BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN QUANG MINH
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
THƠ QUANG DŨNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành công trình này, trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn đến quí thầy cô phòng Khoa
học công nghệ Sau đại học, các thầy cô Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh đã giảng dạy tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua.
Tôi xin gửi lời tri ân đến gia đình, người thân, bạn bè và BGH Trường Trung học Kỹ
thuật công nghiệp Đồng Nai đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi học tập.
Cuối cùng, tôi vô cùng cảm ơn và kính yêu thầy hướng dẫn - TS Nguyễn Hoài Thanh,
người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Kính chúc thầy và gia
3
đình thật nhiều sức khỏe và hạnh phúc.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 3
MỤC LỤC .................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 6
2. Giới hạn đề tài ................................................................................................................. 7
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 9
4. Phương phấp nghiên cứu ............................................................................................. 20
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 21
6. Kết cấu của luận văn .................................................................................................... 21
CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH ......................................................................... 22
1.1. Cái tôi lãng mạn ......................................................................................................... 22
1.2. Cái tôi bình dị và hào hoa ......................................................................................... 30
1.3. Cái tôi lãng du, yêu tự do và tuổi trẻ ....................................................................... 34
CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI ............................ 39
2.1. Hình tượng quê hương, đất nước ............................................................................. 39
2.1.1. Hình tượng đất nước trong chiến tranh với khí thế lên đường ............................. 40
2.1.2. Hình tượng thiên nhiên đất nước hùng vĩ và diễm lệ ........................................... 47
2.1.3. Hình tượng quê hương tươi đẹp, gợi thương, gợi nhớ .......................................... 54
2.2. Hình tượng con người ............................................................................................... 61
2.2.1. Tượng đài bất tử về người lính vô danh ............................................................... 61
2.2.2. Con người trong tình yêu với vẻ đẹp tâm hồn ...................................................... 69
2.2.3. Hình tượng những con người đáng thương .......................................................... 73
CHƯƠNG 3: THỂ THƠ, NGÔN TỪ VÀ GIỌNG ĐIỆU ..................................... 78
3.1. Đặc điểm sử dụng thể thơ ......................................................................................... 78
3.1.1. Sử dụng linh hoạt các thể thơ và đóng góp ở thể bảy tiếng .................................. 78
3.1.2. Tính chất tự do hóa của thể thơ ............................................................................ 84
3.1.3. Sử dụng thủ pháp ngắt dòng và thủ pháp tạo điểm dừng ..................................... 89
3.1.4. Sự sáng tạo các yếu tố thanh điệu, vần và nhịp .................................................... 92
3.2. Đặc điểm sử dụng ngôn từ ........................................................................................ 95
3.2.1. Sử dụng thành công biện pháp tu từ trùng điệp .................................................... 95
3.2.2. Cách dùng động từ, từ cảm thán, từ gọi đáp, từ để hỏi ......................................... 97
3.2.3. Ngôn từ thơ Quang Dũng giàu chất kí ................................................................ 100
4
3.3. Giọng điệu thơ Quang Dũng ................................................................................... 102
3.3.1. Giọng hào hùng, tráng chí ................................................................................... 102
3.3.2. Giọng bâng khuâng, mơ hồ, phiêu diêu .............................................................. 105
3.3.3. Giọng buồn thương ............................................................................................. 107
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 115
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 122
5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã đi qua để lại dấu ấn không thể phai
mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ muôn triệu tấm lòng yêu nước, là môi trường thử
thách tinh thần chiến đấu ngoan cường bất khuất của dân tộc ta. Đó cũng là nguồn cảm hứng
lổn thu hút mọi nguồn nội lực của dân tộc. Trong “những năm đất nước có chung một tâm
hồn, có chung một khuôn mặt” ấy đã có biết bao nhiêu nghệ sĩ lên đường theo tiếng gọi thiêng
liêng của tổ quốc. Họ không chỉ cầm bút mà còn trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu. Nhiều người
trong số họ đã hy sinh trong tư thế người chiến sĩ: Thâm Tâm, Nam Cao, Trần Đăng, Lê Anh
Xuân, Nguyễn Thi... Sáng tác của họ đã làm nên một nền văn nghệ “xứng đáng đứng vào
hàng ngũ tiên phong của những nền văn học nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày
nay”.
Đứng chung trong đội ngũ những nhà thơ - chiến sĩ, Quang Dũng hiện lên như một
gương mặt riêng, một điểm nhấn của thơ chống Pháp. Có thể nói Quang Dũng là một trong số
những cây bút tiêu biểu có vị trí quan trọng trong nền thơ hiện đại những năm chống Pháp.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng là một việc làm cần thiết.
Trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại Quang Dũng là một hiện tượng đặc biệt. Ông nổi
tiếng từ rất sớm với những thi phẩm tuyệt tác: Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây, Đôi bờ... Riêng
đối với Tây Tiến, tác phẩm đã thành khúc tráng ca của những người lính hào hoa, lãng mạn,
sẵn lòng hiến cuộc đời cho tổ quốc.
Thế nhưng số phận của những bài thơ ấy cũng thăng trầm như chính cuộc đời của nhà
thơ. Một thời gian dài sau đó, do hạn chế của cái nhìn thời đại, các sáng tác của Quang Dũng
đã phải nhận những ý kiến áp đặt. Nhiều người ngại khi nói về Quang Dũng. Bản thân nhà thơ
cũng đã nhiều lần từ chối những lời mời đến nhà trường đọc thơ và nói chuyện về Tây
Tiến. Sáng tác của Quang Dũng bị lãng quên trên sách báo nhưng không lúc nào rời khỏi bộ
nhớ của biết bao thế hệ người đọc.
Cho đến thời gian gần đây, vấn đề thơ Quang Dũng đang được nhìn nhận lại. Đã có
nhiều nhà phê bình, nghiên cứu đánh giá cao sáng tác của Quang Dũng như một điểm sáng
của thơ kháng chiến chống Pháp (Lưu Khánh Thơ, Trần Mạnh Hảo). Cuộc thi bình thơ của tạp
chí Kiến thức ngày nay cũng thu hút khá nhiều bài viết về Tây Tiến. Nhiều người không ngần
6
ngại tôn vinh Quang Dũng lên vị trí hàng đầu của nền thơ kháng chiến nói riêng và nền thơ thế
kỉ XX nói chung.
Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm sao có những đánh giá xác đáng những đóng góp của
Quang Dũng trong lĩnh vực thơ ca cũng như trả lại cho nhà thơ vị trí đứng đắn trong tiến trình
thơ Việt Nam hiện đại.
Hiện nay bài thơ Tây Tiến đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa lớp 12 phổ
thông như một phần khẳng định tài năng và đóng góp của Quang Dũng. Cũng chính tác phẩm
này được khắc ghi trên đài tưởng niệm các liệt sĩ Tây Tiến ở Châu Trang (Hòa Bình). Dù vậy,
cho tới nay vẫn chưa có một công trình nào chuyên sâu về thơ Quang Dũng mà chỉ có những
nhận xét đánh giá về thơ Quang Dũng rải rác xuất hiện ở các bài báo, tạp chí phê bình. Cho
nên, đối với một nhà thơ tài năng, tâm huyết như Quang Dũng, chúng ta cần tiếp tục nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống, dựa trên những cơ sở lí luận chặt chẽ.
Vì thế chúng tôi chọn đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng với mong muốn góp
phần làm rõ những đặc sắc của thơ Quang Dũng trên cơ sở lí luận về thơ trữ tình, khẳng định
lại vị trí của Quang Dũng trên tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, góp phần cảm thụ và giảng dạy
tốt hơn thơ Quang Dũng trong nhà trường phổ thông.
2. Giới hạn đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thơ ca được coi là “tấm gương khúc xạ tâm hồn con người” nên nó có giá trị to lớn
trong việc phản ánh hiện thực thời đại, khám phá đời sống tinh thần con người. Nhưng trong
thực tế của đời sống văn học, ta thường thấy hiện tượng này: hầu như không có nhà thơ nào có
khả năng khái quát toàn bộ thời đại mình trong tất cả chiều kích không gian và thời gian.
Thường thì các nhà thơ dù lớn đến đâu cũng chỉ có một vùng đề tài ưa thích nhất và ông ta chỉ
có thể viết hay về những đề tài ấy mà thôi. Bước ra khỏi hệ thống đề tài ấy, ngòi bút nhà thơ
trở nên xơ cứng, tác phẩm trở nên nhạt nhẽo, thiếu sức sống. Mỗi đề tài lại gắn với một hệ
thống không gian, thời gian riêng, đòi hỏi một kiểu hình tượng, nhân vật riêng cùng với các
phương thức diễn đạt riêng như ngôn từ, thể loại, giọng điệu... Khi những yếu tố đó trong sáng
tác của một nhà thơ được tập hợp lại thành một thể thống nhất, có tính chỉnh thể, có cấu trúc
nội tại theo những nguyên tắc chung, thì chúng tạo thành thế giới nghệ thuật của cá nhân nhà
7
thơ. “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác
phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn
mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo các nguyên tắc tư
tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất, hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó phản
ánh các thế giới ấy” [31, tr. 352].
Như thế, thế giới nghệ thuật không đơn thuần là vấn đề hình thức mà trong tính chỉnh thể
của nó, hình thức thẩm mĩ đó luôn được thẩm thấu, chuyển hóa vào một nội dung thích hợp.
Thông qua thế giới nghệ thuật của một nhà thơ ta có thể phân biệt được chỗ sâu sắc, tư tưởng
nghệ thuật độc đáo của nhà thơ ấy với nhà thơ khác.
Với quan niệm như thế, chúng tôi đi vào khám phá thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng
qua các mặt: cái tôi trữ tình (cái tôi lãng mạn cách mạng, cái tôi bình dị và hào hoa, cái tôi lãng
du, yêu tự do và tuổi trẻ), hình tượng đất nước và con người, giọng điệu, ngôn ngữ và thể loại,
lấy đó làm cơ sở để đánh giá những cách tân về mặt nghệ thuật trong thơ Quang Dũng. Qua
việc khám phá thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng cũng góp phần khẳng định vị trí của
Quang Dũng trong thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng như trong toàn bộ thơ ca Việt Nam
hiện đại.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tất cả các bài thơ của Quang Dũng từ khi ông bắt
đầu sáng tác với tác phẩm đầu tay Chiêu Quân (1937) cho đến khi ông mất. Thơ Quang Dũng
chủ yếu được in trên các tập Mây đầu ô (Nxb Tác phẩm mới, 1986) và các tập Quang Dũng -
Tác phẩm chọn lọc (98), Tuyển tập Quang Dũng (96). Ở ba tập thơ này, chúng tôi thống kê
được 45 bài. Chúng tôi tìm được hai bài thơ khác trên các tư liệu báo chí và mạng internet
là Giấc mơ của Bạch (Nguyễn Bao sưu tầm, báo Văn nghệ tháng 12 năm 1991) và Nhà
mới (Nguyễn Huy Thông sưu tầm trên mạng http://evan.com.vn đăng ngày 15.07.2005).
Người viết cho rằng đây là những tư liệu đáng tin cậy nên hai bài thơ trên được đưa vào đối
tượng nghiên cứu của luận văn.
Ngoài ra, trên tạp chí Thời tập, số 20, ra ngày 14.02.1975 chúng tôi cũng tìm được sáu
bài thơ khác “chưa từng phổ biến” của Quang Dũng là Buồn êm ấm, Mưa, Suối tóc, Đêm Việt
Trì, Khúc Chiêu Quân và Tiễn bạn (xem phụ lục). Trong số đó, Khúc Chiêu Quân được in
trong Tuyển tập Quang Dũng với tựa đề Chiêu Quân, năm bài còn lại đều không thấy xuất
hiện trên các tư liệu về Quang Dũng. Tuy nhiên vì đây là tài liệu trong nền văn nghệ miền
8
Nam trước năm 1975 và cũng do điều kiện thời gian có hạn, chúng tôi chỉ đưa vào phụ lục để
người đọc có điều kiện tìm hiểu thêm.
Tập hợp lại, chúng tôi có 47 bài thơ Quang Dũng. Đó là con số ít ỏi đối với một đời thơ
dày dặn và có chỗ đứng riêng như Quang Dũng. Nhưng nó cũng đủ để làm nên một Quang
Dũng với phong cách độc đáo, một giọng điệu không thể nhầm lẫn với các nhà thơ cùng thời.
3. Lịch sử vấn đề
Quang Dũng có những sáng tác từ trước năm 1945, nhưng chỉ đến năm 1948 ông
mới “thành công đến kì quái” (Trần Mạnh Hảo) ở bài thơ Tây Tiến. Đó cũng là lúc ông thực
sự được giới nghiên cứu phê bình văn nghệ chú ý tới. Từ đó đến nay, đã có hàng chục bài viết
về hiện tượng thơ Quang Dũng, trong đó có nhiều cây bút tên tuổi, có uy tín như Xuân Diệu,
Hoài Thanh, Vân Long, Trần Lê Văn, Mai Hương, Lưu Khánh Thơ, Hoài Việt... Ngoài ra
không thể không kể đến những bài viết của các cây bút trong văn nghệ miền Nam trước năm
1975 như Viên Linh, Viễn Di, Lê Hoàn Tân, Vũ Bằng, Xuân Vũ, Trần Hoài Thư... Những
đánh giá về thơ Quang Dũng cũng phong phú, phức tạp và trải qua nhiều bước thăng trầm như
chính cuộc đời nhà thơ vậy.
Nhà nghiên cứu Hoài Thanh trong Nói chuyện thơ kháng chiến (1951) đã dành hẳn 40
dòng để viết về bốn câu thơ trong bài Tây Tiến. Ông cho rằng bài thơ tiêu biểu “mộng anh
hùng” rất lạc lõng trong thời đại mới: “Một trong những chỗ ẩn náu quen thuộc của ta trong
thời còn vào dĩ vãng là cái mộng anh hùng (...)Một chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến viết:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nhất định là anh chiến sĩ Tây Tiến đã nhìn bạn mình qua một bức màn mộng ảo. Sự thực
đơn giản hơn nhiều (...) Anh bộ độ, anh du kích, anh dân quân, anh cán bộ hàng vạn hàng
triệu người đang chiến đấu cho nền độc lập của quốc gia anh hùng một cách rất đời thường,
rất đơn giản, làm gì có vẻ ghê rợn như trong mấy câu thơ trên này” [85, tr. 235]. Dẫn lại lời
của Tố Hữu, Hoài Thanh gọi đó là: “Bệnh yêng hùng theo giọng hát tuồng cổ miền
trong” [85, tr. 235]. Và hình ảnh như thế “nhất định không phải là hình ảnh chân thật của
9
cuộc kháng chiến Việt Nam” [85, tr. 243]. Bởi vì những bài thơ như Tây Tiến của Quang
Dũng “đều bắt nguồn trong một mối chung tức là con người cá nhân, trong cái tôi lẻ loi, nhỏ
bé của con người tư sản, tiểu tư sản cũ” [85, tr. 244].
Nhà thơ Xuân Diệu có lẽ là người “đặt vấn đề” về thơ Quang Dũng sớm nhất. Trong bài
viết Tiếng thơ (Tạp chí Văn nghệ, số 11 - 12, tháng 4.1949), ông đã dành 33 dòng viết về Tây
Tiến. Đồng tình với những ý kiến cho rằng thơ Quang Dũng tiêu biểu cho chất “tiểu tư
sản”, Xuân Diệu viết: “Bài thơ phiêu lưu tài tử, anh hùng cá nhân; con người ở trong này
khiếp sợ trước thiên nhiên, dao động trước gian khổ, sợ cây rừng, sợ hổ, sợ thác núi, sợ ốm
đau, sợ chết,...” Bên cạnh đó, Xuân Diệu đã có những phát hiện quan trọng về giọng điệu
của Tây Tiến. Ông nhận định: “Bài thơ hơi buồn, có đoạn buồn lắm, tứ thơ không mới, có
những câu văn hoa. Nhưng toàn bài rung rung như dây đồng. Đọc lên, trong miệng còn ngân
âm nhạc”. Ở một đoạn khác, nhà thơ Xuân Diệu khẳng định: “Bài thơ chỗ thì đẹp, chỗ thì
ghê, man rợ rồi lại êm ái; đoạn sau cũng đầy tiếng từ ly. Những tên đất Sài Khao, Mường Lát,
Pha Luông ngân đọng. Đến cái tên Sầm Nứa thì câu thơ buồn quá mà hay quá. Hồn đây là
tâm hồn người sống nghĩ chuyện bên Lào” [19, tr. 4].
Nhìn chung các ý kiến bàn về thơ Quang Dũng trong giai đoạn này đều thiên về phê
phán tính chất “tiểu tư sản”, “mộng anh hùng” trong thơ Quang Dũng. Bài thơ Tây Tiến trở
thành tiêu biểu cho cái “buồn rớt”, “mộng rớt” (Hoài Thanh), đã có từ thời Thơ mới. Đó là
điều dễ hiểu bởi vì trong thời kì đầu của cuộc vệ quốc vĩ đại, Đảng yêu cầu văn nghệ sĩ phải
biết “hướng về đại chúng” với yêu cầu về một mô hình thuần nhất cái tôi trữ tình, nhằm nói
lên tiếng nói chung của cộng đồng, thể hiện tinh thần chung của thời đại cho nên Tây Tiến và
những bài thơ xa lạ với dòng chủ lưu khác đều khó lòng được thừa nhận. Sự lệch hệ chuẩn
thẩm mỹ đã làm nên số phận bất thường của bài thơ cũng như của tác giả của nó. Cái nhìn ấy
đối với thơ Quang Dũng cũng như đối với một số hiện tượng tìm tòi khác trong thơ hồi đầu
kháng chiến (Nguyễn Đình Thi, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Chính Hữu) là một điều đáng tiếc,
nhưng cũng không lạ và có thể nói mang tính tất yếu.
Điều đặc biệt là sau một thời gian dài phải hứng chịu những ý kiến khắt khe, thơ Quang
Dũng lại trở nên khá nổi tiếng trong giới phê bình văn nghệ miền Nam trước năm 1975. Chỉ
tính riêng tạp chí Thời tập xuất bản tại Sài Gòn ngày 14.02.1975 đã có hàng chục bài viết về
Quang Dũng. Tên tuổi của tác giả Tây Tiến còn xuất hiện trong các bài viết của nhà văn Vũ
Bằng như Tất cả sự thật về nhà thơ Trần Quang Dũng, Thương nhớ mười hai, trong tập Hồi
kí của nhạc sĩ Phạm Duy (chương 13 và 30).
10
Trong bài phỏng vấn Tất cả sự thật về nhà thơ Trần Quang Dũng, nhà văn Vũ Bằng đã
ghi lại tất cả những gì đẹp đẽ nhất về nhà thơ Tây Tiến: “Trần Quang Dũng thuộc vào cái
hạng nghệ sĩ đa tài như Văn Cao vậy. Anh chơi Hamonica, gầy Guitare hawaienne, đánh đàn
cò “không chê được”(...). Quang Dũng hát cải cách, cải lương hay, nhưng cái đó chưa trội
bằng cái tài ngâm thơ độc đáo của anh” [5, tr. 114]. “Quang Dũng là một người rất yêu đời
mà lại nghịch ngợm, nhưng nghịch ngợm một cách duyên dáng ý nhị. Có thấy anh nghịch
ngợm, đùa cợt, anh em mới biết tại sao Quang Dũng đi đến đâu trò chuyện người ta mê anh
đến đấy”. “Anh yêu đời và yêu tất cả mọi người, nhất là các anh em văn nghệ, không kì thị bất
cứ ai” [5, tr. 116].
Những nét đặc sắc của thơ ca Quang Dũng đã bước đầu được các nhà nghiên cứu tìm tòi,
đánh giá. Trong bài viết Quang Dũng - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Viên Linh khẳng
định: “Ông trở thành nhà thơ kháng chiến nổi bật, một nhà thơ đặc biệt có tiếng bởi sự truyền
khẩu, bởi những bài thơ chép tay và chưa từng có thi tập nào được xuất bản. Thơ ông vừa hào
hùng, vừa lãng mạn, thông minh và hào hoa, lại rất giản dị và thật” [50, tr. 8]. Lê Hoàn Tân
viết: “Quang Dũng là nghệ sĩ say mê cái đẹp, có trái tim nhạy cảm, biết rung động một cách
tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người. Đó là một thi sĩ mang cốt cách lãng tử
nhưng lại rất chân thật, giản dự. Viễn Di cũng cho rằng: “Nói đến Quang Dũng, người ta
nghĩ ngay đến những chiến tướng với tài làm thơ trên yên ngựa. Người ta phải cảm nhận
không khí thâm u của núi rừng. Người lính chiến cô độc đi theo tiếng gọi núi sông. Nhưng một
mặt khác bàng bạc khắp thơ ông là nỗi nhớ khôn khuây. Người từ giã ra đi nhưng còn trong
tâm tư một tình thương đầy ắp” [50, tr. 56].
Như thế, cuộc đời và thơ ca Quang Dũng đã được nghiên cứu khá kĩ và khá “sâu” trong
văn nghệ miền Nam. (Chẳng hạn có tác giả gọi Quang Dũng là Trần Quang Dũng. Điều này
khá xa lạ với người nghiên cứu miền Bắc. Tuy nhiên, đọc kĩ lại những tác phẩm của Quang
Dũng, ta thấy tập kí sự “Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt” [100; 85], tác giả
lấy bút danh Trần Quang Dũng. Như vậy, cách gọi Trần Quang Dũng của người nghiên cứu
trong văn nghệ miền Nam không phải là không có cơ sở). Những đặc điểm quan trọng của thơ
Quang Dũng cũng đã bước đầu được làm rõ. Nhiều tác giả đã chỉ ra được ở nhà thơ một con
người hồn hậu, chân thành, yêu hòa bình và say mê cái đẹp. Tuy nhiên, đây là những bài viết
11
trong nền văn nghệ của chế độ cũ nên bản thân người viết cũng có đôi chút băn khoăn. Theo
chủ kiến của người viết, nếu sàng lọc kĩ lưỡng, ta vẫn có thể nhận thấy những ý kiến chân
thành và chính xác về thơ Quang Dũng.
Từ năm 1986, sau khi tập Mây đầu ô ra đời, số bài viết về thơ Quang Dũng nhiều hơn.
Cái nhìn về Quang Dũng cũng “thoáng” hơn. Người ta bất chợt bắt gặp ở Quang Dũng vẻ đẹp
tiêu biểu của thời đại “một đi không trở lại”.
Ngay ở tập thơ này, Trần Lê Văn đã dành hẳn 16 trang viết để “Nghĩ về thơ bạn”. Bài
viết có giá trị tổng hợp những đặc điểm về con người và thơ ca Quang Dũng, đồng thời cũng
là những hồi ức kỉ niệm về tình bạn thắm thiết giữa tác giả và nhà thơ Tây Tiến. Ông nhận
định: “Đến Tây Tiến Quang Dũng mới bắt đầu tự khẳng định được mình, bắt đầu sự bộc lộ
hình thành một phong cách thơ, một diện mạo thơ” [27, tr. 8]. Ông cũng nhận thấy ở Quang
Dũng “Thơ có dáng hơi cổ kính nhưng vẫn đậm vị quê hương và có nhịp khẩn trương của đời
mới” [27, tr. 9].
Sau khi Quang Dũng mất Trần Lê Văn còn dành thời gian và tâm huyết để sưu tầm tuyển
chọn và giới thiệu thơ Quang Dũng trong hai cuốn Quang Dũng -Tác phẩm chọn lọc (1988)
và Tuyển tập Quang Dũng (1999). Công phu nhất là Tuyển tập Quang Dũng với 407 trang,
Trần Lê Văn đã sưu tầm được 34 bài thơ và 14 tác phẩm văn xuôi. Nhà văn đã viết về người
bạn tâm giao của mình: “Quang Dũng là người tài hoa “pha nghề thi hoa đủ mùi ca ngâm”.
Anh làm thơ, viết văn xuôi, vẽ tranh (...). Vì thế, thơ anh thường có cả vẽ và nhạc”. “Đó là một
con người, một nghệ sĩ lạc quan về cơ bản và có tình cảm nồng nhiệt đối với đất nước nghìn
xưa cũng như đối với đất nước ngày nay “ [96, tr. 14].
Cùng với Trần Lê Văn, Hoài Việt là người đã bỏ ra nhiều công phu để sưu tầm, biên
soạn và giới thiệu về Quang Dũng. Cuốn Quang Dũng - Người và thơ là một công trình
nghiêm túc và có chất lượng về nhà thơ Quang Dũng. Trong tập sách, Hoài Việt đã sưu tầm
được nhiều bài nghiên cứu, phê bình và hồi ức tưởng niệm của các tác giả Ngô Quân Miện,
Thanh Châu, Hoàng Như Mai, Lê Hùng Lâm... Bản thân Hoài Việt cũng dành một số trang
viết để Hồi ức về một con người. Ngoài ra tập sách còn cho đăng tải một số bài thơ, bài văn và
bút tích của Quang Dũng, trong đó có hai bài thơ thuộc loại sớm nhất trong thơ văn Quang
Dũng là Chiêu Quân (1937) và Cố Quận (1940); một tập kí sự mới được sưu tầm có nhan
đề Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt (1952 - Bút danh Trần Quang Dũng). Đây
thực sự là những tư liệu quý giá đối với những người làm công tác sưu tầm nghiên cứu về nhà
thơ Quang Dũng.
12
Vũ Tiến Quỳnh cũng có hai tập sách Phê bình - Bình luận văn học Quang Dũng -
Nguyễn Mỹ - Xuân Quỳnh (Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, 1991) và Phê bình - Bình luận văn học
- Hồng Nguyên - Chính Hữu - Quang Dung - Trần Hữu Thung - Hoàng Cầm (Nxb Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh, 1998). Đây là hai công trình sưu tầm biên soạn dành cho học sinh
phổ thông, nội dung không khác với các cuốn sách của Trần Lê Văn và Hoài Việt.
Những năm gần đây, hiện tượng Quang Dũng được chú ý trở lại. Đã có rất nhiều bài phê
bình, nghiên cứu đánh giá cao sáng tác của Quang Dũng: Quang Dũng (1921 - 1988) (Mai
Hương), Bài thơ Tây Tiến - Tượng đài bất tử về người lính vô danh (Phong Lan), Sau mười
năm đọc lại Mây đầu ô (Vân Long), Bình dị và hào hoa: Quang Dũng (Phong Lê), Thơ những
năm kháng chiến chống Pháp qua phê bình văn học (Lưu Khánh Thơ)... Các bài viết của
Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Văn Long, Vũ Tuấn Anh, Đặng Anh Đào,
Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Lai Thúy cũng ít nhiều nhắc đến sáng tác của Quang Dũng.
Nhìn chung, nét nổi bật trong các bài viết về thơ Quang Dũng trong giai đoạn này là tính
chất “giải oan” cho con người và thơ ca Quang Dũng. Xã hội đã đổi mới. Chiến tranh đã đi
qua. Người ta có thời gian nhìn nhận lại những gì thuộc về quá khứ. Vì thế, ngay từ khi Mây
đầu ô xuất hiện, Trần Lê Văn đã có những ý kiến “bênh vực” cho thơ bạn. Nói về cái buồn
trong thơ Quang Dũng, Trần Lê Văn đã không ít lần phản đối lại quan niệm cho rằng thơ
Quang Dũng bi lụy, tiểu tư sản, “làm nhụt chí khí của quân lính”. Ông viết: “Đã có lúc người
ta cho rằng bài thơ Tây Tiến khống có tác dụng tích cực, vì nó buồn, nó tô đậm cái gian khổ,
cái tổn thất. Mà nói đậm đến cái gian khổ cái tổn thất là “làm nhụt nhuệ khí của quân dân
ta”. Sự thật, trải qua bao đời, biết bao quân dân ta đã “cảm tử cho tổ quốc quyết sinh” có bao
giờ nhụt nhuệ khí đâu?” [96, tr. 24].
Nói về chất lãng mạn trong thơ Quang Dũng mà một thời đã bị Hoài Thanh cho là “buồn
rớt”, “mộng rớt” [85, tr. 244], Trần Lê Văn có nhận định: “Quang Dũng và những người
cùng lứa tuổi với anh đi theo Cách mạng, vào làng thơ Cách mạng; dù có cơn gió lãng mạn
đuổi theo thì cũng là gió thuận, gió mạnh, gió đẩy cánh buồm. Cái lãng mạn ấy - trong phần
tốt đẹp của nó - dễ gặp, đễ hòa nhập với lãng mạn Cách mạng” [96, tr. 32].
Đã có rất nhiều bài viết đã đánh giá cao vị trí của thơ Quang Dũng trong nền thơ kháng
chiến. Các tác giả Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức cho rằng: “Cảm hứng
yêu nước nồng nàn của các nhà thơ trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm được thể hiện sâu
13
sắc đằm thắm trong nhiều bài thơ như đỉnh cao mà suốt cuộc đời thơ sau này không dễ vượt
qua được. Đó là trường hợp “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cầm”, “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi...”[58,tr. 46].
Còn Phan Huy Dũng nhận thấy ở bài thơ Tây Tiến “Lời tâm nguyện của một thế hệ
thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu. Bài thơ để lại
dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử thơ ca dân tộc” [15, tr. 45].
Tóm lại, giai đoạn từ 1986 đến nay là thời kì hơn hai mươi năm đổi mới. Trong điều kiện
văn học trở về cuộc sống bình thường, những đánh giá cực đoan một thời đối với Quang Dũng
và bài thơ Tây Tiến bị bỏ lại sau lưng. Tác phẩm của Quang Dũng được giới thiệu trở lại với
bạn đọc. Vị trí của Quang Dũng trong “làng” thơ kháng chiến được khẳng định. Có nhiều bài
viết về Quang Dũng trên các sách báo, tạp chí, mạng Internet. Đó là một thuận lợi không nhỏ
cho quá trình nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng của tác giả luận văn.
Điểm lại lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ Quang Dũng, chúng tôi chia làm ba hướng tiếp
cận chính như sau:
3.1. Hướng hồi ức, tưởng niệm về con người và cuộc đời Quang Dũng
Thơ Quang Dũng gắn chặt với cuộc đời Quang Dũng - một cuộc đời có nhiều thăng trầm
và gắn với nhiều giai thoại. “Giai thoại về anh nhiều hơn thơ anh” [100, tr. 8]. Cho nên, hồi
ức tưởng niệm về Quang Dũng chính là một cách tiếp cận độc đáo đối với thơ ông.
Theo hướng này có các bài viết của Hoài Việt, Ngô Quân Miện, Trần Lê Văn, Thanh
Châu, Hoàng Như Mai, Lê Hùng Lâm, Lê Vạn Thắng, Nguyễn Đình Phúc ... Hầu hết các tác
giả đều gợi nhớ những kỉ niệm nho nhỏ đối với Quang Dũng để rồi khẳng định một tính cách,
một vẻ đẹp trong tâm hồn hay thơ ca Quang Dũng.
Trong Tuyển tập Quang Dũng, Trần Lê Văn đã dành một phần lời giới thiệu dài 44 trang
để ghi lại những kỉ niệm về tình bạn giữa hai người, bình giảng các bài thơ của Quang Dũng.
Tác giả tập trung tìm hiểu về quê hương, gia đình, tiểu sử, cuộc đời Quang Dũng, từ đó đi đến
những nhận xét sâu sắc về con người và thơ ca Quang Dũng. Theo ông, “Quang Dũng là
người tài hoa”, “Những ai quen biết Quang Dũng đều biết anh là người vui tính, giỏi hài
hước, một thứ hài hước thông minh và đôn hậu” [96, tr. 36]. “Ở Quang Dũng, ngoài cái tính
tài tử, hào hoa của người Hà Nội, còn có pha tạp địa phương tính của nhiều quê hương” [96,
tr. 36].
14
Hoài Việt trong cuốn Quang Dũng - Người và thơ đã dành ba trang viết để “Hồi ức về
một con người”. Ông chú ý ở Quang Dũng “dáng vóc trượng phu lừng lững, hiền lành đến
nhút nhát, hóm hỉnh đến hồn nhiên” [100, tr. 9]. Đồng thời Quang Dũng cũng là người tài
năng nhiều mặt. Quang Dũng “kể chuyện thì cứ là cả làng chảy nước mắt. Nhưng không chỉ
có kể chuyện, đưa ácmônica lên mồm, hay ngón tay bật vào dây ghita, Quang Dũng cũng dễ
làm cho người ta say lắm! Nhất là các mẹ, các chị mà nghe anh ca sáu câu vọng cổ thì cứ gọi
là khăn hồng đẫm lệ chứa chan “ [100, tr. l l]. Theo tác giả, “Quang Dũng là người học và
đọc khá nhiều của phương Tây mà không dứt cội nguồn, vẫn trở về cội nguồn, bởi từ cội
nguồn mà vun đắp nên anh” [100, tr. l0].
Trong bài viết Quang Dũng - Người thơ, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cảm nhận ở
Quang Dũng “Con người quá thừa chất lãng mạn và lòng chân thật” [76, tr. 131]. Ông đã kể
lại những kỉ niệm đẹp giữa mình và nhà thơ Quang Dũng để hiểu ra rằng: “Có những người
lại chân thật như là trẻ thơ. Chân thật đến mức có thể gọi là dại dột. Vì họ là thi nhân, người
thơ. Quang Dũng là một người như thế!” [76, tr. 131]. Từ đó ông khẳng định: “Có lẽ, cái gốc
lớn nhất của tài năng Quang Dũng là ở đó chăng; chân thực hết mực với lòng mình. Chân
thực tế ra là cả một bản lĩnh lớn lắm. Cho nên thơ cứ trong suốt mà gợi bao cảm nghĩ bồi
hồi” [76, tr. 134].
Giáo sư Hoàng Như Mai cũng có rất nhiều kỉ niệm về Quang Dũng. Qua những lần gặp
gỡ, những câu chuyện, nhà nghiên cứu nhận thấy ở con người và thơ ca Quang Dũng
“cái chất Quang Dũng'“ rất đặc biệt: “ Tôi cho rằng anh có một tình yêu đời, yêu người lớn
lao, có thái độ sống trượng phu (từ này với Quang Dũng đúng thật)” [99, tr. 84].
Trong bài viết Quang Dũng - Con người hồn hậu, ngòi bút tài hoa, tác giả Ngô Quân
Miện lại chú ý tới một vẻ đẹp khác trong người thơ Quang Dũng. Theo ông Quang Dũng
không chỉ là một tài năng đa dạng, có tâm hồn lãng mạn, mộng mơ mà còn là “một tâm hồn
nghệ sĩ thuần hậu, đầy tính dân dã”. “ Đi bộ đội, đi cống tác, đi sơ tán, đi viết văn, đến đâu
anh cũng hòa hợp ngay với những chòm xóm, với người quê, cảnh quê, say sưa hít thở cái
không khí thôn dã, sống cái tình đồng ruộng chân mộc” [99, tr. 65].
Nhìn chung, thông qua những hồi ức kỉ niệm về cuộc đời và con người Quang Dũng, các
nhà nghiên cứu đã tập trung làm nổi bật những phẩm chất của Quang Dũng, vừa tài hoa, lãng
15
mạn, tráng chí, vừa chân thật, bình dị, gắn bó với làng quê, đồng ruộng. Chính những nét tính
cách độc đáo của Quang Dũng là cứ liệu quan trọng để tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ
Quang Dũng.
3.2. Hướng bình giảng, phân tích thơ Quang Dũng
Theo hướng này, các nhà nghiên cứu thường tập trung vào tác phẩm đặc sắc nhất và
cũng là thành công rực rỡ nhất của Quang Dũng - Tây Tiến. Hầu hết các tác giả đều khẳng
định qua bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng được “tượng đài bất tử về người lính vô
danh” (Phong Lan), hay thể hiện được hình ảnh người lính mang cốt cách học sinh, sinh viên
Hà Nội: hào hoa, lãng mạn, coi thường hiểm nguy, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc (Nguyễn Đăng
Mạnh, Trần Đình Sử....).
Các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến bút pháp hiện thực, kết hợp với cảm hứng lãng mạn
trong Tây Tiến. Viết về cái chết của người lính trong Tây Tiến, Đặng Anh Đào cho rằng
“Đó là sự thật viết bằng máu của người lính.... Bởi vậy, nỗi buồn lan tỏa từ bài thơ mang
chiều kích khác thường. Khúc hát tang lễ trở thành tiếng gầm, khúc độc hành của dòng sông
hoang dại” [15, tr. 64].
