BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- NGUYỄN THỊ THOA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN

TỪ VỰNG GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG

KHMER Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG

CỬU LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- NGUYỄN THỊ THOA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN

TỪ VỰNG GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG

KHMER Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG

CỬU LONG

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Dư Ngọc Ngân

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011

MỤC LỤC

1TMỤC LỤC1T ............................................................................................................................ 3

1TPHẦN MỞ ĐẦU1T .................................................................................................................. 5

1T1.Lí do chọn đề tài1T.................................................................................................................................... 5

1T2.Lịch sử vấn đề1T ....................................................................................................................................... 6

1T3. Nhiệm vụ nghiên cứu1T ........................................................................................................................... 8

1T4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu1T ....................................................................................... 9

1T5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu1T ......................................................................................... 9

1T6. Đóng góp của đề tài1T ............................................................................................................................ 10

1T7. Cấu trúc của luận văn1T ......................................................................................................................... 11

1TCHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ, TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ở NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ VAY MƯỢN TỪ VỰNG1T ............... 13

1T1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ1T ........................................................................................................................... 13

1T1.1.1 Khái niệm về tiếp xúc ngôn ngữ1T ................................................................................................ 13

1T1.1.2. Tính tất yếu của sự tiếp xúc ngôn ngữ1T ...................................................................................... 14

1T1.2. Tiếp xúc ngôn ngữ ở Nam Bộ 1T .......................................................................................................... 16

1T1.2.1. Sự hợp cư và bức tranh tiếp xúc ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ 1T ................................................ 16

1T1.2.2. Đặc điểm của tiếng Việt, tiếng Khmer và những điểm tương đồng, dị biệt giữa chúng1T ............. 18

1T1.2.2.1. Quan hệ nguồn gốc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer1T .......................................................... 18

1T1.2.2.2. Đặc điểm của tiếng Việt 1T.................................................................................................... 20

1T1.2.2.3. Đặc điểm của tiếng Khmer1T ............................................................................................... 28

1T1.2.2.4. Những điểm tương đồng và dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Khmer – tiếng Khmer Nam Bộ 1T ..................................................................................................................................................... 35

1T1.3. Những vấn đề lí thuyết về vay mượn từ vựng1T .................................................................................. 37

1T1.3.1. Khái niệm “vay mượn từ vựng”1T ............................................................................................... 37

1T1.3.2. Vay mượn từ vựng với vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ1T ..................................................................... 38

1T1.3.2.1. Tiếp xúc ngôn ngữ1T ............................................................................................................ 38

1T1.3.2.2. Vay mượn từ vựng với các hệ quả khác của sự tiếp xúc ngôn ngữ1T..................................... 40

1T1.3.4. Các phương thức vay mượn từ vựng1T ........................................................................................ 43

1T1.3.4.1. Dịch nghĩa (can – ke ngữ nghĩa)1T ....................................................................................... 43

1T1.3.4.2. Phiên âm1T .......................................................................................................................... 43

1T1.3.4.3. Chuyển tự1T ......................................................................................................................... 43

1T1.3.4.4. Mượn nguyên dạng của nguyên ngữ1T ................................................................................. 44

1TCHƯƠNG 2: LỚP TỪ NGỮ TIẾNG KHMER VAY MƯỢN TIẾNG VIỆT VÀ LỚP TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG KHMER 1T ................................................ 46

1T2.1. Kết quả khảo sát và thống kê lớp từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt và lớp từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer1T ........................................................................................................................... 46

1T2.2. Phương thức vay mượn từ ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer1T ........................................................ 46

1T2.2.1. Phương thức tiếng Khmer vay mượn từ ngữ tiếng Việt 1T ............................................................ 46

1T2.2.1.1.Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Việt sang tiếng Khmer1T......................................... 46

1T2.2.1.2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Khmer1T .......................................... 50

1T2.2.1.3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm1T .................................................................. 54

1T2.2.1.4. Vay mượn bằng cách dịch một hoặc một vài thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại trong tổ hợp từ tiếng Việt1T ..................................................................................... 59

1T2.2.1.5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Khmer với từ tiếng Việt 1T .................................. 60

1T2.2.1.6. Nhận xét 1T ........................................................................................................................... 63

1T2.2. 2. Phương thức tiếng Việt vay mượn từ ngữ tiếng Khmer1T............................................................ 66

1T2.2.2.1. Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Khmer sang tiếng Việt 1T ........................................ 66

1T2.2.2.2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Việt 1T .............................................. 67

1T2.2.2.3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm1T ................................................................... 70

1T2.2.2.4. Vay mượn bằng cách dịch một thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại trong tổ hợp từ tiếng Khmer1T .......................................................................................................... 70

1T2.2.2.5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Việt với từ tiếng Khmer1T .................................. 73

1T2.2.2.6.Nhận xét 1T ............................................................................................................................ 78

1TKẾT LUẬN1T ........................................................................................................................ 81

1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T ................................................................................................. 84

1TPHỤ LỤC1T ........................................................................................................................... 87

1TBẢNG PHỤ LỤC 1.31T ......................................................................................................... 94

1TBẢNG PHỤ LỤC 1.51T ......................................................................................................... 96

1TBẢNG PHỤ LỤC 2.21T ......................................................................................................... 97

1TBẢNG PHỤ LỤC 2.31T ......................................................................................................... 98

1TBẢNG PHỤ LỤC 2.51T ....................................................................................................... 101

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài

Việt Nam là một quốc gia đa tộc, đa ngữ. Theo các tài liệu đã được công bố, Việt Nam có

khoảng 54 dân tộc khác nhau và sử dụng khoảng 60 ngôn ngữ. Theo lí thuyết về các nguyên nhân

dẫn đến tiếp xúc ngôn ngữ, các ngôn ngữ tồn tại trên cùng một lãnh thổ quốc gia chắc chắn sẽ có

hiện tượng tiếp xúc với nhau.

Riêng ở vùng đất Nam Bộ, lịch sử hình thành vùng đất này đã hình thành nên một vùng đất

hợp cư của các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm,...Quá trình cộng cư dài lâu giữa các dân tộc này

đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ, trong đó có sự tiếp xúc giữa tiếng

Việt và tiếng Khmer.

Sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ thể hiện trên tất cả các bình diện của ngôn ngữ như bình diện

ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng..... Và quá trình này đã đưa đến các hệ quả của nó trong đó có

hiện tượng vay mượn. Thực tế, hàng loạt từ tiếng Việt đã đi vào kho từ vựng của tiếng Khmer vùng

Nam Bộ và trong kho từ vựng tiếng Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng chứa đựng một lớp từ

có nguồn gốc từ tiếng Khmer.

Mặt khác, do hiện tượng chuyển di ngôn ngữ, người Khmer phát âm tiếng Việt không chuẩn

dẫn đến những lỗi chính tả thường mắc phải ở học sinh – sinh viên dân tộc Khmer khi viết tiếng

Việt.

Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai của học sinh – sinh viên Khmer đã trở thành “rào

cản ngôn ngữ”, gây ra hàng loạt lỗi về dùng từ, viết câu khi học sinh – sinh viên Khmer sử dụng

tiếng Việt.

Do yêu cầu tác nghiệp trên các địa bàn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực có tỉ

lệ cộng đồng người Khmer sinh sống khá cao, các cán bộ người Kinh có nhu cầu học tiếng Khmer

để giao tiếp với người Khmer. Việc nắm được lớp từ hai ngôn ngữ Việt – Khmer vay mượn của

nhau cũng như việc hiểu biết về các đặc điểm biến đổi về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa từ ngôn ngữ được

vay mượn sang ngôn ngữ vay mượn giữa tiếng Việt và tiếng Khmer sẽ giúp cho việc học và vận

dụng tiếng Khmer để giao tiếp của họ được thuận lợi hơn.

Từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng

Khmer làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. Do dung lượng của một luận văn thạc sĩ, để có

điều kiện đi sâu nghiên cứu, đề tài luận văn của chúng tôi giới hạn như sau: “ Sự tiếp xúc ngôn ngữ

trên bình diện từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu

Long”.

2.Lịch sử vấn đề

Từ trước tới nay đã có một số công trình nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ trên thế giới nói

chung và ở Việt Nam nói riêng.

Trong Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á (của Phan Ngọc và Phạm Đức Dương), phần Tiếp

xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á , Phan Ngọc đã trình bày về vấn đề tiếp xúc

ngôn ngữ và những cơ sở lí luận của tiếp xúc ngôn ngữ. Có thể xem đây là cơ sở lí thuyết cho việc

nghiên cứu về vấn đề này. Trong hai phần khác, Phan Ngọc bàn về vấn đề ngữ nghĩa của từ Hán –

Việt trong sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với tiếng Hán, sự tiếp xúc về ngữ pháp với sự ảnh hưởng của

ngữ pháp châu Âu lên ngữ pháp tiếng Việt. Trong những nhận xét mở đầu cho phần “ Ảnh hưởng

của ngữ pháp Châu Âu tới ngữ pháp tiếng Việt – Sự tiếp xúc về ngữ pháp” , Phan Ngọc viết “ Trong

quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ tất yếu xảy ra những sự vay mượn. Tuy nhiên, hiện tượng vay

mượn xảy ra khác nhau tùy theo yêu cầu khách quan của sự giao tiếp và yêu cầu của cấu trúc ngôn

ngữ. Về yêu cầu khách quan của sự giao tiếp thể hiện rõ nhất ở sự vay mượn từ.”

“Tiếp xúc ngôn ngữ trong quá trình hình thành không gian văn hóa đô thị ở thành phố Hồ

Chí Minh” (do TS. Nguyễn Kiên Trường chủ nhiệm và Lý Tùng Hiếu hiệu đính) mặc dù được giới

thiệu là một đề tài cấp viện nhưng thực chất, đấy là một công trình tổng hợp nhiều bài viết liên quan

đến vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”, Nguyễn Văn Khang trình bày các vấn đề lí thuyết về

vay mượn từ vựng. Ông khẳng định “vay mượn từ vựng là hệ quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa

các ngôn ngữ có nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ. Vì thế, khi xem xét vay mượn từ vựng không thể

không nói đến tiếp xúc ngôn ngữ”. Tác giả trình bày một cách cụ thể các phương thức vay mượn từ

vựng: từ các bình diện vay mượn của từ đến các cách vay mượn từ vựng. Từ chương II đến chương

XII của sách, Nguyễn Văn Khang đi vào trình bày các vấn đề cụ thể về các lớp từ mượn Hán, từ

mượn Pháp và từ mượn Anh.

Góp phần vào thành tựu nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ là cuốn Language Transsfer của

Terence Odlin. Có thể nói, công trình này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng của việc nghiên cứu

về tiếp xúc ngôn ngữ, Odlin đã có công trong việc làm cho các thuật ngữ của tiếp xúc ngôn ngữ có

tính hệ thống hơn. Trong công trình này, vấn đề được tác giả khai thác một cách triệt để là vấn đề

chuyển di ngôn ngữ. Ông đã trình bày đầy đủ bản chất của chuyển di ngôn ngữ, chứng minh một

cách thuyết phục về vai trò của chuyển di đối với việc học ngoại ngữ trên tất cả các bình diện ngữ

âm, từ vựng, ngữ pháp và cả bình diện ngữ dụng cũng như những ảnh hưởng, tác động qua lại giữa

chuyển di với các nhân tố văn hóa, xã hội và cá nhân trong quá trình học ngoại ngữ.

Bàn về tiếp xúc ngôn ngữ còn có các công trình khác như: Phạm Đức Dương với công trình

“Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á”; Nguyễn Đăng Khánh với “Sự giao thoa

ngữ nghĩa chỉ số phát triển của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa”; Bùi Khánh Thế với “ Lí

thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam” ,“ Tiếp xúc ngôn ngữ và việc vận

dụng tiêu chuẩn về đặc trưng ngôn ngữ trong khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc ở Việt Nam”;...

Về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể là vấn đề tiếp xúc giữa

tiếng Việt và tiếng Khmer, chúng tôi tìm thấy các công trình sau:

Thứ nhất là luận án tiến sĩ Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng Việt (trường hợp

tỉnh Trà Vinh) của tác giả Nguyễn Thị Huệ. Công trình nghiên cứu theo hướng ngôn ngữ học xã hội

nên các vấn đề như cảnh huống ngôn ngữ, vấn đề song ngữ, hiện tượng giao thoa, hiện tượng quy

tụ được tác giả đặt vấn đề để quan tâm. Đặc biệt, công trình được tác giả sử dụng kĩ thuật lốt ngôn

ngữ để nghiên cứu.Vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer được tác giả Nguyễn

Thị Huệ nghiên cứu theo lịch đại, tức là nghiên cứu theo chiều dài lịch sử của quá trình tiếp xúc từ

sự tiếp xúc gián tiếp đến sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai ngôn ngữ. Và sự tiếp xúc này được tác giả

khai thác trên cả ba bình diện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp qua kết quả của quá trình tiếp xúc. Cụ

thể, theo Nguyễn Thị Huệ, qua quá trình tiếp xúc với tiếng Khmer , tiếng Việt đã vay mượn từ tiếng

Khmer các từ chỉ tên cây, tên đồ dùng, động vật, từ chỉ địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính,

các địa danh; kết quả của quá trình tiếp xúc về phía tiếng Khmer là sự đơn tiết hóa trong tiếng

Khmer, là ý thức về thanh điệu của người Khmer. Luận án còn dành một chương thứ tư để bàn về

vấn đề giáo dục song ngữ ở vùng đồng bào Khmer Trà Vinh.

Tuy nhiên, trong luận án này, các bình diện của ngôn ngữ trong sự tiếp xúc chưa được tác

giả nghiên cứu sâu. Theo tác giả Nguyễn Thị Huệ, ảnh hưởng của quá trình tiếp xúc là hiện tượng ý

thức về thanh điệu của người Khmer Trà Vinh, ở sự thúc đẩy nhanh quá trình đơn tiết hóa của tiếng

Khmer. Như vậy, việc có/không sự ảnh hưởng của quá trình tiếp xúc đến tiếng Việt, cũng như

những ảnh hưởng khác đến mặt ngữ âm của hai ngôn ngữ, thì tác giả chưa đề cập đến. Mặt khác,

trên bình diện từ vựng , sự tiếp xúc dẫn đến sự vay mượn lẫn nhau giữa hai ngôn ngữ cũng chưa

được tác giả luận án làm rõ. Sự vay mượn từ vựng chỉ được Nguyễn Thị Huệ đề cập từ phía tiếng

Việt vay mượn của tiếng Khmer mà không xem xét từ hướng ngược lại, tức từ hướng tiếng Khmer

vay mượn của tiếng Việt. Và khi xem xét lớp từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer, tác giả chỉ

đề cập đến các từ chỉ địa danh, tên một số loại cây, một số động vật, đồ dùng.

Ngoài ra, tác giả Nguyễn Thị Huệ còn có bài viết “Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người

Khmer Trà Vinh”. Bài viết đã cố gắng làm sáng tỏ bức tranh tổng thể về tình hình sử dụng tiếng

Việt và tiếng Khmer đang diễn ra tại Trà Vinh

Công trình “Người Khmer ở Kiên Giang” của Đoàn Thanh Nô tuy là một công trình nghiên

cứu về văn hóa Khmer nhưng có một phần nói về ngôn ngữ Khmer phản ánh kết quả tiếp xúc với

tiếng Việt. Trong đó, tác giả có miêu tả một số từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn từ tiếng Khmer.

Luận văn thạc sĩ “Phương pháp dạy học chữa lỗi từ ngữ, ngữ pháp cho học sinh THPT dân

tộc Khmer” của Nguyễn Quang Minh cũng có ngữ liệu nói về sự giao thoa giữa tiếng Việt và tiếng

Khmer nhưng các ngữ liệu này còn nhiều chỗ chưa chính xác, nhất là về cách sử dụng ngôn ngữ của

học sinh Khmer.

Như vậy, từ trước tới nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về

vấn đề “Sự tiếp xúc ngôn ngữ trên bình diện từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở một số

tỉnh đồng bằng sông Cửu Long”.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, khi thực hiện đề tài, nhiệm vụ của chúng tôi là:

- Thu thập, thống kê các từ ngữ thuộc lớp từ mà tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt và

ngược lại.

- Khảo sát, phân tích và miêu tả các phương thức vay mượn từ vựng của tiếng Việt và tiếng

Khmer qua quá trình tiếp xúc – vay mượn giữa hai ngôn ngữ.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là lớp từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer

và lớp từ ngữ mà tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt thể hiện trên ngôn ngữ nói ở các tỉnh Trà

Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang.

Khi hai hay nhiều ngôn ngữ tiếp xúc với nhau, sự tác động có thể diễn ra trên nhiều bình diện

của ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Và hệ quả của nó là sự vay mượn ngôn ngữ, sự

chuyển mã và trộn mã trong giao tiếp, hiện tượng lai tạp ngôn ngữ.Trong phạm vi đề tài này, luận

văn chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu sự tiếp xúc phản ánh trên mặt từ vựng giữa hai ngôn ngữ Việt và

Khmer. Cụ thể là luận văn nghiên cứu lớp từ mà tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer và lớp từ

tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt. Và chúng tôi chỉ tập trung chú ý ngữ liệu là văn nói ở các

tỉnh có đông đồng bào Khmer sinh sống như Trà Vinh, An Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang .

5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Khi nghiên cứu đề tài, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung, luận

văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

5.1.1. Phương pháp quan sát

Trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, trên cơ sở vốn tiếng Việt và vốn tiếng Khmer sẵn có, chúng tôi

thu thập và thống kê ngữ liệu theo sự quan sát sinh hoạt ngôn ngữ của người Kinh và người Khmer

trên các địa bàn mà mình sinh sống: xã Long Thới, xã Phú Cần huyện Tiểu Cần (nguyên quán của

người nghiên cứu), xã Tập Sơn huyện Trà Cú (quê chồng của người nghiên cứu), nội ô thành phố

Trà Vinh và các xã ngoại thành (xã Long Đức, xã Nguyệt Hóa, xã Hòa Thuận) – nơi thường trú của

người nghiên cứu.

5.1.2. Phương pháp điều tra ngôn ngữ

Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra ngôn ngữ để phỏng vấn, thu thập ngữ liệu từ các đối

tượng là người Kinh, người Khmer trên các địa bàn của các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang

và một số địa bàn không thuộc địa bàn cư trú của người nghiên cứu như xã Bà Mi, xã Thông Hòa

thuộc huyện Cầu Kè – Trà Vinh, xã Đại An – Trà Cú – Trà Vinh, xã Nhị Trường, Hiệp Hòa, Kim

Hòa – Cầu Ngang – Trà Vinh theo phạm vi nghiên cứu. Cụ thể, chúng tôi đã tiến hành điều tra bằng

phiếu điều tra kết hợp với phỏng vấn các đối tượng với số lượng như sau:

Ở tỉnh Sóc Trăng: 10 hộ gia đình người Khmer (với 32 người) và 10 hộ gia đình người Kinh

(với 41 người) ở ấp Bônô Cambốt - xã Tham Đôn - huyện Mỹ Xuyên; 10 hộ gia đình người Khmer

(với 29 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 33 người) ở ấp Sóc Mới và ấp Tân Lập - xã Long

Phú - huyện Long Phú ; 10 hộ gia đình người Khmer (với 48 người) và 10 hộ gia đình người Kinh

(với 42 người) ở ấp Tập Rèn - xã Thới An Hội, ấp An Khương – thị trấn Kế Sách - Kế Sách.

Tỉnh Kiên Giang: 10 hộ gia đình người Khmer (với 27 người) và 10 hộ gia đình người Kinh

(với 34 người) ở ấp Sóc Sáp, ấp Rạch Tìa – xã Hòa Hưng Nam - Gò Quau; 10 hộ gia đình người

Khmer (với 38 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 36 người) ở ấp Hòn Quéo – Xã Thổ Sơn –

Hòn Đất.

An Giang: 10 hộ gia đình người Khmer (với 49 người) và 10 hộ gia đình người kinh (với 34

người) ở ấp Xà Lôn – Lương Phi – Tri Tôn; 10 hộ gia đình người Khmer (với 35 người) và 10 hộ

gia đình người Kinh (với 42 người) ở ấp Tân Hiệp A – Vọng Thê, ấp Trung Phú 3 – Vĩnh Phú,

huyện Thoại Sơn.

Riêng đối tượng là học sinh trường dân tộc nội trú, mỗi tỉnh chúng tôi chọn 30 em ở trường

nội trú tỉnh để làm đối tượng cộng tác.

5.1.3.Phương pháp điền dã

Chúng tôi sử dụng phương pháp điền dã trong việc dã điền đến các tỉnh để thu thập ngữ liệu

phục vụ cho việc nghiên cứu như thu thập các địa danh gốc Khmer của các tỉnh thuộc phạm vi

nghiên cứu, các từ gốc Việt trong giao tiếp của người Khmer, các từ gốc Khmer trong giao tiếp của

người Kinh, sự hòa mã, trộn mã trong giao tiếp của người Khmer.

Các khách thể được chúng tôi lựa chọn một cách ngẫu nhiên theo mục đích khảo sát như: đại

diện cho lứa tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ.

5.1.4. Phương pháp phân tích, miêu tả

Trên cơ sở ngữ liệu thu thập được, luận văn tiến hành phân tích, miêu tả phương thức tiếng

Khmer vay mượn tiếng Việt , phương thức tiếng Việt vay mượn tiếng Khmer.

5.2. Nguồn ngữ liệu

Khảo sát trên nguồn ngữ liệu “ tươi sống” của người Kinh và người Khmer ở một số tỉnh

ĐBSCL như: Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang; ngữ liệu hữu quan trong các công trình

được nghiên cứu trước.

6. Đóng góp của đề tài

Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng có những đóng góp sau:

Thứ nhất, bảng từ ngữ mà chúng tôi thu thập và thống kê được là ngữ liệu đáng tin cậy cho

những ai có nhu cầu nghiên cứu những vấn đề có liên quan.

Thứ hai, trên cơ sở phân tích các từ ngữ tiếng Việt gốc Khmer và các từ ngữ tiếng Khmer

gốc Việt, chúng tôi đã xác định được những phương thức mà hai ngôn ngữ Việt và Khmer vay

mượn từ vựng của nhau.

Thứ ba, trên cơ sở ngữ liệu khảo sát được từ sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer,

luận văn có thể góp thêm cứ liệu chứng minh cho lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn gồm hai chương:

Chương I: TỔNG QUAN VỀ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ, TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ở

NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ VAY MƯỢN TỪ VỰNG

Trong chương I, luận văn trình bày những cơ sở lí luận và tình hình thực tiễn về điều kiện

tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể là, chúng tôi

trình bày về khái niệm tiếp xúc ngôn ngữ, tính tất yếu của sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ, các hệ quả

và mối quan hệ giữa các hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ; những vấn đề lí thuyết về vay mượn từ vựng

như khái niệm vay mượn từ vựng, các phương thức vay mượn từ vựng; sự hợp cư dẫn đến tiếp xúc

ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ; quan hệ nguồn gốc, đặc điểm, những điểm tương đồng và dị biệt

giữa tiếng Việt và tiếng Khmer.

Chương II: LỚP TỪ NGỮ TIẾNG KHMER VAY MƯỢN TIẾNG VIỆT VÀ LỚP TỪ

NGỮ TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG KHMER

Trong chương II, luận văn trình bày kết quả khảo sát, miêu tả và nhận xét lớp từ tiếng Khmer

vay mượn tiếng Việt, lớp từ tiếng Việt vay mượn tiếng Khmer theo 5 phương thức: vay mượn theo

kiểu dịch nghĩa; vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của ngôn ngữ vay mượn; vay mượn

nghĩa và giữ nguyên cách phát âm theo nguyên ngữ; vay mượn bằng cách dịch một hoặc một vài

thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại tổ hợp từ của ngôn ngữ được vay mượn;

vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ của hai ngôn ngữ.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ, TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ở NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ VAY MƯỢN TỪ VỰNG

1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ

1.1.1 Khái niệm về tiếp xúc ngôn ngữ

Từ điển Ngôn ngữ học so sánh và lịch sử ( The dictionary of historical and comparative

linguistics) định nghĩa:

Bất kì sự thay đổi nào trong ngôn ngữ do ảnh hưởng của ngôn ngữ cộng đồng ở gần người

nói mà người nói có khả năng sử dụng và trong việc chuyển các đặc điểm và thuộc tính từ ngôn ngữ

này sang ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ có thể từ mức rất nhỏ đến rất

lớn và có thể trên bình diện từ vựng, ngữ âm, hình thái, cú pháp hay bất kì bình diện nào. Loại tiếp

xúc đơn giản nhất là hiện tượng vay mượn. Tuy nhiên, có thể có những loại tiếp xúc mạnh hơn

nhiều như hiện tượng “ chuyển vị” cấu trúc và ngữ nghĩa (metatypy), việc hình thành ngôn ngữ phi

cội nguồn (non – genetic language) và sự biến đổi ngôn ngữ. Weinreich (1953) cho rằng thuật ngữ

này chỉ nên dùng để nói về những trường hợp song ngữ rõ nét. [ 55, tr. 183]

(Any change in language resulting from the influence of a neighbouring language of which

the speaker of the first have some knowledge; the passage of linguistic objects or features from one

language into another. The effects of contact many range from the trivial to the overwelming, and

many involve vocabulary, phonology, morphology, syntax or just about anything else. The simplest

type of contact is borrowing, but far more radical types are possible, including (for example)

metatypy, the creation of non – genetic language and (the ultimate) language shift. Weinreich

(1953) proposes that this term should be restricted to cases involving substantial bilingualism.)

Từ điển giải thích Thuật ngữ Ngôn ngữ học (do Nguyễn Như Ý chủ biên) định nghĩa tiếp xúc

ngôn ngữ là “ Sự tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ ảnh hưởng đến cấu trúc và vốn từ

vựng của một hay nhiều ngôn ngữ có quan hệ đó. Điều kiện xã hội của sự tiếp xúc ngôn ngữ là sự

cần thiết phải trao đổi giao tiếp giữa các cộng đồng người thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau do

nhu cầu về kinh tế, chính trị và những nguyên nhân khác. Tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra nhờ việc thường

xuyên lặp lại các cuộc đối thoại, thường xuyên có nhu cầu giao tiếp, trao đổi thông tin giữa những

người nói hai ngôn ngữ khác nhau có khả năng sử dụng đồng thời cả hai ngôn ngữ, hoặc từng

người sử dụng riêng rẽ một trong hai ngôn ngữ đó. Do đó có khả năng người nói có thể nắm vững

đồng thời cả hai ngôn ngữ, tức là có thể nói bằng ngôn ngữ này hoặc ngôn ngữ kia, hoặc người nói

chỉ hiểu một cách thụ động ngôn ngữ xa lạ, không phải tiếng mẹ đẻ của mình. [ 49, tr. 290-291]

Trong bài viết “ Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán” đăng trong

Tập san khoa học của Trường ĐHKHXH & NV ( ĐHQG TP. HCM), số 38 (2007), trang 3 – 10, tác

giả Bùi Khánh Thế đã trích dẫn hai khái niệm về tiếp xúc ngôn ngữ: (1) Tiếp xúc ngôn ngữ là “ sự

tiếp giao nhau giữa các ngôn ngữ do những hoàn cảnh cận kề nhau về mặt địa lí, tương liên về mặt

lịch sử xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải

giao tiếp với nhau” (O.S. Akhmanova, 1966). (2) Tiếp xúc ngôn ngữ còn được hiểu là “sự tác động

qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ tạo nên ảnh hưởng đối với cấu trúc và vốn từ của một hay

nhiều ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội của sự tiếp xúc ngôn ngữ được quy định bởi nhu cầu cần

thiết phải giao tiếp lẫn nhau giữa những thành viên thuộc các nhóm dân tộc và ngôn ngữ do những

nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... thúc đẩy” [dẫn theo 42, tr. 12-13 ]

Theo Phan Ngọc, tiếp xúc ngôn ngữ không phải là vay mượn từ vựng. Trong sự giao tiếp

giữa tộc người A và tộc người B, khi tộc người A bắt gặp những đồ vật, những sự vật mà nó không

có tên gọi và nó cũng chưa tìm được cách dịch sang ngôn ngữ của mình thì tất yếu nó sẽ gọi bằng

những từ chỉ đồ vật, sự vật này của tộc người B đã đem sự vật, đồ vật ấy lại cho họ. Nhưng sự vay

mượn từ dù có nhiều đến đâu đi nữa, cũng chưa chắc đã đụng chạm tới cái cấu trúc của ngôn ngữ.

Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến những thay đổi rất sâu sắc diễn ra trong cấu trúc của A do

B đưa đến, hay nói khác đi, nếu trong quá trình phát triển lịch sử, A không tiếp xúc với B thì tự nó

không có cái diện mạo ngày nay, hay muốn có phải chờ đợi một thời gian lâu dài hơn rất nhiều, và

kết quả cũng không thể hết như ngày nay được.[ 25, tr.9-10]

1.1.2. Tính tất yếu của sự tiếp xúc ngôn ngữ

Theo Nguyễn Thiện Giáp, dựa vào những đặc trưng quan trọng của ngôn ngữ loài người,

chúng ta có thể chấp nhận một định nghĩa về ngôn ngữ như sau:

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và

quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người; ngôn ngữ đồng thời cũng là

phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ

khác.

Như vậy, ngôn ngữ được xem là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Bản chất xã hội của ngôn

ngữ thể hiện ở chỗ:

1) Ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp giữa mọi người, phương tiện

trao đổi ý kiến trong xã hội, phương tiện giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức

công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người.

2) Ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội. Chính vì thể hiện ý thức xã hội nên ngôn ngữ mới có thể

làm phương tiện giao tiếp giữa mọi người.

3) Ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hóa và là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn

hóa; khả năng giao tiếp của con người tùy thuộc vào kiến thức ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp và kiến

thức văn hóa.

4) Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. [ 8,

tr.28 – 29].

Từ những bản chất đó của ngôn ngữ, chúng ta thấy rằng sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ là một

vấn đề tất yếu. Bởi lẽ, trong quá trình sống, giữa các cá nhân con người, giữa các tộc người luôn

phải tiếp xúc với nhau. Sự tiếp xúc này hoặc là do điều kiện về khoảng cách địa lí sống gần nhau

hoặc do nhu cầu trao đổi với nhau về thương mại, văn hóa, tôn giáo, thậm chí là nhu cầu về quân sự.

