơn, Đanhi tâm niệm sẽ

sống một cuộc đời xứng đáng với tình cảm cao quý của nhà soạn nhạc lừng danh nhất

Na Uy. Tặng phẩm dành cho tuổi nhỏ đã thắp sáng ngọn lửa của niềm tin yêu cuộc

sống. Sức mạnh kì diệu của nghệ thuật và cái đẹp mang sứ mệnh chắp cánh cho

những ước mơ.

Dù viết về cuộc sống nơi bìa rừng của hai ông cháu Varusa ở làng Môkhôva

đến những tỉnh lị xa xôi, những ngôi làng hẻo lánh quanh năm tuyết phủ trên đất

nước Nga, từ cuộc sống nhiều sắc màu ở những đô thị lớn trên nước Ý, nước Pháp

cho đến vùng sơn cước quê hương của cô bé Đanhi - con gái người kiểm lâm ở Na

Uy, những trang viết của Pauxtôpxki lúc nào thiết tha một tình yêu dịu ngọt, thẳm sâu

dành cho con người và vạn vật. Với Pauxtôpxki, những buồn vui, những khao khát,

những tình cảm của tuổi thơ rất đáng được quan tâm bởi nó là cội nguồn cho việc

hình thành nhân cách và thế giới tâm hồn, khi những mầm xanh hi vọng ấy trở thành

những cây xanh tuổi trẻ. Ông say sưa miêu tả những tâm hồn trong sáng, tinh khiết.

Đó là thế giới của những điều giản dị nhưng lại có khả năng đánh thức những tiềm

năng nhân cách.

Trẻ em đóng vai trò như một điểm nhìn để tác giả tái hiện, cảm nhận, đánh giá,

lí giải về tất cả những gì mà chúng quan tâm theo cách riêng và hơn nữa là có ý nghĩa

đối với cuộc sống của chúng. Điểm nhìn ấy là tâm hồn của trái tim non nớt – trái tim

chưa bị “nhiễu” bởi bất cứ định kiến cứng nhắc và khô cằn nào. Cuộc sống qua cái

nhìn trẻ thơ là cuộc sống được lọc qua ánh sáng của tâm hồn. Ở đó không có cái ác,

cái xấu. Ở đó, mọi thứ được cảm nhận bằng logic trực cảm của trẻ em chứ không phải

thứ logic của tư duy khoa học. Phải yêu thương và hiểu tâm hồn trẻ thơ, Pauxtôpxki

mới viết được những áng văn rất mực chân thực về thế giới của những mặt trời xanh

tí hon ấy.Và theo ông: “Cảm thụ thi vị về cuộc đời, về tất cả những gì quanh ta, là

tặng phẩm vĩ đại nhất mà tuổi thơ đem đến cho ta” [3491, tr. 31].

Một đặc điểm thú vị trong truyện ngắn Pauxtôpxki là bên cạnh các nhân vật

trẻ em thường xuất hiện những nhân vật phụ - những sinh vật ngộ nghĩnh, đáng yêu.

Bạn đọc khó có thể quên chú bọ sừng của cậu bé Xtêpa tặng bố, chú bò Praxka của

Alếchxây thì chỉ chực thấy chủ lơ là một chút là nó lăn xả vào vườn rau cải của hàng

xóm. Alếchxây luôn phải để mắt tới “cái con trời đánh” ấy. Con sẻ già Xiđơrơ mình

tròn như quả bóng nhỏ đàng hoàng sống trong nhà cụ Kudơma như một chủ nhân.

Khi bị trách mắng, “nó phật ý, xù lông ra, bắt đầu gây gổ, kêu ầm lên giận dỗi đến

mức những con sẻ gần đấy thấy ồn cũng bay đến, nghe ngóng rồi sau đó bàn cãi ầm

ĩ, chê trách Xiđơrơ” [34, tr. 350]. Con chó già Nardan và cậu bé bảy tuổi Xtiôpa suốt

ngày chơi với nhau ở dưới bóng râm của toa tàu. Trong Vườn nhà bà, cô bé Masa

kết bạn với đông đảo lũ sinh vật ngoài vườn: những con ong đất suốt ngày kêu vu vu

trong đám cỏ rậm béo núc ních làm mồi ngon cho những con sáo, có một con ếch cư

ngụ trong thùng đựng nước bên bậc tam cấp, mấy con sáo hay đánh nhau chí chóe với

đám quạ và chú chó hung Buinưi nhút nhát hễ cứ thấy người lạ là nó chui vào ống

thông hơi bên nhà. Ngày nhỏ, Anđecxen có một khán giả trung thành luôn lắng nghe

những câu chuyện của cậu. Đó là lão mèo già Cáclơ. “Nhưng Cáclơ mắc một tật lớn

– lão thường ngủ thiếp đi, không nghe hết câu chuyện cổ tích thú vị… Nhưng chú bé

không giận lão mèo già” [34, tr. 574]. Sự xuất hiện của những sinh vật dễ mến này

góp phần tạo nên bầu không khí ấm áp, chan chứa thương yêu trong thế giới nghệ

thuật truyện ngắn Pauxtôpxki.

Khác với thế giới trẻ thơ trong trẻo, ngập tràn niềm vui, hạnh phúc của

Pauxtôpxki, Sêkhôp hướng ngòi bút của ông về những số phận côi cút, không nơi

nương tựa, bị ngược đãi, phải tự bươn chải để kiếm sống. Bé Vanka trong truyện

ngắn cùng tên mở đầu bức thư gửi cho ông nội bằng những dòng nước mắt: “Ngày

hôm qua cháu bị đánh một trận đau lắm, ông ạ. Ông chủ nắm tóc cháu lôi ra ngoài

sân rồi lấy dây da đánh cháu tới tấp vì tội cháu đưa nôi cho con ông chủ mà cháu

trót ngủ quên mất. Tuần vừa rồi bà chủ sai cháu mổ con cá mòi, cháu lại bắt đầu làm

từ đuôi, thế là bà chủ cầm cả con cá mòi quất vào mặt cháu (…). Ăn thì chẳng có gì.

Buổi sáng ông bà chủ cho cháu một miếng bánh mì, buổi trưa cho cháu bát cháo, đến

tối lại mẩu bánh (…). Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang cháu về nhà ông, về

làng, cháu chẳng chịu được nữa” [41, tr. 363]. Mảnh đời tuổi thơ sớm chịu nhiều

gian khổ cũng được Macxim Gorki phản ánh qua số phận cậu bé Liônka trong truyện

Lão Arkhip và bé Liônka: “Liônka người nhỏ bé, mảnh khảnh, trong bộ quần áo

rách tả tơi trông nó như một nhánh cây khô cong queo, bị lìa ra khỏi thân cây là ông

nó – một thân cây già cỗi khô héo đã bị dòng sông cuốn đi và tấp lên dải đất này”

[21, tr. 55]. Truyện kết thúc với cái chết bi thảm của hai ông cháu như bản án đanh

thép tố cáo hiện thực xã hội nghiệt ngã đối với những con người bé nhỏ, lên án sự

ghẻ lạnh giữa những người sống trong một cộng đồng. Cùng viết về trẻ thơ, các nhà

văn Nga đã khai thác đề tài này từ những góc độ khác nhau, song tất cả đều được viết

bằng tình yêu thương và sự trân trọng.

2.2. Cây xanh tuổi trẻ

Cây xanh tuổi trẻ trong thế giới nhân vật của Pauxtôpxki là anh lính thủy

Nikôlai, anh phi công trẻ tóc đã bạc trắng, chàng sĩ quan quân đội Kuzmin hay mơ

mộng, chiến sĩ hồng quân trẻ Vania dũng cảm, cô sinh viên Masa vừa tốt nghiệp đại

học về lâm trường nhận công tác, ca sĩ Xônxenva với giọng hát truyền cảm mang lại

niềm vui, hạnh phúc cho mọi người… Cây xanh tuổi trẻ là những người đại diện cho

thế hệ thanh niên căng tràn sức sống, cống hiến sức mình vào công cuộc chiến đấu,

xây dựng và bảo vệ đất nước Xô viết. Với tâm hồn trong sáng, cao thượng, họ vững

bước trên con đường mình đã chọn với niềm tin son sắt vào những điều tốt đẹp phía

trước.

Cây xanh tuổi trẻ trong sáng tác của Pauxtôpxki là những người hiểu rõ giá trị

chân chính của cuộc sống chỉ có thể được tạo dựng từ đôi bàn tay của chính mình. Họ

yêu công việc, dốc toàn tâm toàn ý vào nhiệm vụ được giao. Đến lâm trường nhận

công tác xong là bắt tay ngay vào việc, Masa cẩn thận xới tỉa lớp đất giữa những

hàng sồi non lên để trồng keo vào đấy. Cô chăm sóc những mầm cây non nớt này với

niềm trìu mến. “Masa đen cháy đi. Những bím tóc của cô bạc trắng ánh mặt trời.

Bây giờ cô đã giống như một cô gái thực thụ của đồng cỏ” [34, tr. 260]. Cây xanh

tuổi trẻ trong truyện Pauxtôpxki là những người dũng cảm trong chiến đấu, không hề

run sợ trước mũi súng quân thù: “Giữa đám áo choàng xám nổi bật lên bộ quần áo

phi công màu xanh (…). Vania của bà, đang đi sau một tên sĩ quan Đức vạm vỡ. Anh

đi bình thản, nhìn thẳng về phía trước, nhưng trên mặt anh không còn vẻ rụt rè quen

thuộc đối với bà (…). Nhìn thấy bà, anh tái mặt nhưng không để lộ một lời nào, một

cử chỉ nào chứng tỏ anh quen cái bà lão bé nhỏ đang run rẩy kia” [34, tr. 273].

Thế hệ cây xanh trong truyện Pauxtôpxki không chỉ là những người lính dũng

cảm, những người lao động bình dị, họ còn là người con rất mực hiếu thảo trong gia

đình, thủy chung với quê hương. Trong Tuyết, ta cảm nhận được biết bao yêu thương,

lo lắng qua những lời tha thiết Nikôlai gửi cha: “Vết thương của con không nặng lắm.

Nó đang lên da non. Xin cha đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến điếu

thuốc khác. Con van cha đấy” [34, tr. 277]. Khi Alan qua đời, Samen thấy trên sợi

dây chuyền chàng đeo có một chiếc mề đay nhỏ cất giữ kỉ vật. Bên trong là chân

dung một thiếu phụ tuyệt đẹp và dòng chữ chính tay Alan viết trên đó “Mẹ tôi”.

Chân dung những cây xanh tuổi trẻ trong sáng tác Pautôpxki còn được miêu tả

với thế giới nội tâm phong phú. Họ là những người biết tìm kiếm, trân trọng chất thơ

từ những điều bình dị của cuộc sống: “Masa bỗng trở nên tư lự, lòng thầm nghĩ rằng

mọi vật quanh cô quả thật rất bình thường, nhưng cũng rất kì lạ. Ở Lêningrát, ở

trường đại học, điều đó không biểu lộ rõ rệt như trong chuyến đi này, có lẽ đây là cái

chất thơ bấy lâu vẫn bị che lấp đi, nay mới mở ra trước mắt, cái chất thơ chứa đựng

trong từng ngày của cuộc sống” [34, tr. 257].

Những lời dặn dò của Onga khi dẫn Kuzmin qua khu vườn dẫn ra bờ sông cho

ta thấy một tâm hồn rất đỗi dịu dàng: “Anh đưa tay đây. Chỗ này có nhiều bậc thang

mục” [34, tr. 324]. Mỗi khi có một cành cây ướt rủ xuống có thể vướng vào mặt

chàng thì nàng lại nhắc khẽ, còn Kuzmin im lặng vâng theo. Trong Bức điện, hình

ảnh cô giáo trẻ vừa về làng Zabôriê lặng lẽ cúi xuống hôn lên bàn tay vàng vọt của cụ

bà Katêrina trong quan tài thể hiện lòng trắc ẩn sâu xa của một tâm hồn hiền hậu. Một

lần trò chuyện với hai con gái, Các Mác từng nói rằng đức tính ông quý nhất ở người

phụ nữ là sự dịu hiền. Vẻ đẹp hiền dịu của hình tượng người phụ nữ trong truyện

ngắn Pauxtôpxki tỏa sáng qua từng hành động, lời nói, suy nghĩ.

Pauxtôpxki ít chú ý miêu tả ngoại hình nhân vật mà chủ yếu đi sâu vào cảm

giác, cảm xúc của nhân vật. Chính vì vậy, nhân vật của ông thường là nhân vật tâm

trạng. Trong truyện Tuyết, nhân vật Tachiana và Nikôlai hiện lên không phải ở ngoại

hình mà qua tâm trạng, qua việc làm ngời sáng lên vẻ thánh thiện, giản dị mà đầy

lãng mạn của con người. Trước hết, tâm hồn, tính cách của Nikôlai được thể hiện qua

bức thư gửi cho cha: “Con luôn nhớ đến cha, đến ngôi nhà của cha con ta, đến tỉnh lị

của chúng ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở mãi chân trời. Con nhắm

mắt lại và thấy con mở cửa hàng rào, bước vào vườn. Mùa đông, tuyết xuống những

con đường nhỏ dẫn đến phong đình bên dốc đã được sửa sang sạch sẽ và băng bụi

phủ những khóm tử đinh hương, lò sưởi trong phòng kêu tí tách, khói bạch dương

thoang thoảng. Cây dương cầm cuối cùng đã được lên dây lại và cha đã cắm những

cây nến vàng hình xoắn ốc con mua từ Lêningrat vào những chân đèn… Cha đừng

ngạc nhiên, nhưng con nói với cha một cách thật đứng đắn rằng con nhớ đến tất cả

những cái đó trong những phút ác liệt nhất của trận đánh” [34, tr. 277]. Phải là một

con người giàu cảm xúc, một người trân trọng từng kỉ niệm bé nhỏ, một người yêu

quê hương da diết mới có những ước muốn giản dị nhường ấy. Vì khoảng kí ức êm

đềm ấy, anh đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ “cái góc nhỏ bé thân yêu trong lòng

anh”. Đối với Nikôlai, hạnh phúc là được sống lại với những kỉ niệm thân thương.

Đó là nét đẹp trong tâm hồn con người mà Pauxtôpxki muốn nâng niu trân trọng. Còn

nhân vật Tachiana qua việc làm bình thường nhưng cũng thể hiện được vẻ đẹp tâm

hồn cô khi dọn dẹp nhà cửa để đón Nikôlai trở về. Đọc bức thư của Nikôlai gửi về

cho bố, Tachiana hiểu rằng trong lòng người lính này, gia đình giữ một vị trí rất quan

trọng. Nàng sai Varia lấy xẻng ra dọn con đường dẫn tới phong đình trên bờ dốc, tự

tay chữa quả chuông con treo trên cửa, ra phố và dắt theo một ông lão lên dây đàn về

nhà, thắp những cây nến dưới chân đèn. Những việc làm của Tachiana khiến hồi ức

Nikôlai được trở về, anh có cảm giác như thể “đang ở trong một giấc mộng nhẹ

nhàng nhưng rất vững chắc” [34, tr. 282]. Lấy quá trình vận động cảm xúc bên trong

thế giới tâm trạng nhân vật làm tuyến chủ đạo dẫn dắt mạch truyện, truyện

Pauxtôpxki lôi cuốn, hấp dẫn người đọc bởi những suy nghĩ sâu sắc, lắng đọng đang

diễn ra trong tâm tư nhân vật. Ta cảm nhận được tiếng thở dài xa xót trong tâm tư

Nikôlai khi anh đẩy cánh cổng rào trở về mảnh vườn xưa, niềm vui bí mật Tachiana

đang cố che giấu sau đôi mắt long lanh… Giác quan tinh tường, tâm hồn nhạy cảm

như sợi dây đàn sẵn sàng rung lên đáp lại mọi nét đẹp của cuộc đời, tình người đã

mang lại cho truyện ngắn Pauxtôpxki vẻ đẹp tươi tắn, thanh thoát lạ kì.

Trong Cây tường vi, nhân vật Masa được khắc họa là con người giàu cảm xúc.

Masa lo lắng, trăn trở khi đến hạ lưu sông Vônga để bắt đầu công việc trồng rừng cho

nông trường vùng Casưmi: “Trong bụi cây, một âm thanh vang lên ríu rít rồi ngừng

bặt. Một lát sau vang lên rồi lại tắt ngay. Hình như một người nào đó muốn thử

thách cái yên tĩnh và độ nhạy cảm của đêm khuya… tiếng chim của họa mi hót rộn

lên… cô cảm thấy buồn nhưng không hẳn là buồn mà nói chính xác hơn đó là cảm

giác chưa có tên gọi đích xác: Cái cảm giác trước một tương lai chưa biết rõ” [34, tr.

249].

Cây xanh tuổi trẻ trong sáng tác của Pauxtôpxki còn là những người rất mực

lãng mạn, chung thủy và cao thượng trong tình yêu. Mỗi truyện ngắn của Pauxtôpxki

đều là bài ca của phép màu tình yêu: Tuyết, Cây tường vi, Gió biển, Cầu vồng trắng,

Suối cá hương… Có lẽ cũng vì vậy đến với mỗi truyện ngắn của ông, ta có cảm giác

như bước vào một giấc mơ giữa đời thực. Trong Cây tường vi, cánh đồng hoa tường

vi cao vút, đẫm sương trong thời khắc đón bình minh, lời trách cứ lũ họa mi của anh

phi công trẻ, ông lão đan giỏ ngồi canh bình minh bên túp lều ven bờ sông, lời dặn dò

của nhà danh ca già lúc chia tay trên bến tàu… đọng lại những lưu luyến khó phai

trong tâm hồn Masa. Cô gái trẻ xuống tàu để đến lâm trường nhận công tác, còn

chàng trai tiếp tục cuộc hành trình của mình. Cây tường vi là bài ca về mối tình vừa

chớm nở với những rung động nhẹ nhàng và tinh tế nhất của thuở ban đầu.

Nhân vật trong truyện ngắn Pauxtôpxki thể hiện quan niệm của nhà văn về con

người - những con người có niềm tin mạnh mẽ vào bản chất đẹp đẽ trong tâm hồn

mọi người. Êlêna Pêtrốpna quyết định đến sân ga Bêlôruxi giữa lúc Matxcơva đang

trong giờ giới nghiêm để gặp một người xa lạ vừa nói chuyện qua điện thoại với chị

cách đó ít phút, chỉ vì người ấy còn nhớ giọng nói của chị trên sân ga giá buốt năm

nào:

“Anh có hiểu gì không? - Nàng lại hỏi.

- Không, - chàng trả lời, - và có gì phải hiểu?” [34, tr. 328].

Bình minh mưa lại được bao phủ bằng vẻ đẹp mờ ảo như làn mưa bụi lúc rạng

đông, bàng bạc khắp các chi tiết, vấn vương trên cả khoảng trống của ngôn từ. Vì

chuyển giúp một bức thư của một đồng đội, Kuzmin xuống tàu tại một tỉnh lị xa lạ.

Những điều bình dị, quen thuộc trong một gia đình nề nếp khiến lòng người lính vừa

ở mặt trận về không khỏi bồi hồi: Người vú già ra mở cổng, âm thanh từ chiếc ấm

Xamôva, tách trà nóng, tiếng thì thầm sau bếp, một tập thơ để ngỏ trên bàn, mùi nước

hoa thoang thoảng. Cuộc trò chuyện chốc lát giữa đêm khuya, ngôi nhà nhỏ trên núi,

mưa rơi trên khóm tử đinh hương ngoài cửa sổ, lời nói ngập ngừng, câu chuyện dở

dang, tiếng còi tàu như than thở vì kiếp sống lang thang của nó trong những ngày

mưa ảm đạm… tất cả như đưa con người vào một giấc mộng giữa đời thực. Kuzmin

biết rằng cả cuộc đời này có thể chàng không bao giờ gặp lại Ônga nữa. Nàng trở

thành một hoài niệm không thể nào quên trong trái tim chàng mất rồi. Trong khoảng

lặng của hội thoại vẫn chứa chan bao tình ý không thể diễn đạt bằng lời: “Kuzmin đưa

mắt nhìn nàng. Qua nếp khăn choàng, đôi mắt Ônga lo lắng nghiêm nghị nhìn chàng.

Có lẽ nào giờ đây, trong phút này thôi, tất cả sẽ đi vào dĩ vãng và trở thành một

trong những kỉ niệm xót xa nhất trong cả đời nàng và cả đời chàng” [34, tr. 322].

Kuzmin lên tàu rồi vẫn chưa hết ngỡ ngàng, có lẽ Ônga cũng vậy. Chia tay trong làn

mưa bụi lúc rạng đông mà chưa kịp nói một lời cảm ơn cuộc đời để chàng và nàng

được gặp nhau. Dường như có điều gì bâng khuâng trong ánh mắt, trong hơi ấm bàn

tay. Giữa nỗi buồn nhẹ nhàng, mơn man của cảnh vật và lòng người, biết bao ân tình

khó phai đọng lại mãi với thời gian.

Trên đường đời, có những điều xảy ra chỉ như gió thoảng, mưa bay mà lòng

người lưu giữ mãi như một hoài niệm không bao giờ phai nhạt. Nhân vật truyện ngắn

Pauxtôpxki là những con người sống giản dị và chân thành. Họ luôn mong muốn

mang đến hạnh phúc cho bất kì ai bước vào cuộc đời mình, dù chỉ là trong giây phút.

Để rồi những khoảnh khắc ngọt ngào ấy sẽ đọng lại mãi với thời gian. Và giữa cái

khung nền tuyệt diệu của không gian thiên nhiên - bình minh phảng phất mưa, hoàng

hôn nắng nhuộm hồng khung cửa, cầu vồng tuyết giữa mùa đông - thế giới của những

con người bình dị trong truyện ngắn Pauxtôpxki như được bao phủ trong sắc màu của

những câu chuyện cổ tích hiện đại.