Những đặc sắc về thanh điệu của Tây Tiến cũng được khẳng định. Ngô Văn Giá cho
rằng “bài thơ đã tạo nên được hình tượng nhạc điệu hoàn chỉnh”. Lưu Khánh Thơ
viết: “nhạc điệu làm nên cái riêng thật đặc sắc quyến rũ của Quang Dũng, và do thế có sức
quyến rũ làm say người đọc”.
Cùng với Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây là tác phẩm nhận được sự quan tâm sâu sắc của
người đọc. Tiêu biểu trong số đó là lời bình của Giáo sư Hoàng Như Mai về thi phẩm đặc sắc
này. Ông nhận thấy: ““Mắt người Sơn Tây là một tình tự dân tộc trong một thời điểm lịch sử
đặc biệt mà những lớp người sinh sau đẻ muộn chỉ được đón nhận như “vang bóng một thời”
cũng đủ để bồi hồi xúc động” [76, tr. 283].
Mảnh đất Sơn Tây với đồng Bương Cấn, núi Sài Sơn, dòng sông Đáy thơ mộng trong
thơ Quang Dũng đã để lại những cảm xúc thật đẹp cho giáo sư Hoàng Như Mai. Vì thế, ông
cho rằng: “Với những câu thơ này, thi sĩ Quang Dũng xứng đáng được ghi trong tiểu sử: thi sĩ
Sơn Tây. Nếu như cái gì rồi cũng đổi thay, sống cũng có ngày cạn, đá rồi cũng mòn, thì Sơn
Tây còn lại mãi với cánh đồng Bương Cấn, đứng trên núi Sài Sơn, trông xuống vàng óng lúa
vàng (...) của thơ Quang Dũng” [76, tr. 248].
16
Ngoài ra, tác giả Hoài Việt cũng có một bài bình về Không đề, Châu Hồng Thủy viết
về Đêm Bạch Hạc, Nguyễn Bao sưu tầm và giới thiệu Giấc mơ của Bạch; Trần Lê Văn, Vân
Long cũng rải rác viết về Những làng đi qua, Mây đầu ô, Quán nước. Ở Không đề, Hoài Việt
nhận thấy “đó là một bài thơ đẹp, một bài thơ thật chân thực, có thể coi là một trong những
bài thơ tình sáng giá của vườn thơ trữ tình Việt Nam” [99, tr. 20].
Châu Hồng Thủy cảm nhận ở Đêm Bạch Hạc “Một đêm thoáng qua trên đường đời,
đêm mất ngủ, thao thức lắng nghe âm thanh của thiên nhiên, muốn hoà tâm hồn với thiên
nhiên. Đêm Bạch Hạc là thơ lắng nghe và suy tưởng. Một đêm để lại cảm giác bâng khuâng
lúc chia tay, để lại một nỗi nhớ càng mơ hồ, mênh mang” [100, tr. 8].
Nhà thơ Vân Long đã tập trung khám phá sâu sắc Những làng đi qua để đi đến kết
luận: “Những làng đi qua đọc lên có phong vị một bài hành. Đặc biệt Quang Dũng đã dùng
những âm thanh “khổ độc”, dùng nhiều vần trắc để nói sự gian lao, vất vả thời kì đầu kháng
chiến” [56, tr. 49].
Các bài phê bình về tác phẩm thơ Quang Dũng chưa thật phong phú. Ngoại trừ trường
hợp Tây Tiến, không có nhiều bài viết về các tác phẩm khác của Quang Dũng. Tuy nhiên,
thông qua việc cảm nhận, thẩm bình một số tác phẩm cụ thể của Quang Dũng, các nhà nghiên
cứu đã khai thác cặn kẽ, chú ý tìm tòi ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ, từ đó phần nào làm nổi bật
lên những vấn đề nội dung cũng như hình thức thơ Quang Dũng.
3.3. Hướng đánh giá, nhận xét chung về thơ ca Quang Dũng
Hướng tiếp cận này không đi vào từng tác phẩm cụ thể mà nhìn nhận, đánh giá chung
toàn bộ những sáng tác của Quang Dũng. Theo hướng này có một số bài nghiên cứu tiêu biểu
của Trần Lê Văn, Hoài Việt, Vân Long, Mai Hương, Ngô Quân Miện, Phong Lan, Nguyễn
Văn Long...
Tác giả Vân Long trên tạp chí Văn học số 1. 1997 đã cho đăng tải bài viết Sau mười năm
đọc lại Mây đầu ô. Bài nghiên cứu tập trung đánh giá toàn diện, nhiều mặt thơ Quang Dũng từ
giọng điệu, kết cấu đến cách sử dụng chi tiết. Vân Long nhận thấy: “Có một sự giao lưu, hòa
nhập lẫn nhau giữa những yếu tố hiện thực khắc nghiệt với tâm hồn lãng mạn của Quang
Dũng. Yếu tố hiện thực ấy đã tràn vào tâm hồn lãng mạn của nhà thơ làm biến đổi chất lãng
17
mạn đó. Đồng thời, tâm hồn lãng mạn ấy lại phả lên hiện thực cái màn sương khói lung linh,
làm cho sự gian nan nhòe đi, có lúc thăng hoa thành những hình tượng kì vĩ độc đáo” [56, tr.
49].
Sau khi điểm qua các tác phẩm nổi tiếng của Quang Dũng như Mây đầu ô, Tây tiến,
Những làng đi qua, nhà thơ Vân Long đi đến nhận định: “Thơ Quang Dũng có cả một cái nền
khá cao, nhiều bài thơ khác hay không kém Tây Tiến là bao, chứng tỏ tác giả là một tài thơ
lớn, một tâm hồn lớn, không chỉ hội tụ đột xuất những yếu tố hay trong một bài. Xếp cùng Tây
Tiến là cả một dãy núi nhấp nhô Mây đầu ô mà Tây Tiến là đỉnh cao tiêu biểu” [56, tr. 51].
Nhà nghiên cứu Mai Hương trong bài viết Quang Dũng (1921 - 1988) cũng có những
nhận xét xác đáng về Quang Dũng. Mai Hương cảm nhận ở thơ Quang Dũng một bức tranh
quê với “vẻ đẹp nồng hậu” [35, tr. 40], mang đậm màu sắc của quê hương Việt Nam, một tâm
sự buồn lắng đọng qua các bài Quán nước, Thu, Chiều núi mưa rào, một vẻ đẹp chân
thực “không gân cốt mà thấm thía” [35, tr. 41] trong vui buồn của cuộc đời chinh chiến. Tổng
hợp lại, Mai Hương nhận định: “Ở Quang Dũng có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất
dân giã với tài hoa, tinh tế. Nhiều bài thơ anh, do vậy đạt đến độ chân tài” [35, tr. 41].
Giọng điệu thơ Quang Dũng là điều nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Châu Hồng Thủy
viết: “Thơ Quang Dũng có hai kiểu giọng. Một loại sống động, oai hùng, hào tráng như kiểu
Nhớ Tây Bắc. Một loại bâng khuâng, mơ hồ, phiêu diêu như Đêm Bạch Hạc. Hai giọng thơ
tưởng chừng đối lập lại tồn tại trong cùng một hồn thơ” [90, tr. 8]. Nguyễn Văn Long nhận
thấy ở thơ Quang Dũng “Một hơi thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại, một bút pháp vừa táo bạo
tung hoành, vừa tinh tế tài hoa” [52, tr. 68]. Hoài Việt lại cho rằng giọng điệu thơ Quang
Dũng là khẩu khí “con nhà võ làm văn”. Và “cũng như cái tinh thần thượng võ, cái khí, cái
thần của văn ấy được đúc nên từ lòng yêu thương gắn bó với xứ Đoài, đất đá ong, có bầu trời
nhiều mây trắng lắm” [100, tr. 9].
Tình cảm lưu luyến của Quang Dũng dành cho quê hương, gia đình cũng nhiều lần được
nhắc tới. Nhà văn Thanh Châu nhận định: “Thơ văn anh thoảng mùi thơm quê mùa. Đó là văn
phong một con người còn nhiều dây mơ rễ má gắn mình với gốc rễ ông cha ở nông thôn” [99,
tr. 70]. Ngô Quân Miện viết: “Trong thơ anh thấy trào lên tình yêu quê hương, sự gắn bó với
xóm làng, ruộng đồng, xứ sở” [76, tr. 12]. Đó cũng là ý kiến của Phong Lê trong bài viết Bình
dị và hào hoa Quang Dũng: “Chưa ai khác ngoài ông, cho đến hôm nay, kể cả Tản Đà, đã tạo
nên được một sự sống rung động đến thế cho xứ Đoài nhiều mây trắng quê ông. Con đường
18
qua cầu Giấy, lên Phùng, đến xứ Đoài, nhờ vào thơ ông mà trở nên thơ mộng hơn, mĩ lệ hơn,
lưu luyến hơn, dẫu đất đai quê hương thì nơi đâu cũng có một vẻ đẹp riêng” [48, tr. 326].
Trong một bài viết khác, Hồi ức về một con người, Hoài Việt chú ý đến một vẻ đẹp khác
của thơ Quang Dũng: “Nhìn anh kĩ, đọc anh kĩ mới nhận ra một chất nhân bản hồn hậu, nhân
bản Việt Nam. Quán bên đường thương một cô chủ, lên cơn sốt rét rung giường, Đôi mắt
người Sơn Tây nhớ cô gái bán cà phê phố Sêu, người đồng hương đồng khói, Hoa chanh ấy là
mùi của vườn ta” [99, tr. 10].
Chất lãng mạn này sinh trong hoàn cảnh thời đại đặc biệt của cái tôi cá nhân Quang
Dũng cũng được chú ý đến. Trên báo Văn học và Tuổi trẻ, Phạm Quốc Ca có bài Đôi điều nói
thêm về bài thơ Tây Tiến. Nhà nghiên cứu đã nhận thấy ở tác phẩm này và các bài thơ khác
của Quang Dũng vẻ đẹp “một đi không trở lại” của một lớp người đã đi vào lịch sử dân tộc:
“Có thể nói Tây Tiến cùng với Đôi mắt người Sơn Tây, Quán bên đường, là những bài thơ có
vài trò như cầu nối giữa cái tôi cá nhân hướng nội trong Thơ mới với cái tôi khách thể hóa
của thơ kháng chiến. Trên con đường ấy, thơ ông đã ghi được dấu ấn lịch sử tâm hồn của một
lớp người” [9, tr. 21]. Đó là những ý kiến sắc sảo, chân thành, giúp ngươi đọc có định hướng
đi vào khám phá thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng.
Thơ Quang Dũng rất “giàu” các địa danh. Đây cũng là yếu tố làm nhiều nhà phê bình
chú ý. Trên tạp chí Văn học số 2. 2003, Lưu Khánh Thơ có bài viết tiêu biểu Thơ những năm
chống Pháp qua phê bình văn học. Ông nhận thấy: “Quang Dũng vẫn là người rất tài hoa
trong việc ghi nhận và thổi vào sự sống cho các địa danh. Những tên đất riêng - thường là tên
Nôm - là quê ông, là những nơi ông đi qua - Những làng đi qua, thế mà vào thơ ông lại trở
thành một lưu luyến, một nhớ nhung đến thế, không chỉ là xứ Đoài mây trắng với Bương
Cấn, Sài Sơn, với Phủ Quốc, Ba Vì, Bất Bạt...mà còn là Sài Khao, Mường Hịch, Pha Luông,
Mai Châu, Châu Mộc” [87, tr. 33].
Đó cũng là ý kiến của Nguyễn Văn Long trong cuốn Văn học Việt Nam trong thời đại
mới: “Trong thơ Việt Nam chưa bao giờ các địa danh của mọi vùng miền lại xuất hiện nhiều
và phổ biến như ở thời kì này, thậm chí nó dày đặc trong một bài, một câu thơ, vậy mà hầu
như không có trường hợp nào gây ra sự phản cảm cho người đọc (...). Có lẽ Quang Dũng và
Tố Hữu là hai tác giả tiêu biểu nhất trong việc sử dụng thành công địa danh trong thơ” [54,
19
tr. 83].
Ngoài những ý kiến được đề cập ở trên, trong giai đoạn này còn có những công trình
đáng được ghi nhận về thơ Quang Dũng của các tác giả Nguyễn Viết Hùng, Trần Mạnh Hảo,
Hồng Thanh Quang, Nguyễn Huy Thông, Đỗ Lai Thúy... Từ các công trình nghiên cứu trên,
chúng tôi nhận thấy các nhà phê bình đã khai thác thơ Quang Dũng trên nhiều phương diện.
Họ đã có những đánh giá khách quan, nghiêm túc, toàn diện về Quang Dũng từ cuộc đời đến
thơ ca. Qua những bài nghiên cứu, người đọc có điều kiện nhận thức rõ vị trí của Quang Dũng
trong thơ ca kháng chiến chống Pháp và thơ ca Việt Nam hiện đại.
Những bài phê bình, nghiên cứu trên là cơ sở quan trọng cho chứng tôi khi thực hiện đề
tài luận văn. Dựa vào việc tiếp thu có chọn lọc những công trình của các nhà phê bình đi trước,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng để có những đánh giá
chân xác, toàn vẹn về hiện tượng thơ độc đáo và nhiều trắc ẩn này.
4. Phương phấp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, phân loại
Đề tài của chúng tôi đi vào khảo sát các bài thơ của Quang Dũng. Từ đó chúng tôi tiến
hành thống kê tần số xuất hiện của các từ ngữ, những hình ảnh thơ tiêu biểu, các hiện tượng
ngôn ngữ cần nghiên cứu. Kết quả mà chúng tôi thống kê được là ví dụ minh họa cho những
luận điểm khái quát rút ra trong quá trình khảo sát.
Phương pháp miêu tả, so sánh, đối chiếu
Trên cơ sở thống kê phân loại, chúng tôi đi sâu vào miêu tả thể loại thơ, hệ thống hình
ảnh, cách sử dụng các từ ngữ trong thơ Quang Dũng. Chúng tôi cũng so sánh, đối chiếu cách
sử dụng ngôn từ và thể loại thơ Quang Dũng với các tác giả khác cùng thời để thấy những
điểm riêng, nổi bật trong thơ Quang Dũng.
Phương pháp phân tích tổng hợp
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào phân tích các tín hiệu thẩm mỹ, các
cấu trúc ngôn ngữ, các hình ảnh nổi bật để tìm hiểu nghĩa thông báo của thơ. Từ đó chúng tôi
đi đến những khái quát về Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng.
Phương pháp nghiên cứu thi pháp học
Nghiên cứu thơ Quang Dũng, chúng tôi không dừng lại ở việc chỉ ra những ý hay, từ đắt
hay cách dùng thanh điệu tài tình mà còn hướng tới việc nắm bắt thơ Quang Dũng như một
20
chỉnh thể, một thế giới nghệ thuật, có qui luật nội tại. Những đánh giá về thơ Quang Dũng
được rút ra trên cơ sở những tín hiệu ngôn ngữ được lặp đi lặp lại, gắn liền với quan niệm nghệ
thuật và phương thức biểu hiện của nhà thơ. Chính vì vậy phương pháp nghiên cứu thi pháp
học rất cần thiết đối với việc tiếp nhận thơ Quang Dũng.
5. Đóng góp của luận văn
Quang Dũng là một cây bút có vị trí quan trọng trong thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Sau ngày đất nước thống nhất ông lại tiếp tục có những bài thơ gây được sự chú ý của người
đọc. Qua luận văn này, chúng tôi đã cố gắng đánh giá thơ Quang Dũng trên các mặt cái tôi trữ
tình, hình tượng trữ tình, thể loại, ngôn ngữ và giọng điệu thơ Quang Dũng từ đó khẳng định
vị trí của thơ ông trong nền thơ kháng chiến giai đoạn đầu tiên. Đồng thời luận văn hướng tới
một công việc thiết thực là góp phần giúp cho việc giảng dạy thơ Quang Dũng trong nhà
trường được tốt hơn.
Ngoài ra, luận văn cũng tìm được một số tác phẩm thơ Quang Dũng ít được người đọc
biết đến. Thiết nghĩ đó cũng là nguồn tư liệu để các nhà nghiên cứu, bạn đọc có điều kiện tìm
hiểu thêm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Dẫn nhập, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cái tôi trữ tình.
Chương 2: Hình tượng đất nước và con người.
21
Chương 3: Thể thơ, ngôn từ và giọng điệu.
CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH
1.1. Cái tôi lãng mạn
Trong thế giới nghệ thuật của nhà thơ, cái tôi trữ tình có vai trò vô cùng quan trọng. Thơ
ca bao giờ cũng là tiếng nói chủ quan, nội cảm, tiếng nói “độc bạch” của cá nhân nhà thơ trước
cuộc đời. Cái tôi trữ tình là trung tâm cảm nhận và phản ánh thế giới của chủ thể trữ tình cho
nên nó cũng là cốt lõi, hạt nhân của thế giới nghệ thuật nhà thơ. Mỗi bài thơ ra đời chất chứa
biết bao tâm tư, tình cảm, khát vọng, trăn trở, thậm chí đớn đau của nhà thơ với những vấn đề
của cuộc sống. Sức hấp dẫn của thơ khởi nguồn từ tiếng thơ riêng biệt, độc đáo của cái tôi trữ
tình nhà thơ thể hiện trong thơ. Với Quang Dũng, cái tôi trữ tình chính là đóng góp nổi bật
nhất mà ông để lại cho cuộc đời, cho thơ ca.
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (Dậu), sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì,
huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây, trong một gia đình nho giáo làm nghề buôn bán nhỏ. Bút
danh Quang Dũng chính là tên con trai đầu của nhà thơ - Bùi Quang Dũng. Ngoài ra có lúc
ông còn dùng bút danh Trần Quang Dũng như một sự tri ân dành cho người bạn thơ Trần Lê
Văn.
Lớn lên, Quang Dũng được gia đình cho ra Hà Nội học. Ngoài học văn ông còn học vẽ,
học võ. Ra đời có lúc ông còn làm cả nghề giáo học. Sau đó, ông vượt biên giới đi tìm chân lí
và sau ngày Cách mạng thành công, ông gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Dù chỉ ở Trung
đoàn Tây Tiến có một năm nhưng ấn tượng về những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ở Tây
Tiến đã đi suốt đời ông, đi suốt thơ ông. Tháng 08.1951, Quang Dũng xuất ngũ nhưng ông vẫn
tiếp tục hoạt động văn nghệ ở Liên khu III cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hòa bình lập lại, Quang Dũng làm biên tập viên báo Văn nghệ, rồi làm biên tập viên nhà
xuất bản Văn học. Ông nghỉ hưu năm 1978. Từ năm 1983, nhà thơ bị tai biến mạch máu não.
Sau một thời gian dài lâm bệnh, Quang Dũng đã từ trần vào ngày 13.10.1988 tại Hà Nội.
Quang Dũng là một nghệ sĩ nhiều tài năng: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc.
Trong lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp nhưng thành công nhất vẫn là thơ.
Quang Dũng có những sáng tác đầu tay từ năm 16 tuổi. Hai bài thơ Chiêu Quân (1937)
và Cố Quận (1940) là những tác phẩm đặc sắc, mang dáng dấp Thơ mới rõ rệt. Nhưng Quang
Dũng chỉ thực sự được bạn đọc biết tới với bài thơ Tây Tiến (1948) - khúc tráng ca của những
người chiến sĩ trẻ tuổi lên đường vì non sông đất nước - khi nhà thơ đã 27 tuổi. Sau Tây
22
Tiến, Quang Dũng sáng tác nhiều hơn và cũng có nhiều tác phẩm nổi tiếng: Mắt người Sơn
Tây (1949), Lính râu ria (1949), Đôi bờ (1948), Quán nước (1948)... Song phần lớn các tác
phẩm của ông được lưu truyền bằng con đường viết tay hay truyền miệng. Mãi đến năm 1956,
ông mới xuất bản tập thơ đầu tiên - Bài thơ sông Hồng (Nxb Văn nghệ, 1956). Năm sau, ông
tiếp tục có tập thơ Rừng biển quê hương (in chung với Trần Lê Văn - Nxb Hội nhà văn, 1957).
Đến cuối đời, nhà thơ dồn hết tâm huyết cho ra đời tập thơ Mây đầu ô (Nxb Tác phẩm
mới, 1986). Tập thơ có tính chất tổng kết cả đời thơ Quang Dũng từ những ngày Tây Tiến cho
đến khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ở Quang Dũng, từ con người, cuộc đời đến thơ ca đều toát lên một chất lãng mạn thật
độc đáo, hấp dẫn. Đỗ Lai Thúy cho rằng “Quang Dũng là một kẻ lãng mạn, lãng mạn đến chót
mùa” [111, tr. 1]. Điều ây được hình thành từ hai nguồn ảnh hưởng rất lớn: quê hương xứ
Đoài và sự tác động của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945. Quê ông là làng
Phượng Trì “khố nối ăn chơi đủ vành” (ca dao), nói rộng ra là cả một vùng Sơn Tây đất đá
ong khô “nơi người Việt cổ làm nương rẫy và đặt bàn chân đầu tiên khi bước xuống đồng
bằng. Từ châu thổ họ đi tứ xứ, nhưng luôn nhớ về mảnh đất gốc, luôn thả hồn theo những đám
mây trắng trôi về đậu đỉnh Ba Vì” [111, tr. l], Đây chính là vùng đất đã sản sinh ra những
người con tài tử như Tản Đà - nhà thơ “Tài cao phận thấp chí khí uất / Giang hồ mê chơi quên
quê hương”, cũng là vùng đất đã truyền lại cho Quang Dũng dòng máu giang hồ và sự hoài
niệm quê hương.
Khi còn trẻ, Quang Dũng “rất mê Đường thi tam bách thủ nhưng cũng “say Thơ mới
như bất cứ một học sinh nào thời đó” [71, tr. 97]. Ông đọc nhiều Thạch Lam, thích nhân vật
Dũng của Nhất Linh nhưng có lẽ kẻ giang hồ “Rũ áo phong sương trên gác trọ” trong thơ Thế
Lữ là có sức quyến rũ nhất. Quang Dũng tâm sự: “Tôi thích thơ Thế Lữ hơn cả, đặc biệt là bài
Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó” [71, tr. 97]. Bài thơ Tây Tiến và cả những tác
phẩm sau này của Quang Dũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của văn học lãng mạn, đặc biệt là
thơ Thế Lữ.
Nhưng con người Quang Dũng, hồn thơ Quang Dũng vẫn có sự khác biệt về căn bản so
với Thơ mới, bởi vì phẩm chất lãng mạn trong cá tính Quang Dũng đã được gặp gỡ Cách
mạng, được chân trời Cách mạng nuôi dưỡng. “Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm
23
hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của anh có phần âm vang của hào khí ấy” [96, tr. 8].
Những nẻo đường Tây Tiến: Sông Mã, Mai Châu, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông,
Sài Khao... đã kích thích trí tưởng tượng của nhà thơ, đẩy cảm xúc của nhà thơ lên đến cao độ.
Gian khó đến tột bậc mà hào hùng thì cũng vô cùng. Đường hành quân vất vả, thiếu trang bị,
thiếu thuốc men, sốt rét rừng làm cho đoàn quân “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, nhưng
người lính vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, hồi tưởng về những ngày tháng Tây Tiến, Quang
Dũng vẫn còn lâng lâng cảm xúc: “Họ đã đem đến những nơi sâu thẳm nhất của bản đồ đất
nước những âm điệu hùng hồn, những lời ca tin tưởng của cả một dân tộc đang chiến đấu. Họ
đem đến nguồn vui mới lạ cho tâm hồn của đồng bào miền núi khi được trông thấy ánh lửa
trại lấp lánh trên những chiếc kèn đồng” [99, tr. 31].
Vì thế, chất lãng mạn, niềm lạc quan, yêu đời đã ngấm vào hồn thơ Quang Dũng từ hiện
thực hào hùng của cuộc chiến, tạo cho tiếng thơ Quang Dũng một âm hưởng rất lạ: âm hưởng
lãng mạn Cách mạng. Cái tôi ấy có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực cách mạng và
tiếng thơ trữ tình tha thiết. “Yếu tố hiện thực đã tràn vào tâm hồn lãng mạn của nhà thơ, làm
biến đổi chất lãng mạn đó. Đồng thời tâm hồn lãng mạn ấy lại phả lên hiện thực cái màn
sương khói lung linh, làm cho sự gian lao nhòe đi, có lúc thăng hoa thành những hình tượng
kì vĩ, độc đáo” [56, tr. 49].
Cái tôi thơ Quang Dũng là cái tôi yêu đất nước, yêu dân tộc, yêu nhân dân, sẩn sàng xả
thân hy sinh vì tổ quốc đồng thời lại mang tâm hồn bay bổng, diệu kì. Trong lao khổ ông
mong tới ngày mai tươi sáng, lúc khó khăn, khi đối diện với cái chết, thơ ca vẫn tin tưởng vào
tương lai tốt đẹp. Trong thơ Quang Dũng, sự sống dù được trải trên nền bom đạn vẫn xanh
non, tươi mát, biểu hiện sự bất diệt của đất nước, của nhân dân:
Không một quán lều chưa phá.
Na pan, bom bướm, bom dây
Nhưng bên những hố bom
Chuối, đu đủ lại trồng quanh
Quán lều thay lá mới
Mùi lạt thơm xanh
(Đường Mười hai)
24
Nhà thơ tuy đứng trong cái thực tại của ngày hôm nay còn nhiều thiếu thốn, nhưng tâm
hồn luôn hướng vào ngày mai chiến thắng:
Những mái nhà tươi cờ chiến thắng
Phố phường thu đến nắng xôn xang
…
Đường qua gian khổ bao ngày tháng
Từng nghe thu lại ấm hương đời
(Một mùa thu)
Có thể nói, cái tôi lãng mạn Cách mạng thơ Quang Dũng là biểu hiện tập trung của chủ
nghĩa Cách mạng anh hùng. Tuy nhiên hòa nhập vào số đông mà không đánh mất đi bản sắc,
gắn với cái ta mà vẫn nguyên vẹn cái tôi, đó mới chính là bản lĩnh của hồn thơ Quang Dũng.
Sức hấp dẫn của cái tôi Quang Dũng là ở một cái tôi mang nét tráng sĩ cổ điển, được thể hiện
trong bối cảnh thời đại mới. Trong cuộc đời, người ta chú ý nhiều đến “vóc dáng trượng phu
lừng lững” của nhà thơ. Trong thơ ca, âm hưởng lãng mạn thơ Quang Dũng được thể hiện ở
sự cảm thụ cuộc sống một cách cá nhân, riêng tư, mang hơi hướng phiêu lưu, tài tử. Nhiều
người đọc ở Tây Tiến và nhiều bài thơ khác “chất phiêu lưu”, “ưa thám hiểm”, chất “đường
rừng” trong thơ. Người lính đến với Tây Tiến như đến với một cuộc thám hiểm để khám phá
thiên nhiên mà cũng là khám phá chính tâm hồn mình. Tâm hồn họ hít thở không khí của Tây
Tiến, cảm nhận Tây Tiến và hòa nhập vào Tây Tiến. Những bức tranh thiên nhiên hoành tráng,
thăm thẳm, ngút ngàn đã hút lấy tâm hồn họ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến)
Cuộc chiến những như thế, rõ ràng không chỉ là ta và địch, mất và còn, mà còn là cuộc
khám phá. Thế nên mới có những sửng sốt “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”, những bâng
khuâng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, những “mộng” và “mơ” - mộng “qua biên
giới” và mơ về “dáng kiều thơm”. Người lính Tây Tiến cũng không lẫn vào số đông những
người lính khác trong thời đại mà cái “chung”, cái “đại chúng” được đặt lên làm tiêu chí
25
hàng đầu. Họ là những con người anh hùng, hiên ngang nhưng vẫn mang sắc thái riêng của
mình: từ dáng hình (“không mọc tóc”, “dữ oai hùm”, “xanh màu lá”) đến tâm trạng (“Đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Cho đến cái chết cũng rất tài tử: “Gục lên súng mũ bỏ quên
đời”.
Chính điều đó tạo nên cho thơ Quang Dũng một dấu ấn riêng, một sắc thái riêng “hào
hoa và tráng lệ” [87, tr. 32]. Nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ gọi đó là “khẩu khí anh
hùng” và “nó như là một âm điệu, là sản phẩm của một thời, nếu thiếu nó gần những như là
thiếu đi nét đặc trưng của giai đoạn” [87, tr. 32].
Quang Dũng yêu những hình ảnh kì vĩ, lớn lao, có hứng thú với những bức tranh “xanh
thắm, bi tráng, ngút ngàn”. Thơ ông là thơ của những núi cao, rừng thẳm, vực sâu, mưa
nguồn, thác dữ, cọp trêu người:
Một rừng già trong bão táp
Hiên ngang
che chở nắng mưa dân tộc
Ngàn vạn dòng khe tung nước trắng
Ngàn bản hùng ca reo chiến ứiắng
(Rừng)
Tình cảm trong thơ ông cũng phải là những cảm xúc mãnh liệt, khi đau đớn đến tột cùng,
lúc lại sôi nổi, tự hào:
Thôi nhé Miền xuôi! Thôi tạm biệt
Cống Chéo - Đồng Xuân thề một chết
Hàng gai - tay bỏng trục ba càng
Đất cũ Thăng Long người lẫm liệt
(Những làng đi qua)
Để thể hiện điều đó, Quang Dũng đã sử dụng rất thành công bút pháp đối lập trong miêu
tả cảnh vật và thể hiện cảm xúc. Nhiều câu thơ trong Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây, Những
làng đi qua đã đạt đến độ cổ điển bằng cách miêu tả như thế. Viết về cái gian khó buổi đầu
Cách mạng, có gì gợi hơn bằng những câu thơ thế này:
Nhớ buổi Trung Đoàn ta ra đi 26
Tháng Chạp màn sương trùm đất nước
Gió mùa chết héo mạ non xanh
Sương muối thấm vào bao đạn ướt
(Những làng đi qua)
Nhưng chính sự gian khó ấy mới là cái nền cảm xúc để tô đậm cái hào hùng thiêng liêng
của dân tộc:
Ta đi!
Tháp đứng nghiêm hồ lạnh
Hoàn Kiếm đêm đêm giặc rụng rời
Màu đỏ sao bay về đỉnh tháp
Chiến hào xuân đến tiếng ca vui
(Những làng đi qua)
Cái tôi lãng mạn Cách mạng thơ Quang Dũng là một cái tôi trữ tình giàu mơ mộng,
thích tưởng nhớ. Có thể nói, thơ ông là cả một miền thương nhớ. Nỗi nhớ, niềm thương cứ
bàng bạc tỏa ra trong khắp các bài thơ, các câu thơ của ông tạo thành một thứ không gian
riêng, rất đặc biệt: không gian của tình thương nhớ. Chỉ 47 bài thơ, cũng đã 47 lần nhà thơ
dùng chữ “nhớ”, 12 lần dùng từ “thương”. “Thương” và “Nhớ” đi về trong thơ Quang Dũng
như một nỗi ám ảnh, với rất nhiều cung bậc khác nhau. Từ những nỗi nhớ cụ thể: “Nhớ buổi
Trung Đoàn ta ra đi”, “Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói”, “Bên này đất nước nhớ thương
nhau”, “Em đã bao ngày em nhớ thương”, “nhớ mẹ ngày xưa”, “nhớ mái rừng xanh”, “nhớ
sông quê”, “nhớ mây làng về trưa”, “nhớ bạn”, “nhớ quê nhà”, “nhớ về đất nhỏ Sơn Tây”
... đến những nỗi nhớ mông lung trừu tượng: “Chiều ấy em về thương nhớ ai?”, “Bên này em
có nhớ bên kia?”, “Buồn nhớ thương ai lòng hiu hiu”, “Tôi gửi niềm thương nhớ”, “ Tối gặp
nàng như gặp nhớ thương”, “Có một hương gì gây nhớ thương” ...
Cùng với nỗi nhớ là những định ngữ miêu tả nỗi nhớ: “nhớ thầm”, “nhớ chơi vơi”,
“thương nhớ ơ hờ”, “buồn nhớ thương ai lòng hiu hiu”... Riêng với Tây Tiến, nỗi “nhớ về
rừng núi nhớ chơi vơi” - cái nỗi nhớ miên man, bồng bềnh, mông lung mà lại da diết, sâu
thẳm đến tận tâm can đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt bao nhiêu thế hệ bạn đọc bởi tính độc
27
đáo và cực kì chân xác của nó.
Trong thơ Quang Dũng, từ ghép đẳng lập “nhớ thương” xuất hiện với tầng số khá cao
(12 lần / 47 bài). Với nhiều người, “nhớ” và “thương” bao giờ cũng có nét nghĩa khác nhau,
nhưng với Quang Dũng, nhớ và thương dường như chỉ là một, hòa quyện, trộn lẫn vào nhau
trong một nguồn cảm xúc, trong nhớ có thương, trong thương có nhớ. Vì thế, có khi ông dùng
hai chữ “thương nhớ”, có lúc lại dùng “nhớ thương”, không phân biệt: “Thương nhớ ơ hờ,
thương nhớ ai”, “Bên này đất nước nhớ thương nhau”, “ Chiều ấy em về thương nhớ ai”-,
“Tôi gửi niềm thương nhớ” ...
Cùng với nỗi nhớ, niềm thương là một hệ thống thời gian nghệ thuật thích hợp để biểu
hiện cái tôi trữ tình mơ mộng và giàu cảm xúc. Thơ Quang Dũng thường có hai kiểu thời
gian: thời gian nghệ thuật chiều tối và thời gian nghệ thuật kỉ niệm, hồi tưởng.
Nếu cái tôi trữ tình Quang Dũng thích mơ mộng, hay tưởng nhớ thì thời gian nghệ thuật
trong thơ ông cũng là thời gian của cái gợi về, nhớ về. Trong cuộc đời, con người thường sống
với thời gian hiện tại, nhưng tâm hồn ít khi chịu đứng yên trong cái hiện tại. Khi vui buồn, lúc
cần một điểm tựa họ thường hướng tới tương lai hay chìm đắm vào quá khứ. Thơ kháng chiến
là thơ của thời gian ngày mai tươi sáng, rực rỡ, tốt đẹp. Nhưng với riêng Quang Dũng, người
chịu ảnh hưởng khá sâu của Thơ mới, thời gian nghệ thuật lại là thời gian hồi tưởng, thời gian
kỉ niệm. Kiểu thời gian này xuất hiện trong 24/ 47 bài thơ Quang Dũng (tỉ lệ 51%). Thế giới
thơ ông nhiều khi là thế giới của quá khứ, của “nhớ về” và “trở về”: “Nhớ về rừng núi nhớ
chơi vơi” (Tây tiến), “Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn”(Mắt người Sơn Tây), “Ngày ấy ra
đi người hẹn núi/ Bây giờ đất nước đã hồi xuân “(Nhớ một bóng núi), “Hai mươi năm về
xưa/ Cùng nhau từng kết bạn”(Trông bạn), “Ngồi đây vời tưởng đường quê hương/Lúa đã
xanh xanh mấy nẻo làng”(Thu)...
Đây là thời gian rất hợp cho việc thể hiện cái tôi lãng mạn Quang Dũng. Bởi vì cuộc
sống được miêu tả qua lăng kính của nỗi nhớ và thời gian kỉ niệm bao giờ cũng đẹp hơn, cảm
xúc hơn. Con người trong quá khứ là những con người đẹp:
Các cô hàng xén ngày xưa
Gương tròn bỏ túi
Tay giắt hoa nhài
Hay ngậm ngùi xem Nhị Độ Mai
Gấp trang sách thương đời Cúc Hoa
28
(Những cô hàng xén)
Tình yêu trong quá khứ càng lung linh kỉ niệm:
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa...
(Không đề)
Tuy nhiên, kiểu thời gian quá khứ, thời gian kỉ niệm trong thơ Quang Dũng không hoàn
toàn giống với kiểu thời gian quá khứ trong Thơ mới. Bởi vì nếu các nhà Thơ mới tìm đến quá
khứ như một sự chạy trốn, dễ rơi vào bế tắc thì Quang Dũng lại tìm được một điểm tựa thời
đại vững chắc để bộc lộ tâm hồn khoáng đạt của mình.