Và đây chính là những điều kiện dẫn đến một hệ quả không thể tránh khỏi là sự tiếp xúc giữa các

cộng đồng ngôn ngữ với nhau. Trong “ Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á”,

Phan Ngọc cho rằng hiện tượng một tộc người nói một ngôn ngữ A phải tiếp xúc , giao tiếp với một

tộc người khác nói ngôn ngữ B là chuyện hết sức bình thường. Trên thế giới không có một tộc

người nào sống cô lập, không tiếp xúc với một tộc người khác. [ 25, tr.10].

Sự tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng chung cho ngôn ngữ loài người. Thế giới của một ngôn

ngữ không phải là một thế giới riêng, chỉ tuân theo những quy luật của chính nó mà ngôn ngữ còn

chịu sự tác động của nhiều yếu tố ngoài bản thân nó nó như: tiếp xúc với các ngôn ngữ khác, quan

hệ xã hội, văn hóa, tư tưởng và cả các yếu tố như dân tộc, lịch sử của sản xuất và của xã hội.

Sự tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng một ngôn ngữ A sẽ thay đổi cấu trúc do tiếp xúc với ngôn

ngữ B. Nếu quá trình tiếp xúc diễn ra trong một quãng thời gian dài, giữa các ngôn ngữ có xu hướng

ảnh hưởng, vay mượn lẫn nhau. Có những ảnh hưởng tồn tại rất lâu dài, ngày càng mở rộng, phổ

biến trong toàn bộ tộc người để rồi nhập vào ngôn ngữ của dân tộc đó, vẫn tồn tại cho dù sự tiếp xúc

thực tế giữa các ngôn ngữ không còn nữa. Tất nhiên, cũng có những ảnh hưởng chỉ xảy ra nhất thời,

biểu hiện trong khoảng thời gian nhất định, trong một nhóm người nhất định rồi mất đi, không nhập

vào ngôn ngữ đó.

Nói tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến những thay đổi rất sâu sắc diễn ra ngay trong cấu trúc của

A do B đưa đến, hay nói khác đi, nếu trong quá trình phát triển lịch sử, A không tiếp xúc với B thì

tự nó không có diện mạo ngày nay, hay muốn có phải chờ đợi một thời gian lâu dài hơn rất nhiều,

và kết quả cũng không thể hệt như ngày nay được.[25, tr.10]

Theo cách tiếp cận song ngữ luận, trong khi thừa nhận tính cấu trúc của ngôn ngữ và sự phát

triển theo những quy luật nội tại của nó, có những trường hợp cần phải chấp nhận bên cạnh nguyên

nhân nội tại, có sự tiếp xúc ngôn ngữ. Sự tiếp xúc đóng vai một yếu tố cần phải tính đến trong sự

miêu tả đồng đại cũng như trong sự phát triển lịch sử, khi qua sự khảo sát hiện tượng giao tiếp song

ngữ giữa tộc người nói ngôn ngữ A với tộc người nói ngôn ngữ B, ta thấy có những hiện tượng liên

quan đến cấu trúc của A do cấu trúc của B đưa đến. Đó là cách tiếp cận song ngữ luận (bi –

lingualism). Nhìn theo góc độ này, một ngôn ngữ là một thể thống nhất biện chứng giữa cái cấu trúc

nội tại có những khả năng phát triển do một cấu trúc khác đưa lại.

Chẳng hạn, do sự tiếp xúc với tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn tiết và có hệ thống thanh điệu,

mà tiếng Chàm từ chỗ là một ngôn ngữ đa tiết và không có thanh điệu đang trên đường chuyển

thành một ngôn ngữ đơn tiết và có thanh điệu; hay tiếng Thái Lan vì tiếp xúc với với tiếng Khmer

mà có thêm một vài nguyên âm hay vì tiếp xúc với các ngôn ngữ châu Âu mà các ngôn ngữ Thái

Lan, Việt Nam, Miến Điện đều biểu lộ một xu hướng mạnh mẽ đang xích lại gần ngữ pháp châu Âu

bằng biện pháp sao phỏng ngữ pháp, đây đều là những cách nói theo cách tiếp cận song ngữ luận.

[25, tr. 10 – 11]

Như vậy, tiếp xúc ngôn ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ mang tính tất yếu, xảy ra với mọi

ngôn ngữ trên thế giới. Quá trình tiếp xúc sẽ làm tác động đến cấu trúc nội tại của các ngôn ngữ tiếp

xúc với nhau. Kết quả của quá trình này sẽ tồn tại thậm chí khi hai ngôn ngữ không còn tiếp xúc với

nhau nữa.

1.2. Tiếp xúc ngôn ngữ ở Nam Bộ

1.2.1. Sự hợp cư và bức tranh tiếp xúc ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ

Như đã nói ở trên, tiếp xúc ngôn ngữ là một vấn đề tất yếu. Từ thời xa xưa, phải nói rằng, rất

hiếm có một quốc gia chỉ sử dụng một ngôn ngữ duy nhất. Bất kì ở quốc gia nào, thời đại nào cũng

có hiện tượng hai hay nhiều ngôn ngữ cùng tồn tại trên cùng một địa phương mà không lẫn lộn vào

nhau. Ở Việt Nam, cuộc Nam tiến đã hình thành nên sự hợp cư cũng như đã tạo nên bức tranh tiếp

xúc ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ.

Năm 1620, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gã công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp

Chey Chettha II làm hoàng hậu. Dưới sự bảo trợ của hoàng hậu Ngọc Vạn, cư dân Việt từ vùng

Thuận – Quảng vào làm ăn sinh sống ở lưu vực sông Đồng Nai ngày một đông thêm.

Cùng với các nhóm cư dân người Việt, trong thời gian này cũng xuất hiện một số người

Trung Quốc đến khai khẩn vùng đất hoang và sinh sống ở vùng đất Nam Bộ. Nhân việc nhà Thanh

thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, một số quan lại và quân lính trung thành với triều đình nhà Minh

không chấp nhận sự thống trị của nhà Thanh đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và thúc

đẩy nhanh hơn quá trình khai phá vùng đất đồng bằng Nam Bộ. Sách Đại Nam thực lục chép: “ Kỉ

mùi, năm thứ 31 (1679), mùa xuân, tháng giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh trấn

Thượng Xuyên và phó tướng Trấn Anh Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các

cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng. Tự Trấn là bộ thần của nhà Minh, không chịu làm tôi nhà Thanh,

nên đến để xin làm tôi tớ”. Được Chúa Nguyễn cho phép, họ đến Gia Định và Biên Hòa, vỡ đất khai

hoang, dựng phố xá. Thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi

lại nơi đây tấp nập. Theo sách Đại Nam thống chí, căn cứ vào các dấu tích hoạt động cụ thể đã cho

biết nhóm Trần Thượng Xuyên đến Biên Hòa “ mở đất, lập phố”, còn nhóm Dương Ngạn Địch đến

Mĩ Tho “ dựng nhà cửa, họp người Kinh, người Di, kết thành làng xóm”.

Cùng thời gian này, Mạc Cửu là người xã Lôi Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh

Quảng Đông (Trung Quốc) cũng vì việc nhà Minh mất mà “ để tóc chạy sang phương Nam, khai

khẩn vùng đất Hà Tiên, phát triển thành khu vực cát cứ của dòng họ mình”.

Trên vùng đất Nam Bộ, chúa Nguyễn thi hành chính sách khuyến khích đặc biệt đối với việc

khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân.

Trước làn sóng tự phát di cư vào Nam tìm đất sinh sống của người dân Thuận – Quảng, chúa

Nguyễn cho người đứng ra tổ chức các cuộc di cư này và lập thành các xã, thôn, phường, ấp của

người Việt. Chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những địa chủ giàu có ở Thuận – Quảng

đem tôi tớ và chiêu mộ nông dân lưu vong vào đây khai hoang lập ấp. Chính sách này được thực thi

lâu dài và nhất quán như một phương thức khai hoang chủ yếu ở Nam Bộ. Lực lượng khai hoang

chủ yếu là là lưu dân người Việt và một bộ phận những người gốc Chămpa, Chân Lạp. Ngoài ra,

một số lính đồn trú , một số người Trung Quốc, người dân tộc thiểu số khác cũng được sử dụng vào

việc khai khẩn và canh tác. Chỉ sau hơn nửa thế kỉ, tính từ đầu đến giữa thế kỉ XVII, vùng đất Nam

Bộ nhanh chóng trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội rất năng động. Thành quả này phải kể

đến vai trò lao động cần cù và sáng tạo của tất cả cộng đồng dân cư, trong đó vai trò của các lớp cư

dân người Việt, người Khmer, người Chăm và người Hoa là rất nổi bật.[Theo 7]

Kết quả của quá trình trên đã hình thành nên một đặc điểm chung của khu vực Đồng bằng

sông Cửu Long là sự cộng cư của các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm. Ở các tỉnh đồng bằng sông

Cửu Long, bốn dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm có nơi sống tập trung thành từng khu, từng vùng,

từng thôn xóm riêng biệt nhưng nhiều nơi thường sống xen kẽ. Cả ở những vùng nông thôn và thành

thị, chúng ta đều thấy các dân tộc cùng làm ăn sinh sống một cách gần gũi và chan hòa với nhau.

Tình hình đa dân tộc, đa văn hóa ( Kinh, Khmer, Hoa) không chỉ phổ biến trong từng vùng ở đồng

bằng sông Cửu Long mà còn diễn ra ngay trong nhiều gia đình. Có những gia đình tồn tại cả ba nền

văn hóa và ba thành phần dân tộc này. Hôn nhân giữa những người khác dân tộc là hiện tượng khá

phổ biến ở đây. Người Kinh kết hôn với người Khmer, người Khmer kết hôn với người Hoa, người

Kinh kết hôn với người Hoa, rồi con cái của những người khác dân tộc đó lại kết hôn với nhau hoặc

kết hôn với người thuộc dân tộc thứ ba. Chẳng hạn, con của người Kinh – Khmer tiếp tục kết hôn

với người Kinh hoặc người Khmer, người Hoa; con người Kinh – Hoa kết hôn với người Kinh,

người Khmer,...

Sự quy tụ và tập hợp cư dân này đưa đến một hệ quả được kéo theo là sự tiếp xúc không thể

tránh khỏi giữa các cộng đồng ngôn ngữ với nhau. Với một cộng đồng cư dân đa dạng, đa chủng

như vậy, có thể nói rằng sinh hoạt ngôn ngữ là một trạng thái pha trộn ngôn ngữ. Và trong trường

hợp này, thông thường một trong những ngôn ngữ hay phương ngữ có ưu thế nào đó sẽ đóng vai trò

hạt nhân cho toàn bộ quá trình giao tiếp của cộng đồng cư dân mới hình thành. Vai trò hạt nhân ấy,

theo các cứ liệu lịch sử cho thấy, là thuộc về cộng đồng người Việt trong tập hợp cư dân mới này.

Sinh hoạt ngôn ngữ thời ấy hẳn là một trạng thái vừa lưỡng ngữ (diglossia) và vừa đa ngữ

(multilingualism). Hơn một thế kỉ sau, tác giả Trịnh Hoài Đức còn ghi nhận: người nói tiếng ta nơi

đây thường pha trộn tiếng Tàu, như nói “quát mãi” là mua sỉ, “khí ngổ” nghĩa là dối phỉnh, “nói xá”

nghĩa là vái chào, “bốc chòe” nghĩa là đánh nhau, “nói thưng xỉ” nghĩa là cái muổng, “tư yên” nghĩa

là cật lợn, “nói mì xọn” nghĩa là miếng sợi, ấy là nói theo tiếng của người Quảng Đông. Còn như

sang sông thì nói là “tầm long”, người chủ sự thì nói là “tăng nhạo”, thần ghe thì nói là “thần đục”,

cái bao làm bằng bàng thì gọi là “cà ròn”, đổi trừ thì gọi là “gật”. Ấy là nói theo tiếng Cao Miên.[

46, tr.34]

Ngày nay, dựa vào thành tựu lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ, chúng ta có thể nói: do sự tác động

qua lại giữa các phương ngữ của tiếng Việt và giữa tiếng Việt với ngôn ngữ của cư dân bản thổ và

các ngôn ngữ của những nhóm cư dân đến từ các nước, các vùng lãnh thổ khác, đã hình thành một

phương ngữ mới – phương ngữ Nam Bộ.[ 46, tr.34]

1.2.2. Đặc điểm của tiếng Việt, tiếng Khmer và những điểm tương đồng, dị biệt giữa chúng

1.2.2.1. Quan hệ nguồn gốc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer

Căn cứ vào hình cây phổ hệ, chúng ta thấy tiếng Việt và tiếng Khmer là hai ngôn ngữ cùng

thuộc họ Nam Á, nhánh Môn – Khmer.

Munđa Bắc

Munđa Nam

Munđa Nam

Nihal

Nicobar

Nicobar

Aslian Nam

Aslian Trung

Aslian Trung tâm

Aslian Bắc

Họ Nam Á

Khasi

Môn

Khmer

Pear

Môn - Khmer

Bahnar

Katu

Việt – Mường Khmú

Palaung

Sơ đồ 1: Hình cây phổ hệ của họ ngôn ngữ Nam Á

Như vậy, có thể nói, tiếng Việt và tiếng Khmer có quan hệ họ hàng với nhau, cùng thuộc về

một họ, một nhánh ngôn ngữ. Nhưng ta thấy quan hệ họ hàng này là khá xa. Thuộc nhánh Môn –

Khmer gồm nhiều nhóm ngôn ngữ (nhóm Khasi, Môn, Khmer, Pear, Bahnar, Katu, Việt – Mường,

Khmú, Palaung), mỗi nhóm lại bao gồm các tiểu nhóm, trong mỗi tiểu nhóm có nhiều ngôn ngữ

khác nhau.

Họ Nam Á Nhánh Môn – Khmer

Nhóm Việt – Mường Tiểu nhóm song tiết Tiểu nhóm đơn tiết

Việt Mường chung

Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Arem Chứt Mã Liềng Aheu Nguồn Mường Việt Pọng

Sơ đồ 2: Cây phổ hệ nhóm ngôn ngữ Việt – Mường

Tiếng Việt và tiếng Khmer không cùng tiểu nhóm, nên mặc dù chúng có quan hệ họ hàng về

mặt nguồn gốc nhưng quan hệ này là khá xa. Từ đó, có thể nói rằng, giữa tiếng Việt và tiếng Khmer

chắc chắn sẽ có những điểm giống nhau đồng thời cũng có những điểm khác biệt .

Để có cơ sở cho vấn đề nghiên cứu, chúng tôi không chỉ xem xét đặc điểm của tiếng Việt và

tiếng Khmer ở góc độ loại hình mà còn xem xét đặc điểm của hai ngôn ngữ trong phạm vi một vùng

phương ngữ - phương ngữ Nam Bộ để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng. Bởi lẽ,

vấn đề của chúng tôi là chỉ nghiên cứu sự tiếp xúc của hai ngôn ngữ diễn ra trên một phạm vi ngôn

ngữ thuộc phương ngữ Nam Bộ.

1.2.2.2. Đặc điểm của tiếng Việt

(1) Đặc điểm loại hình của tiếng Việt

Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Đặc điểm này thể hiện rõ ở các mặt ngữ âm, từ

vựng, ngữ pháp của tiếng Việt.

(a)Đặc điểm ngữ âm

Trong tiếng Việt, âm tiết (hay tiếng) là đơn vị phát âm tự nhiên rất dễ nhận biết. Âm tiết tiếng

Việt có những đặc điểm như:

Thứ nhất, âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ và rõ ràng. Mỗi âm tiết ở dạng đầy đủ

thường gồm ba phần: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Mỗi âm tiết luôn mang một thanh điệu nhất

định. Tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu và tất cả có sáu thanh.

Thứ hai, về mặt ngữ nghĩa, âm tiết tiếng Việt thường tương ứng với hình vị. Nhiều âm tiết

vừa có nghĩa vừa được dùng độc lập như một từ đơn hoặc được dùng như một thành tố cấu tạo nên

từ (hình vị).

Thứ ba, về mặt ngữ pháp, mỗi âm tiết tiếng Việt thường xuất hiện với tư cách một từ. Thời

xa xưa, đại đa số các từ trong tiếng Việt là các từ đơn tiết. Thời đó, tiếng Việt là một thứ chữ đơn

âm. Và ở thời kì lịch sử muộn hơn, tiếng Việt có cấu tạo nhiều từ láy và từ ghép (trong đó phần

nhiều là các từ song tiết). Tuy thế, trong nhiều trường hợp, các từ láy hay các từ ghép này khi sử

dụng trong hoạt động giao tiếp vẫn có thể được tách ra dùng lâm thời như một từ đơn.[ 39, tr 30 –

31]

Hệ thống âm vị tiếng Việt

* Âm vị âm đầu:

Về số lượng âm vị âm đầu, việc thừa nhận hay không thừa nhận âm vị này, âm vị kia ( đối

với trường hợp phụ âm /p/, /ʔ/; trường hợp /k/ có 3 hình thức chữ viết là “k, c, q”) đã làm nảy sinh

những bất đồng trong quan điểm về số lượng âm vị âm đầu của tiếng Việt. Phần lớn tác giả các giáo

trình Tiếng Việt có quan điểm giống nhau về số lượng âm vị âm đầu, đó là 21 hoặc 22 âm vị phụ

âm.

Các tiêu chí khu biệt âm vị học của hệ thống phụ âm đầu là dựa vào phương thức cấu âm và

vị trí cấu âm.

xát

Dựa vào phương thức cấu âm có thể chia các phụ âm đầu tiếng Việt thành hai nhóm: tắc và

_ Nhóm phụ âm tắc gồm có âm tắc - ồn và âm tắc - vang.

Các âm thuộc nhóm tắc ồn đối lập nhau ở hai tiêu chí bật hơi / không bật hơi , vô thanh /

h P, p, t, τ, c, k, q, b, d /. hữu thanh, gồm: / tP

+ Các âm thuộc nhóm âm vang gồm: / m, n, N, /.

- Nhóm các âm xát cũng chia thành xát - ồn và xát - vang.

Các âm thuộc nhóm xát - ồn đối lập nhau ở tiêu chí vô thanh / hữu thanh, gồm các âm: / f, s,

ʂ,χ , h, v, z, ʐ, γ /. + Các âm thuộc nhóm xát – vang có âm: / l /.

Dựa vào vị trí cấu âm có thể chia các phụ âm đầu tiếng Việt thành các nhóm sau: - Nhóm phụ âm môi:

+ Các phụ âm hai môi: / p, b, m/

+ Các phụ âm môi – răng: /v, f, /

h + Nhóm phụ âm đầu lưỡi : đầu lưỡi thẳng ( /tP

P, t, d, n, s, z, l/); đầu lưỡi cong (/τ , ʂ, ʐ/).

- Nhóm phụ âm lưỡi gồm:

+ Nhóm phụ âm mặt lưỡi gồm: /c,  /

+ Nhóm phụ âm cuối lưỡi gồm : /k, χ , ŋ, γ/

- Nhóm phụ âm thanh hầu gồm : /h /

*Âm đệm: Tiếng Việt có một âm đệm là bán âm /-w-/. Âm vị này có đặc điểm gần giống nguyên âm /u/

(nguyên âm hàng sau, tròn môi, có độ há hẹp) nhưng phát âm rất lướt.

*Âm chính: Tiếng Việt có 16 âm vị nguyên âm làm âm chính. Trong đó có 13 nguyên âm đơn và 3

nguyên âm đôi.

- Các nguyên âm đơn gồm: /i (i/ y), e (ê), E (e/ a), ∝ (ư), Φ (ơ, aâ) , a (a), ă (ă/a), u (u), o (ô), ɔ

(o)/

- Nguyên âm đôi gồm: : / iΦ(ia / ya iê / yê)/, / ∝Φ (ưa / ươ)/, / uΦ (ua / uô)/

* Âm cuối:

Trong tiếng Việt, ở vị trí là âm vị âm cuối có hai bán âm (là / - i/ và / -u/); bốn phụ âm tắc,

vô thanh ( / p, t, c, k/) và bốn phụ âm tắc, mũi (/ m, n, N, /).

(b) Đặc điểm từ vựng

Đặc điểm loại hình tiêu biểu của từ tiếng Việt là không biến đổi hình thái. Từ tiếng Việt, dù

thuộc từ loại nào, dù thực hiện chức năng ngữ pháp nào trong câu, cũng luôn luôn có một hình thức

ngữ âm ổn định, duy nhất. Hình thức này không biến đổi theo ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp

và chức năng ngữ pháp khác nhau trong câu.

Trong tiếng Việt, mỗi tiếng nói chung là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn vị cơ sở của hệ

thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt. Từ tiếng, người ta tạo ra các đơn vị từ vựng khác để định

danh sự vật, hiện tượng..., chủ yếu nhờ phương thức ghép và phương thức láy. Việc tạo ra các đơn

vị từ vựng ở phương thức ghép luôn chịu sự chi phối của quy luật kết hợp nghĩa, ví dụ: đất nước,

máy bay, nhà lầu, xe hơi, nhà tan cửa nát... Hiện nay, đây là phương thức chủ yếu để sản sinh ra các

đơn vị từ vựng. Theo phương thức này, tiếng Việt triệt để sử dụng các yếu tố cấu tạo từ thuần Việt

hay từ vay mượn các ngôn ngữ khác để tạo ra từ ngữ mới, ví dụ: tiếp thị, thư điện tử, thư thoại, xa

lộ thông tin, siêu liên kết văn bản, truy cập ngẫu nhiên,... Việc tạo ra các đơn vị từ vựng theo

phương thức láy thì quy luật phối hợp ngữ âm chi phối chủ yếu ở việc tạo ra các đơn vị từ vựng,

chẳng hạn: chôm chỉa, chỏng chơ, đỏng đa đỏng đảnh, thơ thẩn, lúng ta lúng túng,...

Vốn từ vựng tối thiểu của tiếng Việt phần lớn là từ đơn tiết (một âm tiết, một tiếng). Sự linh

hoạt trong sử dụng, việc tạo ra các từ ngữ mới một cách dễ dàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự

phát triển vốn từ, vừa phong phú về số lượng, vừa đa dạng trong hoạt động. Cùng một sự vật, hiện

tượng, một hoạt động hay đặc trưng, có thể có nhiều từ ngữ khác nhau biểu thị. Tiềm năng của vốn

từ ngữ tiếng Việt được phát huy cao độ trong các phong cách chức năng ngôn ngữ, đặc biệt là trong

phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật, đặc biệt

là công nghệ thông tin, tiềm năng đó còn được phát huy mạnh mẽ hơn.

(c) Đặc điểm ngữ pháp

Tiếng Việt theo trật tự cú pháp S – V – O. Từ của tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc

điểm này sẽ chi phối các đặc điểm ngữ pháp khác. Khi từ kết hợp thành các kết cấu như ngữ, câu,

tiếng Việt sử dụng các phương thức ngữ pháp chủ yếu là trật tự từ và hư từ.

Việc sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định là cách chủ yếu để biểu thị các quan hệ cú

pháp. Trong tiếng Việt khi nói “Anh ta lại đến” là khác với “Lại đến anh ta”. Khi các từ cùng loại

kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ thì từ đứng trước giữ vai trò chính, từ đứng sau giữ vai trò

phụ. Nhờ trật tự kết hợp của từ mà “củ cải” khác với “cải củ”, “tình cảm” khác với “cảm tình”.

Trật tự chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau là trật tự phổ biến của kết cấu câu tiếng Việt.

Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng Việt. Nhờ hư từ mà tổ

hợp “anh của em” khác với tổ hợp “anh và em”. Hư từ cùng với trật tự từ cho phép tiếng Việt tạo ra

nhiều câu có cùng nội dung thông báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm.

Ngoài trật tự từ và hư từ, tiếng Việt còn sử dụng phương thức ngữ điệu. Ngữ điệu giữ vai trò

trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp của các yếu tố trong câu, nhờ đó nhằm đưa ra nội dung muốn

thông báo. Trên văn bản, ngữ điệu thường được biểu hiện bằng dấu câu.

(2) Đặc điểm về ngữ âm, từ vựng của tiếng Việt Nam Bộ

Sự hình thành các phương ngữ tiếng Việt có nhiều nguyên nhân : nguyên nhân lịch sử,

nguyên nhân địa lí, nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa. Ngoài 4

nguyên nhân trên, sự hình thành các phương ngữ tiếng Việt còn có các nguyên nhân khác như

nguyên nhân xã hội (sự kiêng kị, kị húy), nguyên nhân từ bản thân ngôn ngữ (sự biến âm, biến

nghĩa)... Từ những nguyên nhân trên, tiếng Việt đã hình thành nên các vùng phương ngữ. Việc phân

chia các vùng phương ngữ đối với tiếng Việt có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy vậy, có thể xem

tiếng Việt có 3 vùng phương ngữ chính là : vùng phương ngữ Bắc Bộ, vùng phương ngữ Trung Bộ

và vùng phương ngữ Nam Bộ.

Giữa các vùng phương ngữ này có những điểm khác biệt nhau, thể hiện đặc trưng riêng của

từng vùng. Riêng vùng phương ngữ Nam Bộ, chúng ta có thể nhận ra những đặc trưng cơ bản về

ngữ âm và từ vựng.

Về đặc điểm ngữ âm

(a)Tiếng Việt Nam Bộ chỉ có 5 thanh điệu. Trong đó, hai thanh hỏi và ngã không được phân biệt

rạch ròi.

(b) Khác với phương ngữ Bắc, các cặp phụ âm /r – d/gi/, /s – x/, /ch – tr/ được phân biệt tương đối

rõ. Tuy nhiên, sự phân biệt này không đồng đều nhau giữa các vùng ở Nam Bộ. Một số nơi do có

sự tiếp xúc với tiếng Hoa (như Long An, Kiên Giang, Cà Mau, Tiền Giang, Bạc Liêu... phụ âm

quặc lưỡi /r/ biến thành phụ âm /g/ hoặc /j/, /s/ thành /x/, /tr/ thành /ch/. Không có các phụ âm /v, gi,

tr/ mà thay vào đó là là các âm tắc /d, ch/.

(c) Người Nam Bộ không có thói quen phát âm âm đệm nên có hiện tượng rơi rụng âm đệm trong

phát âm (như duyên phát âm thành diêng , luyện -> liệng..).

(d) Xuất hiện âm W (âm môi – mạc – hữu thanh) từ sự hòa nhập âm đệm vào các âm đầu /k, ng, h/,

thể hiện trong các trường hợp như: qua ->WA, (bà) ngoại -> (bà) WẠI, hoãn ->WÃNG,...

(e) Số lượng và cách phân bố các cặp nguyên âm đối lập dài – ngắn khác hẳn phương ngữ Bắc.

Chẳng hạn như có các nguyên âm /e/ (e, en, eng), /ê/ (ê, êm, êp) dài nhưng không có /e, ê/ ngắn như

trong phương ngữ Bắc.

(f) Có những cặp nguyên âm đối lập dài – ngắn như phươmg ngữ Bắc nhưng lại khác về quy tắc kết

hợp với phụ âm cuối: /i/ dài (y, im, ip) – /i/ ngắn ( in, inh, it, ich), /ơ/ dài (ơ, ơn, ên, ênh) – /ơ/ ngắn

(ân, âng, ât, âc), /a/ dài (a, an, ang) – /a/ ngắn (ăn, ăng, anh).

(g) Số lượng các vần ít hơn phương ngữ Bắc do sự đồng nhất của các vần: ên – ênh, êt – êch, iêt -

iêc, im – iêm, in – inh, ip – iêp, it – ich, iu – iêu, oc – ôc, om – ôm – ơm, ong – ông, op – ôp – ơp,

ưn – ưng, ưoi – ưi, ươc – ươt, ưu – ươu – u, ưt – ưc,...

(h) Bảo lưu nhiều hình thức ngữ âm đặc thù, thường là hình thức ngữ âm cổ.

Phương ngữ Bắc Bộ - Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ - Phương ngữ Nam Bộ

UbệnhU - Ubịnh

UcảnhU - Ukiểng

UcụcU - Ucuộc

UcưỡiU - Ucỡi

UchânU - Uchưn

UchấyU - Uchí

UchínhU - Uchánh

UchuU - Uchâu

Uchuột nhắtU - Uchuột lắt

UdĩaU - Unĩa

UdoanhU - Udinh

UđắtU - Umắt

UđĩaU - Udĩa

UgiậtU - Ugiựt

UgiầuU - Utrầu

UgioU - Utro

UgiunU - Utrùn

UgửiU - Ugởi

UhạtU - Uhột

UhoaU - Uhuê

UhoàU - Uhuề

UhoànU - Uhuờn

UhoãnU - Uhuỡn

UhoàngU - Uhuỳnh

UhồngU - Uhường

UhônU - Uhun

UkênhU - Ukinh

UkínhU, UgươngU - Ukiếng

UngẩngU - Ungửng

UngửiU - Uhửi

UnhấtU - Unhứt

UnhậtU - Unhựt

UnhọU - Ulọ

UnhòmU - Udòm

UquyềnU - Uquờn

UrếtU - Urít

UtầngU - Utừng

UtôiU - Utui

UthậtU - Uthiệt

UthốiU - Uthúi

UthưU - Uthơ

Uthư kýU - Uthơ ký

UtrượtU - Utrợt

Uvàng anhU - Uhoàng oanh

UvàoU - Uvô

UvẹtU - Ukét

v.v.

v.v.

Về đặc trưng từ vựng, tiếng Việt Nam Bộ thể hiện các đặc trưng tiêu biểu như:

(a) Tiếng Việt Nam Bộ gắn liền với đặc trưng văn hóa nơi đây . Đó là sự phong phú đến mức cực

đại về từ ngữ chỉ các loại hình và hoạt động sông nước, về tên gọi các giống lúa, gạo, các loại trái

cây.

(b) Từ vựng của tiếng Việt Nam Bộ có đặc trưng thứ hai gắn liền với đặc trưng văn hóa của vùng,

đó là sự bảo lưu nhiều từ gốc Môn – Khmer, sự tiếp biến nhiều từ gốc Chăm, Hoa, Khmer, Pháp,

Mỹ... Hệ quả là làm hình thành trong tiếng Việt Nam Bộ một bộ phận từ vựng đặc thù, khác với

phương ngữ Bắc Bộ.