Những rung động mong manh, tinh tế trong Cây tường vi, Cầu vồng trắng,

Gió biển, Tuyết mang lại cho gương mặt tình yêu trong truyện ngắn Pauxtôpxki vẻ

đẹp tinh khôi như những giọt sương ban mai trên khóm hồng đầu mùa hạ. Bất chấp

không gian, thời gian, dẫu dông tố hay bình yên, chiến tranh hay hòa bình, chúng vẫn

mang trong mình sứ mệnh của yêu thương. Tình yêu, khát vọng, niềm tin - ấy là chân

lí của cuộc sống, chân lí của nghệ thuật.

2.3. Gốc sồi vững chãi

Trong truyện ngắn của Pauxtôpxki, lớp người đi trước – những gốc sồi vững

chãi - là những người đã sống và trải nghiệm mọi lẽ buồn vui ở đời. Chính họ đã

nâng đỡ, dìu dắt lớp trẻ tiếp nối truyền thống tốt đẹp của cha ông, mang đến cho

những mầm non hi vọng quà tặng tinh thần vô giá, chắp cánh ước mơ. Trong Lẵng

quả thông, Pauxtôpxki đã viết về nhà soạn nhạc Êđua Grigơ với những lời ca ngợi

chân tình. Đó là một mẫu người nhân hậu, tài năng, yêu thương trân trọng con người.

Điều Pauxtôpxki muốn gửi gắm qua nhân vật Grigơ là lòng tốt phải mang tính chất

hành động. Nói những lời đẹp đẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc làm một điều tốt nhỏ

cụ thể. Một cử chỉ của Grigơ khi mang giúp cái lẵng quả thông cho Đanhi, một lời

hứa với trẻ con được giữ tròn khẳng định bản chất cao đẹp trong tâm hồn người nhạc

sĩ tài hoa của dân tộc Na Uy. Bản giao hưởng – món quà mà nhà soạn nhạc hứa tặng

Đanhi khi cô mười tám tuổi - đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn cô, mở cánh cửa cho

cô thấy cuộc đời thực sự là “nơi không có đau khổ nào có thể làm nguội lạnh tình

yêu”. Đanhi cảm ơn sự sáng tạo kì diệu của con người, cảm ơn người đã chỉ cho cô

thấy được một tình yêu sâu nặng: “Bác đã chỉ cho cháu thấy cái tuyệt mỹ, mà con

người thì phải sống bằng cái tuyệt mỹ ấy”34. Những giọt nước mắt hạnh phúc của

Đanhi đã mở đầu cho nụ cười tin yêu vô hạn vào cái đẹp của cuộc đời, vào lẽ phải và

điều thiện.

Gốc sồi vững chãi ấy là cụ Iôhan Mâye suốt một đời lương thiện làm việc cặm

cụi đến khi mù cả hai mắt. Người đầu bếp ấy đã dạy con gái mình phải sống trong

sạch, lương thiện, không được chạm đến dù chỉ là một hạt bụi trên bàn người khác.

Gốc sồi vững chãi ấy là ông lão ở Quán điểm tâm ngoài nhà ga dù đói khổ, vất vả

thế nào vẫn giữ nhân cách, không nhận của bố thí do lòng thương hại của người khác:

“- Pơti, không được đụng vào!

Ông lão hét lên. Da mặt xạm nắng gió và cổ gầy guộc, nổi gân đỏ gay

lên.

Con chó co rúm lại, cúp đuôi xuống, không dám nhìn đến cả mẩu xúc

xích, đi về phía ông lão” [3491, tr. 128].

Trong Chiếc nhẫn bằng thép, Đó là cụ Kuzma kkhi thấy cháu gái khóc thút

thít vì mất chiếc nhẫn đã an ủi: “Cháu đừng buồn, con bé ngốch của ông! Nó rơi đâu

thì vẫn còn nguyên ở đấy thôi” [3491, tr. 350]. Cụ còn bao dung cho tính khí bướng

bỉnh của con sẻ già Xiđơrơ, cho nó ăn cơm trong một cái chén nhỏ, tự tay cụ và

Varusa bẻ vụn bánh mì cho nó. Cụ dạy cô cháu nhỏ Varusa bài học về tình yêu quê

hương ngay từ thuở ấu thơ.

Những gốc sồi vững chãi ấy không chỉ là chỗ dựa cho lớp trẻ mà họ còn là

những tấm gương lao động quên mình vì Tổ quốc. Trong thời gian làng bị quân Đức

đánh chiếm, bác Vacrara đã về hưu nhưng vẫn đến trạm y tế làm việc chăm sóc người

bị thương. Hình ảnh cụ Êgo và lão Xpirô dìu bà Vácrava đi khi Vania bị quân Đức xử

bắn khiến người đọc không khỏi xót xa, xúc động.

Những gốc sồi ấy nương tựa vào nhau trước phong ba cuộc đời. Bầu không khí

trong truyện Pauxtôpxki thấm đượm tình người và toát lên những giá trị nhân văn sấu

sắc qua những hành động giản dị mà các nhân vật dành cho nhau trong lúc khó khăn.

Trong những năm tháng cuối cùng của đời mình, nhờ sự đùm bọc của láng giềng -

ông lão Tikhôn, anh đưa thư Vaxili, cô bé con Manhuska, cụ bà Katêrina khuây khỏa

phần nào nỗi cô đơn, quạnh quẽ trong khi ngóng đợi con gái những tháng ngày dài

biền biệt.

Lời bộc bạch của ông lão làm nghề đan lát không ngủ ngồi canh bình minh

trong một buổi sớm mùa hè sương xuống trĩu nặng cho thấy cái bình lặng, an nhiên

của con người trước bao biến động của dòng đời: “Lão cứ thủng thỉnh đan cái đơm

cái đó, đan giỏ đựng khoai tây cho nông trường. Thế còn anh chị, lại đi xem cánh

đồng đấy hẳn?... Lão đã ở đây bảy mươi năm trên cánh đồng này rồi, thế mà lão vẫn

chưa kịp xem cho hết đấy” [3491, tr. 253]. Hình ảnh ông lão ngồi canh

bình minh của Pauxtôpxki gợi nhớ đến nhân vật cụ già trong truyện Mặt trời, ông già

và cô gái của V.Sucsin. Dẫu hai mắt đã lòa nhưng những năm cuối đời, chiều nào cụ

cũng ra bờ sông ngắm hoàng hôn. Sucsin đã lồng những suy ngẫm của chính tác giả

vào lời của nhân vật cô họa sĩ trẻ trong truyện: “Trong cuộc đời giản dị, bình thường

của cụ có chứa đựng một cái gì đó không đơn giản, một cái gì đó thực sự lớn lao.

Cũng như mặt trời kia, trông đơn giản là thế, hết mọc rồi lại lặn, - cô gái nghĩ. –

Nhưng đâu phải chỉ là đơn giản” [3779, tr. 146]. Phát hiện ra cái phi thường trong

cái bình thường ấy là nhiệm vụ và cũng là sức mạnh của nghệ thuật chân chính.

Những gốc sồi vững chãi ấy cất giữ biết bao kinh nghiệm sống quý báu: “Mỗi

ngày trong đời đều có một cái gì tốt lành. Và cả thi vị nữa… Tất cả chung quanh ta

đều tràn đầy chất thơ. Hãy tìm cho ra nguồn thơ ấy. Đấy là lời chúc lão già tôi cho

các bạn tới muôn đời!” [3491, tr. 257]. Đó là những lời thiết tha, trìu mến mà nhà

soạn nhạc Êđua Grigơ nhắn nhủ cô bé ông tình cờ gặp trong rừng qua một bản nhạc:

“Ta rất hiểu cuộc đời. Cháu ạ, dù người ta có nói với cháu những gì đi nữa thì cháu

hãy tin rằng cuộc đời thật là kì diệu và tuyệt đẹp. Ta già rồi, nhưng ta đã hiến tất cả

cuộc đời ta, sự nghiệp và tài năng của ta cho tuổi trẻ. Ta đã hiến tất cả mà không đòi

hỏi đáp trả lại. Vì thế, có thể, ta còn hạnh phúc hơn cả cháu nữa kia, Đanhi ạ!”

[3491, tr. 389]. Bằng cả cuộc đời chiêm nghiệm, những con người ấy hiểu rằng chính

ta chứ không ai khác phải tự tạo ra niềm vui, hạnh phúc cho mình. Và hạnh phúc chỉ

có thể nảy sinh trong lao động, trong sự cống hiến hết mình vì công việc, hoàn thành

sứ mệnh của ta ở đời.

Nhân vật trong truyện ngắn Pauxtôpxki chính là sức sống, là mạch nguồn vận

động và phát triển của thế giới nghệ thuật. Truyện Pauxtôpxki không đi vào những

góc khuất của số phận, cũng không xuất hiện những hoàn cảnh đưa con người đến

chỗ sa ngã. Nhân vật của Pauxtôpxki cũng không có những lầm lạc rất người. Ở họ

không diễn ra quá trình đấu tranh nội tâm để giữ nhân cách trong sạch trước cám dỗ

của lợi ích vật chất, danh vọng như nhân vật của Sêkhôp, Môpaxăng, Xtêphan

Xvaig… Nhân vật của Pauxtôpxki là những tính cách đã được định hình rõ nét, nhất

quán. Hành động cao đẹp các nhân vật dành cho nhau trong khoảnh khắc không lặp

lại của một hoàn cảnh không lặp lại là sự khẳng định cho những nhân cách vững vàng

đã được hình thành, tôi rèn trong chiều dài thời gian. Đó là chân dung những con

người chất phác, dũng cảm, nghị lực và có trái tim nồng hậu tin yêu vào cuộc sống.

Trên cuộc hành trình khám phá cuộc sống, thực hiện ước mơ, ươm mầm sáng tạo, thế

giới nhân vật trong sáng tác của Pauxtôpxki đóng vai trò là những người kiến thiết,

xây dựng xã hội, sáng tạo nghệ thuật, kết nối nhân loại với tương lai.

Thế giới nhân vật truyện ngắn Pauxtôpxki là thế giới của tình yêu và cái đẹp.

Nhân vật của Pauxtôpxki là những con người khát khao vươn tới một cuộc sống hạnh

phúc thông qua con đường mang đến hạnh phúc cho người khác. Những món quà

tặng vô giá của tình yêu thương là môtip trở đi trở lại trong truyện ngắn Pauxtôpxki.

Những món quà ấy tựa như những hạt giống của tin yêu được gieo trồng trong trái

tim người.

Thế giới nhân vật của Pauxtôpxki khơi dậy trong tâm hồn người đọc những

khát khao cao đẹp. Đó là sự cộng hưởng của tâm hồn khi người ta bắt gặp ánh sáng

đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống, từ tâm hồn của người khác. Qua thế giới nhân vật đa

dạng, thuộc nhiều thế hệ, thông điệp quan trọng nhất Pauxtôpxki gửi đến bạn đọc

chính là tình yêu thương và niềm tin tuyệt đối vào bản chất tốt đẹp sâu xa trong mỗi

con người. Kho báu ấy không thể tìm thấy ở đâu khác ngoài nơi sâu thẳm trái tim.

Với Pauxtôpxki, hành trình đi tìm và lưu giữ vẻ đẹp tâm hồn con người là hành trình

kì diệu làm nên văn học.

Chương 3

PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

CỦA TRUYỆN NGẮN KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI

3.1. Cốt truyện và kết cấu

Cốt truyện là “hệ thống sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và

nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và

phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề tư

tưởng tác phẩm” (43, tr.81). Có thể nói, cốt truyện là một trong những yếu tố quan

trọng tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Trong thực tế sáng tác,

mỗi nhà văn triển khai cốt truyện bằng nhiều cách khác nhau, mang đậm dấu ấn chủ

quan. Guy đơ Môpaxăng đi tìm những cốt truyện nhiều tình tiết phức tạp. Nhân vật

của ông chìm đắm trong những bi kịch éo le của cuộc đời vì bị dối lừa, lợi dụng, phản

bội. O’Henry xây dựng cốt truyện theo kết cấu truyền thống có mở đầu, phát triển,

cao trào, thắt nút; các sự kiện đan kết khéo léo với nhau dẫn đến kiểu kết thúc bất

ngờ. Sêkhôp xây dựng cốt truyện theo kiểu “một cái gì đó có thể xảy ra, nên xảy ra,

sắp xảy ra rồi lại không xảy ra”33. Còn Pauxtôpxki lại đưa người đọc đến với kiểu

cốt truyện mềm mại. Truyện của ông thường bắt đầu từ những điều rất nhỏ, rất bình

thường trong đời sống, đôi khi có cảm giác như chẳng có gì để nói. Đó không phải là

những tình huống cô đặc, những xung đột căng thẳng, mà đơn giản chỉ là những lát

cắt, những khoảnh khắc của cảm xúc, tâm trạng. Như Sêkhôp từng nhận định:

“Không việc gì phải tìm bằng được những cốt truyện thật lắt léo. Trong cuộc sống,

tất cả cứ lẫn lộn với nhau, cái sâu sắc và cái tầm thường, cái vĩ đại và cái bé nhỏ, cái

bi thảm và cái hài hước” [412, tr. 96]. Theo ông, công việc của nhà văn là viết một

cách chân thực những gì anh ta cảm thấy. Đối với Pauxtôpxki, “một cử chỉ, một lời

nói, một việc làm tưởng như nhỏ nhất cũng có khả năng chứa đựng bản chất của cả

con người” [35, tr. 305]. Việc thiếu tá Kuzmin, vì lời hứa với bạn đã vượt qua bao

khó khăn vất vả trong đêm tối rét mướt để chuyển lá thư đến tay Ônga đã trở thành

một câu chuyện đầy màu sắc trữ tình lãng mạn (Bình minh mưa). Những giây phút

cuối cùng trong cuộc đời của người đầu bếp già đã trở thành một truyện ngắn xúc

động về lòng cao thượng của con người (Người đầu bếp già). Một cú điện thoại bất

ngờ trong đêm (Cầu vồng trắng), một bức thư vô tình được đọc (Tuyết), một cuộc

gặp gỡ trong khu rừng mùa thu giữa nhạc sĩ Êđua Grigơ với bé Đanhi (Lẵng quả

thông)… đã trở thành những mắt xích trung tâm của truyện. Pauxtôpxki không phát

triển cốt truyện theo hướng vận động của mâu thuẫn có thắt nút - đỉnh điểm - mở nút.

Truyện của ông bắt vần từ những sự kiện bình thường, những cuộc gặp gỡ thoáng

qua, từ đó tạo nên kiểu truyện trong đó “cái không bình thường hiện ra như cái gì

bình thường, và cái bình thường hiện ra như cái gì không bình thường” [33, tr. 129]

để diễn tả những khoảnh khắc hiếm hoi quý giá của cuộc đời, chạm đến những rung

động tinh tế, khẽ khàng của cảm xúc.

Điều đáng chú ý trong việc xây dựng cốt truyện của Pauxtôpxki là sự kết hợp

nhuần nhuyễn giữa yếu tố ngẫu nhiên và tất nhiên. Vì nhận lời đưa thư cho đồng đội,

Kuzmin gặp Ônga; một buổi chiều lang thang trong rừng, nhạc sĩ Grigơ tình cờ gặp

Đanhi; Nikôlai về thăm cha lại gặp Tachiana; những bước chân tuyệt vọng vô tình

đưa Xuyzan gặp lại Samet… Tất cả những yếu tố ngẫu nhiên đầy lãng mạn ấy đã trở

thành một phần không thể thiếu trong mạch vận động cốt truyện của Pauxtôpxki.

họđoàn tụngẫu nhiên,Pauxtôpxki

Trong mối quan hệ với cốt truyện, kết cấu có nhiệm vụ tổ chức bố cục của

truyện thành một chỉnh thể nghệ thuật nhằm tái hiện đời sống hiện thực sinh động

trong tác phẩm, chuyển tải ý đồ sáng tác của tác giả. Tác phẩm văn học là ngôi nhà tư

tưởng của nhà văn, trong đó họ chính là những kiến trúc sư. Kết cấu tác phẩm văn

học bao giờ cũng gắn liền với nội dung tư tưởng trong tác phẩm, đặc trưng phong

cách sáng tác của nhà văn. Dù truyện ngắn chỉ là một “lát cắt”, một “khoảnh khắc”,

một “mảnh nhỏ” của cuộc sống nhưng lại chứa đựng nhiều phương diện của cuộc

sống. Vì vậy, một kết cấu chặt chẽ, rõ ràng, lớp lang là đòi hỏi cần thiết của truyện

ngắn. Thế nhưng truyện ngắn Pauxtôpxki lại không hẳn như vậy. Tính phi cốt truyện

là một đăc điểm của truyện ngắn Pauxtôpxki. Truyện của ông là những mảnh tâm

trạng, thậm chí những chi tiết trong truyện dựa hẳn vào cảm giác mà thành. Các

truyện của ông là sự biểu hiện của một trình tự không có trật tự bởi đó là kết cấu của

tâm trạng, của cảm xúc.

Với kiểu truyện không có cốt truyện, truyện viết theo dòng cảm xúc,

Pauxtôpxki tập trung khắc họa thế giới tâm trạng của nhân vật nhằm bộc lộ “cái nội

dung chân thực của tâm hồn” [43108, tr. 110]. Trong truyện ngắn của ông, những sự

kiện, biến cố bên ngoài không đóng vai trò trụ cột dẫn dắt mạch tự sự. Nội dung

truyện được triển khai theo mạch vận động của dòng cảm xúc. Điều quan trọng nhất

trong nghệ thuật xây dựng kết cấu của Pauxtôpxki là những khoảnh khắc chỉ đến một

lần trong đời nhưng lại trở thành “những vết khắc trong tim”. Pauxtôpxki đã chắt lọc

từ dòng đời bao biến động những phút giây mà ở đó cuộc sống chứa đựng nhiều ý

nghĩa nhất.

Bình minh mưa là câu chuyện trữ tình và thú vị về cuộc găp gỡ giữa thiếu tá

Kuzmin và Ônga Anđrêepna. Truyện chẳng có một chi tiết nào li kì, chỉ là cuộc gặp

gỡ trong thoáng chốc với những rung động sâu xa mà chính người trong cuộc cũng

không hiểu nổi lại làm chúng ta xúc động bởi những cảm giác không thể diễn tả bằng

lời của nhân vật. Lẵng quả thông chỉ nắm bắt một khoảnh khắc đáng nhớ của đời

người nhưng câu chuyện như một dòng cảm xúc chở thẳng những suy nghĩ đẹp đẽ,

sâu lắng nhất đến người đọc. Đọc Pauxtôpxki, ta bắt gặp những khoảnh khắc đẹp đến

ngỡ ngàng, những thoáng chốc đã trở thành bất tử. Đó là lúc tâm hồn Tachiana đoán

biết và chợt thấu hiểu những tâm tư sâu thẳm của một người xa lạ chưa từng gặp từ

mặt trận sắp trở về ngôi nhà này, và “người đó sẽ đau khổ biết bao khi phải trông

thấy mọi vật hoàn toàn không giống như người ấy muốn” [3491, tr. 278]. Đó là

khoảnh khắc một hình ảnh trong kí ức đột ngột bừng sáng trở thành nhịp cầu kết nối

niềm khát khao hạnh phúc bấy lâu: “Em còn nhớ Krưm năm một nghìn chín trăm hai

mươi bảy không?… Thiếu nữ đó là em. Tôi không thể nhầm được. Tôi nhìn em và

cảm thấy rằng có một người con gái vừa đi qua ngay bên cạnh tôi, người đó có thể

làm tan vỡ cả đời tôi và cũng có thể đem lại cho tôi hạnh phúc… Từ ngày ấy tôi yêu

Krưm và con đường nhỏ, ở đó tôi đã gặp em trong giây lát và mất em vĩnh viễn”

[3491, tr. 283]. Nhưng Tachiana thì: “Mình có ở Krưm bao giờ đâu? Chưa bao giờ!

Nhưng lúc này cái đó có gì là quan trọng? Và để cho anh ấy tuyệt vọng làm gì. Và cả

chính mình nữa” [3491, tr. 283]. Quả vậy, việc Tachiana chưa từng đến Krưm giờ

đây có quan trọng gì bởi chính nàng đã tặng Nikôlai món quà quý giá nhất – sự bình

an trong tâm hồn khi trở về mái nhà xưa. Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa viên thống chế và

nữ danh ca Maria trong Suối cá hương đã đem đến một tình yêu lặng lẽ và ngây

ngất: “Nàng bèn cầm tay ông và dẫn lại gần các vị khách. Nàng giới thiệu ông với

mọi người và nét mặt rạng ngời e lệ như giới thiệu vị hôn phu của mình. Tiếng xì xào

lạ lùng lan trong đám khách” [34, tr. ]. Hay trong Cầu vồng trắng, đó là khoảnh

khắc Pêtrôp bất ngờ nhận biết một “giọng nói nghe như một lời hứa hẹn của hạnh

phúc” [34, tr. 324], và kỉ niệm về người con gái có giọng nói trong trẻo, cởi mở trên

sân ga rét buốt năm nào in đậm trong nỗi nhớ da diết của người lính nơi chiến trường.

Để được nghe tiếng nói ấm áp thân thương ấy, anh đã tìm gặp bằng được cô gái vì

anh tin người con gái có giọng nói ấy sẽ là hạnh phúc của đời anh.

“Hạnh phúc là gì?”- câu hỏi mà loài người vẫn trăn trở đã được Pauxtôpxki

định nghĩa giản dị mà sâu sắc: “hạnh phúc lớn nhất chính là sự hiểu nhau” [34, tr.