Thời gian chiều tối cũng góp phần đáng kể vào việc xây dựng cái tôi lãng mạn Quang
Dũng. Trong thơ ông, buổi chiều xuất hiện ở 14/47 bài, buổi tối xuất hiện ở 16/47 bài. Buổi
chiều là khoảng thời gian con người có dịp để suy ngẫm về cuộc đời và bâng khuâng, tưởng
nhớ. Ca dao xưa có những câu rất hay về buổi chiều:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Quang Dũng cũng góp cho những câu thơ về buổi chiều một nỗi nhớ sâu lắng:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
(Mắt người Sơn Tây)
hay một cảm giác miên man:
Nhặt gốc tre khô
Ta nhom ấm nước
Chiều từ đâu...
Mà lạnh đến từ đâu?
(Thu quê ai)
Quang Dũng có hứng thú với thời gian “đêm”, đặc biệt là những đêm trăng. Có khi đó là
29
những đêm vui, đêm ấm tình đồng đội: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” (Tây tiến), “Lều
trại bay tro, đêm lửa trại” (Những làng đi qua), “Lửa bếp hồng thêm, người đến thêm/
Chuyện vui chiến dịch kể thâu đêm” (Ngựa). Nhưng cũng có khi là những đêm buồn, đêm của
nỗi nhớ thương, lưu luyến:
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
(Đôi bờ)
Có thể nói, về cơ bản, cái tôi Quang Dũng tiêu biểu cho kiểu cái tôi lãng mạn Cách mạng
thời kháng chiến. Nhưng cái tôi ấy cũng có những nét độc đáo, khác biệt so với các nhà thơ
cùng thời: cái tôi Quang Dũng mang chất tráng sĩ cổ điển trong cách cảm nhận cuộc sống,
miêu tả những hình ảnh kì vĩ, lớn lao đồng thời là một cái tôi giàu mơ mộng, thích tưởng nhớ,
thể hiện ở việc tập trung miêu tả nỗi nhớ cũng như cách xây dựng không gian nghệ thuật và
thời gian nghệ thuật riêng. Chính điều đó làm nên dấu ấn của cái tôi Quang Dũng trong thơ
kháng chiến.
1.2. Cái tôi bình dị và hào hoa
Quang Dũng là người rất bình dị trong cuộc đời. Nhiều người bạn nhận xét về
ông: “Dũng mà rất hiền, rất lành (...), chữ lành để nói về ông mới thật sự đủ nghĩa và thỏa
lòng” [48, tr. 323]. Lối sống của ông thật giản dị. Ông biết tìm thấy niềm vui và sự thỏa mãn
tột cùng trong những cái bình dị, đơn giản nhất. “Đặc sản” khoái khẩu nhất của Quang Dũng,
như nhà văn Thanh Châu nhớ lại là “khoai lang hàng bà cụ phố Tuệ Tĩnh, kẹo vừng ông lão
ngồi cửa chợ Hôm, quán cơm đầu ghế bất kể chợ nào, quán nước chè tươi...” [100, tr. 70].
Quang Dũng có ngoại hình cao lớn “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” nhưng đi đâu
ông cũng như muốn thu mình lại. Là người thuở nhỏ quen khá giả nhưng ông lại học được tác
phong sống rất bình dân, cực kì dễ hòa đồng ở mọi nơi, mọi lúc. Ông không bao giờ muốn
trông khác những người xung quanh. “Sự nổi danh, sự lưu danh có phần xa lạ với Quang
Dũng lúc sinh thời (...). Ông sống, theo đúng cả nghĩa đen của nó không phải với cao lương
mĩ vị mà với mắm muối, tương cà, lều tranh quán lá, kể cả sự chịu đựng cái đói mà không phải
nhiều người trong chúng ta đã trải” [48, tr. 323]. Ông sống gần gũi, hòa lẫn vào nhân dân lam
lũ, trong bình dị đời thường. Thậm chí ông có thể hòa đồng, chia sẻ cả với những người ăn
mày chùa Bà Đá (Hà Nội).
30
Quang Dũng sống bình dị nhưng trong cái bình dị ấy đã ẩn chứa chất hào hoa phong nhã
của một tâm hồn nghệ sĩ. Tên tuổi Quang Dũng gắn với những thi phẩm Tây Tiến, Mắt người
Sơn Tây, Những làng đi qua, Đường trăng, nhưng ông cũng là tác giả bài hát “Bà Vì mờ
cao” với những nốt nhạc sâu lắng, tác giả của những tập truyện kí với phong thái riêng khó
lẫn, đồng thời lại hóa thân thành một họa sĩ trong những bức tranh phong cảnh. Con người đa
tài, đa tình ấy thích “giang hồ ”, thích phiêu lưu. Quang Dũng hào hoa và cao thượng trong
tình yêu. Cuộc đời lưu lạc, được nhiều người đem lòng yêu thương nhưng ông vẫn giữ trọn lời
thề thủy chung với mối tình đầu, còn mối tình không thành thì xin hãy “giữ trọn tình người
cho đẹp”..
Trong thơ Quang Dũng, chất hào hoa và chất bình dị hòa quyện làm một, nhiều khi
không thể phân biệt. “Quang Dũng viết hồn nhiên và rất thật. Dường như anh chưa bao giờ
dấu mình và càng không bao giờ dối mình trong thơ” (35, tr. 41). Thơ ông bình dị trong hình
ảnh đời thường như “muối vừng”, “canh rau đay”, “chuối vườn”, “tiếng sung rơi”; lại cũng
giản dị, chân thật trong những cảm xúc, từ sự dấn thân đầy hào khí của người trai trẻ: Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh... đến những niềm vui, nỗi buồn của người lính trong Lính râu
ria, Quán nước. Sau này, khát vọng vượt qua mọi không gian chật chội của cuộc đời
trong Mây đầu ô cũng là điều rất thật. Có thể nói thơ ông “là thứ thơ mà người ta gọi là tự
phát (Spontané), cứ như anh không hề cố ý làm thơ” (Ngô Quân Miện). Nhưng cũng chính vì
thế, Quang Dũng nhiều lần làm người đọc xúc động với tình cảm trực giác, đầy rung cảm tinh
tế của những câu thơ. Tâm hồn ông nắm bắt rất nhạy từ một áng mây, một mùi hương, một làn
gió, một màu sắc, một âm thanh, một nỗi niềm để rồi lại phả vào đó cái nhìn của một họa sĩ và
những thanh âm của một nhạc sĩ:
Gió heo nổi sớm, nắng thu về
Chuồn chuồn cánh mỏng lại bay đi
Rỡn từng ngọn cỏ may khô úa
Cánh nhạn tung trời thêu biệt li
(Thu)
Thơ viết về mùa thu xưa nay nhiều. Nhưng Quang Dũng lại một lần nữa khiến tâm hồn
ta xao xuyến trước những chi tiết thật tế vi mà cũng thật gợi cảm. Chất liệu không mới (gió
31
heo may, nắng thu, cỏ may, cánh nhạn), cảm xúc cũng không lạ lẫm nhưng những câu thơ
dường như vẫn có sức hút kì lạ. Từ một cánh chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh trong gió heo
may, trong nắng thu mà gợi lên cả một nỗi buồn, sự chia li...
Quang Dũng còn là một họa sĩ cho nên thơ ông thấm đẫm chất họa. Với “con mắt nghề
nghiệp” tinh nhạy, ông phân biệt được ranh giới giữa các sắc độ đậm nhạt khác nhau mà mắt
thường không nắm bắt được:
Nắng nửa sông xa mờ khí núi
Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu
(Thu)
Ở những bức tranh nhiều màu sắc, ông phối màu thật “chuẩn”:
Sim mua tím đồi
Quanh quanh đường đỏ
…
Mờ mây Tam Đảo
Sẫm dáng Ba Vì
Đồi nhung loang nâu
Nương xa sém cháy
Róc rách suối len
Cuộn tròn trong vắt
…
Bậc thang ruộng gặt
Đá ong phơi vàng
(Bắt tép kho cà)
Những câu thơ đọc lên đã thấy cả một vùng trung du tươi đẹp với các màu sắc đa
dạng: tím, đỏ, nâu, vàng cùng nhiều thuật ngữ hội hoa: mờ, sẫm, nhung, loang nâu, sém
cháy. Người ta thường nhắc đến chất nhạc, chất họa trong thơ Quang Dũng nhưng ít ai biết với
hương thơm, ông cũng là người có biệt tài trong cảm nhận. Chẳng hạn cô hàng xén được
Quang Dũng miêu tả:
32
Mái tóc em còn vương hương bưởi
Chân nhẹ nhàng còn dính phấn hoa
(Những cô hàng xén)
Cách miêu tả thật tài tình. Người con gái đã đi qua nhưng mái tóc vẫn vương hương
bưởi, phấn hoa vào không gian và vào tâm hồn thi sĩ. Cùng với “Những cô hàng xén răng đen/
Cười như mùa thu toa nắng” của Hoàng Cầm, có lẽ đây là một trong những câu thơ hay nhất
về hình ảnh cô hàng xén ngày xưa.
Cái tôi bình dị và hào hoa của Quang Dũng còn thể hiện ở chỗ thơ ông dường như không
có dấu vết của sự cầu kì, gọt giũa nhưng nhiều lúc vẫn đạt đến độ thăng hoa. Nhiều lúc ông
đưa cả cái xù xì, khắc nghiệt của hiện thực vào thơ. Chẳng hạn:
Bàn tay như rễ cây
Bộ râu như bàn chải
(Lính râu ria)
Hàng của em chai lọ xác xơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá
(Quán nước)
Nhưng thơ không vì thế mà rơi vào tầm thường khô cứng, trái lại đó là những chi tiết gây
xúc động lòng người nhất.
Cái tôi Quang Dũng hào hoa trong cách cảm nhận đời sống và khám phá vẻ đẹp thiên
nhiên. Với bất kì phong cảnh thiên nhiên nào, Quang Dũng cũng có những cách rất riêng để
nắm bắt cái thần của cảnh vật. Nhiều khi đó chỉ là những nét phác họa với một vài chi tiết nhỏ,
ông làm người đọc giật mình bởi cái chất tinh tế, thần tình trong miêu tả cảnh vật. Chẳng hạn:
Cuối năm trên đường đi Bố Hạ
Tháng chạp mùa cam lửa đốm vườn
Bãi sỏi quanh co dòng nước chậm
Cheo leo cầu tạm vắt sông Thương
33
(Bố Hạ)
Quang Dũng bước vào cuộc chiến cũng với cái chất hào hoa vốn có sẵn trong tâm trí một
lớp người trai trẻ vào Cách mạng, “cái chất hào hoa của người Hà Nội, và của cả xứ Đoài lại
chính là cái làm nên men say và chất lãng mạn mà con người rất cần cho những cuộc ra đi,
những cuộc lên đường” [48, tr. 325]:
Tôi hành quân lên đường
Ngày tháng nhớ chia ly
Đuôi mắt vời trông nếp áo
Em còn nghe tiếng hát
Tiếng báng súng chạm vào ca sắt
Và cánh sao bay trong lá quốc kì
(Đường chiều thứ bảy)
Vì thế, cái hào hoa trong kháng chiến tỏa ra thành những “mơ” và “mộng”, những bâng
khuâng, mong nhớ, đợi chờ đồng thời cũng trở thành những khát khao dân thân, khát khao
chiến đấu. Cái tôi ấy bước vào cuộc chiến không chỉ với súng, đạn mà còn có cả tâm hồn mơ
mộng khác thường và những cảm nhận thật đẹp, thật tinh tế về cuộc sống. Cái chết của người
lính cũng là sự thể hiện cao nhất cái tôi hào hoa trong chiến đấu:
Áo bào thay chiếu anh vê đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đó không chỉ là cái chết mà còn là sự lưu danh vào bất tử, sự hòa nhập vào cái vĩnh hằng
của thiên nhiên tổ quốc...
Tóm lại, cái tôi Quang Dũng có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất, dân dã với vẻ
đẹp tài hoa tinh tế. “Nhiều bài thơ anh, do vậy, đạt đến độ chân tài” [35, tr. 41] như cách nói
của nhà nghiên cứu Mai Hương.
1.3. Cái tôi lãng du, yêu tự do và tuổi trẻ
Quang Dũng có lẽ là nhà thơ mang trong mình “dòng máu lãng du vào loại bậc nhất thi
đàn đất Việt thế kỉ hai mươi” [111, tr. l]. Cái nỗi niềm Chiêu Quân li xứ đã ám ảnh thơ ông
ngay từ những bài đầu tiên:
Tuyết lạnh che mờ trời Hán quốc
34
Tỳ bà lanh lảnh buốt cung thương
Tình tang năm ngón sầu dâng lệ
Chiêu Quân sang hồ, xừ hồ sang
(Chiêu Quân)
“Bản chất của ông là mây, ở góc độ phiêu bồng” [100, tr. 28]. Nhưng đó phải là một thứ
mây lành, áng mây có thể đem lại một chút dịu mát trong tâm hồn hay xua đi những u tối,
buồn bực trong lòng con người. Áng mây đó ưa phiêu du, tài tử, thích đi ngao du sơn thủy,
thích “lang thang sống một cuộc đời Bôhê-miêng” [71, tr. 13]. Đi chơi với Quang Dũng là
một cái thú, là một thứ ma lực đã ngấm vào máu người nghệ sĩ như chất men say. Ông hăm hở
đi, mải miết đi, đi bất cứ đâu, miễn là thoát ra ngoài không gian chật hẹp tù túng của cuộc đời.
Khi còn trẻ, lúc mới rời khỏi ghế nhà trường, nhà thơ không trở thành công chức mà bỏ nhà ra
đi đánh đàn kéo nhị cho một gánh hát để được lang thang, phiêu bạt. Sau đó, để thực hiện
chuyến “viễn hành” đi về phương Nam, nhà thơ đã cùng người bạn thuê một chiếc xe trâu để
du ngoạn và sống bằng nghề vẽ tranh. Giữa đường, trâu bệnh mà chết, người bạn bỏ về,
Quang Đũng tiếp tục nhảy tàu vào Nam... Cuộc phiêu lưu “xê dịch” đã có lần đưa nhà thơ đến
tận miền đất Vân Nam, Trung Quốc. Thế nhưng trước Cách mạng tháng Tám, với Quang
Dũng có phiêu lưu, có xê dịch đến bao nhiêu vẫn không thỏa, vẫn là “quẩn quanh”. Bởi vì,
những chuyến đi ấy trước hết là đi tìm lí tưởng, đi tìm lẽ sống. Mà lẽ sống ấy nào phải ai cũng
dễ dàng tìm được trong cái “thời đại bao lần khô nước mắt” của xã hội nước ta trước Cách
mạng.
Cho nên ta có thể hiểu được Quang Dũng say mê như thế nào khi đã hòa nhập được với
hơi thở của cuộc kháng chiến. Ông đi bất cứ nơi đâu “dù là đến một thắng cảnh như Chùa
Thầy hay Tây Phương, Yên Tử - không đi xa được thì đi gần , đến Trấn Quốc - Hồ Tây, Chèm
Vẽ, bãi giữa sông Hồng, Ba La Bông Đỏ...” [100, tr. 16]; đi bất cứ khi nào: “máy bay giặc
Pháp bắn ban ngày thì anh đi ban đêm, đi suốt đêm” [96, tr. 55]. Ông đi để hiểu biết nhiều
mặt về đời sống kháng chiến, để tìm chất liệu và thi hứng cho thơ ca và cũng để “thưởng thức
sự sảng khoái của việc đi, thưởng thức cái đẹp của người, của cảnh, cái ngon của món ăn,
món uống ở các miền đất nước” [96, tr. 35]. Có thể thấy, nếu như trước Cách mạng, đi với
Quang Dũng là sự “kiếm tìm” thì sau Cách mạng, đi với Quang Dũng là một sự “thỏa chí” -
35
cái ý chí khát khao đã tìm được nguồn sống, hồn thơ đã tìm được đôi cánh chắp cho bay cao.
Quang Dũng còn có một cách “đi” khác, thi vị hơn, đó là “đi” thưởng ngoạn trong thơ.
Thơ ông có rất nhiều địa danh, của những vùng miền khác nhau là vì vậy. Ông hiện mình lên
trong thơ có khi là một “Cánh chim lang thang/ Lối về miền mây”, có khi lại chính là những
đám mây lang thang, trôi bồng bềnh trên bầu trời:
Mây trắng lang thang
Gió đuổi bời bời phố chật
(Mây đầu ô)
Thơ Quang Dũng nhiều lần nhắc đến hình ảnh của “mây” (21 lần). Mây với Quang
Dũng là biểu tượng của tự do, của lãng du. Phần nhiều trong đó là những đám mây trắng - hình
ảnh của sự thanh cao và cũng là biểu tượng của cõi tự do trường cửu:
“Mây trắng xưa nay về tụ họp/ Mây một phương Đoài về tụ họp” (Gửi Sơn Tây), “Tóc
anh đã thành mây trắng” (Không đề), “Ba Vì tảng trán xanh/ Thức với mây Đoài trắng xóa”
(Bất Bạt đêm giao quân). Quang Dũng lang thang khắp cuộc kháng chiến cùng với những
đám mây để nhớ về một cõi mây trắng xứ Đoài.
Bài thơ Mây đầu ô tuy chưa phải là sáng tác hay nhất của Quang Dũng nhưng nhiều
người viết không ngần ngại coi đó là sáng tác tiêu biểu nhất cho hồn thơ Quang Dũng. Điều đó
có được là bởi cái chất lãng tử, tài hoa nhưng thật sâu lắng mà Quang Dũng thể hiện trong thơ.
Bài thơ được sáng tác năm nhà thơ đã ngoài năm mươi tuổi nhưng vẫn giữ nguyên được cái
khát vọng bừng bừng trong tâm hồn những người trẻ tuổi. Nhà thơ bước vào tuổi xế chiều vẫn
thấy mình trong “Những lớp người hai mươi tuổi”, vẫn hòa mình vào “Những gã hai mươi
mùa xuân”. Cho nên phố phường như chật chội hơn, như bực tức, như không thỏa mãn được
hồn mây lang thang:
Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ...
Đó không phải là thứ mây hờ hững, lững lờ. Hồn mây Quang Dũng phải là thứ mây
mãnh liệt, đầy khát khao. Đám mây của “tảng trán xanh Ba Vì” đó đã dám vượt qua mọi biên
36
giới hạn hẹp của cá nhân để đến với cuộc đời cao rộng. Đám mây khi xưa đã vượt qua sông
Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Đin nay vẫn mê mải với:
Bụi vàng /Bụi đỏ / Trung du báng cọ /...
Tay sém ngấn mặt trời
Hồn mây Quang Dũng mãnh liệt, trẻ trung nhưng vẫn giữ được nét mềm mại:
Mây mùa thu
Lọt qua trời hẹp ngõ
Lướt nhanh qua mái ngói ba tầng...
(Mây đầu ô)
Những câu thơ quả có sức gợi lớn. Nó đưa hồn người đọc vào một thế giới lâng lâng,
huyền ảo của tiếng nhạc, của giấc mơ. Ta cảm nhận được ở đó cái khát vọng của một thời trai
trẻ vượt qua những “trời ngõ hẹp”, những “góc phố phường” chật chội để đến với bầu trời
xanh thẳm. Mây đầu ô đó chính là tâm hồn Quang Dũng, thật phóng túng, thật sảng khoái,
mãnh liệt mà cũng thật mềm mại, bay bổng.
Quang Dũng đã tạo cho thơ mình một thế giới phiêu diêu, bàng bạc, thế giới của sự viễn
du. Nhiều bài thơ viết về một địa danh cụ thể với không gian và thời gian cụ thể nhưng cái
hiện lên lại là một cảm giác bồng bềnh, hư ảo:
Đêm nay đêm Bạch Hạc
Ta lại vào nhà ai
Nghe sông Lô cuộn nước
Dềnh lên suốt đêm dài
(Đêm Bạch Hạc)
Đêm Bạch Hạc cũng là một đêm thoáng qua trên đường đời, đêm mất ngủ, thao thức
lắng nghe âm thanh của thiên nhiên, muốn hòa tâm hồn với thiên nhiên.
Cái tôi Quang Dũng lãng du nên cũng yêu tuổi trẻ vô cùng. Với cuộc đời mỗi con người,
tuổi trẻ bao giờ cũng là thời gian đẹp nhất, nhưng với tâm hồn thi nhân, tuổi trẻ càng có ý
37
nghĩa hơn. Đó là tuổi của tình yêu, của khát vọng và sức sống tâm hồn. Quang Dũng viết về
tuổi trẻ bằng rất nhiều cách gọi khác nhau: “đời xanh”, “đời thanh xuân”, “tuổi hai mươi”,
“buổi hoa niên”, “tuổi còn xanh”...
Nhà thơ yêu tha thiết tuổi trẻ của chính mình và tuổi trẻ của cuộc đời. Tuổi trẻ với Quang
Dũng được tính từ lúc con người hai mươi tuổi. Hình ảnh “tuổi hai mươi” được nhà thơ nhắc
đến 7 lần trong các sáng tác của mình. Tuổi hai mươi là tuổi bắt đầu tình yêu: Em tuổi hai
mươi/ Yêu anh hào hiệp (Không đề), cũng là tuổi đi tìm lí tưởng: Hai mươi tuổi mộng êm đềm
/ Ta mang trong trắng đi tìm thanh cao (Vườn ổi), tuổi của sức sống mãnh liệt: Những gã hai
mươi mùa xuân / Từ đâu thổi vào thành phố (Mây đầu ô). Cho nên, con người tiêu biểu của
quê hương cũng là người thanh niên hai mươi tuổi: Cô bí thư Tòng Bạt tuổi hai mươi (Ba Vì
đón Bác). Ngay cả đến người lính viễn chinh bỏ mình trên đất nước ta cũng còn rất trẻ: Hai
mươi tuổi trẻ nằm đây / Lòng đất Việt Nam hiền hậu (Chabbi - Chabbi). Nhà thơ muốn gửi
gắm cuộc đời mình vào vĩnh cửu với tình yêu và tuổi trẻ để Em mãi là hai mươi tuổi / Ta mãi
là mùa xanh xưa (Không đề). Đó là khát vọng lưu giữ mãi cái thanh cao, trong trẻo mà đầy
nhiệt huyết của tuổi trẻ cũng là khát vọng dấn thân, khát vọng lên đường của một lớp người
trẻ.
Sau này, trong thơ kháng chiến cũng xuất hiện những vần thơ xúc động về tinh thần hy
sinh của tuổi trẻ. Nhắc đến điều này, ta không thể không nhớ đến cái trăn trở của Thanh
Thảo: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/Nhưng tuổi hai mươi thì làm sao không tiếc/
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì có còn chi tổ quốc?” (Những người đi tới biển), cái day
dứt của một nhà thơ xứ Nghệ “ Đò qua Thạch Hãn xin chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi
nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/...” . Nhưng cái tinh thần tự nguyện hiến dâng vừa
không chút suy tính vừa pha chút lãng tử trong Tây Tiến mới thật sự là bản hùng ca của một
lớp người buổi đầu ra trận:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đó là lời tâm nguyện của bao nhiêu thế hệ lại cũng chính là vẻ đẹp của cái tôi Quang
Dũng thật hào hiệp, đại nghĩa và cũng thật cao cả.
38
CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI
Trong thế giới nghệ thuật của nhà thơ thường có một số hình tượng tâm huyết nhất, cứ
trở đi trở lại nhiều lần như là một “ám ảnh” đối với nhà thơ. Những hình tượng đó là những gì
tinh tuy nhất của cuộc sống, chắt lọc bao khát vọng của óc và hồn người nghệ sĩ đã được thể
hiện ra thành “những bức tranh sinh động và tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống” [13, tr. 100]
thông qua các đơn vị ngôn ngữ có tính chất vần điệu, với trí tưởng tượng sáng tạo và cách
đánh giá của người nghệ sĩ. Những hình tượng như thế càng có tính phổ biến bao nhiêu càng
có ý nghĩa tư tưởng sâu sắc và cơ bản bấy nhiêu.
Với Quang Dũng, điều làm ông trăn trở nhất không gì khác hơn là tình yêu đất nước,
nhân dân, là niềm thương nhớ không nguôi dành cho “xứ Đoài mây trắng” quê ông, là những
người lính trên tuyến đầu chiến trận hay những người con quê hương đang chìm trong khói
lửa chiến tranh. Viết về những điều ấy, Quang Dũng không chỉ như là “người thư kí trung
thành của thời đại” mà quan trọng hơn ông là “người thư kí trung thành” của chính trái tim,
cảm xúc của mình. Vì thế, hình tượng quê hương đất nước và con người có vị trí quan trọng
trong thơ Quang Dũng.
2.1. Hình tượng quê hương, đất nước
Hình tượng quê hương đất nước bao giờ cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca.
Nhất là khi đất nước có chiến tranh, chúng lại nổi lên ở vị trí trung tâm, thu hút mọi chú ý của
thời đại. Đất nước là “hoa”, “bướm”, là “những ngày trốn học bị đòn roi” (Giang Nam),
là “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” (Lê Anh Xuân), là “Những người con gái, con trai/
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép” (Nam Hà). Đất nước cũng là “nơi anh đến
trường”, là “nơi em tắm” hay là cội nguồn tổ tiên “Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào
ta trong bọc trứng”, là “máu xương của mình/phải biết gắn bó và san sẻ “ trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm.
Trong chiến tranh, hình tượng đất nước hiện lên phong phú, đa dạng, nhiều vẻ, nhiều
chiều. Viết về đất nước quê hương, Quang Dũng cũng góp mình bằng một tiếng thơ riêng đầy
39
cá tính.
2.1.1. Hình tượng đất nước trong chiến tranh với khí thế lên đường
Đến với Cách mạng từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng đã dấn
mình vào cuộc bằng tất cả men say của tuổi trẻ. Quang Dũng trước hết là một người dân yêu
nước nồng nàn và bấy lâu khao khát tự do. Hơn thế, ông còn là một nhà nghệ sĩ say mê cái
đẹp, lý tưởng đẹp. Khi hai con người ấy thống nhất, hòa quyện, trộn lẫn vào nhau thì cảm xúc
thăng hoa thành những vần thơ bất tử. Thời đại cũ không chất chứa nổi hồn ông. Chỉ có thời
đại Cách mạng với vẻ đẹp của tổ quốc tự do mới trở thành chất kết dính cho hồn thơ Quang
Dũng. Đất nước trở thành điểm tựa để thơ Quang Dũng cất cánh, bay bổng.
Thơ Quang Dũng hiện lên một cảm hứng yêu nước nồng nàn tha thiết. Nhà thơ ca ngợi
đất nước bằng tất cả niềm tự hào của một trái tim chân thành, sôi nổi: “Ở đây Đất Nước gấm
hoa sao” (Ba Vì đón Bác). Hai chữ “Đất Nước” luôn được nhà thơ viết hoa một cách trang
trọng, thể hiện được những tình cảm thiêng liêng mà trìu mến dành cho non sông đất
nước: “Tháng chạp màn sương trùm Đất Nước” (Những làng đi qua), “Mới thấy yêu sao
là Đất Nước “ (Pha Đin).
Đất nước trong thơ Quang Dũng là đất nước trong chiến tranh còn nhiều gian khổ nhưng
đầy khí thế lên đường. Nhà thơ khắc họa thành công không khí của cả nước cùng ra trận:
Thôi nhé Miền Xuôi! Thôi tạm biệt
Thôi chào Hà Nội lửa ngang trời
Ta đi
Ngõ gạch - tường đang đục
Gạn từng giọt nước đánh cầm hơi
(Những làng đi qua)
Đoạn thơ như thổi cái hơi nóng hừng hực của buổi ra trận vào lòng người đọc. Cuộc
chiến được bày ra trước mắt với tất cả bừa bộn, ngổn ngang - với “tường đang đục”, “lửa
ngang trời”. Nó đặt mọi người vào cái tâm thế của kẻ làm trai trước vận mệnh đất nước. Đất
nước đó - còn gian lao nhưng cũng thật hào sảng, khó khăn mà cũng thật anh hùng.
Đất nước hiện lên trong “khẩu khí anh hùng”, đó là tâm trạng chung của một lớp người,
không riêng gì Quang Dũng. Ta gặp trong thơ Chính Hữu hình ảnh thật đẹp:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
40
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
(Ngày về)
Giọng thơ hào sảng, hình ảnh thơ tráng lệ nghe phảng phất hơi thở Kinh Kha đâu đây.
Nhưng nếu trong thơ Chính Hữu hình ảnh đất nước được xây dựng bằng lối viết mượt mà, có
phần cách điệu theo kiểu Chinh phụ ngâm xưa thì Quang Dũng đưa đất nước đến người đọc
bằng một lối viết “trúc trắc”, nhịp dài ngắn không đều, giàu vần trắc và những hình ảnh chân
thật cụ thể. Đó đúng là đất nước của buổi đầu chiến trận, khi mà những đội ngũ chưa thật sự
hình thành, khi những chiến thuật, lối đánh cũng chưa thật rõ nét. Nhà thơ không ngắm nhìn
đất nước bằng hình ảnh “đội ngũ ta đi dài như tiếng hát” hay bằng những dấu chân thế hệ tiếp
bước nhau qua trảng cỏ như trong thơ Thanh Thảo. Quang Dũng ngắm nhìn đất nước bằng
một góc độ riêng, giàu chi tiết. Đây là một góc của chiến trận:
Có làng trung đoàn ta đi qua
Máu đông in dấu giày đinh giặc
Nền tro, gạch sém ngách buồng ai
Chiếc tã đầu giường đang cháy dở
(Những làng đi qua)
Còn đây là hình ảnh tản cư kháng chiến:
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Dân đang gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ, chó gầy mắt hoang dại
(Những làng đi qua)
Có nghĩa là Quang Dũng ít miêu tả đất nước bằng tư duy khái quát, tổng hợp và trừu
tượng. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng cái nhìn của một người trong cuộc với những sự kiện,
hình ảnh, chi tiết thấm đẫm chất “sống”, chất chiến trận. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với
hoàn cảnh riêng của đất nước. Khi dân tộc ta mới lần đầu tiên chiến đấu trực diện với thực dân 41
Pháp thì tư duy của con người về đất nước cũng mới mẻ, cụ thể và ít tính khái quát hơn so với
thời chống Mĩ.
Đất nước trong thơ Quang Dũng là đất nước của buổi đầu đánh giặc với ngổn ngang các
sự kiện:
Khẩu hiệu trên tường đá ong mới
Thông tin đứng vẽ giặc tây hàng
Trống ếch khua rền khắp ngõ ngang
Chiều đến loa vang tin chiến sự
Khêu bấc, đèn con, họp tiểu đoàn...
(Những làng đi qua)
Nhà thơ viết về đất nước bằng cái nhìn của người viết bút kí, phóng sự chiến trường,
nhưng chất thơ vẫn bay bổng, đầy rung cảm:
Ta đi
Tháp đứng nghiêm hồ lạnh
Hoàn Kiếm đêm đêm giặc rụng rời
Màu đỏ sao bay về đỉnh tháp...
(Những làng đi qua)
Bước vào cuộc chiến một mất một còn, khi mà lực lượng đôi bên không cân sức, mỗi
người đều phải tự nhận thức về vị trí, trách nhiệm của mình lớn lên ngang tầm lịch sử. Đất
nước hiện lên trong vẻ đẹp kiên cường, không khuất phục trước sức mạnh của kẻ thù:
Đường Mười hai anh dũng
Đường dài hun hút đá răm
Mình mang đầy vết đạn bom
Nhưng quân thù khiếp sợ
(Đường Mười hai)
Đó là một đất nước chiến đấu “dồn dập chân đi, cuồn cuộn sóng người / chiến đấu/Giặc
điên dại” (Đường Mười hai); cũng là một đất nước đang dựng xây:
42
Ầm ầm xe lu vách đá vọng
Mờ ảo công trường hiện dưới lau
Đội hạt cầu đường lán lưu động
Còn bay than bếp dưới hoa đào.
(Pha Đin)
Thơ Quang Dũng viết về đất nước hào hùng nhưng chân thật, cụ thể. Đất nước trong
buổi đầu kháng chiến không thiếu những vất vả, gian lao, những nỗi buồn:
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Tháng chạp màn sương trùm Đất nước
Gió mùa chết héo mạ non xanh
Sương muối thấm vào bao đạn ướt.
(Những làng đi qua)
Những con người của đất nước ra đi trong không khí ảm đạm của thiên nhiên và mang
nỗi buồn nặng trĩu trong hồn. Bước hành quân của họ không phải bao giờ cũng dồn dập, hào
hùng:
Tiếng hát hành quân vui trong mưa
Gió bấc về sân buổi tiễn đưa
(Những làng đi qua)
Trong câu thơ này có từ chỉ cảm xúc “vui”, có tiếng hát nhưng đọc kĩ vẫn thấy niềm vui
dường như không cất lên nổi giữa mưa phùn, gió bấc. Buổi tiễn đưa hiện ra trong cái không
khí ngùi ngùi của tâm trạng và của đất trời. Hình ảnh ấy cũng giống như hình ảnh của con
người trong thơ Nguyễn Đình Thi:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
43
(Đất nước)
Phải chăng đây cũng là tâm trạng chung của những người thanh niên thời đại, cất bước
lên đường theo tiếng gọi của non sông cũng là biết mình phải đón nhận những gian nan lớn.
Một chút “dư vị buồn rất sâu” (Đặng Anh Đào) là điều khó tránh khỏi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng tinh thần của dân tộc Việt Nam. Viết về hình tượng
đất nước, Quang Dũng không quên dành những vần thơ trang trọng nhất để ca ngợi Người:
Hãy dừng lại đây
Và kính cẩn
Đi theo lối ngoặt dốc Yên Bồ
Hãy nén tim mình quá xúc động
…
Cây đa mùa xuân Bảy mươi chín
Bác để cho đời rồi vĩnh biệt
(Ba Vì đón Bác)
Hình ảnh Người trong thơ Quang Dũng thật hiền lành, dung dị và giàu ân tình. Bác đến
với mảnh đất Ba Vì quê hương, Bác “mừng tuổi dân”, Bác “đẹp lòng” vì những người làm ăn
chăm chỉ, Bác “hỏi nếp làm ăn hợp tác'“, Bác “dành phần kẹo” chia cho các cháu thiếu nhi...
Kể làm sao hết những tình cảm Bác dành cho quê hương. Bởi vì Bác Hồ là hiện thân của đất
nước.
Cảm hứng lên đường trong thơ Quang Dũng còn được thể hiện ở những địa
danh. Trong 47 bài thơ của mình, Quang Dũng dùng đến 112 địa danh, trong đó có 17 địa
danh thiên nhiên: sông Hồng, sông Mã, núi Trường Sơn, rừng Yên Thế, đèo Pha Đin, sông
Đà, sông Lam, đèo Hoa, suối Thơ, sông Thương..., 20 địa danh của xứ Đoài quê ông: sông
Đáy, Sơn Tây, Bất Bạt, xứ Đoài, Bương Cấn, Sài Sơn, Phủ Quốc, Hà Tây, xã Vật Lại, xã
Tòng, Tòng Bạt, Tam Bảo, Ba Vì, Núi Tản, núi Thầy, dốc Yên Bồ, chóp Tản Viên, Quốc Oai,
bến Mộc, bãi Lương Tuyền và 75 địa danh mang tính chất địa chính: Hà Nội, Hải Phòng, Nhật
Tân, Nga Sơn, xứ Thanh, đất Nghệ, Cẩm Thúy, Tây Giai, cửa Tiền, Hồng Phú, Bắc Giang,
Lam Sơn, Hà Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Nho Quan, Nghệ Tĩnh, Việt Bắc, Bình Thuận, Tiền
Hải... Những tên đất, tên núi, tên sông gắn liền với tình yêu thiên nhiên đất đai của tổ quốc hay
gợi lên rất nhiều kỉ niệm chiến trường. Mỗi cái tên đọc lên đã thấy chan chứa niềm tự hào:
44
Sông Đà đổ nước vào sông Thao
Hội với sông Lô đầu Bạch Hạc
Mỏm đất Trung Hà nhìn bát ngát
Những bãi ngô dài trên bãi cát
Thanh Thủy, Thanh Sơn và Bợ Bạt
(Ba Vì đón Bác)
Nhiều nhà thơ cùng thời với Quang Dũng lấy cảm hứng đất nước từ những địa danh. Đó
là trường hợp của Tố Hữu với Việt Bắc, Ta đi tới hay Trần Mai Ninh với Tình sông núi Qua
những địa danh, người đọc như được cùng sống, cùng cảm thông với những nhân vật có thật,
cùng hòa nhịp cảm xúc của mình với cảm xúc chung của dân tộc trên bao vùng đất kháng
chiến. Đằng sau những địa danh ấy là một vùng đất đai, xứ sở của tổ quốc, là sự chất chứa
những vẻ đẹp, những đau thương, cả những kỉ niệm và lòng yêu mến của con người.