UPhương ngữU Bắc Bộ - UPhương ngữ UNam Bộ

Phương ngữ Bắc Bộ - Phương ngữ Nam Bộ

anh/chị UcảU - anh/chị Uhai

UảnhU - Uhình

UbáoU - Ubeo

UbátU - Uchén

UbéoU - Umập

Ubí đỏU - Ubí rợ

Ubí ngôU - Ubí đao

Ubít tấtU - Uvớ

UbơiU, UlộiU - Ulội

UbútU - UviếtU, Ubút

Ucà chuaU - Ucà tô-mát

Ucá quảU, Ucá tràuU - Ucá lóc

Uca-vátU - Ucà-vạtU, Ucà-la-oách

Ucăng-gu-ruU - Uchuột túi

UcắtU tóc - UhớtU tóc

UcốcU – Utách, ly

Ucốc vạiU - Uly cối

UcừuU - Utrừu

UchănU - Umền

UchânU - UchưnU, UcẳngU, Ugiò

UchénU - Uchung

UchèoU - UchèoU, Ubơi

Uchiếu bóngU - Uchớp bóng

UchumU - UluU, Ukhạp

Uchuột chùU - Uchuột xạ

Uchuột rútU - Uvọp bẻ

Uchụp ảnhU - Uchụp hình

Udầu hoảU - Udầu hôi

Udầu nhờnU - Unhớt

Udưa bởU - Udưa gang

UdứaU - Uthơm

Uđánh điệnU - Uđánh dây thép

Uđánh rắmU - Uđịt

Uđào lộn hộtU - Uđiều

Uđậu hủU - Utàu hủ

Uđi ngoàiU, Uđi cầu

UđiêuU - Uxạo

UđịnhU - Utính

UđỗU - Uđậu

Uđồng hồ điệnU - Ucông-tơ điện

Uđũa cả U- Uđũa bếp

UđượcU - UđượcU, Uđặng

UgáyU - Uót

UgầyU - Uốm

UgiốngU - UgiốngU, Uin

Uhắc làoU - Ulác

UhoaU - Ubông

Uhoa đại U - Ubông sứ

UhòmU - Urương

Uhòm thưU - Uhộp thư

UhổU - Ucọp

Uhố xíU, Unhà xíU - Ucầu tiêu

UkemU - Ucà-rem

Ukhăn tayU - Ukhăn mu-soa

Ulại sứcU

UlàmU - UlàmU, Umần

UlọU - Uchai

UlợnU - Uheo

UlúaU, UthócU - Ulúa

UmácU - Umạc

UmànU - Umùng

Umáy ảnhU - Umáy chụp hình

UmặcU, UvậnU - Ubận

Umì chínhU - Ubột ngọt

UmuỗmU, UquéoU - Uxoài

Umướp đắngU - Uhủ quaU, Ukhổ qua

UnaU - Umảng cầu

Unói U - UnóiU, Urằng

UnónU, UmũU - Unón

UngãU - Uté

UnganU - Uvịt xiêm

Ungày kiaU - Ungày mốt

Ungòi U, UlạchU - UrạchU, UxẻoU, Utắt

UngôU - Ubắp

Unhà cao tầngU - Unhà lầuU, Ucao ốc

UnhặtU - Ulượm

UnhẫnU - Ucà ráU, Ukhâu

Unhật báoU - Unhựt trình

UnhìnU - Ungó

ô - Udù

UốmU, UđauU - Uđau

Uphó cạoU - Uthợ hớt tóc

Uphó cốiU - Uthợ cối

Uphó nhòmU - Uthợ chụp hình

Uquan tàiU, Uáo quanU - Uhòm

Uquần bòU - Uquần jeans

UrặtU - Utoàn

UsắnU - Ukhoai mì

UtáoU - Ubôm

Utắc-teU - Uchuột

UtéU - Utạt

UtemU - Ucò

UtháiU - Uxắt

thi UđỗU - thi Uđậu

thi UtrượtU - thi Urớt

UthìaU - Umuỗng

Uthợ nềU, Uthợ xâyU - Uthợ hồ

UthuêU - Umướn

UthuyềnU - UgheU, Uxuồng

UthươngU, UyêuU - Uthương

UtrôngU - Ungóng

Utrống rỗngU - Utồng phộc

UvởU - Utập

UvungU - Unắp

UvữaU - Uhồ

UvừngU - Umè

Uxà-phòngU - Uxà-bông

Uxe quệtU - Ucộ

UxemU - Ucoi

UxiếcU - Uxiệc

Đối với các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại mới du nhập từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX

thì sự khác biệt giữa phương ngữ Nam Bộ với phương ngữ Bắc Bộ hầu như là tuyệt đối. Điều này

cho thấy hai vùng đã tiếp nhận các sản phẩm này của phương Tây một cách hoàn toàn độc lập với

nhau.

(c) Sự thay thế và lược bỏ đại từ “ấy”: trong tiếng Việt, ẤY là một đại từ đi liền sau danh từ để biểu

thị một không gian, thời gian, sự vật hoặc con người khiếm diện khi hội thoại diễn ra (bên ấy, hôm

ấy,...). Khi xuất hiện trên văn bản viết, đại từ ấy thường được viết là “ấy” hoặc “í”. Nhưng trong

thực tế hội thoại, tất cả các phương ngữ Bắc, Trung, Nam đều nhược hóa đại từ này thành âm tiết

“í”, phát âm không có trọng âm (bên í, hôm í...). Trong phương ngữ Nam Bộ, ẤY càng bị nhược

hóa mạnh hơn, hòa nhập vào danh từ đứng trước dưới dạng: THANH ĐIỆU HỎI (bển, đẳng, trỏng,

ngoải,...). Bằng cách đó, phương ngữ Nam Bộ đã hình thành một nhóm đại từ có ý nghĩa khiếm diện

mang thanh hỏi, không có trong phương ngữ Bắc,Trung. Trong trường hợp danh từ đứng trước

mang thanh hỏi, ngã, sắc như khoảng, tháng, dưới, bữa, chú, thiếm,.. , khiến cho đại từ “ấy” không

thể hòa nhập được, tiếng Việt Nam Bộ sẽ chọn một trong 3 cách:

- Trong một số trường hợp, nhược hóa ẤY thành thanh hỏi cho từ đi trước nó: bên ấy -> bển,

ông ấy -> ổng, bà ấy -> bả, trong ấy -> trỏng, trên ấy -> trển, ....

- Thay thế Ấy bằng đại từ ĐÓ: “Bánh trái thì ở dưới đó chứ đâu, không lo kiếm mà cứ hỏi

hoài?”

- Lược bỏ ẤY:Trên này bày biện xong rồi, ở dưới xong chưa?”.

(d) Ưu tiên sử dụng các từ xưng hô lâm thời: Trong tiếng Việt, từ xưng hô là một lớp từ vô cùng

phức tạp, do chín nhóm từ khác nhau hợp thành là danh từ thân tộc (cố, cụ, ông , bà, nội, ngoại...);

danh từ chỉ quan hệ xã hội (thầy, bạn, thủ trưởng,...); danh từ chỉ người (người, ngươi, ngài, quý vị,

...); tên cá nhân ( Nam, Hùng, Hoa, Tuyết,...); tên con cháu (bố Cu, mẹ Hím,..); đại từ hoặc danh ngữ

chỉ nơi chốn (đấy, đây, bển, đẳng; đại từ nhân xưng (tao, qua, ta, toa, mày, mi,...). Trong số đó, chỉ

có một nhóm từ xưng hô thực thụ duy nhất là đại từ nhân xưng, còn lại đều là những nhóm từ xưng

hô lâm thời. Tuy nhiên, nhóm từ xưng hô lâm thời là nhóm từ được ưu tiên sử dụng trong giao tiếp.

Còn nhóm từ xưng hô thực thụ chỉ được sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp thân mật hoặc suồng sã

mà thôi. Tiếng Việt Nam Bộ cũng vậy. Xét về mặt này, tiếng Việt Nam Bộ có mấy điểm khác biệt

so với phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung:

- Trong nhóm danh từ thân tộc, không dùng bố, u, mạ, mệ,... mà dùng cố, cụ, ông, bà, nội, ngoại,...

Một số vùng, do ảnh hưởng của tiếng Hoa nên có cách xưng hô như kiểm, tía, tỉa, củ, chế, hia,...

- Sử dụng các đại từ : đẳng, bển, trỏng, cẩu, ảnh,..

(e) Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: Bên cạnh các phó từ chỉ mức độ dùng chung với phương

ngữ Bắc như thật, rất, lắm, quá,.. phương ngữ Nam Bộ còn sử dụng các từ chỉ mức độ đặc thù:

lậng, hà, thiệt, hung, dữ lắm; và các phó từ chỉ mức độ đi kèm với tính từ: dở ẹc, tối hù, cụt ngủn,

ốm nhom, mập ù,...

(f) Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: hả, hén, hèng chi, hong, nghen, chèng ơi, dữ ác hong, trời ơi là

trời,...

(g) Sử dụng các quán ngữ đặc thù: Bên cạnh các quán ngữ chung với phương ngữ Bắc, còn hình

thành các quán ngữ đặc thù của Nam Bộ: quá cỡ thợ mộc, quá xá quà xa, hết nước hết cái, mút chỉ

cà tha, mút mùa Lệ Thủy, tan nát đời cô Lựu, tiêu tấn thoòng, xí lắt léo, cà kê dê ngỗng, trần ai

khoai củ, ... [theo 12]

1.2.2.3. Đặc điểm của tiếng Khmer

(1) Đặc điểm loại hình

a)Đặc điểm ngữ âm

Trong tiếng Khmer, âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong chuỗi lời nói. Âm tiết tiếng

Khmer không thuần tuý là đơn vị trống nghĩa. Âm tiết tiếng Khmer không chỉ có vỏ ngữ âm mà còn

có ý nghĩa cụ thể. Ví dụ: pôon đôol (giải thích), âm tiết thứ nhất pôon, âm tiết thứ hai đôol. Theo

quan niệm truyền thống, âm tiết thứ nhất được xem như không có nghĩa, nhưng thực ra nó vẫn có

nghĩa, đó là nghĩa tiềm tàng, nghĩa khu biệt. Khi nó kết hợp với âm tiết thứ hai để tạo thành tổ hợp

từ pôop đôol thì nghĩa của nó đã được thể hiện.

Trong tiếng Khmer, một từ đơn có thể có hai hình thức ngữ âm thể hiện nó: từ đơn đơn tiết

và từ đơn song tiết. Một từ đơn song tiết gồm hai âm tiết: âm tiết mạnh (main-syllable) có người

còn gọi là âm tiết chính, âm tiết tỏ, v.v. và âm tiết yếu (pre-syllable) có người còn gọi là tiền âm tiết,

âm tiết phụ, âm tiết mờ, v.v.

Âm tiết mạnh tiếng Khmer là âm tiết mang trọng âm có khả năng đứng một mình để cấu tạo

từ, có thể tồn tại độc lập với chức năng làm hình thức ngữ âm của từ.

Âm tiết yếu là âm tiết không mang trọng âm, luôn đi kèm với âm tiết mạnh (không có khả

năng đứng một mình để cấu tạo từ), bản thân âm tiết yếu không mang nghĩa. Trong nhiều trường

hợp phát âm, sự vắng mặt của âm tiết yếu không làm thay đổi nghĩa của từ. Đó là xu hướng giản

lược hoá âm tiết – một xu hướng phổ biến và tích cực trong phát âm hiện nay.

Về cấu tạo của âm tiết: (*) Âm tiết đơn: Âm tiết đơn trong tiếng Khmer cũng gồm có hai loại: âm tiết đơn mở và âm tiết đơn khép.

- Về cấu tạo của âm tiết đơn : âm đầu cộng vần mở; cấu tạo âm tiết khép là âm đầu cộng

vần khép (khái niệm “mở” và “khép” ở đây giống như khái niệm “mở”, “khép” dùng cho âm tiết

tiếng Việt). Vậy là xét cấu tạo âm vị phụ âm và nguyên âm trong âm tiết đơn chúng ta có mô hình

âm tiết như sau:

+ Cấu tạo âm tiết mở = CV hoặc CCV. Ví dụ: ta (ông), chke (con chó), pka (chợ), khlây

(ngắn), phka (hoa), khxe (dây).

+ Cấu tạo âm tiết khép = CVC. Ví dụ: ken (tập hợp), ngôk (ngủ gật), khjoong (con ốc), chôl

(bỏ), đoong (múc), naj (chán), tom (kiêng), v.v. (Trong mô hình trên: C: là phụ âm, có thể là phụ âm

đơn hay phụ âm kép, V: là nguyên âm, có thể là nguyên âm đơn hay nguyên âm đôi).

(*)Âm tiết ghép: Âm tiết ghép của tiếng Khmer được cấu tạo bởi âm tiết đơn mang trọng âm, cộng với một

CV hoặc VC không mang trọng âm trước nó mà chỉ có thể là phụ âm đơn, và V luôn là nguyên âm

trung hoà /ơ/. Mô hình âm tiết khép có các dạng sau: CƠCV, ƠC’CƠV, hoặc CƠCVC.

Ví dụ:

+ Âm tiết ghép mở: rơnghia (lạnh), krơbây (con trâu), tơtuôl (đón), tơtia (mái nhà ngang),

v.v.

+ Âm tiết ghép khép: prơxop (rành), prơkăn (chấp), prơđau (dạy), trơchat (mát), xơmbok

(vỏ), v.v.

Về hệ thống âm vị:

(*)Âm đầu

Tiếng Khmer gồm 33 phụ âm đầu đơn (trong đó có 15 phụ âm được phát âm theo âm “o” và

18 phụ âm được phát âm theo âm “ô”) và rất nhiều các tổ hợp phụ âm được tạo thành từ các phụ âm

đơn này (với khoảng 125 tổ hợp phụ âm) giữ vai trò là các phụ âm đầu trong cấu tạo âm tiết.

h /đ/ (có 2 biến thể); /tP 33 phụ âm đầu của tiếng Khmer gồm:/ k/, /χ/ (có 3 biến thể âm); /ŋ/, /c/ (có 4 biến thể); /ɲ/, P/ (có 5 biến thể); /n/ (có 2 biến thể); /t/, /b/, /f/ (có 3 biến thể); /m/, /d/, /ʐ/, /l/

(có 2 biến thể), /w/, /s/, /h/, / ʔ /. Các tiêu chí khu biệt âm vị học của hệ thống phụ âm đầu là: dựa vào phương thức cấu âm và

Dựa vào phương thức cấu âm có thể chia các phụ âm đầu tiếng Khmer thành hai nhóm: âm

vị trí cấu âm.

h + Phụ âm bật hơi: /tP

P, w/ và các biến thể của /ŋ, c, ɲ, n, m, d, l/

tắc và âm xát - Nhóm phụ âm tắc gồm có:

+ Phụ âm không bật hơi: /b, k, c, d, đ, m, n, ŋ, ɲ/

- Nhóm phụ âm xát gồm có: / s, h, l,χ , γ, ʐ/

P, t, đ, n, s, d, l/

h - Nhóm phụ âm mặt lưỡi trước (lợi): /tP

Dựa vào vị trí cấu âm có thể chia các phụ âm đầu tiếng Khmer thành các nhóm sau: - Nhóm phụ âm môi: /b, m, f /

- Nhóm phụ âm mặt lưỡi giữa (ngạc): /c, ʐ, ɲ/

- Nhóm phụ âm mặt lưỡi sau (mạc): /k, χ, ŋ, γ/

- Nhóm phụ âm thanh hầu: /h, ʔ/

h hợp của 33 phụ âm nói ở trên. Chẳng hạn, sự kết hợp của các phụ âm với phụ âm /ʐ/ tạo thành /tP h fʐ, mʐ/; sự kết hợp của các phụ âm với /ŋ/ tạo thành /kŋ, cŋ, sŋ, tP h phụ âm với /n/ tạo thành / tP

h /χm, cm, lm, km, tP

Pm,.../;...

Các tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng Khmer có rất nhiều. Đó là sự tạo thành do sự kết Pʐ , Pŋ, fŋ, lŋ, χŋ.../; sự kết hợp của các Pn, mn, sn, χn, cn, fn, .../; sự kết hợp của các phụ âm với /m/ tạo thành

(*)Âm chính:

Trong tiếng Khmer Nam Bộ, đảm nhận thành phần âm chính trong âm tiết là những

nguyên âm đơn và nguyên âm đôi. Hệ thống nguyên âm trong tiếng Khmer có 24 nguyên âm. Trong

đó, có 12 nguyên âm đơn , 11 nguyên âm đôi và 01 nguyên âm ba.

- Nguyên âm đơn trong tiếng Khmer gồm: / a , i, ɔ, ơ ngắn, ư, o, ŏ, ua, e , ɛ, e hơi rộng.

- Nguyên âm đôi: trong tiếng Khmer bao gồm các nguyên âm đôi sau đây: / ơ, ưa, ia, o, au,

um, am, ĭ, ĕ, ŏ/.

- Một nguyên âm ba là: ɔ

Ngoài nguyên âm, âm tiết tiếng Khmer có thể được tạo thành chỉ do sự phối hợp của các phụ

âm mà không cần đến các nguyên âm.

(*)Âm cuối:

Âm cuối đứng ở vị trí kết thúc âm tiết, ở vị trí phụ âm cuối của âm tiết mạnh, có khả năng

xuất hiện 16 phụ âm (trong đó có 6 phụ âm cuối phát âm theo âm “o” và 10 âm cuối phát âm theo

âm “ô”) và hai bán nguyên âm như sau: /k/, /ŋ/, /ɲ/, /c/ (ch không bật hơi, phát âm với âm “o” và ch

bật hơi, phát âm với “ô”), /n/ (cả hai hình thức đều tham gia cấu tạo âm tiết với vị trí là âm cuối), /t/,

/b/, /f/ (âm ph phát âm với “ô”, âm điệu đi xuống), /m/, /d/, /l/ (l bật hơi, phát âm với “ô”), /w/, /s/ và

hai bán âm cuối /-i-/, /-u-/, và âm vị /zêrô/ không được thể hiện trên chữ viết.

Theo vị trí cấu âm có các loạt phụ âm cuối như sau:

- Loạt phụ âm cuối môi: /-m, -p, -w/

- Loạt phụ âm cuối đầu lưỡi: /-t, -n, -l/

- Loạt phụ âm cuối mặt lưỡi: /-c, -j, -ɲ/

- Loạt phụ âm cuối gốc lưỡi:/- x, -ŋ/

- Loạt phụ âm cuối thanh hầu: /-h, ʔ/

- Bán âm cuối /-i, -u/ và âm vị /zêrô/

Theo phương thức cấu âm có các nhóm âm cuối như sau:

- Phụ âm tắc vô thanh: /-p, -t, -c, -/, -j, -w/

- Phụ âm mũi: /-m, -n, -ɲ, -ŋ/

- Phụ âm xát thanh hầu: /-h/

- Phụ âm tắc thanh hầu: /ʔ/

- Phụ âm xát vang đầu lưỡi: /-l, -ʐ/

- Bán âm cuối /-i, -u/ và âm vị /zêrô/

b) Đặc điểm từ vựng

Trong tiếng Khmer, một số từ được thành lập bởi một âm tiết, một số từ được thành lập do sự

lưỡng vần. Thông thường, từ được thành lập bởi hai âm tiết. Âm tiết thứ nhất với âm tiết sau tạo

thành từ có nghĩa và khi tách hai âm tiết này ra, thì từng âm tiết sẽ không mang nghĩa.[48 ,tr 72]

Từ tiếng Khmer cũng được tạo thành theo phương thức ghép và phương thức láy. Các từ

ghép được tạo thành nhờ sự kết hợp giữa các từ với nhau hoặc bằng cách láy lại toàn bộ hay bộ

phận hình vị gốc.

Phần lớn các từ tiếng Khmer là từ đơn âm tiết hoặc sesquisyllabic (từ có một âm tiết yếu và

một âm tiết mạnh) mặc dù các từ vay mượn Sanskrit và Pali có thể có nhiều âm tiết. Cấu trúc của từ

sesquisyllabic gồm một tiền âm tiết không có trọng âm với nguyên âm bị nhược hóa gọi là âm tiết

yếu hay âm tiết phụ; âm tiết này đi trước một âm tiết chính có trọng âm và có nguyên âm đầy đủ. Vì

hình thái tiếng Khmer còn có tiền tố và trung tố, không tồn tại hậu tố, trừ các từ ngữ có nguồn gốc

Indic, âm tiết chính là bộ phận bền vững nhất của từ. Âm tiết yếu có thể chứa đựng những hình vị đã

hóa thạch với những chức năng không rõ ràng, và thường nhược hóa trong lời nói nhanh, vì thế nó

thường không bền vững.

Từ Khmer thường có nhiều tổ hợp phụ âm đầu từ, không có tổ hơp phụ âm ở cuối từ. Âm tiết

chính ở cuối từ được kết thúc hoặc bằng nguyên âm hoặc bằng phụ âm đơn.

c) Đặc điểm ngữ pháp

Từ tiếng Khmer không biến đổi hình thái. Từ tiếng Khmer luôn có hình thức ổn định khi đảm

nhiệm các chức năng ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp khác nhau hay thuộc các từ loại khác nhau.

Vì từ tiếng Khmer không biến đổi hình thái nên chức năng ngữ pháp và quan hệ ngữ pháp

của từ không được biểu hiện trong bản thân của từ. Phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng Khmer

là phương thức trật tự từ và phương thức hư từ. Ngoài ra ngữ pháp tiếng Khmer cũng sử dụng ngữ

điệu như một phương thức ngữ pháp.

Trật tự từ cơ sở của tiếng Khmer là S – V - O (Subject Verb Object). Trong ngữ danh từ

(danh ngữ), danh từ chính đi trước, và từ phụ đi sau (kể cả số từ), những yếu tố phụ khác như tính

từ, từ sở hữu và những mệnh đề quan hệ thường đứng giữa. Một cấu trúc khác: danh từ + số từ + từ

chỉ toàn bộ là trật tự thường gặp của ngữ danh từ tiếng Khmer.

(2) Tiếng Khmer Nam Bộ

Tiếng Khmer là ngôn ngữ dân tộc của Campuchia. Khoảng hơn 120 bi kí tiếng Khmer cổ

được viết trước khi thành lập Ăngko (năm 802 công nguyên) còn được bảo quản, được dịch và được

in ấn. Nó là chứng tích của một thời kì khác biệt của ngôn ngữ được gọi là tiếng Khmer cổ “ tiền

Ăngko”. Tiếng Khmer giai đoạn này được gọi là tiếng Khmer cổ “ thời Ăngko”.

Tiếng Khmer chuẩn hiện đại được hiểu và sử dụng trên toàn lãnh thổ Campuchia. Một số

người Khmer di cư – chủ yếu ở Thái Lan, Pháp, Mỹ sử dụng tiếng Khmer hiện đại. Tuy nhiên, ba

cộng đồng bản địa ngoài lãnh thổ Campuchia dùng những dạng thức khác biệt với tiếng Khmer

chuẩn hiện đại. Đó là tiếng Khmer miền Nam hay Khmer Krom được sử dụng ở miền Nam Việt

Nam, tức ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, với khoảng 700.000 người Khmer.

So với tiếng Khmer chuẩn, tiếng Khmer Nam Bộ đã xảy ra quá trình đơn tiết hóa âm tiết.

Quá trình này được thực hiện theo 4 hướng như sau:

+ Thứ nhất: âm tiết yếu bị mất hoàn toàn.

+ Thứ hai: giữ lại phụ âm đầu của âm tiết yếu, kết hợp với phụ âm đầu của âm tiết mạnh tạo

thành tổ hợp phụ âm đầu của âm tiết mạnh.

+ Thứ ba: âm tiết yếu bị mất hoàn toàn, và xuất hiện một nguyên âm (thường là nguyên âm

/a/), tạo thành một âm tiết yếu mới.

Ví dụ: rônoh -> anoh: bồ cào

rôniêp -> aniep: vạt giường

xôphiêp -> xphep

Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, dù xu hướng đơn tiết hoá có xảy ra mạnh trong tiếng

Khmer Nam Bộ nhưng thật ra, tiếng Khmer nói chung và tiếng Khmer Nam Bộ nói riêng chưa phải

là một ngôn ngữ đơn âm tiết tính triệt để mà là một ngôn ngữ cận âm tiết tính. Đây là đặc điểm quan

trọng của ngôn ngữ này.

Thực tế, tiếng Khmer ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long không phải hoàn toàn thống nhất

ở tất cả các bình diện của ngôn ngữ. Qua khảo sát, có thể thấy rằng tiếng Khmer ở các tỉnh đồng

bằng sông Cửu Long chia thành hai phương ngữ rõ rệt. Trong đó, tiếng Khmer ở các tỉnh An Giang,

Kiên Giang, Sóc Trăng, Cà Mau thuộc về một vùng phương ngữ và tiếng Khmer ở các tỉnh Trà

Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ có cách nói giống nhau, tức là cùng thuộc về một vùng phương ngữ. Để

phân biệt hai phương ngữ này, chúng tôi tạm gọi tiếng Khmer ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Sóc

Trăng, Cà Mau là “ phương ngữ Khmer Sóc Trăng”, còn tiếng Khmer ở các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh

Long, Cần Thơ là “phương ngữ Khmer Trà Vinh”.

Sự khác biệt giữa hai vùng phương ngữ này biểu hiện chủ yếu ở phương diện ngữ âm và từ

vựng, còn về mặt ngữ pháp, có thể nói là thống nhất không chỉ trong tiếng Khmer Nam Bộ ở Việt

Nam mà thống nhất cả với tiếng Khmer chuẩn ở Campuchia.

Trên phương diện ngữ âm, tiếng Khmer Trà Vinh và tiếng Khmer Sóc Trăng có những biểu

hiện về sự khác biệt như sau:

Thứ nhất là sự biến âm từ vần “âu” trong phương ngữ Sóc Trăng chỉ còn “u” trong phương

ngữ Trà Vinh .

Ví dụ:

Tâu (đi) -> thù

Nâu (ở) -> nù

Thứ hai, một số tổ hợp phụ âm đầu trong phương ngữ Trà Vinh bị rơi rụng phụ âm thứ hai chỉ

còn phụ âm thứ nhất trong phương ngữ Sóc Trăng như :

- Xr (r bật hơi) -> x: xrâu (lúa) -> xậu; xroh (tươi) -> xoh (chỗ có nước làm nhầy nhụa, dơ bẩn);

xruôi (dòn) -> xuôi; xre (ruộng) -> xệ,...

- chr -> ch: chrềnh (nhiều) -> chênh; chriêng (hát) -> chiêng;

Thứ ba, âm /tr/ trong phương ngữ Trà Vinh biến thành /t/ ở phương ngữ Sóc Trăng.

Ví dụ: thngai troòng ( mặt trời đứng bóng) -> thngai toong

trâu (đúng) -> tâu

trồng bạt ( ông lục đi bưng bát) -> tồng bat

thứ tư, tiếng Khmer Trà Vinh phát âm các phụ âm bật hơi và phát âm âm tiết theo thanh

huyền rất nhiều, trong khi tiếng Khmer Sóc Trăng thì thể hiện tiếng Khmer thật sự là ngôn ngữ

không có thanh điệu và ít bật hơi.

Ví dụ:

Tiếng Khmer Trà Vinh Tiếng Khmer Sóc Trăng

thù (đi) tâu

dồ (lấy) – /d/ bật hơi dô

chờng đầy (bạn bè) – /ch/ bật hơi chơng đay

riền ( học) - /r/ bật hơi riên

lềng (chơi) - /l/ bật hơi lêng

nù (ở) - /n/ bật hơi nâu

wềng (dài) -/w bật hơi/ wêng

lột khrù (thầy) /l,r/ bật hơi lục kru

Thứ năm, một số vần gồm âm chính và âm cuối trong phương ngữ Sóc Trăng chỉ còn lại âm

chính trong phương ngữ Trà Vinh

Âu -> u: nâu (ở) -> nù; tâu (đi) -> thù;

Phương ngữ Sóc Trăng phát âm các âm tiết dài hơn phương ngữ Trà Vinh.

Ví dụ:

Phương ngữ Sóc Trăng Phương ngữ Trà Vinh

chao (cháu) chầu

chhao - ch bật hơi-(sống – chín) châu (ch bật hơi)

chai (chí) chầy

Một số nguyên âm đôi của phương ngữ Sóc Trăng biến thành nguyên âm đơn cùng hàng

rộng hơn ở phương ngữ Trà Vinh

/ iê, ia/ biến thành /e/

Ví dụ:

Phương ngữ Sóc Trăng Phương ngữ Trà Vinh

khliên (đói) khlen

miên (giàu) mèn (m bật hơi)

thlia (trong) thle

thwia (cửa) thwe

wiêng (đi vòng) wèng(w bật hơi)

/ua, uô/ biến thành /ô/

ví dụ:

Phương ngữ Sóc Trăng Phương ngữ Trà Vinh

dua (lấy) dồ (d bật hơi)

luôc (bán) lộc (l bật hơi)

khnua (mít) khnô

lua ( thử) lồ (l bật hơi)

chruah (suối) chrộh (ch bật hơi)

Trên phương diện từ vựng, cũng như các ngôn ngữ khác, giữa hai phương ngữ tiếng Khmer

Nam Bộ cũng xảy ra những khác biệt về từ vựng. Cùng một đối tượng, tiếng Khmer Trà Vinh và

tiếng Khmer Sóc Trăng có khi có cách gọi tên khác nhau.

Ví dụ:

Sự vật Tiếng Khmer Trà Vinh Tiếng Khmer Sóc Trăng

nón đuôl muôc

bú ềm bau

khoai lang lôn prằng chvia

dầu hỏa khlanh đạch prêng phlơn

gạch thmo ach

tiền cặ luôi

1.2.2.4. Những điểm tương đồng và dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Khmer – tiếng Khmer Nam Bộ

(1) Những điểm tương đồng

Tiếng Việt và tiếng Khmer, về nguồn gốc, có quan hệ họ hàng như đã trình bày ở trên. Vì

thế, hai ngôn ngữ tất nhiên có những điểm giống nhau nhất định trên cả ba bình diện ngôn ngữ của

chúng.

P, n, b , f , m, d, ʐ , l, S, h/.

h Về phụ âm đầu: / k,χ , ŋ, c, ɲ, đ ,tP Về âm cuối: gồm một số phụ âm và hai bán âm.

Thứ nhất, hệ thống âm vị của hai ngôn ngữ có nhiều âm vị tương ứng nhau. Cụ thể như:

+ Các phụ âm cuối, cả tiếng Việt và tiếng Khmer cùng có các âm vị âm cuối là các phụ âm:

/c, ŋ , c, ɲ, n, t, m /.

+ Hai bán âm cuối: / -w/, / -j/

Thứ hai, tiếng Việt và tiếng Khmer đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, không biến đổi

hình thái. Từ luôn ổn định về mặt hình thức.

Thứ ba, cũng như âm tiết tiếng Việt, âm tiết tiếng Khmer không thuần tuý là đơn vị trống

nghĩa. Đa số các từ trong tiếng Việt và tiếng Khmer được cấu tạo từ một âm tiết, tức đa số từ tiếng

Việt và tiếng Khmer là từ đơn tiết và cũng có từ đa tiết. Các từ được tạo ra chủ yếu nhờ phương

thức ghép và phương thức láy.