355]. Những khoảnh khắc vĩnh cửu đọng lại trong trái tim những người trực tiếp

tham gia vào chuyện hay những người vô tình được chứng kiến là mạch nguồn cốt lõi

làm nên dòng chảy trong văn xuôi Pauxtôpxki.

Mĩ học Nhật Bản quan niệm trong một tác phẩm nghệ thuật cái quan trọng

không phải là cái có thể nhìn thấy mà là cái có thể cảm thấy, cái làm người ta rung

động: “Cái đẹp là đời sống ở khắp mọi nơi. Con người phải biết phát hiện ra nó. Sự

hiện hữu của cái đẹp và khả năng phát hiện ra nó ở mỗi con người làm cho cuộc

sống thế gian mới mẻ từng phút từng giây” [7 tr. 162]. Vẻ đẹp trong những

trang văn Pauxtôpxki bắt nguồn từ chính những khoảnh khắc đặc biệt ấy, khoảnh

khắc bừng sáng của tâm hồn. Khoảnh khắc ấy không bao giờ lặp lại, nhưng cũng

chẳng bao giờ nhạt phai.

Đọc Đêm trắng của Đôxtôiepxki, ta cũng cảm nhận được cái quý giá của từng

khoảnh khắc. Trong áng văn diễm lệ này, Đôxtôiepxki ca ngợi những tình cảm rất

mực cao đẹp của con người. Dường như đó là tình cảm cao hơn cả tình yêu lứa đôi.

Chuyện bắt đầu từ sự gặp gỡ tình cờ của hai tâm hồn cô đơn, cần nương tựa vào nhau

trong một thoáng và trở thành ân tình đọng mãi không thôi. Trong thư từ biệt, cô gái

viết: “Cám ơn anh! Đúng thế! Cám ơn anh vì tình yêu ấy. Bởi vì nó in đậm trong kí

ức tôi như một giấc mơ ngọt ngào mà người ta còn nhớ rất lâu sau khi thức tỉnh (….).

Tôi sẽ gìn giữ kỉ niệm ấy, sẽ trung thành với nó, sẽ không phản bội nó, không phản

bội trái tim mình” [1875, tr. 284]. Trong cuộc đời, mấy ai có duyên may được nhận

một tình cảm thiết tha, sâu sắc và cao thượng nhường ấy. Tình yêu ấy khiến lòng

người say đắm, ngưỡng mộ vừa khiến tim ta chìm trong nỗi u sầu khôn nguôi, đúng

như lời đề tựa đầu truyện:

“Hay trời đất sinh ra anh

Để sống liền bên trái tim em

Dù chỉ trong phút giây…”

(I. Tuôcghênhep) [18 tr. 197]

Một yếu tố tạo nên nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Pauxtôpxki là đoạn kết. Đó là lối

kết thúc bỏ ngỏ nhưng có hậu. “Cách kết thúc nào trong truyện ngắn cũng đều nhằm

tái hiện nghệ thuật dòng chảy phức tạp của đời sống vốn luôn nhiều “chuyện”. Điều

quan trọng hơn cả là sau mỗi kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những

nhận thức sâu sắc về qui luật đời sống, những dự cảm về tương lai và cái đẹp tất yếu

sẽ chiến thắng. Cách kết thúc hay là một cách giúp người đọc thấu thị chân lí đời

sống” [43, tr. 98]. Sự vô tình như bước chân của định mệnh đã đưa Kuzmin đến gặp

Ônga, Tachiana chuyển đến ngôi nhà của cụ Pôtanốp, dẫn lối cho viên thống chế tìm

đến ngôi nhà có ca sĩ Marira kiều diễm đang cư ngụ, chị y tá quyết định trèo lên nhà

bác sĩ ở tầng tám để ngắm pháo hoa… Dẫu họ gặp nhau để rồi chia xa hay phấp

phỏng mong chờ vào một ngày gặp lại thì cuộc đời mỗi người đã đẹp hơn biết bao

nhiêu từ những cuộc gặp gỡ định mệnh đó. Họ chia tay nhau không phải để mãi mãi

lạc mất nhau giữa dòng đời bất tận này mà để chỉ với những khoảnh khắc ngắn ngủi

dồn nén biết bao tâm tình ấy người ta có thể hiểu thêm về những bí mật huyền diệu

của cuộc sống. Pauxtôpxki – người đan dệt những sợi tơ cảm xúc. Ông đã tìm hiểu,

xây dựng và biểu đạt một cách xuất sắc những sự kiện, tình huống giản đơn ta vẫn

hằng gặp trong cuộc sống bằng những áng văn xuôi giản dị, tinh khiết, chan chứa tình

yêu thương dành cho con người. Với lối kết thúc bỏ ngỏ lúc nào cũng hướng con

người về phía bầu trời, ánh sáng, Pauxtôpxki là bậc thầy của thể loại truyện ngắn

không có cốt truyện.

làm ,sáng tácTrong Chiếc nhẫn bằng thép, kết thúc truyện là niềm vui, hạnh

phúc được ngắm nhìn quê hương của cô bé Varusa: “Không đâu ở trên thế gian có

thể đẹp bằng làng Môkhôva, làng mình. Không phải vô cớ ông Kudơma bảo rằng quê

mình là thiên đường thực sự và chẳng đâu có mảnh đất tuyệt vời như vậy trên khắp

trái đất này” [3491, tr. 353]. Còn kết thúc Lẵng quả thông là tình yêu cuộc sống tràn

ngập trong tâm hồn Đanhi khiến cô phải thốt lên: “Đời ơi, ta yêu người”. Có kết thúc

lại là tình yêu nảy nở của đôi trai gái như tình yêu giữa Masa và anh phi công trong

Cây tường vi. Mặc dù Pauxtôpxki không để cho nhân vật nói lời yêu thương nhưng

qua cử chỉ, ánh mắt, ta vẫn thấy tình yêu của họ đang đơm hoa, kết trái giữa khung

cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Còn trong Tuyết, dù Nikôlai chia tay Tachiana lên đường

ra trận, kết truyện vẫn gợi cho người đọc liên tưởng tới một sự đoàn tụ khi chiến

tranh kết thúc. Điều đó thể hiện ở tình cảm bền chặt trong tâm trạng Nikôlai: “Nếu

em cần đến cuộc đời tôi, thì tất nhiên nó sẽ là của em”, và Tachiana: “Để cho anh ấy

tuyệt vọng làm gì? Và cả mình nữa…” [3491, tr. 283]. Nhẹ nhàng, sâu lắng và có

hậu, đó là một kiểu kết truyện của Pauxtôpxki.

3.2. Thời gian và không gian nghệ thuật

3.2.1. Thời gian nghệ thuật

*/ Hương bốn mùa

Chu trình xoay vòng bất tận giữa ngày và đêm trong không gian và thời gian

hòa với muôn vàn mảnh ghép của màu sắc trên trái đất biến chuyển liên tiếp, mở ra

không gian vô tận của cái đẹp.

Từng tháng, từng mùa lưu lại hương vị rất riêng trong văn Pauxtôpxki. Tháng

ba, những ngày chớm xuân, giữa màn sương mờ đục, dòng sông hiện ra như dải lụa

bạc vắt ngang thảo nguyên: “Từ phía xa hiện ra con nước lũ mùa xuân xanh xanh,

trên dòng sông thảo nguyên ấy là khoảng trời bao la xanh dìu dịu. Yên lặng bao bọc

mọi ngả – từ thảo nguyên, từ xóm nhỏ bình yên nằm trên sườn đồi thoai thoải” [3592,

tr. 53]. Pauxtôpxki dường như rất yêu màu xanh – màu của sự êm ái, dịu dàng. Màu

xanh tháng ba nghiêng đổ từ bầu trời rót tràn mặt đất. Vạn vật hòa quyện trong sắc

xanh hư ảo, xanh trời pha trắng bạc của nước sông, xanh cỏ pha nắng vàng. Vạn vật

chìm trong khói sương hư hư thực thực mà tuyệt đẹp.

Trong Chiếc nhẫn bằng thép, mùa xuân hiện ra qua đôi mắt trẻ thơ của Varusa

với tất cả màu sắc, vẻ đẹp của nó trong ánh sáng thần tiên như câu chuyện cổ tích:

“Có cái gì ngân vang trong rừng như có ai đang lắc những quả chuông nhỏ. Varusa

cúi xuống nghe ngóng và giơ cả hai tay ra. Những bông hoa tuyết điểm tuyết trắng

rung rinh chào đón bình minh, mỗi bông hoa đều ngân nga như trong đó có một con

bọ dừa đánh chuông và đang đập chân vào những sợi mạng nhện bằng bạc” [3491,

tr. 353]

Hòa nhịp với sắc màu tuổi thơ ấy là sắc nâu già của đống gỗ trong nhà cụ

Kudơma, màu lam của khói thuốc lá tỏa ra từ người cụ, màu sáng biếc của mấy ngôi

sao chưa tắt, ánh vàng nhẹ của vầng dương ấm áp lặng lẽ tỏa trên mặt đất, màu trắng

của hoa điểm tuyết, màu phấn vàng của chùm hoa bồ đào… Tất cả làm nên một bức

tranh thiên nhiên mùa xuân sống động, xinh tươi. Tình yêu quê hương đất nước nảy

nở từ tình yêu khung cảnh thiên nhiên bình dị quanh nhà.

Mùa hè gắn liền với những đêm trắng nở rộ vào tháng sáu, “mãi chín giờ tối

mặt trời mới lặn” [34, tr. 376]. Mùa hè ghi dấu trong truyện của ông bằng vẻ mơ

mộng, huyền ảo của những đêm trắng ngắn ngủi để lại ấn tượng về kiếp sống mỏng

manh của cái đẹp. Kỉ niệm về mùa hè còn là “những cơn mưa rào ấm áp, những buổi

hoàng hôn trong suốt, những cánh hoa đoạn bay dưới chân” [3491, tr. 289]. Mùa thu

với bầu không khí phẩng phất mùi nấm, với những chiếc lá vàng trải dài mặt đất

trong Lẵng quả thông: “Trời đang thu. Nếu ta có thể lấy hết đồng và vàng trên trái

đất đánh thành muôn vàn lá cây rất mực tinh xảo thì những chiếc lá đó cũng chỉ có

thể làm thành một phần rất nhỏ bộ quần áo mà mùa thu đang trải trên ngọn đồi” [34,

tr. 385]. Người đọc như chìm đắm trong cái khí trời lạnh lạnh trong suốt của mùa thu

Nga: “Đêm mùa thu đến rất chậm, mỗi bước đi của nó dừng lại mà mãi vẫn không

sao dừng hết những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà ra khỏi vũng biển sâu”

[3491, tr. 239]. Giữa không gian gợi bao nhớ nhung đầy vơi, “quê hương thân thiết

đến từng đường vân li ti trên tấm lá hoàn diệp liễu, đến tiếng đàn sếu kêu lao xao mơ

hồ vọng xuống từ trời cao mát dịu” [3592, tr. 29]. Cảnh thu, sắc thu, tình thu trong

truyện Pauxtôpxki là những rung động mong manh, tinh tế của tâm hồn mỗi độ thu

về: “Mùa thu có rất nhiều đặc điểm, nhưng tôi không chú ý ghi nhớ. Tôi chỉ biết chắc

chắn một điều là không bao giờ tôi có thể quên được nỗi buồn thu ấy, nó gắn bó một

cách kì lạ với cái thanh thản trong tâm hồn và những ý nghĩ giản dị. (…). Điều quan

trọng là cảm thấy mùa thu, là dòng tình cảm và ý nghĩ mà mùa thu gợi nên” [3491, tr.

91]. Ta như cùng Pauxtôpxki tận hưởng một cảm giác bình yên vô hạn trong “cái

trong lành diệu vợi của khoảng trời đêm thu đen huyền bí ẩn, hương vị ngai ngái của

lớp băng mỏng đầu tiên làm nước đọng lại về đêm” [35, tr. 302]. Và trên tất cả, với

Pauxtôpxki, mùa thu là “một tuyệt tác vô cùng của thiên nhiên, món quà nâng đỡ tâm

hồn anh, gợi cho anh nhớ rằng cuộc đời chung quanh chứa đầy giá trị và ý nghĩa”

[3592, tr. 302]. Hương vị nồng nàn, quyến luyến của mùa thu gắn với nguồn cảm

hứng bất tận của bao thi nhân mặc khách. Trong thời gian Êđua Griđơ sáng tác bản

nhạc dành tặng Đanhi thì trời đã chuyển từ thu sang đông: “Một bông tuyết rơi, ngập

ngừng, lơ lửng giữa từng không” [3491, tr. 390] đậu lại trên khung

cửa nhà Griđơ, ngẩn ngơ trước cái đẹp được tạo ra bởi tài năng sáng tạo tuyệt vời của

con người.

Song hành với bước đi của thời gian, thiên nhiên vạn vật luôn được Pauxtôpxki

soi chiếu từ góc độ cảm xúc, phù hợp với những quy luật vận động bí ẩn của tâm hồn.

Giữa cái lạnh của tuyết, bao âu lo, phấp phỏng trong nỗi mong chờ hạnh phúc cuối

cùng cũng được đền đáp khi người ta mang đến cho Pêtrôp bức điện vỏn vẹn vài chữ:

“Đón em ngày hai mươi” [3491, tr. 329]. Bức điện đã “biến cả thế giới thành chiếc

cầu vồng trắng” [3491, tr. 330]. Ngay cả vũ trụ cũng đẹp hơn lên vì điểm tô cho tình

người. Pauxtôpxki gom nhặt lửa yêu thương để thắp sáng mùa đông trong trang viết

của ông. Thiên nhiên Nga diễm lệ, trữ tình với muôn vàn cung bậc sắc màu trở thành

bất tử trong văn Pauxtôpxki không chỉ bởi nét đẹp thiên tạo mà vẻ đẹp của thiên

nhiên luôn được soi chiếu từ vẻ đẹp của tâm hồn con người.

Trong dòng luân chuyển không ngừng của thời gian, bốn mùa nào có tuổi.

Bước đi của xuân, hạ, thu, đông in dấu trên thiên nhiên Nga trở thành bất tử trong

trang văn Pauxtôpxki qua những bức tranh ngôn từ vẽ bằng sắc màu và nguồn mạch

tình yêu cuộc sống. Tài năng nghệ thuật của Pauxtôpxki thể hiện qua việc nhà văn

nắm bắt những rung động tinh tế của con người trong mạch vận động đa chiều của

không – thời gian hiện thực và tâm lí.

*/ Thời gian tâm trạng

Truyện ngắn Pauxtôpxki phần lớn được triển khai theo dòng cảm xúc của nhân

vật nên thời gian nghệ thuật trong sáng tác của ông đa phần là thời gian tâm lí. Con

người cảm nhận cuộc sống qua thời gian không phải bằng trực giác, không phải qua

sự đo đếm mà bằng tâm trạng. Trong truyện Cây tường vi, mở đầu truyện là thời gian

hiện tại: Vào một đêm sương mù ở một vùng đất mới. Chính cái thời gian ấy cùng với

những cảnh vật nơi đây đã làm nảy sinh tâm trạng - Masa hồi tưởng lại quãng thời

gian khi còn là sinh viên và hình dung về tương lai với tâm trạng băn khoăn lo lắng

khi đến vùng đất mới trong quãng thời gian tiếp sẽ ra sao. Tuyết đưa chúng ta đến với

một cuộc gặp gỡ bất ngờ không định trước giữa Nikôlai và Tachiana. Ta như cảm

nhận từng giây phút xao động của nhân vật: “Mỗi phút, mỗi giây trong ngôi nhà này

đối với anh thật sự quý báu và anh không muốn bỏ mất phút nào… Anh nghe thấy

tiếng lật giở các trang sách loạt soạt: chắc Tachiana còn đọc sách [34, tr. 283]. Thời

gian như ngưng đọng để cùng họ tận hưởng sự ngọt ngào của hạnh phúc “hoàng hôn

mờ vẫn còn cháy đỏ, mãi không sao tắt được” [34, tr. 284]. Nếu trong

Tuyết, nhân vật sống với những khoảnh khắc của sự gặp gỡ trước một tình yêu chợt

đến thì Bức điện là sự kéo dài vô tận của thời gian trong cảm nhận của một con người

cô đơn. Bà Katêrina khao khát được gặp đứa con gái thân yêu – niềm an ủi và hi vọng

của cuộc đời bà: “Đêm dài và nặng nề như những cơn mất ngủ. Những buổi bình

minh và ngày càng chậm chạp thêm, ngày càng đến muộn hơn và bất đắc dĩ lắm

chúng mới le lói qua những cửa kính lâu ngày không cọ rửa” [34, tr. 333]. Tuổi già

với nỗi cô đơn, bà cảm thấy thời gian như dài hơn: “Cả một đời người tưởng cũng

chẳng dài bằng một mùa thu này” [34, tr. 335].

Pauxtôpxki tập trung thể hiện những khoảnh khắc lóe sáng, lắng đọng của

dòng cảm xúc. Đó là khi tâm hồn đột nhiên được đánh thức bởi một cảm nhận mới

mẻ: “Tôi ngạc nhiên trước cái kiều diễm của bầu trời phương Đông. Trước ánh hào

quang yếu ớt, trong trẻo của nó, cho đến khi hiểu ra rằng một bình minh mới đang hé

rạng” [34, tr. 80].

“Lát cắt” của dòng tâm trạng trong truyện Pauxtôpxki còn là thời khắc ghi lại

vẻ đẹp rực rỡ nhất của đời người để rồi sau đó mỗi người trong số họ lặng lẽ gom kỉ

niệm ngọt ngào ấy vào miền kí ức và trở về với cuộc sống đời thường với bao bề bộn:

“Đoạn kết của cuộc tình quá ngắn ngủi. Nó kết thúc ngay trạm đỗ đầu tiên, khi nàng

bước xuống. Nhưng đồng thời Alan biết mối tình đó sẽ không có đoạn kết bởi vì còn

có trí nhớ và vì trí nhớ sẽ chắng để ta yên” [34, tr. 355]. Mối tình này làm ta nhớ đến

Say nắng của Bunhin - mối tình trong khoảnh khắc mà thành vĩnh cửu: “Cả quyết với

anh rằng, em hoàn toàn không phải như người mà anh đã tưởng tượng về em. Chưa

bao giờ và sẽ không bao giờ trong đời em lại có gì giống với cái điều vừa xảy ra.

Đúng là một màn đen đã đổ sập xuống tâm trí em. Hay, đúng hơn, cả hai ta đều bị

một cái gì như say nắng…” [515, tr. 275]. Dư âm của cơn say trở thành nỗi day dứt

khôn nguôi trong tâm tư viên sĩ quan trẻ. Chia tay nàng, chàng mới chợt nhận ra rằng

đây thực sự là một tình yêu lớn. Nàng mãi mãi là sự nuối tiếc suốt đời của chàng.

Pauxtôpxki làm cho khoảnh khắc trở thành bất tử bởi thứ văn thuần khiết như giọt

sương sớm trong suốt, lời văn dạt dào cảm xúc và tình yêu. Nhà văn thấu hiểu và trân

trọng những khát vọng chân thật, sâu thẳm của con người trong những biểu hiện tinh

tế nhất của đời sống thường nhật. Bunhin tìm đến sự vô cùng, vô tận của của cái đẹp

bằng cách lưu giữ những giây phút bất tử của đời người qua những mối tình đầy day

dứt, ám ảnh.

Điều đáng chú ý là truyện của Pauxtôpxki luôn hướng về dòng hồi tưởng, hoài

niệm về quá khứ. Khi thể hiện sự hoài niệm ấy trong tác phẩm của mình, ông “không

vội vàng, không tất bật mà lặng lẽ chỉn chu ghi lại cái dòng ý tưởng kia trôi đi từ cả

ngọn nguồn sâu xa của những gì ông từng nếm trải, những buồn vui, nụ cười và nước

mắt ông đã từng cảm hiểu trên chính cơ thể mình” [35, tr. 308]. Trong dòng hồi

tưởng ấy lúc nào cũng tồn tại một kí ức đẹp đẽ, không thể nào quên. Đó là kí ức của

Đanhi khi nhận được món quà của Grigơ, cô hồi tưởng về quá khứ, về một lời hứa

nơi cánh rừng già ngày xưa cách đây mười năm. Niềm hạnh phúc nghẹn ngào khiến

cô cảm động rơi nước mắt và muốn gặp lại người nhạc sĩ ấy để nói một lời cảm ơn. Ở

chiến trường, Nikôlai cũng nhớ về quê hương với ngôi nhà ấm áp và người cha thân

thương của mình: “Con luôn nhớ đến cha, đến ngôi nhà của cha con ta, đến tỉnh lị

của chúng ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu mãi chân trời” [34,

tr. 277].

Trong các tác phẩm viết về chân dung người nghệ sĩ, Pauxtôpxki gần như sống

với quá khứ, trân trọng quá khứ. Ông trở thành người nghệ sĩ của hoài niệm để nhớ

lại những ngày đã qua, như khi viết về Bunhin: “từ khi còn học ở trường phổ thông,

tôi đã bắt đầu đọc về Bunhin35. Hay trong Gặp gỡ với Ôlêsa:tôi đã nhiều lần gặp gỡ

Ôlêsa, mỗi lần gặp gỡ đều đọng lại trong trí nhớ của tôi, và có những cuộc gặp gỡ

tôi nhớ suốt đời” [35 ]. Những kỉ niệm đã qua trở thành hồi ức êm đềm, đọng lại nơi

thẳm sâu kí ức của tác giả.Những bước đi của tháng năm, những dấu mốc của cuộc

đời Pauxtôpxki bao giờ cũng gắn liền với những sự kiện khó quên. Dòng thời gian

tâm trạng, hồi ức trong truyện Pauxtôpxki còn gắn với những hoài niệm của tác giả

về tuổi thơ, thời thanh xuân, quá trình tự đúc rút cho mình kinh nghiệm sống và sáng

tác, kỉ niệm thân thương với các đồng nghiệp. Những kí ức ấy đã được chắt lọc qua

tháng năm, chỉ những gì lắng đọng nhất được giữ lại trên trang viết.