Viết về những địa danh của đất nước, thơ Quang Dũng vẫn có những nét riêng. Cuộc đời
chiến đấu trải qua bao vùng miền của tổ quốc cộng hưởng với tâm hồn ưa phiêu du, thích “xê
dịch” của Quang Dũng làm cho thơ ông cũng phong phú các tên gọi, các vùng đất. Đây không
phải là yếu tố riêng chỉ có trong thơ Quang Dũng, nhưng gọi tên, miêu tả các địa danh đầy gợi
cảm như Quang Dũng thì không phải nhà thơ nào cũng làm được. “Quang Dũng vẫn là người
rất tài hoa trong việc ghi nhận và thổi vào sự sống cho các địa danh. Những tên đất riêng -
thường là những tên nôm - là quê ông, là những nơi ông đã đi qua - Những làng đi qua, thế mà
vào thơ lại trở thành một lưu luyến, một nhớ nhung đến thế, không chỉ là một xứ Đoài mây
trắng với Bương Cấn, Sài Sơn, với Phủ Quốc, Ba Vì, Bất Bạt... mà còn là Sài Khao, Mường
Hịch, Pha Luông, Mai Châu, Châu Mộc.” [87, tr. 33].
Với các nhà thơ khác, địa danh thường gắn với niềm tự hào thì trong thơ Quang Dũng,
nó gắn nhiều hơn với sự trải nghiệm. Địa danh trong thơ Quang Dũng được miêu tả với tư
cách một người đã đến, đã nhìn tận mắt, đã trải nghiệm qua. Cho nên nhiều cái tên đọc lên
nghe trúc trắc, khúc khuỷu nhưng với Quang Dũng lại thật quen thuộc, tự nhiên như chính quê
nhà mình vậy: Mường Hịch, Mai Châu, Mường Lát, Pha Luông, Pha Đin, Lương Tuyền, Yên
Phụ, Viên Chăn, Châu Mộc, Sầm Nứa, Ô Lỗi, Bạch Câu, Cẩm Thúy, Tây Giai...
Cách sử dụng địa danh trong thơ Quang Dũng cũng thật đặc biệt, không có dấu vết của
sự kì công, gọt giũa nhưng mỗi địa danh như đã tìm được vị trí riêng của nó, rất chính xác, 45
rất “đắc địa”. Trong câu thơ sau khó có thể thay hai chữ “Mường Hịch” bằng một địa danh
nào khác:
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
(Tây Tiến)
Đất nước trong thơ Quang Dũng là đất nước trong chiến tranh, trong lửa đạn ngút trời. Ở
đó, Quang Dũng cảm nhận đất nước bằng một không gian rất riêng: Không gian con
đường. Con đường là nỗi ám ảnh trong thơ Quang Dũng từ rất sớm. Nhưng nếu như trước
Cách mạng tháng Tám, đó là “đường ải vắng” (Chiêu Quân), là “đường quạnh quạnh” (Cố
Quận) - những con đường tít tấp, mịt mùng, ra đi không có lối về; thì sau Cách mạng tháng
Tám, đó là con đường ra trận, đường về với quê hương đầy ắp niềm tự hào. Nhà thơ viết về
con đường với tất cả niềm say mê. Trong 47 bài thơ của mình, Quang Dũng đã 50 lần nhắc tới
hình ảnh con đường. Bước chân Quang Dũng in dấu ấn những nẻo đường: “đường xa”,
“đường tản cư”, “dọc đường”, “đường đi”, “cầu đường”, “đường dân công”, “đường về
trường huyện”, “đường Mười hai anh dũng”, “ngựa chiến đường băng”, “lên đường”... Con
đường trong thơ Quang Dũng còn là những “lối”, những “ngả”, những “dốc”, là “đường
kháng chiến” hay có khi chỉ là một hướng đi trong Tây Tiến.
Con đường trong thơ Quang Dũng trước hết là con đường chiến trận, là “Đường Mười
hai anh dũng / Đường dài hun hút đá răm / Mình mang đầy vết đạn bom” (Đường Mười
hai), là bước chân của người lính Tây Tiến “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Con
đường ấy không thiếu những khó khăn, những dốc cao, vực thẳm, mây mù thách thức người
lính. Nhưng con đường ấy cũng là con đường của tổ quốc, là một phần máu thịt của đất nước
mà người lính phải giữ gìn và bảo vệ.
Trên những nẻo đường đất nước, Quang Dũng đã ghi lại được những bức tranh thật đẹp:
Dọc những đường thu nhiều kỉ niệm
Đường lên Phương Bắc nhớ nhung ai
Đường về Nam bộ bao trông ngóng
Hiền hậu non xanh với biển dài
(Một mùa thu tới)
46
Đó là con đường ra trận được cảm nhận bằng một tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ trở thành
những “đường thơm”, “đường trăng”, đầy hương sắc ngọt ngào:
Đường ấy dừa trăng như cổ tích
Đường vào những truyện thuở ngày xanh
Đường qua bến lội ngang người cát
Biển thủy triều dâng mặn nước lành
(Đường trăng)
Trong giai đoạn đất nước có ngoại xâm, khi những người con của đất nước đang lên
đường theo tiếng gọi của sông núi, hình ảnh con đường trở thành hình tượng trung tâm của tổ
quốc. Cùng với Tố Hữu, Quang Dũng là một trong những nhà thơ viết nhiều nhất về con
đường ra trận. Bằng hình ảnh ấy, nhà thơ đã thể hiện được hình tượng đất nước trong chiến
tranh với khí thế lên đường.
2.1.2. Hình tượng thiên nhiên đất nước hùng vĩ và diễm lệ
Đọc thơ Quang Dũng, người ta chú ý đến điều này: Thơ Quang Dũng có cảm hứng với
những cái mãnh liệt, những hình ảnh thiên nhiên dữ dội, những con người hiên ngang. “Cái
gì hoành tráng, bi tráng, xanh thẳm, ngút ngàn... mới là vòm trời của cánh bay Quang
Dũng” [56, tr. 50]. Nhà thơ tha thiết yêu thiên nhiên đất nước, khát khao khám phá mọi miền
tổ quốc. Thiên nhiên đất nước trong thơ Quang Dũng được hiện lên bằng hai nét vẽ: hùng vĩ
và diễm lệ.
Thiên nhiên trong thơ Quang Dũng là thiên nhiên của những gì hoành tráng và kì vĩ nhất.
Ông chú ý đến những bức tranh:
Cao vút Trường Sơn
Mây trắng
Mưa rừng
Chớp lửa.
(Gửi Sơn Tây)
Nhà thơ tìm đến vùng đất thiên nhiên hiểm trở và khắc nghiệt với những dốc cao, vực
47
thẳm, mưa ngàn, mây trắng ngang trời, những đèo Pha Đin, sông Mã, Mai Châu, Mường Lát,
Mường Hịch... để từ đó vẽ lên những bức tranh sinh động về thiên nhiên đất nước. Đây là cảnh
núi:
Như từng đợi sóng bủa lên trời
Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được
Lắc đầu tài xế thấm mồ hôi
Bên dốc chon von ngàn thước vực
(Pha Đin)
Còn đây là cảnh sông:
Ở đây đất nước gấm hoa sao
Sông Đà đổ nước vào sông Thao
Hội với sông Lô đầu Bạch Hạc
Mỏm đất Trung Hà nhìn bát ngát
(Gửi Sơn Tây)
Vì thế, cũng có lí khi nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thiên nhiên trong thơ Quang Dũng
thường là những bức tranh thủy mặc hơn là tranh tả thực. Nhà thơ miêu tả thiên nhiên bằng nét
vẽ khái quát với bút pháp tạo hình độc đáo. Cái nhìn của nhà thơ thường là từ cao, từ xa nhìn
xuống như thu vào tầm mắt tất cả vẻ đẹp của thiên nhiên, sông núi. Và chỉ bằng một nét vẽ tài
tình, ông đã khắc họa được cái thế kì vĩ, “chon von”, cao ngất, chạm tới trời của Pha
Đin: “Như từng đợi sóng bủa lên trời”. Cũng chỉ một chữ “gầm” thôi, Quang Dũng đã làm
hiện lên hết cái dữ dội, hoang dại và mãnh liệt của sông Mã:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Tây Tiến)
Bút pháp chấm phá là một nét đặc trưng của thi pháp văn học Trung đại. Nhưng trong
thơ cổ hiếm khi nào nó được dùng để miêu tả cái dữ dội, hoành tráng. Thường thì đó là những
nét vẽ mềm mại, thoáng buồn kiểu như:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
48
(Qua Đèo Ngang - Bà huyện Thanh Quan)
Quang Dũng sử dụng một cách tự nhiên bút pháp cổ điển để viết về những gì rất thật của
đời sống chiến đấu. Cuộc hành quân của những người lính Tây Tiến chỉ được tạo nên bằng
một vài nét bút nhưng đã dựng lên hết những cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày...
hiểm nguy và đe dọa bước chân người lính:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
(Tây Tiến)
Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp
đa dạng mà độc đáo, hùng vĩ mà thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Ông có lối gây ấn tượng mạnh
về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ. Ở bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã vẽ ra bốn bức tranh hoành
tráng, diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của rừng núi Tây Bắc. Hai câu
thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “cồn mây”, “súng ngửi
trời” đã diễn tả thật đặc sắc sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc.
Ba chữ “súng ngửi trời” thật tinh nghịch, hồn nhiên nhưng cũng rất thật. Người lính đi trong
mây, lẽ tự nhiên mũi súng như chạm tới đỉnh trời, “ngửi trời”. Câu thơ thứ ba như bẻ đôi, diễn
tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm
thẳm. Và khi đã đạt tới đỉnh cao của “cổng trời” rồi, nhìn ra xa mới thấy một bức tranh tuyệt
mĩ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, mới
thấy thấp thoáng xa xa những ngôi nhà chìm trong sương khói lung linh, diệu vợi...
Thiên nhiên trong thơ Quang Dũng thường là những bức tranh như vậy. Bằng ngòi bút
có năng khiếu thẳm mĩ tổng hợp cầm, kì, thi, họa, ông đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên
giàu màu sắc, đường nét, mang đậm lối gây ấn tượng của hội họa và bút pháp tạo hình. Đó là
thiên nhiên của tâm hồn mãnh liệt và ưa khám phá. Tâm hồn ấy ắt phải tìm đến những vùng
đất hiểm trở, khắc nghiệt, bí ẩn đó nhưng cũng hứng thú vô cùng. Đọc Tây Tiến thấy hiện lên
đầy những tên đất lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu... Những cái
tên nghe hoang sơ, kì bí. Ai không quen hẳn có lúc phải rùng mình (Chiều chiều oai linh thác
49
gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người).
Những vùng đất hiểm trở ấy còn là những núi, sông, rừng, biển, dốc, vực, thác... của
thiên nhiên tổ quốc. Trong thơ Quang Dũng, đây là những hình tượng thiên nhiên xuất hiện
với tần số khá cao: Hình tượng núi xuất hiện 44 lần, sông 45 lần, rừng 38 lần, biển 14
lần, dốc 12 lần... Hiếm có nhà thơ nào viết về núi, sông, rừng, biển nhiều đến vậy. Nhà thơ yêu
tha thiết rừng. Trong số các hình ảnh thiên nhiên, Quang Dũng dành cho rừng một vị trí đáng
kể (38 lần). Rừng trong thơ Quang Dũng vừa uy nghiêm, cổ kính, vừa mạnh mẽ, hiên ngang:
Rừng ta thâm nghiêm
Um tùm bóng cả
Xanh Trường Sơn cây cổ đại nghìn năm
Rừng miền Tây che gió Lào quạt lửa
(Rừng)
Cùng với rừng là hình ảnh của núi và các dạng của địa hình núi (dốc, vực, thác). Núi
trong thơ Quang Dũng được miêu tả khá đa dạng: “núi xanh”, “núi biếc”, “dốc núi”, “hang
núi”, “bóng núi”, “núi rừng”, “hương núi”... Nhà thơ khai thác núi ở khía cạnh hiểm trở.
Núi hiện lên với những “dốc chon von”, “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, “ngàn thước
lên cao ngàn thước xuống”, “cồn mây”, “thác gầm thét”, “ngàn thước vực”, “vực thẳm”,
“đỉnh dốc”...
Thơ Quang Dũng có rất nhiều sông, cả những dòng sông có tên: sông Hồng, sông Đà,
sông Mã, sông Lô, sông Lam, sông Đáy, sông Chảy, sông Thương... và những dòng sông mà
dấu chân lãng du thoáng gặp trên đường đời: sông xa, chiều sông, sông trôi, sông cạn, sông
hiu hiu, bên sông, sông nước trong xanh... Sông là nơi Quang Dũng kí thác tâm hồn lãng mạn,
giàu mơ mộng của mình:
Sông trôi luống gợi dòng vổ hạn
Biền biệt ngày xanh xa ngày xanh
(Trắc ẩn)
Có lúc đó là dòng sông mãnh liệt, hoang dại (Sông Mã gầm lên khúc độc hành). Nhưng
phần nhiều sông trong thơ Quang Dũng mềm mại và gợi cảm:
Bãi sỏi quanh co dòng nước chậm
50
Cheo leo cầu tạm, vắt sông Thương
(Bố Hạ)
Vì thế, có người nói thơ Quang Dũng hợp với “sông Đáy dòng chậm” hơn là sông Hồng
sóng nước cuồn cuộn. Điều này là hợp lí vì khi phấn khởi, hào sảng, ông hòa mình vào núi
rừng, còn khi buồn bã nhà thơ lại tìm đến những dòng sông yên ả, trữ tình.
Trong số các hình ảnh kể trên, Quang Dũng viết về biển ít nhất. Nhà thơ say mê vị núi
đồi, gắn bó với rừng, nhưng đến với biển ông cũng để lại những cảm xúc đẹp:
Ầm ì biển thở dọc hải triều
Đồng muối lóa mắt ngày nắng thiêu
Ở đây đê biển ngăn con nước
Đê ngoài kia sống gió bao nhiêu.
(Về đồng muối)
Nhìn chung, núi, sông, rừng, biển đều là những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, khoáng
đạt. Viết về những hình ảnh này, ngòi bút Quang Dũng có xu hướng khái quát hóa, đồng thời
thể hiện niềm tự hào trước vẻ đẹp của sông núi. Cũng là núi, là sông, là rừng, là biển... là đất
đai, thiên nhiên của tổ quốc thân yêu nhưng đã được Quang Dũng tô thêm nét vẽ hùng vĩ và
hiểm trở, tạo thành những bức tranh giàu màu sắc, đường nét, có tính tạo hình cao và gây hứng
thú với người đọc.
Đọc thơ Quang Dũng, thấy thiên nhiên, sông núi nước ta thật đẹp. Nhà thơ nhiều khi
không giấu nổi niềm tự hào trước vẻ đẹp của đất nước:
Mới thây yêu sao là Đất Nước
Pha Đin ngàn chóp nổi hồ mây
(Pha Đin)
Tình yêu nước được thốt ra một cách trực tiếp, ngỡ ngàng. Những lời ca ngợi được viết
ra cụ thể, tự nhiên nhưng không hề gây cảm giác sáo rỗng mà vẫn tạo xúc cảm mạnh trong
lòng người đọc:
Đẹp như sơn thủy tranh đời Tống
51
(Pha Đin)
Ở đây Đất Nước gấm hoa sao!
(Ba Vì đón Bác)
Thiên nhiên đất nước trong thơ Quang Dũng không chỉ hùng vĩ, hiểm trở mà còn tươi
đẹp, diễm lệ. Có lẽ chỉ trong thơ Quang Dũng mới có được cảm giác bồng bềnh như thế này:
Nắng nửa sông xa mờ khí núi
Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu
(Thu)
Cũng chỉ trong thơ Quang Dũng mới có hình ảnh sông nước Tây Bắc mênh mang, mờ
ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(Tây Tiến)
Cái cảm giác mênh mông, trôi dạt ta đã gặp ở đâu đó trong thơ cổ (Quê hương khuất
bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai -Thôi Hiệu), trong Thơ mới (Bèo dạt
về đâu hàng nối hàng - Huy Cận), nhưng không ở đâu sông nước, con thuyền lại gợi cảm đến
như thế. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên với hai thái cực vừa đối lập nhau, vừa giao thoa, hội
nhập với nhau: “Một miền Tây nhòe mờ kiểu tranh lụa, cũng là một miền Tây hiểm trở và
hùng vĩ, góc cạnh, gân guốc của điêu khắc (...) Một miền Tây bí hiểm đầy hung khí của một
miền đất dữ, với “oai linh thác gầm thét”, “cọp trêu người”, cũng lại là một miền Tây đằm
thắm tình người: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói /Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”; lại cũng
là một miền thơ” [78, tr. 56]. Không gian trong một đoạn thơ là một dòng sông trong một buổi
chiều giăng mắc màn sương. Nhờ thế, mọi đường nét, dáng vẻ đều nhòe đi trong một nét vẽ
mờ ảo. Hình dáng người con gái trên dòng sông mềm mại, uyển chuyển, lung linh, hòa lẫn vào
sương khói, vào dòng nước lũ. Cái cảm giác mông lung, mơ hồ mà thật say mê cứ quyện lấy
hồn người đọc. Ngòi bút Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Vậy mà cảnh vật thiên nhiên xứ sở
qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (Có thấy hồn lau nẻo bến
52
bờ). Ông không chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên
cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Quang Dũng viết về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước với cả một niềm say mê. Trong thơ
ông ta thấy cả những hình ảnh “lộng lẫy như tranh sơn mài”:
Ngựa thồ đỉnh dốc nhỏ như kiến
Đi trong đường mây rắc bụi vàng
(Pha Đin)
và hình ảnh phiêu diêu, mềm mại:
Gió heo nổi sớm nắng thu về
Chuồn chuồn cánh mỏng lại bay đi
Rỡn từng ngọn cỏ may khô úa
Cánh nhạn tung trời thêu biệt li
(Thu)
Quang Dũng viết về phong cảnh thiên nhiên bằng con mắt của người họa sĩ, giai điệu
của người nhạc sĩ và tấm lòng yêu tha thiết quê hương đất nước. Bằng cách ấy, ông đã đưa
người đọc vào một thế giới vi diệu của thơ, họa, nhạc trộn lẫn, huyền ảo. Có những câu thơ
đọc lên đầy cảm giác, thấm đẫm âm nhạc và lung linh sắc màu. Chẳng hạn:
Tim tím chiều hôm lên bóng núi
Dọc đường mở những cánh hoa phai
(Tôi viết chiều nay)
hay:
Một chút linh hồn nhỏ
Đi về chân núi xanh
Màu tím chiều chầm chậm
Hoàng hôn nghe một mình
53
Giáo đường chuông rời rạc
Tan vỡ chiều âm thanh
(Tôi viết chiều nay)
Ở câu thơ trên, màu sắc được cảm nhận tinh tế, cách phối màu rất đạt: màu xanh của núi
hòa lẫn với màu tím của chiều tạo thành một găm màu nhạt; âm thanh chậm, rời rạc hòa điệu
cùng đường nét mềm mại, mờ ảo... tất cả như tràn vào hồn người đọc, gợi lên một nỗi buồn
nhẹ nhàng mà thấm thía...
Có thể nói “thiên nhiên trong thơ Quang Dũng (...) bao giờ cũng là một nhân vật quan
trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người” [47, tr. 43]. Quang Dũng viết về thiên
nhiên tổ quốc bằng hai nét bút chủ đạo: hùng vĩ và diễm lệ, với cách cảm nhận rất riêng của
một tâm hồn nghệ sĩ đa tài. Ông vừa là một nhà thơ, vừa là một họa sĩ, đồng thời lại có những
sáng tác âm nhạc. Cho nên thiên nhiên trong thơ ông không chỉ là những bức tranh sơn thủy
tuyệt đẹp mà còn mang giai điệu trầm bổng, giàu cảm xúc. Ông đã làm cho thiên nhiên đất
nước thêm tươi đẹp bằng những cách khám phá riêng, đồng thời cũng làm cho ta thêm yêu
quý, thêm trân trọng những gì thuộc về đất nước mà bấy lâu nay ta quên lãng.
2.1.3. Hình tượng quê hương tươi đẹp, gợi thương, gợi nhớ
Thơ Quang Dũng chan chứa tình cảm dành cho quê hương đất nước. “Trong thơ anh
thấy trào lên tình yêu quê hương, sự gắn bó với xóm làng, đồng ruộng, xứ sở. Anh có lần tâm
sự với bạn bè: mình cảm thấy trong mình có một “thằng bé nhà quê “ luôn luôn nhớ về làng
xóm, luôn luôn thèm khát được về quê” [76, tr. 13].
Quang Dũng đi nhiều, viết nhiều. Ông đi bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. “Đi chơi với Quang
Dũng là một cái thú” [99, tr. 69]. Trước khi gia nhập đoàn quân Tây Tiến, Quang Dũng đã
nhiều lần thực hiện những chuyến viễn hành. Sau Tây Tiến, Quang Dũng còn đi nhiều hơn
nữa. Cách mạng đã tạo cho ông những chuyến đi. Nhưng đó không còn là những chuyến đi
chất chứa nỗi “sầu vạn cổ” mà là đi để thưởng ngoạn vẻ đẹp của quê hương mình. “Quang
Dũng có khả năng hòa hợp tuyệt diệu và rung động tinh nhạy với những chòm xóm, cảnh quê,
với cảnh đồng quê chân mộc, lam lũ nhưng cũng rất thơ mộng” [35, tr. 40]. Cả ở những gì
giản dị nhất, Quang Dũng cũng làm ta vấn vương, lưu luyến:
Muối vừng hương thơm ngậy
Cua đồng canh rau đay
Mâm cơm đến bữa
54
(Nhớ)
Trong thơ Quang Dũng có cả những “nồi cơm trộn sắn”, “canh rau đay”, “bát muối
vừng”, “tiếng sung rơi”, “bờ tre xào xạc”, “lúa rì rào”, “đào bưởi chín cây”. Quang Dũng
viết về những gì giản dị nhất của quê hương bằng cảm xúc hồn hậu mà tha thiết, dung dị mà
cháy bỏng yêu thương. Những bức tranh quê trong thơ ông thường có thần thái, sinh động, kết
hợp tự nhiên giữa màu sắc và âm thanh, tình và cảnh:
Róc rách suối len
Cuộn tròn trong vắt
Sắn nương thơm thơm
Cầu thang ai hát
Bậc thang ruộng gặt
Đá ong phơi vàng
(Bắt tép kho cà)
Quang Dũng nhiều khi đắm mình vào vẻ đẹp của quê hương, say mê trong màu sắc bất
tận của mùa màng, ruộng gặt:
Đường về quê hương mùa lúa chín
Chim ngói bay về thửa tám thơm.
Em đã đi về xem lúa gặt
Làng anh bừng sáng cả đường rơm.
Hình ảnh quê hương trong thơ ông vừa dân giã vừa rất mực tài hoa. Những cảnh quê
thường được ông nắm bắt rất nhạy và đưa vào thơ tự nhiên như không có dấu vết của sự gọt
giũa. Ông đã tạo nên được cái hôn của những bức tranh quê bằng cảm nhận tinh tế của chính
mình:
Tu hú, tu hú
Mùa vải ven bờ
Nơi quê hương trời xưa ấu thơ
55
Mái tóc em vừa vương hương bưởi
Chân nhẹ nhàng còn dính phấn hoa.
(Những cô hàng xén)
Hình ảnh người con gái quê với mái tóc “vương hương bưởi” và “chân nhẹ nhàng còn
dính phấn hoa” đủ làm nên sức quyến rũ của quê hương.
Quế hương trong thơ Quang Dũng thật ngọt ngào và êm dịu. Ông không chỉ miêu tả quê
hương bằng màu sắc, âm thanh, hình ảnh mà còn gợi lên quê hương bằng hương vị. Thơ văn
ông “thoảng mùi hương quê mùa” [99, tr. 70]. Hương vị quê hương thật phong phú và gợi
cảm: “cơm đã thơm mùi”, “hương bưởi”, “thoảng mùi hoa lan nhè nhẹ”, “hoa lan vào ngõ
tối còn thơm”, “ngậy mùi cốm mới”, “thơm mùi lúa”, “phưng phức hương mùa”, “thửa tám
thơm”, “sắn nương thơm thơm”, “muối vừng hương thơm ngậy”... Ông làm cho chúng ta
thêm yêu quê hương bằng cách đánh thức cùng một lúc thính giác, thị giác và khứu giác của ta
để đưa ta đến một cảm giác thật ngọt ngào, lan tỏa vào tận sâu trong trái tim mỗi con người.
Làm sao không yêu, không quí những cảnh quê như thế này:
Đồng quê sẽ mãi thơm mùi lúa
Phưng phức hương mùa, thoảng ấm no
Xanh ngát xanh rờn hơi gió chạy
Thanh bình đôi điệu hát câu thơ
(Một mùa thu tới)
Suy cho cùng, tất cả tình yêu quê hương đất nước của Quang Dũng là ở chỗ ông mong
mỏi cho quê hương được ấm no, thanh bình. Chất nghệ sĩ lãng tử trong ông bao giờ cũng sâu
thẳm và đằm thắm chất nhân văn của một con người. Quang Dũng nặng lòng với đất nước.
Ông muốn hát lên những khúc ca về đất nước tươi đẹp. Nhưng tiếng hát ấy trước hết là những
mong mỏi rất thật của một hồn người về quê hương hạnh phúc. Điều đó đã làm nên giá trị của
thơ Quang Dũng cũng như làm nên sức sống của những bài thơ Quang Dũng giữa cát bụi thời
gian. Quang Dũng đã viết và để lại cho chúng ta những cảm xúc đẹp ở cả hai khía cạnh: lòng
yêu cái đẹp mang tính chất thẩm mỹ và sự trân trọng những giá trị sống mang tính chất nhân
văn. “Quang Dũng đã cố gắng lột tả cho hết vẻ đẹp nồng hậu của quê hương Việt Nam với
những nét đặc sắc riêng không lẫn, góp cho thơ Việt Nam những bức tranh quê đằm thắm, xúc
động lòng người'“ [35, tr. 40].
56
Cũng giống như chàng kị sĩ xứ Đaghétxtan thuở nọ, đi đến đâu cũng hát mãi khúc ca về
quê hương mình, người nghệ sĩ Quang Dũng dù lãng du, phiêu bồng vẫn không thôi nhớ về xứ
Đoài mây trắng. Ông “Nhớ Sơn Tây hơn một mối tình”. Trong trái tim ông có một góc riêng,
sâu thẳm, trong lành nhất dành cho núi Sài Sơn, dòng sông Đáy, đỉnh Ba Vì... Quê hương ông,
làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây là một vùng đất đai cằn cỗi, nghèo khó.
Người dân xứ Đoài có nhiều lí do để lưu lạc, tha phương. Nhưng dường như là một nghịch lí,
càng đi nhiều thì họ càng nhớ nhiều, nhớ da diết mảnh đất quê hương. Quang Dũng không
nằm ngoài số đó. Đất đai, sông núi xứ Đoài đã trở thành niềm ám ảnh thơ Quang Dũng.
Những ngày phải xa quê, canh cánh trong lòng ông là một nỗi niềm nhớ mong khắc khoải về
mảnh đất quê hương:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thây bóng Ba Vì
(Mắt người Sơn Tây)
Dù ra đi chiến đấu, ông vẫn đau đáu hướng về quê hương trong cảnh chiến tranh điêu
tàn:
Mẹ ta em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
(Mắt người Sơn Tây)
Quê hương trong thơ ông là cả một nỗi niềm thương nhớ. Nỗi nhớ thương có khi không
kìm nén được, bật ra thành tiếng kêu tha thiết:
Đất đá ong trong lòng giếng mát
Ôi Sơn Tây, Sài Sơn yêu thương
(Nhớ một bóng núi)
Ông đã tạo nên cho xứ Đoài quê ông một nét riêng, không lẫn với bất kì làng quê nào
khác. Xứ Đoài trong ông trước hết là cả “một miền mây” mà ông là “cánh chim lang
57
thang” luôn khao khát tìm về. Mây với Quang Dũng là tất cả những gì trong trẻo, tinh khiết,
thanh cao nhất. “Miền mây” đó là quê hương ông - một quê hương được nhìn bằng nỗi lòng
kẻ viễn xứ nên cũng được bao bọc trong vẻ đẹp thanh khiết và bồng bềnh của mây.
Xứ Đoài còn là dòng sông Đáy thanh bình, chảy hiền hòa giữa đôi bờ xanh tốt những bãi
mía, vườn dâu, rặng nhãn:
Sông Đáy xuôi dài cồn cát mênh mông
Làng bên bờ xanh mía
Thoảng mùi hoa lan, hoa nhài nhè nhẹ
Tiếng nói xa dần
Chiều tím cuối mùa xuân
Sông nước trong xanh
Những bước chân tròn cát mịn
(Những cô hàng xén)
Nhà Quang Dũng ở ven sông Đáy, nhìn ra xa xa thấy bóng Ba Vì thấp thoáng. Cho nên,
đi xa Quang Dũng vẫn “nhớ một bóng núi”. Ông không miêu tả Ba Vì với cái nhìn cận cảnh
của một người lạ lẫm:
Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ mào đỏ thắp bình mình
(Huy Cận)
Tình cảm tự nhiên của một người con thân thuộc từ thời thơ ấu đã đưa thi nhân đến cái
nhìn viễn cảnh, bàng bạc:
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
(Mắt người Sơn Tây)
Ba Vì tảng trán xanh
Thức với xứ Đoài mây trắng lắm
(Bất Bạt đêm giao quân)
Đỉnh núi Ba Vì mây trắng, dòng sông Đáy chảy chậm là hai hình ảnh quê hương tha thiết
của Quang Dũng. Xa bóng núi ấy là xa một nguồn chở che thân thiết, xa dòng sông ấy là xa 58
một nguồn bồi đắp dạt dào. Quang Dũng đã nhiều lần tha phương, lưu lạc. Nỗi nhớ thương
đau đáu khiến ông phải thốt lên: “Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm”. Chỉ một hình ảnh gợi
cũng đủ làm nên nỗi nhổ quê nhà:
Những tàu cau
Đượm làm chi ánh nắng
Mà sao lưu luyến người
Ôi ta nhớ quê nhà
(Thu quê ai)
Xa quê, ông nhớ rõ đến từng chi tiết nhỏ của cảnh vật quê nhà:
Ngồi đây vời tưởng đường quê hương
Lúc đã xanh xanh mấy nẻo làng
Cốm đã thơm mùi, hồng đã chín
Ao sau vườn cũ, nước trong xanh
(...)
Cữ này đào bưởi đang chín cây
Mía đỏ vườn hoang mang bóng ngày
Bướm nhẹ cánh vàng mơ lá cải
Trời thu không rượu cúc mà say
(Thu)
Thật kì lạ! Nhà thơ xa quê nhưng quê hương như đang hiện lên trước mắt, sống động,
chân thật. Tất cả như đang ở trong cái thế chuyển động của hiện tại “lúa đã xanh xanh”,
“hồng đã chín”, “đào bưởi đang chín cây”. Còn Quang Dũng thì say sưa hít thở không khí
quê hương, đắm chìm trong màu sắc quê hương (lúa xanh xanh, mía đỏ vườn, hồng chín cây,
bướm nhẹ cánh vàng). Quê hương đó tràn ngập màu sắc, say đắm hương thơm. Làm sao
không yêu, không quí cho được.
Quê hương tươi đẹp, gợi thương, gợi nhớ còn bởi có những con người quê hương. Trong
59
thơ Quang Dũng đó là những “Mẹ già đầu tóc bạc phơ /Dăn deo nét khó”, những em
nhỏ “nghèo khó giữa vườn hoang dại”, là “cháu gái mồ côi/Mắt sáng trong đang tập đánh
vần” hay là “mọi thằng con bé nhỏ/Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông”. Quê hương còn có
những người con gái:
Má hồng thôn nữ
Thoảng mùi thơm quê mùa
Hơi thở ấm trầu, răng đen nhưng nhức
(Những cô hàng xén)
Nhà thơ tìm thấy cả trong những cái tên người niềm tự hào:
Những cô hàng xén tên xinh
Đẹp như ca dao nước Việt
(Những cô hàng xén)
Quang Dũng tưởng chừng như là kẻ lãng tử, tha phương bậc nhất trong thi ca Việt lại là
con người nặng lòng với quê hương vô cùng. Thế giới thơ ông là thế giới của hoài niệm,
của “nhớ về” và “trở về” quê hương: “trở lại đồng Bương Cấn”, “Về núi Sài Sơn ngắm lúa
vàng”, “Trở về đây buồn đất cũ người xưa”, “về quê hương”, “vời tưởng đường quê hương”,
“về làng”, “nhớ mây làng về trưa”... Cho nên quê hương trong thơ ông cũng là quê hương
trong hoài niệm, quê hương của nỗi lòng người xa quê. Nó được phủ lên bởi một bức màn
lung linh của tình thương nhớ nên cũng tươi đẹp vô cùng. Quang Dũng đã làm cho những dải
đất đá ong khô cằn cỗi xứ Sơn Tây trở nên gợi cảm, làm cho đỉnh núi Ba Vì, dòng sông Đà
muôn đời khắc nghiệt (Núi cao sông hãy còn dài / Năm năm báo oán đời đời đánh ghen) trở
nên thanh bình và hiền hậu. “Chưa ai khác ngoài ông, cho đến hôm nay, kề cả Tản Đà đã tạo
nên được một sự sống rung động đến thế cho xứ Đoài nhiều mây trắng quê ông. Con đường
qua cầu Giấy, lên Phùng, đến với xứ Đoài nhờ vào thơ ông mà trở nên thơ mộng hơn, mỹ lệ
hơn, lưu luyến hơn dẫu đất đai nơi đâu cũng có một vẻ đẹp riêng” [48, tr. 326]. Ông làm cho
chúng ta yêu mến xứ Đoài quê ông, để từ đó thêm yêu quê hương riêng của mình. Chỉ điều đó
thôi, Quang Dũng cũng xứng đáng để người đời nhớ tới cho dù trong cuộc đời ông chưa từng
có ý định xây dựng cho mình sự nghiệp thơ ca.
60
2.2. Hình tượng con người
2.2.1. Tượng đài bất tử về người lính vô danh
Văn học là nhân học, đối tượng thể hiện chủ yếu của văn học là con người. Cảm hứng về
con người là cảm hứng xuyên suốt trong văn học từ những tác phẩm cổ đại (Prômêtê bị
xiềng) đến những tác phẩm trung đại và hiện đại (Truyện Kiều - Nguyễn Du, Tình yêu cuộc
sống – Giắc Lơnđơn, Người mẹ - Gorki). Số phận của con người, tình yêu của con người,
những trăn trở, suy tư, cảm xúc của con người là nguồn đề tài vô tận cho con người khám phá.
Tuy nhiên, “con người trong văn học đâu phải là con người có thật trong thực tế, mà là quan
niệm về con người ấy một cách thẩm mỹ và nghệ thuật” (Trần Đình Sử). “Có nghĩa là, từ
cuộc sống vào văn học, vấn đề con người đã được thẩm thấu qua lăng kính cảm nhận từ tâm
hồn của cá nhân người nghệ sĩ và được nâng lên mức thẩm mỹ và nghệ thuật” (Trần Đình Sử
(1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, tr. 90). Trong tác phẩm văn học, con người là
trung tâm cảm nhận và phản ánh thế giới.
Văn học Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ thể hiện tập trung
chủ đề người lính. Họ là những con người “mang dấu ấn, tầm vóc, tư tưởng và ý chí của thời
đại” [54, tr. 43]. Văn nghệ sĩ nói chung, các nhà thơ nói riêng đã xây dựng thành công hình
tượng người lính, những con người gánh vác sứ mệnh lịch sử trước tiếng gọi thiêng liêng của
tổ quốc.