Thứ tư, về mặt ngữ pháp, cả hai ngôn ngữ đều có trật tự ngữ pháp cơ sở là S-V-O, với

phương thức ngữ pháp chủ yếu là phương thức trật tự từ và phương thức hư từ.

(2) Những nét dị biệt

Bên cạnh những nét tương đồng, hai ngôn ngữ cũng có những nét khác biệt, những nét riêng,

chỉ có ngôn ngữ này mà không có trong ngôn ngữ kia, và ngược lại.

Thứ nhất, về hệ thống âm vị phụ âm, bên cạnh các âm vị tương ứng giữa hai ngôn ngữ còn có sự khác biệt như: trong tiếng Khmer không có các âm vị phụ âm đầu môi – răng /f, v/ và phụ âm đầu lưỡi – cong /ʂ/; /f/ trong tiếng Khmer là âm hai môi; tiếng Khmer không có âm môi – răng /v/ mà chỉ có âm /w/. Mặt khác, ở một số âm vị phụ âm tương ứng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer như h / ŋ, ɲ, n, m, d, ʐ, l/, âm vị tiếng Khmer còn có thêm thanh tính bật hơi. Các âm / χ, c, đ, tP P , f/ trong khi tiếng Việt chỉ có một hình thức duy nhất cho mỗi âm thì trong tiếng Khmer, tình hình có khác. /χ/ có ba hình thức : (1) /χ/ phát âm với “o”; (2) /χ/ phát âm với “ô”, âm điệu đi xuống; (3) /χ/ phát

h P/ có năm hình thức, trong đó, có hai /tP

âm với “ô”, âm điệu ngang. /c/ có bốn hình thức: (1) /c/ không bật hơi, được phát âm với “o”; (2) (c) bật hơi, phát âm “o”; (3) /c/ bật hơi, phát âm “ô”, âm điệu đi xuống; (4) /ch/ bật hơi, phát âm “ô”, âm điệu ngang. Trường hợp /f/ có 3 hình thức: (1) /f/ phát âm với “o”; (2) /f/ phát âm với “ô”, âm h điệu đi xuống; (3) /f/ phát âm với “ô”, âm điệu ngang. /tP P// đặc điểm thanh tính giống nhau nhưng hình thức chữ viết thì khác nhau, cùng được phát âm với “o”; h có hai /tP P/ đặc điểm thanh tính giống nhau nhưng hình thức chữ viết thì khác nhau, cùng được phát h âm với “ô”; và một /tP P/ được phát âm với “ô”, theo âm điệu ngang. Trường hợp /t/, /n/ thì đều có hai hình thức, một phát âm với “o” và một phát âm với “ô”. Thứ hai, hệ thống âm vị phụ âm của tiếng Khmer còn có điểm khác với tiếng Việt ở chỗ,

trong tiếng Việt, tất cả các phụ âm đều được phát âm theo vần /ơ/, còn trong tiếng Khmer, một số

phụ âm được phát âm với vần /o/, một số âm được phát âm với vần /ô/. Sự khác biệt giữa phụ âm

mang vần /o/ và phụ âm mang vần /ô/ thể hiện trong sự tạo âm khi kết hợp với nguyên âm để tạo

tiếng.

Thứ ba, tiếng Khmer có một số âm cuối mà tiếng Việt không có như: /d, ʐ, w, χ /. Tiếng Khmer không có âm cuối /p/ mà chỉ có âm cuối /f/.

Thứ tư, trong khi tiếng Việt thể hiện rõ đặc điểm loại hình là tính phân tiết tính, mỗi âm tiết

là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất, có cấu tạo và phân giới rạch ròi với các âm tiết trước và sau nó

thì tiếng Khmer nói chung và tiếng Khmer Nam Bộ nói riêng chưa phải là một ngôn ngữ đơn âm

tiết tính triệt để mà là một ngôn ngữ cận âm tiết tính. Bởi lẽ, trong tiếng Khmer vẫn còn hiện tượng

giữa các âm tiết chưa có sự phân ranh giới rõ ràng. Đó là trường hợp các âm tiết ghép của tiếng

Khmer. Các âm tiết ghép này được cấu tạo bởi âm tiết đơn mang trọng âm, cộng với một CV hoặc

VC không mang trọng âm phía trước như đã trình bày ở phần trước.

Thứ năm, tiếng Khmer khác với tiếng Việt ở chỗ, tiếng Việt có thanh điệu – với sáu thanh,

còn tiếng Khmer là một ngôn ngữ không có thanh điệu. Và âm tiết tiếng Khmer còn hiện tượng có

tổ hợp các phụ âm đầu.

Thứ sáu, trong cấu tạo của âm tiết tiếng Việt, nguyên âm là thành tố chính tạo nên âm tiết,

nghĩa là, âm tiết nhất thiết phải có nguyên âm, thậm chí một mình âm chính nguyên âm cũng có thể

làm thành âm tiết. Các mô hình cấu tạo âm tiết tiếng Việt có thể: CVVC, CVC, CV, VC, V (trong

đó, C là phụ âm, V là nguyên âm – có thể là nguyên âm đơn hoặc nguyên âm đôi). Còn trong tiếng

Khmer, âm tiết có thể được tạo nên chỉ có các phụ âm mà không nhất thiết phải có nguyên âm. Như

vậy, đảm nhiệm âm chính trong tiếng Khmer không chỉ là các nguyên âm mà còn là các phụ âm .

Thứ bảy, trên phương diện ngữ pháp, tiếng Việt và tiếng Khmer về cơ bản là giống nhau, từ

từ loại cho đến cấu trúc ngữ pháp. Tuy nhiên, cần lưu ý ở điểm khác biệt này:

Cấu tạo cụm danh từ trong tiếng Việt gồm thành tố chính, ba thành tố phụ trước và hai thành

tố phụ sau. Cụ thể: Đại từ chỉ tổng lượmg - Định từ – Định từ “cái”– Danh từ – Định ngữ miêu

tả– Định ngữ chỉ xuất [1, tr.209]

Ví dụ: Tất cả những cái tên đẹp đẽ ấy

Như vậy, trong cấu tạo cụm danh từ tiếng Việt, ta thấy phụ từ chỉ số lượng đứng trước

danh từ làm thành tố chính.

Cụm danh từ tiếng Khmer có cấu tạo: danh từ chính đi trước, và từ phụ đi sau (kể cả số từ),

những yếu tố phụ khác như tính từ, từ sở hữu và những mệnh đề quan hệ thường đứng giữa. Một

cấu trúc khác: danh từ + Định từ + Đại từ chỉ tổng lượng, theo trật tự thường gặp của ngữ danh từ.

Ví dụ:

Tiếng Việt Tiếng Khmer

Tất cả ba con bò. bò ba tất cả

1.3. Những vấn đề lí thuyết về vay mượn từ vựng

1.3.1. Khái niệm “vay mượn từ vựng”

Vay, mượn, vay mượn vốn là từ ngữ sử dụng trong đời sống hằng ngày được chuyển dùng

làm thuật ngữ ngôn ngữ học.

Vay: nhận tiền hay vật của người khác để sử dụng với điều kiện sẽ trả lại bằng cái cùng loại ít

nhất có số lượng hoặc giá trị tương đương.

Mượn: lấy của người khác để dùng trong một thời gian rồi sẽ trả lại, với sự đồng ý của người

đó.

Vay mượn: vay (nói khái quát).[dẫn theo 19, tr.24]

Theo Nguyễn Văn Khang, có hai trường hợp diễn ra trong việc vay mượn từ của một ngôn

ngữ.

Thứ nhất, là vay mượn do không có, thiếu với nội dung “ thiếu thì phải vay mượn”, “ thiếu

cái gì thì vay mượn cái đó, trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ nếu thiếu các đơn vị từ vựng thì về

lí thuyết (hay nguyên tắc) có thể vay mượn từ vựng của ngôn ngữ đang có. Chẳng hạn, tiếng Việt

vay mượn các từ ngữ chỉ các bộ phận xe của tiếng Pháp ( dưới dạng phỏng âm): guidon: ghi- đông,

enveloppe: lốp, chambre à air: săm, frein / freiner: phanh...

Thứ hai, có sẵn rồi nhưng vẫn vay mượn. Bên cạnh việc vay mượn do thiếu, còn có kiểu vay

mượn các đơn vị từ vựng nước ngoài mà bản thân hệ thống từ vựng của ngôn ngữ đó đã có từ biểu

thị. Ví dụ, tiếng Việt du nhập những từ gốc Hán khi đã có sẵn các từ có nghĩa tương đương trong

tiếng Việt: chết / hi sinh / từ trần; nhớ / tưởng / tưởng niệm; buồn / sầu / sầu não, ... [19, tr. 24, 25]

Xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “ từ vay mượn” còn tồn tại các tên gọi khác nhau. Chẳng

hạn trong tiếng Anh có một số thuật ngữ chỉ từ vay mượn :

(1) Loan chỉ đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ khác, được ngôn ngữ đi vay sử dụng. Tiếng Việt

tương đương: từ mượn, từ ngoại lai.

(2) Loan word chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ hay phương ngữ khác, được ngôn ngữ đi vay

sử dụng thông qua thủ pháp dịch âm, phỏng dịch. Tiếng Việt tương đương: từ ngoại lai .

(3) Loan translation / calque chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn mgữ hay phương ngữ khác, được

ngôn ngữ đi vay sử dụng thông qua thủ pháp dịch âm, phỏng dịch. Tiếng Việt tương đương: phỏng

dịch, dịch, can – ke ngữ nghĩa.

(4) Loan blends chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn mgữ hay phương ngữ khác bằng phương thức

pha tạp giữa một phần ngữ âm mượn và một phần ngữ âm của ngôn ngữ đi vay. Tiếng Việt tương

đương: từ hỗn hợp ngoại lai.

(5) Borrowed/Borrowing (word) chỉ các đơn vị từ vựng được mượn từ ngôn ngữ khác, bất kể là

đồng hóa hay chưa đồng hóa về hình thức hay nội dung (tức là còn nguyên dạng hay là đã thay đổi

ít nhiều).Tiếng Việt tương đương: từ mượn, từ vay mượn.

(6) Hybrid word chỉ các đơn vị từ vựng phức hợp được cấu tạo từ các thành phần có nguồn gốc từ

ngôn ngữ cho vay và ngôn ngữ đi vay. Tiếng Việt tương đương: từ hỗn chủng, từ hỗn huyết.

(7) Alien word chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ khác nói chung. Alien có nghĩa là “ ngoại

quốc”, nên alien word để chỉ “từ nước ngoài” nói chung. Tiếng Việt tương đương: từ ngoại quốc,

từ nước ngoài.

(8) Foreign word chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ khác.Tiếng Việt tương đương: từ ngoại

quốc, từ nước ngoài.

Cách dùng thông dụng, phổ biến hiện nay là borrowed word, loan word. Tương ứng, trong

tiếng Việt hiện đang sử dụng ba cách gọi: từ vay mượn, từ mượn, từ ngoại lai.[19, tr.27, 28]

1.3.2. Vay mượn từ vựng với vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ

1.3.2.1. Tiếp xúc ngôn ngữ

Có thể khẳng định rằng, vay mượn từ vựng là hệ quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các

ngôn ngữ có nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ. Vì thế, khi xem xét vay mượn từ vựng không thể

không nói đến tiếp xúc ngôn ngữ.

Thuật ngữ “tiếp xúc ngôn ngữ”do André Martinet là người đưa ra đầu tiên và sau đó được sử

dụng rộng rãi nhờ sự ra đời của tác phẩm Languages in contact của U. Weinrich. Tiếp xúc ngôn ngữ

là hiện tượng phổ biến đối với mọi ngôn ngữ trên thế giới. Nó xảy ra khi con người bao gồm cá

nhân hay cộng đồng người sử dụng hai hay nhiều ngôn ngữ. Hay nói cách khác , tiếp xúc ngôn ngữ

xuất hiện khi có hiện tượng song ngữ / đa ngữ dưới tác động của các nhân tố ngôn ngữ - xã hội.[

19, tr.29]

Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ cũng là nhắc đến hai hàm ý:

a) Sự tiếp xúc ở mặt cấu trúc, hay còn gọi là sự tiếp xúc trong nội bộ ngôn ngữ. Đây chính là

mối quan hệ tương tác, sự tác động lẫn nhau giữa hai hoặc hơn hai ngôn ngữ trong bộ óc của một

người. Sự tiếp xúc này nảy sinh ảnh hưởng về mặt cấu trúc. Hệ quả của sự tiếp xúc này là sự vay

mượn hay sự thẩm thấu các thành phần cũng như các phương thức , thậm chí làm thay đổi các quy

tắc, thay đổi hệ thống và cấu trúc, đến mức có thể gây nên sự pha trộn giữa hai ngôn ngữ làm nảy

sinh ra một ngôn ngữ mới.

b) Sự tiếp xúc bên ngoài của ngôn ngữ, hay còn gọi là sự tiếp xúc ở mặt ứng dụng. Đó là việc

người sử dụng hai hoặc hơn hai ngôn ngữ, làm nên hiện tượng đa ngữ trong sử dụng (thay thế nhau

hoặc cùng sử dụng).

Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến tính định hướng của nó, hay nói cách khác là

“hướng tác động”, hướng ảnh hưởng giữa các ngôn ngữ: có thể đó là ảnh hưởng của ngôn ngữ đang

sử dụng tới ngôn ngữ tiếp thu hoặc ngược lại, có khi lại là sự tác động tương hỗ. Tính phương

hướng này được quyết định ở hàng loạt các nhân tố như tính mục đích của việc học tập, tần số ứng

dụng, mức độ thuần thục, bối cảnh ngôn ngữ, bối cảnh văn hóa,...

Trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, do có sự tác động, mối quan hệ và ảnh hưởng lẫn nhau

giữa các ngôn ngữ có thể nảy sinh một trạng thái biến thể, đó là hình thức interlanguage (ngôn ngữ

trung gian). Thông thường, đây là hình thức biến thể do ảnh hưởng từ ngôn ngữ cơ sở đến ngôn ngữ

đích và do vậy, nền tảng của interlanguage là hệ thống của ngôn ngữ đích. Nói cách khác, đó là

hình thức biến thể của ngôn ngữ đích và chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ cơ sở. Cũng có khi hình thức

biến thể là ngôn ngữ nguồnvà chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ nguồn đến ngôn ngữ đích. Tuy nhiên,

nếu nhìn nhận từ góc độ hình thành biến thể thì giữa chúng có những khác biệt. Biến thể

interlanguage được hình thành từ sự ảnh hưởng của ngôn ngữ cơ sở tới ngôn ngữ đích. Đây là quá

trình động của việc học tập, tiếp thu ngôn ngữ và thường không ổn định do phụ thuộc vào quá trình

học tập và sử dụng ngôn ngữ đích. Về mặt kết quả, rất có thể interlanguage được “ổn định hóa” tạo

ra biến thể hoặc hình thức biến thể do ngôn ngữ đích.[ 19, tr.30 - 31]

Nói đến nhân tố xã hội tức là nói đến tính cộng đồng xã hội. Chẳng hạn, khi hai dân tộc nói

hai ngôn ngữ khác nhau mà tiếp xúc với nhau thì xu hướng chung là:

- Ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trị cao hơn sẽ ảnh hưởng đến ngôn

ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trị thấp hơn.

- Ngôn ngữ của dân tộc có trình độ văn hóa cao hơn sẽ ảnh hưởng đến ngôn ngữ của dân tộc

có trình độ văn hóa thấp hơn (thường thông qua các kênh giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, văn học,...).

- Ngôn ngữ của dân tộc có số lượng người nói đông hơn sẽ ảnh hưởng tới ngôn ngữ của dân

tộc có số lượng người nói ít hơn.

- Quan hệ dân tộc cũng có tác dụng khống chế, điều tiết đối với quá trình tiếp xúc ngôn ngữ.

Mức độ quan hệ và tính mật thiết của các mối quan hệ này sẽ có tác dụng làm tăng hay giảm tốc độ

tiếp xúc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ.

- Quan hệ tôn giáo giữa các dân tộc cũng sẽ kéo theo sự tiếp xúc và ảnh hưởng giữa các ngôn

ngữ.

Nói đến nhân tố xã hội cũng là nói đến nhân tố chính trị - xã hội để tạo nên hai xu hướng

chính trong tiếp xúc ngôn ngữ: tiếp xúc tự giác và tiếp xúc cưỡng bức. Nói đến nhân tố ngôn ngữ là

nói đến bản thân ngôn ngữ, bao gồm sức thẩm thấu ngôn ngữ , mức độ quan hệ thân thuộc giữa các

ngôn ngữ, giữa các ngôn ngữ có chữ viết, giữa các ngôn ngữ không có chữ viết, giữa ngôn ngữ có

chữ viết và ngôn ngữ không có chữ viết,... Chẳng hạn, khi các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau thì:

- Ngôn ngữ có sức thẩm thấu mạnh thường dễ dàng tiếp thu ảnh hưởng của ngôn ngữ khác.

- Những ngôn ngữ có quan hệ thân thuộc hoặc cùng, gần nhau về loại hình thì dễ chịu ảnh

hưởng của nhau và vay mượn lẫn nhau.

- Ngôn ngữ không có chữ viết rất dễ chịu ảnh hưởng và tiếp thu các yếu tố của ngôn ngữ có

chữ viết.

Về con đường tiếp xúc (bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp) dẫn tới ảnh hưởng ngôn ngữ, có

thể chia làm ba loại:

Thứ nhất, ảnh hưởng của khẩu ngữ thông qua tiếp xúc thường xuyên giữa thành viên của các

dân tộc nói các ngôn ngữ khác nhau. Có hai điều kiện cho phép xảy ra: (a) hai dân tộc có quan hệ

mật thiết với nhau trong đời sống hàng ngày, thông qua sự tiếp xúc trực tiếp làm nảy sinh ảnh

hưởng giữa các ngôn ngữ, (b) ngôn ngữ chịu ảnh hưởng mạnh hơn, thường là ngôn ngữ không có

chữ viết.

Thứ hai, ảnh hưởng của sách vở. Đó là ảnh hưởng từ trong sách vở, sau đó mới ảnh hưởng ra

ngoài đời sống. Một trong những con đường ảnh hưởng của sách vở là thông qua dịch thuật. Tất

nhiên, điều kiện tiên quyết để có sự ảnh hưởng này là các ngôn ngữ đó phải có chữ viết.

Thứ ba, ảnh hưởng của cả khẩu ngữ và sách vở. Sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra ở các ngôn ngữ

có đủ các điều kiện của cả ảnh hưởng khẩu ngữ (tiếp xúc hằng ngày) và ảnh hưởng của sách vở

(cùng có chữ viết).

1.3.2.2. Vay mượn từ vựng với các hệ quả khác của sự tiếp xúc ngôn ngữ

Trong xã hội đa ngữ, các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Hệ quả của sự

ảnh hưởng này biểu hiện chủ yếu ở giao thoa, vay nượn và pha trộn (lai tạp). Vậy, với tư cách cùng

là hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ, vay mượn từ vựng có quan hệ như thế nào với các hiện tượng

khác?

(1) Vay mượn từ vựng với hiện tượng giao thoa ngôn ngữ

Giao thoa, (interference) vốn là thuật ngữ vật lí học “chỉ hiện tượng hai hay nhiều sóng làm

tăng cường hay làm suy yếu lẫn nhau khi gặp nhau tại cùng một điểm” được dùng trong ngôn ngữ

học. Trong ngôn ngữ học, giao thoa là hiện tượng chệch chuẩn của tiếng mẹ đẻ dưới tác động của

ngôn ngữ thứ hai hoặc hiện tượng chệch chuẩn của ngôn ngữ thứ hai dưới tác động của tiếng mẹ đẻ

ở những người song ngữ/ đa ngữ. Với cách nhìn này, giao thoa dùng để chỉ hiện tượng tác động qua

lại giữa cấu trúc và các yếu tố của cấu trúc của hai hoặc hơn hai ngôn ngữ trong môi trường song

ngữ / đa ngữ. Như vậy, giao thoa chỉ xảy ra trong các ngôn ngữ có quan hệ tiếp xúc với nhau (tức là

khi các ngôn ngữ tiếp xúc gián tiếp – không có môi trường đa ngữ thì sẽ không có hiện tượng giao

thoa). Tuy có những quan niệm khác nhau về giao thoa, nhưng cho đến nay, nổi lên là một cách

nhìn nhận giao thoa từ hai bình diện sau:

Khi tồn tại trạng thái song ngữ/đa ngữ (cá nhân hay cộng đồng) thì sẽ xảy ra hiện tượng giao

thoa ở các cấp độ của cấu trúc ngôn ngữ. Điều đó có nghĩa là, khi nghiên cứu hiện tượng song

ngữ/đa ngữ không thể không nghiên cứu tương quan giữa các cấu trúc và các yếu tố trong cấu trúc

của hai (hoặc hơn hai) ngôn ngữ, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa

các cấp độ của hai ngôn ngữ (âm vị học, hình thái học, từ vựng – ngữ nghĩa, phong cách học). Riêng

ở bình diện từ vựng, sự thể hiện rõ nhất là sự mượn từ để tạo thành từ mượn (“từ mượn” ở đây được

hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả yếu tố tạo từ).

Từ một bình diện khác, nghiên cứu hiện tượng song ngữ/đa ngữ không nhằm làm sáng tỏ

hiện tượng giao thoa trên các cấp độ khác nhau của cấu trúc ngôn ngữ mà nhằm làm sáng tỏ toàn bộ

những hiểu biết về từng ngôn ngữ cụ thể (hoặc lớn hơn là nhóm ngôn ngữ) để có thể sử dụng chúng

làm phương tiện giao tiếp, truyền đạt điều mình muốn thể hiện cho người khác và lĩnh hội điều

người khác muốn truyền đạt.

Mặc dù cùng là hệ quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ nhưng giữa giao thoa và vay mượn có

những điểm khác nhau chủ yếu:

- Vay mượn có thể xảy ra trong sự tiếp xúc, nhiều khi là sự tiếp xúc hời hợt với thời gian

ngắn ngủi, thậm chí cả khi không có sự tiếp xúc trực tiếp của hai cư dân ngôn ngữ (thường qua hình

thức viết của ngôn ngữ mượn). Nhưng giao thoa thì chỉ có thể xảy ra trong quá trình tiếp xúc trực

tiếp, lâu dài của cư dân khác ngôn ngữ.

- Vay mượn không tác động lên cấu trúc của ngôn ngữ, không đưa vào ngôn ngữ mượn

những nét rõ rệt. Trong khi đó thì giao thoa, trong điều kiện thuận lợi, có thể tạo nên những biến đổi

đáng kể trong cấu trúc bên trong của hệ thống ngôn ngữ.

- Trong vay mượn, các yếu tố vay mượn có thể rời rạc, không thành hệ thống. Còn giao thoa

thì lại gắn liền với tác động của các mối quan hệ vốn có giữa hai ngôn ngữ. Nếu cho rằng tiếp xúc

ngôn ngữ nhằm vào cơ chế vận hành của ngôn ngữ ở đằng sau vô số hiện tượng cụ thể thì giao thoa

là biểu hiện sinh động nhất, rõ nét nhất của tiếp xúc ngôn ngữ. Bởi tiếp xúc ngôn ngữ có thể dẫn đến

những thay đổi về mặt cấu trúc của một ngôn ngữ mà thể hiện là ở giao thoa.

Vì thế, có thể nói rằng, vay mượn đặc trưng cho hệ thống ít chặt chẽ của ngôn ngữ, còn giao

thoa đặc trưng trước hết cho hệ thống được tổ chức nghiêm ngặt về cấu trúc ngôn ngữ.

(2) Vay mượn từ vựng với hiện tượng chuyển mã trong giao tiếp

Chuyển mã (codes switching) là việc sử dụng hai hoặc trên hai biến thể ngôn ngữ trong một

lần đối thoại. Điều kiện cho sự chuyển mã trong giao tiếp là phải có môi trường đa ngữ, trong đó

người tham gia giao tiếp phải là người song/đa ngữ. Chuyển mã là một chiến lược hội thoại dùng để

xây dựng, vạch ra hoặc phá vỡ các hàng rào chắn, sáng lập, hủy bỏ hoặc thay đổi các quan hệ tương

tác với quyền lợi và nghĩa vụ. Chuyển mã là do thói quen nhưng có khi cũng do cố ý hay vô tình.

Phân biệt giữa chuyển mã với vay mượn từ ngữ trong phát ngôn (câu) là một vấn đề khá

phức tạp. Tuy nhiên, vẫn có thể tìm ra được những sự khác nhau giữa chúng như sau:

Trong một xã hội đa ngữ, rất có thể có một số từ ngữ bắt đầu chỉ do sử dụng theo chuyển mã

thuần túy nhưng rồi, do dùng lâu, dùng lặp lại nhiều lần mà dần dần trở thành từ mượn. Sự khác

nhau cơ bản giữa chuyển mã và vay mượn thể hiện ở chỗ: chuyển mã chỉ có được ở những người đa

ngữ, còn vay mượn từ vựng thì không; các mã ngôn ngữ trong giao tiếp chuyển mã phải đảm bảo

tính “chuẩn mực” của mỗi ngôn ngữ, còn các từ ngữ vay mượn thì phải được đồng hóa (đã được ổn

định trong ngôn ngữ vay mượn), có thể dùng lặp đi lặp lại, còn chuyển mã chỉ là một hình thức vận

dụng ngôn ngữ.

(3) Vay mượn từ vựng với hiện tượng trộn mã trong giao tiếp

Trộn mã (codes mixing, MIX) là hiện tượng khi giao tiếp, thành phần mã ngôn ngữ A ở mức

độ nhất định nhập vào mã ngôn ngữ B. Mã ngôn ngữ B chiếm vị trí chủ đạo, còn mã ngôn ngữ A

chỉ có vai trò thứ yếu, có tính chất bổ sung và người sử dụng không có ý thức dùng nó như mã ngôn

ngữ B. Nếu điều kiện ở chuyển mã là hai mã ngôn ngữ phải được sử dụng “chuẩn mực” như nhau

thì trộn mã chỉ được cảm nhận là có một mã ngôn ngữ (mã kia là thêm vào và chịu ảnh hưởng của

mã chính nên thường không được giữ chuẩn mực vốn có).

Trộn mã khác với vay mượn ở chỗ: vay mượn từ vựng thường là hành vi ngôn ngữ của người

đơn ngữ, còn trộn mã thường là hành vi ngôn ngữ trong nội bộ nhóm những người sử dụng song

ngữ. Mặt khác, thành phần ngôn ngữ được vay mượn thường chịu sự “đồng hóa” của ngôn ngữ đi

vay, còn trộn mã thường bảo lưu thành phần vốn có.

1.3.4. Các phương thức vay mượn từ vựng

Tác giả Nguyễn Văn Khang cho rằng việc tách ra để phân tích các bình diện vay mượn của

từ có thể nhìn nhận một cách tổng thể sự vay mượn từ vựng được diễn ra theo các cách thức sau:

1.3.4.1. Dịch nghĩa (can – ke ngữ nghĩa)

Đây là phương thức dịch từ ngữ. Cách làm này cho thấy chỉ có nội dung (ngữ nghĩa) là được

vay mượn, còn toàn bộ hình thức bao gồm ngữ âm, chữ viết, hình thái - cấu trúc là của ngôn ngữ đi

vay. Truyền thống ngôn ngữ học gọi cách vay mượn này là ca -ke ngữ nghĩa (calque) hay dịch (loan

translation).Ví dụ:Ubermensch : supperman, Weltanschauung: word - view (tiếng Đức mượn của

tiếng Anh).

1.3.4.2. Phiên âm

Phiên âm là phương thức vay mượn từ vựng bằng cách dựa trên (phỏng theo) âm đọc của từ

ngữ cho vay để ghi lại từ ngữ đó bằng cách đọc, cách viết của ngôn ngữ đi vay. Tất nhiên là mỗi

ngôn ngữ đều cố gắng xây dựng cho mình một phương thức phiên âm mang tính nguyên tắc.

- Đối với tiếng Nga, các từ được phiên âm sang tiếng Nga thường gắn với các đặc điểm của

tiếng Nga như đặc điểm ngữ âm, đặc điểm hình thái về giống, số, cách của từ tiếng Nga. Ví dụ: pop

, non, printer: npuнmep ; laser disd: πɑɜepʜɓɩŭ ɗucĸ, showroom: ɯοуpум

- Đối với tiếng Việt, nếu như trước đây, tức là những năm 60, 70 của thế kỉ XX, người ta chỉ

nhắc tới “phiên âm” thì gần đây lại xuất hiện khái niệm “phiên chuyển” – đó là sự kết hợp giữa

phiên âm và chuyển tự. Ví dụ:

+ Phiên âm: a- xít (acide), ca- vát/ cra- vát (cravate), cao-bồi (cowboy), cà- phê (café).

+ Phiên chuyển: mi-lô (milo) (nghiêng về chữ); va len-tin (nghiêng về chữ), va len thai

(nghiêng về âm đọc – valentine)

+ Kết hợp phiên âm và dịch nghĩa: cùng sử dụng hai hình thức cho một từ mượn (một bộ

phận xử lí bằng phương thức phiên âm, còn một bộ phận kia xử lí bằng phương thức chuyển dịch).

Ví dụ: internet: Sanyo: coca- cola

+ Kết hợp giữa phiên âm với việc thêm yếu tố chỉ loại.Ví dụ: tank: (tan ke +

che), neon: (ni hong + deng).

1.3.4.3. Chuyển tự

Phương thức này được thực hiện giữa các ngôn ngữ không cùng hệ văn tự. Chẳng hạn như sự

vay mượn giữa tiếng Anh (thuộc hệ chữ cái La-tinh) với tiếng Nga (ngôn ngữ thuộc hệ chữ Ki- rin)

1.3.4.4. Mượn nguyên dạng của nguyên ngữ

Cách vay mượn này thể hiện ở hình thức chữ viết: sử dụng nguyên cách viết chính tả đơn vị

từ vựng của ngôn ngữ cho vay; còn cách đọc thì cố gắng đọc sát với cách đọc của nguyên ngữ. Ví

dụ, trong tiếng Việt những năm gần đây xuất hiện các từ tiếng Anh nguyên dạng trong một số loại

hình văn bản tiếng Việt (nhất là những văn bản mang tính chuyên ngành): stress, heroin, maketing,

computer, pressing,.. Một số ít các từ ngữ Hán cũng đã bắt đầu xuất hiện trong văn bản tiếng Việt

dưới dạng nguyên dạng phiên âm La – tinh (gongfu, wushu). [19, tr.51, 52, 53]

Tiểu kết

Tiếp xúc ngôn ngữ là một vấn đề tất yếu. Quá trình tiếp xúc sẽ làm thay đổi cấu trúc bên

trong của các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau và đưa đến các hệ quả như: sự vay mượn ngôn ngữ; sự

giao thoa; chuyển mã, trộn mã trong giao tiếp; sự lai tạp ngôn ngữ. Trong đó, vay mượn từ vựng là

một trong những hệ quả tất yếu của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ trong sự tiếp xúc. Và

vay mượn từ vựng có quan hệ với các hệ quả khác của tiếp xúc ngôn ngữ. Việc vay mượn từ vựng

xảy ra theo các phương thức: dịch nghĩa, phiên âm, chuyển tự và mượn nguyên dạng của nguyên

ngữ.