Pauxtôpxki dành cho người kể chuyện cổ tích Anđecxen một tình cảm đặc

biệt: “Tôi làm quen với Crixtan Anđecxen khi tôi lên bảy. Cuộc gặp gỡ xảy ra vào

một buổi tối mùa đông vẻn vẹn vài giờ trước khi bước vào thế kỉ hai mươi. Người kể

chuyện cố tích vui tính nước Đan Mạch đã đón tôi trên ngưỡng cửa của thế kỉ mới”

[3491, tr. 569]. Có lẽ chất thơ kì diệu trong cách nhìn cuộc sống, lòng tốt ngào ngạt

hương thơm của các nhân vật trong những truyện cổ của Anđecxen đã tác động sâu

sắc đến Pauxtôpxki một cách vô thức từ thuở ấu thơ nên bầu không khí bao quanh thế

giới nhân vật trong truyện ngắn Pauxtôpxki cũng đượm màu cổ tích.

Theo dòng thời gian hoài niệm, Pauxtôpxki dẫn dắt chúng ta trở về những hồi

ức không thể quên của chính tác giả về những con người tuyệt vời ông đã gặp, những

vùng đất ông từng đến. Thời gian trong truyện Pauxtôpxki còn là sự hồi tưởng về

cuộc đời và công việc của chính ông như trong Truyện ngắn đầu tiên: “lúc đó tôi đặt

cuốn sách trên chính cuộc đời chứ không phải đặt cuộc đời lên trang sách” [34, tr.

47]. Thời gian hồi tưởng về những năm tháng miệt mài học hỏi để rút kinh nghiệm

cho sang tác sau này là thời gian tâm trạng, thời gian chứng kiến những quyết tâm

cao cả của người nghệ sĩ vì nghệ thuật và cái đẹp của cuộc sống.

Bên cạnh dòng thời gian hoài niệm, hồi tưởng, thời gian nghệ thuật trong

truyện ngắn Pauxtôpxki luôn hướng về ánh sáng, tương lai. Thời điểm khép lại

những truyện ngắn của ông thường là khi bình minh đang hé rạng phía chân trời,

hoặc là lúc hoàng hôn rực đỏ. Trong Tuyết, kết thúc truyện là ánh “hoàng hôn mờ mờ

cháy đỏ mãi không sao tắt được” thắp sáng đôi mắt long lanh vì hạnh phúc của

Tachiana. Màu đỏ rực ấy hứa hẹn một tương lai tươi sáng cho nàng và Nikôlai. Trong

quan niệm dân gian của người Nga, hoàng hôn đỏ rực là dấu hiệu của điềm lành, như

trong một khổ thơ của Êxênhin:

“Ôi tôi tin, tôi tin đời hạnh phúc

Và mặt trời còn đỏ rực hào quang

Như một kẻ nguyện cầu thân đỏ rực

Hoàng hôn loan báo một tin lành”

(Tôi tin đời hạnh phúc – Êxênhin)

Giờ khắc những tia sáng đầu tiên của một ngày đang hé rạng như một lời

khẳng định tình yêu bất diệt dành cho cuộc sống và niềm tin mãnh liệt vào tương lai

của tác giả trong các truyện: Bình minh mưa, Trái tim nhút nhát, Lời cầu nguyện

của mađam Bôvê, Người đầu bếp già. Trong Người đầu bếp già, lúc cụ Iôhan Mâye

chìm vào giấc ngủ vĩnh hằng cũng là khoảnh khắc thành Viên đang chìm ngập trong

sắc đỏ của ánh ban mai. Những gì Maria vừa được chứng kiến trong giờ phút lâm

chung của cha nàng bên cạnh thiên tài nhạc sĩ Môza là một phép màu của cuộc sống.

Màu trắng của khu vườn ngập đầy hoa tuyết ướt và ánh sáng đỏ rực của bình minh

soi chiếu vào nhau, tạo nên một không gian lấp lánh hi vọng. Kết thúc truyện Trái

tim nhút nhát là thời khắc “mặt trời ló ra giữa những đám mây đen và thấp” [3491,

tr. 274]. Sự hi sinh anh dũng của Vania là để tất cả trẻ em không còn chịu cảnh bom

đạn. Rời khỏi nhà hát, Đanhi đi ra bờ biển, “bóng tối nhợt nhạt của đêm vẫn còn trải

trên thành phố. Nhưng trong các cửa sổ đã thấy lấp lánh ánh vàng mạ yếu ớt của

bình minh phương Bắc” [34, tr. 396]. Chính giây phút ấy, Đanhi hiểu rằng: Sống là

phải không ngừng hướng đến cái tuyệt mĩ. Tia nắng đầu tiên của một ngày trong đoạn

kết của Lời cầu nguyện của mađam Bôvê hướng cả nước Nga và nhân loại tới một

thế giới hòa bình, chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít nhất định sẽ bị tiêu diệt.

“Con bé đứng sững nghe bà cầu nguyện. Mặt trời đã cất mình lên bên kia rừng và

những tia nắng đầu tiên đã lấp lánh trên sợi dây chuyền của chiếc quạt vẫn còn lủng

lẳng nơi tay mađam” [3491, tr. 305]. Pauxtôpxki luôn nhất quán trong quan điểm

nghệ thuật của ông, tất cả vì tình yêu thương con người, con người là tặng phẩm đẹp

đẽ nhất của tạo hóa. Lòng yêu thương con người luôn là nguyên tắc cao nhất trong

cuộc sống cũng như trong nghệ thuật. Dẫu có những nơi còn tồn tại nhiều áp bức, bất

công hay có những lúc con người rơi vào hoàn cảnh bế tắc, đau khổ tột cùng thì có

một điều mà bất kì một công dân nào, trên bất cứ vùng lãnh thổ nào, trong bất cứ

thời đại nào đều bình đẳng như nhau: Đó là quyền được hi vọng. Với Pauxtôpxki,

sống là phải biết hướng về những chân trời xa, bởi “tương lai của chúng ta được sinh

ra từ một đặc tính vô địch của con người - biết mơ ước và biết yêu” [34, tr. 204].

3.2.2. Không gian nghệ thuật

*/ Không gian tỉnh lị

Qua truyện ngắn Pauxtôpxki, ta có thể nhận thấy ông yêu không gian trầm lặng

của những tỉnh lị nhỏ. Phong cảnh đìu hiu, nếp sống lặng lẽ nơi này đi vào văn xuôi

Pauxtôpxki với vẻ duyên dáng đặc biệt của nó. Trong cái không gian vắng vẻ ấy,

khách phương xa đến hay người đi xa trở về bao giờ cũng được đón chào bằng tình

người ấm áp. Vẻ hiu quanh của Navôlôki chìm trong màn mưa bụi lúc nửa đêm khiến

bước chân mỏi mệt của viên sĩ quan chẳng nỡ rời xa. “Chàng bỗng thấy muốn ở lại

đây. Chàng yêu những tỉnh lị Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể nhìn thấy những

cánh đồng cỏ bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở

rơm trên những chuyến phà” [34, tr. 311]. Chính Kuzmin cũng không thể lí giải vì

sao chàng thấy yêu cái tỉnh lị bé nhỏ ven sông này đến thế. Phải chăng nỗi buồn tự

thân nó đã có vẽ quyến rũ đặc biệt. Còn Tachiana chợt thấy gắn bó tha thiết với cái

tỉnh lị nhỏ nơi có biết bao ngôi nhà cổ xưa như nhà của cụ Pôtapốp. Nàng yêu cái

cuộc sống bình lặng của nó trong những ngày đông tuyết phủ đầy, tiếng cánh cửa

hàng rào kêu ken két, tiếng ngọn đèn dầu hỏa nổ lép bép trong đêm tối vắng lặng, yêu

cả làn hơi nước êm đềm trên mặt sông. Không gian nghệ thuật của Tuyết mở đầu

bằng màu trắng xóa lạnh lẽo của mùa đông khắc nghiệt nhưng kết thúc truyện, không

gian chuyển sang màu hồng rực của hoàng hôn cuối chân trời. Chính ngọn lửa của

tình yêu, hi vọng đã làm cho toàn bộ không gian của Tuyết sáng bừng lên giữa lúc

vạn vật chìm trong tuyết trắng. Tuyết là bài ca về tình yêu quê hương tha thiết của

những con người Nga nhân hậu, thắm tình. Tình người sâu nặng tạo nên sức hút kì lạ

của những tỉnh lị Nga hẻo lánh vốn chìm trong nếp sống tĩnh lặng, êm ả. Một sáng

mùa đông tuyết nhẹ rơi. Bên kia sông thuộc làng Zabôriê, những phương trời xa

mang một màu xám phơn phớt xanh. Thiên nhiên dường như muốn tiễn đưa cụ

Katêriana về với Chúa trong dáng vẻ nghiêm trang của tiết trời. Nỗi đau cũng dịu di

bởi hơi ấm của tình làng nghĩa xóm. Pauxtôpxki vẫn thường nói với chúng ta về giá

trị vĩnh hằng ẩn sau những điều giản dị.

Với tình yêu tha thiết dành cho từng bụi cây, ngọn cỏ trên khắp nẻo đường Tổ

quốc thân yêu, nhà văn đã chuyển tải lên trang viết cái hồn sâu lắng của những vùng

đất ông đặt chân đến. Đó là những tỉnh lị phản ánh rõ nét diện mạo, nếp sống của

nước Nga cổ xưa trong kí ức tác giả: “Thị trấn Arzamax ngày xưa còn lại trong trí

nhớ tôi như một nơi đầy táo và vô số nhà thờ. Ngoài chợ, chỗ nào cũng thấy những

làn táo to tròn, vàng óng, nhìn về phía nào cũng thấy chóp tròn nhà thờ cũng óng

vàng như trái táo – có cảm tưởng rằng thị trấn này được bàn tay những cô thợ khéo

léo ngồi trong xưởng kim tuyến thêu lên” [35, tr. 182]. Những tỉnh lị nhỏ này là nơi

chôn nhau cắt rốn của biết bao thiên tài nghệ thuật của nước Nga. Với Sêkhôp và

Pauxtôpxki, những tỉnh lị nhỏ trên khắp nước Nga đều giản dị và đáng yêu như mảnh

đất văn hào Bunhin từng sống quãng đời ấu thơ: “Hầu như tất cả các thị trấn hẻo

lánh của chúng ta đều giống nhau, đều “rất Êfriônôp” (chữ dùng của Sêkhôp) với

những khu vườn tu viện xơ xác, với khuôn mặt các vị thánh đắp bằng đất gắn trên

cổng đá các nhà thờ, với những vòng lục lạc gắn trên cỗ xe tam mã của viên quận

tưởng cảnh sát, với trại giam xây trên bãi chăn bò, với trụ sở hội đồng tự quản địa

phương – ngôi nhà duy nhất mà ngoài cửa vào có ngọn đèn chiếu sáng…” [35, tr.

90]. Tình yêu dành cho các tỉnh lị Nga là điểm gặp gỡ giữa các nhà văn và nhà hội

họa Nga. I. Bunhin yêu tha thiết những tỉnh lị đìu hiu, vắng lặng trên Tổ quốc thân

thương: “Có một cái gì đó hết sức đặc biệt trong những đêm ấm áp và sáng sủa ở các

huyện lị Nga dạo cuối hè. Thật là bình yên, thật là thư thái biết bao” [35,

tr. 451]. Từ thuở bé thơ, Kuprin-tác giả của Chiếc vòng huyền - đã khắc ghi bóng

dáng hẻo lánh, buồn tẻ của thị trấn Narốptrat vào tâm khảm . Để yêu được những tỉnh

lị ấy, cần phải sống ở đó một thời gian đủ để nhận ra vẻ đẹp thật sự ẩn giấu sau vẻ

nghèo nàn, u sầu của nó: “dần dà anh sẽ cảm thấy chất thơ của những cánh đồng trải

rộng xung quanh, chất thơ của những buổi hoàng hôn mờ đi trong bụi thỉnh thoảng

bốc lên từng đám…, những cây si đón làn nước mưa ấm áp, những chú bé mặt đầy

tàn hương và những buổi chiều khô hanh…” [35, tr. 61]. Đó là tình cảm thuần khiết

của người con dành cho mảnh đất nơi mình sinh ra. Tình yêu nước luôn thao thức

trong trái tim những người con của nước Nga vĩ đại. Bao tinh hoa của tính cách Nga,

tâm hồn Nga đã ra đời tại những xóm làng heo hút này.

Lêvitan yêu thiên nhiên Nga theo cách riêng của ông. Vẻ đẹp của những tháp

chuông nhà thờ vàng óng trong ráng chiều, bầu không khí trong sạch, tĩnh lặng của

những tỉnh lị ven sông Vônga hóa thành bất tử dưới bàn tay tài hoa của nha danh họa.

“Trong bức “Sau trận mưa” có cả vẻ tuyệt kì của những chiều sẩm tối mưa rơi trong

một tỉnh lị bên bờ sông Vônga” [91, tr. 519].

Trong Pari chốc lát, giữa cảnh đẹp thơ mộng của thành phố được mệnh danh

là kinh đô ánh sáng Tây Âu, tâm thức nhà văn chợt sáng bừng trước tình cảm mới

dành cho đất nước: “Ở Pari, tôi hiểu ra rằng sự làm quen với thành phố danh tiếng

đó đã làm mạnh hơn tình yêu của tôi đối với nước Nga” 34. Đất nước của

mình, quê hương của mình, gia đình của mình, tình yêu của mình - cái “của mình”

khi nào cũng làm lòng ta tĩnh lại và trái tim ta tràn ngập sự dịu dàng” [34, tr. 471].

Trước khi vĩnh biệt thế gian, Kuprin viết “trên quê hương, thậm chí hoa cũng tỏa một

mùi thơm đặc biệt” [35, tr. 88]. Đi bốn phương trời, tìm kiếm và ngợi ca sức quyến rũ

phong cảnh xứ người nhưng cuối cùng nhà văn vẫn khẳng định một chân lí “trên thế

giới này, không có nơi nào thân yêu hơn là nước Nga” [35, tr. 80]. Không gian - thời

gian nghệ thuật trong truyện ngắn Pauxtôpxki biến đổi đa chiều, đa dạng song tất cả

đều phù hợp với quy luật vận động của cảm xúc trong thế giới tâm trạng nhân vật.

*/ Không gian hành trình

Cái ngẫu nhiên trong truyện Pauxtôpxki gắn liền với những cuộc gặp gỡ tình

cờ của các nhân vật trên sân ga, chuyến tàu. Kuzmin chia tay Ônga trên bến tàu thủy

trong ánh bình minh mờ mờ phía đường chân trời sũng nước mưa. Cuộc gặp gỡ

thoáng chốc trở thành nỗi ám ảnh một đời. Sân ga, bến tàu còn ghi dấu kỉ niệm về lần

chia xa đầy lưu luyến, khắc khoải của tác giả với thành phố được mệnh danh là kinh

đô ánh sáng của Tây Âu: “Những ngọn hải đăng mất ngủ trên bờ biển Pháp đang

chiếu sáng. Và cũng như trước cuộc gặp gỡ với Pari, và giờ đây vì sự chia tay với

thành phố ấy, tim tôi lại bắt đầu đập một cách nặng nhọc” [34, tr. 487]. Bến tàu thủy

tại Bêlôderxcơ trong Cây tường vi là nơi chứng kiến những giọt nước mắt của người

mẹ già tiễn đưa con lên đường đi công tác: “một bà cụ nhỏ bé, mặc áo vải hoa màu

xám, khóc thút thít ở trên bến” [34, tr. 250]. Sân ga, bến tàu là nơi chia xa cũng là

nơi hội ngộ, đoàn tụ. Sân ga là nơi Pêtrốp vô tình được nghe thấy giọng nói êm dịu,

đầy lo âu như những đêm tháng chạp của một thiếu phụ khiến chàng không thể nào

quên. Tranh thủ đợt nghỉ phép, chàng đã tìm gặp người con gái ấy trên chính sân ga

năm nào: “Trên sân ga, gió từ sa mạc thổi về làm bay tuyết khô. Pêtrốp yên lặng,

nhưng anh tưởng rằng anh đã nói hết với Elêna Pêtrốpna” [34, tr. 329]. Sân ga đông

đúc của hiện tại và sân ga rét buốt năm nào như vượt qua bức tường vô hình của thời

gian để cùng cất lên khúc song tấu “nơi tình yêu bắt đầu”. Bến tàu thủy trong truyện

của Pauxtôpxki là nơi ghi dấu kỉ niệm êm đềm của tuổi thơ “những chú bé hay đứng

trên bến tàu cầm chiếc cần câu cong queo để câu cá chép, vẻ mặt trầm ngâm”

[34, tr. 250]. Năm 1902, trên chuyến tàu từ Kiep đi Brianxcơ đánh dấu cuộc gặp gỡ

đầu tiên của cậu học sinh dự bị của trường trung học với phong cảnh miền Trung

Nga. “Đây là lần đầu tiên tôi được trông thấy nước Nga miền Trung. Tôi mê xứ sở

này còn hơn cả Ucraina. Nó hoang vắng hơn, mênh mông hơn và hoang dã hơn. Tôi

yêu thích mọi thứ ở đây: những cánh rừng, những con đường mọc đầy cỏ dại, những

cuộc trò chuyện của người nông dân…” [36, tr. 149]. Mối tình nảy nở từ dạo ấy

Pauxtôpxki vẫn mang trong tim suốt cuộc đời.

Trạm đỗ, bến dừng trên những chặng hành trình còn là nơi đánh dấu bước

ngoặt, sự trưởng thành trong nhận thức của con người. Trong Bức điện, sân ga là nơi

chứng kiến những giọt nước mắt hối hận muộn màng của Naxtia: “Naxtia đứng bên

cửa bán vé, môi run run, nàng không nói được và biết trước rằng nếu nói thì chỉ

được tiếng đầu tiên nàng đã khóc òa” [34, tr. 324]. Nhờ lòng tốt của chị bán

vé, nàng kịp lên tàu song khi về đến quê nàng biết rằng người làng đã chôn cất mẹ

nàng từ hai hôm trước. Trong Âm nhạc Vécđi, ra đến sân ga, Xônxeva chưa hết xúc

động trước tấm lòng hào hiệp bất ngờ của những chiến sĩ hải quân chiến hạm đỏ.

Chính họ đã lập tức dừng buổi diễn để đưa nàng nhanh chóng trở về bên người em

trai trước cuộc phẫu thuật. Chuyến tàu trong truyện Pauxtôpxki còn là không gian hội

ngộ của những người kiếm tìm cái đẹp. Chuyến tàu tốc hành Ximêrôphôn trở thành

cầu nối giữa bác nhà văn, họa sĩ, anh thanh niên chuyên sưu tầm chuyện dân gian và

cô bé Natxia. Họ hẹn nhau vào một ngày không xa sẽ tái ngộ ở ngôi làng nhỏ, chung

sức dựng xây nơi đây thành một làng trù phú, ăm ắp tình người.

Sân ga trong Người thầy đầu tiên là chứng nhân lặng thầm của cuộc chia xa

không hẹn ngày gặp lại, là nơi lưu giữ kỉ niệm suốt một đời thao thức: “Về sau đã

bao lần tôi đi qua ngôi nhà ga vùng núi nấp dưới bóng phong dương này! Tôi thường

có cảm giác như đã vĩnh viễn để lại một nửa trái tim ở nhà ga ấy” [1, tr. 429]. Trong

ánh hoàng hôn màu tím nhạt bảng lảng bao phủ khắp sân ga chiều xuân hôm ấy,

tưởng như tiếng Đuysen gọi Antưnai vẫn vang vọng mãi giữa thảo nguyên ngút ngàn:

“Antư - ư - na - a - ai”. Tiếng gọi thê thiết cất lên từ đáy sâu tâm khảm, chứa chất

bao điều không thể nói thành lời của Đuysen. Người tái sinh cô một lần nữa đã gọi

Antưnai bằng những cái tên xiết bao thương yêu, trìu mến: “ngọn lửa nhỏ của thầy”,

“dòng suối mát trong của thầy”, “ngôi sao sáng của thầy”. Có những cuộc chia li

không hen ngày gặp lại nhưng ấn tượng của nó không bao giờ phai trong trái tim

người ra đi lẫn người ở lại.

Sân ga, bến tàu là bối cảnh quen thuộc, trở đi trở lại trong các sáng tác của

Bunhin. Trong Say nắng, Những tấm danh thiếp, i bến tàu là nơi

nảy sinh những mối tình định mệnh, những cuộc gặp gỡ trong thoáng chốc và

để lại dư âm thăm thẳm trong tâm hồn. Những chuyến tàu trong Nàng Lika, Kapka,

Một chuyện tình nho nhỏ… là nhịp cầu đưa những đôi lứa đến với nhau. Sân ga, bến

tàu là không gian hội ngộ đồng thời cũng là nhân chứng lặng thầm của những cuộc

chia li đầy lưu luyến. Sân ga trong Hơi thở nhẹ còn là chứng nhân câm lặng trước cái

chết đau đớn của nữ sinh Olia – hiện thân của vẻ đẹp hoàn hảo và sức sống tuổi thanh

xuân. Là bối cảnh cho những mối tình không trọn vẹn, dạng thức không gian nghệ

thuật này trong truyện của Bunhin để lại những ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc.