Hình tượng người lính trong thơ gây nhiều ấn tượng và xúc động mạnh mẽ trong lòng
người đọc. Trong kháng chiến chống Pháp đó là hình ảnh những anh vệ quốc quân, những con
người gần gũi, hiền lành nhưng hết lòng hy sinh cho tổ quốc:
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Đến thời chống Mỹ, hình tượng người lính hiện lên với tầm vóc mới:
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
61
(Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)
Đó là những con người giàu lòng yêu nước, tràn đầy tinh thần lạc quan yêu đời nhưng
cũng ý thức sâu sắc về sứ mệnh lịch sử mà dân tộc trao cho mình. Có thể nói, hình tượng
người lính trong thơ kháng chiến vừa kế tục những nét truyền thống của văn học yêu nước vừa
có những nét mới từng trải, bản lĩnh và có chiều sâu.
Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến từ những năm 1947. Việc mặc áo lính, là một
cán bộ trong quân đội đối với ông ngày ấy “có nghĩa thiêng liêng và tự hào lắm” [69, tr. 98].
Tây Tiến là đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ
miền biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng thượng Lào cũng như vùng
Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng: từ Châu Mai, Châu Mộc sang
Sầm Nứa rồi vòng về phía tây Thanh Hoá. Cuộc sống chiến đấu ở binh đoàn Tây Tiến quả là
gian khổ: “đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều” [96, tr. 23]. Không chỉ phải chiến đấu
với quân thù, người lính còn phải vật lộn với núi cao, rừng rậm, sương mù, với những thiếu
thốn về thuốc men, lương thực, quân nhu. Vất vả là thế nhưng cũng phải nói thêm rằng
lính Tây Tiến phần đông là học sinh - sinh viên trí thức Hà Nội. Họ hào hoa, lãng mạn, đa tình.
Họ đến với gian khổ bằng khát khao khám phá bản thân và khám phá đất nước. Cho nên họ
cũng lạc quan, yêu đời và coi thường hiểm nguy. “Có những chiến sĩ sốt rét run cầm cập vẫn
nằm nguyên ở vị trí chiến đấu, bắn súng, ném lựu đạn, vần đá từ trên cao xuống, tiêu diệt
nhiều tên địch” [96, tr. 23].
Là một chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng viết về người lính tự nhiên như
chính hơi thở của mình. Qua thơ, ông đã chung đúc thành công “bức tượng đài - bản giao
hưởng vừa lồng lộng hoành tráng, vừa vang vọng trữ tình về những chàng lính trẻ Hà Nội
thời đầu sau Cách mạng đã ra đi đầy hào khí vì nghĩa lớn, những chiến sĩ yêu nước, yêu đời,
thật đáng mến thương, cảm phục” [77, tr. 253].
Trong thơ kháng chiến, cách viết của khá nhiều nhà thơ là đi từ những hình ảnh chân
thực, có thật, đến những gương mặt chung chung, mang ý nghĩa điển hình. Điều này đã tạo
nên hiệu quả nghệ thuật về chất sống cho thơ. Hình ảnh người lính thường hiện lên cụ thể, là
những gương mặt riêng: Xuân Diệu viết về Phan Hành Sơn, Tố Hữu tập trung làm nổi bật
phẩm chất anh hùng của dân tộc qua hình ảnh Nguyễn Vãn Trỗi, mẹ Tơm, em Hoà, cậu bé
Lượm hay chị Nguyễn Thị Lý... Nguyễn Đức Mậu có cách viết giàu cảm xúc về một người
đồng đội:
Chết - hy sinh cho Tổ quốc Hùng ơi
62
Máu thấm đỏ, lời ca bay vào đất
Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc
Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng
(Nấm mộ và cây trầm)
Quang Dũng không đi theo lối quen đó. Ông ít khi miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng
biệt với những tên tuổi cụ thể nào. Thường thì tác giả dồn đúc các phẩm chất tốt đẹp của
những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung cho cả đoàn quân, dùng lối vẽ phiếm chỉ để
khái quát nên chân dung tiêu biểu rất oai hùng của những người chiến sĩ vô danh, dám xả thân
vì nghĩa lớn. Thơ ông là thơ về cả một đoàn quân trên đường dài chiến trận: “Những
làng trung đoàn ta đi qua..”, “Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi...”, “Những làng trung đoàn
ta đóng lại...”, “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...”, “Là những người quân qua bến
làng...”, “Là bước quân đi đường kháng chiến...”...
Dấu ấn thời đại về mặt thẩm mỹ trong hình ảnh người lính thơ Quang Dũng là khá rõ.
Đây là giai đoạn đầu cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kì. Cả dân tộc đang hừng hực
khí thế xông lên. Những đoàn quân, thường là đoàn vệ quốc quân nối tiếp nhau ra trận trở
thành hình ảnh trung tâm của thời đại. Thơ chống Pháp tập trung miêu tả những đoàn quân:
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy
(Lên núi - Hồ Chí Minh)
Hào khí thời đại đã ngấm sâu vào tâm hồn Quang Dũng, để rồi từ đó hiện ra hình ảnh
những chàng vệ quốc quân lên đường “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”:
Thôi nhé miền xuôi! Thôi tạm biệt
Thôi chào Hà Nội lửa ngang trời
Ta đi
Ngõ gạch - tường đang đục
Gạn từng giọt nước đánh cầm hơi
(Những làng đi qua)
63
Người lính trong thơ Quang Dũng hiện lên với vẻ kiêu hùng trong vóc dáng:
Im rồi! Chiến dịch vừa ngơi súng
Thắng trận anh về áo rách bươm
Lá cũng tả tơi dường mệt mỏi
Càng thêm kiêu đẹp vẻ anh hùng
(Rừng)
đồng thời lại mang đầy khát vọng trong tim:
Nghỉ lại Nho Quan
Hút điếu thuốc sợi vàng
Nhìn lên sao Bắc Đẩu
Đêm nào vượt sông Đà ?
Đêm nào vượt sông Hồng?
Những chặng đường đi ngay mũi giặc
(Đường Mười hai)
Viết về người lính, Quang Dũng đã phả được cái không khí chiến trận còn ngổn ngang,
tươi mới vào lòng người đọc. Ta đọc được ở đó khí thế của một thời cả dân tộc ra trận, đắm
mình trong men say lí tưởng, sẵn sàng cống hiến tuổi xanh cho đất nước. Cái tinh thần “chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” của những chàng trai trẻ đầy khí thế. Đất nước anh hùng hiện
lên trong những con người anh hùng, những người lính trên con đường chiến đấu:
Đường Mười hai trắng trong hoàng hôn
Bỗng đen đặc người
Những nhịp chân đi rầm rập
(Đường Mười hai)
Người lính ương thơ Quang Dũng còn hiện lên ở vẻ dung dị, tự nhiên:
Tự vệ xách đèn chai lối xóm
Khuya về chân khoả vội cầu ao
(Những làng đi qua)
64
Đó là những phút giây bình yên của người lính sau những buổi hành quân, những giờ ra
trận. Người lính trở về với cuộc đời thường thật hiền lành mà cũng thật giàu cảm xúc.
Đến thời chống Mĩ cứu nước, thơ Quang Dũng vẫn giữ được hình ảnh những đoàn quân
hào hùng:
Những lớp người hai mươi tuổi
Ca nước đập vỏ bình toong
Khăn mặt thấm mồ hôi
Bụi đỏ
Bụi vàng
(Mây đầu ô)
Lúc này, khi tuổi đã xế chiều, áo lính đã giã bỏ, Quang Dũng lại nhập thân vào những
chàng trai trẻ - những người lính Hà Nội để khám phá khát vọng của họ. Họ là những người
con của tổ quốc, phơi phới tuổi xuân đang tiếp bước cha anh lên đường.
Đặc biệt là, trong thơ của mình, Quang Dũng đã khám phá ra kiểu người lính mang cốt
cách nghệ sĩ. Đó là những người lính có nguồn gốc xuất thân từ học sinh - sinh viên thành thị.
Họ yêu đời, lãng mạn, hào hoa và sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc. Người lính trong thơ Quang
Dũng không hiện lên bằng vẻ ngoài nghèo khó (Áo anh rách vai, quần tôi có vài miếng
vá) hay dáng vẻ hiền lành, gần gũi (Giọt giọt mồ hôi rơi / Trên má anh vàng nghệ) mà bằng
tâm hồn lãng mạn và mơ mộng khác thường. Quang Dũng chú ý đến khái niệm “hồn lính” -
một khái niệm trước ông và sau ông trong văn học ít thấy:
Chiều rồi ba lô lại ra đi
Bâng khuâng hồn lính vấn vương gì
(Nhớ)
Đường xa xôi mơ mơ núi và mây
Hồn lính vương qua vài sợi tóc
Có gì man mác tự vừa đây
65
(Quán nước)
Tâm hồn người lính được miêu tả với nhiều cung bậc, khi bâng khuâng lưu luyến “Lòng
rưng rưng thương nhau quá dọc đường” (Quán nước), lúc xao xuyến, nhớ thương “Nhớ mẹ
già tiền cơm chẳng lấy/ Nhớ em khó nghèo giữa vườn hoang dại/Nhớ bát muối vừng/ Nồi cơm
trộn sắn” (Nhớ), có khi lại vấn vương, man mác “Tim tím chiều hôm lên bóng núi/ Dọc đường
mờ những cánh hoa phai” (Trắc ẩn). Nhưng trên hết đó vẫn là những tâm hồn nghệ sĩ, không
chỉ biết rung cảm với cái đẹp mà còn có năng lực phát hiện và yêu mến cái đẹp trong môi
trường sống của mình. Vì thế, ở nhiều bài thơ, Quang Dũng miêu tả người lính mà hầu như
không có tiếng bom rơi, đạn nổ, cũng vắng hẳn những tiếng ra trận, xung phong. Lớp từ ngữ
chiến trận trong thơ Quang Dũng chỉ chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn so với nhiều nhà thơ cùng
thời. Trái lại, ông khám phá người lính bằng rất nhiều khái niệm: nhớ, mơ, mộng, bâng
khuâng, vấn vương, man mác... Do đó, người lính trong thơ ông là kiểu người lính giàu xúc
cảm, hay mơ mộng và biết khám phá cái đẹp: Chẳng hạn ở bài thơ Đường trăng:
Là những người quân qua bến làng
Hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang
Lớp này lớp khác người sang hết
Thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng
Trên con đường ra trận, người chiến sĩ đã hướng cặp mắt thi sĩ vào tất cả cỏ cây, hoa lá,
trăng sao để rồi từ đó phát hiện ra đất nước mình thật đẹp, sông núi thiên nhiên quê hương
mình thật gợi cảm, đầy màu sắc, thấm đẫm hương thơm. Con đường ra trận trở thành con
đường trăng, con đường thơ đầy thi vị và quyến rũ lòng người.
Cũng như vậy, ở Tây Tiến không hề có những trận đánh long trời lở đất, những phen
sống mái với kẻ thù. Ngược lại, tâm hồn người lính nhiều lúc phải ngân lên những thanh âm
xao xuyến, có lúc bởi một vẻ đẹp mê hồn khi đã đạt được độ cao:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Cũng có khi bởi một mùi hương gợi thương gợi nhớ:
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Người lính ấy biết ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của một cô gái Tây Bắc:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
66
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Ở đây, tất cả ánh sáng, âm thanh, màu sắc như trộn lẫn vào nhau, hoà quện, quấn quýt để
nâng lên vẻ đẹp thanh khiết mà diễm lệ của cô gái Tây Bắc.
Người lính Tây Tiến mang trong mình cả hai cốt cách tráng sĩ và thi sĩ. Chất tráng sĩ thì
lồng lộng hoành tráng, chất thi sĩ lại lãng mạn, bay bổng. Người lính ấy sẵn sàng xả thân vì
nghĩa, sẵn sàng quên hết những khó khăn vất vả đời thường, quên kẻ thù trước mặt, quên cả
thác dữ, cọp gầm nhưng quên sao được bóng hình một cô gái Hà Nội:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Có thể nói việc khám phá ra kiểu người lính mang cốt cách nghệ sĩ cùng với việc tập
trung miêu tả khái niệm “hồn lính” là một đóng góp mới mẻ của nhà thơ Quang Dũng. Chính
điều này làm cho hình tượng người lính trong thơ hiện lên không đơn giản, xuôi chiều mà có
chiều sâu, có những sáng tạo đặc sắc.
Một điều dễ nhận thấy là người lính trong thơ Quang Dũng hiện lên với dáng dấp
của những tráng sĩ xưa, có hơi hướng cổ điển. Thơ ông thường miêu tả những người lính
coi thường hiểm nguy, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng:
Khuya khoắt bờ sông vắng
Tiếng súng rền xa xa
Lính mấy chàng phanh ngực
Hát nhẹ lên bài ca
(Lính râu ria)
Cái cách người lính thanh thản bước chân vào cuộc chiến ta đã gặp đâu đó trong thơ cổ:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
(Chinh phụ ngâm khúc)
nay lại hiện về với vẻ đẹp mới, vừa chân thực, cụ thể lại vừa lồng lộng hoành
67
tráng: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” (Tây Tiến).
Để thể hiện điều đó, Quang Dũng đã tạo ra cho thơ mình một thế giới từ ngữ đậm chất cổ
điển, đầy vẻ tráng ca: áo bào, biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành... Lớp từ ngữ Hán
Việt trang trọng đã khiến hình tượng người lính thêm uy nghiêm.
Ở Tây Tiến, Quang Dũng đã bất tử hóa người lính bằng cách dựng lên một tượng đài vừa
sừng sững hiên ngang, vừa bay bổng, trữ tình về người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bức tượng đài ấy gây ấn tượng bằng dáng vẻ oai hùng của người lính. Oai hùng đến độ
dữ tợn: những cái đầu trọc ngang tàn, những vóc dáng dữ dằn (dữ oai hùm), những đôi mắt
trừng đáng sợ... Quả là cả một đoàn quân kì lạ. Chỉ thoáng nhìn đôi mắt trừng “gửi mộng qua
biên giới” thôi ta cũng nhận ra được dáng vẻ của người trai thời loạn, cái khí phách hiên
ngang đứng trên miền biên cương của tổ quốc. Nếu dừng lại ở đấy, bức chân dung người lính
đã rất đáng để ta chiêm ngưỡng rồi. Nhưng, điều quan trọng là cái đầu “không mọc tóc” ấy,
bóng dáng đoàn quân “xanh màu lá” ấy chứa đựng cả một hiện thực lớn lao. Đó không hề là
sản phẩm bịa đặt của một trí tưởng tượng ủy mị nào. Đó là sự thật nghiệt ngã được thăng hoa
trên đôi cánh lãng mạn: sốt rét rừng khiến cho người lính rụng hết tóc, thiếu thốn, bệnh tật làm
thân hình họ gầy gò, xanh xao. Hóa ra Quang Dũng không hề che giấu những gian khổ, khó
khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và cả sự hy sinh của người lính. Chỉ có điều, tất cả những
cái đó, qua ngòi bút ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua cái nhìn đậm màu sắc
lãng mạn: Những mái đầu rụng tóc mà ngỡ như tóc không thèm mọc, cái vẻ xanh xao của
người lính vẫn toát lên nét oai phong, dữ tợn của con hổ nơi rừng thiêng. Cái nhìn nhiều chiều
của Quang Dũng đã giúp ông khám phá ra chiều sâu bên trong vẻ ngoài dữ dằn ấy là những
tâm hồn, những trái tim rạo rực và khao khát yêu đương:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Cái chết của người lính cũng rất đáng ghi danh họ vào bất tử:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
68
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Quang Dũng đã không che giấu những bi thương của một thời chiến tranh. Người chiến
sĩ phải hy sinh nơi biên cương xa xôi, lạnh lẽo, xa quê hương, gia đình, những cái chết cô độc
đầy tội nghiệp. Nhưng cảm hứng của nhà thơ không bị nhấn chìm vào bi lụy. Nỗi đau thương
được nâng lên trên đôi cánh của lí tưởng và tinh thần lãng mạn trở nên cao cả và thiêng liêng.
Cái sự thật bi thảm là những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến manh chiếu
để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng.
Và cuối cùng, cái bi thương bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét tiễn đưa của dòng sông Mã (Sông
Mã gầm lên khúc độc hành).
Trong khúc hát vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên tổ quốc ấy, sự hy sinh của
người lính bỗng trở nên cao cả hơn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Như vậy, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến bằng các
chất liệu chủ đạo: lãng mạn và chân thực, bi và hùng. Chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau,
nương tựa, nâng đỡ cho nhau, tạo nên vẻ đẹp bi tráng - cái thần thái chung của cả bức tượng
đài: “Có thể nói Tây Tiến - đó chính là tượng đài bằng thơ bất tử mà Quang Dũng với cả tấm
chân tình đã dựng lên để tượng niệm những người chiến sĩ vô danh đã hy sinh vì nước; cũng
là để tưởng niệm của cả một thế hệ thanh niên ưu tú của dân tộc sau Cách mạng tháng Tám đã
hăm hở ra đi giữ nước và nhiều người đã không trở về” [47, tr. 45].
2.2.2. Con người trong tình yêu với vẻ đẹp tâm hồn
Tình yêu là một trong những phương diện cao đẹp nhất của tâm hồn mỗi con người.
Hiếm có nhà thơ nào chưa một lần viết về tình yêu. Với Quang Dũng, người chịu ảnh hưởng
khá nhiều của thơ lãng mạn, tình yêu trở thành một đề tài lớn, xuyên suốt các tác phẩm của
ông.
Tình yêu trong thơ Quang Dũng là tình yêu trong cảnh chiến tranh, giữa khói lửa chiến
trường. Nhà thơ thường sử dụng mô típ gặp gỡ tình cờ làm nền cho những câu chuyện về tình
yêu:
Em ở thành Sơn chạy giặc về
69
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
(Mắt người Sơn Tây)
Tôi lính qua đường trưa nắng gắt
Nghỉ nhờ em, quán lệch tường xiêu
(Quán nước)
Từ đó hiện ra mối tình bất chợt, thoáng qua mà đầy thương cảm giữa người lính trên
đường ra trận và người em gái hậu phương:
Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường
Thơ Quang Dũng viết về tình yêu trong chiến tranh khiến người đọc xúc động về những
cách ngăn chia rẽ đôi lứa, những bên này, bên kia, những hoàn cảnh chia li đầy đau đớn:
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào
(Đôi bờ)
Tình yêu trong thơ Quang Dũng thường là thứ tình cảm trong sáng, nhẹ nhàng, nhiều lúc
đạt đến độ thanh cao. Thơ ông không có những tình cảm đầy khao khát mãnh liệt như trong
thơ Xuân Diệu mà là những tình cảm lãng mạn, mông lung, huyền ảo. Tình yêu đó gợi nhiều
mộng mơ hơn là những khát khao gần gũi. Nhân vật trữ tình trong hầu hết các bài thơ thường
là từ xa ngắm nhìn, chiêm ngưỡng tình yêu hơn là đòi hỏi, hưởng thụ tình yêu. Ở bài Áo
trắng là những rung động bất chợt mà đầy xao xuyến của những chàng trai trước vẻ đẹp của
người con gái áo trắng:
Tôi gặp nàng như gặp nhớ thương
Lạnh sao màu áo trắng như sương
Vườn hồng không thắm trong tôi nữa
Có một hương gì gây nhớ thương
70
Từ cuộc gặp gỡ thoáng qua bên đường (Tôi gặp nàng đi buổi sớm mai) mà hiện lên biết
bao mộng mơ, tưởng nhớ. Nhưng đó chỉ là nhớ thầm, thương trộm thôi chứ đâu phải là tình
yêu cụ thể giữa hai người yêu nhau:
Tôi để nàng qua chẳng nói gì
Mắt người nghiêm quá dưới hàng mi
Màu tang sầu cả hồn trai trẻ
Nhớ thầm từ đó bóng người đi
(Áo trắng)
Mắt người Sơn Tây là một bài thơ đẹp của Quang Dũng viết về tình yêu. Trong thơ
kháng chiến, tình yêu đôi lứa thường gắn rất sâu với tình yêu quê hương đất nước. Nhiều khi
hai tình cảm đó được hòa nhập làm một tạo thành triết lí: “Anh yêu em như yêu đất
nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần” (Nguyễn Đình Thi). Đó là sự hòa nhập giữa cái
riêng và cái chung, cá thể và cộng đồng làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn người lính trong chiến
đấu: giữ gìn quê hương cũng là để bảo vệ tình yêu trong sáng, thủy chung. Cũng viết về đề tài
ấy nhưng ở thơ Quang Dũng sự gắn kết giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu quê hương đất nước
hiện lên thật chân thực, cụ thể. Vẻ đẹp của người con gái cũng là vẻ đẹp của quê hương, gợi
biết bao thương nhớ :
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương
(Mắt người Sơn Tây)
Từ đó mà hiện lên ước mong thanh bình ước mong chiến đấu bảo vệ quê hương, quét
sạch bóng thù (“Bao giờ tôi gặp em lần nữa / Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca/Đã hết sắc màu
chinh chiến cũ”), cho dù tới lúc đó tình yêu cũng đã chìm vào hư vô, quên lãng (“Còn có bao
giờ em nhớ ta?”).
Một đặc điểm nữa là tình yêu trong thơ Quang Dũng thường gắn với vẻ đẹp trong sáng
71
và cao thượng trong tâm hồn. Nếu như hình ảnh người lính trong thơ ông gắn liền với chất
tráng sĩ thì tình yêu trong thơ ông cũng mang tinh thần hiệp sĩ, rất phóng khoáng và không hề
đòi hỏi. Ở bài Không đề, Quang Dũng viết về mối tình đầu của mình với một cô gái ở vùng
Nghi Tàm - Hà Nội, nơi có hàng ổi chạy dài ven đường:
Những cây ổi thơm ngày ấy
Và vầng hoa ngâu mưa thu...
Tình yêu ấy chắc hẳn được khơi nguồn từ một không gian rất lãng mạn (“Những cây ổi
thơm ngày ấy”) và một thời gian gợi thương gợi nhớ (“Vầng hoa ngâu mưa thu”). Nhưng đó
cũng chỉ là cái cớ rất có duyên để nhà thơ bộc lộ khát vọng bất tử hóa tình yêu:
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Mối tình đầu bao giờ cũng đẹp, nhất là khi nó diễn ra giữa một trang nam nhi mang chí
lớn và một cô gái trẻ trung (“Em tuổi hai mươi/Yêu anh hào hiệp”). Và vì thế người ta càng
nâng niu, giữ gìn và mong muốn gửi gắm tình yêu vào cõi bất tử. Nhưng không phải tình đầu
nào cũng trở thành hạnh phúc gia đình. Có biết bao hoàn cảnh làm chia lìa đôi lứa. Trong cuộc
chia ly, người con trai nhận lỗi về mình:
Bỏ em, anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia ly...
Có người nói phải viết là “Bỏ anh, em đi” mới đúng. Nhưng “Bỏ em, anh đi” mới là tâm
hồn Quang Dũng, rất nhân hậu và đầy cao thượng. Và khi tình yêu không thành thì cái còn
đọng lại là tình người cao đẹp, là cách đối xử với nhau sau tình yêu. Chính tình người mới là
cách bất tử hóa tình yêu sâu sắc nhất và đúng đắn nhất: “Giữ trọn tình người cho đẹp”...
Thơ Quang Dũng viết về tình yêu đôi lứa bàng bạc, nhẹ nhàng nhưng đọng lại rất sâu
trong tâm hồn người đọc. Không có những định nghĩa, triết lí như thơ Xuân Diệu, cũng không
phải là những mối tình đầy đau đớn, cách trở như thơ Hàn Mặc Tử. Sức hấp dẫn của thơ tình
Quang Dũng chính là cái chất chân thực, nhẹ nhàng mà sâu đậm tình người, lãng mạn mà da
diết yêu thương mà ông để lại trong thơ. Những thi phẩm như Mắt người Sơn Tây, Đôi bờ,
Không đề là những bài thơ tình đáng quí, đáng để cho người đọc suy nghĩ mà ông để lại cho
đời.
72
2.2.3. Hình tượng những con người đáng thương
Giá trị của một tác phẩm văn học là ở chỗ nó nói lên được tiếng nói của đời sống con
người, những khát vọng sống, những ước mơ mang đậm tính người. Trong thơ Quang Dũng
không chỉ có tượng đài bất tử về người lính, những con người với vẻ đẹp tâm hồn trong tình
yêu mà còn có hình tượng những con người mang nỗi mất mát đau thương, bất hạnh. Đây
cũng chính là cái nhìn đậm chất nhân văn về con người của Quang Dũng.
Vấn đề con người trong thơ Quang Dũng không hẳn đã trở thành một chủ nghĩa nhân
văn với đầy đủ các đặc điểm, tính chất của nó. Tuy nhiên, đọc thơ Quang Dũng, hầu hết các
nhà nghiên cứu đều nhận thấy một chất nhân văn sâu thẳm, hồn hậu, rất Việt Nam. Nhà thơ
Ngô Quân Miện cho rằng thơ Quang Dũng “có gốc rễ nhân bản sâu xa” [76, tr. 13]. Mai
Hương cũng nhận thấy “Thơ Quang Dũng không gân cốt mà thấm thía bởi đó là sự nhắn gửi
thiết tha của một tấm lòng nhân hậu, trọng nghĩa tình” [35, tr. 41].
Trong rất nhiều tác phẩm của mình, Quang Dũng thể hiện lòng cảm thông với số phận
con người trong chiến tranh. Viết về đề tài này, Quang Dũng cho thấy một cái nhìn đa diện và
có chiều sâu. Thơ ông không nhiều lắm những tiếng hát, niềm vui. Trái lại nó gợi lên nhiều
băn khoăn, thương cảm, có khi là trước một hoàn cảnh éo le:
Em có một mình nhà hoang vắng quá
Mảnh chăn đào em đắp có hoa thêu
Hàng của em: chai lọ xác xơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá
(Quán nước)
Có khi là trước những cái chết bi thương:
Mẹ ta em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
73
(Mắt người Sơn Tây)
Ông chú ý tới nỗi buồn sâu kín trong tâm hồn những người lính tưởng chừng như khô
khan nhất. Trong Lính râu ria, Quang Dũng miêu tả hình ảnh người lính với ngoại hình xù xì,
oai phong, đầy vẻ chinh phu (Bàn tay như rễ cây / Bộ râu như bàn chải). Nhưng trong tâm hồn
người lính có cả một niềm nhớ thương đau đáu, day dứt không nguôi:
Cô bé năm tháng trời
Tuổi anh vừa ba mươi
Vợ anh giờ này đâu?
Anh mỉm cười rười rượi
Anh cũng có người vợ trẻ, đứa con thơ. Và anh nhớ. Nỗi nhớ thương có lẽ là cái phần đời
thường nhưng đẹp đẽ nhất trong tâm hồn người lính. Bởi lẽ, người lính ra trận đâu chỉ là con
người của ý chí, mệnh lệnh. Họ không phải là “cái máy đánh giặc”, “cũng không hề là những
thánh nhân. Họ là những con người với tất cả những gì là cao cả và bất hoàn” (Huỳnh Như
Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn, tr. 38). Trong tâm hồn họ có nỗi nhớ,
niềm thương, có những phút giây cô độc, thậm chí mệt mỏi. Đã có một thời người ta cho rằng
người lính là phải “cao cả”, “anh hùng”. Quan niệm thẩm mĩ lúc bấy giờ không chấp nhận
hình tượng người lính yếu đuối, ủy mị, đời thường. Cho nên, Quang Dũng đã thể hiện một bản
lĩnh lớn khi dám vượt qua cả những định kiến xã hội đương thời để dám sống thật với lòng
mình và dám đưa cái thật, cái đẹp đến với người đọc.
Trong muôn vàn số phận của chiến tranh, ông chú ý cả tới những lính giặc bỏ mình lại
trên đất nước Việt Nam. Chabbi - Chabbi không phải là một bài thơ hay về ngôn từ, cấu tứ,
nhạc điệu nhưng lại là một bài thơ đầy cảm động trong cách cảm nhận về cuộc sống và con
người. Có lẽ, hiếm khi nào trong thơ Việt lại có những lời tâm sự dịu dàng và đầy tình cảm
như thế dành cho một người lính viễn chinh:
Chabbi - Chabbi
Tên như một bài thơ rất đẹp
Bằng thứ tiếng nước nào
Chabbi đã nằm dưới mộ
Còn bao giờ trở về với quê hương
74
Viết vế kẻ thù xâm lược hầu hết các nhà thơ đều có cách gọi chung: thằng giặc, lũ bay,
chúng bay, mày. Quang Dũng lại có cách gọi khác, đầy trìu mến: Anh. Bởi lẽ Chabbi cũng là
một thân phận trong chiến tranh. Anh xuất thân từ vùng quê nghèo khó ở Châu Phi, lên đường
viễn chinh chỉ vì mong có được đồng lương nhỏ gửi về gia đình. Và anh đã phải đánh đổi bằng
cái chết cô độc nơi đất Việt, xa quê hương, không bao giờ gặp lại người mẹ già, em nhỏ:
Hỡi mẹ nghèo ơi
Thôi cũng đừng mong.
Món tiền lương của Chabbi dành dụm
Đổi bằng xương máu nằm đây
Cái chết đó thật đáng thương!
Viết về những số phận trong chiến tranh, thơ Quang Dũng gợi lên nhiều cảm thông hơn
là oán trách. Đó là tiếng thơ của một tâm hồn nhân hậu. Nó không thống thiết, đầy căm thù
như một số nhà thơ cùng thời mà đau đáu một niềm thương. Quang Dũng cũng không kêu gọi
người ta trả thù mà lặng lẽ gợi lên những mảnh đời, để rồi tình thương ngấm sâu vào tiềm thức
người đọc trở thành nỗi căm thù và khát khao chiến đấu.
Chất nhân văn trong thơ Quang Dũng còn thể hiện ở chỗ thơ ông mang nặng những suy
tư về cuộc chiến, về lẽ sống và cái chết. Bên cạnh những dòng thơ hào hùng, tráng lệ, Quang
Dũng vẫn dành những vần thơ chan chứa yêu thương để nhớ về những người lính đã gửi trọn
tuổi thanh xuân vào chiến trường:
Anh chửa dừng chân dầu trắng tóc
Vẫn không trang sách đợi hiên nhàn
Anh vẫn đêm đêm đường pháo sáng
Hiểm nghèo từng bước vượt gian nan
(Những người tóc đã trắng)
Hình ảnh người lính đầu bạc tóc gợi lên nhiều day dứt. Có những sự hy sinh nhìn thấy
được bằng hành động cao cả, bằng ý chí kiên cường nhưng cũng có sự hy sinh thầm lặng mà
75
chỉ có sự trải nghiệm và tình yêu thương của người nghệ sĩ mới nhận ra được.
Trong bài thơ dài Đường chiều thứ bảy, Quang Dũng dành rất nhiều suy tư về vợ con
những người lính. Người lính ra trận chiến đấu và hy sinh thanh thản nhưng vợ con họ phải
sống trong cảnh mòn mỏi đợi chờ:
Tôi lại gặp
Những người vợ trẻ
Đàn ông đã ngã trên chiến trường
Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến
Xót xa thương khóc bao ngày
Cũng có người bước đi bước nữa nhưng họ nào giữ được sự thanh thản trong tâm hồn:
Ai biết được bây giờ
Tâm sự của những người
Ngậm ngùi cất kĩ ảnh chồng
Vào đáy hộp nữ trang,
Bến nước đi thêm một bước...
Suy tư về cuộc chiến, đi vào những thân phận của những con người trong chiến tranh là
một khám phá mới mẻ mang đậm chất nhân văn của Quang Dũng. Bằng chất nhân bản hồn
hậu, rất tự nhiên trong tâm hồn mình, Quang Dũng có lẽ là một trong những người đầu tiên đi
sâu vào đề tài này trong thơ Cách mạng. Rất lâu sau Quang Dũng, trong thơ Việt, người đọc
mới gặp lại những vần thơ giản dị mà chất chứa về con người của Thanh Thảo, Trần Mạnh
Hảo, Tế Hanh, hay Nguyễn Duy. Chẳng hạn:
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Nói như thế để thấy rằng với hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng, lãng mạn, Quang
Dũng là một trong những nhà thơ mở đầu cho nền thơ kháng chiến, nhưng ông cũng là người
đi tiên phong trong công cuộc giải phóng và đổi mới tư duy thơ hiện đại. Vì thế, người ta đã
76
nói rất nhiều về Tây Tiến, Những làng đi qua, Đường trăng, nhưng có lẽ Mắt người Sơn Tây,
Đôi bờ, Quán nước, Lính râu ria và những bài thơ đậm tình người khác cũng là những bài thơ
77
đáng quý mà Quang Dũng để lại cho đời.
CHƯƠNG 3: THỂ THƠ, NGÔN TỪ VÀ GIỌNG ĐIỆU
3.1. Đặc điểm sử dụng thể thơ
Thể thơ là một trong những yếu tố quan trọng của hình thức thơ nhằm hướng tới việc
biểu đạt cao nhất nội dung. Xã hội loài người càng phát triển, nhu cầu phản ánh đời sống và
bộc lộ tình cảm càng cao thì các thể thơ càng đa dạng. Tuy nhiên, sự lựa chọn một thể thơ nào
đó là thể hiện một góc nhìn, một trường quan sát, một quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ đối với
cuộc sống. Qua tìm hiểu thơ Quang Dũng chúng tôi nhận thấy những đặc điểm sau đây về mặt
thể thơ:
3.1.1. Sử dụng linh hoạt các thể thơ và đóng góp ở thể bảy tiếng
Quang Dũng là người chịu ảnh hưởng khá sâu của Thơ mới nhưng về mặt thể loại thơ
ông không phải là sự lặp lại của Thơ mới mà có những sáng tạo nhất định. Cũng như nhiều nhà
thơ khác thời kháng chiến, sáng tác của Quang Dũng đa dạng về thể loại. Tùy thuộc vào tâm
trạng, cảm hứng hay sự tác động của hiện thực khách quan mà ông có cách sử đụng thể thơ
khác nhau. Qua khảo sát 47 bài, chúng tôi nhận thấy thơ Quang Dũng có các thể: bốn tiếng (2/
47 bài, tỉ lệ 4,2%), năm tiếng (4/ 47 bài, tỉ lệ 8,5%), lục bát (2 bài, tỉ lệ 4,2%), bảy tiếng (17
bài, tỉ lệ 36,2%), tự do (17 bài, tỉ lệ 36,2%), hợp thể (5 bài, tỉ lệ 10,7%). Sự lựa chọn mỗi thể
thơ cũng như tần suất sử dụng các thể trong thơ Quang Dũng không hoàn toàn có tính ngẫu
nhiên mà nó còn gắn với quan niệm thẩm mĩ và cảm nhận riêng của nhà thơ về thể loại.
Thể thơ bốn tiếng có tính chất ngắn gọn (chỉ bốn âm tiết trên đơn vị một câu thơ), nhịp
điệu nhanh và khỏe khoắn. Vì thế, nó được Quang Dũng sử dụng phù hợp cho việc miêu tả
những tình cảm nhẹ nhàng, trong trẻo (Tiết xôi mới trên đường đi khai hoang, Bắt tép kho
cà). Thơ kháng chiến có những bài bốn tiếng rất dễ đi vào lòng người: Lượm (Tố Hữu), Gặt
lúa xuân (Nguyễn Hà), Đàn trâu Nghệ (Nghiêm Đa Văn), Hạt gạo làng ta và Thả diều (Trần
Đăng Khoa)
Thơ bốn tiếng Quang Dũng có giọng điệu vui tươi. Thường thì đó là bức tranh quê sinh
động, có màu sắc tươi tắn. Tiết xôi mới trên đường đi khai hoang miêu tả niềm vui của con
người trên con đường xây dựng quê hương:
Anh đi khai hoang
Thêm những tên làng
78
Thêm đồng lúa chín
Mai thành quê hương
Thơ bốn tiếng cũng phù hợp với việc miêu tả cảnh sắc nông thôn. Viết về nội dung này
Quang Dũng tỏ ra rất có sở trường. Nhiều câu thơ bốn tiếng đọc lên thật gợi:
Đường thôn rạ vàng
Ngậy mùi cơm mới
Tháng mười quê ta
Gạo mùa chim ngói
(Tiết xôi mới trên đường đi khai hoang)
Hay những câu thơ miêu tả cảnh sắc nông thôn vùng trung du:
Róc rách suối len
Cuộn tròn trong vắt
Sắn nương thơm thơm
Cầu thang ai hát...