Khi hai ngôn ngữ tiếp xúc với nhau, xu hướng chung là: ngôn ngữ có ưu thế về kinh tế, chính

trị, văn hóa, về số lượng người của dân tộc,.... hơn sẽ ảnh hưởng mạnh hơn đến ngôn ngữ yếu thế

hơn. Mặt khác, xu hướng tiếp xúc còn thể hiện ở: ngôn ngữ có sức thẩm thấu mạnh thường dễ dàng

tiếp thu, ảnh hưởng của ngôn ngữ khác; những ngôn ngữ có quan hệ thân thuộc hoặc cùng, gần nhau

về loại hình thì dễ chịu ảnh hưởng của nhau và vay mượn lẫn nhau; ngôn ngữ không có chữ viết rất

dễ chịu ảnh hưởng và tiếp thu các yếu tố của ngôn ngữ có chữ viết.

Về con đường tiếp xúc dẫn tới ảnh hưởng ngôn ngữ, thì có ba loại: ảnh hưởng của khẩu ngữ

thông qua tiếp xúc thường xuyên giữa thành viên của các dân tộc nói các ngôn ngữ khác nhau; ảnh

hưởng của sách vở, ảnh hưởng của cả khẩu ngữ và sách vở.

Sự hình thành vùng đất Nam Bộ với sự hợp cư của các dân tộc nói các ngôn ngữ khác nhau

là điều kiện cho sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với tiếng Khmer. Quan hệ nguồn gốc; đặc điểm loại

hình, đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ tiếng Việt; đặc điểm loại hình, đặc điểm tiếng Khmer

Nam Bộ cùng với những điểm tương đồng và dị biệt sẽ ảnh hưởng đến sự vay mượn từ vựng lẫn

nhau giữa hai ngôn ngữ.

CHƯƠNG 2: LỚP TỪ NGỮ TIẾNG KHMER VAY MƯỢN TIẾNG VIỆT VÀ LỚP TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG KHMER

2.1. Kết quả khảo sát và thống kê lớp từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt và lớp từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer

Qua việc khảo sát, thống kê, chúng tôi thu thập được khoảng 830 từ. Trong đó, số lượng từ

mà tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt là khoảng 560 từ và tiếng Việt vay mượn từ tiếng Khmer

là khoảng 270 từ.

Qua lớp từ thu thập được, chúng tôi nhận thấy rằng số lượng các từ tiếng Khmer vay mượn

từ tiếng Việt nhiều hơn số lượng từ mà tiếng Việt vay mượn từ tiếng Khmer. Nếu xem xét các từ

vay mượn này ở các lĩnh vực sinh hoạt của đời sống thì các từ ngữ được tiếng Khmer vay mượn của

tiếng Việt có mặt ở rất nhiều lĩnh vực của đời sống như: giáo dục, y tế, kinh tế, chính trị, quân sự,..;

tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt cả các từ ngữ văn hóa đến các từ ngữ thường dùng trong đời

sống sinh hoạt hằng ngày. Trong khi đó, những từ mà tiếng Việt vay mượn từ tiếng Khmer chỉ được

tìm thấy nhiều trong các tên ấp, tên làng, tên chùa, tên lúa, tên các cây cầu và một số lượng rất ít các

từ ngữ được dùng trong sinh hoạt hằng ngày.

2.2. Phương thức vay mượn từ ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer

2.2.1. Phương thức tiếng Khmer vay mượn từ ngữ tiếng Việt

2.2.1.1.Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Việt sang tiếng Khmer

Theo phương thức dịch nghĩa, các từ ngữ tiếng Việt được tiếng Khmer vay mượn chủ yếu

theo cách dịch từng thành tố hoặc từng từ trong từ hoặc ngữ. Nghĩa của cả tổ hợp trong tiếng Khmer

là kết quả dịch từng thành tố trong tổ hợp tương ứng từ tiếng Việt.

Xét về mặt trật tự cấu trúc của tổ hợp, vì cấu trúc ngữ pháp của tiếng Việt và tiếng Khmer có

nhiều điểm giống nhau, chỉ khác là trong cấu trúc của cụm danh từ, phụ từ chỉ số lượng đứng sau

danh từ chính.Vì vậy, trật tự các thành tố trong tiếng Việt khi được dịch sang tiếng Khmer hầu như

không có sự thay đổi.Về mặt nghĩa, có thể nói rằng các từ tố trong tiếng Việt được “dịch sát nghĩa”

sang tiếng Khmer. Điều này làm cho một số từ được dịch có vẻ “hơi thô”, hơi “không quen tai”

trong tiếng Khmer.

Từ “áo dài” của tiếng Việt được dịch: áo -> ào/ao, dài -> wêng/wềng (w bật hơi) => áo dài ->

ào wêng/wềng.

“ ống nước”: ống -> phòng (ph hai môi), nước -> tức => ống nước -> phòng tưc.

“áo lạnh”: áo -> ào/ao, lạnh -> lnghè (ng bật hơi)/lnghia => áo lạnh -> ào lnghè/lnghia.

“áo mưa”: áo ->ào / ao, mưa -> phliêng (ph hai môi) => áo mưa -> ào phliêng.

“xương”: xương -> ch - ần / ân.

“hoa mười giờ”: hoa -> pcà / pca, mười -> đọp/đop, giờ -> mồn/môn => hoa mười giờ -> pcà

mồn/môn đop/đọp.

“ăn sáng”: ăn -> xi, sáng -> p – hem/p - hiem => ăn sáng -> xi p- hem/p - hiem.

“đau mắt”: đau -> chư (ch bật hơi, ư dài và hẹp hơn), mắt -> phnec (ph hai môi, e phát âm

giữa ê và e) => đau mắt -> chư phnec.

“cải xanh): cải -> xpèi / xpei, xanh -> khêu => cải xanh -> xpei khêu.

“cải trắng”: cải -> xpèi (p bật hơi)/xpei, trắng ->xo => cải trắng -> xpei xo.

“cải gỗ”: cải -> xpèi (p bật hơi)/xpei, gỗ -> chhơ” =>cải gỗ -> xpèi (p bật hơi)/xpei chhơ.

“bông giấy”: bông -> pcà/pca, giấy -> cđặ/cđă => bông giấy -> pcà/pca cđặ/cđă.

“đậu xanh”: đậu -> đẹt (e giữa ê và e), xanh -> khiêu => đậu xanh -> đẹt khiêu.

“đậu trắng”: đậu -> đẹt (e giữa ê và e), trắng -> xo =>đậu trắng -> đẹt xo.

“đậu đen”: đậu -> đẹt (e giữa ê và e), đen -> khmâu (m bật hơi) =>đậu đen -> đẹt khmâu.

“quần tây”: quần -> khô (ô phát âm giữa ô và o), tây> prằng/prăng =>quần tây -> khô

prằng/prăng.

Các trường hợp “cải bắp/bắp cải”, “củ cải trắng”, “cải dúng”, “bông cải”, “nước đá”, “dầu

lửa”, cách dịch của tiếng Khmer có chỗ khác so với phương thức dịch các từ trên.

Với “cải bắp”, phương ngữ Nam Bộ có hai cách gọi, có thể gọi là “cải bắp” cũng có người

gọi là “bắp cải”. Tuy “cải bắp” hay “bắp cải” đều cùng định danh cho một loại họ cải nhưng hai từ

này, xét về mặt nghĩa cũng có chỗ khác cần phân biệt. “Cải bắp” là cách gọi tên một loại họ cải

bằng cách kết hợp từ chỉ loại chung “cải” với từ miêu tả đặc điểm của loại cải - “bắp”: những bẹ lá

xếp thành hình tròn và kết chặt lại với nhau tạo thành “bắp”. Còn “bắp cải” là từ để chỉ một bộ phận

là cái “bắp” của loại cải này. Như vậy, trong tiếng Việt, loại “cải bắp” có hai từ để biểu thị nhưng

một từ - “cải bắp”- dùng để chỉ loại cải trong sự phân biệt với các loại cùng họ khác như: cải ngọt,

cải xanh, cải trắng, cải dúng,...; từ thứ hai - “bắp cải”- dùng để chỉ một bộ phận - “bắp”- của loại

cải này. Tiếng Khmer có hai từ được dịch cho trường hợp này là xpei/xpei (p bật hơi) xpei/xpei tdôn

và xpei /xpei ộp/ôp. Tuy nhiên, hai từ này không mang nghĩa tương ứng với hai từ trong tiếng Việt.

Cả hai từ xpei/xpei tdôn và xpei/ xpei ộp/ôp đều để chỉ loại cải (cách định danh theo đặc điểm của

sự vật). Với xpei tdôn , đây là cách gọi tên theo đặc điểm là loại cải có bắp. Còn xpei ôp là cách gọi

tên theo đặc điểm: loại cải có những bẹ lá xếp thành hình tròn, kết chặt vào nhau như đang ôm lấy

nhau (ôp có nghĩa là ôm)

Cũng giống như cách định danh đối với “cải bắp”, loại cải có hoa rất to và người ta trồng để

lấy hoa, tiếng Việt cũng có hai từ để biểu thị với tính chất và cách dùng tương tự như trường hợp

“cải bắp”. Từ “cải bông” để chỉ loại cải trên và “bông cải” để chỉ phần bông của loại cải đó. Nhưng

khác với trường hợp “cải bắp”, với cải bông/bông cải, tiếng Khmer chỉ dịch “cải bông” thành “xpèi

(p bật hơi)/xpei pca/pcà” (cải -> xpèi (p bật hơi)/xpei, bông -> pca/pcà). Và “xpèi (p bật hơi)/xpei

pca/pcà” được dùng chung cho cả hai trường hợp: khi muốn nói đến loại cải và khi chỉ muốn nói

đến phần bông của nó. Tiếng Khmer cũng có từ pcà/pca xpei/xpèi (bông cải) nhưng pcà/pca

xpei/xpèi không có nghĩa như trong tiếng Việt, tức chỉ phần bông của loại cải này mà khi nói

pcà/pca xpei/xpèi , người Khmer lại chỉ phần bông của họ cải nói chung và chủ yếu là chỉ phần

bông của loại cải ngọt. Vì so với các loại cải khác được trồng ở đồng bằng sông Cửu Long, cải ngọt

là loại cải sớm ra hoa, người trồng chỉ cần vì lí do nào đó mà không thu hoạch kịp, để cải quá lứa thì

nó sẽ ra hoa. Và như vậy, phần cải đó xem như hết giá trị. Tuy nhiên, người trồng tiếc của, vẫn có

thể tận dụng phần bông cải này để làm thức ăn.

Tiếng Việt gọi “cải dúng” để chỉ loại cải có đặc điểm là: lá không thẳng mà đùn lại tạo thành

những nếp phòng. “Dúng” trong tiếng Việt có nghĩa là bị làm cho đùn lại thành nhiều nếp gấp, có

khi những nếp gấp này có độ đàn hồi. Còn “quăn”/“quắn” có nghĩa là xoăn. Tiếng Khmer có từ

tương ứng với “dúng”là “chruôl (ch, r bật hơi)”, tương ứng với “quăn”/“quắn” là “c - nhinh”. Khi

dịch “cải dúng”, đúng ra phải dịch là : cải > xpei/xpèi, dúng -> chruôl => cải dúng > xpei/xpèi

chruôl, tiếng Khmer lại dịch thành “xpei/xpèi c - nhinh”, tức cải quăn.

Tiếng Việt dùng “củ cải trắng” để gọi tên một loại củ cải trong sự phân biệt với một loại củ

cải khác là củ cải đỏ (củ cà rốt). Trong cách định danh này, tiếng Việt dùng từ chỉ bộ phận “củ” kết

hợp với từ chỉ loại “cải” và từ chỉ màu sắc của củ “trắng”. Tiếng Khmer có ba từ để biểu thị: “xpei

mơm (m không bật hơi)/mờm (m bật hơi)”, “mơm/mờm xpei” và “mơm/mờm xpei xo”. Trong đó,

“xpei mơm/mờm” và “mơm/mờm xpei” là của tiếng Khmer. “Xpei mơm/mờm” để chỉ một loại họ

cải, lấy củ, củ màu trắng. Còn “mơm/mờm xpei” chỉ phần củ của cải này. Trong quá trình tiếp xúc

với tiếng Việt, tiếng Khmer có thêm từ “mơm/ mờm xpei xo”. Đây là từ được “dịch sát nghĩa” từ

“củ cải trắng (củ -> mơm/mờm, cải -> xpei, trắng -> xo)” của tiếng Việt.

Từ “nước đá” của tiếng Việt được dịch thành “tưc cọt” trong phương ngữ Khmer Trà Vinh

và dịch thành “ tưc thmo” trong phương ngữ Khmer Sóc Trăng. “ Tức thmo” được “dịch sát” từ

“nước đá” (nước -> tưc, đá -> thmo => nước đá -> tưc thmo). Trong “nước đá”, “đá” đã có sự

chuyển nghĩa để chỉ nước đã đông ở nhiệt độ thấp, ở thể rắn, cứng như đá. Còn “tưc cọt” là dịch

theo nét nghĩa “nước đông ở nhiệt độ thấp”.

“Dầu lửa” của tiếng Việt cũng được tiếng Khmer dịch theo hai phương ngữ khác nhau.

Phương ngữ Sóc Trăng dịch là “prêng phlơng” còn phương ngữ Trà Vinh thì dịch là “khlanh đạch”.

“Prêng phlơng” là từ được dịch sát từng thành tố từ “dầu lửa”: dầu -> prêng, lửa -> phlơng => dầu

lửa -> prêng phlơng. Cách định danh “dầu lửa” của tiếng Việt là cách định danh theo chức năng,

công dụng của đối tượng: kết hợp từ chỉ loại chung “dầu” với công dụng của loại dầu này là để làm

nhiên liệu – đốt lửa. “Dầu lửa” là cách nói rút gọn của cách nói đầy đủ “dầu dùng để đốt lửa”. Tiếng

Khmer Trà Vinh cũng chọn cách dịch từng từ tố: từ chỉ loại chung “dầu” và từ chỉ công dụng nhưng

không chọn dịch từ theo cách nói rút gọn theo tiếng Việt mà chọn dịch từ trung tâm thể hiện công

dụng của đối tượng - “đốt”. “Đốt” dịch sang tiếng Khmer là “đạch”. Một điểm khác giữa tiếng

Khmer Sóc Trăng và Khmer Trà Vinh là, đối với Khmer Sóc Trăng, tất cả các loại dầu (từ dầu ăn,

dầu gió đến dầu hỏa) đều được gọi chung là “prêng”. Tiếng Khmer Trà Vinh phân biệt: gọi là

“prêng” các trường hợp như dầu gió, dầu được chiết xuất từ thực vật (dầu mè, dầu dừa, dầu lạc/đậu

phọng), nhưng khi các dầu thực vật này được tiếng Việt gọi là “dầu ăn” thì Khmer Trà Vinh cũng

gọi “dầu/dù (d bật hơi) ăn”; còn các loại mỡ động vật và dầu hỏa thì được gọi là “khlanh”. Vì vậy,

tiếng Khmer Trà Vinh đã dịch “dầu lửa” thành “khlanh đạch”.

Trường hợp “bánh đồng tiền” khi được dịch sang tiếng Khmer cũng có chỗ cần phân tích.

“Đồng tiền” trong tiếng Việt tức là đồng tiền xu, phân biệt với tiền giấy (tất nhiên “đồng tiền” còn

có nghĩa là tiền nói chung). Sở dĩ một loại bánh được gọi là “bánh đồng tiền” là bởi vì nó có hình

dạng như đồng tiền xu: tròn, dẹp và mỏng. Tiếng Khmer dịch “bánh đồng tiền” thành “num/nùm (n

bật hơi), că/cặ”. Khi dịch “đồng tiền” thành “că/cặ”, tiếng Khmer đã làm mất đi ý nghĩa khu biệt của

“đồng tiền”, mất đi giá trị “gợi hình” của từ biểu thị. Bởi “că/cặ” trong tiếng Khmer là chỉ tiền nói

chung, không phân biệt tiền xu, tiền giấy hay tiền polimer.

Trường hợp “quần lót”, khi được dịch sang tiếng Khmer, đã xảy ra sự thay đổi về từ loại của

từ tố tham gia cấu tạo từ. “Quần” là danh từ, kết hợp với “lót” là động từ. Và từ này được dịch sang

tiếng Khmer như sau: “quần” -> khô (ô phát âm giữa ô và o), “lót” -> thnọp (n bật hơi)/thnop.Trong

tiếng Khmer, “thnọp (n bật hơi)/thnop” là danh từ, chỉ cái được dùng để lót. Nếu địch theo đúng từ

loại của “lót” (động từ) thì phải dịch là “throp/thrọp (r bật hơi)”. Như vậy, trong trường hợp này,

một từ tố của từ khi được dịch sang tiếng Khmer đã có sự thay đổi về mặt từ loại (từ động từ chuyển

thành danh từ), đi theo đó là sự chuyển nghĩa của từ (từ “lót” chuyển nghĩa thành “cái dùng để lót).

Nhìn chung, phần lớn các từ tiếng Việt được dịch sang tiếng Khmer theo nghĩa đen, nghĩa

gốc. Trường hợp từ tiếng Việt được dùng theo nghĩa bóng thì cũng được dịch bằng một từ mang

nghĩa bóng tương ứng trong tiếng Khmer.

Như đã khái quát ở trên, một số tổ hợp từ tiếng Việt khi được dịch sang tiếng Khmer thì tổ

hợp trở nên “hơi thô”, có vẻ gượng gạo, miễn cưỡng, không quen với cách nói của người Khmer

như:

“Ăn sáng”: ăn -> xi, sáng ->p – hem => ăn sáng -> xi p – hem.

“Gối ôm”: gối -> khnơi, ôm -> ộp/ôp => gối ôm -> khnơi ộp/ôp.

Tiếng Việt dùng “ăn sáng” với nghĩa điểm tâm, tức bữa ăn nhẹ vào buổi sáng. Người Khmer

có truyền thống sống bằng nghề nông. Họ cũng có khái niệm “ăn sáng” (xi p - hem) nhưng “ăn

sáng” của người Khmer không mang nghĩa “ăn nhẹ vào buổi sáng” mà là một bữa ăn vào buổi sáng:

ăn cho no, ăn nhiều để có sức làm việc, để giữ cho khỏi đói khi phải làm việc cho đến trưa, có khi

đến quá nửa trưa và thường đó là bữa cơm do gia đình thức dậy từ rất sớm để chuẩn bị, họ ăn để đi

làm đồng áng. Khi mức sống được nâng lên và cũng do bắt chước lối sống của người Việt, một số

người Khmer bắt đầu có thói quen ăn nhẹ vào buổi sáng, du nhập “ăn sáng” của tiếng Việt thành “xi

p - hem”. Từ đó, “xi p - hem” trong tiếng Khmer có thêm nghĩa là ăn điểm tâm.

Người Khmer gọi “gối ôm” là “khnơi wêng (w bật hơi, ê phát âm giữa e và ê)” (gối dài) để

phân biệt với gối để gối đầu. Nhưng khi tiếp xúc với tiếng Việt, tiếng Khmer “dịch sát nghĩa” “gối

ôm” (gối -> khnơi, ôm -> ộp/ôp) để có “khnơi ộp/ôp”.

2.2.1.2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Khmer

Cũng như sự vay mượn của tiếng Việt từ các ngôn ngữ khác như tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng

Anh,... khi tiếng Khmer vay mượn từ tiếng Việt, các từ tiếng Việt đi vào tiếng Khmer cũng chịu áp

lực của sự đồng hóa của tiếng Khmer. Sự đồng hóa này biểu hiện ở chỗ:

(1) Về thanh điệu:

Tiếng Khmer là ngôn ngữ không có thanh điệu, trong khi tiếng Việt có tất cả đến sáu thanh

điệu (thanh sắc, thanh huyền, thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng và thanh ngang). Vì vậy, khi các từ

tiếng Việt đi vào tiếng Khmer, nhiều trường hợp sẽ bị mất thanh điệu hoặc các thanh trắc (sắc, hỏi,

ngã, nặng) chuyển thành thanh bằng (thanh ngang, thanh huyền) và một số rất ít trường hợp chuyển

trong phạm vi thanh trắc.

(a) Mất các thanh trắc

Các từ đơn tiết tiếng Việt mang thanh trắc sẽ bị mất dấu thanh trong tiếng Khmer : máy ->

mây, toán -> ton , tiệm -> tim, mắm -> măm,..

Đối với từ hai âm tiết, có trường hợp cả hai âm tiết của từ đều mang thanh trắc và nhất loạt bị

mất dấu thanh khi được phát âm theo tiếng Khmer: cuốn sách -> cuôn xach, máy xới -> mây xơi;

trường hợp hai âm tiết của từ tiếng Việt mà một âm tiết mang thanh trắc và một âm tiết mang thanh

ngang thì sẽ mất thanh điệu đối với âm tiết mang thanh trắc: bến xe -> bên xe; ống bơm -> ông

bôm; máy in -> mây in; với trường hợp từ có một âm tiết mang thanh trắc và một âm tiết mang

thanh bằng thì âm tiết mang thanh bằng được giữ nguyên thanh điệu và mất dấu thanh đối với âm

tiết mang thanh trắc: đầu máy -> đầu mây, màu tím -> màu tim, máy cày -> mây cày

Từ có ba âm tiết, gồm âm tiết mang thanh trắc và âm tiết mang thanh ngang, khi phát âm

theo tiếng Khmer trở thành các âm tiết không mang thanh điệu hoặc các âm tiết mang thanh trắc đều

chuyển thành thanh huyền: máy vi tính -> mây wi tinh, sổ danh bạ -> xồ danh bà.

(b) Thanh trắc chuyển thành thanh bằng hoặc chuyển thành một thanh trắc khác

Đối với các từ đơn tiết:

- Thanh sắc -> thanh huyền: cốm -> cồm; điện -> điền

- Thanh sắc -> thanh nặng: dép -> dzệp

Trường hợp các từ hai âm tiết:

- Các từ có một âm tiết mang thanh trắc và một âm tiết mang thanh bằng của tiếng Việt đều

được tiếng Khmer phát âm thành thanh bằng cả hai âm tiết: tàu hủ -> tàu hù, phù hiệu -> phù

hiều

- Các từ có một âm tiết mang thanh trắc và một âm tiết mang thanh bằng (thanh ngang), tiếng

Khmer chuyển thanh trắc thành thanh huyền và giữ nguyên thanh ngang: cơm mẻ -> côn mề, mai

chuỗi -> mai chuồi, khẩu trang -> khầu trang, đậu que -> đầu que

- Trường hợp từ có hai âm tiết đều mang thanh trắc, hoặc là cả hai âm tiết đều nhất loạt

chuyển thành thanh bằng hoặc âm tiết mang thanh nặng sẽ được giữ nguyên và chuyển dấu thanh

thành thanh bằng đối với âm tiết còn lại: cải ngọt -> cài ngọt, vật lí -> dật li, điện thoại -> điền

thòi, lịch sử -> lịch xừ, ổ điện -> ồ điền, máy quạt -> mây quạt,

Một số trường hợp, các từ đơn tiết tiếng Việt vẫn giữ nguyên dấu thanh trong tiếng Khmer

(cả trường hợp thanh bằng và thanh trắc), hoặc mất dấu thanh đối với từ có âm tiết mang thanh

huyền: giường -> dường (d bật hơi), bóp -> bốp, thùng -> thung

Có khi một từ hai âm tiết mang thanh ngang trong tiếng Việt chuyển thành âm tiết mang

thanh huyền đối với âm tiết thứ nhất và giữ nguyên đối với âm tiết thứ hai trong tiếng Khmer: cao

su -> cào xu

(2) Về phụ âm đầu

Ở phương thức vay mượn này, sự biến đổi ngữ âm ở các phụ âm đầu từ tiếng Việt sang tiếng

Khmer xảy ra không nhiều. Nhìn chung, phần nhiều các phụ âm đầu của tiếng Việt được giữ nguyên

khi chuyển sang tiếng Khmer, chỉ có các trường hợp sau:

(a) Trong một số trường hợp, /d/ là âm không bật hơi của tiếng Việt, khi phát âm theo tiếng Khmer

thì có thêm thanh tính là bật hơi: dính dấp -> dình dọp, dây chì -> dì chi

(b) /gi/ là âm đầu lưỡi – bẹt, xát, hữu thanh sẽ chuyển thành âm tắc /d/ và phát âm bật hơi trong

tiếng Khmer: giường -> dường , giỏi -> dòi, giành -> dành, giải quyết -> dài quyết

(c) Trong tiếng Việt, /v/ là âm môi – răng, xát, hữu thanh. Khi phát âm theo tiếng Khmer, một số

trường hợp /v/ chuyển thành âm đầu lưỡi-bẹt, tắc, bật hơi, vô thanh: thư viện -> thư diền (d bật

hơi, vô thanh), đặt vòng -> đặt dòng (d bật hơi, vô thanh), vũng liêm -> dùng (d bật hơi, vô

thanh) liêm, bênh vực -> binh dực, bệnh viện -> bình diền; một số trường hợp /v/ chuyển thành

âm đầu lưỡi-bẹt, tắc, không bật hơi, hữu thanh: nhà văn hóa -> nhà dăn wa, vật lí -> dật li, vĩnh

long -> dình long, đoàn viên -> đòn diên; trong một số trường hợp /v/ lại chuyển thành /w/: máy

vi tính -> mây wi tinh,

(e) Như đã trình bày ở chương trước, hệ thống âm vị tiếng Khmer không có âm xát, vô thanh , đầu

lưỡi-cong /s/ nên các từ tiếng Việt có âm /s/ khi đi vào tiếng Khmer đều bị chuyển thành âm /x/:

cao su -> cào xu, cuốn sổ -> cuôn xồ, sổ danh bạ -> xồ danh bà, cuốn sách -> cuôn xách

(f) Tiếng Khmer cũng không có âm môi-răng /ph/ nên âm này được phát âm thành âm hai môi trong

tiếng Khmer: phù hiệu -> phù (ph hai môi) hiều, cà phê đá -> cà phe đa

(g) Âm vị phụ âm đầu tiếng Khmer không có âm gốc lưỡi, xát , hữu thanh /g/ nên các trường hợp

âm tiết có âm đầu “g” đều chuyển thành âm đầu lưỡi cong, xát, hữu thanh “r” và “r” này được phát

âm bật hơi: gỏi -> ròi, ghiền (nghiện) -> riền, ho gà -> ho rà

(h) Một số trường hợp /x/ chuyển thành tổ hợp âm đầu “chh”: xét -> chhet

(i) Một số trường hợp /q/ chuyển thành tổ hợp “cw” và rụng mất âm đệm âm tiết chứa nó: quýt ->

cwic, què -> cwè, (hộp quẹt) ->cwẹt

(3). Âm đệm

Trong cấu tạo âm tiết, âm tiết tiếng Khmer không có âm đệm. Vì vậy, hầu hết các âm tiết

tiếng Việt có âm đệm khi đi vào tiếng Khmer đều xảy ra sự biến đổi. Có thể thấy các trường hợp

biến đổi như:

- Rụng âm chính, biến âm đệm thành âm chính: toán -> ton, tòa án -> tò ang, rối loạn tiêu

hóa -> rôi lòn tiêu wa, thỏa thuận -> thò thừng, điện thoại -> điền thòi, phái đoàn > phai đòn

- Rụng âm đệm: ở trường hợp rụng âm đệm lại xảy ra hai trường hợp; một là, rụng âm đệm

và giữ nguyên âm chính như: tiểu thuyết -> tiều thiết, tuyên bố -> tiên bô, thủ quỹ -> thù wì; hai

là, rụng âm đệm và có sự biến âm đối với âm chính: thỏa thuận -> thò thừng, chuẩn bị -> chừng

bì.

- Trường hợp các âm tiết có âm đầu /q, h/ kết hợp với âm đệm, /q /h/ và âm đệm chuyển

thành w: thuế hải quan -> thuê hải wan, quẹo -> wèo, thủ quỹ -> thù wì, phá hoại -> pha wài,

hợp tác hóa -> hộp tac wa

- Âm đệm u đứng đầu âm tiết sẽ chuyển thành âm đầu w: thiếu úy -> thiêu wi, đại úy -> đài

wi, trung úy -> trung wi, uy tính -> wi tinh, đảng ủy -> đàng wì. Một số trường hợp từ tiếng Việt

có âm tiết mang âm đệm, khi vay mượn, tiếng Khmer thể hiện theo thanh tính có âm đệm của âm

tiết : khỏe -> khoe, thuế -> thuê.

Chỉ một số trường hợp ngoại lệ, âm đệm trong âm tiết có phụ âm đầu được giữ nguyên:

nguyên chất -> nguyên chât, thuế hải quan -> thue hài wan

(4). Âm chính

Theo phương thức vay mượn này, phần lớn các âm chính trong tiếng Việt khi đi vào tiếng

Khmer thường được giữ nguyên. Tuy vậy, vẫn có trường hợp xảy ra hiện tượng biến âm từ tiếng

Việt sang tiếng Khmer.

- ô -> ô: cốm ->cồm/côm, ống bơm, sổ danh bạ -> xồ danh bà, ổ điện -> ồ điền

- o -> ô: bóp -> bốp, đóng vai -> đông dai

- o -> oo: nhõng nhẽo -> nhoòng nhèo

- ơ -> ô: ống bơm -> ông bôm, cơm mẻ -> côn mè

- a -> â: máy -> mây, cải lương -> cầy lương, máy cày -> mây cài, làm bộ -> lầm bồ

- a -> ă: bàn chải -> bằng chài

- ă ->a: thang máy -> thang mai, thứ sáu -> thư xao, phòng cháy chữa cháy -> phòng chai chừa

chai, màu tím -> mào tim, máy cày -> mây cài, tay lái -> tai lai

- ă -> â: máy -> mây, máy cày -> mây cài, máy xới -> mây xơi, máy vi tính -> mây wi tinh

-ê ->i: bệnh viện -> bình diền

-ê -> â: xếp hàng -> xấp hàng

- iê -> i: tiệm -> tim, khiếu nại -> khiu nài

- iê -> ê: việt kiều -> diệt (d bật hơi) kều

-uô -> u: hột vịt muối -> hột vịt mui

-i -> ê: xỉu -> xều, kinh -> kênh (phát âm như trong phương ngữ Bắc).