Trong truyện ngắn Pauxtôpxki ta không chỉ nhận thấy sự vận động bề mặt của

chiều không - thời gian vật lí, dòng vận động của cuộc sống đời thường mà còn có cả

sự vận động bí ẩn, thầm kín, hết sức tinh tế và chân thực trong tâm hồn nhân vật.

*/ Không gian tâm tưởng

Không gian tâm tưởng là yếu tố tạo nên bầu không khí trữ tình đặc trưng cho

thế giới nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki. Không gian nghệ thuật ấy gắn với mạch

cảm xúc tinh tế trong thế giới tâm hồn nhân vật. (Huyen van hien tr.52,53)

Không gian tâm tưởng trong truyện của Pauxtôpxki thể hiện qua dòng hồi ức,

sự cắt dán không gian quá khứ vào không gian hiện tại. Không gian trong Bức điện

khắc họa nỗi cô đơn của người mẹ già chốn thôn quê ngày đêm mong mỏi con gái

yêu trở về trong tuyệt vọng: “Gió hắt bên ngoài cửa sổ, trên những cành trơ trụi, vặt

đi những chiếc lá cuối cùng. Ngọn đèn run rẩy trên bàn. Nó như sinh vật độc nhất

trong ngôi nhà bỏ hoang này, không có ánh lửa yếu ớt ấy bà Katêrina không biết làm

thế nào có thể sống được đến sáng” [34, tr. 331]. Sự quạnh quẽ của ngôi nhà và nỗi

mong ngóng con khiến bà lão cảm thấy cảnh vật xung quanh nhuốm màu ảm đạm, trơ

trọi. Không gian, cảnh vật quanh ngôi nhà vùng quê trong mùa thu héo úa hoàn toàn

phù hợp với nỗi đau khổ thầm lặng trong tâm hồn bà Katêrina vào những ngày cuối

cùng của cuộc đời. Dù đó là không gian qua sự miêu tả của người kể chuyện nhưng ta

vẫn thấy rõ ràng nó đã được soi chiếu từ tâm tư của nhân vật. Hay cảm giác xa lạ của

Nikôlai đối với chính quê hương mình khi ở nơi đó anh không còn người thân nữa:

“Nikôlai đi về phía bờ sông, trên cao là một bầu trời xanh xám. Tuyết lơ thơ bay

chênh chếch giửa trời và đất. Mấy con quạ bước đi bước lại trên con đường có những

đống phân ủ. Trời sẩm tối, gió thổi từ bên kia bờ sông, từ những cánh rừng, làm anh

chảy nước mắt” 34[ ]. Cũng trong cái không gian ấy, Nikôlai cảm thấy ấm áp khi

mọi thứ vẫn nguyên vẹn như trong kí ức của anh. Vẫn con đường dẫn tới phong đình

đã được dọn sạch, vẫn con mèo Ackhip lười biếng, vẫn chiếc đàn dương cầm đã được

lên dây sẵn, vẫn những cây nến hình xoắn ốc đang cháy…, những hình ảnh quen

thuộc cùng với tình người chân thành đã làm cho cảm giác lạnh lẽo ban đầu trong anh

tan biến. Trong truyện ngắn Bụi quí, khi Samet gặp lại Suzan thì hạnh phúc tràn ngập

cả không gian: “Suzan ở nhà Samet năm ngày. Năm ngày ấy, mặt trời kì lạ cất lên

thành Pari. Hết thảy mọi ngôi nhà, kể cả những nhà cũ nhất, ám khói, tất cả những

khu vườn, thậm chí cả cái hang của Samet nữa đều rực rỡ trong những tia sáng của

vầng thái dương ấy, như là những báu vật” [34, tr. 16 ].

Không gian tâm trạng trong Người đầu bếp già là không gian được thiên tài

âm nhạc Môda vẽ bằng những phím đàn: “Đêm đang đen bỗng thành màu lam nhạt,

rồi lại thành màu da trời và ánh sáng ấm áp đã từ nơi nào trên cao rơi xuống. Trên

những cành khô của cây cối vườn cụ những bông hoa trắng đang nở…, tia nắng đầu

tiên đã rơi xuống bức tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó hơi nước đang bốc lên...

Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi và từng đàn chim đang bay

trên thành Viên cổ kính của chúng ta về phương Bắc” [34, tr 375]. Tiếng đàn huyền

diệu của chàng thanh niên lạ mặt đưa tâm hồn cụ chìm vào không gian đầy ắp kỉ

niệm. Cụ Iôhan như được trở về khu vườn tràn ngập ánh nắng và hương hoa mùa

xuân – nơi lần đầu tiên cụ đã gặp người bạn đời thủy chung yêu dấu. Hồi ức và ước

mộng hòa làm một. Đường biên giữa quá khứ, hiện tại, tương lai bị xóa nhòa, chỉ có

tiếng nói chân thực nhất cất lên từ sâu thẳm tâm tư tồn tại.

Mỗi dòng văn của Pauxtôpxki đều được viết ra từ tiếng lòng của một tâm hồn

đầy ưu ái đối với con người, cuộc đời. Ông được đánh giá là cây bút có thể miêu tả

được những thứ tưởng chừng như không miêu tả nổi. Thiên nhiên nên thơ, cảm xúc

trữ tình lai láng đan quyện vào nhau khiến cho từng câu văn của Pauxtôpxki tựa như

mạch nước dịu ngọt thấm dần vào lòng người. Trang văn của ông có hương thơm của

trái tim nhân hậu – thứ hương thơm dịu dàng nhất, lâu bền nhất trên thế giới này.

3.3.. Chất thơ trong văn xuôi

Chất thơ trong văn xuôi là một biểu hiện đặc sắc trong phong cách nghệ thuật

của Pauxtôpxki. Sự thâm nhập mạnh mẽ của yếu tố lãng mạn, trữ tình và chất thơ vào

văn xuôi tạo cho truyện ngắn Pauxtôpxki sức quyến rũ đặc biệt. Trong bất kì truyện

ngắn nào của ông, bạn đọc cũng dễ dàng cảm nhận được sự chân thật, giản dị nhưng

lại rất duyên dáng, tinh tế trong từng câu chữ. Tác phẩm của ông ánh lên vẻ đẹp kì

diệu của ngôn ngữ Nga, thứ ngôn ngữ được khơi nguồn từ Puskin và chói lọi vào thời

đại Gôgôn, Tuôcghênhep, L.Tônxtôi, Sêkhôp. Tài năng của ông đã tìm thấy ở đấy tất

cả sức mạnh cần phải có, sức mạnh của ngôn từ.

Pauxtôpxki đặc biệt coi trọng sự đóng góp của thi ca trong văn xuôi: “Thi ca có

một đặc tính kì lạ. Nó trả lại cho chữ cái tươi mát, trinh bạch ban đầu” [34, tr. 225],

và “Khi văn xuôi đã đạt đến mức hoàn thiện hoàn mĩ thì về bản chất nó thực sự là

thơ” [34, tr. 225]. Chất thơ trong văn xuôi Pauxtôpxki bắt nguồn từ cảm hứng lãng

mạn trong sáng tác, từ cách nhìn cuộc sống vốn quá quen thuộc trong vẻ nguyên sơ

của nó, từ “khả năng cảm nhận chất thơ đậm đà tản mác quanh ta” [35, tr. 8].

Pauxtôpxki quan niệm: “Văn xuôi là sợi cốt còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được

miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển” [35, tr. 14].

Pauxtôpxki đã dành trọn tình yêu thơ của mình cho văn xuôi và bằng những sáng tác

đậm chất thơ ấy, ông đã mang lại thứ “men lạ” cho văn xuôi Nga hiện đại.

Chất thơ trong sáng tác Pauxtôpxki biểu hiện trước hết qua những dòng văn

miêu tả thiên nhiên. Bản thân yếu tố thiên nhiên đã mang đậm chất thơ nhưng khi vào

những trang văn của Pauxtôpxki, chất thơ ấy lại có màu sắc riêng biệt. Bằng sự quan

sát tinh tường, Pauxtôpxki đã nhìn thấy những vẻ đẹp li ti nhất, vẻ đẹp thanh khiết,

cao cả của thiên nhiên. Dù hiện lên ở góc độ nào, vùng không gian nào, trong khoảng

thời gian nào, thiên nhiên ấy cũng mang một vẻ đẹp riêng, một thông điệp tràn ngập

chất thơ của tình yêu và niềm tự hào. Từ khi là một cậu bé, Pauxtôpxki đã rất yêu

thiên nhiên, “yêu đến buồn nhớ võ vàng, yêu đến say mê kì lạ” [23, tr. 286].

Pauxtôpxki luôn chú trọng đến ánh sáng và bầu không khí xung quanh trong khi miêu

tả. Chỉ riêng vẻ đẹp của biển và bầu trời qua muôn vàn khoảnh khắc không lặp lại

trên trái đất đã làm nên những bức họa ngôn từ tuyệt mĩ trong trang viết của ông.

Biển được miêu tả từ nhiều góc độ, ở từng thời điểm khác nhau: “bình minh mang

đến màu đồng ảm đạm cho sóng” [34, tr. 368]; lúc chiều về “trên vùng biển trời lặng

gió, sương chiều tỏa mờ” [34, tr. 239]; chân trời biển cả tuy đã về đêm vẫn sáng đến

hàng chục hải lí như hoàng hôn vừa đổ xuống” [34, tr. 245]. Qua cảm nhận tinh tế

của tác giả, biển trở thành một sinh thể có tâm tư, nỗi niềm riêng: “Biển Bantich mùa

đông hoang vắng và sầu tư” [34, tr. 22], vậy mà trước đó, trong mùa thu,

“Bantich gầm thét trong phong ba và sủi lên bọt sóng lạnh giá như trong vạc dầu của

quỷ sứ” [34, tr. 23]. Có những ngày biển giận dữ ầm ào gào thét, “đại dương nổ tung

và lay chuyển mọi bến bờ” [34, tr. 358], để rồi khi đêm về “biển lại ầm ĩ một cách

buồn thảm” [34, tr. 98]. Dưới những vùng trời khác nhau, độ biến thiên của sắc xanh

ấy không bao giờ lặp lại. Vẫn cái màu xanh muôn thuở của đại dương, nhìn từ

Prôvăngxơ, một thị trấn nhỏ nằm dưới chân núi Anpơ,“biển chỉ hiện lên xanh xanh từ

xa lẫn vào khoảng trời sâu thẳm” [35, tr. 201]; tại Pixunđa, “từ ngoài ban công nhỏ

với nền gỗ ghép, biển Hắc Hải màu xanh ẩn chứa bao điều hạnh phúc hiện ra lồ lộ

trước mắt.[35, tr. 177]. Từng đường nét phác họa về biển hiện ra trong sáng tác của

Pauxtôpxki như những mảnh ghép nhỏ trong một bức họa ngôn từ khổng lồ. Biển

hiện lên với nhiều dáng vẻ, tính cách khác nhau phụ thuộc vào độ biến thiên của màu

sắc trong lát cắt thời gian. Pauxtôpxki dành cho biển một tình yêu lớn. Có thể nói

Pauxtôpxki yêu biển ngay lần gặp gỡ đầu tiên từ thời thơ ấu trong một chuyến theo

cha đến Nôvôrôsiích vào mùa xuân: “Từ xa tôi có cảm giác biển giống như một bức

tường màu xanh lơ. Hồi lâu tôi không đoán ra đó là cái gì. Lát sau, tôi thấy một cái

vịnh màu lục, một ngọn đèn biển, tôi nghe thấy tiếng ầm ầm của một con đập chắn

sóng và biển cả đi vào tâm hồn tôi như một giấc mơ kì diệu, rất đẹp nhưng huyền ảo”

[36, tr. 47]. Màu xanh của biển là một trong những màu rất đặc biệt. Màu xanh ấy

chứa đựng tất cả bí mật của hạnh phúc.

Thiên nhiên Nga chân thực, sống động, bất tử cùng thời gian qua những áng

văn truyền cảm, lai láng chất thơ, chất họa của Pauxtôpxki. Sắc màu của bầu trời

trong vô vàn những khoảnh khắc một đi không trở lại cũng mang tính chất vĩnh cửu.

Bầu trời đêm, bầu trời trước cơn dông, bầu trời sũng nước mưa một sớm hè hay bầu

trời chờ đón bình minh đều có vẻ đẹp riêng qua cái nhìn lãng mạn và thơ mộng của

nhà văn. Pauxtôpxki đã biết “chớp” lấy những thời khắc khác nhau của bầu trời tạo

thành bản giao hưởng sắc màu trong văn xuôi: B 34bầu trời Italia với

những lớp mây nhẹ nhàng phơn phớt hồng, bầu trời Kiep “sáng sủa như một vòm đá

trắng” sau cơn mưa [91, tr. 34], màu xanh thăm thẳm đến chóng mặt. của bầu trời

Pari, sắc nắng dịu dàng muôn thuở dát vàng những mái vòm lấp lánh trên thành

Rôma.

Những phác họa thiên nhiên trữ tình, đầy chất thơ còn thể hiện qua những

trang viết của ông về miền Trung nước Nga. Pauxtôpxki yêu sắc màu của đất đai,

phong cảnh của vùng đất này với tất cả niềm thiết tha, lưu luyến của mối tình đầu:

“Đến lúc trưởng thành thì tôi đem lòng yêu mến miền Trung nước Nga. Có thể là cái

tươi mát của thiên nhiên vùng này, sự giàu có, những sông hồ trong và mát, những

khu rừng ẩm ướt, những cơn mưa bụi ảm đạm đã dẫn tôi tới tình yêu ấy” [34, tr. 65].

Phong cảnh miền Trung Nga cũng đã đi vào những bức tranh ngôn từ tuyệt đẹp trong

văn xuôi Bunhin trong tác phẩm Cuộc đời Arxênhep: “Mùa đông là biển tuyết mênh

mông không bến bờ, mùa hè là biển lúa, cỏ và hoa. Những cánh đồng bình yên vĩnh

viễn với sự im lặng đầy bí ẩn” [35, tr. 104]. Tình yêu dành cho miền đất này còn là

điểm gặp gỡ giữa Bunhin, Pauxtôpxki và danh họa Lêvitan. Trong bức “Chiều Plêxơ

vàng”, “Nơi đây bình yên vĩnh viễn”, dưới bàn tay tài hoa của Lêvitan, vẻ đẹp của

phong cảnh miền Trung Nga với những gam màu sáng lấp lánh của bầu trời sau cơn

mưa hóa thành bất tử trên nền vải.

Thiên nhiên là mảnh đất để Pauxtôpxki khẳng định văn tài của ông trong nghệ

thuật quan sát và miêu tả. Vẻ đẹp của khu rừng trong ánh sáng mặt trời chỉ trong

khoảnh khắc được Pauxtôpxki khắc họa rất ấn tượng bằng ngôn từ: Rừng “tối đen và

yên lặng”, những chỗ có mây che xuất hiện “những vết vàng bệch và hơi xanh lục”,

khi phơi mình trong nắng “cả khu rừng như đúc bằng vàng mười. Và trong suốt. Một

loại tường bằng vàng có hoa văn” [34, tr. 216]. Nghệ thuật ngôn từ trong

truyện ngắn Pauxtôpxki đã tạo ra một hiệu ứng thẩm mĩ đặc biệt. Ngôn ngữ của nhà

văn giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh. Vì thế, những trang viết của ông, dù qua bản

dịch vẫn truyền tới độc giả niềm say mê, ngưỡng mộ cho thứ ngôn ngữ đẹp đến lạ

lùng.

Vẻ đẹp trong thế giới nghệ thuật của Pauxtôpxki có sức lan tỏa bền bỉ trong trái

tim bạn đọc còn bởi lời văn của ông có vần điệu. Ông đã chắt lọc những đặc tính của

thơ và nhạc để tạo nên những câu văn như biết co duỗi nhịp nhàng: “Điệu nhạc du

dương lớn dần, cất mình lên cao; nó gào lên, bay nhanh qua các ngọn cây, như một

luồng gió, vặt hết lá, thổi rạp cỏ xuống đất quất vào mặt người những giọt nước nhỏ

xíu và mát rượi”34 (…). Dù tiếp cận qua bản dịch, ta vẫn có thể cảm nhận đây là một

đoạn văn dồn nén nhiều từ mô phỏng âm thanh đa cung bậc. Bản nhạc ấy ca ngợi vẻ

đẹp tuyệt diệu của quê hương Đanhi, ca ngợi mảnh đất nàng đã sinh ra và lớn lên:

“Phải, đó là cánh rừng của nàng, quê hương nàng. Đó là những ngọn núi của nàng,

những bài hát của những chiếc tù và, tiếng động của biển quê. Những con tàu bằng

thủy tinh làm nước sủi bọt. Gió reo ca trong những dây buồm. Từ lúc nào không biết,

tiếng hát đó đã chuyển thành tiếng những quả chuông nhỏ trong rừng đổ hồi, tiếng

đàn chim đang nhào lộn trên không huýt gió, tiếng trẻ con hú gọi nhau trong rừng

thành bài hát về người con gái. Bài hát đó Đanhi đã nghe thấy trên những ngọn núi

quê hương” [34, tr. 394]. Cái hồn tinh túy của cảnh vật quê hương đã được người

nhạc sĩ lừng danh Griđơ cảm nhận và thấu hiểu sâu sắc đến độ nguồn mạch tình yêu

ấy tự nhiên tuôn chảy trên phím đàn.

Văn của Pauxtôpxki có nhạc tính bởi nhà văn bí mật giấu một cách tài tình

những sợi dây đàn bé nhỏ rải rác khắp các chi tiết nghệ thuật, mỗi sợi mang một âm

điệu riêng nhưng tất cả hợp lại thành âm hưởng trữ tình ngân nga trong truyện. Bản

giao hưởng của mùa xuân tấu lên những khúc ca rộn rã: “Một làn gió ấm áp và hiền

hòa ào thổi vào người nó, bên cạnh có cái gì xào xạc. Rừng rung động, từ những

chùm hoa bồ đào phấn vàng rơi xuống. Ai đó vừa thận trọng rẽ cành cây lướt đi qua

bên người Varusa. Phía trước những con chim cu đang gáy cất tiếng chào mừng

người đó” [34, tr. 353]. Dường như nữ thần mùa xuân đã gõ chiếc đũa có phép lạ vào

vạn vật. Chiếc nhẫn bằng thép là bài thơ ca ngợi sự hồn nhiên, trong trẻo của tâm

hồn trẻ thơ, là bài hát ca ngợi sự giàu có, trù phú của đất đai quê hương.

Thiên nhiên trong văn xuôi Pauxtôpxki trở thành một sinh thể sống động vì tác

giả đã viết về thiên nhiên bằng tất cả tình yêu thiết tha, trìu mến. Ông quan niệm nhà

văn phải yêu thiên nhiên bằng một tình yêu nồng đượm, sâu sắc và tình yêu đó cũng

như tất cả những tình yêu khác, tự nó sẽ tìm được cách thể hiện mình trên trang viết.

Theo Pauxtôpxki, nhà văn là người có thể dùng ngôn từ “kể lại mùi hương của

nước sông hay cái yên lặng trên đồng nội. Mà lại phải kể sao cho người đàm thoại

với anh như nghe được mùi hương của nước sông hay cảm được cái yên lặng đó”

[35, tr.155]. Thiên nhiên được Pauxtôpxki đặt trong sự thống nhất hài hòa giữa tâm tư

nhân vật với mạch vận động của sự sống xung quanh. Đôi khi thiên nhiên trở thành

bảng mã giải đáp thế giới cảm xúc bí ẩn của con người. Vẻ đẹp lung linh, ngời sáng

của thiên nhiên trở thành bất tử trong trang viết của Pauxtôpxki bởi nó được tái hiện

bằng tình yêu của người nghệ sĩ, được soi chiếu bằng tình yêu đời, yêu người.

Chất thơ say đắm lòng người không chỉ ở vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên

mà còn ở những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn con người. Bên cạnh nghệ thuật sử

dụng ngôn từ điêu luyện, Pauxtôpxki còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người

đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, thầm kín, không thể định

nghĩa, gọi tên trong thế giới đa cung bậc, muôn vàn sắc thái của tình cảm. Đó là tâm

trạng bâng khuâng của người lính khi trở lại mảnh vườn xưa: “Nikôlai về đến nhà khi

trời tối. Anh nhẹ nhàng mở cửa vào vườn, nhưng cánh cửa vẫn kêu ken két. Mảnh

vườn như giật mình. Tuyết đọng trên cành kêu xào xạc” [34, tr. 280]. Đó là nỗi trăn

trở của Masa trước ngưỡng cửa cuộc đời với biết bao điều mới mẻ đang chờ đón.

Dường như có nỗi buồn mơ hồ như làn hơi nước bao phủ tâm hồn của cô gái trẻ.

Masa cũng không biết gọi tên cảm xúc ấy là gì: “Cái cảm giác lòng ta se lại trước

một tương lai chưa biết rõ, trước vẻ đẹp giản dị của đất nước với những dòng sông,

những màn sương mù, những đêm sâu thăm thẳm và tiếng lá liễu rì rào bên sông”

[34, tr. 249]. Là lòng biết ơn đọng lại nơi sâu thẳm trái tim của Đanhi: “Đanhi đi ra

bờ biển. Biển vẫn còn ngủ say, không một tiếng sóng vỗ. Đanhi nắm chặt hai tay lại

rền rĩ vì một cảm giác tuy còn chưa rõ ràng đối với nàng, nhưng đã chiếm lĩnh toàn

cơ thể nàng cảm giác về cái đẹp của cuộc đời” [34, tr. 396]. Pauxtôpxki đã biến

những rung động mong manh, khó nắm bắt của cảm xúc hiển hiện rõ ràng trong trí

tưởng tượng của người đọc.