(Bắt tép kho cà)
Ở một số bài thơ tự do, Quang Dũng cũng có những câu bốn tiếng mềm mại, gợi cảm, rất
có “hồn”:
Sông ơi! Dài sao
Rộng ơi! Biển cả
Thôi em nước mắt
Đừng rơi lã chã ...
(Không đề)
Có thể thấy trên mặt bằng chung thơ Quang Dũng, thể bốn tiếng được ông sáng tác
không nhiều. Nhưng Quang Dũng đã biết cách sử dụng thật tinh, thật hợp lí, nhờ đó phát huy
hết được khả năng biểu cảm của câu thơ bốn tiếng, làm cho thể thơ này trở nên chắt lọc, tinh
79
tế.
Thể năm tiếng là thể thơ vốn có trong truyền thống thơ ca dân gian (các loại vè, đồng
dao, hát dặm Nghệ Tĩnh). Câu thơ của thể này gồm năm âm tiết, ngắn gọn, có khả năng diễn tả
linh hoạt cảm xúc của người viết. Nhưng nó phù hợp hơn với giọng thơ vui tươi, tình cảm đầm
ấm, dịu dàng (Thăm lúa - Trần Hữu Thung, Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui). Dùng thể năm tiếng để
bộc lộ tình cảm buồn thương, bâng khuâng, lưu luyến là đặc điểm của thơ Quang Dũng.
Trong Lính râu ria, nỗi buồn nhớ vợ, thương con được tỏa ra từ tâm sự của người lính đã gây
xúc động bao thế hệ bạn đọc:
Vợ anh giờ này đâu
Anh mỉm cười rười rượi
Đến Chiều núi mưa rào, nỗi buồn ấy càng mênh mông da diết hơn. Bức tranh phong
cảnh được nhuốm lên tâm sự của tác giả trở nên ảm đạm đến độ thê lương:
Đồi sắn ướt sững lá
Gà ướt cánh nép hiên
Chim xào xạc trốn biệt
Mưa giăng màn triền miên
Về giọng thơ, thể năm chữ của Quang Dũng sử dụng giọng kể (Đêm Bạch Hạc, Trông
bạn) và giọng tả (Chiều núi mưa rào), có khi kết hợp cả kể và tả trong cùng một bài thơ (Lính
râu ria).
Thể thơ lục bát chiếm một vị trí quan trọng trong các thể thơ truyền thống của dân tộc.
Thơ lục bát giàu nhạc điệu, uyển chuyển nên dễ chuyên chở những tình cảm sâu lắng, mượt
mà. Quang Dũng dùng thể thơ này để miêu tả nỗi nhớ quê hương da diết của mình:
Trưa hè bỗng nhớ sông quê
Nước xa không bóng, thuyền đi đôi dòng
Thóc nhà ai có phơi không
Chói chang lửa thóc, sân trông bóng người
(Trưa hè)
80
Bài thơ có giọng điệu nhẹ nhàng mà tha thiết, cách sử dụng thanh điệu, cách gieo vần
khá chuẩn (dùng vần bằng 100%, gieo vần chân ở câu 6 - 8 , vần lưng ở câu 8, nhịp thơ đều
đặn), chứng tỏ Quang Dũng sử dụng nhuần nhuyễn thể lục bát.
Thể lục bát gắn bó với nền văn hóa dân gian nên thích hợp cho việc miêu tả tình cảm của
đại chúng, tiếng nói của nhân dân. Nó cũng phù hợp với yêu cầu dân tộc hóa, đại chúng hóa
của văn nghệ nước ta thời kì này. Theo xu thế đó, Quang Dũng có bài Giấc mơ của Bạch. Bài
thơ viết về giấc mơ trở về thăm nhà sau chiến thắng của một chàng vệ quốc quân. Cảnh anh
lính tên “Bạch” về thăm quê thật vui tươi:
Bạch ta khấp khởi ruột gan
Hai chân chưa đủ còn toan chạy liều
Phép đi từ sáng đến chiều
Mai về Hà Nội còn nhiều việc ghê ...
Bài thơ có cách dùng từ tự nhiên với nhiều khẩu ngữ, từ gọi đáp, từ địa phương và các
cách nói dân giã. Giọng điệu của bài thơ hóm hỉnh với nhiều chi tiết sinh động. Chẳng hạn
hình ảnh người mẹ mừng con đi đánh giặc trở về:
Bà đang ruộm nốt tấm sồi
Mừng con chạy vỡ cả nồi nước nâu
Tuy nhiên, ép mình theo tiếng nói quần chúng cũng có nghĩa là Quang Dũng xa rời bản
sắc của cái tôi đã làm nên tên tuổi của ông trong thơ kháng chiến. Vì thế bài thơ dài (74 câu)
nhưng chất lượng nghệ thuật không cao, nhiều lúc sa vào kiểu “vè” hơn là “thơ”. Việc dùng
từ ngữ mộc mạc, dân giã nhiều khi làm đánh mất chất thơ (Ví dụ: Hĩm con đã nhớn/Sao mày
nhìn tao?). Thêm nữa, cái “tạng” người của ông không hợp lắm với thể thơ này. Ông vốn
xuất thân từ gia đình tiểu thương, lại có tính cách hào hoa, phóng túng nên thể lục bát khó có
chỗ đứng trong ngôi nhà thơ ông.
Thể bảy tiếng hình thành trên cơ sở thơ thất ngôn Đường luật nhưng đã có nhiều cách
tân ở các mặt thanh điệu, vần, nhịp. Trong phong trào Thơ mới, nhiều nhà thơ đã sử dụng
thành công thể bảy tiếng như Xuân Diệu, Huy Cận, Thâm Tâm, Hàn Mặc Tử ... Sau Cách
mạng, câu thơ bảy tiếng tuy không còn được trọng dụng nữa nhưng vẫn phát huy được vai trò
81
trong việc thể hiện những cảm xúc đa dạng của cuộc kháng chiến. Nhiều nhà thơ tiếp tục có sự
thành công ở thể này như Tố Hữu với Bác ơi, Mẹ Tơm, Quê mẹ, Theo chân Bác, Xuân Diệu
với Phan Hành Sơn, Phạm Tiến Duật với Bài thơ về tiểu đội xe không kính...
Quang Dũng sử dụng thể bảy tiếng khá nhiều và chính ở thể thơ này ông đã có những
đóng góp mới mẻ. Ngoài 17/ 47 bài bảy tiếng (tỉ lệ 36,2%), ông còn có 4 bài xen kẽ giữa thể
bảy tiếng và thể năm tiếng. Câu thơ bảy tiếng của Quang Dũng có giọng điệu cổ kính, trang
nghiêm với những tình cảm thiêng liêng và xúc động về cuộc sống và con người:
Ba chục năm tròn hai cuộc thắng
Trăng nay, diều lại sáo lưng trời
Sài Sơn bóng núi soi mương sáng
Đồng ta Bương Cấn mãi xinh tươi
(Nhớ một bóng núi)
Hầu hết các bài bảy tiếng của Quang Dũng đều chia khổ, mỗi khổ thường là bốn câu đều
đặn. Cách ngắt nhịp phổ biến là nhịp 4/3 hoặc 2/2/3, gần với cách ngắt nhịp trong thơ thất
ngôn cổ điển. Điều đó cho thấy dấu ấn truyền thống trong thơ bảy tiếng Quang Dũng còn
tương đối rõ nét.
Dù vậy, những bài thơ bảy tiếng của Quang Dũng vẫn khẳng định được vị trí xứng đáng
trong thơ kháng chiến, đặc biệt là thơ chống Pháp. Có được điều đó là bởi chúng mang hai đặc
điểm lớn về mặt thể loại, đó là dấu ấn của thể thơ hành và chất trường ca đậm nét.
Hai bài thơ Tây Tiến (1948) và Những làng đi qua (1947) có thể coi là những bài trường
ca đầu tiên của thơ kháng chiến. Chất trường ca của chúng không chỉ nằm ở dung lượng tác
phẩm khá lớn (Tây Tiến 34 câu, Những làng đi qua 71câu) mà còn ở khả năng chiếm lĩnh và
tái hiện những mặt bản chất của đời sống, những tình cảm tiêu biểu của thời đại. Đề tài thơ
mang tính chất lớn lao, là tiếng nói của cả cộng đồng, mà trên hết là tiếng lòng của người lính
trước những thử thách quyết liệt: tổ quốc còn hay là mất, độc lập tự do hay nô lệ, ngục tù. Nhà
thơ sử dụng bút pháp lãng mạn và bi tráng để dựng lên những hình tượng thơ kì vĩ là những
đoàn quân trùng điệp ra trận hay người lính với tầm vóc lớn lao. Cảm hứng của nhà thơ cũng
là cảm hứng ca ngợi mang đậm chất anh hùng ca... Không chỉ ở Tây Tiến và Những làng đi
qua, nhiều bài thơ bảy tiếng sau đó của Quang Dũng vẫn giữ được giọng thơ “tráng ca” như
vậy. Chẳng hạn, ở Pha Đin có những hình ảnh thơ ấn tượng:
82
Đâu đây đứt xích pháo kêu giòn
Liệt sĩ tên còn xanh núi non
Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt
Mà như lau sậy có linh hồn
Bốn câu thơ mà có hai nét vẽ đối lập. Một nét vẽ mạnh mẽ, phóng khoáng, đặc quánh các
sự kiện tiêu biểu của thời đại, một nét mềm mại, bay bổng. Cảm hứng ngợi ca của tác giả đã
ghi tạc hình ảnh người liệt sĩ vào gió, mây, núi, lau sậy, vào thiên nhiên vĩnh hằng của đất
nước.
Bên cạnh đó, thể thơ bảy tiếng của Quang Dũng còn mang dấu ấn thể hành cổ điển. Tác
giả Trần Mạnh Hảo nhận xét: “Thể hành trong thơ vốn đã cổ từ xưa bên Trung Quốc và được
truyền sang nước ta từ khá lâu. “Tống biệt hành” của Thâm Tâm và “Hành phương Nam”
của Nguyễn Bính mặc dù rất là hay nhưng hình như không khí của hai bài thơ trên vẫn còn óc
ách tiếng sóng tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. Đến “Tây Tiến” của Quang Dũng, thì thể thơ
hành đã được Việt hóa, kháng chiến hóa, sông Mã hóa, vệ quốc quân hóa. Nhịp thơ gắt như
sự va đập của đầu người vào núi đá trong một cuộc leo ngất trời, dốc cao dựng đứng” [32, tr.
167].
Thể thơ bảy tiếng được Quang Dũng sử dụng khá thành công để diễn tả những cuộc lên
đường hào hùng (Đường trăng, Pha Đin, Tây Tiến, Những làng đi qua). Đó không phải là
những sự ra đi đầy bế tắc và cô độc như trong Thơ mới (Ta đi nhưng biết về đâu nhỉ / Thà cứ
ở đây uống rượu say - Nguyễn Bính) mà là sự ra đi của một tâm hồn khoáng đạt đã tìm thấy
đất nước làm điểm tựa để dấn bước. Thời Thơ mới, Thâm Tâm đã có những câu thơ vần trắc ở
cuối dòng tạo khí thế hiên ngang: Đưa người ta chỉ đưa người ấy (Tống biệt hành). Đến
Quang Dũng, giá trị của những câu thơ vần trắc được phát huy hết sức mạnh khiến cho âm
điệu thơ trở nên rắn rỏi, gân guốc:
... Đào đỏ Nhật Tân ở lại gốc
Chủ nhân còn gác trạm tiền tiêu
Chờ địch kéo lên Yên Phụ dốc ...
83
(Những làng đi qua)
Có thể nói, sự sử dụng dày đặc vần trắc ở cuối câu là một nét đặc trưng của thể bảy tiếng
thơ Quang Dũng (Tây Tiến 15/ 34 câu, Những làng đi qua 31/71 câu, Pha Đin 13/ 29 câu).
Điều này cùng với tính chất bi tráng, quên mình của người lính trong những cuộc lên đường
làm cho câu thơ bảy tiếng của Quang Dũng mang dấu ấn rõ rệt của thể thơ hành cổ điển.
3.1.2. Tính chất tự do hóa của thể thơ
Quang Dũng cũng như hầu hết các tác giả cùng thời thể hiện rõ nét xu hướng tìm tòi
mạnh mẽ để phá bỏ các ràng buộc, khao khát đi tìm hình thức thơ mới cho thời đại. Nhà thơ
Nguyễn Đình Thi viết: “Mọi thời đại mới của nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình
thức mới. Thơ của thời đại mới trong những bước đầu ít khi chịu những hình thức đều đặn, cố
định. Nó chạy tung về những chân trời mở rộng để tìm kiếm, thử sức mới của nó” [54, tr. 69].
Xu hướng tự do hóa về mặt thể loại trong thơ Quang Dũng được thể hiện trên tất cả các cấp độ
bài thơ, khổ thơ và câu thơ.
Ở cấp độ bài thơ, Quang Dũng được sáng tác theo nhiều thể nhưng thể tự do vẫn chiếm
tỉ lệ cao nhất (17/47 bài, tỉ lệ 36,2%). Thể thơ tự do tỏ ra rất phù hợp với cá tính của hồn thơ
Quang Dũng. Tâm hồn ông bay bổng, phóng khoáng, khó có thể chịu bó buộc vào một số thể
thơ nhất định. Trái lại những cảm xúc, suy tư của ông cứ tràn ra mặt giấy thành những câu thơ
có độ dài ngắn khác nhau, vần điệu, nhịp điệu hết sức phóng túng như khổng hề có quy luật
mà vẫn rất tất yếu bởi nó tuân theo quy luật bên trong của cảm xúc thơ.
Thơ tự do Quang Dũng thường không vần hoặc rất ít vần (Mây đầu ô 9/ 43 câu thơ có
vần, Nhớ 9/28 câu thơ có vần, Những cô hàng xén 24/ 74 câu thơ có vần, Đường mười hai 27/
147 câu thơ có vần, Đường chiều thứ bảy 28/ 195 câu thơ có vần); số âm tiết trong câu thơ
biến đổi linh hoạt, có câu chỉ một tiếng nhưng cũng có câu dài ra đến 14 tiếng (bài Ba Vì đón
Bác). Số câu thơ trong một bài cũng không không có giới hạn, có bài bốn câu (Nhà mới), có
bài gần hai trăm câu (Đường chiều thứ bảy, Rừng). Với thể thơ tự do, Quang Dũng dễ dàng
chuyển tải hiện thực cuộc sống đầy ắp sự kiện vào trong thơ. Chính vì vậy mà lượng thông tin
trong thơ cũng tăng lên rất nhiều, nhịp điệu câu thơ bị phá vỡ, câu thơ gần với câu văn xuôi
hơn. Đó chính là lí do khiến thơ ông dễ dàng bám rễ vào hiện thực bộn bề của đời sống.
Điều quan trọng là ở thể thơ tự do, Quang Dũng đã thực sự bộc lộ tài năng của mình và
để lại những dấu ấn riêng biệt. Không chỉ ở Không đề và Mây đầu ô mà ở nhiều bài khác,
Quang Dũng cũng có những câu thơ đạt đến độ tài hoa. Đây là điệu tâm hồn của một lớp
người ra trận:
84
Tôi hành quân lên đường
Ngày tháng nhớ chia ly
Đuôi mắt vời trông nếp áo
Em còn nghe tiếng hát
Tiếng báng súng chạm vào ca sắt
Và cánh sao bay trong lá quốc kì
(Đường chiều thứ bảy)
Còn đây là hình ảnh con sông Đáy thơ mộng:
Sông Đáy xuôi dài cồn cát mênh mông
Làng bên bờ xanh mía
Thoảng mùi hoa lan, hoa nhài nhè nhẹ
Tiếng nói xa dần ...
(Những cô hàng xén)
Nói chung, thơ tự do Quang Dũng ít vần, nhịp điệu biến đổi linh hoạt nhưng vẫn đảm
bảo sự hài hòa của nhịp điệu và tiết tấu thơ. Đó là thứ nhịp điệu bên trong, nhịp điệu của tâm
hồn tuân theo quy luật của cảm xúc.
Cùng với việc tập trung sử dụng thể tự do, xu hướng tự do hóa trong thơ Quang Dũng
còn thể hiện ở hình thức thơ hợp thể và biến thể. Thơ hợp thể là một hướng đi sáng tạo của
thơ ca thời kháng chiến. Nếu như mỗi thể thơ, do cách hiệp vần và cấu trúc nhịp điệu thường
có ưu thế trong việc diễn đạt một trạng thái cảm xúc nhất định thì sự phối hợp các thể thơ tạo
ra khả năng thể hiện đồng thời nhiều sắc thái tình cảm. Giọng điệu thơ do đó cũng biến hóa
phong phú. Thông thường nhất trong thơ Quang Dũng là sự phối xen thể bảy tiếng và thể năm
tiếng (Mắt người Sơn Tây, Tôi viết chiều nay, Trắc ẩn, Hồ Nam). Sự kết hợp giữa hai thể này
đem đến một hiệu quả đặc biệt. Thể bảy tiếng có ưu thế trong việc thể hiện tâm hồn vừa hào
sảng, tráng chí, vừa bâng khuâng của Quang Dũng còn thể năm tiếng như một điểm dừng,
khoảng lặng đẩy cảm xúc người đọc lên cao hơn. Chẳng hạn, ở Mắt người Sơn Tây, bao nhiêu
yêu thương, nhớ mong, đau xót trong những câu thơ bảy chữ ở trên được dồn vào khổ thơ năm
85
tiếng ở dưới:
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Bài Bắt tép kho cà cũng có sự phối xen giữa thể bốn tiếng với câu thơ hai tiếng và sáu
tiếng. Cả bài thơ là bức tranh miền trung du trong trẻo, xinh xắn với những câu thơ bốn chữ
đều đặn. Cảm xúc thơ bỗng đột ngột chuyển hướng bằng một cặp câu thơ sáu tiếng:
Nước mắt em buông lã chã
Long lanh nhớ giếng quê nhà
Câu thơ sáu tiếng tắt nghẹn khiến cho cảm xúc ngưng đọng thật sự gây ấn tượng với
người đọc.
Ở thể tự do, Quang Dũng cũng sử dụng rất nhiều khổ thơ theo các thể truyền thống.
Bài Ngựa có một khổ bảy tiếng, Rừng xen một khổ bảy tiếng, Không đề có ba khổ bốn tiếng.
Hầu hết các khổ thơ “phối xen” này đều nằm ở cuối bài và có tác dụng gây ấn tượng, tạo điểm
nhấn cho bài thơ. Bài thơ Ngựa có cách kết thúc như thế:
Lửa bếp hồng thêm, người đến thêm
Chuyện vui chiến dịch kể thâu đêm
Dưới sàn thóc ngựa thơm đầy máng
Róc rách rừng khuya tiếng suối êm
Cách sử dụng “thể” ở bài này rõ ràng mang một dụng ý nghệ thuật. Bởi vì nếu như ở
những câu thơ trên hình ảnh “ngựa” được khắc họa bằng rất nhiều động từ, bằng câu thơ dài
gắn khác nhau tạo chất “động” cho hình ảnh thơ thì ở cuối bài, khổ thơ bảy tiếng với nhịp thơ
mềm mại (4/ 3 hoặc 2/2/3) lại dồn trọng tâm vào chất “tĩnh”. Phải chăng dụng ý của nhà thơ
là cuộc chiến đó gian lao, vất vả nhưng không thiếu những phút giây thật thanh thản, yên
bình...
Ngoài hợp thể, Quang Dũng còn dùng hình thức thơ biến thể. Vóc dáng của câu thơ cũ
có lẽ không đủ sức chứa đựng hiện thực của thời đại mới cho nên nó cũng có sự chuyển biến
rõ rệt. Trong thơ Quang Dũng, ngoài thể năm tiếng được dùng tương đối ổn định, các thể khác
86
đều có hiện tượng biến thể. Ở bài Giấc mơ của Bạch, thể lục bát có khi được nhà thơ
dùng “dôi” ra một âm tiết:
Quà em, quà vợ anh mua
Ba chục bánh đậu, “chậc”, cũng vừa tiền thôi
Có khi lại dùng cách ngắt đôi câu thơ tám tiếng:
Hĩm con đã nhớn:
- Sao mày nhìn tao...
Thể bảy tiếng cũng có cách cắt dòng như vậy:
Ta đi
Ngõ gạch - tường đang đục
Gạn từng giọt nước đánh cầm hơi
(Những làng đi qua)
Còn câu thơ bốn tiếng được Quang Dũng tách ra làm hai:
Thơ người
biệt vắng
Mà vẫn
từng trang
(Nhớ bạn)
Tính chất tự do hóa còn nằm ở đơn vị khổ thơ. Thơ ca truyền thống, dù là thể bốn tiếng,
năm tiếng hay bảy tiếng đều có sự chia khổ. Với Quang Dũng khổ thơ không chỉ chịu sự chi
phối của thể loại mà còn phải hài hòa về thanh điệu và thể hiện trọn vẹn ý tình thơ. Cho nên,
vẫn là các thể truyền thống nhưng số câu trong một khổ của Quang Dũng biến đổi rất linh
hoạt. Bài Bố Hạ (thể bảy tiếng) gồm năm khổ thì có hai khổ 3 câu, một khổ 5 câu và một khổ
6 câu. Một mùa thu tới có hai khổ 6 câu, một khổ 8 câu; Những làng đi qua có một khổ 5 câu,
hai khổ 6 câu, một khổ 7 câu, hai khổ 8 câu, một khổ 9 câu, một khổ 10 câu; Trưa hè (thể lục
bát) có một khổ 2 câu; Lính râu ria (thể năm tiếng) có một khổ 7 câu, một khổ 3 câu và một
87
khổ 5 câu.
Trong cảm quan thẩm mĩ của người xửa, cái đẹp gắn với sự hài hòa, cân đối cho nên thơ
xưa thường dùng khổ thơ có bốn câu. Việc sử dụng khổ thơ có số câu lẻ (3 câu, 5 câu, 7 câu, 9
câu) là một sáng tạo độc đáo của Quang Dũng. Tuy nhiên, ấn tượng nhất vẫn là khổ thơ có ba
câu. Giống như thể Haiku của Nhật Bản, khổ thơ ba câu của Quang Dũng không chỉ phá vỡ
tính chất cân đối của thơ truyền thống mà còn thể hiện tính cô đọng trong hình ảnh, tạo điểm
dừng và độ ngân vang cho cảm xúc thơ. Ví dụ ở Lính râu ria, hình ảnh người lính thương nhớ
con được miêu tả:
- Chị ơi! Cháu ngủ đâu?
Rồi anh bế con chị
Anh lim dim cúi đầu ...
Thêm vào một câu nữa, thơ dễ sa vào kể lể. Dừng lại ở ba câu, hình ảnh thơ thêm ấn
tượng và độ dư ba sẽ lắng sâu hơn trong lòng độc giả mà không cần một sự dẫn giải nào.
Để ý kỹ se thấy ở cả Mây đầu ô và Không đề ta có thể “tách” ra thành những
bài Tanka và Haiku rất đẹp. Chẳng hạn thể Tanka:
Ơi! Con đường xưa
Những mùa trút lá
Cành bàng mồ côi
Cổng cũ rêu phong
Ý đợi người
(Không đề)
Tiếng dương cầm ...
Ta theo tiếng nhạc
Bay khỏi mái nhà
Ta mê xanh thẳm
Như cánh chim trời
(Mây đầu ô)
Thể Haiku:
88
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Giữ trọn tình người cho đẹp
(Không đề)
Hay:
Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao
Góc phố phường
(Mây đầu ô)
Nói tóm lại, sự kéo giãn biên độ thể loại trong thơ Quang Dũng không chỉ phù hợp với
yêu cầu miêu tả hiện thực thời đại, mà trong chiều sâu, nó còn gắn với cảm quan nghệ thuật,
nhận thức về mặt thẩm mĩ của cái tôi Quang Dũng. Chính cá tính sáng tạo của một tâm hồn
phóng túng, yêu tự do đã đưa Quang Dũng đến với thể thơ tự do hay tìm cách phá vỡ các lề lối
của thơ truyền thống.
3.1.3. Sử dụng thủ pháp ngắt dòng và thủ pháp tạo điểm dừng
Thủ pháp ngắt dòng là lối thơ tự do xuống dòng giữa câu, không hoặc có viết hoa ở đầu
mỗi dòng ngắt. Người ta quen gọi là hình thức thơ bậc thang. Trong giai đoạn đầu chống
Pháp, nhiều nhà thơ tỏ ra có sở trường ở thể này: Hữu Loan, Trần Dần, Yến Lan, Trần Huyền
Trân ... Quang Dũng có 7/47 bài thơ sử dụng thủ pháp thơ bậc thang (Nhớ, Rừng, Nhớ bạn,
Thu quê ai, Đường Mười hai, Ba Vì đón Bác, Đường chiều thứ bảy). Số lượng ít ỏi đó cho
thấy ông không hề lạm dụng thể thơ này mà trái lại ông đã biết khai thác những ưu thế của câu
thơ bậc thang trong việc miêu tả sự đứt quãng của cảm giác, tạo nên những điểm dừng, những
khoảng lặng để gây sự tập trung và nhấn mạnh ý nghĩa. Nhiều câu thơ gợi lên được những
cảm xúc và suy nghĩ phong phú:
Những tàu cau
đượm làm chi ánh nắng
Mà sao lưu luyến người!
89
Ôi ta nhớ một quê nhà
(Thu quê ai)
Có ý kiến cho rằng kiểu thơ bậc thang trong kháng chiến chống Pháp nặng về hình thức
và “không ghi nhận được thành công nào đáng kể” [49, tr. 201]. Thực tế cho thấy “lối thơ
theo kiểu Maiacốpxki” giai đoạn này vẫn có những thành công nhất định và sống rất lâu trong
trí nhớ người đọc (chẳng hạn Lại về tỉnh nhỏ của Yến Lan, Hải Phòng đêm 19 - 11 của Trần
Huyền Trân, Bài thơ Việt Bắc - Trần Dần). Ở câu thơ sau trong Đường chiều thứ bảy của
Quang Dũng, hình thức bậc thang đã diễn tả sự sâu lắng trong cảm xúc khi nói về những bi
thương trong chiến tranh:
Tôi gặp em
Nhưng
người bạn xưa
Đã không còn gặp lại
Thân nằm trên một đỉnh Trường Sơn
Mỗi bậc thơ như một tiếng nấc nghẹn, câu thơ ngập ngừng, rưng rưng…
Cùng với ngắt dòng là thủ pháp tạo điểm dừng. Thơ Quang Dũng sử dụng thủ pháp
này khá nhiều. Trong một số bài thơ, ông thường kết thúc bằng dạng “mở”, gây độ dư về âm
và nghĩa. Chẳng hạn ở bài Trưa hè, ông kết thúc bằng hai câu, tách ra thành khổ riêng:
Xa quê dầu chẳng võ vàng
Trông mây núi nhớ mây làng về trưa
Tứ thơ như thể được dồn trọng tâm vào cuối bài, tạo được ấn tượng và gây dư vị trong
lòng độc giả. Ở bài Giấc mơ của Bạch theo thể lục bát, ông kết thúc bằng một câu lục tạo điểm
dừng:
Trách ông trực nhật nào kia
Chưa “nghiên cứu” kĩ đã bê còi vào
Thế là chưa đi đến đâu!
Đây là lối kết thúc để ngỏ, dòng lục kết thúc như khẳng định một sự tiếp diễn. Ý thơ như
thế không dừng lại mà vẫn tiếp tục phát triển trong trí tưởng tượng của người đọc.
Quang Dũng còn có cách tạo điểm dừng bằng khổ thơ gồm ba câu rất ấn tượng: 90
Có những vợ chồng
Không là trăm năm
Mà tình thương yêu ...
Bằng tư duy thông thường, người đọc chờ đợi câu thơ thứ tư, nhưng khổ thơ đã dừng lại
ở đấy. Có lẽ câu thơ thứ tư là một dấu chấm lửng, một sự để ngỏ mà mỗi người đọc có thể tự
điền vào theo cảm xúc và tư duy của mình.
Dùng dấu chấm, dấu chấm than và dấu gạch ngang giữa dòng cũng là cách tạo điểm
dừng quen thuộc của Quang Dũng:
Thôi nhé miền xuôi! Thôi tạm biệt
Nùn rơm - khói thuốc - bạch đầu quân
(Những làng đi qua)
Với rừng. Cây lá đổ về xuôi
(Rừng)
Bác ngồi đâu. Bác hỏi những ai?
(Ba Vì đón Bác)
Cách ngắt nghỉ giữa dòng như vậy tạo một khoảng lặng cần thiết cho sự suy tư của độc
giả. Cũng có câu thơ đạt được hiệu quả nghệ thuật cao:
Tiền nước trả em rồi - Nắng gắt
Đường xa xôi mơ mơ núi và mây
(Quán nước)
Trong đoạn thơ này, hai chữ “Nắng gắt” được tách ra riêng sau dấu gạch ngang với hai
vần trắc liên tiếp cuối câu tạo ấn tượng. Vẫn là cái nắng ở đầu bài thơ (Tôi lính qua đường trưa
nắng gắt) nhưng đến cuối bài được nhấn mạnh tạo nên một không gian đầy ám ảnh, vừa hiện
thực đến khắc nghiệt (nắng gắt, mái lệch, tường xiêu, giàn mướp nghèo, nhà hoang vắng) lại
91
vừa mơ mộng, trữ tình (mơ mơ núi và mây, vài sợi tóc .,.)
3.1.4. Sự sáng tạo các yếu tố thanh điệu, vần và nhịp
Trong sáng tạo thơ ca, vần có giá trị đặc biệt trong việc liên kết giữa các câu thơ với
nhau, tạo âm hưởng và tiếng vang trong thơ. Thơ Quang Dũng có cách gieo vần phong phú.
Cả lối gieo vần trong thơ cổ và trong Thơ mới đều được ông vận dụng linh hoạt. Ngoài hai bài
thơ lục bát là Trưa hè và Giấc mơ của Bạch có sử dụng vần lưng, hầu hết thơ Quang Dũng đều
sử dụng vần chân. Ở các thể bốn tiếng, năm tiếng và bảy tiếng, Quang Dũng dùng nhiều cách
gieo vần liên tiếp theo lối tứ tuyệt bốn câu ba vần:
Ngài đây năm năm miền ly hương
Quê người đôi gót mỏi tha phương
Có những chiều trăng tròn đỉnh núi
Nhà ai chày giã gạo đêm sương
(Cố Quận)
Cách gieo vần gián cách cũng được nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn:
Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được
Giang sơn gấm vóc một miền Tây
Mới thấy yêu sao là Đất Nước
Pha Đin ngàn chóp nổi hồ mây
(Pha Bin)
Sáng tạo độc đáo nhất của Quang Dũng chính là cách gieo vần trắc ở cuối câu. Cách
gieo vần này có mặt ở tất cả các thể (trừ thể lục bát) nhưng tập trung nhất ở thể bảy tiếng và thể
tự do. Nhiều lúc câu thơ bảy tiếng của Quang Dũng dày đặc vần trắc (Những làng đi qua 37
vần trắc/ 71 câu, Pha Đin 14 vần trắc/ 29 câu, Bố Hạ 11 vần trắc/ 21 câu) khiến cho giọng thơ
trở nên cứng cỏi, ngang tàng, tứ thơ lẫm liệt:
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Dân đang gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ chó gầy mắt hoang dại...
92
Khổ thơ có bốn câu nhưng đã có ba câu kết thúc bằng vần trắc, đều là dấu nặng, tạo cảm
giác mạnh về cái ngổn ngang của buổi đầu kháng chiến.
Quang Dũng cũng để lại dấu ấn riêng về nhịp điệu. Nhịp thơ ông nhìn chung là nhịp của
cuộc sống kháng chiến, nhịp của tiếng lòng nhà thơ trong cảm nhận đời thường được thể hiện
bằng chất liệu ngôn ngữ. Ở thể bốn tiếng, nhịp điệu chung là 2/2 rất đều đặn và tươi vui:
Đường thôn/ rạ vàng
Ngậy mùi/cơm mới
Tháng mười/quê ta
Gạo mùa/ chim ngói
(Tiết xôi mới trên đường đi khai hoang)
Nhưng có lúc ông sáng tạo nhịp 1/ 3 để nhấn mạnh ấn tượng hay gây cảm giác:
- Mờ/mây Tam Đảo
Sẫm/ dáng Ba Vì
(Bắt tép kho cà)
- Ơi!/ Con đường xưa
Men vườn ổi thơm
(Không đề)
Ở thể năm tiếng và thể bảy tiếng, ông thường dùng cách ngắt nhịp truyền thống (2/ 3)
hoặc (4/ 3), (2/ 2/ 3). Tuy nhiên hai thể thơ này không gò bó như thơ thất ngôn và ngũ ngôn
Đường luật mà có những cách tân. Nhịp điệu thường thay đổi liên tục, có dòng ngắt nhịp chẩn
- lẻ (2/3 hoặc 4/3), có dòng ngắt ngược lại (3/2 hoặc 3/4):
Đêm nay/ đêm Bạch Hạc
Ta lại vào/ nhà ai
Nghe sông Lô/ cuộn nước
Dềnh lên/ suốt đêm dài
93
(Đêm Bạch Hạc)
Cách ngắt nhịp như vậy một mặt làm cho nhịp thơ phong phú, đỡ gây nhàm chán, mặt
khác bộc lộ được nhiều cung bậc tình cảm. Ở thể thơ tự do, nhịp điệu còn biến hóa hơn nhiều.
Có nhịp dồn dập, khẩn trương khi viết về khí thế Cách mạng, về những cuộc hành
quân (Ngựa, Pha Đin, Những làng đi qua) nhưng cũng có nhịp chậm, buồn, mênh mang cảm
xúc (Đường chiều thứ bảy, Nhớ về mẹ, Chabbi -Chabbi). Nhịp thơ đó là những hơi thở của
cuộc sống được phả vào thế giới thẩm mĩ của Quang Dũng, tạo thành tiếng thơ đa điệu, phong
phú.
Có người cho rằng “Thơ là văn bản gây kì lạ”, là “kiến trúc đầy âm vang”. Điều đó có
được một phần là nhờ yếu tố thanh điệu. Thanh điệu không hoàn toàn thuộc về lĩnh vực hình
thức mà trong sáng tạo thơ ca, nó còn phục vụ đắc lực cho việc biểu hiện nội dung. Người ta sẽ
còn nhắc rất nhiều đến cái ngang tàng mà bất đắc chí của Tản Đà, cái bâng khuâng của Huy
Cận, cái “chơi vơi” của Xuân Diệu. Người ta cũng sẽ còn phải nhắc nhiều đến những câu thơ
tài hoa của Quang Dũng. Những ai đã một lần qua những cung đường ngoằn ngoèo của Tây
Bắc, vượt dốc Pha Đin không thể không nhớ câu:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
(Tây Tiến)
Câu trên ngắt làm đôi với mỗi thanh trắc một bên như hai đỉnh dốc chon von. Câu dưới
toàn vần bằng trải ra như một vùng thung lũng mênh mang mà buồn bã.
Viết về cái khắc nghiệt của cuộc chiến, Quang Dũng cũng chỉ dùng một câu: “Đêm đêm
Mường Hịch cọp trêu người” (Tây Tiến). Hai thanh trắc liên tiếp ở cuối câu (đều là dấu nặng)
khiến câu thơ trĩu về một phía, nặng trịch, hình ảnh thơ hiện lên hoang dại mà kì bí.
Ở các thể thơ năm tiếng và bảy tiếng cổ điển, người làm thơ phải chú ý đến niêm và luật.
Thơ Quang Dũng trái lại, ít khi quan tâm đến các yếu tố đó. Ông đặt trọng tâm vào sự vận
động tự nhiên của các thanh điệu trong việc thể hiện tình và ý thơ. Câu thơ (nhất là thơ thất
ngôn và thơ tự do) nhiều lúc trở nên trúc trắc, khó đọc nhưng cũng chính vì thế mà gây ấn
tượng:
Bờ tre cây rơm thôi tịch mịch
Vỡ lá bàng khô bước du kích
94
(Những làng đi qua)
Có khi, để diễn tả sự miên man, dàn trải trong cảm xúc, nhà thơ lại dùng rất nhiều thanh
bằng:
Chiều rồi ba lô lại ra đi
Bâng khuâng hồn lính vấn vương gì
(Nhớ)
Có những vợ chồng
Không là trăm năm
Mà tình thương yêu ...