-â -> o: dính dấp -> dình dọp (cả hai âm đầu d đều bật hơi)

- Âm hơi rộng e khi được phát âm theo tiếng Khmer trở nên hẹp hơn thành âm có độ há giữa ê và e:

khỏe -> khoe, cơm mẻ -> côn mè, dép -> dẹp, nghỉ hè -> nghì hè, lẻ -> lè

- Ngược lại, ê là âm hơi hẹp được tiếng Khmer phát âm rộng hơn, ngắn hơn một chút , tức là cũng

phát âm thành âm giữa ê và e: thêm -> them, thuế -> thue, lễ -> lề

-Trường hợp âm chính /ư/ kết hợp với âm cuối /u/ tạo thành vần “ưu” trong âm tiết của tiếng Việt

thì “ưu” biến thành “u” trong tiếng Khmer. Tức là, khi đi vào tiếng Khmer, “ư” bị biến âm và rụng

mất âm cuối “u”. Chẳng hạn các trường hợp như: cấp cứu -> câp cu, bảng cửu chương -> bàng cù

chương, tựu trường -> tụ trường

(5) Âm cuối

Các âm tiết tiếng Việt khi được phát âm theo tiếng Khmer, vị trí âm cuối ít có sự biến đổi,

chỉ một số trường hợp xảy ra sự biến đổi. Nhìn chung, có thể thấy, các âm cuối của các âm tiết

tiếng Việt khi vào tiếng Khmer theo phương thức phỏng âm có những trường hợp như:

(a) Giữ nguyên âm cuối: hầu hết các âm cuối trong cấu tạo âm tiết của từ tiếng Việt được giữ

nguyên khi được phát âm theo tiếng Khmer: điện -> điền, cuốn sách -> cuôn xách, khẩu trang ->

khầu trang, băng vệ sinh -> băng dề xinh, bênh vực -> binh dực, vật lí -> dật li, điều kiện ->

điều kiền, bức rức -> bưc rưc, dính dấp -> dình dọp, lãnh -> lành, máy quạt -> mây quạt,

mắm -> măm, thất vọng -> thât dồng, thí nghiệm -> thi nghiềm, cấm cản -> câm càng...

(b) Chỉ một số trường hợp âm cuối xảy ra sự biến đổi:

- t -> c: pháp luật -> phap lực, máy quạt -> mây quạc, lặt vặt -> lặc dặc, vượt biên -> dực biên,

Việt kiều -> diệc kiều, bắt mạch -> bắc mạch, viết chì -> diêc chì, quýt -> cwic...

-m -> n: phim -> phin

- ch -> c: nhúc nhích -> nhuc nhic

2.2.1.3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm

Khi một ngôn ngữ vay mượn một ngôn ngữ khác, ngôn ngữ được vay mượn phải chịu sự chi

phối, sự đồng hóa của ngôn ngữ vay mượn là điều không thể tránh khỏi.Vì những sự khác biệt giữa

hai ngôn ngữ Việt-Khmer, việc vay mượn từ tiếng Việt có sự biến đổi của tiếng Khmer là điều bình

thường và hiển nhiên. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm khác biệt, giữa tiếng Việt và tiếng Khmer

còn có những điểm tương đồng, những điểm giống nhau. Mặt khác, chúng tôi có cùng nhận xét với

tác giả Nguyễn Thị Huệ [13, tr.98], do quá trình tiếp xúc lâu dài và bị ảnh hưởng bởi tiếng Việt,

người Khmer Trà Vinh nói riêng và người Khmer đồng bằng sông Cửu Long nói chung đã có ý thức

về thanh điệu. Bằng chứng là, nhiều cá thể song ngữ cao thể hiện rất tốt các thanh điệu của tiếng

Việt (theo phương ngữ Nam Bộ). Các cá thể thuộc đối tượng này không chỉ thể hiện tốt các thanh

điệu mà còn thể hiện được các âm vị của tiếng Việt. Điều này dẫn đến kết quả là, một bộ phận từ

tiếng Việt được tiếng Khmer vay mượn theo phương thức vay mượn cả nghĩa và giữ nguyên cách

phát âm trong tiếng Việt.

(1) Về cách phát âm

Ở phương thức vay mượn này, chúng ta thấy các âm tiết của từ tiếng Việt được giữ nguyên

cách phát âm từ phần âm đoạn đến phần siêu âm đoạn. Riêng phần siêu âm đoạn, tức phần thanh

điệu, qua khảo sát, chúng tôi có những nhận xét như sau:

Các thanh điệu của âm tiết tiếng Việt được giữ lại trong cách phát âm của tiếng Khmer bao

gồm các thanh như: thanh ngang, thanh huyền, thanh sắc, thanh nặng. Hai thanh là thanh hỏi và

thanh ngã không thấy xuất hiện trong lớp từ được tiếng Khmer vay mượn theo phương thức này.

(a)Với các từ đơn tiết, thanh điệu được giữ lại bao gồm: thanh huyền, ngang, sắc, nặng.

- Âm tiết mang thanh huyền: bàn (bàn bạc), bàn (bàn ghế), nhờ, bù, đò, mời, màn, lầm, đò,

tòa

- Âm tiết mang thanh ngang: cam, tem, bia, in, nem, chê, mê, li, kho, khoen, bô, tôn, keo,

sơn, nho, lê, bôm

- Âm tiết mang thanh nặng: mực, bọc, lịch, kịch

- Âm tiết mang thanh sắc: lớp, nhớt, rước

(b) Với các từ đa tiết, tiếng Khmer thể hiện đúng theo thanh điệu của từ tiếng Việt trong các

trường hợp các âm tiết của từ thể hiện sự kết hợp giữa :

- Thanh ngang với thanh ngang: thanh tra, thu băng, ho lao, bao cao su, gây mê, giao

thông, nhân viên, cây thông, chôm chôm, môn thi, lan can, lăng xăng, tương đương, khoai tây, công

an, , thương binh, tư nhân, ung thư,

- Thanh huyền và thanh ngang (huyền - ngang, ngang - huyền): bằng khen, bay màu, tuyên

truyền, bình bông, thầy thông, hình vuông, nhà kho, nhà thương, ngân hàng, nghi ngờ, đề thi, điều

tra, màu nâu, trung bình, bình bông , công bằng, thường xuyên, phần trăm

- Thanh huyền và thanh huyền: bầy hầy, truyền hình, tình hình, tình cờ, bàn thờ, hình bình

hành, đài truyền hình, đàng hoàng, màu hồng, mờ mờ, lồng đèn, chào cờ

- Sự kết hợp giữa thanh nặng và thanh huyền có thể theo các trật tự như:

+ Nặng - huyền: bạc màu, bột mì, hợp đồng, hoạt hình, ngược chiều, phụ tùng, thuộc bài

+ Huyền - nặng: bàn đạp, nghề nghiệp, đồ đạc, thường trực

+ Nặng - nặng - huyền: học thuộc lòng

- Thanh nặng và thanh ngang (nặng - ngang, ngang - nặng): thực đơn, sinh nhựt, nghẹt

xăng

- Thanh sắc và thanh huyền: chích ngừa

- Thanh ngang - thanh sắc: xe bít, thuốc tê, xích đu

- Thanh nặng và thanh nặng: tập đọc, đặc biệt

- Thanh sắc và thanh nặng: phức tạp, rạp hát

- Thanh huyền, thanh sắc và thanh ngang có thể theo các trật tự:

+ Thanh huyền - thanh sắc - thanh ngang : đài phát thanh

+Thanh sắc - thanh huyền - thanh ngang: lắc bầu cua

(2) Về nghĩa của từ

Về cách phát âm, như đã nói, các từ này khi được chuyển vào tiếng Khmer thì vẫn giữ

nguyên cách phát âm như phát âm trong tiếng Việt. Còn về mặt nghĩa, khi vay mượn, tiếng Khmer

có xu hướng: một là bảo lưu nghĩa, hai là có sự biến đổi nghĩa của từ trong nguyên ngữ.

a) Các từ đơn nghĩa

Với các từ đơn nghĩa của từ tiếng Việt, tiếng Khmer thường giữ nguyên nghĩa khi vay mượn.

Đồng âm bàn, tiếngViệt có ba từ:

Bàn (1) (động từ) có nghĩa: “trao đổi ý kiến về việc gì hoặc vấn đề gì”.[51, tr.39]

Bàn (2) danh từ): “Đồ dùng thường làm bằng gỗ, có mặt phẳng và chân đỡ, dùng để bày đồ

đạc hay để làm việc, làm nơi ăn uống”.[51, tr.39]

Bàn (3) (danh từ): “lần tính được, thua trong trận đấu bóng”.[51, tr.39]

Cả ba từ này đều được tiếng Khmer vay mượn và giữ nguyên nghĩa của chúng như trong

tiếng Việt.

Bàn bạc có nghĩa là “bàn, trao đổi ý kiến (nói khái quát)” [51, tr. 39], tiếng Khmer vay

mượn theo nghĩa này của tiếng Việt.

Phân công cũng là từ đơn nghĩa, thuộc từ loại động từ. Khi vào tiếng Khmer vẫn giữ

nguyên nghĩa theo tiếng Việt: “giao cho làm một phần việc nhất định nào đó” [51, tr. 991].

Nghĩa “theo đúng lẽ phải, không thiên vị” [51, tr. 280] của từ công bằng trong tiếng Việt

được giữ nguyên trong tiếng Khmer.

b) Các từ đa nghĩa

Đối với các trường hợp từ tiếng Việt có nhiều nghĩa, có trường hợp, tiếng Khmer vay mượn

tất cả các nghĩa ; có trường hợp, các nghĩa của từ ít nhiều có sự biến đổi trong ngôn ngữ vay mượn

so với nghĩa vốn có trong nguyên ngữ.

- Các nghĩa của từ được giữ nguyên

Khi vay mượn các từ đa nghĩa của tiếng Việt, có trường hợp, tiếng Khmer giữ nguyên tất cả

các nghĩa như trong tiếng Việt; có trường hợp, tiếng Khmer giữ nguyên các nghĩa nhưng trong quá

trình sử dụng, có nghĩa được sử dụng chủ yếu, thường xuyên, có nghĩa lại ít được dùng hơn.

Nghề nghiệp là “nghề (nói khái quát)”. Tiếng Khmer cũng mượn từ này với nghĩa như trong

tiếng Việt. [51, tr. 869]

Lo trong tiếng Việt gồm bốn nghĩa” (1) “ở trong trạng thái phải bận tâm, không yên lòng về

việc gì đó vì cho rằng có thể xảy ra điều không hay”; (2) “suy tính, định liệu, chuẩn bị điều kiện,

biện pháp để có thể làm tốt việc gì đó thuộc về trách nhiệm của mình” ; (3) “để cả tâm trí và sức lực

vào nhằm làm tốt hoặc thực hiện cho được một công việc cụ thể nào đó”; (4) “lo lót”[51, tr. 734].

Tiếng Khmer vay mượn và giữ nguyên cả bốn nghĩa này của tiếng Việt.

Bạc màu có hai nghĩa: (1) đất có lớp trên mặt bị rửa trôi nhiều, nghèo dinh dưỡng và đã nhạt

màu hoặc chuyển sang màu trắng [51, tr.32]; (2) quần áo có màu sậm bị nhạt màu do giặt trôi màu

hoặc do ánh nắng. Tiếng Khmer sử dụng bạc màu theo cả hai nghĩa nhưng chủ yếu là theo nghĩa thứ

hai.

- Các nghĩa của từ tiếng Việt bị biến đổi

+ Lược bỏ một số nghĩa, chỉ giữ lại một hoặc một vài nghĩa của từ theo tiếng Việt:

Bầy nhầy có các nghĩa: (1) nhơn nhớt và dinh dính, gây cảm giác kinh tởm; (2) thịt mềm

nhão và bùng nhùng, thường rất dai, khó làm cho đứt; (3) nhùng nhằng, không dứt khoát [51, tr. 73].

Trong ba nghĩa này, tiếng Khmer chỉ mựơn nghĩa thứ hai, tức là khi nói bầy nhầy (không cần phải

nói đầy đủ thịt bầy nhầy) là tiếng Khmer muốn chỉ loại thịt này.

Kẹt có hai từ loại là động từ và tính từ. Với từ loại động từ, kẹt có hai nghĩa: (1) “bị giữ lại,

mắc lại, không đi qua, đi ra được”, (2) “gặp khó khăn khó xử, khó giải quyết”. Với từ loại tính từ,

kẹt có nghĩa: “từ mô phỏng tiếng phát ra nghe đanh như tiếng của hai vật cứng cọ xát mạnh vào

nhau” [51, tr. 623]. Khi vào tiếng Khmer, kẹt chỉ còn giữ được hai nghĩa theo từ loại động từ, và

mất đi nghĩa của tính từ.

Tương đương: (1) “có giá trị ngang nhau”; (2 - hai biểu thức đại số) “có trị số bằng nhau với

mọi hệ thống giá trị gán cho các số; (3 - hai phương trình hoặc hệ phương trình) “có nghiệm hoàn

toàn như nhau”; (4 - hai mệnh đề) “có quan hệ cái này là hệ quả của cái kia và ngược lại” [51,

tr.1382]. Trong bốn nghĩa này, tiếng Khmer chỉ vay mượn từ theo nghĩa thứ nhất. Tức là khi cần chỉ

các sự vật, các mức độ có giá trị ngang nhau, người Khmer dùng tương đương.

Tập đọc và học thuộc lòng trong tiếng Việt đều có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất chỉ tên phân

môn trong môn “Tiếng Việt” của tiểu học; nghĩa thứ hai là ý nghĩa hoạt động: tập đọc là hoạt động

rèn luyện kĩ năng đọc, còn học thuộc lòng là hoạt động đọc được thực hiện nhiều lần để ghi nhớ

một phần hoặc một văn bản nào đó đến mức có thể tái hiện lại phần văn bản hoặc cả văn bản đó.

Khi vay mượn, tiếng Khmer không mượn nghĩa chỉ hoạt động mà chỉ mượn nghĩa chỉ môn học.

Nghề trong từ loại là danh từ, có nghĩa: “công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội

(thường phải do học tập, rèn luyện mới có)”. Nghề trong từ loại tính từ: “giỏi thành thạo (trong một

việc làm nào đó)”. Tiếng Khmer vay mượn từ nghề theo nghĩa của từ loại danh từ, không sử dụng

nghề với từ loại tính từ [51, tr. 869].

Từ nhờ trong tiếng Việt có rất nhiều nghĩa: (1) “yêu cầu người khác giúp cho việc gì”; (2)

hưởng sự giúp đỡ”; (3) “Từ biểu thị hoạt động vừa nói đến được thực hiện dựa vào sự giúp đỡ về

phương tiện hoặc điều kiện của người khác”, trong tổ hợp kết từ, nó “biểu thị điều sắp nói ra là

nguyên nhân dẫn đến kết quả tốt đẹp, khả quan được nói đến”, trong tổ hợp tính từ thì biểu thị “có

màu mờ đục, không được sáng và trong” [51, tr. 931]. Trong các nghĩa này, tiếng Khmer chỉ sử

dụng các nghĩa: “hưởng sự giúp đỡ”, “Từ biểu thị hoạt động vừa nói đến được thực hiện dựa vào sự

giúp đỡ về phương tiện hoặc điều kiện của người khác”, “biểu thị điều sắp nói ra là nguyên nhân

dẫn đến kết quả tốt đẹp, khả quan được nói đến”.

Ưu tiên tồn tại trong hai từ loại với hai nghĩa: (1) “được chú ý trước nhất, trước những đối

tượng khác, vì được coi trọng hơn”; (2) “cho được hưởng quyền ưu tiên trong một việc cụ thể nào

đó” [51, tr.1397]. Đối với từ này, tiếng Khmer chỉ vay mượn nghĩa thứ hai, bỏ đi nghĩa thứ nhất.

+ Biến đổi , thu hẹp nghĩa so với các nghĩa của của từ trong nguyên ngữ:

Phức tạp có các nghĩa: (1) “có nhiều thành phần hoặc nhiều mặt kết hợp, đan xen với nhau,

khó mà tách bạch ra được”; (2) “có nhiều sự rắc rối khó hiểu, khó nắm bắt, khó giải quyết” [51,

tr.1020]. Tiếng Khmer ít và thậm chí không dùng phức tạp với nghĩa thứ nhất mà dùng với nghĩa

thứ hai.

Đàng hoàng có ba nghĩa: (1) “có đời sống vật chất đầy đủ, theo mức yêu cầu chung của xã

hội”; (2) “có đầy đủ những biểu hiện về tư cách, tính chất,... để được coi trọng”; (3) “đúng đắn,

nghiêm túc, không có gì phải giấu giếm, phải sợ sệt” [51, tr. 337]. Khi vay mượn từ đàng hoàng,

tiếng Khmer giữ lại nghĩa thứ nhất như trong tiếng Việt và tạo cho nó một nghĩa mới. Theo chúng

tôi, đó là sự phái sinh từ nghĩa thứ hai và thứ ba trong tiếng Việt. Nghĩa này để chỉ về con người,

người đàng hoàng là người đứng đắn, nghiêm túc, có những biểu hiện về tư cách, tính chất đáng

được coi trọng.

Hợp đồng trong tiếng Việt mang hai nghĩa: (1) hợp đồng là danh từ: “ sự thỏa thuận, giao

ước giữa hai hay nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được viết

thành văn bản” [51, tr. 600]; (2) hợp đồng - hiệp đồng là động từ: “phối hợp hành động trong chiến

đấu” [51, tr. 566]. Khi vào tiếng Khmer, hợp đồng cũng tồn tại hai nghĩa nhưng so với nghĩa của từ

trong tiếng Việt thì có sự thay đổi: ở nghĩa thứ nhất, hợp đồng trong tiếng Khmer có nghĩa: chỉ văn

bản được kí kết trong sự thỏa thuận, giao ước giữa các bên; ở nghĩa thứ hai, nghĩa của hợp đồng đã

có sự thay đổi về phạm vi: không còn chỉ sự phối hợp trong chiến đấu mà chuyển thành “hợp tác (có

thỏa thuận) trong một công việc làm ăn nào đó”.

Từ điển của nhóm tác giả Hoàng Phê trình bày nghĩa của từ rước gồm ba nghĩa: (1) “đi thành

đoàn có cờ trống, đèn đuốc... để làm lễ đón về hoặc để biểu thị sự vui mừng, phấn khởi trong ngày

hội”; (2) “đón về một cách trân trọng”; (3) “như đón” [51, tr.1080]. Và đón có các nghĩa: (1) “ở tư

thế hoặc có thái độ sẵn sàng tiếp nhận, gặp gỡ”; (2) “chờ sẵn để gặp ngay khi vừa mới đến hoặc sắp

đi qua”; (3) “đến gặp để đưa về cùng với mình” [51, tr. 435]. Khi vào tiếng Khmer, nghĩa của từ

rước bị thu hẹp thành: (1) “chờ sẵn để gặp ngay khi vừa mới đến”; (2) “đến gặp để đưa về cùng với

mình” tức là chỉ mượn phần nghĩa thứ ba của từ rước trong tiếng Việt. Ở phần nghĩa thứ ba này, tức

theo nghĩa của từ đón, tiếng Khmer cũng giới hạn thêm một bước nữa. Cụ thể, nghĩa thứ hai của từ

đón là “chờ sẵn để gặp ngay khi vừa mới đến hoặc sắp đi qua”, tiếng Khmer bỏ đi nét nghĩa “sắp đi

qua”, chỉ giữ lại “chờ sẵn để gặp ngay khi vừa mới đến”; và giữ nguyên nghĩa thứ hai của từ đón:

“đến gặp để đưa về cùng với mình”.

Từ tập trung trong tiếng Việt có hai nghĩa: (1) “dồn vào một chỗ hoặc một điểm”; (2) “dồn

sức hoạt động, hướng các hoạt động vào một việc gì” [51, tr. 1160]. Tiếng Khmer dùng tập trung

với nghĩa: cùng đi đến hoặc cùng được đưa đến một địa điểm đã được quy định sẵn . Như vậy, khi

vào tiếng Khmer, tập trung của tiếng Việt đã mất đi nghĩa thứ hai đồng thời nghĩa thứ nhất cũng

được phái sinh tạo thành một nghĩa khác: cùng đi đến hoặc cùng được đưa đến một địa điểm đã

được quy định sẵn.

Trong Từ điển tiếng Việt, thường trực được giải thích nghĩa như sau: (1) “có mặt thường

xuyên để kịp thời theo dõi, giải quyết công việc”; (2) “có, tồn tại thường xuyên”; (3) “nhân viên

phòng thường trực làm nhiệm vụ xem xét giấy tờ, theo dõi việc ra vào một cơ quan, xí nghiệp” [51,

tr.1256]. Khi vào tiếng Khmer, thường trực chuyển đổi từ loại thành tính từ và chỉ còn lại nghĩa:

thường xuyên có mặt.

2.2.1.4. Vay mượn bằng cách dịch một hoặc một vài thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại trong tổ hợp từ tiếng Việt

(1) Về yếu tố được dịch

Phân tích lớp từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt theo phương thức dịch thành tố và

phỏng âm đối với thành tố còn lại, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết các từ, cụm từ đều thuộc loại từ

ghép chính phụ hoặc cụm từ chính phụ. Giữa thành tố chính và thành tố phụ, có thể thấy xảy ra hai

xu hướng mà tiếng Khmer lựa chọn khi dịch: một là chọn dịch thành tố chính, phỏng âm đối với

thành tố phụ, hai là dịch thành tố phụ và phỏng âm đối với thành tố chính.

(a) Các từ được dịch thành tố chính

Các từ được vay mượn theo phương thức này thường là các từ ghép chính phụ danh từ.

Thành tố chính được dịch là các danh từ chỉ loại lớn, được dịch sang tiếng Khmer bằng thành tố

tương đương, còn các thành tố phụ có tác dụng phân hóa cho thành tố chính không được dịch mà

chuyển sang tiếng Khmer theo cách phỏng âm.

Các trường hợp xe xích lô, xe du lịch, xe tốc hành thành tố chính chỉ loại lớn “xe” dịch thành

“à thẹ (e ngắn)” , còn các thành tố phụ “xích lô”, “du lịch”, “tốc hành” có tác dụng phân hóa cho

thành tố chính không được dịch mà phỏng âm. Các tổ hợp này chuyển sang tiếng Khmer thành: xe

xích lô -> à thẹ xích lô, xe du lịch -> à thẹ du lịch, xe tốc hành -> à thẹ tốc hành.

Ở các tổ hợp có “áo” làm thành tố chính như : áo mưa, áo sơ mi, áo sọc, tiếng Khmer dịch

“áo” thành “ào/ao”, các thành tố phụ được phỏng âm thành: mưa, xmi, sọc. Vì vậy, trong tiếng

Khmer, các từ này thành ào/ao mưa, ào/ao xmi, ào/ao xộc.

Thành tố chính “cá” trong các tổ hợp cá kho được dịch thành “trây” để kết hợp với các thành

tố phỏng âm còn lại thành: trây kho..

Trong các trường hợp sau, thành tố được chọn dịch khi từ tiếng Việt đi vào tiếng Khmer

cũng là thành tố chính.

Nón bảo hiểm: nón -> đuôl/muôc (m bật hơi) => nón bảo hiểm -> duôl/muôc bào/bao hiềm.

Nước tương: nước -> tức => nước tương -> tức tương.

Nước phông tênh: nước -> tức => nước phun tênh -> tức phun (ph hai môi) tênh.

Quần rin (zean): quần -> khô (phát âm giữa ô và o) => quần rin -> khô rin.

Trường cao đẳng/đại học: trường -> xla/xlà => trường cao đẳng/đại học -> xla/xlà cao

đằng/đài học.

Dây điện: dây -> cxe (phát âm giữa e và ê) => dây điện -> cxe điền.

Đồng hồ điện: nia (n bật hơi) li ca/nè (n bật hơi) lcà = đồng hồ điện -> nia (n bật hơi) li ca/nè

(n bật hơi) lcà điền.

Cơm dĩa: cơm -> bai/bài => cơm dĩa -> bai/bài dìa (d bật hơi).

Khoai mì: khoai -> lôn => khoai mì => lôn mây.

Con hà mã: con -> côl => con hà mã -> côl hà mà.

Mũ cao su: mũ -> cho/chò (ch bật hơi) => mũ cao su -> cho/chò (ch bật hơi) cào xu (u phát

âm hẹp hơn).

(b) Các từ được dịch thành tố phụ

Với danh từ hoặc ngữ danh từ, thành tố được dịch là từ tố phụ, có tác dụng phân hóa, khu

biệt cho thành tố chính; trong khi các thành tố chính được phỏng âm.

Khuôn hình: khuôn là thành tố chính, hình là thành tố phụ. “Hình” được dịch thành “

ruôp/ruộp (r bật hơi)). “Khuôn hình” chuyển thành “khuôn ruôp/ruộp”.

Tầng dưới: thành tố phụ là “dưới”, được dịch thành “crôm/crồm”. “Tầng dưới” -> “từng

crôm/crồm”.

Thùng phiếu: phiếu -> chnôt => thùng phiếu -> thung chnôt,

Các tổ hợp chính phụ sọc đen, sọc trắng, sọc đỏ, sọc xanh, sọc vàng, có cùng thành tố chính

là “sọc” và “sọc” được chuyển sang tiếng Khmer theo cách phỏng âm. Các thành tố đen, trắng, đỏ,

xanh, vàng được dịch: đen -> khmâu, trắng -> xo, đỏ -> c-hom, xanh -> khêu, vàng -> p-hút. Các tổ

hợp trên đi vào tiếng Khmer thành: sọc đen -> xộc khmâu, sọc trắng -> xộc xo, sọc đỏ -> xộc c-

hom, sọc vàng -> xộc p-hút.

(2) Về yếu tố được phỏng âm

Nhìn chung, các yếu tố được phỏng âm trong các tổ hợp được vay mượn theo phương thức

này, tình hình cũng giống như sự phỏng âm đối với các từ được vay mượn theo cách phỏng âm. Tức

là, các yếu tố được phỏng âm này cũng xảy sự biến đổi hoặc không biến đổi về mặt ngữ âm trong

ngôn ngữ vay mượn so với nguyên ngữ.

2.2.1.5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Khmer với từ tiếng Việt

Trong lớp từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt, có một số từ được vay mượn theo một

phương thức khá đặc biệt: trong tổ hợp có hai thành tố chính chỉ loại lớn cùng nghĩa với nhau -

thành tố thứ nhất là từ tiếng Khmer, thành tố thứ hai là từ tiếng Khmer phỏng âm theo tiếng Việt,

các thành tố phụ cũng được phát âm trong tiếng Khmer theo lối phỏng âm tiếng Việt. Các từ hoặc tổ

hợp từ này thường mang đặc điểm của danh từ. Qua khảo sát, chúng tôi thấy các từ này xuất hiện

trong các tên một số loại bánh, một số loại hoa, một số món ăn, một số loại cá, khô.

(1) Tên bánh

Nùm (n bật hơi)/num (tiếng Khmer có nghĩa là bánh) kết hợp với banh (từ phỏng âm từ

bánh của tiếng Việt) và từ chỉ tên bánh cụ thể: nùm (n bật hơi)/num + banh + tên bánh cụ thể

Bánh mì -> num/nùm (n bật hơi) banh mì.

Bánh mì ngọt -> num/nùm (n bật hơi) banh mì ngọt (phát âm nhẹ hơn ngọt trong tiếng Việt).

Bánh da lợn -> num/nùm (n bật hơi) banh da lờn.

Bánh canh -> num/nùm (n bật hơi) banh canh.

Bánh cam -> num/nùm (n bật hơi) banh cam.

Bánh còng -> num/nùm (n bật hơi) banh còng.

Bánh bò -> num/nùm (n bật hơi) banh bò

Bánh tiêu -> num/nùm (n bật hơi) banh tiêu.

Bánh bó nướng -> num/nùm (n bật hơi) banh bò nương.

Bánh bông lan -> num/nùm (n bật hơi) banh bông lan.

Bánh bao -> num/nùm (n bật hơi) banh bao.

Bánh mặn -> num/nùm (n bật hơi) banh mằn.

Bánh sinh nhật -> num/nùm (n bật hơi) banh xinh nhựt.

Bánh trung thu -> num/nùm (n bật hơi) banh trung thu (người Khmer còn có cách gọi khác là

num/nùm (n bật hơi) banh nhưng thu ).

(2) Tên cá

Người Khmer gọi tên một số loại cá theo cách:

Trây (tiếng Khmer có nghĩa là cá) + ca (phỏng âm từ cá của tiếng việt) + tên loại cá cụ thể

(cũng theo cách phỏng âm).

Cá bạc má -> trây ca bạc ma.

Cá điêu hồng -> trây ca điêu hồng (ô phát âm hẹp hơn).

Cá bống trứng -> trây ca bông trưng (ô phát âm hẹp hơn).

Cá tai tượng -> trây ca tai tường.

Cá phi -> trây ca phi (ph phát âm hai môi, i dài).

Cá chép -> trây ca chep.

Cá linh -> trây ca linh.

Cá mực -> trây ca mực.

Cá mắt lộ (còn có tên là cá mắt kiếng) -> trây ca măt lồ.

Cá chỉ vàng -> trây ca chì dàng.

Cá nục -> trây ca nục.

Cá ngừ -> trây ca ngừ

Cá mập -> trây ca mập

Cá chép -> trây ca chep

Cá bông lau -> trây ca bông lao

Cá phèn -> trây ca phèn (ph hai môi)

Cá ba sa -> trây ca ba xa

Cá bống sao -> trây ca bông xao

(3) Tên hoa

Tên một số loài hoa được tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt theo cách:

Pca/pcà (trong tiếng Khmer có nghĩa là hoa) + bông (phỏng âm của tiếng Việt) + tên hoa cụ

thể

Bông huệ -> pca/pcà bông wề (ê phát âm giữa e và ê).