Sắc thái, giọng điệu của ngôn từ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong văn

xuôi. Ngôn ngữ văn xuôi của Pauxtôpxki ngoài cái ý nghĩa cụ thể của từng câu chữ

dễ nhìn nhận nắm bắt, còn có một cái vô hình khó chỉ ra nhưng hoàn toàn có thể cảm

thấy. Cái vô hình làm nên thần thái của văn Pauxtôpxki chính là giọng điệu, âm điệu

câu văn cùng tiết tấu nhịp nhàng của nó. Có những trường hợp, giọng điệu, tiết tấu

của câu văn lại chứa đựng biết bao thông tin vượt ra ngoài ý nghĩa của ngôn từ. Cũng

có khi khoảng lặng vô ngôn lại nói lên rất nhiều điều mà ngôn từ không thể chuyển

đạt bởi“Trong thế giới này có hàng trăm hàng ngàn những hiện tượng diệu kì mà

chúng ta không thể tìm ra ngôn từ để biểu hiện chúng [35, tr. 157]. Vì thế, đến với thế

giới truyện ngắn Pauxtôpxki, người đọc phải vận dụng tất cả khả năng cảm nhận của

tâm hồn để hiểu được vẻ đẹp trên khoảng trống ngoài câu chữ. Điểm này ít nhiều

tương đồng với thi pháp chân không trong thơ Haikư của Nhật Bản. Ở những tuyệt

tác của thi ca phương Đông, lời thơ hiện ra trước người đọc không phải là phần chính

yếu mà là cái không nói được nên lời, cái được gợi lên vô cùng vô tận từ sự liên kết

của những chữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu.

Chất thơ trong văn xuôi đã có truyền thống trong văn học Nga, được các nhà

văn tên tuổi như Tuôcghênhep, Sêkhôp, Bunhin, Prisvin… thể hiện dưới muôn vàn

dáng vẻ phong phú, đa dạng. Dù tập trung khai thác mảng đề tài những bi kịch xuất

phát từ những điều vụn vặt trong cuộc sống thường nhật của con người, dù phong

cách viết được đánh giá là sắc sảo, lạnh lùng, những trang văn của Sêkhôp vẫn thấm

đượm chất thơ. Chất thơ ấy chứa đựng trong nỗi khát khao mãnh liệt về một tương lai

tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con người và cả dân tộc. Chất thơ trong văn xuôi Bunhin

lại toát lên từ nỗi u hoài về cuộc sống êm đềm đã qua trong những tổ ấm quí tộc Nga

xưa, trong hình ảnh thiên nhiên Nga diễm lệ, trữ tình, vẻ đẹp gợi cảm, đầy nữ tính của

người phụ nữ Nga, những mối tình dở dang để lại dư vị khắc khoải, sầu thương. Còn

Prisvin thì bộc bạch: “Tôi cảm ơn số phận đã cho tôi bước vào văn xuôi bằng thơ ca

của tôi, bởi vì thơ ca không chỉ làm cho văn xuôi sống động, mà chính nó có khả

năng tỏa ánh sáng vào những cuộc đời mờ nhạt nhất” [45, tr. 134].

Chất thơ trong văn xuôi không chỉ trở thành điểm tương giao của Pauxtôpxki

với nhiều cây bút văn xuôi tự sự trong văn học Nga mà còn là nơi hội ngộ giữa

Pauxtôpxki với các nhà văn Việt Nam hiện đại như Thạch Lam, Nguyễn Thành Long,

Đỗ Chu … Bạn đọc Việt Nam không khỏi ngẩn ngơ trước khung cảnh “một chú nai

thơ ngộ ngẩng đầu lên ngậm những búp cỏ tranh ướt đẫm sương đêm”, một bờ sông

“hoang dại như một bờ tiền sử” khiến người chèo thuyền như đang đi lạc vào một

“nỗi niềm cổ tích xưa”của Nguyễn Tuân. Có “một chiều êm ả như ru, văng vẳng

tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” đi vào lòng người với

tất cả vẻ u buồn, tĩnh mịch của đồng nội trước giờ khắc của ngày tàn trong văn của

Thạch Lam. Chất thơ trong văn xuôi Đỗ Chu lại làm nên một Hương cỏ mật, một thứ

“men lạ” không thể tìm thấy ở một tác giả nào khác.

Chất thơ trong văn xuôi của Pauxtôpxki được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần

nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một

văn phong điêu luyện. Đó là kết quả từ việc nhà văn vận dụng các loại hình nghệ

thuật như hội họa, kiến trúc, âm nhạc vào nghệ thuật viết văn; là kết quả của sự cộng

hưởng giữa thơ ca và văn xuôi. Pauxtôpxki quan niệm một nhà văn, nhà thơ chân

chính không bao giờ được cho phép mình yêu ngôn ngữ mẹ đẻ bằng một tình yêu hời

hợt. Nhà văn phải rèn luyện khả năng mẫn cảm với ngôn từ, đắm mình trong thế giới

muôn vàn sắc hương ấy. Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki được tạo nên

chính bằng phép màu tình yêu ấy.

Chất thơ trong văn xuôi là đặc điểm nổi bật nhất làm nên đặc trưng thế giới

nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki. Sự thống nhất giữa cái đẹp của đời sống hiện

thực và cái đẹp của tâm hồn nhà văn là yếu tố tạo nên chất thơ trong các sáng tác của

ông. Vì thế truyện ngắn Pauxtôpxki thấm vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng,

tinh tế và cứ sau mỗi câu chuyện, người đọc lại tìm thấy một niềm vui nho nhỏ, một

chút thanh thản trong tâm hồn, xa hơn có khi đó là “cả một chân trời mới mẻ của cái

đẹp”.

KẾT LUẬN

Tiếp cận thế giới nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki trên cơ sở khảo sát một

số phương diện: thế giới nhân vật, cốt truyện - kết cấu, không gian - thời gian nghệ

thuật, chất thơ trong văn xuôi, luận văn hi vọng đã đem lại cho người đọc cái nhìn

bao quát về một gương mặt truyện ngắn được nhiều bạn đọc yêu mến.

1. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Pauxtôpxki là sự phản ánh thế giới

tinh thần của nhà văn. Tấm lòng nhân hậu sâu xa của ông, tình yêu Tổ quốc thiết

tha dành cho từng bờ sông, rặng liễu, cánh rừng bạch dương xanh thắm trên Tổ

quốc Nga thân yêu, niềm tin không gì lay chuyển được vào phẩm chất cao đẹp của

con người và tài năng của ông trong việc truyền đạt một cách say sưa, đằm thắm

những biểu hiện tinh tế nhất của cái đẹp trong đời sống đã tạo nên một trong

những trang văn tuyệt đẹp của văn học Xô viết.

Xoay quanh những chủ đề bé nhỏ, bình dị nhưng mỗi truyện ngắn của

Pauxtôpxki lại nêu lên những vấn đề có tầm khái quát cho mọi thời đại: Tình yêu

quê hương đất nước, khát khao ươm mầm ước mơ cho thế hệ tương lai, tình yêu

lứa đôi, sự cống hiến quên mình của những người làm nghệ thuật…Đó là những

vấn đề luôn song hành cùng sự tồn tại của loài người. Điều đó lí giải vì sao những

câu chuyện nhẹ nhàng thơ mộng, đề tài giản đơn của Pauxtôpxki đã nằm ngoài

“quy luật của sự băng hoại”, tiếp tục cuộc hành trình đến với những tâm hồn yêu

cái đẹp mọi thời đại .

2. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Pauxtôpxki là thế giới của

dòng đời nhân loại từ ấu thơ đến khi trưởng thành. Vẻ đẹp tinh thần của các nhân

vật trong truyện ngắn Pauxtôpxki xuất phát từ “sự cao thượng, sự trinh bạch rất

người và sự dũng cảm tự nhiên” [45, tr. 144] trong tâm hồn họ. Những phẩm chất

cao đẹp trong thế giới thế giới nhân vật truyện ngắn Pauxtôpxki mang đến cho

người đọc cái nhìn mới về con người và thể hiện khát vọng của nhà văn trong

hành trình vươn tới giới hạn không cùng của cái đẹp trong cuộc sống.

3. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Pauxtôpxki là thế giới của tình

yêu, cái đẹp, không có dấu vết của hận thù, cái ác. Thế giới nghệ thuật truyện

ngắn của ông phản ánh cách nhìn giàu tính nhân văn, đậm chất lãng mạn đối với

hiện thực cuộc sống. Mỗi truyện ngắn của Pauxtôpxki là bài ca về phép màu của

tình yêu thương. Vì thế, những trang viết tươi tắn nắng ấm, lấp lánh hi vọng của

Pauxtôpxki vẫn tiếp tục cuộc hành trình đến với tâm hồn yêu nghệ thuật bằng một

sức hút kì lạ.

4. Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki là thế giới được vẽ lại bằng

cây bút riêng của tâm hồn nhà nghệ sĩ – nhà thơ trữ tình. Nó thể hiện bản sắc sáng

tạo độc đáo của nhà văn. Cảm thức tinh tế của Pauxtôpxki trong việc nắm bắt và

tái hiện sự biến chuyển của màu sắc, âm thanh, ánh sáng, mùi vị trong thiên nhiên

là một trong những yếu tố tạo nên bầu không khí trữ tình, trong trẻo, như thực như

mơ bao quanh thế giới nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki. Nhịp điệu, chất nhạc

trong văn xuôi Pauxtôpxki bắt rễ từ vốn hiểu biết tinh tường về ngôn ngữ mẹ đẻ,

những trực cảm tinh tế về ngôn ngữ.

Thế giới nghệ thuật đầy chất thơ trong truyện ngắn Pauxtôpxki tinh khiết

như Tuyết, lung linh như Cầu vồng trắng và buồn mơ màng như Bình minh mưa

bởi từng chi tiết trong truyện đều được kể bằng lời trái tim, vẽ bằng màu tình yêu,

âm vang bằng tiếng nói của lòng trắc ẩn. Pauxtôpxki đã đưa vào văn xuôi chất

lãng mạn trẻ trung, say đắm bằng trí tưởng tượng phong phú, nồng nhiệt. Văn xuôi

Pauxtôpxki – đó là thứ văn xuôi ngọt ngào, ngát hương, đầy ánh sáng và có sức

truyền cảm mạnh mẽ, luôn tìm được sự tiếp nhận nồng nhiệt từ phía người đọc.

Nhà văn Mĩ Hêminguây từng nói: “Trên đời này thật không có gì khó hơn

viết những áng văn xuôi lương thiện và giản dị về con người” [43, tr. 413].

Pauxtôpxki là một trong những cây bút đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khó khăn

cao cả và tuyệt đẹp đó. Ông là người truyền hồn cho những khoảnh khắc vĩnh cửu,

bậc thầy của nghệ thuật tôn vinh cái đẹp giản dị, và là người giữ lửa tin yêu cháy

mãi trong trái tim người.

5. “Những truyện ngắn hay vẫn cứ hay mãi; cùng với thời gian nó trở nên

lôi cuốn hơn, sâu sắc hơn và cũng cần thiết hơn” [43, tr. 422]. Tìm hiểu thế giới

nghệ thuật truyện ngắn Pauxtôpxki, càng đi sâu càng bắt gặp nhiều điều thú vị, tựa

như một vỉa đá ngầm mà dưới mỗi mũi khoan đều hiện lên những lớp quặng quý

hiếm. Không đủ sức làm người “tham lam”, chúng tôi đành tự bằng lòng với việc

khai thác một phần trong bộn bề những tầng sâu ý nghĩa của truyện ngắn

Pauxtôpxki. Nhiều tầng ý nghĩa ẩn chứa sau lớp ngôn từ, nghệ thuật kể chuyện,

yếu tố hư và thực trong truyện Pauxtôpxki... là những hướng tiếp cận mà người đi

sau có thể khai thác. Những chân trời xa Pauxtôpxki mở ra trước chúng ta là vô

tận bởi hành trình đi tìm cái đẹp không có bến đỗ cuối cùng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aitmatôp, T. (2005), Giamilia - Truyện núi đồi và thảo nguyên, (Cao Xuân Hạo,

Phạm Mạnh Hùng…), Nxb Văn học, Hà Nội.

2. Nguyên An (1999), Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài, Nxb Văn học, Hà

Nội.

3. Ngô Vĩnh Bình (2003), “Đi tìm cái “bí quyết” của nghệ thuật viết truyện ngắn”,

Tạp chí Văn nghệ Quân đội số (1), Hà Nội.

4. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn - Lí luận tác gia và tác phẩm (tập 1, 2), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

5. Bunhin, I (2002), Tuyển tập tác phẩm, (Phan Hồng Giang giới thiệu), Nxb Lao

động, Hà Nội.

6. Tân Chi biên soạn (1999), Thạch Lam - Văn và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.

7. Nhật Chiêu (1997), Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nxb Giáo Dục.

8. Đỗ Chu (1977), Trung Du, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. Đỗ Chu (1982), Phù Sa, Nxb Văn học, Hà Nội.

10. Đỗ Chu (1985), Tháng Hai, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

11. Đỗ Chu (2006), Tản mạn trước đèn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

12. Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính… (2001), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

13. Phạm Vĩnh Cư (1994), “Mấy suy nghĩ về giao lưu văn hóa Việt Nam – Nga”,

Tạp chí Văn học số (6), Hà Nội.

14. Phạm Vĩnh Cư (1996), “Đọc lại mấy bậc thầy truyện ngắn Nga – Xô viết”, Tạp

chí Văn học nước ngoài số (3), Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Dân (1991), Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận, Viện Thông tin

Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

17. Phan Cự Đệ chủ biên (2007), Truyện ngắn Việt Nam Lịch sử - Thi pháp - Chân

dung, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

18. Đôxtôiepxki, Ph (1999), Bút kí dưới hầm, Phạm Mạnh Hùng dịch, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

19. Hà Minh Đức chủ biên (1996), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Gamzatôp, R (1984), Đaghextan của tôi (quyển 1, 2), (Phan Hồng Giang dịch),

Nxb Cầu vồng, Matxcơva.

21. Gorki, M. (2004), Tuyển tập truyện ngắn Macxim Gorki, (Cao Xuân Hạo, Phạm

Mạnh Hùng dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

22. Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà (1987 - 1988), Văn học Xô viết (tập 1, 2), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Hải Hà (2002), Văn học Nga - Sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2003), Từ điển thuật ngữ Văn học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

26. Đỗ Đức Hiểu, Trần Hữu Tá… (2003), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

27. Khrapchenkô, M. B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của

văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

28. Khrapchenkô, M. B (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên

cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

29. Phong Lê (2009), “Phác thảo mối quan hệ văn học Xô viết và văn học Việt Nam

thế kỉ XX”, Nghiên cứu Văn học số (6), Hà Nội.

30. Nguyễn Thành Long (1985), Giữa trong xanh, Nxb Văn học, Hà Nội.

31. Phương Lựu chủ biên (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Cẩm Ly (1997), “Nhớ vầng sáng tháng Mười”, Tạp chí Văn nghệ quân đội số

(11), Hà Nội.

33. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí

Minh.

34. Pauxtôpxki, K (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa (Kim Ân và Mộng

Quỳnh dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

35. Pauxtôpxki, K (2004), Một mình với mùa thu (Phan Hồng Giang giới thiệu),

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

36. Pauxtôpxki, K (2002), Kônxtantin Pauxtôpxki - Tự truyện, (Tạ Hồng Trung

dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

37. Ngô Văn Phú, Vũ Đình Bình (tuyển chọn) (1998), 100 truyện ngắn hay Nga (tập

1, 2, 3, 4), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

38. Nguyễn Phúc (1959), “Trả lời cuộc phỏng vấn văn nghệ của Bách Khoa XXIV”,

Bách Khoa số (66), 1/11/1959.

39. Pôxpelôp, G.N chủ biên (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb

Giáo dục.

40. Prôcôva, X. (1983), Ixaắc Lêvitan, (Đặng Chung – Thế Lai dịch), Nxb Cầu vồng

Matxcơva.

41. Sêkhôp, A. P (2001), Tuyển tập truyện ngắn, (Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo

dịch), Nxb Thông tin, Hà Nội.

42. Trần Đình Sử (1997), Lý luận và Phê bình văn học, Nxb Giáo dục.

43. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể

loại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

44. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

45. Thúy Toàn biên soạn (1982), Các nhà văn Xô viết – Tập chân dung văn học,

Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

46. Thúy Toàn tuyển chọn và giới thiệu (1997), Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt,

Nxb Văn học, Hà Nội.

TÀI LIỆU TỪ INTERNET

47. http://en.wikipedia.org/wiki/Konstantin_Paustovsky

48. http://www.flipkart.com/selected-stories-konstantin-paustovsky/1410104575-

4nx3f91yic

49. http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237

nvnvntnqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn

50. http://www.hn-ams.org/hao/chonloc/nghivaviet/0.708.1.68.html

51. http://www.sachhay.com/book/20071218104/binh-minh-mua.aspx

52. http://www.tuanvietnam.net/lang-qua-thong-va-nang-solveig

PHỤ LỤC

KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI VỚI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM

1. Pauxtôpxki - Người đồng hành của bạn đọc Việt Nam

Trong bài “Phác thảo về mối quan hệ giữa văn học Xô Viết và văn học Việt

Nam thế kỷ XX” trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 6 năm 2009, Phong Lê nhận

định: “Pauxtôpxki thuộc số các nhà văn Xô viết đến với văn học Việt Nam trong chiến

tranh, và để lại dư âm khá sâu sắc nơi kí ức người đọc” [29, tr. 22]. Năm 1957, sau

khi truyện ngắn Chuyến xe đêm được giới thiệu đến nước ta, Pauxtôpxki đã chinh

phục độc giả một cách nhanh chóng. Đến nay, bạn đọc Việt Nam biết đến tác phẩm

của Pauxtôpxki chủ yếu qua bản dịch của Kim Ân (Vũ Thư Hiên) và Mộng Quỳnh.

Đây là hai dịch giả đã chuyển tải thành công nhất chất văn xuôi mượt mà, truyền cảm

của Pauxtôpxki từ nguyên tác sang tiếng Việt. Dịch giả Vũ Thư Hiên đến với

Pauxtôpxki muộn hơn các tác giả miền Nam một chút. Năm 1965, tại Matxcơva, giữa

đêm đông bão tuyết, lần đầu tiên ông có dịp tiếp xúc với tác phẩm của Pauxtôpxki.

Cuộc gặp gỡ ấy trở thành kỉ niệm không thể nào quên đối với dịch giả: “Đọc

Pauxtôpxki tôi bỗng hiểu tôi hơn, hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: Tôi

chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ

mộc bình dị…, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới

ánh mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó bằng cặp mắt

lười biếng. Mỗi dòng chữ của Pauxtôpxki nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy”4. Đêm hôm ấy, Vũ Thư Hiên mê mải với những trang viết

của Pauxtôpxki đến mức bình minh trắng đục phương Bắc tràn ngập khắp phòng tự

lúc nào ông cũng không hay. Tác phẩm của Pauxtôpxki mở ra một chân trời mới

trong nhận thức: “Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu ra rằng tôi đã bỏ qua rất

nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên con đường tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời

4 Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnvntnqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn

gian. (…). Như một người bạn gần gụi với ta, như một người thân của ta, Pauxtôpxki

bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn”.5

Ở Việt Nam, những tác phẩm của ông được bao thế hệ bạn đọc cất giữ làm

hành trang bên mình như một chỗ dựa tinh thần, nâng đỡ tâm hồn qua những giai

đoạn thử thách, khó khăn của cuộc sống. Kim Ân và Mộng Quỳnh đem trái tim và

tâm hồn để cảm nhận tác phẩm trên nguyên tác, vận dụng tất cả vốn hiểu biết tiếng

Nga và nghệ thuật sử dụng tiếng mẹ đẻ để chuyển ngữ những sáng tác của

Pauxtôpxki sang tiếng Việt. Bạn đọc có thể cảm nhận được chất trữ tình mượt mà

trong văn phong Pauxtôpxki qua bản dịch.

Vũ Thư Hiên tâm sự về niềm vui cũng như những khó khăn trong việc chuyển

ngữ Bông hồng vàng: “Mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp

cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một

niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch

Bông hồng vàng, tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao

quý và vì thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ rất sung

sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Pauxtôpxki”6.