(Không đề)
Chính điều đó khiến cho thơ Quang Dũng đôi chỗ mất đi sự cân đối thông thường theo
kiểu thơ cổ điển nhưng lại có nhạc tính cao. Đó là thứ nhạc bên trong, thứ nhạc lòng của nhà
thơ đã tìm được rung động từ những âm thanh của cuộc sống, của kháng chiến và của cả
những gian lao đời thường, đã cất lên thành lời thơ xao xuyến.
3.2. Đặc điểm sử dụng ngôn từ
Ngôn từ là “yếu tố đầu tiên” chi phối và quyết định tác phẩm văn học. Trong thơ, ngôn
từ càng có vai trò quan trọng. Vũ Duy Thông nhận định: “Thơ sở dĩ không phải là văn xuôi,
thơ là thơ bởi cách tổ chức ngôn ngữ của nó” [88, tr. 129]. Sáng tạo ngôn từ thuộc về tài năng
nghệ thuật của tác giả, cho nên tìm hiểu thơ Quang Dũng không thể không đánh giá những
đóng góp về mặt ngôn từ của ông.
3.2.1. Sử dụng thành công biện pháp tu từ trùng điệp
Trùng điệp là sự luân phiên, lặp lại của một số đơn vị ngôn ngữ nhằm thể hiện dụng ý
nghệ thuật. Thơ Quang Dũng dùng rất nhiều biện pháp trùng điệp trên các cấp độ điệp thanh,
điệp vần, điệp từ, điệp câu và điệp đoạn.
Dễ nhận thấy là cách sử dụng điệp câu. Ở Những làng đi qua, hình ảnh “Đoàn vệ quốc
quân một lần ra đi” được khắc họa bằng phép điệp: “Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi” (lặp 3
lần), “Những làng trung đoàn ta đi qua” (lặp 2 lần), “Những làng trung đoàn ta đóng
95
lại” (lặp 2 lần). Sự lặp lại hoàn toàn hoặc có biến đổi đó khiến cho hình tượng đoàn quân được
đưa lên vị trí trung tâm, đồng thời nhạc điệu thơ cũng mang âm hưởng trầm hùng của những
khúc quân hành.
Bài Trắc ẩn có cách lặp vòng tròn tạo sự không kết thúc của tứ thơ:
Một chút linh hồn nhỏ
Đi về chân núi xanh
Màu tím chiều chầm chậm
Hoàng hôn nghe một mình
(...) Một chút linh hồn nhỏ
Đi về chân núi xanh
Lặp lại như vậy gây cảm giác chia lìa, mất mát vĩnh viễn, số phận con người cứ rời xa,
cứ chìm dần vào không gian hoang vắng, vào núi xanh, hoàng hôn, chìm trong tiếng chuông
giáo đường...
Có khi ông dùng cách điệp cả tứ thơ và hình ảnh. Bài Mắt người Sơn Tây có nhiều câu
hỏi: “Em đã bao ngày em nhớ thương?” “Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông?” “Em đã bao ngày
lệ chứa chan?” “Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn?” “Còn có bao giờ em nhớ ta?”... Mỗi câu
hỏi tưởng chừng khác nhau nhưng cách lặp lại của thanh điệu, của kết cấu câu, từ ngữ lại xoáy
vào một điểm: nỗi nhớ quê hương đau đáu không nguôi.
Lặp lại cả khổ thơ cũng là cách riêng của Quang Dũng. Bài Trắc ẩn và Tôi viết chiều nay
có chung ba khổ thơ, Mắt người Sơn Tây và Nhớ một bóng núi có chung một khổ thơ. Biện
pháp điệp ở hai bài khác nhau trong thơ Quang Dũng thường có tác dụng hồi tưởng hay gợi
cảm giác miên man, sâu lắng.
Cách sử dụng “điệp” còn thể hiện ở những từ láy. Mỗi từ láy với sự lặp lại của âm tiết
(phụ âm đầu, phần vần, hay lặp hoàn toàn) có khả năng gợi hình, gợi cảm đặc biệt. Lượng từ
láy trong thơ Quang Dũng khá phong phú. Chỉ tính riêng mười bài đầu của Tuyển tập Quang
Dũng đã có tới 33 từ láy: chơi vơi, khúc khuỷu, thăm thẳm, đong đưa, lanh lảnh, lã chã, heo
hút, tịch mịch, râm ran, héo hon, quạnh quạnh, rụng rời, giăng giăng, dạt dào, xác
xơ... Quang Dũng không dùng từ láy một cách hời hợt. Sự lựa chọn từ láy của ông là tinh tế và
thuyết phục. Đã có biết bao người viết lấy hai chữ “chơi vơi” đầu bài Tây tiến làm điểm tựa để
96
hiểu cả bài thơ, nhưng cho đến giờ chưa ai lý giải hết cái mông lung, huyền ảo, bồng bềnh mà
da diết, sâu thẳm của nỗi nhớ mà hai chữ “ chơi vơi” ấy đã tạo ra.
Từ láy “chon von” trong câu thơ sau cũng rất phù hợp:
Lắc đầu tài xế thấm mồ hôi
Bên dốc chon von ngàn thước vực
(Pha Bin)
Diễn tả cảm giác không thăng bằng, còn có chữ “chênh vênh” nhưng Quang Dũng vẫn
chọn “chon von” vì “chon von” còn thể hiện được độ cao và nó hợp với ba chữ “ngàn thước
vực” ở phía sau.
3.2.2. Cách dùng động từ, từ cảm thán, từ gọi đáp, từ để hỏi
Tác phẩm văn học trong bản chất là sự giao tiếp, đối thoại, là nơi giao hòa “hai tiếng nói”
mà trong đó nhà văn đi tìm sự gặp gỡ, cảm thông ở người đọc. Tố Hữu nói: “Thơ là điệu tâm
hồn đi tìm hồn đồng điệu”. Pôn Elua cũng cho rằng đặc trưng của thơ là “Từ chân trời một
người đến chân trời của mọi người”.
Quang Dũng là một tiếng thơ đầy rung cảm. Tâm hồn ông mở rộng để đón nhận mọi âm
thanh của cuộc sống đồng thời cũng mong muốn trải tấm lòng của mình ra để nhận về sự chia
sẻ của bạn bè, người đọc. Thế nên thơ ông nhiều từ cảm thán, từ gọi đáp, từ để hỏi. Lớp từ này
có giá trị đặc biệt trong việc thể hiện cảm xúc và hướng sự giao tiếp vào độc giả.
Những từ cảm thán trong thơ ông là tiếng kêu của một tấm lòng yêu cuôc sống và giàu
tình cảm: “Ôi những xe bò ắp bánh chưng” (Nhớ một bóng núi), “Ôi chật làm sao/ Góc phố
phường” (Mây đầu ô), “Chao ôi! Bờ suối tối đen” (Tiếng chim rừng), “Ôi! Nhớ thương
người im lặng quá!” (Tôi viết chiều nay), “Ôi ta nhớ một quê nhà” (Thu quê ai), “Ôi Sơn Tây,
Sài Sơn thương yêu” (Nhớ một bóng núi)...
Tâm hồn ông hẳn là rất nhạy cảm và mang nhiều nỗi niềm nên khi những xúc động dâng
trào thành tiếng kêu tha thiết thì đó là những tình cảm rất chân thực. Vì thế, nó gợi được sự
đồng cảm, sự xúc động chân thành ở người đọc.
Lớp từ gọi đáp đầy ắp trong thơ Quang Dũng. Ông gọi tên thiên nhiên, gọi con người,
gọi quê hương bằng cả tấm lòng xao xuyến: “Trường Thành xa lắm Hán vương ơi”, “Ái
97
khanh! Ái khanh! Lời nghẹn ngùng” (Chiêu Quân), “Chị ơi! Cháu ngủ đâu?” (Lính râu ria),
“Em ơi! Em ơi! Đêm dần vơi” (Cố Quận), “Những linh hồn bé nhỏ chúng ta ơi” (Tôi viết
chiều nay), “Mẹ ơi! Nhớ tuổi còn nép vú”(Nhớ về mẹ), “Ơi! con đường xưa”, “Sông ơi! Dài
sao/Rộng ơi! Biển cả” (Không đề), “Anh nhỉ! Muôn đời ơn tự do” (Một mùa thu tới), “Hỡi ai!
Trên đường lên huyện Ba Vì” (Ba Vì đón Bác)...
Nỗi khát khao giao cảm, gần gũi với cuộc đời trong tâm hồn ông đã bật lên thành những
tiếng gọi. Có tiếng gọi mong được đáp lại, cũng có tiếng gọi rơi vào hư vô. Nhưng tất cả đều
gợi nhiều lưu luyến, thương cảm:
Sông ơi!
Trở về đây buồn đất cũ người xưa
(Nhớ về mẹ)
Từ gọi đáp còn gợi sự kính cẩn, trang trọng khi nói về Bác:
Hỡi ai đi trên đường
Hãy xuống xe, ngả nón
Vào “Đồi cây đón Bác”
(Ba Vì đón Bác)
Các dạng câu hỏi và từ để hỏi cũng là một “kênh” giao tiếp của Quang Dũng. Trong 47
bài thơ, ông dùng tới 39 câu hỏi. Điều này làm cho thơ ông gợi lên nhiều băn khoăn, nhiều âu
lo về cuộc sống, về chiến tranh. Thời đại đặt ra cho ông biết bao câu hỏi đầy đớn đau, ngang
trái: “Bên này em có nhớ bên kia?” (Đôi bờ), “Em đã bao ngày lệ chứa chan?”, “Em đã bao
ngày em nhớ thương?” “Mẹ tôi em có gặp đâu không?/Những xác già nua ngập cánh đồng”
(Mắt người Sơn Tây), “Chị ơi! Cháu ngủ đâu?” (Lính râu ria)...
Đồng thời hỏi cũng là một cách để bộc lộ cảm xúc. Những câu hỏi tu từ làm cho thơ
Quang Dũng thêm phần gợi cảm:
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
(Đôi bờ)
Lá múa rì rào trên bãi vắng
Mái nhà ai đó nắng xiêu xiêu? 98
(Thu)
Chiều đến từ đâu ...
Mà lạnh đến từ đâu?
(Thu quê ai)
Tính chất giao tiếp ở các kiểu từ gọi đáp, từ cảm thán, từ để hỏi đã kéo thơ ông lại gần
với người đọc hơn. Đọc thơ ông ta có cảm giác như đang trò chuyện, tâm tình với ông, đang
cùng ông đi vào thế giới cảm xúc hay cùng ông đi tìm câu trả lời cho những ưu tư trong cuộc
đời...
Cách mạng và kháng chiến là thời đại của lí tưởng anh hùng thôi thúc con người hành
động. Thơ kháng chiến vì thế dùng nhiều động từ, đặc biệt là lớp từ ngữ chỉ khí thế chiến đấu
của người lính, chỉ hành động của cơ thể hay chỉ sự tàn phá của chiến tranh. Thơ Chính Hữu,
Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật luôn đặt con người vào tư thế “động”, tư thế sẵn sàng chiến
đấu. Chẳng hạn trong khổ thơ bốn chữ sau, Phạm Tiến Duật dùng liên tiếp đến năm động từ
gợi không khí sôi nổi, quên mình trong chiến đấu:
Bom dập liên hồi
Lỗ tai máu chảy
Xông lên vá đường
Mặc cho áo cháy
(Ngãng thân yêu - Phạm Tiến Duật)
Tìm hiểu thơ Quang Dũng, chúng tôi nhận thấy thơ ông không nhiều động từ lắm.
Những động từ trong thơ ông lại thường là động từ hướng nội hơn là động từ hành động.
Ngoài “nhớ” được dùng 47 lần, “thương” 12 lần, “mơ” 4 lần, “mộng” 2 lần, thơ ông còn có
những “xao xuyến”, “bâng khuâng”, “vấn vương”, “sầu”, “thoáng hiện”, “hờn tủi”,
“trông về”, “trở lại”, “ngóng trông”, “đợi chờ”, “hoài vọng”, “buồn”, “u uẩn”, “thao
thức”, “nghẹn ngào”, “rưng rưng”... Lớp từ này làm tăng thêm sự sâu lắng, đằm thắm trong
tình cảm. Nó cũng phù hợp với phong cách thơ nhẹ nhàng mà tha thiết của Quang Dũng. Có
khi thơ ông xuất hiện cùng một lúc nhiều động từ chỉ tình cảm:
99
Long lanh bóng núi in sông biếc
Buồn nhớ thương ai lòng rưng rưng
(Thu)
Điều đó cho thấy thi nhân là một con người có tâm hồn nhạy cảm, luôn tha thiết với cuộc
đời.
3.2.3. Ngôn từ thơ Quang Dũng giàu chất kí
Thể kí được sử dụng nhiều trong văn học Việt Nam 1945 - 1975. Với trách nhiệm của
người nói lên tiếng nói thời đại, thơ cũng hấp thu vào mình những yếu tố của thể kí. Nhìn
chung, thơ kháng chiến giàu chất kí bởi trong kháng chiến có bao sự việc, hoàn cảnh, con
người cần miêu tả. Riêng với Quang Dũng, chất kí trong thơ còn là biểu hiện tự nhiên của con
người ưa phiêu lưu tài tử, thích thưởng ngoạn.
Bằng ngòi bút của mình, nhà thơ đã đưa cả cuộc kháng chiến trong buổi đầu còn ngổn
ngang, bề bộn đến với người đọc. Người ta có thể tìm thấy ở đây cả “bát muối vừng, nồi cơm
trộn sắn, nải chuối tiễn quân” lẫn “na pan, bom bướm, bom dây”, từ “chiếc tã đầu giường
còn cháy dở”, “lạc chủ chó gầy mắt hoang dại” đến “mùi ét xăng”, “đoàn xe chuyển bánh”,
“pháo nặng lù lù”... Nhà thơ diễn đạt tự nhiên như kể lại câu chuyện về đời lính với tâm trạng
người trong cuộc, vừa phấn khởi, tự hào, vừa thấu hiểu những gian lao:
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Dân đang gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ chó gầy mắt hoang dại
(Những làng đi qua)
Lớp từ ngữ chiến trận trong thơ ông không thật nhiều nhưng lại vô cùng phong phú về
nội dung: bao đạn ướt, thành lũy, chiến xa, chiến hào, trạm tiền tiêu, giày đinh giặc, dân
quân, vọng gác, tự vệ, du kích, trung đoàn, vệ quốc quân, khẩu hiệu, chiến sự, hành quân, lửa
ngang trời, phòng tuyến, ba lô, chạy giặc, chinh chiến, tiếng súng rền, vây hãm giặc, đứt
pháo, đạn bom, quân thù, hố tăng xê, chiến dịch, bộ đội chính qui, súng máy, kháng chiến, hố
bom... Lớp từ này có tác dụng ghi lại toàn vẹn, phong phú, nhiều chiều đời sống kháng chiến
của dân tộc. Có lúc là cuộc chiến đang hồi căng thẳng, quyết liệt: Rừng trên súng mũ vào quân
dịch/ Lá rừng thét gió đợt xung phong (Rừng), là những gian khó của đời lính: Anh bạn dãi
100
dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời (Tây Tiến), hay đơn thuần là những phút
giây thanh thản của người lính trong đời thường: Tự vệ xách đèn chai lối xóm/ Khuya về chân
khỏa vội cầu ao (Những làng đi qua).
Việc dùng chất kí để ghi lại sự đa dạng của cuộc chiến đã làm ngôn từ thơ Quang Dũng
có sự tăng cường tính hiện thực và yếu tố thời sự. Do đó, đọc thơ ông ta có cảm giác như đang
xem những bức phác họa còn tươi rói chất sống, còn đẫm hơi thở chiến trường. Điều này
không chỉ bắt nguồn từ hiện thực mà còn bắt nguồn từ bản thân cảm nhận thẩm mĩ của nhà thơ
với cuộc sống. Đây là vấn đề có tính chất hai mặt. Hiện thực đời sống dù là thời bình hay thời
chiến thì cũng đầy ắp các sự kiện, các chi tiết. Nhưng dung lượng ngôn từ thơ lại có hạn. Lựa
chọn chi tiết nào, lược bỏ chi tiết nào, chọn điểm nhìn nào để miêu tả cuộc sống sao cho “đắt”
nhất, ấn tượng nhất lại là công việc của các nhà thơ. Nếu không chú ý đến điều này, việc lạm
dụng chất kí trong thơ sẽ làm thơ “chết đuối” trong các sự kiện. Với các nhà thơ tài năng, chất
kí đó sẽ thấm đẫm chất thơ. Nhiều bài thơ của Quang Dũng nằm ở trường hợp thứ hai, trở nên
rất ấn tượng với người đọc (như Mây đầu ô, Những làng đi qua, Đường trăng).
Tuy nhiên, thơ Quang Dũng không phải không có bài, có câu chất kí bị lạm dụng, trở
nên lấn á t chất thơ (một số đoạn trong Rừng, Đường Mười hai, Đường chiều thứ bảy). Những
lúc như vậy, thơ ông thường dài, lặp, có lúc thừa. Nhưng dù sao, với Những làng đi qua, Thu,
Chabbi - Chabbi và những bài thơ giàu chi tiết khác, Quang Dũng đã góp phần đáng kể vào
việc lưu dấu ấn của cả một thời kì kháng chiến của dân tộc vào lòng độc giả.
Nhà thơ Bì Hưu Nhật xưa từng nói “Bách luyện thành tự, thiên luyện thành cú” (luyện
trăm lần mới được một từ, luyện ngàn lần mới được một câu thơ). Viết ra được một câu thơ
hay không phải là việc dễ dàng gì. Bởi vì “Dùng chữ như đánh cờ tướng” (Nguyễn Tuân).
Chúng tôi cho rằng với tư cách là một trong những nhà thơ mở đầu cho nền thơ kháng chiến,
Quang Dũng đã khá thành công về mặt ngôn từ. Thơ ông không có cách dùng từ quá cầu kì,
gọt giũa hay kiểu cách nhưng vẫn có sức hấp dẫn riêng của một lối thơ chân mộc, giàu tình
cảm. Những kiểu động từ, từ cảm thán, từ gọi đáp, từ để hỏi làm cho thơ ông giàu suy tư, giàu
cảm xúc nhưng chất kí trong thơ cùng với việc sử dụng dày đặc biện pháp trùng điệp lại tăng
cường tính chất hiện thực cho thơ ông. Hai yếu tố này kết hợp với nhau tạo cho thơ Quang
101
Dũng một dấu ấn rất riêng, khó lẫn với các nhà thơ cùng thời.
3.3. Giọng điệu thơ Quang Dũng
“Thơ khởi phát từ lòng người ra” (Lê Quí Đôn). Mà tấm lòng, tâm hồn mỗi người bao
giờ cũng có nét khác biệt. Cho nên khi bài thơ ra đời bao giờ nó cũng mang một “điệu tâm
hồn” của riêng tác giả. Với các nhà thơ tài năng, giọng điệu là một trong những yếu tố góp
phần quan trọng tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo của họ. Nguyễn Đăng Điệp đưa ra
định nghĩa: “Giọng điệu được hiểu như là lập trường, thái độ, tình cảm, đạo đức của nhà văn
đối với các hiện tượng được mô tả trong lời văn và khả năng huy động các biện pháp nghệ
thuật làm nổi bật giọng điệu” [17, tr. 27].
Đọc thơ Quang Dũng, “người ta mến mộ về cái chất Quang Dũng của chúng” [99, tr. 4].
Trên cái nền chung của giọng điệu ngợi ca, tôn kính thơ kháng chiến, thơ Quang Dũng vẫn nổi
lên một cá tính sáng tạo đích thực, một giọng điệu riêng không dễ lẫn với các nhà thơ cùng
thời. Tìm hiểu thơ Quang Dũng, chúng tôi thấy nổi lên những giọng sau:
3.3.1. Giọng hào hùng, tráng chí
Giọng điệu hào hùng trong thơ Quang Dũng bắt nguồn từ không khí thời đại: “Một điều
rất cơ bản là hào khí của thời đại đã gây chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt
của anh có phần âm vang từ hào khí ấy” [96, tr. 23]. Ngay từ khi Tây Tiến ra đời, chất tráng
ca, chất hào hùng, lí tưởng quên mình vì nghĩa của bài thơ đã trở thành men say của bao thế hệ
ra trận. Những ai từng một lần cầm súng, hòa mình vào đoàn người “cả thế kỉ cùng ra
trận” làm sao không nhớ, không yêu những câu thơ thế này:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
(Tây Tiến)
Trong Thương nhớ mười hai, đã có lúc nhà vãn Vũ Bằng phải thốt lên: “Tháng mười,
nhớ đến gió Đọi Điệp, mặc áo va rơi, đi như muốn bay lên trời mà miệng vẫn không ngớt
ngâm bài Tây tiến”.
Đến Những làng đi qua, Quang Dũng vẫn giữ được giọng thơ hào hùng như thế. Nhịp
điệu bài thơ là nhịp quân hành, đồng thời cũng là nhịp lòng của nhà thơ đang bừng bừng khí
102
thế. Điệp ngữ “Những làng trung đoàn ta đi qua” được lặp lại nhiều lần thể hiện niềm tự hào
phơi phới của tác giả. Bằng điệp khúc đó, nhà thơ đã phác lên khí thế của cả dân tộc ra trận:
Thôi nhé Miền xuôi! Thôi tạm biệt
Thôi chào Hà Nội lửa ngang trời
Ta đi
Ngõ gạch - tường đang đục
Gạn từng giọt nước, đánh, cầm hơi
Đó là cuộc lên đường của những chàng trai trẻ, phần lớn là người Thủ đô, quyết dứt bỏ
mọi hạnh phúc riêng tư nhỏ hẹp và bối cảnh phồn hoa đô thị, ra đi vì nghĩa lớn. Không khí
ngổn ngang của cuộc chiến (lửa ngang trời, ngõ gạch tường đang đục) càng nung nấu ở họ ý
chí chiến đấu và cảm hứng anh hùng. Những thử thách gian lao càng thôi thúc người lính ra
trận. Tất cả những điều đó tạo nên dấu ấn khó quên về thời kì đầu kháng chiến. Quả đúng như
nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã nói, thơ Quang Dũng giai đoạn này mang “khẩu khí anh
hùng” [87, tr. 32] trong cách sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng nhân vật.
Để làm được điều đó, nhà thơ đã sáng tạo ra những bài thơ mang âm hưởng thể loại
hành. Nhiều bài thơ, Quang Dũng dùng câu thơ bảy chữ chắc, khoẻ và vần trắc mạnh mẽ lột tả
được cái gian nan của cuộc chiến hay khí thế anh hùng. Đặc biệt ông đã sử dụng những âm
thanh “khổ độc” và vần trắc ở cuối câu để nói lên sự gian lao thời kì đầu kháng chiến:
Thôi nhé miền xuôi! Ta tạm biệt
Cống Chéo - Hồng Xuân - thề một chết
Hàng Gai tay báng trục “ba càng”
Đất cũ Thăng Long người lẫm liệt
(Những làng đi qua)
Hiệu quả của vần trắc thật ấn tượng. Những câu thơ mạnh mà gọn như nhát dao chém đá,
như một lời thề quyết liệt. Khí thế anh hùng đã đưa nhà thơ đến với những vùng đất thiên
nhiên hiểm trở, khắc nghiệt hay những chiến trường ác liệt nhất. Đó là những Pha Đin hay
là Đường Mười hai:
103
Đường Mười hai anh dũng
Đường dài hun hút đá răm
Mình mang đầy vết đạn bom
Nhưng quân thù khiếp sợ
Giọng thơ ông hùng tráng mà trang nghiêm khi nhắc đến sự hy sinh:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến)
Cũng có lúc đó là giọng trang trọng và đầy trìu mến khi viết về cuộc giao quân:
Hãy nghỉ tay chèo và gấp lưới
Bữa riêu thơm khói bếp nhà chài
Ăn vội!
Trống tập trung
Vang vọng bến Lương Tuyền ...
(Bất Bạt đêm giao quân)
Âm điệu hào hùng, cảm hứng ngợi ca không phải là đặc trưng chỉ có ở thơ Quang Dũng,
Khí thế hừng hực của cuộc kháng chiến kết hợp với lí tưởng của tình yêu tổ quốc đã tạo nên
chất tráng ca của thơ thời kì này. Nhưng cũng chính vì thế mà đôi chỗ thơ sa vào khiên cưỡng,
lên gân trong cảm xúc. Chẳng hạn ở bài thơ rất nổi tiếng Bên kia sông Đuống của
Hoàng Cầm ta vẫn thấy những câu chưa chân thật về cảm xúc như:
Tiếng em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay
Thân ta hoen ố vì mày
Thù ta cùng với đất này dài lâu
Thơ Quang Dũng hiếm khi rơi vào trạng thái đó. Giọng thơ ông hào hùng mà vẫn chân
thành trong cảm xúc, có lúc bay bổng nhưng vẫn đứng vững trên cái nền hiện thực. “Dường
như anh chưa bao giờ giấu mình và càng không bao giờ dối mình trong thơ” [35, tr. 41]. Đó
104
chính là cái chất Quang Dũng cả trong thơ và trong đời: “nồng” mà vẫn rất “đượm”, hào
hùng nhưng không cao giọng, giả giọng.
3.3.2. Giọng bâng khuâng, mơ hồ, phiêu diêu
“Quang Dũng ưa phiêu diêu, trong thơ cũng như trong cuộc sống” [96, tr. 39]. “Bản
chất của ông là mây, ở góc độ phiêu bồng” (Vân Long). Đó quả là những lời nhận xét xác
đáng của những người bạn thân đã gắn bó với nhà thơ hơn nửa cuộc đời. Cả trong thơ, nhạc,
họa ông đều để lại một “dư vị” thật bâng khuâng và gợi cảm. Những bức tranh ông vẽ, một
gốc bàng mùa đông, một đỉnh núi Ba Vì lãng đãng mây mờ, một dòng sông Mã... Tất cả đều
được miêu tả viễn cảnh, thấm đượm một cái nhìn bàng bạc. Bài hát Ba Vì mờ cao ông sáng tác
bồng bềnh, mờ ảo, từng nốt nhạc cũng là từng lời thơ lắng sâu vào hồn người: Ba Vì mờ cao/
Làn sương chiều xa buông/ Gió về hương núi thơm/Dâng hồn về đâu?...
Trong thơ ca, Quang Dũng có “giọng thơ thiết tha lạ thường” [35, tr. 41], vừa mềm mại,
vừa da diết, khi “lảng bảng xứ Đoài mây trắng” (Hoài Việt), lúc lại “như một bản tình ca hòa
tấu” (Lê Đạt).
Tâm hồn giàu mơ mộng kết hợp với lối sống lãng tử đã tạo cho ông một giọng thơ phiêu
diêu khó lẫn. Ngay từ trước Cách mạng, giọng thơ ấy đã xuất hiện một cách khá rõ nét:
Em ơi! Em ơi! Đêm dần vơi
Trông về phương ấy ngóng trông người
Trăng có soi qua đầu tóc bạc
Nẻo về cố quận nhớ thương ơi
(Cố Quận)
Không gian, thời gian đầy khơi gợi, nhân vật trữ tình cô đơn, thương nhớ. Tất cả tạo nên
một cảm giác miên man khó tả.
Đến với hai cuộc kháng chiến hào hùng và gian khổ, Quang Dũng vẫn để lại một chất
giọng bàng bạc. Ở Hồ Nam là một chút bâng khuâng trước chiến dịch:
Vàng cũ thời gian trang nhật kí
Bâng khuâng y tá mắt trông người
105
Chưa vào chiến dịch quân y vắng
Quê nhà Hà Nội dạ như khơi
Ở Thu là một bức tranh quê thật mềm mại:
Nắng nửa sông xa mờ khí núi
Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu
Trong Tây Tiến, chen lẫn với khúc quân hành trầm hùng là âm điệu của “một bản tình
ca” mượt mà, tha thiết. Có đoạn thơ trở thành ám ảnh với những người yêu Tây Tiến :
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa...
Giọng điệu thơ mơ hồ, lãng đãng. Bóng dáng người con gái thoáng hiện về trong nỗi
nhớ, hòa lẫn vào sương khói, mây mờ, hồn lau, vào dòng nước lũ, bồng bềnh, hư ảo.
Giọng điệu bâng khuâng, mơ hồ, phiêu diêu khiến cho thơ Quang Dũng nhiều lúc là
những lời thủ thỉ, tâm tình, đầy thương mến. Giọng thơ ông dịu dàng, chân tình, nhỏ nhẹ khi
nói với một anh lính viễn chinh đã bỏ mình trên đất Việt:
Chabbi Chabbi
Còn bao giờ qua biển
Để về với đất trời bên ấy
Hai mươi tuổi trẻ nằm đây
Lòng đất Việt Nam hiền hậu
(Chabbi - Chabbi)
Có lúc lại cất lên thật tha thiết mà cũng rất chân thành khi viết về nỗi nhớ quê:
Những tàu cau
Đượm làm chi ánh nắng
Ôi ta nhớ một quê nhà
(Thu quê ai)
106
Góp phần tạo nên dòng chảy mơ hồ, phiêu diêu trong thơ Quang Dũng chính là hệ thống
đại từ phiếm chỉ và các hình ảnh không xác thực rất dày đặc trong thơ ông: “Ngồi đây mà
tưởng nhớ phương nào”, “Nhà ai chày gạo giã đêm sương”, “Trông về phương ấy ngóng
trông người”, “Thương nhớ ớ hờ thương nhớ ai”, “Bên này em có nhớ bên kia”, “Chiều
ấy em về thương nhớ ai”, “Mái nhà ai đó nắng xiêu xiêu”... chính điều đó làm cho thơ Quang
Dũng luôn có cảm giác lãng du, phiêu bồng của những chuyến đi:
Có những mảnh giường lạ
Nhìn ra khoảng sân nào
Nửa đêm chợt thức giấc
Thấy ta nằm ở đâu?
(Đêm Bạch Hạc)
Chất giọng mơ hồ, phiêu diêu, thoáng chút bâng khuâng, bàng bạc trong thơ Quang
Dũng là một thanh âm lạ trong cái nền chung của giọng điệu ngợi ca, tôn kính, hào hùng thơ
kháng chiến. Với chất thơ ấy, Quang Dũng đã tạo nên được một “giọng điệu riêng”, “một cá
tính sáng tạo đích thực” như cách nói của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp.
3.3.3. Giọng buồn thương
Có một điều tưởng chừng như nghịch lí là nếu trong cuộc đời, Quang Dũng được biết tới
như một người giỏi tiếu lâm, có khiếu hài hước thì trong thơ ca ông lại chẳng mấy khi vui.
Thơ ông chứa nặng những nỗi buồn. Tâm hồn ông “như cái giếng thơi. Trên mặt giếng mây
gió bốn mùa và mặt trời, mặt trăng vẫn lượn qua, nhưng đáy giếng tĩnh lặng, hàm chứa nỗi
niềm gì, ai mà thấy hết” [96, tr. 39].
Giọng điệu buồn trong thơ Quang Dũng trước hết là biểu hiện cụ thể của một tâm hồn
nhạy cảm, giàu suy tư. Nhưng trong buổi đầu nó cũng gắn nhiều với hoàn cảnh thời đại.
Người lính lên đường đi chiến đấu với trái tim rực lửa nhưng cũng biết mình phải đối mặt với
gian nguy lớn: “đánh trận tử vong ít, sốt rét rừng gây tử vong nhiều”, thiếu lương thực, vũ
khí, thiếu thuốc men... Những điều đó đã phả vào thơ ca kháng chiến một “dòng phụ
lưu” mang âm điệu buồn thương bên cạnh “dòng chủ lưu” những bài thơ hào hùng. Màu tím
hoa sim của Hữu Loan, Chiều mưa đường số năm của Thâm Tâm và Không nói của Nguyễn
107
Đình Thi là những bài thơ chảy theo dòng phụ lưu đó.
Riêng với Quang Dũng, giọng buồn thương còn là một phương diện tạo nên phong cách
thơ Quang Dũng và để lại giá trị cho thơ Quang Dũng. Nhà nghiên cứu Phong Lê khẳng
định: “Phải có buồn mới đúng là hồn thơ Quang Dũng. Chút buồn sao thoát được trong lận
đận chuyện đời, trong nỗi sợ ngày qua, nhưng buồn không phải để mất lòng tin vào cuộc đời.
Đối với ông đó là toàn bộ sự sống bình dị mà ấm áp của người thân và bạn bè, của không ít
những người biết ông và yêu mến ông, cả trong đời và trong thơ” [48, tr. 329].
Thơ Quang Dũng là thế giới của nỗi buồn. Chữ “buồn” đi về nhiều lần trong các sáng tác
của ông: buồn thương, buồn êm ấm, buồn đất cũ người xưa, buồn viễn xứ khôn khuây, nỗi
buồn nghĩa địa, buồn lắm Hồ Nam ơi... Cùng với đó là hệ thống những từ ngữ, hình ảnh cực tả
nỗi buồn: xơ xác, rũ héo, đìu hiu, tịch mịch, hiu hắt... Điều đó làm cho â m điệu thơ Quang
Dũng nhiều khi trở nên da diết, mênh mang và sâu lắng.
Ngay ở bài thơ đầu tiên, đánh dấu thành công vượt bậc của Quang Dũng, Tây Tiến, âm
điệu buồn đã trở thành chủ âm của giọng thơ Quang Dũng. Trần Lê Văn nhận thấy ở
đó “phảng phất những nét buồn, những nét đau nhưng là cái buồn đau bi tráng chứ không
phải là cái buồn đau bi lụy” [96, tr. 25]. Đặng Anh Đào cũng cho rằng Tây Tiến “gợi một dư
vị buồn rất sâu” [14, tr. 62]. Những nhận định trên quả là xác đáng. Không buồn sao được khi
người lính lần đầu ra trận đã phải đối diện với thiếu thốn, hy sinh, với thiên nhiên hoang dại,
với mưa nguồn, thác lũ, dốc chênh vênh, cọp trêu người. Nhà thơ Quang Dũng hồi tưởng
lại: “Chúng tôi đóng quân ở nhà dân, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến
nhà trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt núi rừng. Tiếng cồng ở Tây Tiến thật buồn.
Buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng cồng” [69, tr. 100].
Sau Tây Tiến, giọng buồn thương đã tạo nến một loạt những thành công của Quang
Dũng như Mắt người Sơn Tây, Đôi bờ, Lính râu ria... Quang Dũng nói nhiều đến những mặt
trái của chiến tranh, những mất mát đau thương, những cảnh chia ly, những cuộc gặp gỡ vô
định giữa dòng đời... nơi đâu cũng không tránh khỏi những chuyện buồn. Bài thơ Quán
nước miêu tả một lần dừng chân của người lính trên đường hành quân xa. Chỉ giản dị thế thôi
mà thơ gợi lên nhiều xúc cảm thấm thía. Người lính rời bỏ quê hương lên đường chiến đấu.
Người em gái trong cảnh loạn li cũng phải cất bước ra đi. Họ gặp nhau trên đường gió bụi,
giữa bộn bề của cuộc chiến, giữa những ngang trái cuộc đời. Cuộc gặp gỡ giữa hai kẻ tha
hương đã dâng lên mối đồng cảm sâu sắc:
Và chợt nhớ chúng ta xa nhà cửa
108
Em tản cư tôi làm lính tiền phương
Quê Hà Nội cùng xa từ một thuở
Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường
Lính râu ria là câu chuyện cảm động về một người lính vùng tản cư xa gia đình, nhớ vợ
con. Vì thế khi gặp được cháu bé con chị chủ quán thì bao nhiêu yêu thương trào dâng trong
lòng anh:
Bàn tay như rễ cây
Bộ râu như bàn chải
Anh ôm con người ta
Anh ôm ghì nó mãi...
... Vợ anh giờ này đâu?
Anh mỉm cười rười rượi
Cũng là nụ cười, nhưng người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật cười “ha ha”, cậu bé
“Lượm” trong thơ Tố Hữu cười “híp mí”, còn người lính ở đây lại “mỉm cười rười rượi” - cái
cười gượng gạo chất chứa bao u uẩn, nhớ thương.
Mắt người Sơn Tây là đôi mắt quê hương đã chứa bao đau thương của một cuộc chiến
tàn khốc:
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Bao xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông?