Bông lan -> pca/pcà bông lan

Bông cúc -> pca/pcà bông cuc

Bông trang -> pca/pcà bông trang

Bông hồng -> pca/pcà bông hồng (ô phát âm hẹp hơn)

(4) Tên khô

Khô là loại thực phẩm được làm từ cá. Khô được làm theo cách: cá tươi được xẻ ra hoặc để

nguyên con, rửa sạch, có thể ướp thêm gia vị rồi đem phơi cho khô dưới nắng. Tiếng Việt định

danh loại thực phẩm này theo đặc điểm “khô” của nó, nghĩa là tất cả các loại cá được đem phơi khô

như thế được gọi là “khô”. Từng loại khô được định danh theo cách: kết hợp từ “khô” với tên loại

cá được làm khô đó.

Chẳng hạn: khô cá khoai, khô cá đuối, khô cá mực, khô cá lù đù, khô cá mẵn, khô cá bống,

khô cá đường, khô cá dứa, khô cá rún,...

Khi vay mượn tên các loại khô của tiếng Việt, tiếng Khmer vay mượn theo phương thức: kết

hợp từ “nghiệt (ng bật hơi)/nghiêt” (có nghĩa là khô) của tiếng Khmer với từ “khô” (phỏng âm từ

tiếng Việt) và phỏng âm tên loại cá được làm khô. Sự kết hợp này theo trật tự: nghiệt/nghiêt + khô

+ tên loại cá.

Trong tiếng Khmer tồn tại tên các loại khô vay mượn từ tiếng Việt:

Khô cá khoai -> nghiệt/nghiêt khô ca khoai

Khô cá đuối -> nghiệt/nghiêt khô ca đui

Khô mực > nghiệt/nghiêt khô ca mực

Khô cá lù đù -> nghiệt/nghiêt khô ca lù đù

Khô cá mẵn -> nghiệt/nghiêt khô ca mằn

Khô cá bống -> nghiệt/nghiêt khô ca bông

Khô cá đường -> nghiệt/nghiêt khô ca đường

Khô cá dứa -> nghiệt/nghiêt khô ca dưa

Khô cá rún -> nghiệt/nghiêt khô ca rung

2.2.1.6. Nhận xét

Qua thống kê, có thể thấy, từ ngữ tiếng Việt đi vào tiếng Khmer vô cùng phong phú.Trong

lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt hằng ngày của người Khmer Nam Bộ, xuất hiện rất nhiều từ ngữ

tiếng Việt. Có thể thấy rằng, từ vựng trong giao tiếp hàng ngày của tiếng Khmer Nam Bộ chưa đáp

ứng được nhu cầu biểu đạt trong hoạt động giao tiếp. Vì thế, nhiều từ ngữ tiếng Việt được vay

mượn để định danh cho những sự vật, hoạt động, tính chất, đặc điểm từ đời sống sinh hoạt thường

nhật đến các lĩnh vực chính trị xã hội khác như giáo dục, y tế, kinh tế, quân sự, văn hóa nghệ thuật,..

Từ các loại rau quả, các vật dụng trong gia đình như: cải ngọt, cải trắng, trái lê, ống nước, áo

mưa, móc quần áo, dầu lửa, quần tây, quần lót, gối ôm, dây điện, dép,... đến các thiết bị hiện đại như

máy cày, máy xới, ti vi, tủ lạnh, máy vi tính, tiếng Khmer đều phải vay mượn của tiếng Việt.

Trong các lĩnh vực như giáo dục, quân sự, kinh tế, y tế,... ,chúng ta thấy, tiếng Khmer Nam

Bộ sử dụng chủ yếu là các từ ngữ vay mượn theo tiếng Việt. Ví dụ từ ngữ dùng trong giáo dục như

Toán, Lí, Hóa, Văn, Địa, Sử; cột cờ, chào cờ, lên lớp, thi tốt nghiệp, thi học kì, trả bài, sách, thước,

phòng giáo dục, sở giáo dục, bộ giáo dục, thanh tra, gác thi,... tiếng Khmer đều gọi theo tiếng Việt.

Về y tế, tiếng Khmer vay mượn tiếng Việt các từ ngữ như: bệnh viện, bác sĩ, y tá, chích,

khoa sản, khoa nhi, siêu âm, nhập viện, ung thư, bệnh viện nhi đồng, cấp cứu, hộ sản, tai biến, vô

nước biển, chuyền máu, trạm xá,...

Về kinh tế, tiếng Khmer gọi theo tiếng Việt các từ: kinh tế, ngân hàng, bạn hàng, hợp đồng,

bán lẻ, mua trả góp, quán bán cơm,...

Trong các từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt, có những từ ngữ, từ tiếng Việt giữ vai

trò độc tôn nhưng có những từ ngữ, tiếng Khmer đã có từ biểu thị và như vậy, song song tồn tại cả

hai từ đồng nghĩa. Và với những từ đồng nghĩa Khmer-Việt này, người Khmer Nam Bộ lại tỏ ra

“chuộng” dùng từ Việt hơn. Chẳng hạn, trường hợp bánh mì có hai từ nùm banh mì và nùm pằng,

thì nùm banh mì được dùng thường xuyên và phổ biến hơn. Các trường hợp màu/phò, linh/thì hen,

các ngày trong tuần,... thì từ mượn Việt cũng được dùng nhiều hơn. Đối với nhiều người Khmer,

thậm chí họ không biết các từ này trong tiếng mẹ đẻ của mình là gì.

Trong ngôn ngữ sinh hoạt, từ chỉ màu sắc trong tiếng Khmer chỉ có bốn từ khiêu (xanh), c-

hom (đỏ), xo (trắng), khmâu (đen), tức chỉ có bốn từ để chỉ màu sắc. Vì vậy, khi gặp các màu như

tím, hồng, cam, xanh đọt chuối, xanh lá cây,... người Khmer không có từ để biểu thị nên chọn cách

gọi theo tiếng Việt-theo lối phỏng âm.

Việc các từ ngữ tiếng Việt đi vào tiếng Khmer với số lượng khá lớn có thể giải thích ở một

nguyên nhân khác. Đó là tình trạng tỉ lệ người Khmer có khả năng song ngữ Khmer - Việt ở khu

vực là khá cao. Chúng ta thường xuyên bắt găp sự chuyển mã hoặc hòa mã trong giao tiếp của

người Khmer ở đây.

Ở tiếng Khmer, giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có một khoảng cách nhất định về mặt

ngữ âm và từ ngữ. Thêm vào đó, tỉ lệ người Khmer biết chữ Khmer không nhiều so với người

Khmer biết chữ Việt. Với những người Khmer không biết chữ Khmer, họ bị hạn chế về điều kiện

tiếp cận, tiếp thu ngữ âm chuẩn cũng như các từ ngữ của tiếng dân tộc mình theo ngôn ngữ sách vở,

trong khi họ tiếp xúc rất thường xuyên với tiếng Việt. Vì vậy, có một thực tế là, một sự vật hiện

tượng có thể đã có từ Khmer để biểu đạt nhưng người Khmer dân gian chỉ biết và gọi tên theo tiếng

Việt.

Về ngữ âm:

Do người Khmer có thói quen phát âm ngôn ngữ không có thanh điệu, nên khi từ tiếng Việt

vào tiếng Khmer, các thanh điệu của âm tiết thường bị biến đổi. Các âm tiết tiếng Việt hoặc là bị

mất thanh điệu hoặc các thanh sẽ chuyển thành thanh huyền, chỉ một số trường hợp âm tiết mang

thanh sắc, nặng được giữ lại thanh điệu như trong nguyên ngữ. Các âm tiết từ tiếng Khmer vay

mượn của tiếng Việt không thể hiện hai thanh HỎI và NGÃ.

Trường hợp các âm không có sự tương ứng giữa hai ngôn ngữ thì chúng sẽ bị biến đổi khi

được phát âm theo tiếng Khmer.

Với các phụ âm đầu, trong tiếng Khmer không có các âm /s, v, gi, g, ph/ nên khi các âm tiết

từ tiếng Việt mang các phụ âm đầu này đi vào tiếng Việt sẽ xảy ra sự biến đổi:s-> x; v -> d/d (bật

hơi); gi -> d/d (bật hơi) ; g -> r (bật hơi); ph -> ph (hai môi).

Với âm đệm, trong tiếng Khmer cũng không có âm vị âm đệm, nên khi vay mượn các âm tiết

có âm đệm của tiếng Việt, chỉ một số âm tiết có âm đệm được bảo lưu âm đệm, đa số âm tiết mang

âm đệm của nguyên ngữ sẽ xảy ra những trường hợp biến đổi rất đa dạng và phức tạp: rụng mất âm

đệm. Hiện tượng này dẫn đến hai trường hợp: mất âm đệm giữ nguyên âm chính và mất âm đệm

làm biến đổi luôn đối với âm chính; trường hợp âm đệm đứng đầu âm tiết, âm đệm sẽ chuyển thành

âm đầu W; trường hợp âm tiết có âm đệm kết hợp với âm đầu q/h thì âm đầu và âm đệm chuyển

thành w, tức qu/hu -> w.

Với âm chính, các âm chính trong âm tiết tiếng Việt khi vào tiếng Khmer phần lớn thường

được giữ nguyên. Tuy nhiên, vẫn xảy ra các trường hợp biến đổi đối với âm chính.

Một số trường hợp nguyên âm đôi trở thành đơn hóa: iê -> i/ê, uô -> u.

Một số âm trở thành âm cùng hàng hẹp hơn hoặc ngược lại thành âm rộng hơn: iê, ê -> i, o >

ô, a -> ă/â.

Một số âm cùng hàng bị tròn môi hóa: ơ -> ô, â ->o.

Trong tiếng Khmer, có nguyên âm được phát với độ há giữa e và ê, nhiều trường hợp âm tiết

của từ có âm chính e trong tiếng Việt sẽ biến thành e có độ mở như trong tiếng Khmer khi vào tiếng

Khmer.

Về hệ thống âm cuối, như đã trình bày, mặc dù giữa tiếng Việt và tiếng Khmer có một số âm

cuối trùng nhau và một số âm cuối chỉ có ở tiếng Việt mà không có ở tiếng Khmer và ngược lại,

một số âm cuối như d, r,w, x, ph (hai môi) chỉ có ở tiếng Khmer mà không có ở tiếng Việt. Nhưng

quá trình tiếng Khmer vay mượn từ tiếng Việt ít xảy ra sự biến đổi đối với âm cuối. Theo ngữ liệu

thống kê, chúng tôi chỉ thấy một số trường hợp âm cuối xảy ra sự biến đổi như:

Chỉ hai trường hợp âm tắc biến thành âm tắc khác: t -> c và ch -> c

Một trường hợp âm vang biến thành âm vang khác: m -> n

Sự biến đổi về ngữ âm cũng như yếu tố được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Khmer có sự khác

biệt ít nhiều giữa phương ngữ Trà Vinh và phương ngữ Sóc Trăng.

Về ngữ nghĩa:

Xét các từ tiếng Khmer vay mượn theo phương thức vay mượn nghĩa và cách phát âm theo

Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, chúng tôi nhận thấy rằng, có từ thuộc nhiều từ loại khác

nhau, có các từ đồng âm, các từ đơn nghĩa và từ đa nghĩa.

Trong từ điển, một từ nếu thuộc nhiều từ loại khác nhau (danh từ, động từ, tính từ) thì được

giải thích nghĩa theo tất cả các từ loại đó. Một từ nhiều nghĩa cũng được từ điển liệt kê giải thích tất

cả các nghĩa.

Trên cơ sở nghĩa của từ theo từ điển này, chúng tôi nhận thấy nghĩa của từ tiếng Việt khi

được tiếng Khmer vay mượn có những đặc điểm sau:

(1) Với các từ đơn nghĩa thì thường nghĩa của chúng được bảo lưu khi vào tiếng Khmer.

(2) Với các từ đa nghĩa, có từ, tất cả các nghĩa của nó sẽ được bảo lưu trong tiếng Khmer; có từ,

tiếng Khmer chỉ vay mượn một hoặc một số trong các nghĩa đó; có từ, bên cạnh việc giữ lại hoặc

loại bỏ một số nghĩa, còn có hiện tượng tiếng Khmer phái sinh nghĩa từ nghĩa còn lại của từ đó.

(3) Với các từ vừa có nghĩa sách vở vừa có nghĩa khẩu ngữ, có những từ, tiếng Khmer giữ lại cả

nghĩa sách vở và nghĩa khẩu ngữ của từ tiếng Việt; có những từ, tiếng Khmer mượn nghĩa sách vở,

không mượn nghĩa khẩu ngữ; lại có những từ, tiếng Khmer chỉ giữ lại nghĩa của từ theo nghĩa của

khẩu ngữ.

Ở các từ vay mượn theo phương thức kết hợp yếu tố tiếng Khmer và yếu tố tiếng Việt (tên

bánh, tên hoa, tên cá, tên khô), yếu tố chỉ loại lớn trong tổ hợp từ là hai yếu tố Khmer và Việt đồng

nghĩa với nhau. Nghĩa là, trong các tổ hợp từ ghép này, chúng đã bị thừa từ tố tham gia tạo nghĩa.

Các tổ hợp này chủ yếu là các từ ghép phân nghĩa, vốn dĩ chúng chỉ cần một yếu tố chỉ loại lớn và

yếu tố phân nghĩa. Như vậy, tiếng Khmer có thể chọn cách vay mượn cho các tổ hợp này theo kiểu

dịch thành tố và phỏng âm đối với thành tố còn lại, tức là dịch sang tiếng Khmer yếu tố chỉ loại lớn

bằng yếu tố tương ứng và phỏng âm yếu tố có chức năng khu biệt; hoặc theo kiểu phỏng âm cả tổ

hợp. Thực tế, các tổ hợp này cũng gây tâm lí khó chấp nhận đối với ngôn ngữ vay mượn. Người

Khmer cũng cảm thấy khó chịu với cách nói thừa – dùng nhiều thành tố nhưng chỉ có một chức

năng nghĩa trong một tổ hợp kiểu như : đã TRÂY (nghĩa là cá) rồi còn CA (cá), đã NGHIÊT rồi còn

KHÔ, đã PCA/PCÀ rồi còn BÔNG,...

Ngoài đơn vị từ, tiếng Khmer còn vay mượn của tiếng Việt cả các tổ hợp từ. Điều này cũng

không phải khó hiểu. Như đã nói ở trước, tiếng Việt có lợi thế hơn tiếng Khmer về mọi mặt: là ngôn

ngữ mạnh, ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trị cao hơn, ngôn ngữ của dân tộc có

trình độ văn hóa cao hơn, có số lượng người nói đông hơn.Vì vậy, sự ảnh hưởng của tiếng Việt đến

tiếng Khmer một cách mạnh mẽ như vậy là điều không tránh khỏi. Theo lịch sử hợp cư của vùng đất

Nam Bộ này, người Khmer tuy là bộ phận dân tộc có mặt sớm nhất. Nhưng có thể nói, vào thời

điểm ấy, tất cả mọi thứ đều chưa được phát triển, còn rất sơ khai, người Khmer cũng chưa xây dựng

được nhiều, chưa tạo được nhiều thứ. Quá trình cộng cư và phát triển, người Kinh dần chiếm được

ưu thế cả về dân số và vai trò của họ trong cộng đồng. Vai trò này của người Kinh thể hiện trên tất

cả mọi mặt của đời sống xã hội từ kinh tế, giáo dục, chính trị, văn hóa,...Người Kinh tạo ra hoặc

mang về cho cộng đồng trong khu vực những giống cây trồng mới, phát triển giao lưu buôn bán

hàng hóa; người Kinh nắm giữ quyền về chính trị, xây dựng hệ thống giáo dục, y tế, phát triển về

văn hóa nghệ thuật. Sự tiếp nhận và thụ hưởng các giá trị này như một thành quả chung của cả cộng

đồng, người Khmer không tránh khỏi việc tiếp nhận cả ngôn ngữ biểu đạt chúng như một quy luật

tất yếu.

2.2. 2. Phương thức tiếng Việt vay mượn từ ngữ tiếng Khmer

2.2.2.1. Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Khmer sang tiếng Việt

Trong lớp từ tiếng Việt vay mượn tiếng Khmer, chúng tôi tìm được các từ được vay mượn

theo phương thức này không nhiều.

Trường hợp wot/wọt (w bật hơi) thôm, tiếng Việt dịch từng thành tố của tiếng

Khmer và giữ nguyên trật tự của các thành tố này: wot/wọt -> chùa , thôm -> lớn -> wot/wọt (w

bật hơi) thôm -> chùa lớn.

Num / nùm (n bật hơi) lât (l bật hơi)/xlât: Num/nùm -> bánh, lât (l bật hơi)/ xlât -> lá ->

Num/nùm (n bật hơi) lât (l bật hơi)/xlât -> bánh lá.

Riêng trường hợp chuôl chnăm (chn bật hơi) thmây, tổ hợp này có ba từ tố có nghĩa: chuôl

có nghĩa là vào, chnăm có nghĩa là năm, thmây có nghĩa là mới. Như vậy, nếu tiếng Việt dịch từng

từ tố của tiếng Khmer thì tổ hợp này chuyển sang tiếng Việt thành vào năm mới. Nhưng thực tế,

tiếng Việt dịch tổ hợp này thành vào năm, nghĩa là tiếng Việt chỉ dịch hai từ tố đầu và để rụng mất

thành tố cuối trong tiếng Khmer. Tuy vậy, dù không được dịch đầy đủ nghĩa là “vô năm mới”

nhưng nghĩa của tổ hợp “vô năm mới” của tiếng Khmer vẫn được tiếng Việt đảm bảo với tổ hợp “vô

năm”.

2.2.2.2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Việt

Đây là phương thức vay mượn theo cách phỏng âm của tiếng Việt. Xét các từ được vay

mượn theo phương thức này, chúng ta thấy hầu hết các từ đều có sự biến đổi về mặt ngữ âm, hoặc

bộ phận hoặc cả âm tiết của từ, so với nguyên ngữ.

(1) Các từ đơn tiết không có tổ hợp phụ âm đầu

(a) Giữ nguyên âm tiết của từ

Không có trường hợp tiếng Việt vay mượn bằng cách giữ nguyên âm tiết của từ.

(b)Biến đổi bộ phận của âm tiết

*Âm đầu:

Ph (hai môi) -> ph: Phuôm -> phum

L (bật hơi) -> l: Lộp > lọp

*Âm chính:

Ô -> o: Lộp -> lọp, xrôc > sóc

Uô -> u: Phuôm -> phum

*Âm cuối:

Trong các từ thống kê được, qua phân tích, chúng tôi thấy rằng, các âm tiết của từ đơn tiết

được vay mượn theo phương thức này có âm vị âm cuối được giữ nguyên từ nguyên ngữ: lộp ->

lọp, xrôc -> sóc, phuôm -> phum,...

*Về thanh điệu:

Tiếng Việt có thể giữ nguyên từ không có thanh điệu thành thanh ngang khi vay mượn hoặc

thêm thanh điệu theo âm sắc của âm tiết tiếng Khmer.

Thêm thanh sắc: xrôc -> sóc

Âm tiết không thanh thành thanh ngang: phuôm ->phum

Âm tiết có âm sắc đi xuống được thanh điệu hóa thành thanh sắc: lộp > lọp

(2) Các từ đơn tiết có tổ hợp phụ âm đầu

Âm tiết hóa các tổ hợp phụ đầu có “x” đứng trước bằng cách biến “x” thành “xà”:

Xno (n bật hơi) -> xà no

Xrông/xrồng -> xà rông

Xbeng -> xà beng

Xla/xlà -> sa la

Trường hợp sa la có thể xem là một biến thể của “xa” thành “sa”. Vì thực tế, việc phát âm

lẫn lộn s - x là một biểu hiện của phương ngữ Nam Bộ.

Âm tiết hóa các tổ hợp phụ âm đầu có “ch (bật hơi/không bật hơi)” đứng trước: biến “ch”

thành “xà”:

Chneng (chn bật hơi) -> xà neng

Chngồm -> xà ngôm

Âm tiết hóa tổ hợp phụ âm đầu có “c” đứng trước: biến “c” thành “cái” hoặc “kế”: cran/cràn

-> cái răng, cnhung (ung phát âm dài) -> cái nhung; cxach -> kế xách

Âm tiết hóa tổ hợp phụ âm đầu có “kh” đứng trước: biến “kh” thành “cà”: khmâu -> cà mau

Đối với tổ hợp âm đầu “xr”: rụng mất âm “r”, biến x > s:

Xrôc > sóc

Trường hợp xrôc còn có sự biến đổi: âm chính ô -> o, thanh điệu hóa âm tiết (thêm thanh sắc

vào âm tiết).

(3). Các từ đa tiết – song tiết

(a) Giữ nguyên một trong hai âm tiết của từ

là bồi/là bôi -> là bôi

đòn chót (ch bật hơi, ot phát âm ngắn) -> đòn xóc

duôc kê -> dù kê

(b) Biến đổi bộ phận của âm tiết

*Âm đầu

Đối với từ có âm tiết biến đổi bộ phận, có những âm vị trong cấu tạo của âm tiết bị biến đổi

nhưng cũng có những âm vị được giữ nguyên.

Cặp âm đầu được giữ nguyên:

C - th -> c - th: cần thô (ô có độ há giữa o và ô) -> cần thơ

d - k -> d - k: duôc kê -> dù kê

Cặp âm đầu bị biến đổi:

B - ch (bật hơi) -> b - x: bai/bài châu (ch bật hơi) ->bãi xàu

R ( bật hơi)- b -> r - b: rô (r bật hơi, ô phát âm giữ o và ô) băm/rồ ( r bật hơi, ô có độ há giữa

o và ô) bằm -> rô băm .

C - ch (ch bật hơi) > c - x: cần che (ch bật hơi, e có độ mở giữa ê và e) -> cần xé

m-kh -> m - c: mằng khut -> măng cụt

m (bật hơi) - x -> m - th: mề (m bật hơi) xo -> mỹ tho

*Âm chính

Cặp âm chính được giữ nguyên:

Ă - u -> ă - u: mằng khút -> măng cụt

Ô - a > ô - a: rô (r bật hơi, ô phát âm giữ o và ô) băm/rồ (r bật hơi, ô có độ há giữa o và ô)

bằm -> rô băm

Cặp âm chính bị biến đổi:

 - ô -> â - ơ: cần thô (ô có độ há giữa o và ô) -> cần thơ

Â-e (có độ mở giữa e và ê) > â - e: cần che (ch bật hơi, e có độ mở giữa ê và e) -> cần xé

Ê - o -> y - o: mề (m bật hơi) xo -> mỹ tho

Uô - ê -> u - ê: duôc kê -> dù kê

*Âm cuối

Các âm tiết của các từ trên đây khi đi vào tiếng Việt thường là được giữ nguyên về vị trí âm

cuối. Tức là nếu các âm tiết của từ Khmer trong cấu tạo âm tiết không có âm vị âm cuối hoặc mang

âm vị nào thì sẽ được giữ nguyên như trong nguyên ngữ. Chỉ có một trường hợp âm tiết thứ nhất

của từ bị rụng âm cuối: duôc kê -> dù kê.

*Thanh điệu

Điểm khác biệt cơ bản giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở chỗ tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh

điệu còn tiếng Khmer là ngôn ngữ không có thanh điệu. Tiếng Việt có tất cả sáu thanh. Trong đó,

thanh ngang có thanh tính là khi tham gia cấu âm vào âm tiết, âm vực của âm tiết cũng giống như

âm tiết không mang thanh điệu. Tất cả các âm tiết tiếng Việt điều mang thanh điệu. Đặc điểm này sẽ

chi phối rất lớn về mặt ngữ âm lên ngôn ngữ mà tiếng Việt vay mượn. Biểu hiện rõ nhất là các âm

tiết của các ngôn ngữ được sẽ được tiếng Việt thanh điệu hóa. Và tiếng Khmer cũng không ngoại lệ.

Thanh điệu được tiếng Việt gắn cho âm tiết tiếng Khmer chịu sự quy định của hai yếu tố: một là ý

thức mô phỏng nguyên ngữ; hai là đặc điểm cấu âm của các thanh điệu tiếng Việt cũng góp phần

quy định việc phối hợp thanh điệu giữa các âm tiết trong từ.

2.2.2.3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm

Nếu tiếng Khmer vay mượn từ tiếng Việt theo phương thức này với một số lượng từ tương

đối nhiều (gần 150 từ) thì trong tiếng Việt, chúng tôi chỉ tìm thấy hai từ được tiếng Việt vay mượn

từ tiếng Khmer, đó là từ xen (e phát âm giữa ê và e) dôlta/tà và đuông. Xen dôlta/tà có nghĩa là

cúng ông bà (xen -> cúng, dôlta/tà -> ông bà -> xen dôl ta/tà -> cúng ông bà). Phong tục cúng ông

bà, cả người Khmer và người Việt đều có. Dù vay mượn từ tiếng Khmer xen dôl ta/tà với nghĩa là

cúng ông bà nhưng tiếng Việt không dùng xen dôl ta/tà trong lễ cúng và việc cúng ông bà của

người Kinh mà chỉ dùng xen dôl ta/tà để chỉ một lễ hội thường niên của người Khmer-lễ hội xen

dôl ta/tà, diễn ra vào tháng 9 âm lịch hàng năm. Người Khmer gọi lễ hội này là dôlta/tà. Còn Xen

dôlta/tà là cụm từ được dùng để chỉ hoạt động tế lễ cúng dâng cho ông bà - những người đã khuất

của người Khmer.

Như vậy, trong trường hợp này, tiếng Việt vay mượn từ và nghĩa của từ trong tiếng Khmer

nhưng đã sử dụng nghĩa của từ theo nghĩa chuyển (dùng tên hoạt động chủ yếu - cúng ông bà - trong

lễ hội để gọi tên cho lễ hội và thu hẹp phạm vi nghĩa: phong tục cúng ông bà có ở cả người Kinh và

người Khmer nhưng nghĩa cúng ông bà không được tiếng Việt dùng trong lễ cúng này của người

Kinh mà chỉ dùng cho người Khmer).

Với đuông, cả nghĩa và cách phát âm, tiếng Việt giữ nguyên từ ngôn ngữ được vay, tức là

giữ nguyên theo tiếng Khmer.

2.2.2.4. Vay mượn bằng cách dịch một thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại trong tổ hợp từ tiếng Khmer

Số lượng từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer theo phương thức này cũng không nhiều

(chưa đến 10 từ).

Xét lớp từ được vay mượn theo phương thức này, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các từ có

cấu tạo theo phương thức ghép, gồm hai từ tố. Khi vay mượn, một số trường hợp được tiếng Việt

dịch thành tố thứ nhất, phỏng âm đối với thành tố thứ hai hoặc dịch từ thành thứ hai, phỏng âm đối

với từ thành thứ nhất.

Trường hợp prec/prẹc (e phát âm giữa e và ê, pr bật hơi) tia/thè được tiếng Việt chuyển

thành rạch tìa (một dịa danh ở Kiên Giang). Ở đây, prec/prẹc được dịch thành rạch. Trong tiếng

Khmer, prec/prẹc được dùng để chỉ kênh, rạch, sông nhỏ và vừa. Như vậy, bốn đối tượng kênh,

rạch, sông nhỏ và sông vừa được tiếng Khmer dùng một từ để định danh chung là prec/prẹc, còn

sông lớn hay sông cái thì tiếng Khmer gọi là tollê/lề (l bật hơi). Trong khi, tiếng Việt có bốn từ

kênh, rạch, sông và sông cái để định danh riêng cho bốn đối tượng này. Và khi dịch prec/prẹc

trong prec/prẹc tia/thè, tiếng Việt dịch thành rạch. Còn từ tố tia/thè (có nghĩa là vịt), phương ngữ

Sóc Trăng (trong đó có Kiên Giang) thì phát âm là tia, phương ngữ Trà Vinh thì phát âm thành thè.

Vì Rạch Tìa là địa danh của Kiên Giang nên tìa là phỏng âm từ tia của tiếng Khmer Kiên Giang.

Như vậy, xét về mặt ngữ âm, khi được phỏng âm sang tiếng Việt, tia chỉ có sự biến đổi là thêm

thanh huyền và giữa nguyên phần âm đoạn của âm tiết. Và prec/prẹc tia/thè chuyển thành Rạch tìa

trong tiếng Việt.

Wọt/wot Lần (l bật hơi) là tên một ngôi chùa ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Wọt/wot (có

nghĩa là chùa) được dịch sang tiếng Việt thành chùa. Khi phỏng âm, yếu tố lần đã có sự biến đổi

đối với toàn bộ các âm vị cấu tạo của âm tiết: phụ âm đầu /l/ bật hơi thì bị mất thanh tính bật hơi,

nguyên âm chính hàng sau â chuyển thành nguyên âm hàng trước e, âm cuối n chuyển thành ng, âm

sắc của âm tiết giống như có thanh huyền được thanh điệu hoa thành thanh ngang Wọt/wot Lần

chuyển thành Chùa Leng trong tiếng Việt.

Ghe ngo là từ vay mượn từ tuk/ thụk ngô/ngồ (ng bật hơi) của tiếng Khmer. Trong đó,

tuk/thụk được dịch thành ghe, ngo là từ phỏng âm của ngô/ngồ. Trong cách phỏng âm này, với

ngô của phương ngữ Trà Vinh, khi được phỏng âm sang tiếng Việt thì có sự biến đổi ở: âm đầu ng

bật hơi bị mất thanh tính bật hơi, âm chính ô thành o âm sắc của âm tiết giống như có thanh huyền

được thanh điệu hoa thành thanh ngang; với ngồ của phương ngữ Sóc Trăng, sự biến đổi chỉ thể

hiện ở vị trí âm chính ô -> o.

Trong tia/thè xiem, tia/thè được dịch thành vịt, xiem được phỏng âm thành xiêm. Trong

cách phỏng âm, âm chính ie chuyển thành âm đôi iê, xiem thành xiêm. Và tia / thè xiem chuyển

thành vịt xiêm.

Trong các trường hợp trên, các từ được cấu tạo từ hai từ tố - hai tiếng. Ngoài ra, từ vay

mượn theo phương thức này còn có các từ gồm hai từ tố nhưng có ba tiếng, từ tố thứ nhất một tiếng

và từ tố thứ hai gồm hai tiếng.

Trong prec/prẹc (pr bật hơi) ta/tà cuôl, yếu tố thứ nhất là prec/prẹc (pr bật hơi) , yếu tố

thứ hai là ta/tà cuôl, gồm hai tiếng. Khác với prec/prẹc tia/thè ở trên, prec/prẹc trong trường hợp

này không được tiếng Việt dịch là rạch mà dịch là sông. Ta / tà cuôl được phỏng âm thành Trà

Cuông. Việc phỏng âm ta/tà thành trà đã làm xảy ra những biến đổi: nếu theo phương ngữ Sóc

Trăng, âm đầu t chuyển thành tr, thêm thanh huyền vào âm tiết, còn theo phương ngữ Trà Vinh thì

chỉ xảy ra sự biến đổi t -> tr. Prec/prẹc (pr bật hơi) ta/tà cuôl chuyển thành sông Trà Cuông.