Dịch Câu chuyện phương Bắc, Mộng Quỳnh đã bày tỏ sự ngưỡng mộ trước

tài năng của Pauxtôpxki và coi tác phẩm là “bài ca tâm huyết đầy chất thơ và đằm

thắm thiết tha ca ngợi Tổ quốc”. Phan Hồng Giang khi dịch cuốn Một mình với mùa

thu đã dành nhiều trang giới thiệu những nét độc đáo của Pauxtôpxki về mặt thể loại,

ngôn ngữ, cách sáng tạo hình ảnh, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên… để cuối cùng đi

đến nhận xét: “Pauxtôpxki dường như sinh ra trên mảnh đất Việt Nam hiền hòa với

những rặng tre xanh, cánh đồng mỏi cánh cò bay và con người Việt Nam rất mực

5 Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnvntnqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn 6 Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnvntnqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn

dũng cảm, không hề khoan nhượng với kẻ thù và cũng rất dịu dàng, biết yêu những vẻ

đẹp bình dị, nhẹ nhàng, tinh tế” [35, tr. 318]

Những vần thơ được viết từ những hồi ức lãng mạn của một thời sôi nổi trong

bài Nghĩ lại về Pauxtôpxki của Bằng Việt khiến bao bạn trẻ Việt Nam xúc động sâu

sắc. Đó là những mảnh kí ức như những “chiếc gương thần màu xanh lấp lánh” ta cất

giữ trong tim suốt cuộc đời:

“Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm

Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa

Có thể ngày mai ta cũng đi qua

Một cánh cửa não nùng trong truyện Tuyết

Có tiếng chuông rung và con mèo Ackhip

Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong”

Lòng tốt kì diệu của con người, phép màu của tình yêu, những cuộc gặp gỡ

thoáng chốc trở thành “những vết khắc trong tim” trong sáng tác của Pauxtôpxki rất

gần gũi với ước mơ, suy tư suốt một thời trai trẻ của biết bao bạn đọc Việt Nam cũng

như bạn đọc thế giới. Đó là sự gặp gỡ của những tâm hồn trân trọng cái đẹp, của

những thoáng mong manh vụt sáng đầy tiếc nhớ trong cuộc đời:

“Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng

Nốt cao quá trong đời xao động quá

Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả

Lại ngọt ngào, kì lạ, lớn lao hơn

Anh đã đi qua bão lốc từng cơn

Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất

Anh qua cả bầu không gian ngây ngất

Một nốt thầm trong nắng mới lao xao

Em đã đến rồi đi như một giấc chiêm bao

Bây giờ anh biết nói gì hơn

Có thể… ngày mai thôi… có thể

(Nghĩ lại về Pauxtôpxki – Bằng Việt)

Trong Lời nói đầu của Tuyển tập 100 truyện ngắn Nga hay, Vũ Đình Bình

viết: “Khoảng nửa thế kỉ nay, nhiều thế hệ độc giả Việt Nam được đọc hàng trăm,

hàng nghìn tác phẩm trong kho tàng truyện ngắn phong phú và đồ sộ của Nga qua

các bản dịch và nguyên bản. Bạn đọc đã say mê với truyện ngắn không chỉ của các

lớp nhà văn trước như Gorki, Bunin, L. Tolstoi… mà cả những nhà văn sau này như

Sukshin, Lidin, Kazakov… Ở đây không thể không nhắc tới Paustovski, một nhà văn

được bạn đọc nước ta hết sức hâm mộ và những người học tiếng Nga, học văn học

Nga, từng có dịp sống ở Nga và yêu mến nước Nga ai cũng đều biết” [37, tr. 5]

Trong tập Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt do Thúy Toàn tuyển chọn và

biên soạn, chúng ta có thể tìm thấy những vần thơ chứa chan cảm xúc thể hiện tình

cảm yêu mến của độc giả Việt Nam dành tặng Pauxtôpxki. Qua bài thơ “Gặp lại

những trang sách của Pauxtôpxki” của tác giả Trần Nhật Thu, chúng ta nhận thấy

rằng những trang sách của nhà văn Nga này đã trở thành người bạn thân yêu của biết

bao thế hệ bạn đọc Việt Nam trong suốt chặng đường thơ ấu, trên bước đường ra mặt

trận, trong suốt những đêm trường nhớ nhung da diết hình bóng quê nhà cùng người

yêu phương xa:

“Bên lối vườn bâng khuâng

Trang sách Pau đã đọc

Trong hầm hào chiến tranh

Là nỗi nhớ da diết

Cuối con đường có em

Những năm ấy không quên

Bom rền hai mái núi

Con đường trôi ở giữa

Bọn anh chốt mé rừng

Trang sách Pau đã đọc

Suốt một mùa nhớ nhung

[46, tr. 551]

Trong bài thơ “Bông hồng vàng”, tác giả Hải Kỳ ca ngợi bông hồng vàng

Samét dành cho Xuyzan chính là bông hồng của đức hi sinh và tình yêu thương được

chắt chiu, đong đầy qua bao năm tháng:

“Lẫn vào trong muôn tạp chất

Miệt mài sàng lọc ngày đêm

Đúc bông hồng vàng đẹp nhất

Như điều ước nguyện thiêng liêng”

[46, tr. 259]

Tác giả Phạm Khải trong bài Hoài niệm Pauxtôpxki bày tỏ ước mong tha thiết

được trở lại khoảng trời bình yên gắn liền với những kỉ niệm bên trang sách

Pauxtôpxki:

“Ôi, tôi thấy lụi dần bao ước muốn!

Thời gian trôi, qua từng khắc, từng giờ

Ôi đâu còn những đêm dông bão cuốn

Ngọn đèn khuya, trang sách, lật từng giờ

Tôi cảm thấy mình đã xa, xa lắm

Nhưng vẫn mong sẽ có lúc trở về

Ông là biển, rì rầm muôn say đắm

Là tiếng lòng lắng lại lúc canh khuya”

[46, tr. 215]

Pauxtôpxki cùng những trang sách của ông còn gắn liền với kỉ niệm của một

thời và cũng là kỉ niệm của một đời. Trên báo Sài Gòn giải phóng, số ra ngày 7 tháng

11 năm 1999, chuyên mục Chuyện đời thường, tác giả Khánh Đăng đã kể lại câu

chuyện cảm động về tập sách chép tay tác phẩm Bông hồng vàng của Pauxtôpxki.

Đây là kỉ vật vô giá mà cô giáo Vinh đã cất giữ suốt 34 năm ròng. Một lần các bạn

học sinh đến nhà chơi, cô giáo lấy ra cho các học trò yêu của mình truyền nhau đọc

một tập sách chép tay tác phẩm Bông hồng vàng của Pauxtôpxki. “Cuốn sổ tay dày

306 trang kín đặc những hàng chữ mực xanh nhỏ li ti, nắn nót. Toàn bộ Bông hồng

vàng, gồm 16 truyện, đã được chép lại trong cuốn sổ tay này. Dưới mỗi truyện đều

ghi ngày chép xong. Truyện Bụi quý, chép xong ngày 27 – 3- 1965. Truyện cuối cùng

Chuyến xe đêm, chép xong ngày 22 – 5- 1965”. Như vậy, người chép truyện mất gần

hai tháng mới hoàn thành tập sách này. Suốt thời kì kháng chiến giữ nước hào hùng

và gian khổ, sách văn học ở nước ta khan hiếm, những người yêu văn học ngày ấy đã

không ngại chép tay những cuốn sách mà họ yêu thích. Qua mẩu chuyện này, có thể

thấy bạn đọc Việt Nam rất mực trân trọng, nâng niu từng trang viết của Pauxtôpxki –

những trang sách đã đi vào hồn người và mãi mãi lắng đọng thành một vùng cảm xúc

rực sáng như dải cầu vồng rực rỡ sau cơn mưa.

Những trang văn lấp lánh niềm tin yêu và hi vọng của Pauxtôpxki là người

bạn đường của biết bao thanh niên hăm hở bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước

sau ngày hòa bình thống nhất. Trên báo Sài Gòn Chủ Nhật ra ngày 12 tháng 11 năm

2006, chuyên mục Vấn đề hôm nay, trong bài viết “Sách văn học Nga – Dấu lặng sau

thời vàng son” của tác giả Dung Thùy có đoạn viết: “Còn gì hạnh phúc hơn là được

lên đường vào lúc ban mai của một ngày và ban mai của cuộc đời. Rồi bạn sẽ gặp

những đoạn đường quanh co, gập ghềnh, núi cao, vực thẳm, nhưng đừng đánh mất

sự hăm hở và trong trẻo lúc ban mai” (Bình minh mưa – Pauxtôpxki). Khi đất nước

vừa thoát khỏi chiến tranh tiến lên xây dựng, làm lành những vết thương còn rỉ máu,

hơn lúc nào hết, Pauxtôpxki đã mang tinh thần “hạnh phúc lên đường” đến với tuổi

trẻ”.

Không chỉ những dịch giả, nhà phê bình, nhà văn, nhà thơ Việt Nam mà đông

đảo mọi tầng lớp bạn đọc nước ta đều yêu Pauxtôpxki. Đặc biệt tình yêu các bạn học

sinh, sinh viên dành cho Pauxtôpxki gắn liền với những ước mơ nguyên sơ của tuổi

trẻ. Nhiều bạn trẻ từng ước mong cũng được ai đó tặng món quà như nhạc sĩ Griđơ đã

tặng Đanhi. Bao bạn đã băn khoăn đi tìm câu trả lời về hạnh phúc như trong truyện

Tuyết. Hạnh phúc ấy rất giản đơn ngỡ như chỉ đưa tay ra là có thể chạm đến nhưng

cũng thật xa vời.

Trong lời tựa tập Bình Minh Mưa (2000), nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin,

tác giả Dung Nguyên viết: “Khó lòng có thể kể hết bao nhiêu lớp trẻ đã lớn lên đã

“ảnh hưởng” bởi truyện ngắn Pauxtôpxki. Trong những năm 1994 - 2000, nghĩa là

suốt thời kì tôi học trung học và đại học, những truyện ngắn của Pauxtôpxki đã mê

hoặc rất nhiều học trò như tôi. “Tuyệt đẹp” là từ mà nhiều bạn trẻ thốt khi đọc xong

cuốn Bình minh mưa. Không ít sinh viên khoa Văn của Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn đã cất giữ cuốn Bình minh mưa của Pauxtôpxki như một báu

vật nhỏ bé. Còn với tôi, mỗi truyện ngắn của nhà văn Nga này như một giọt sương

buổi sớm, nhẹ nhàng, tươi tắn và thật thần tình, nó thấm vào tâm hồn trọn vẹn với vẻ tươi mát và tinh tế kì lạ”. 7

Tình cảm của độc giả Việt Nam dành cho Pauxtôpxki còn thể hiện qua vần thơ

chất chứa ưu tư của một tâm hồn trẻ đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời rộng mở

với biết bao âu lo trước những điều chưa biết tới:

“Cuộc sống sẽ là gì sau trang sách của em

Nghe bàng hoàng ngày sóng xô biển động

Nghe rừng thu xao xác lá muôn chiều

Bao nỗi đau đi qua mới cháy thành hạnh phúc

Trăm niềm thương lắng lại một niềm yêu

Cho em khóc cùng Đanhi niềm vui mười tám tuổi

Lẵng quả thông thơm ước mộng êm đềm

Cho em mở những lá thư phập phồng hi vọng

Để trao đi một tấm lòng và nhận lại một trái tim”

Từ thế giới tuyệt diệu trong những trang sách của Pauxtôpxki, bước vào cuộc

đời với tấm lòng và trái tim rộng mở, Những ngôi sao mười tám của Phạm Ngọc Lan

đã nói hộ tâm sự của bao bạn trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời. Bài thơ đã đạt giải III

cuộc thi sáng tác thơ văn Tài năng trẻ do Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh và báo

Mực Tím tổ chức năm 1999.

Có những nhà văn, nhà thơ một khi đã đến thì mãi mãi ở lại, lâu bền trong tâm

hồn độc giả. Đó là trường hợp của Pauxtôpxki với bạn đọc Việt Nam. Nhà nghiên

cứu Phạm Vĩnh Cư nhận định: “Những huyền thoại lãng mạn – Tuyết, Bình minh

7 http://www.sachhay.com/book/20071218104/binh-minh-mua.aspx

mưa, Lẵng quả thông… có sức mạnh kì lạ làm cháy lên trong lòng người đọc ngọn

lửa tâm hồn thường xuyên bị vùi lấp dưới tro bụi của cuộc sống thường nhật. Phải

chăng vì thế mà những ai yêu Paustovski thì đều yêu ông với một niềm biết ơn đặc

biệt?” [14, tr. 70]. Lặng lẽ và đằm thắm, thiết tha, những trang viết, những dòng suy

tư trong văn Pauxtôpxki luôn làm mát dịu lòng ta như mạch suối nguồn trong trẻo,

dịu dàng. Chính vì vậy“không ít tấm lòng Việt Nam đã hướng về ông như nơi trú ngụ

bình yên của lòng người” [35, tr. 321].

2. Dấu ấn Pauxtôpxki trong sáng tác của một số nhà văn Việt Nam

2. 1. Pauxtôpxki và Thạch Lam - Sự tương đồng có tính ngẫu nhiên

Những thập niên đầu thế kỉ XX, sáng tác của Bunhin, Prisvin, Pauxtôpxki…đã

tạo nên dòng văn xuôi trữ tình trong văn học Nga. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-

1945 cũng xuất hiện dòng văn xuôi trữ tình gắn với tên tuổi Thạch Lam, Thanh Tịnh,

Hồ Dzếnh… Đặc biệt, ta thấy giữa Pauxtôpxki và Thạch Lam dường như có sự gặp

gỡ kì lạ trên địa hạt văn chương, từ cách nhìn cuộc đời, quan niệm về cái đẹp, phương

châm sáng tác đến sự tinh tế trong cách cảm nhận mọi dáng vẻ của cuộc sống.

Cũng như Pauxtôpxki, thế mạnh của Thạch Lam thiên về mảng truyện ngắn

trữ tình. Sự đan xen hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn là nét đặc sắc trong

phong cách của ông. Một số đặc trưng nghệ thuật trong bút pháp truyện ngắn của hai

nhà văn cho thấy sự đồng điệu về cách nhìn cuộc đời, thái độ đối với cuộc sống. Họ

cùng chọn cho mình con đường đến với nghệ thuật bằng tình yêu sâu thẳm, bền bỉ.

Đó là sự gặp gỡ của tình yêu tha thiết, sâu sắc dành cho tiếng mẹ đẻ, là thái độ trân

trọng nâng niu từng mầm non bé nhỏ, những rung động mỏng manh, ngọt ngào của

tình người: “Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy áo. Sơn

đứng yên lặng đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp, vui vui” [6, tr. 169]. Những mảng

màu của đời sống tự nhiên đi vào trang viết mà không cần một chút nỗ lực nào của

nhà văn, nhưng để có được sự giản dị tinh chất ấy, nhà văn đã chắt lọc những gì đẹp

đẽ và tinh túy nhất từ chất liệu cuộc sống. Cái mùi thơm phức của “lúa mới trong cái

màu xanh của cốm, cái dịu dàng, thanh đạm của loài thảo mộc, thêm vào cái mùi hơi

ngát của sen già” [6, tr. 336] đến nay vẫn ngào ngạt tỏa hương trên trang văn Thạch

Lam. Pauxtôpxki – Thạch Lam còn là sự gặp gỡ của những tâm hồn rất mực nâng niu

cái đẹp, suốt đời tìm kiếm cái đẹp ẩn giấu trong những sự vật bình dị, sâu xa hơn là

chất nhân bản tiềm ẩn trong góc khuất của đời sống. Những tâm hồn như Pauxtôpxki

và Thạch Lam luôn muốn tìm lời đồng điệu với từng biến chuyển của đất trời đến vô

vàn sắc thái cảm xúc không tên gọi của con người: “Một con đom đóm bám vào mặt

dưới lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh

thoảng từng loạt một, tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không

hiểu” [6, tr. 188]. Thạch Lam phát hiện ra những đốm lửa le lói của niềm hi vọng

trong cái mạch buồn tẻ, lặp đi lặp lại của hiện thực cuộc sống. Chất thơ man mác bao

phủ bầu không khí của truyện ngắn là kết quả hiệu ứng tổng hợp của nhiều thủ pháp

nghệ thuật cộng với sự lan tỏa từ tình ý của người viết. Chính vì vậy, Gió đầu mùa,

Hai đứa trẻ có cái duyên thầm ý nhị làm xao xuyến lòng người đọc.

Trong Tàu tốc hành Ximêrôpôn, một chuyến tàu cố định giữa hai thành phố

trở thành tấm gương để nhân vật Pauxtôpxki soi chiếu vào nhau, dường như người

này không hề biết đến công việc lặng thầm của người kia. Với người dưới làng “cuộc

sống chỉ còn là những chuyến tàu đi ngang” [34, tr. 328]. Người trên tàu quan sát

thấy ngôi làng như được thổi bừng lên sức sống dưới chế độ xã hội mới. Qua lời nhân

vật nhà văn trong truyện, Pauxtôpxki đã gián tiếp phát biểu mục đích, lẽ sống mà ông

suốt đời theo đuổi: “viết một cuốn sách về hạnh phúc bình dị của con người” [34, tr.

384]. Pauxtôpxki và Thạch Lam – đó là những con người rất mực khiêm nhường, yêu

cầu khắt khe đối với bản thân, ý thức được trách nhiệm của mình. Trong lời đề tựa

tập Bông hồng vàng, Pauxtôpxki tâm sự: “Nếu như tôi truyền đạt được tới bạn đọc,

dù chỉ trong một chừng mực ít ỏi, khái niệm về bản chất tuyệt vời của lao động nhà

văn thì tôi dám coi như đã làm tròn bổn phận của tôi đối với văn học” [34, tr. 7].

Với Pauxtôpxki, quá trình sáng tác mang lại cho nhà văn nỗi hân hoan, khó

diễn tả bằng lời, “niềm vui của người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp” [35, tr. 52].

Nhiệm vụ của nhà văn là hướng bạn đọc đến một thế giới tràn ngập niềm tin yêu,

chan hòa ánh sáng. Cũng như Pauxtôpxki, làm sao diễn tả cho đúng tất cả sự thực

rung động và thi vị của cuộc đời là phương châm sáng tác của Thạch Lam - người

mải miết với “hành trình đi tìm cái đẹp”. Tuy nhiên, nét gặp gỡ giữa Pauxtôpxki và

Thạch Lam là sự tương đồng có tính chất ngẫu nhiên về quan niệm nghệ thuật, về

phong cách sáng tác và cá tính sáng tạo của nhà văn chứ không phải là quá trình tiếp

nhận ảnh hưởng.

Ta có thể nhận thấy chất văn xuôi ngọt ngào, chất trữ tình man mác của

Pauxtôpxki ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác của một số nhà văn Việt Nam giai đoạn

sau năm 1954.

2.2. Pauxtôpxki và Nguyễn Thành Long – Cái thoáng chốc trong truyện

ngắn

Đọc Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, ta ngỡ như bắt gặp “chất

Pauxtôpxki” ở nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện, bầu không khí bao quanh nhân

vật. Cuộc hội ngộ ngẫu nhiên giữa Masa, anh phi công trẻ, nhà danh ca già, ông lão

đan giỏ bên bờ sông trong Cây tường vi như một dấu thăng tuyệt đẹp cho bản tình ca

của đời người. Tình huống dẫn đến buổi gặp gỡ giữa ông họa sĩ, cô kĩ sư nông nghiệp

và anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa mang tính chất của “cái khác thường trong

cái bình thường”, hiếm khi xảy ra lần thứ hai trong đời. Theo Nguyễn Thành Long,

đó là “một chốc lát trong đó sự việc xảy ra dồn dập nhất, giàu ý nghĩa nhất” [33, tr.

61]. Sau cái lặng lẽ của Sa Pa là ngọn lửa rực cháy trong trái tim của những con

người ngày đêm lặng thầm lao động, cống hiến vì Tổ quốc, vì cái đẹp của cuộc sống

như anh thanh niên trạm khí tượng, ông kĩ sư lai giống su hào, anh kĩ sư nghiên cứu

bản đồ sét…

Trong sáng tác của Pauxtôpxki, ta bắt gặp những con người khiêm tốn, lặng lẽ

làm việc những việc không tên vì cái đẹp của cuộc đời mà ít ai biết tới như câu

chuyện về thuyền trưởng đường sông Ôlênhin Vôngari, vợ chồng giám đốc thư viện

trong một thành phố nhỏ ở miền Trung Á: “Ông làm việc trong yên lặng, không ai

quấy rầy ai. Dù viện bảo tàng của ông không mang lại nhiều lợi ích đi chăng nữa thì

chả lẽ bản thân sự tồn tại của một con người như thế không phải là tấm gương về

lòng trung thành với công việc, tính khiêm tốn và tình yêu quê hương cho những

người ở đây, nhất là cho thanh niên hay sao? [34, tr. 179]. Đó là những người làm

việc không phải để mong chờ được nhớ ơn, đền đáp. Họ làm việc đơn giản vì trái tim

họ, lương tâm họ đòi hỏi phải như vậy.

Là những lữ hành tìm kiếm chất vàng ròng quý giá ẩn giấu trong tâm hồn con

người, Pauxtôpxki và Nguyễn Thành Long có sự gặp gỡ về môtip nhân vật. Ở truyện

Nguyễn Thành Long, ta thường bắt gặp kiểu nhân vật người du hành – người sáng

tạo. Họ là những nhà văn, họa sĩ, nhà báo như trong Lặng lẽ Sapa, Buổi sáng Điện

Biên, Sớm mai nào xế chiều nào… Nguyễn Thành Long từng đi lên các công

trường, nông trường, ông gặp các nông trang viên, cán bộ khoa học suốt dọc dài đất

nước. Người nghệ sĩ là những người phải đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, lặng lẽ

chiêm nghiệm sự đời. Pauxtôpxki đã gặp gỡ tại vùng Mêsora ông lão lái phà, người

đan lát, các nông trang viên có tài kể chuyện. Kiểu nhân vật sáng tạo đồng thời là

người lữ hành trở đi trở lại trong truyện Pauxtôpxki như trong Cây tường vi, Tàu tốc

hành Ximêrôphôn, Cầu vồng trắng, Bình minh mưa. Đó là người hoạt động trong

lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật như nhà văn, họa sĩ, nhà báo, người sưu tầm truyện dân

gian, nhân viên họa đồ, ca sĩ, các sinh viên kiến trúc đi khảo sát thực tế… Để phục vụ

công việc sáng tạo, họ thường đi nhiều, say mê quan sát cuộc sống và con người xung

quanh. Đó là những con người đào xới đến tận cùng lớp đất của đời sống để tìm cái

đẹp, để cuộc sống nở hoa trên trang viết.