Từ người mẹ, người con của mình mà cảm thông cho bao người mẹ, người con trong
đời, thơ Quang Dũng đã hiện lên hết những bi thương của chiến tranh. Từ đó, nhà thơ đặt ra
những câu hỏi nhức nhối lòng người: “Em đã bao ngày em nhớ thương?” “Em đã bao ngày lệ
chứa chan?” “Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông?”. Những câu hỏi day dứt cứ lặp đi lặp lại như
109
xoáy vào lòng người cái điệp khúc bất tận của những nỗi đau không có lời giải đáp.
Thơ Quang Dũng trong kháng chiến chống Pháp đã buồn, giai đoạn sau lại càng da diết,
mênh mang hơn. Nhiều người hiểu đó là một bước phát triển tự nhiên. Kì thực, hai giai đoạn
này vẫn có nét khác nhau. Nếu trong kháng chiến chống Pháp đó là cái buồn vừa lãng mạn,
mơ mộng vừa bi tráng thì sau kháng chiến chống Pháp, nỗi buồn đó giàu suy tư hơn, khắc
khoải và chân thật hơn. Bởi vì nó gắn với những trải nghiệm về cuộc sống, những trắc trở và
cả đôi chút bất hạnh trong số phận riêng của nhà thơ. Viết về nỗi buồn, niềm đau, thơ Quang
Dũng “không gân cốt mà thấm thía bởi đó là sự nhắn gửi thiết tha của một tấm lòng nhân
hậu, trọng nghĩa tình” [35, tr. 41]. Ta hãy nghe những lời tâm tình của Quang Dũng
trong Đường chiều thứ bảy:
Tôi gặp em
Nhưng người bạn xưa
Đã không còn gặp nữa
Thân nằm trên một đỉnh Trường Sơn
... Tôi lại gặp
Những người vợ trẻ
Đàn ông đã ngã trên chiến trường
Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến
Xót xa thương khóc bao ngày
Tâm hồn ông nắm bắt rất “nhạy” những hình ảnh buồn thương của thiên nhiên, cảnh vật
rồi phả vào đó một cái nhìn bàng bạc, man mác, vấn vương. Thơ Quang Dũng có những hình
ảnh thật thê lương:
Đồi sắn ướt sũng lá
Gà ướt cánh nép hiên
Chim xào xạc trốn biệt
Mưa giăng màn triền miên
(Chiều núi mưa rào)
Như cảnh đã vào thu sớm
110
Da rợn từng cơn, núi đổ chiều
Lá mía, tàu cau rũ héo
Vàng, ôi vàng hắt hiu
(Thu quê ai)
Hai bài thơ được sáng tác trong hai thời điểm khác nhau nhưng cùng chung một nỗi
buồn mênh mang và sâu lắng. Lời thơ tưởng như tiếng kêu than của một tâm hồn đang gánh
chịu nỗi đau trong đời. Cho nên bức tranh thiên nhiên cũng nhuốm màu ảm đạm.
Giọng điệu buồn thương sâu lắng đã góp phần tạo nên chân dung Quang Dũng trong nền
thơ kháng chiến cũng như làm tăng thêm vẻ đẹp, sức truyền cảm cho thơ ông. Đọc thơ ông
không phải để giải sầu, mua vui một cách hời hợt mà là để lắng mình, cảm nhận và suy tư, là
đến với một tâm hồn nhạy cảm, có nhiều trăn trở với cuộc đời. Ông không muốn và có lẽ cũng
không thể hô khẩu hiệu một cách giản đơn. Đó là thứ thơ của một bản lĩnh, dám trải tâm hồn
111
mình, cá tính của mình đến với người đọc. Một tâm hồn như thế thật đáng trọng biết bao!
KẾT LUẬN
Để đến được với người đọc ngày hôm nay, thơ Quang Dũng đã trải hơn năm mươi năm
với bao thăng trầm, gian khó. Nhưng chính điều này tự nó đã nói lên tất cả giá trị thơ ông. Thơ
Quang Dũng chính là “viên kim cương bị vùi lấp trong bụi thời gian. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ
thì viên kim cương lại sáng lấp lánh lên ngay” [50, tr. 6]. Điều đó có được là do thơ ông là cả
một thế giới nghệ thuật phong phú, đa diện, có chiều sâu và có những sáng tạo mới mẻ. “Ông
thuộc số không ít những nhà thơ nói lên được điều gì rất riêng, rất thật cho con người Việt
Nam thế kỉ XX” [48, tr. 323].
Với Tây Tiến, đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện, Quang Dũng xứng đáng là một
trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ kháng chiến Việt Nam thế hệ đầu tiên. Sức hấp
dẫn của thơ ông trước hết là ở một cái tôi cá nhân đầy cá tính. Cái tôi đó có sự kết hợp tự
nhiên, nhuần nhị giữa lí tưởng Cách mạng, hiện thực thời đại với tiếng nói tâm hồn phong
phú, đa cảm, vừa mang cốt cách của người trượng phu thời xưa, lại vừa giàu mơ mộng, thích
tưởng nhớ. Cái tôi ấy vừa bình dị, chân chất, dân dã vừa tài hoa, tinh tế. Đó là thứ thơ có sự kết
hợp hài hòa với chất nhạc, chất họa và với cả hương thơm. Cái tôi Quang Dũng gây hứng thú
cho người đọc còn bởi chất phóng túng, yêu tự do và tuổi trẻ mà không phải ai cũng có được
trong cuộc đời.
Tình yêu quê hương đất nước luôn thấm đầy trong thơ Quang Dũng. Ông viết về đất
nước trong chiến tranh với khí thế lên đường ngùn ngụt, với men say của một thời tuổi trẻ. Đó
là đất nước của buổi đầu chiến trận với không khí ngổn ngang, với những đoàn quân dồn đập
ra trận. Đó cũng là một đất nước với thiên nhiên hùng vĩ và diễm lệ. Hiếm có nhà thơ nào viết
về núi, sông, rừng, biển, dốc, vực, thác nhiều như Quang Dũng. Đến với thiên nhiên đất nước,
Quang Dũng đã lưu lại dấu ấn tâm hồn mình ở đó.
Quang Dũng rất có tài năng trong việc cảm nhận và miêu tả những bức tranh quê. Hình
ảnh quê hương trong thơ ông vừa dân giã vừa rất mực tài hoa. Những cảnh quê thường được
ông nắm bắt rất nhạy và đưa vào thơ tự nhiên như không có dấu vết gọt giũa. Ông viết về quê
hương bằng cảm xúc hồn hậu mà tha thiết, dung dị mà cháy bỏng yêu thương. Trong trái tim
ông có một góc riêng dành cho “xứ Đoài nhiều mây trắng” quê ông. Quê hương trong thơ ông
là cả một niềm thương nhớ với hai hình ảnh thân thương: đỉnh núi Ba Vì mây trắng và dòng
112
sông Đáy chảy chậm. Quang Dũng đã làm cho những dải đất đá ong khô cằn cỗi xứ Sơn Tây
trở nên gợi cảm, làm cho đỉnh núi Ba Vì, dòng sông Đáy trở nên thanh bình và hiền hậu.
Là nhà thơ trưởng thành từ những năm gian khó chiến tranh, thơ Quang Dũng viết nhiều
về hình tượng người lính. Trong thơ ông đã dựng lên được “tượng đài bất tử về người lính vô
danh” [47, tr. 45] - những con người mang trong mình dòng máu hào hùng với khát
vọng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” đồng thời lại mang cốt cách người nghệ sĩ với tâm hồn
lãng mạn và mơ mộng khác thường.
Về mặt thể loại, Quang Dũng dùng nhiều thể thơ khác nhau nhưng ông chỉ thực sự thành
công ở hai thể tự do và bảy tiếng. Thơ bảy tiếng Quang Dũng vừa mang hơi hướng của thể
hành cổ điển vừa có dáng dấp của thể trường ca. Tâm hồn ông phóng túng, tự do thoải mái nên
thể thơ ông cũng có tính chất tự do hóa trên tất cả các phương diện như khổ thơ, câu thơ, dòng
thơ. Ngoài ra ông còn dùng thủ pháp ngắt dòng và thủ pháp tạo điểm dừng cũng như các sáng
tạo về thanh điệu vần và nhịp để tăng sức hấp dẫn và tính sáng tạo cho thơ mình.
Ngôn từ thơ Quang Dũng tự nhiên, gần gũi với đời thường nhưng cũng rất tài hoa. Từ
ngữ thơ ông ít có sự gọt đẽo cầu kì mà có vẻ đẹp tự nhiên, chân mộc, phập phồng hơi thở cuộc
sống. Lớp từ ngữ chiến trận trong thơ ông không thật nhiều nhưng lại vô cùng phong phú.
Quang Dũng đưa vào thơ mình cuộc chiến còn nguyên vẹn, ngổn ngang với biết bao sự kiện.
Vì thế, thơ ông giàu chất kí nhưng vẫn sáng chất thơ, vẫn mang tính thẩm mĩ cao. Qua hệ
thống ngôn từ ấy, ông đã đến với ngươi đọc bằng một chất giọng riêng của kẻ lãng tử vừa
bâng khuâng, mơ hồ, phiêu diêu, lại vừa bình dị nhẹ nhàng. Đó là điệu tâm hồn của cả một lớp
thanh niên trí thức thành thị trong buổi đầu ra trận, vừa say men lí tưởng nhưng cũng nhuốm
chút buồn thương.
Với những gì đã để lại, dù chưa thật nhiều, Quang Dũng xứng đáng có một vị trí chắc
chắn trong thơ kháng chiến. Thơ ông là bè ngang, bè trầm trong tiếng hát của dàn đồng ca, là
cơn gió lạ đủ làm thoảng nhớ mùi hương. Thời gian rồi sẽ trôi xa và không phải tác phẩm văn
học nào cũng “nằm ngoài qui luật của sự băng hoại” nhưng chúng tôi tin rằng những bài thơ
Quang Dũng để lại thật đáng quí và chúng sẽ sống rất lâu trong tâm trí người đọc như cách nói
của người bạn thơ Trần Lê Văn: “Xưa nay, người nghệ sĩ tài năng dù có sống đến trăm tuổi
vẫn là quá ít đối với người đời, vẫn là con chim sơn tiêu bay qua rừng cây, rừng người rồi bay
113
đi mất. Chim quí hiếm có gửi lại một cánh lông rực đẹp cũng là đáng quí. Ơi Quang Dũng, ơi
con chim sơn tiêu của làng Phùng, của xứ Đoài: Cũng cứ nên trở về. Bởi còn nhiều đùm bọc.
Đừng vội bay đi”.
114
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
Phó Đức An (1992), Nhà thơ Quang Dũng đi xem bóng đá, báo Giáo dục và thời đại, số 2.
14.
3. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Aritote (1999), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Vũ Bằng (2002), Mười chín chân dung nhà văn cùng thời, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
6. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiépxki, Trần Đình Sử dịch, Nxb Giáo
dục.
7. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và
giới thiệu, Bộ Văn hóa - Thông tin và thể thao, Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản.
8. Nguyễn Bao, 1991, Một bài thơ vui, hóm của Quang Dũng, báo Văn nghệ, tháng 12.
Phạm Quốc Ca (1998), Đôi điều nói thêm về bài thơ Tây Tiến, trong cuốn Văn học và 9.
tuổi trẻ, tuyển chọn, phần I, Nxb Giáo dục.
10. Nguyễn Phan Cảnh, 2000, Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
11. Trần Duy Châu (2002), Thi pháp học cấu trúc, Phòng khoa học công nghệ sau đại học,
Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh xuất bản.
12. Nguyễn Giao Cư, Hồ Quốc Nhạc (2001), Thơ ca Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 -
1954, Nxb Đồng Nai.
13. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
14. Đặng Anh Đào (2000), Bóng câu qua cửa sổ, Tạp chí Văn học, số 2.
15. Đặng Anh Đào (1996), Tây Tiến khúc độc hành, trong cuốn Tiếng nói tri âm, Tạp chí
Kiến thức ngày nay, Nxb Trẻ ấn hành.
16. Phan Cự Đệ (2000), Bình giảng văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
115
17. Nguyên Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb văn học.
18. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Xuân Diệu (1949), Tiếng thơ, Tạp chí Văn nghệ, số 11 và 12 tháng 4.
20. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên
cứu Quốc học Tp. Hồ Chí Minh xuất bản.
21. Hà Minh Đức (chủ biên) (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
23. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại - bình giảng và phân tích tác phẩm,
Nxb Thanh niên.
24. Hà Minh Đức, 2001, Văn chương tài năng và phong cách, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
25. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (1998), Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại, Nxb
Thanh niên.
26. Trương Đăng Dung (1996), Tác phẩm văn học như là quá trình, Tạp chí Văn học số 12.
27. Quang Dũng (1986), Mây đầu ô, Nxb Tác phẩm mới.
28. Quang Dũng (1988), Thơ với tuổi thơ, Nxb Kim Đồng.
29. Ngô Văn Giá (1996), Nhớ về Tây Tiến, trong cuốn Tiếng nói tri âm, tạp chí Kiến thức
ngày nay, Nxb Trẻ ấn hành.
30. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ,
Nxb Giáo dục.
31. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (1999), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
32. Trần Mạnh Hảo (1999), Thơ phản thơ, Nxb Hội nhà văn.
33. Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Mũi Cà Mau.
34. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
35. Mai Hương (1990), Quang Dũng (1921 - 1998), Tạp chí Văn học, tháng 3.
36. Mai Hương (2001), Thơ ca Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng, Tạp chí Văn
học, tháng 2.
116
37. Bùi Công Hùng (1989), Góp phần tìm hiểu phong cách nghệ thuật thơ ca, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
38. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
39. Bùi Công Hùng (1986), Bàn thêm về tứ thơ, Tạp chí Văn học, tháng 1.
40. Roman Jakobson (2000), Ngôn ngữ học và thi pháp học, bản dịch của Cao Xuân Hạo,
Phòng Khoa học công nghệ sau đại học, Đại học Sư phạm Tp. HỒ Chí Minh xuất bản.
41. M.B Khrapchencô (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu khoa
học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
42. M. B. Khrápchencô (1999), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb
Tác phẩm mới, Hà Nội.
43. Lê Đình Kị (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
44. Trần Kỳ (2005), Bài thơ Tây Tiến và những tồn nghi, tạp chí Thơ, báo Văn nghệ số 19.
45. Mã Giang Lân (2002), Ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
46. Nguyễn Xuân Lạc (2003), Quang Dũng - Người thơ Tây Tiến và xứ Đoài, Hội nghiên
cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hội nhà văn.
47. Phong Lan (1990), Bài thơ Tây Tiến - tượng đài bất tử về người lính vô danh, Tạp chí
Văn học, tháng 3.
48. Phong Lê (2002), Bình dị và hào hoa: Quang Dũng, trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Lao động, Hà Nội.
49. Phong Lê, Vũ Tuấn Anh, Vũ Đức Phúc (1986), Văn học Việt Nam kháng chiến chống
Pháp (1945 -1954), Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện văn học, Hà Nội.
50. Viên Linh (chủ biên) (1975), Thời tập (chủ đề đặc biệt về Quang Dũng), số 20 ra ngày
14 tháng 2 tại Sài Gòn.
51. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế
Thái Bình (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
52. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách mạng
117
tháng Tám, Nxb Giáo dục.
53. Nguyễn Văn Long, Trần Hữu Tá (1981), Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam
1945-1954, Nxb Giáo dục.
54. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Vân Long (1990), Quang Dũng - Nhà thơ Hà Nội, Tạp chí Tác phẩm Văn học, số 8.
56. Vân Long (1997), Sau mười năm đọc lại thơ Quang Dũng, Tạp chí Văn học, số 1.
57. Hoàng Như Mai (1985), Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954, Trường Đại học Tổng
hợp Tp. Hồ Chí Minh, Khoa Ngữ văn xuất bản.
58. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Long, Trần Hữu Tá
(2000), Văn học 12, Nxb Giáo dục.
59. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb
Giáo dục.
60. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12, Nxb Giáo dục.
61. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Tác phẩm mới.
62. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Ngô Thảo
(1996), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn học.
63. Tôn Thảo Miên (1997), Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn, Tạp chí Văn học,
số 1.
64. Trần Thị Thanh Nga (2005), Phong cách thơ Quang Dũng (Luận văn thạc sĩ), Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
65. Phan Ngọc (2000), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ.
66. Phan Ngọc (1985), Tim hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
67. Phan Ngọc (1991), Thơ là gì, Tạp chí Văn học, tháng 1.
68. Phùng Quí Nhâm, Lê Ngọc Trà, Hoàng Văn Cẩn (1997), Lý luận văn học, Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh xuất bản.
69. Vương Trí Nhàn (biên soạn) (1993), Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, Nxb
Hội nhà văn.
118
70. Vương Trí Nhàn (1999), Số phận những tìm tòi hình thức trong thơ Việt Nam sau 1945,
trong cuốn 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
71. Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn) (2005), Mấy ý nghĩ về thơ của Quang Dũng,
Tạp chí Thơ, báo Văn nghệ, số 19, 20.
72. Ý Nhi (1990), Tưởng nhớ nhà thơ Quang Dũng, Báo Lao động chủ nhật, ngày 14. 10.
73. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
74. P.V (1998), Quang Dũng - Nhà thơ tài hoa đã vĩnh biệt chúng ta, Báo Tuổi trẻ, số thứ
ba, ngày 18. 10.
75. Vũ Quần Phương (1989), Thơ với lời bình, Nxb Giáo dục.
76. Vũ Tiến Quỳnh (1991) (sưu tầm, tuyển chọn), Phê bình - bình luận văn học Quang
Dũng - Nguyễn Mỹ - Xuân Quỳnh, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa.
77. Vũ Tiến Quỳnh (1998), (sưu tầm - tuyển chọn) Phê bình, bình luận văn học Hồng
Nguyên, Chính Hữu, Trần Hữu Thung, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Nxb Văn nghệ Tp.
Hồ Chí Minh.
78. Chu Văn Sơn (1996), Tây Tiến hào hùng và hào hoa, trong cuốn Tiếng nói tri âm, Tạp
chí Kiến thức ngày nay, Nxb Trẻ ấn hành.
79. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và đào tạo, vụ
Giáo viên xuất bản.
80. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục.
81. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học.
82. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn.
83. Trần Đình Sử (2001), Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
84. Hữu Thỉnh (2000), Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến, Tạp chí
Văn học, số 2.
119
85. Hoài Thanh (1999), Hoài Thanh toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
86. Nguyễn Thành Thi (1996), Tây Tiến, đường lên heo hút, nỗi nhớ chơi vơi, trong cuốn
Tiếng nói tri âm, Tạp chí Kiến thức ngày nay, Nxb Trẻ ấn hành.
87. Lưu Khánh Thơ (2003), Thơ những năm chống Pháp qua phê bình văn học, Tạp chí Văn
học, số 2.
88. Vũ Duy Thông (2003), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975, NXB Giáo
dục.
89. Phan Trọng Thưởng (1991), Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học trong điều kiện
chiến tranh 1945 -1975, Tạp chí Văn học, số 1.
90. Châu Hồng Thủy (1989), Bài thơ Đêm Bạch Hạc của Quang Dũng, Tạp chí Văn nghệ
chủ nhật, số 23 ra ngày 16 tháng 3.
91. Phùng Minh Tiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
92. Nguyễn Thị Như Trang (2003), Tôi đã gặp nhà thơ Quang Dũng, trong cuốn Giai thoại
văn nghệ Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
93. Nguyễn Thị Như Trang (2003), Những câu thơ khắc vào đá, trong cuốn Giai thoại văn
nghệ Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
94. Nguyễn Thị Như Trang (2003), Quang Dũng họa sĩ, trong cuốn Giai thoại văn nghệ Việt
Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
95. Nguyễn Quang Trung (1999), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12, Nxb Giáo dục.
96. Trần Lê Văn (sưu tầm, biên soạn) (1999), Tuyển tập Quang Dũng, Nxb Văn học, Hà
Nội.
97. Trần Lê Văn (1989), Về bài thơTây Tiến, Báo Văn nghệ số 42, 43.
98. Trần Lê Văn (sưu tầm, biên soạn) (1988), Quang Dũng tác phẩm chọn lọc, Nxb Trẻ Tp.
Hồ Chí Minh
99. Hoài Việt (1997), Nhà văn trong nhà trường Quang Dũng, Nxb Giáo dục.
100. Hoài Việt (1999), Quang Dũng người và thơ, Nxb Văn học.
101. Nguyễn Văn Vĩnh (2002), Những âm hưởng của bài thơ Tây Tiến, trong cuốn Tây Tiến,
Ban liên lạc cựu chiến binh Tây Tiến, Trung đoàn 52, Nxb Hà Nội.
120
102. Nguyễn Văn Vĩnh (2002), Quang Dũng, Quang Khải, Quang Thọ, ba nghệ sĩ Tây Tiến
quê xứ Đoài, Ban liên lạc cựu chiến binh Tây Tiến, Trung đoàn 52, Nxb Hà Nội.
103. Trần Đăng Xuyền (1995), Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975, Tạp chí
Văn học, số 9.
104. Trần Đăng Xuyền (1994), Giảng văn văn học Việt Nam 1945 - 1954, Nxb Giáo dục.
105. Phạm Duy (2006), Hồi kí, trên website www.saigononline.com
106. Võ Thị Hảo (2006), Người ơi ta nặng nghiệp phong trần, mạng www.vnn.vn đăng ngày
3 tháng 3.
107. Trịnh Hưng (2006), Quang Dũng với âm nhạc, trên website www.dactrung.net.
(2005), Bình dị và hào hoa Quang Dũng, trên website 108. Phong Lê
www.thanhnien.com.vn đăng ngày 22 tháng 12
(2002), Lên Mai Châu nhớ Quang Dũng, trên 109. Nguyễn Dịch Long
website www.vov.org.vn đăng ngày 2 tháng 8.
(2005), Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc, trên 110. Hồng Thanh Quang
website www.cand.com. đăng ngày 6 tháng 1.
(2005), Quang Dũng - Mây trắng xứ Đoài, trên 111. Đỗ Lai Thúy
website www.phattuvietnam.org. đăng ngày 14 tháng 8.
112. Nguyễn Văn Vĩnh (2006), Những bóng hồng trong thơ Quang Dũng, trên
121
website www.hatav. gov.vn. đăng ngày 14 tháng 3.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: DANH MỤC CÁC TÁC PHẨM CỦA QUANG DŨNG
STT TÊN TÁC PHẨM TÊN TÀI LIỆU NĂM SÁNG TÁC
1. Áo trắng 2. Ba Vì đón Bác 3. Bất Bạt đêm giao quân 4. Bắt tép kho cà 5. Bố Hạ 6. Chabbi Chabbi 7. Chiều núi mưa rào 8. Chiêu Quân 9. Cố Quận 10. Đêm Bạch Hạc 11. Đôi bờ 12. Dòng đời 13. Đường 12 14. Đường chiều thứ bảy 15. Đường trăng 16. Giấc mơ của Bạch 17. Gửi Sơn Tây 18. Hồ Nam 19. Hồng Phú Châu Giang 20. Không đề 21. Lính râu ria 22. Mây đầu ô 23. Mắt người Sơn Tây 24. Một mùa thu tới 25. Mười hai cô gái trồng cây 26. Ngựa 27. Nhà mới 28. Những cô hàng xén 29. Những làng đi qua 30. Những người tóc đã trắng 31. Nhớ 32. Nhớ bạn 33. Nhớ một bóng núi 1969 1968 1972 1954 1972 1937 1940 1967 1948 1953 1956 1957 1950 1967 1960 1957 1970 1949 1970 1949 1962 1982 1951 1947 1968 1949 1965 1976 (5) (1), (2), (3) (1) (2), (3), (5) (3), (4) (2), (3) (1), (3) (3), (4) (3), (4) (5) (2), (3) (5) (1), (2), (3) (1) (1), (2), (3) (6) (2), (3) (3) (1) (1), (2), (3) (2), (3) (1), (2), (3), (5) (1), (2), (3), (4) (1), (2), (3) (1) (3) (7) (1), (2), (3) (1), (2), (3) (1) (1), (2), (3) (2), (3) (1), (3)
122
34. Nhớ về mẹ 35. Pha Đin 36. Quán nước 37. Rừng 38. Tây Tiến 39. Thu 40. Thu quê ai 41. Tiếng chim rừng 42. Tiết xôi mới trên đường khai hoang 43. Tôi viết chiều nay 44. Trắc ẩn 45. Trưa hè 46. Trông bạn 47. Về đồng muối 1955 1948 1980 1948 1950 1965 1972 1951 1960 1960 (3) (1), (2), (3) (3), (4) (1), (2), (3) (1), (2), (3), (4) (1),(3) (2), (3) (2), (3) (5) (3) (2), (3), (4), (5) (2), (3) (4), (5) (1)
Chú thích:
(1) : Mây đầu ô, NXB Tác phẩm Mới, 1986.
(2) : Quang Dũng - Tác phẩm chọn lọc, NXB Văn học, NXB Trẻ Tp. Hồ Chí Minh,
1988.
(3) : Tuyển tập Quang Dũng, NXB Văn học, 1999.
(4) : Quang Dũng - Người và thơ, NXB Hội Nhà văn, 1990.
(5) : Nhà văn trong nhà trường - Quang Dũng, NXB Giáo dục, 1997.
(6) : Báo Văn nghệ tháng 12 năm 1994.
123
(7) : Website http://evan.com.vn (Ra ngày 15 tháng 07 năm 2005).
Phụ lục 2: MỘT SỐ BÀI THƠ QUANG DŨNG SƯU TẬP TRÊN CÁC TẠP CHÍ
VÀ MẠNG ENTERNET
GIẤC MƠ CỦA BẠCH
Đường làng lấp hết hố đào
Ủy ban ra lệnh phá rào vừa xong
Trên tường chữ mới tươi dòng:
“Việt Nam độc lập”, vôi hồng chưa khô
Lá vàng cũng một mùa thu
Huy hoàng xóm ngõ sao cờ tung bay
Chợ làng họp giữa ban ngày
Tăng xê lấp hết, ụ đầy cũng san
Bạch ta khấp khởi ruột gan
Hai chân chưa đủ còn toan chạy liều!
Phép đi từ sáng đến chiều
Mai về Hà Nội còn nhiều việc ghê!
Năm năm nay mới trở về
Hẳn bu cái hĩm nó ... “hè” lắm đây!
Chợ đông anh phải lựa giày
Đôi giày mới phát đợi ngày duyệt binh
Đôi giày lộp cộp, giày đinh
Qua dãy hàng xén ra tình lẳng lơ...
Quà con, quà vợ anh mua
Ba chục bánh đậu, “chậc”, cũng vừa tiền thôi!
Mẹ anh, anh nhẩm sẵn rồi
Mua cây vỏ nạc với mươi lá trầu
Thế rồi anh lại bước mau
Gật chào lia lịa: cái đầu khổ ghê!
Cô Thanh, em bác phó nề
Đôi mắt biêng biếc hướng về ngực anh
124
Sợi vàng, sợi bạc long lanh
Chiếc huy chương ánh bình minh sáng ngơi!
- Phen này bác lụt với tôi
Mấy bác tư bản khinh người ngày xưa!
Cổng nhà anh, cau đương hoa
Ngạt ngào anh đứng thẫn thờ vài giây
Bước vào con vện mừng ngay
Hĩm con đã nhớn:
- Sao mày nhìn tao?
- Bố ạ! Con tưởng anh nào!
Bu ơi! Bố, bố! Đi vào bà ơi!...
Bà đang nhuộm nốt tấm sồi
Mừng con chạy vỡ cả nồi nước nâu!
Ô chà! Sao nó để râu
Mà tao áng cũng nghe đâu sắp về
Thế rồi bà cụ quay đi
Khăn vuông thấm mắt, khóc gì mẹ ơi!
Vợ Bạch cứ đứng đờ người:
- Nào tôi có tưởng chồng tôi đã về!
Xóm giềng cũng lắng tai nghe
Rẽ rào hỏi vọng: Anh về đá anh?
Trưởng thôn nhân tiện ra đình
Xách chiếc xà - cột thình lình vào chơi
- Làm gà hĩm nhé! Hĩm ơi!
Bà cháu đi chợ giùm tôi chút này!
Một giờ sau mâm cỗ đầy
Xóm giềng rối rít ngồi vây quanh giường
Chuyện Sơn La, chuyện Hải Dương
Chuyện vây Sầm Ná, chuyện vòng Sài Khao
- Eo ơi! Tận đẩu tận đâu
Đánh nhau xa thế, hèn lâu mới về!
125
Chuyện cho đến lúc khách đi
Đến lúc mẹ hĩm vân vi gọi “nhà”
Miệng cười nụ nở như hoa:
- Chiều nay ắt hẳn là nhà chưa đi!
“Nhà” toan cất miệng nói gì
Tiếng còi trực nhật bỗng dè nổi lên!
Nhoáng nhoàng hết giấc mơ duyên
Bạch ta gấp sách dậy liền vươn vai!
... Thì ra lúc nãy ôn bài
“Thời gian nào sẽ là ngày phản công?”
Cậu ta đọc được mươi dòng
Thiu thiu ngủ mất rồi lồng về quê!
Trách ông trực nhật nào kia
Chưa nghiên cứu kĩ đã “bê “ còi vào:
Thế là chưa đi đến đâu!
(Nguyễn Bao sưu tầm và giới thiệu trên báo Văn nghệ, tháng 12 năm 1991)
NHÀ MỚI
Trở lại Đường Lâm quê đánh giặc
Hầm kèo gốc mít đã mười năm
Khuya nay hoa nở trăng về sáng
Hương thơm - Nhà mới - đẹp như rằm
(Nguyễn Huy Thông sưu tầm và giới thiệu trên mạng http://evan.com.vn )
BUỒN ÊM ẤM
Có những đêm trường buông gối chăn
Giận mình êm ấm chán tình thân
Tủi hờn với cả lời săn sóc
Của những người lo tới phận mình
126
Vi vút nỗi niềm ai thấu nhẽ
Chao ơi tri kỉ ở ngàn phương
Đêm đêm gió cuốn từng cơn nhớ
Từng trận sầu tư lướt thướt đường
Giọt giọt mưa rơi ngoài mái lạnh
Trong này hơi gối với hơi chăn
Sầu xưa muôn dặm buồn êm ấm
Nghe từng giọt nước thấu năm canh
Nhỏ bé chao ơi lời dịu ngọt
Lòng buồn nghi cả đến tình yêu
Từ độ sa vào hồ nước mắt
Cánh bằng muôn dặm cũng chìm theo
Không biết ngày mai trời có xanh
Đường xa xa nắng có mông mênh
Đêm đêm mơ thấy làm khăn gói
Đề sáng mai rồi vẫn quẩn quanh
Chưa chắc cây cao hồ dễ im
Sông sâu hồ dễ đủ im lìm
Cây cao chừng đợi giờ giông tố
Sông đợi mùa dâng sóng nước lên
(Lê Hoàn Tân sưu tầm trên tạp chí Thời tập, số 20 ra ngày 14.02.1975)
MƯA
Chợt mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cành hoa mơ
Đất trắng ngàn cánh rụng
127
Tiếng quân hò thôn xa
Súng cầm nhịp thu đông
Chiều chiều tin chiến sự
Loa vang trên cành đa
Càng mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cành hoa mơ!
Càng yêu màu trấn thủ
Mờ bạc qua màn mưa
Ôi những bàn chân nhỏ
Từng đau khổ bao giờ!
Đường tản cư lầy lội
Run run leo cầu tre
Trời mưa giăng màn xám
Màu thê lương lại về
Hoa mai dầu nở trắng
Người người còn ra đi
……………………..
Mai mùa xuân xanh tốt
Mùa xuân chẳng lỗi thề ...
Trời mưa giăng màn xám
Bởi vì đâu thê lương?
Chăn đơn chiếc khôn ấm,
Già càng đau nhớ thương
Bao nhiêu vành khăn trắng
Đằng đãng tin xa trường ...
Trời mưa giăng nước mắt
Sông Tề bến quạnh hiu
Tin dù qua lén lút
Người sao hết đăm chiêu?
128
Ngày xuân dầu hứa hẹn
Cỏ hoa biết gì đâu,
Mấy mùa xuân vắng lạnh
Mấy mùa đông tiêu điều
……………………….
Càng mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cánh hoa mơ!
Càng nhớ xa xôi lắm
Những con đường chạy dài
Những nẻo đường phục kích
Từ biên giới xa xôi...
Lau cao mờ đợi gió
Cỏ hoang mồ những ai...
Lả tả trong mưa lạnh
Âm thầm hoa viếng người
Quê hương chừng xa lắc
Thăm mồ mấy cánh mai...
Nay mai lại mùa xuân
Từ đầu rừng cuối bể
Qua trùng dương mấy lần
Chúng ta dù cách biệt
Cùng chung một mùa xuân
Cùng chung một thế kỉ
Cùng đau khổ vô ngần...
Quê anh không khăn trắng
Nhưng chắc có màu tang
Những người con đi vắng
Những mẹ già nhớ thương
Trời mưa giăng màu xám
129
Bởi vì đâu thê lương
Hoa có dâng mầu trắng
Đời con đang chiến trường ...
Trời mưa dăng nước mắt
Mầu thê lương lại về
Hoa mai dầu nở trắng
Người người còn ra đi
... Mai mùa xuân xanh tốt
Mùa xuân chẳng lỗi thề.
(Lê Hoàn Tân sưu tầm và giới thiệu)
SUỐI TÓC
Thuở ấy em ngồi trên cửa gác
Tóc buông hong với gió đầu thu
Nhẹ nhàng anh đến hồn chan chứa
Ghi vội vàng em mấy nét thơ...
Em mải mơ gì dưới nắng êm ?
Tóc như suối mực chảy êm đềm ...
…………………………………..
Hương nhẹ như là hương hoa cau
Tóc em buông suối chảy về đâu?
Thiên thai em mở bừng trong gác
Đựng hết trời xanh, chứa hết mầu
Giờ hết, em đi, mùa cũng hết
Những thời hong tóc hiếm làm sao!
Rộn ràng nắng mới tìm hương cũ
Ngơ ngẩn chiều đi trước gác cao
Em hãy về đây ngắm lại tranh
130
Sắc mầu còn gửi bóng ngày xanh
Đây là suối tóc qua song cửa
Vẫn chảy êm đềm dưới nắng hanh.
(Làm tại Hà Khẩu năm 1945)
(Lê Hoàn Tân sưu tầm và giới thiệu)
ĐÊM VIỆT TRÌ
Em là con hát ở bên sông
Hát mãi từ khi em bỏ chồng
Chiều đến em ngồi trên bến vắng
Gửi người bốn xứ mảnh tình không!
Em là con hát ở bên sông
Lạnh với trường giang kiếp má hồng
Chiều đến em bừng son phấn mộng,
Rẻ người không tiếc mảnh hồn trong
Em là con hát ở bên sông
Đàn phách là đôi bạn khốn cùng
Khách ghé phương nào thây kiếp khách
Hoài đâu nước mắt khóc tình chung
Em là con hát ở bên sông
Nước chảy ngàn xưa luống chảy ròng
Nước chảy không về nguồn quá khứ
Em buồn dĩ vãng, mắt khô trong
Em là con hát ờ bên sông
131
Đừng nhớ thương em uổng tấc lòng
Em ở kiếp này là ở tạm
Tìm em kiếp khác Liễu Trai Nương
(Lê Hoàn Tân sưu tầm và giới thiệu)
TIỄN BẠN
Tặng anh vài giòng chữ
Hẹn sau này gặp nhau
Mùa thu miền kháng chiến
Vẫn giống thu năm nào
Rồi đây cùng đất nước
Mà riêng rẽ âm dương
Người bảo “đi là chết”
Kẻ sống càng đáng thương
Anh về đời nhung lụa
Thơm khói ngát hương đường
Ngoài này lúa sắp ngập
Triền đê con nước dâng...
Tôi sẽ cùng chết đói
Và cùng rét anh ơi
Với triệu người bạn hữu
Là triệu mảnh đời tôi
Ở nơi đâu yên ấm
Anh có nhớ nhung người
Giở thơ đọc hồn bạn:
“Kháng chiến vẫn còn tôi”
132
Dầu biết là vô vọng
Đã đem chơi cuộc đời
Thì đi cho hết nước
Sống thử ít con người...
Gặp anh trìu mến lắm
Đời còn có mấy mươi,
Dẫu rằng xa cách tạm
Hồn thơ cũng ngậm ngùi
Một kiếp mấy tri kỷ
Ai như anh và tôi?
133
(Lê Hoàn Tân sưu tầm và giới thiệu)