Theo Pauxtôpxki, “khi văn xuôi đã đạt tới mức toàn thiện toàn mĩ thì về bản

chất thực sự nó đã là thơ” [34, tr. 225]. Lặng lẽ Sa pa mang cấu trúc của một bài thơ

lung linh chất nhạc, chất họa. Thiên nhiên từ hiện thực cuộc sống bước vào trang sách

của Nguyễn Thành Long với tất cả vẻ duyên dáng của nó: “Lúc bấy giờ nắng đã mạ

bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiều làm

cho bó hoa càng thêm rực rỡ” [30, tr. 21]. Cảnh đẹp như tranh vẽ, gợi ra một không

gian lóng lánh sắc màu, chan chứa tình người. Trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn vang

lên những thanh âm trong trẻo, ánh lên sắc màu tươi mát làm đẹp lòng người, ấm tình

đời. Dòng chảy lặng lẽ mà sâu lắng ấy hòa thành âm hưởng trữ tình ngợi ca của

truyện. Ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cách sống, tâm hồn nhân vật trong cái lặng thầm

của Sa Pa lại đánh thức nơi trái tim độc giả những tình cảm lớn lao, cao đẹp.

Sau cuộc gặp gỡ, trò chuyện với người họa sĩ và anh thanh niên, cô kĩ sư trẻ

trong Lặng lẽ Sa Pa nhận thấy cuộc đời trước mắt mở ra biết bao điều tốt đẹp. Cô tin

tưởng vào con đường mình đang đi, tin vào sự lựa chọn của mình. Điều tốt đẹp nhất

cho cả ba người sau cuộc gặp gỡ này là họ càng ý thức được trách nhiệm đối với

tương lai của chính mình và đất nước. Trong Cây tường vi, sau khi trò chuyện với

anh phi công trẻ, lắng nghe những lời khuyên thú vị của nhà danh ca già, Masa không

còn cảm thấy e ngại con đường phía trước, cô bước đến tương lai với tinh thần hân

hoan tìm kiếm “chất thơ chứa đựng trong từng ngày của cuộc sống”.

Dẫu trên khắp nẻo đường đời, vẫn biết rằng khó có dịp gặp lại nhưng các nhân

vật trong Cây tường vi, Lặng lẽ Sa Pa đã thắp lên trong nhau niềm tin yêu vào phẩm

chất tốt đẹp, khả năng kì diệu của con người. Cuộc sống dưới một góc nhìn mới, chan

hòa ánh nắng thênh thang mở ra trước mắt họ. Mỗi lời nói, mỗi hành động, cả những

suy nghĩ thầm kín xuất phát từ tư chất đẹp đẽ của tâm hồn nhân vật để lại âm vang

ngọt ngào trong lòng người đọc. Nguyễn Thành Long quan niệm: “Truyện ngắn phải

mang dấu ấn của tác giả, biểu hiện dưới sự tồn tại của tác giả. Dấu ấn ấy trước hết

là tấm lòng đằm thắm của anh, sau đó là bút pháp, giọng nói, nhịp điệu câu chuyện

của anh, những “cái áo”, “làn da” của tấm lòng tác giả” [33, tr. 53]. Chỉ có qua tâm

hồn ta, ta mới có thể hiểu tâm hồn người khác. Từ cuộc đời đến trang viết,

Pauxtôpxki, Nguyễn Thành Long luôn giữ ý thức để trái tim mình gần trái tim người

đọc. Và điều cốt lõi nhất các nhà văn muốn gửi gắm ở tác phẩm văn học là thông điệp

về hơi ấm tình người - giá trị vĩnh hằng của cái đẹp.

2.3. Pauxtôpxki – Đỗ Chu – Những cánh chim trên sóng

Trả lời phỏng vấn báo An ninh thế giới, số tháng 2 năm 2009, Đỗ Chu từng

nói: “Nhà văn mang cái nhạc chữ, nhạc ý tứ, nhạc tình cảm của bản thân mình để hát

lên, góp phần làm đẹp cho cây đời”. Từng mảng màu của đời sống trải ra trên trang

văn Đỗ Chu tạo nên bức tranh sống động, kêu gọi con người đi đến vùng đất chan

hòa ánh sáng.

Đến với mảng truyện ngắn trữ tình của Đỗ Chu thời kì đầu, ta như bắt gặp vị

ngọt ngào của Pauxtôpxki trong phảng phất hơi văn. Hoàng Ngọc Hiến nhận định:

“Ảnh hưởng của văn xuôi Nga Xô viết tới văn học Việt Nam đương đại chắc chắn là

có và không thể là nhỏ. Có một số trường hợp nhận ra được. Chẳng hạn, ảnh hưởng

của phong cách trữ tình nhẹ nhàng, tinh tế của Pauxtôpxki trong một số truyện ngắn

của Đỗ Chu thời trẻ” [25, tr. 136]. Nhận định về phong cách văn xuôi Đỗ Chu, nhà

phê bình Bùi Việt Thắng viết: “Nếu được phép phân hạng thì ông là học trò của

Thạch Lam, Nguyễn Thành Long (các nhà văn Việt Nam), và C. Pauxtôpxki (nhà văn

Nga) và A. Đôđê (nhà văn Pháp)” [17, tr. 742]. Do tính chất của công việc, nhà văn

phải đi nhiều, trải nghiệm, đọc nhiều và không ngừng tìm tòi cái mới. Họ luôn phải tự

làm mới chính mình, tự trau dồi, học tập kinh nghiệm sáng tác từ tinh hoa của nhiều

nền văn học, nhiều đồng nghiệp trên thế giới đồng thời khẳng định nét riêng của mình

trong quá trình sáng tạo. Đỗ Chu bộc bạch “có những giai đoạn văn học đến với tôi

thật đẹp” [33, tr. 72].

Cũng như Pauxtôpxki, với Đỗ Chu, cốt truyện không phải là yếu tố đóng vai

trò trụ cột của tác phẩm. Ông tâm sự: “Với tôi, thường cốt truyện không thành vấn đề

lắm” [33, tr. 73]. Đối với loại truyện ngắn trữ tình, tác giả tập trung vào dòng tâm

trạng, bầu không khí trong truyện. Yếu tố làm nên “men lạ” trong truyện Đỗ Chu

không phải bởi tình tiết gay cấn, cốt truyện li kì mà bởi cách dẫn truyện nhẹ nhàng,

lời văn êm dịu, du dương, ý nghĩa triết lí trong những đoạn độc thoại nội tâm như

dòng chảy ngầm sâu thẳm bên dưới lớp vỏ ngôn từ. Đỗ Chu quan niệm “cái chân đế

của một tác phẩm chính là sự gắn bó với đời sống” [33, tr. 75]. Theo ông, một truyện

ngắn hay phải tạo ra “một cuộc gặp gỡ giữa người viết với người đọc, một cuộc gặp

gỡ phút chốc, nhưng để lại một ấn tượng sâu đậm, làm người ta khó quên”

[33, tr. 71].

Chất trữ tình đằm thắm, mượt mà tạo nên bầu không khí trữ tình đặc trưng

trong văn xuôi Đỗ Chu được tạo nên từ khả năng “nhìn cuộc sống lúc nào cũng như

mới, như lần đầu tiên được thấy, trong tất cả dáng vẻ tươi nguyên và đầy ý nghĩa của

từng hiện tượng cho dù là có vẻ nhỏ nhặt nhất. Đó chính là cái nhìn tinh tường thu

nhận được mọi màu sắc, khả năng dùng ngôn ngữ mà vẽ nên sự vật như hiển hiện,

không phải phác tả mà chỉ ra, phơi bày được ra hiện thực, hành vi và tâm thế của

con người. Đó là sự hiểu biết về những khả năng của ngôn ngữ, khả năng lật xới lên

được những tầng lớp giàu có chưa hề được khai phá của ngôn ngữ. Đó là khả năng

cảm nhận và chuyển đạt chất thơ đậm đà tản mác quanh ta” [35, tr. 8]. Chất thơ

trong văn xuôi Đỗ Chu đã làm nên một “hương cỏ mật” khó tìm thấy ở một tác giả

nào khác.

Ân tình sâu nặng các nhân vật dành cho nhau trong mối quan hệ khăng khít

giữa hậu phương và tiền tuyến, tình đồng đội, tình yêu trong sáng giữa những người

lính trẻ là nội dung quán xuyến trong Trung du, Phù sa. Ấy là những con người vượt

qua những hi sinh mất mát, vươn tới những xúc cảm thuần khiết của con tim: “Con

người tế nhị nổi tiếng này, lần đầu tiên cảm thấy mình bạo dạn và bất chấp tất cả.

Anh muốn bay về ngay dưới kia, khi tới khung cửa sổ vẫn có cành dã hương thân

thuộc mọi khi, nhìn vào căn buồng nho nhỏ đó, nhìn vào khuôn mặt xiết bao yêu dấu

đó, để nói lấy một lời xin lỗi” [8, tr. 31]. Không hứa hẹn, nhiều lời vậy mà họ vẫn

chờ đợi nhau qua mưa dông lửa đạn, qua những tháng năm dài biền biệt như tình cảm

trong sáng, thủy chung giữa Nga và Nhuần trong Đất bãi, Tâm và Trọng trong Tâm

sự người ở lại. Sự tinh tế trong việc nắm bắt những rung cảm mong manh trong thế

giới cảm xúc của con người cộng hưởng với cảm hứng trữ tình đậm đà, sâu lắng được

chuyển tải một cách chân thực từ tâm hồn người viết lên trang giấy tạo nên cái duyên,

sức hút trong truyện của Đỗ Chu. Cảm hứng ấy từ người viết truyền thẳng vào lòng

người và tạo nên một khoang cảm xúc ngọt ngào, bình yên, trọn vẹn.

Theo Pauxtôpxki, cái hồn sống động của thiên nhiên tự nó tỏa ra sức sống

trên trang viết chỉ khi nhà văn đặt toàn bộ trạng thái tâm hồn, tình yêu, niềm vui hay

nỗi buồn trong sự hòa hợp với thiên nhiên. “Thiên nhiên chỉ tác động tới ta với toàn

bộ sức mạnh của nó khi nào ta mang toàn bộ bản chất người của ta vào việc cảm xúc

thiên nhiên” [34, tr. 234]. Do đó, ông quan niệm “mỗi một người viết văn xuôi thực

thụ đều phải hiểu biết thấu đáo thơ và họa” [35, tr. 15]. Để tạo nên những bức tranh

thiên nhiên tuyệt diệu bằng ngôn từ, bên cạnh tình yêu lớn dành cho văn học, Đỗ Chu

còn dành thời gian cho giá vẽ, bảng màu. Ông rất coi trọng khai thác vẻ đẹp thiên

nhiên trong mối quan hệ lồng ghép bức tranh tâm trạng. Góc nhìn trong nghệ thuật

miêu tả thiên nhiên của Đỗ Chu thể hiện phong cách của một nhà nhiếp ảnh tài hoa:

“Từng thảm lúa được cuốn dần về phía chân trời để phô ra từng cánh đồng đất nâu

và những đống rạ thoạt trông có dáng như đám người đang ngồi thu lu bên nhau” [9,

tr. 303]. Những bức họa ngôn từ trong tác phẩm của ông đưa người đọc đến miền

hương hoa tinh khiết đẹp mơ màng: “Ở đây mùa xuân đến sớm hơn mọi nơi, mới đầu

tháng chạp mà hoa đào, hoa lê đã đua nhau nở. Trong khi đó, mùa đông vẫn chưa

chịu rút lui, hoa lau còn đang trắng nở trên các triền núi xa, nở trắng bên những con

đường lát đá vắng lặng” [9, tr. 31]. Nếu như từng dòng, từng câu viết về miền

Mêsora của Pauxtôpxki ta như nghe được cả mạch đập của sự sống thì Đỗ Chu có

khả năng tiếp cận vẻ tươi mới của những gam màu, âm thanh, hương vị đặc trưng của

vùng đồng bằng trung du Bắc bộ. Cái nắng hanh vàng hắt trên sườn đồi, mùi nồng

của đất sau mưa, loài cỏ dại của một miền quê, hình ảnh những con thuyền nằm gối

đầu trên bãi cát, đất phù sa của con sông quê hương đều trở thành nỗi nhớ da diết

trong trái tim người. Những mảng màu sáng tối, lúc thăm thẳm, khi lấp lóa sáng ngời

- sắc nâu của mảnh đất nồng đượm tình quê, cánh đồng chín vàng giữa mùa gặt, màu

ráng đỏ rạng ngời như kí ức tình yêu muôn đời sáng mãi trong trái tim người lính trẻ,

như một niềm tin được trao gửi trọn vẹn từ người con gái đã ra đi mãi mãi, như một

lời cầu chúc bình an đến người dấu yêu từ chân trời xa khuất. Đặc biệt màu đỏ rực

của hoa gạo trở đi trở lại trong các thiên truyện Đỗ Chu như thắp sáng một khoảng

trời mong nhớ. Bước đi của xuân, hạ, thu, đông trong truyện được ông đặt trong mối

giao hòa giữa thiên nhiên và tình người.

Chất lãng mạn trữ tình trong văn Đỗ Chu đượm cái hồn quê làng cảnh Bắc bộ

Việt Nam, nơi con người sống gắn bó, sâu nặng nghĩa tình. Phải để tâm hồn mình yêu

và hiểu cái hồn của yêu hương như thế nào, Đỗ Chu mới có thể tạo nên một Hương

cỏ mật quyến luyến lòng người đến vậy. Trong tâm hồn người học trò xa nhà, mùi

hương ấy, nỗi nhớ ấy dường như “cả trong mơ còn thức”: “Những cụm cỏ mật thơm

ngào ngạt, những viên đá cuội trắng nõn, tối tối mang đập vào nha tóe lửa, một thứ

lửa có mùi thơm thơm như mùi mật ong cháy (…). Chính cái Phương đã bảo em biết

cách làm cho cỏ mật còn xanh hết mùi hắc. Chỉ cần buộc túm những cụm cỏ xanh ấy

lại, đem phơi nắng rồi hong gió, cỏ mật héo vàng đi, tỏa hương thơm dìu dịu” [9, tr.

42]. Nghe Tịch híp kể chuyện, bao cảm xúc dành cho mảnh đất quê hương sống dậy

vẹn nguyên trong tâm hồn đại úy Bài. Với anh, mọi cái trong vườn cò này “thân

thuộc đến mức phải lòng chúng” [9, tr. 49]. Người cha gặp lại chính mình trong ước

mơ của con trẻ.

Bên cạnh hương vị quyến luyến, đặc trưng của hồn quê bắc bộ, thế giới trong

Hương cỏ mật, Thung lũng cò còn bừng sáng bởi nụ cười trẻ thơ hồn nhiên, trong

trẻo. Luôn giữ cho mình cái nhìn xanh non dành cho cuộc sống -“nhìn tất cả như mới

thấy lần đầu – phẩm chất vốn có ở trẻ em và các họa sĩ” [35, tr. 16] - dường như

trong từng câu văn viết về tuổi nhỏ của Đỗ Chu chở theo mùi nắng mới tinh khôi:

“Tịch híp há miệng cười khanh khách, nghe như cò bợ xúc miệng. Một cơn gió đầu

mùa ập tới như muốn tìm bắt tiếng cười thơ ngây ấy” [9, tr. 49]. Đọc truyện Đỗ Chu,

lòng người bâng khuâng theo những khoảnh khắc lắng đọng của tâm hồn nhân vật.

Ông rất tài tình trong việc xây dựng bầu không khí bàng bạc chất thơ trong một số

truyện. Đó là nhịp đồng điệu giữa hai tâm hồn tinh tế, mẫn cảm trong cách cảm nhận

cái đẹp man mác khắp vũ trụ, ẩn sâu dưới lớp vỏ của hiện thực. Ấy là khi người ta

chợt hiểu ra hạnh phúc lớn nhất chính là sự hiểu nhau: “Giống như những lớp phù sa

giấu kín dưới nó những dải đất sét quý giá, trong con người bình dị kia cũng đang ẩn

tàng những tình cảm, những suy nghĩ tốt đẹp mà người ta không thể dễ dàng nhận

thấy ngay một lúc được” [9, tr. 17]. Trung du, Mùa cá bột làm nên chất men lãng

mạn mới lạ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Cấu trúc văn xuôi của Đỗ Chu mang âm hưởng của những vang âm êm đềm,

da diết. Nhịp điệu trong văn ông được tạo nên từ sự cộng hưởng từ âm thanh của

cuộc sống thường nhật nơi thôn quê qua cách cảm nhận của tác giả, mạch vận động

bên trong của tâm trạng nhân vật và nhịp điệu của câu chữ. Tiếng lòng của thiên

nhiên hòa nhịp với âm thanh cuộc sống – tiếng vang của rừng, tiếng ve râm ran, tiếng

sóng vỗ, tiếng người í ới gọi nhau, tiếng ồn ã trên bến sông – được câu chữ khắc

thành nét duyên dáng trong văn Đỗ Chu. Lời văn của ông trong sáng, rất truyền cảm,

“bao giờ cũng thấm đượm chất thơ như chất nước ngọt ngào trong trái táo” [35, tr.

14]: “Năm ấy mưa xuân phủ khắp đồi. Con đường và rải sỏi cứ tươi roi rói như tấm

vải điều của mấy bà thợ nhuộm treo phất phơ trước cửa hàng vào những phiên chợ

huyện” [10, tr. 109].

Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Đỗ Chu cũng thiên về dòng thời gian

hoài niệm, hồi tưởng. Đang sống ở hiện tại nhưng nhân vật của ông thường giấu trong

lòng nỗi đau đáu về miền kí ức thăm thẳm những buồn vui: “Tôi ngủ ngon lành và

khi chợt tỉnh, nhìn ra bên ngoài đã thấy bức tường đá ong rêu của khu thành cổ,

những ngọn xoan già lấp ló ở bên trong và mấy dãy nhà hai tầng lợp bằng thứ ngói

cũ màu xám.

Đến nhà rồi. Đến mảnh đất trung du của ta rồi. Phố ơi, trường ơi, đường ơi,

thành cũ ơi, Bích ơi, những ngày xưa thân ái ơi” [8, tr. 151]. Kể về thực tại mà cũng

là quá khứ được lặp lại thành thân thuộc: “Mùa cá bột lại đến. Bây giờ con sông nhỏ

chảy qua bãi Thè Le bỗng rộng rãi hẳn ra, phù sa đỏ ngầu, dòng nước sủi bọt chảy

về xuôi vội vã. Công việc trong thôn bỗng trở nên bận rộn một cách hứng thú. Người

ta bắt đầu bàn với nhau về chuyện con bột, nuôi bột và mọi công việc khác từ nhổ cỏ

đay, dận xen vừng ba tháng vào những chỗ đay bị muội hay việc gieo mạ mùa vào

ngày tua rua mọc…” [9, tr. 70]. Có những mảnh ghép tồn tại hai lớp thời gian đồng

hiện, thời gian hiện thực đan xen với thời gian hoài niệm trong Hương cỏ mật,

Thung lũng cò, Ráng đỏ mở ra chiều liên tưởng cho người đọc. Cuộc sống hiện ra

trong trang viết của Đỗ Chu cho thấy một tâm hồn nâng niu sự sống trong từng biểu

hiện tinh tế, nhỏ nhặt của nó.

Điều cốt yếu của văn học vẫn là vấn đề về con người. Tất cả vì con người, làm

sao để con người được tự do, hạnh phúc, được an ủi, được củng cố niềm tin, thắp

sáng hi vọng. “Mỗi người chúng ta đều có thể là một ví dụ đẹp trong một đội ngũ rất

đẹp. Mỗi ngày chúng ta đang sống là một ngày đầy ý nghĩa trong một cuộc đời rất

dài ý nghĩa” [11, tr. 107]. Mong mỏi chuyển đạt trên trang viết hạnh phúc bình dị của

con người là con đường nghệ thuật theo đuổi suốt một đời cầm bút của Pauxtôpxki.

Trong Hạt cát, nhà văn cho rằng chức năng cao cả của nghệ thuật đôi khi chỉ là mang

đến niềm vui nho nhỏ cho con người. Quan niệm nghệ thuật của Đỗ Chu cũng không

nằm ngoài mục tiêu tất cả vì hạnh phúc của con người. Đó là cốt lõi của nghệ thuật.

Ông tự nhận xét về Phù Sa: “Một số truyện trong đó đằm thắm, có duyên, mang lại

một ít niềm vui bé nhỏ cho người đọc” [33, tr. 71].

Như vậy, ở mảng truyện ngắn trữ tình, một số nhà văn Việt Nam đã có sự gặp

gỡ với Pauxtôpxki trên hành trình gom góp những mảy bụi quý, dâng tặng cuộc đời

những đóa hồng vàng có hương thơm bền bỉ cùng tháng năm – hương thơm của tình

yêu và ước vọng. Pauxtôpxki từng nói bản thân nghề văn đã là một công việc rất đẹp

và cao quý bởi “các nhà văn làm việc vì con người” [35, tr. 23]. Tất cả những gì tốt

lành nhất nhà văn tích lũy được, họ đều hào phóng trao tặng cuộc đời.

Không thể phủ nhận sự ảnh hưởng sâu rộng của văn học Xô viết đến văn học

Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử nhất định, ở một số nhà văn nhất định, trong

một giai đoạn sáng tác nhất định. Bên cạnh sự tác động từ lịch sử, thời đại, văn hóa,

có thể nói giữa Pauxtôpxki và một số nhà văn Việt Nam có sự gặp gỡ của tâm hồn

với tâm hồn trên hành trình chắt chiu cái đẹp. Nếu như tại Nga, những người yêu văn

học vẫn hành hương về miền Mêsora như tìm về một “miền đất hứa” thì tại Việt

Nam, những trang viết tươi tắn nắng ấm, lấp lánh hi vọng của Pauxtôpxki vẫn tiếp tục

cuộc hành trình đến với với tâm hồn Việt với một sức hút kì lạ.