Trường hợp cá lò tho, tiếng Việt chuyển đổi trây cân/cần thô của tiếng Khmer như sau:

trây dịch thành cá, cân/cần thô được phỏng âm thành lò tho. Sự phỏng âm làm xảy ra những biến

đổi: âm đầu c -> l, âm chính â -> o, rụng mất âm cuối n và thêm thanh huyền (nếu theo cách phát

âm của Sóc Trăng), vì vậy cân/cần -> lò; ở tiếng thứ hai, thô -> tho: chỉ xảy ra sự biến đổi ô -> o.

Theo phương thức này, chúng tôi cũng xét đến một cụm động từ, pnăng/pnằng tuk/thụk

ngô/ngồ. Trong tổ hợp này, tuk/thụk ngô/ngồ chuyển thành ghe ngo như đã miêu tả ở trên. Thành

tố chính là động từ pnăng/pnằng cũng được chuyển sang tiếng Việt theo phương thức dịch,

pnăng/pnằng có nghĩa là đua. Kết quả là cụm từ pnăng/pnằng tuk/thụk ngô/ngồ chuyển thành

đua ghe ngo trong tiếng Việt.

*Tên lúa:

Phương ngữ Nam Bộ tồn tại một bộ phận từ khá phong phú là các tên lúa mà tiếng Việt đã

vay mượn từ tiếng Khmer. Các tên lúa này có cấu tạo: LÚA + TÊN LÚA. Tiếng Việt đã vay mượn

các từ này theo cách: dịch yếu tố LÚA từ XRÂU/XRÂU (r bật hơi, âu phát âm hẹp hơn), yếu tố tên

lúa

- Tiếng Khmer có rất nhiều tên lúa được gọi như tên của người con gái. Tức là có yếu tố

NÈNG (n bật hơi)/NIÊNG (có nghĩa là nàng) và đi sau NÈNG/NIÊNG là tên của NÈNG/NIÊNG. Khi

vay mượn các tên lúa này, tiếng Việt dịch NÈNG/NIÊNG thành NÀNG, các tên của NÈNG/NIÊNG

thì được phỏng âm.

Lúa nàng ca: ca <- ca / cà

Lúa nàng caty: caty <- ca thi (i phát âm ngắn)

Lúa nàng chà muộn: chà muộn <- chmuôl

Lúa nàng cô: cô <- cô/khồ (ô phát âm giữa o và ô)

Lúa nàng cốc: cốc <- khột

Lúa nàng rít: rít <- rịch (r bật hơi)

Lúa nàng ết: ết <- ệk

Lúa nàng gót: gót <- rột (r bật hơi)

Lúa nàng mâu: mâu <- mào

Lúa nàng mét: mét <- mẹt (m bật hơi)

Lúa nàng mít: mít <- mịch (m bật hơi)

- Tên lúa gốc Khmer của tiếng Việt cũng được gọi tên theo xuất xứ của giống lúa: SÓC + TÊN

SÓC. SÓC là tiếng đọc trại đi của XRÓC trong tiếng Khmer, tên sóc cũng được phỏng âm sang

tiếng Việt

Lúa sóc chập

Lúa sóc chủng

Lúa sóc răng

Lúa sông chop

- Các tên lúa Khmer được gọi theo cách miêu tả đặc điểm của loại lúa. Khi vay mượn, tiếng Việt đã

phỏng âm đối với yếu tố chỉ đặc điểm trong các tên lúa này: lúa tho mo, lúa chông be.

- Một số tên lúa cũng được tiếng Việt phỏng âm theo các cách định danh khác trong tiếng Khmer:

lúa tra bâu, lúa sậy, lúa nhim, lúa nhung, lúa chum, lúa chùm, lúa choc cháp,..

2.2.2.5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Việt với từ tiếng Khmer

Ở lớp từ tiếng Việt vay mượn tiếng Khmer, chúng tôi thống kê được một bộ phận từ ngữ

được vay mượn theo cách: một từ được cấu tạo gồm yếu tố Việt và yếu tố Khmer. Các từ được vay

mượn theo phương thức này xuất hiện nhiều ở tên ấp, tên chợ, tên chùa, tên lúa, tên cầu và một số ở

tên gọi khác.

(1) Tên ấp

Đối với các tên ấp, yếu tố Việt là từ chỉ đơn vị hành chính ẤP kế hợp với địa danh là yếu tố

Khmer theo kiểu: ấp + địa danh Khmer.

Yếu tố địa danh Khmer khi đi vào tiếng Việt có những đặc điểm sau:

(a) Xrôc (xóm) được tiếng Việt phỏng âm thành sóc. Từ Xrôc thành sóc, cách phỏng âm của tiếng

Việt đã làm xảy ra những biến đổi của âm tiết như: rụng r trong tổ hợp âm đầu xr, âm chính ô -> o, thanh

điệu hóa thành thanh sắc cho âm tiết. Kết hợp sau sóc là các tên sóc. Các tên sóc thường là từ miêu tả đặc

điểm của sóc. Với các từ chỉ tên sóc này, tiếng Việt có ba con đường để gọi tên: một là phỏng âm theo

tiếng Khmer, hai là dịch từ tiếng Khmer, và ba là tiếng Việt tự đặt tên bằng cách miêu tả đặc điểm của

sóc.

-Ấp + sóc + địa danh phỏng âm tiếng Khmer:

Ấp Sóc Sáp: sáp là từ phỏng âm của xap, xap tiếng Khmer có nghĩa là ngọt, xóm có nước

ngọt.

Âp Sóc Tro: tro là tiếng đọc trại đi của cro/crò, nghĩa là nghèo, xóm nghèo.

- Ấp + sóc + địa danh dịch nghĩa từ tiếng Khmer:

Ấp Sóc Xoài: xoài là dịch từ xwai.

Ấp Sóc Cụt: cụt được dịch từ thòl (có nghĩa là cùn).

- Ấp + sóc + địa danh là từ miêu tả đặc điểm sóc của tiếng Việt : Ấp Sóc Cạn, Ấp Sóc Cầu, Ấp Sóc

Dong.

(b) Phnô (ph phát âm hai môi, ô phát âm giữa ô và o) trong tiếng Khmer có nghĩa là giồng. Phnô

được tiếng Việt phát âm trại đi thành nô, tức là đã làm rụng mất ph trong tổ hợp phụ âm đầu phn của

phnô. Đặc điểm thứ hai của địa danh Khmer khi vào tiếng Việt là nô kết hợp với tên phnô. Các tên

phnô tiếng Việt vay mượn mà chúng tôi thống kê được đều theo phương thức phỏng âm và một số

theo phương thức dịch.

Theo phương thức phỏng âm:

Phnô lơ/lờ (l bật hơi) (giồng trên) -> nô lựa

Phnô lụp/lụp (l bật hơi) (giồng lắp) -> nô lụp

Phnô mèn (m bật hơi) (giồng giàu có) -> nô men

Theo phương thức dịch:

Phnô cồn/côn -> nô công: cồn côn được dịch thành công.

(c) Ô trong tiếng Khmer có nghĩa là các kênh thủy lợi trên đồng ruộng. Tiếng Khmer có nhiều địa

danh bắt đầu bằng ô. Kết hợp sau ô là các từ chỉ đặc trưng của khu vực. Tiếng Việt đã vay mượn các địa

danh này theo cách phỏng âm.

Ô Trào -> Ô Trao: âm sắc của âm tiết giống như có thanh huyền được thanh điệu hóa thành

thanh ngang.

Ô Chịch (ch bật hơi) -> Ô Chít: mất thanh tính bật bơi của âm đầu ch, âm chính i giữ nguyên,

âm cuối ch -> t, âm sắc giống như có thanh nặng của âm tiết được thanh điệu hóa thành thanh sắc .

Ô Rằng (r bật hơi) -> Ô Răng: âm đầu r mất thanh tính bật hơi, âm chính ă và âm cuối ng giữ

nguyên, âm sắc giống như có thanh huyền của âm tiết -> thanh ngang.

Ô Thừng -> Ô Tưng: âm đầu th -> t, giữ nguyên âm chính ư và âm cuối ng, âm sắc giống

như có thanh huyền của âm tiết > thanh ngang.

(d) Âm tiết hóa các tổ hợp phụ âm đầu: các tổ hợp phụ âm đầu của âm tiết có T đứng trước sẽ

âm tiết hóa T thành Trà:

Tđiêu -> Trà Điêu

Tkha -> Trà Kha

Tmềm ->Trà Mềm

Tkhau -> Trà Kháo, thêm thanh sắc cho âm tiết thứ hai.

Txât -> Trà Sất

Cnọt -> Trà Nóc, âm tiết thứ hai cũng có sự biến đổi: âm cuối t -> c, âm sắc giống như có

thanh nặng được thanh điệu hóa thành thanh sắc.

(e) Các địa danh Khmer là từ ghép: yếu tố thứ nhất là đại từ TÀ (có nghĩa là ông) và yếu tố

thứ hai là tên của TÀ. Cả hai yếu tố - hai tiếng đều được tiếng Việt phỏng âm, trong đó, TÀ -> TÀ,

yếu tố thứ hai phỏng âm theo từng âm tiết cụ thể:

Tà Ròm -> Tà Rom: âm tiết thứ hai có sự chuyển đổi từ âm sắc như thanh điệu thanh huyền

thành thanh ngang.

Tà lọt -> Tà Lóc: biến đổi âm cuối và thanh điệu của âm tiết thứ hai: âm sắc của âm tiết như

thanh nặng -> thanh sắc, t -> c.

Tà Xăng -> Tà Săng: biến đổi phụ âm đầu x ->s.

Tà Câu (âu phát âm tròn môi và hẹp hơn trong tiếng Việt) -> Tà Cụ: thanh điệu hóa thành

thanh nặng cho âm tiết thứ hai.

(2) Tên cầu

Trong các tên cầu, yếu tố Việt CẦU kết hợp với yếu tố Khmer được phỏng âm sang tiếng

Việt. Các yếu tố Khmer trong các tên cầu có những đặc điểm sau:

(a) Âm tiết hóa các tổ hợp phụ âm đầu của các từ đơn tiết:

Cnhun -> Cà Nhum: cnh được âm tiết hóa c thành cà; nhun -> nhum, nghĩa là biến đổi âm

cuối n -> m.

Chkha -> Chắc Kha: âm tiết hóa ch trong tổ hợp chkh thành chắc; kha -> kha.

(b) Trong tên cầu, yếu tố Khmer cũng có một đặc điểm giống như đặc điểm (e) của yếu tố

Khmer trong tên ấp. Nghĩa là cũng có loại tên là tổ hợp ghép gồm TÀ (ông) + tên của TÀ. Các tên

này được phỏng âm: TÀ ->TÀ, âm tiết tên TÀ được phỏng âm theo từng trường hợp

Tà Nèng (n bật hơi) -> Tà Niên: âm đầu n mất thanh tính bật hơi, âm chính e -> iê, âm cuối

ng -> n, âm sắc như thanh huyền -> thanh ngang.

(3) Tên chợ

Một số tên chợ trong tiếng Việt được kết hợp theo kiểu: yếu tố Việt CHỢ + tên chợ là yếu tố

Khmer được tiếng Việt phỏng âm:

Chợ Sóc Ven

Chợ Trà Trót

Sóc Ven là từ phỏng âm từ Xroc wềng (w bật hơi) có nghĩa là xóm dài. Hai âm tiết này khi

được phỏng âm sang tiếng Việt có nhiều biến đổi. Âm tiết thứ nhất: tổ hợp âm đầu xr bị rụng mất r,

x -> s, thanh điệu hóa - thêm thanh sắc cho âm tiết. Âm tiết thứ hai: âm đầu w (bật hơi) -> v, âm

chính ê -> e, âm cuối ng -> n, chuyển âm sắc như thanh huyền -> thanh ngang.

Trà Trót được phỏng âm từ trọt. Như vậy, ngoài việc phỏng âm có biến đổi âm sắc của âm

tiết như thanh nặng -> thanh sắc đối với trọt, tiếng Việt còn thêm trà trước trót.

(4) Tên chùa

Với các tên chùa Khmer, người Việt thường gọi tên bằng cách kết hợp CHÙA với tên xóm ấp

nơi chùa tọa lạc, hoặc với tên một sư cả nổi tiếng từng làm trụ trì ở chùa hoặc có công cán lớn với

chùa đó theo cách phỏng âm từ tiếng Khmer, phỏng âm tên chùa theo cách gọi dân gian của người

Khmer mà ít khi gọi theo tên chính thức của chùa.

Chùa Âng: âng <- ầng (Âng là tên dân gian của chùa).

Chùa Cả Đuốc Lớn, Chùa Cả Đuốc Nhỏ: lớn, nhỏ là từ tiếng Việt ghép vào để phân biệt hai

ngôi chùa cùng có tên là Cả Đuốc. Cả là sư cả. Đuốc là tên sư cả được phỏng âm: Đuốc <- Đột.

Chùa Cà Nhung, Chùa Rạch Tìa, Chùa Cỏ Khía, Chùa Sóc Ven, Chùa Xà Nhi, Chùa Chắc

Băng, là các tên chùa được tiếng Việt gọi tên chùa theo tên xóm ấp nơi chùa tọa lạc.

Chùa Cà Nhung: Cà Nhung <- Cnhun

Chùa Rạch Tìa: Rạch Tìa <- Rach (r bật hơi) Tia

Chùa Cỏ Khía: Cỏ Khía <- Cô Khia

Chùa Chắc Băng: Chắc Băng <- phằng/păng (cách nói rút ngắn từ chắt om phằng/păng).

Chùa Sóc Ven: Sóc Ven <- Xroc Wềng (w bật hơi).

Có trường hợp tiếng Việt gọi tên chùa theo tên sư cả của chùa nhưng không gọi CẢ + tên sư

cả mà phỏng âm TÀ (Tà <- lột tà (l bật hơi) - người đàn ông đã có vợ trước khi đi tu) theo tiếng

Khmer.

Chùa Tà Niên: Tà Niên <- Tà Nèng (n bật hơi)/Niêng.

(5) Các tên gọi khác

(a) Với một số tên gọi, trong tiếng Khmer vốn không có đại từ đứng đầu, nhưng khi vào

tiếng Việt, các tên gọi này được kết hợp yếu đại từ ÔNG đứng đầu tổ hợp và tên gọi gốc Khmer thì

được phỏng âm

Lột (l bật hơi)/lôt: ông lục

Mề (m bật hơi)/mê: ông mê

Acha/à chà: ông acha

Nặc tà/niêc ta: ông tà; trường hợp này còn có hiện tượng lược bỏ âm tiết đầu, chỉ giữ lại âm

tiết thứ hai của từ Khmer, tức đã lược bỏ nặc/niêc, chỉ phỏng âm đối với tà / ta.

(b) Các truyện dân gian Khmer khi dược kể bằng tiếng Việt, tên một số nhân vật được tiếng

Việt gán cho yếu tố THẦN đứng trước, tên nguyên ngữ thì được phỏng âm.

Maha phrum (ph hai môi, r bật hơi): thần Maha Pờrum

Phră (ph hai môi, r bật hơi) inh: thần Pờ - rặc In

Phră (ph hai môi, r bật hơi) chanh: thần Pờ - rặc chanh

Phră (ph hai môi, r bật hơi) a thịch: thần Pờ - rặc Atít

Rè/rìa ( r bật hơi): thần Rìa hu

(c) Kết hợp yếu tố Việt với yếu tố Khmer là hai yếu tố đồng nghĩa. Nghĩa là, tiếng Việt vay

mượn từ tiếng Khmer bằng cách phỏng âm rồi kết hợp vào tổ hợp đó bằng một từ đồng nghĩa của

tiếng Việt. Vì vậy, các từ Khmer vào tiếng Việt trở thành các tổ hợp ghép với một yếu tố Việt và

một yếu tố Khmer đồng nghĩa với nhau.

Xâm lo trong tiếng Khmer có nghĩa là canh, vào tiếng Việt thành canh sâm lo. Và khi đó,

nghĩa trong nguyên ngữ của xâm lo cũng thay đổi: nghĩa chung, nghĩa loại lớn đã bị thu hẹp chỉ còn

nghĩa chỉ loại cụ thể, nghĩa chỉ các loại canh nói chung chỉ còn nghĩa chỉ một loại canh cụ thể: tùy

theo từng vùng, canh sâm lo là canh mướp hoặc canh măng nấu với nhiều loại rau (lá bình bát dây,

lá bồ ngót, lá chông co) và có nêm mắm bò hóc.

Người Khmer gọi nộp (n bật hơi) là loại dụng cụ làm bằng chiếu hoặc lá dừa nước, khi vào

nằm sẽ cuốn lại được, có tác dụng tránh lạnh và tránh cho khỏi bị muỗi đốt. Tiếng Việt gọi dụng cụ

này là chiếu nóp. Như vậy, thực chất, giữa chiếu (yếu tố tiếng Việt) và nộp (yếu tố Khmer) có sự

đồng nghĩa, chúng tạo thành tổ hợp từ ghép.

Cbặp trong tiếng Khmer là những xương lá dừa nước được tước ra, phơi khô, dùng để làm

dây chầm lá, lợp nhà, buộc vách lá. Cbặp này đồng nghĩa với lạt của tiếng Việt. Tiếng Việt lại có từ

lạt cà bắp, tức là kết hợp lạt của tiếng Việt với cà bắp - từ phỏng âm từ cbặp. Tiếng Việt dùng lạt

cà bắp để chỉ thứ khác không phải là vật như chúng tôi miêu tả. Lạt cà bắp theo tiếng Việt đó là

phần vỏ của bẹ dừa nước được lát ra, xẻ nhỏ, phơi khô, dùng làm dây. Và theo nghĩa này trong tiếng

Việt, nghĩa ban đầu trong nguyên ngữ của cbặp đã bị chuyển.

(4) Các tổ hợp khác

Trường hợp rau om là tên gọi gồm yếu tố Việt là RAU, kết hợp với yếu tố vay mượn Khmer

OM. Trong tiếng Khmer, chỉ gọi rau om là m - òm, người Khmer không gọi mlề m - òm/om, tức

không có yếu tố rau đứng làm yếu chính ở trước. Khi vào tiếng Việt, người Việt đã kết hợp rau vào,

bỏ yếu tố bán âm tiết m, chỉ giữ lại om.

Mắm bò hóc, mắm bò ót là hai tên gọi bắt nguồn từ prhoc/p - hoc và pr - ot/p - ọt của tiếng

Khmer. Như vậy, prhoc/p - hoc và pr - ot/p - ọt vốn không có yếu tố mắm đứng trước, khi vào tiếng

Việt, tiếng Việt mới kết hợp yếu tố Việt này vào. Bò là yếu tố được âm tiết hóa từ p trong tổ hợp

phụ âm đầu của nguyên ngữ, đồng thời tiếng Việt cũng làm rụng mất r trong tổ hợp ba phụ âm đầu

của nguyên ngữ.

Trong nghệ thuật dân gian Khmer có múa sadam, tiếng Khmer gọi là hooc (nhảy)

xadam/dàm. Khi đối chiếu múa sadam và hooc (nhảy) xadam/dàm, chúng ta thấy có sự tương ứng

hooc (nhảy) = múa, sadam = xadam/dàm, nhưng thật ra, múa không phải là yếu tố dịch từ hooc

(nhảy) mà là yếu tố tiếng Việt được kết hợp vào, theo sự định danh trên cở sở tri giác và quan sát

của người Việt về nghệ thuật múa sadam của người Khmer.

Người Việt có cách nói mời đám ông lục sal. Cách nói này có ảnh hưởng từ người Khmer.

Có thể phân tích tổ hợp này như sau: mời là yếu tố dịch từ chênh (ch bật hơi), đám và ông là yếu tố

Việt, còn lục và sal là yếu tố phỏng âm ( san <- chanh (ch bật hơi). Như vậy tổ hợp này bao gồm cả

yếu tố Khmer và yếu tố Việt được kết hợp vào.

Một số đồ vật của người Khmer vốn trong tên gọi của nó không có yếu tố cái, khi vào tiếng

Việt, các tên gọi này được phỏng âm và được kết hợp vào yếu tố cái đứng trước.

Cà òm/ca om -> cái cà om

Cràn/cran -> cái cà ràng

Cwầu -> cái quảu

Chneng/chniêng (n bật hơi) -> cái cà/xà neng

Các trường hợp Bến đò Tà Nị, chiếu cà hom, cà lang rơm, chằm đốp là các trường hợp mà

trong từ có sự kết hợp giữa yếu tố Việt và yếu tố Khmer. Yếu tố Vệt trong các trường hợp này là:

Bến đò, chiếu, rơm, chằm. Còn yếu tố Khmer là các từ được phỏng âm:

Tà nì <- tà Nì (n bật hơi)

Cà hom <- c - hom

Đốp <- ành đọp

2.2.2.6.Nhận xét

Với vai trò là ngôn ngữ quốc gia, tiếng Việt có ưu thế về mọi mặt để trở thành ngôn ngữ

mạnh. Theo quy luật của sự ảnh hưởng ngôn ngữ, tiếng Việt ít chịu sự ảnh hưởng từ tiếng Khmer.

Và điều này thể hiện rõ ở số lượng từ tiếng Việt vay mượn của tiếng khmer. Nếu như từ tiếng Việt

xuất hiện nhiều ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong tiếng Khmer thì tiếng Khmer chỉ xuất hiện

nhiều trong các tên địa danh - tên ấp, tên lúa, tên chùa; và một lượng khiêm tốn tên các vật dụng,

cây cối, lễ hội, phong tục, ... của người Khmer.

Tiếng Khmer vay mượn từ tiếng Việt và tiếng Việt vay mượn từ tiếng Khmer đều theo những

phương thức như nhau. Chỉ có điều số lượng từ được phân bố theo mỗi phương thức trong tiếng

Việt là không đồng đều nhau. Có phương thức từ được mượn rất ít (như phương thức dịch nghĩa từ

tiếng khmer sang tiếng Việt chỉ có vài từ) nhưng có phương thức lại vay mượn rất nhiều từ, chẳng

hạn như phương thức kết hợp giữa từ tiếng Việt với từ tiếng Khmer. Phương thức này chủ yếu được

sử dụng để vay mượn các tên địa danh - tên ấp, tên chùa, tên lúa.

Về ngữ âm:

Các tổ hợp phụ âm đầu trong các âm tiết từ tiếng Khmer khi vào tiếng Việt hoặc là được âm

tiết hóa hoặc bị rụng mất phụ âm thứ hai trong tổ hợp.

Âm tiết hóa các tổ hợp phụ âm đầu như:

X/CH + x: X -> xà

C + x: C -> cái

Đối với các âm vị phụ âm đầu đơn, âm /ph/ trong tiếng Việt là âm môi - răng, còn trong tiếng

Khmer là âm hai môi, khi vào tiếng Việt, các âm tiết Khmer có âm hai môi PH sẽ chuyển thành âm

môi - răng; các âm có thanh tính bật hơi trong tiếng Khmer như /ng, l, n, ch/ sẽ chuyển thành âm

tương ứng không bật hơi trong tiếng Việt: lộp (l bật hơi) -> lọp, chneng (ch, n bật hơi) -> xà neng,

thuc ngồ (ng bật hơi) -> ghe ngo,..

Một số âm chính cũng xảy ra sự biến đổi: ô -> ơ, ê -> y, âm hẹp phát âm có độ há giữa e và ê

chuyển thành e, âm đôi uô -> u.

Đối với các từ song tiết Khmer khi vào tiếng Việt, có trường hợp một trong hai âm tiết của từ

được giữ nguyên, có trường hợp, cả hai âm tiết đều có sự biến đổi các bộ phận cấu tạo của chúng.

Về các vị trí của hai âm tiết này, có vị trí được giữ nguyên, có vị trí sẽ bị biến đổi.

Một điểm đáng lưu ý là, ở cả hai hướng tiếng Khmer vay mượn từ tiếng Việt và hướng tiếng

Việt vay mượn từ tiếng Khmer, trong cấu tạo âm tiết của từ, âm vị âm cuối của âm tiết ít khi xảy ra

sự biến đổi từ ngôn ngữ được vay sang ngôn ngữ vay, mặc dù như đã nêu ở các phần trước, các âm

vị âm cuối của tiếng Việt và tiếng Khmer có nhiều âm không tương ứng nhau, có nhiều âm cuối của

tiếng Khmer không có trong tiếng Việt.

Về thanh điệu, sự chi phối của ngôn ngữ vay mang thanh điệu - tiếng Việt - lên ngôn ngữ

được vay không mang thanh điệu - tiếng Khmer thể hiện các đặc điểm sau:

(1) Các âm tiết không mang thanh điệu -> âm tiết mang thanh ngang.

(2) Thêm thanh điệu theo âm sắc của nguyên ngữ: thêm thanh sắc hoặc nặng.

Một điểm đáng ghi nhận nữa là, sự biến đổi đối với các âm trong cấu tạo âm tiết của từ có

xảy ra hay không hoặc xảy ra ít hay nhiều còn tùy thuộc vào sự khác biệt về mặt ngữ âm giữa hai

phương ngữ Khmer Trà Vinh và Khmer Sóc Trăng. Cùng một từ được vay mượn, nếu xét theo

phương ngữ Trà Vinh thì có thể có xảy ra sự biến đổi ở âm vị này nhưng nếu xét theo phương ngữ

Khmer Sóc Trăng thì có thể xảy ra sự thay đổi ở âm vị khác. Chẳng hạn, với từ rạch tìa, Khmer Trà

Vinh phát âm là phrẹc thè, Khmer Sóc Trăng phát âm là Phrẹc Tia. Như vậy, nếu đối chiếu tìa với

thè thì sự biến đổi: th -> t, e -> ia; tia -> tìa thì chỉ có sự biến đổi về thanh điệu. Trường hợp ghe ngo

cũng minh chứng cho điều này. Với phương ngữ Trà Vinh là thục ngồ (ng bật hơi), với Khmer Sóc

Trăng là tuc ngô. Ngồ (ng bật hơi) -> ngo: ng trong nguyên ngữ mất thanh tính bật hơi, ô -> o, mất

thanh điệu thanh huyền; ngô -> ngo: chỉ có sự biến đổi đối với âm chính là ô -> o.

Về mặt nghĩa,

Đối với cả các từ được vay mượn theo phương thức dịch nghĩa và yếu tố được dịch trong tổ

hợp từ được mượn theo phương thức dịch thành tố và mô phỏng đối với thành tố còn lại, có nhiều từ

nghĩa của nguyên ngữ bị thu hẹp và bị giới hạn phạm vi sử dụng. Đó là trường hợp sên dolta.

Đối với các từ nhiều nghĩa, cùng một từ, trong tổ hợp vay mượn này được dịch theo nghĩa

này nhưng trong tổ hợp vay mượn khác lại được dịch theo nghĩa khác. Prẹc trong tiếng Khmer có

nhiều nghĩa biểu vật: kênh, rạch, sông nhỏ và vừa. Với prẹc tà cuôl thì dịch thành sông Trà Cuôn,

với Prẹc tia thì dịch là Rạch Tìa. Như vậy, cùng một từ prẹc nhưng trong tổ hợp này thì dịch là sông

nhưng trong tổ hợp khác thì dịch là rạch.

Tiểu kết

Trong quá trình tiếp xúc, tiếng Việt và tiếng Khmer vay mượn từ ngữ của nhau theo năm

phương thức:

Về phương thức tiếng Khmer vay mượn từ ngữ tiếng Việt, gồm các phương thức cụ thể như:

1.Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Việt sang tiếng Khmer

2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Khmer

3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm

4. Vay mượn bằng cách dịch một hoặc một vài thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với

thành tố còn lại trong tổ hợp từ tiếng Việt

5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Khmer với từ tiếng Việt

Về phương thức tiếng Việt vay mượn từ ngữ tiếng Khmer, gồm các phương thức cụ thể như:

1. Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Khmer sang tiếng Việt

2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Việt

3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm

4. Vay mượn bằng cách dịch một thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn

lại trong tổ hợp từ tiếng Khmer

5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Việt với từ tiếng Khmer

Các từ ngữ, từ tố tiếng Việt khi được tiếng Khmer vay mượn theo phương thức phỏng âm

thường xảy ra những sự biến đổi ở các bộ phận cấu tạo của âm tiết (như âm đầu, âm đệm, âm chính,

âm cuối và thanh điệu). Về mặt nghĩa, nghĩa nguyên ngữ của các từ tiếng Việt khi vào tiếng Khmer

có trường hợp được giữ nguyên, có trường hợp thu hẹp nghĩa, có trường hợp tiếng Khmer sáng tạo

nghĩa theo kiểu kết hợp nét nghĩa của nghĩa này với nét nghĩa của nghĩa khác trong một từ nhiều

nghĩa để tạo ra nghĩa mới.Tuy nhiên, vẫn có trường hợp, các từ tiếng Việt đi vào tiếng Khmer vẫn

giữ nguyên được cách phát âm.

Các từ tiếng Khmer đi vào tiếng Việt cũng chịu sự đồng hóa của tiếng Việt cả về ngữ âm và

ngữ nghĩa.

Theo phương thức vay mượn kết hợp từ của ngôn ngữ được vay mượn với từ của ngôn ngữ

vay, tiếng Khmer vay mượn chủ yếu ở các tên bánh, tên cá, tên hoa, tên khô; tiếng Việt vay mượn

chủ yếu ở các tên chùa, tên cầu, tên chợ ấp.

KẾT LUẬN

Vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ là vấn đề tất yếu, vấn đề chung cho mọi ngôn ngữ trên thế giới.

Bởi lẽ, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, nó có vai trò làm phương tiện giao tiếp. Nhu cầu được

giao tiếp là một trong những nhu cầu bức bách của con người trong xã hội. Sự giao tiếp đã làm cho

ngôn ngữ tất yếu phải tiếp xúc với nhau.

Quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ sẽ đưa đến nhiều hệ quả như: giao thoa ngôn ngữ,

chuyển mã và hòa mã trong giao tiếp; trong đó, có một hệ quả tất yếu do sự ảnh hưởng lẫn nhau

giữa các ngôn ngữ khi tiếp xúc là vay mượn từ vựng.

Các ngôn ngữ vay mượn từ vựng của ngôn ngữ khác theo 4 phương thức: dịch nghĩa (can –

ke ngữ nghĩa), phiên âm, chuyển tự, mượn nguyên dạng của nguyên ngữ.

Theo lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ, tiếng Việt và tiếng Khmer có điều kiện tiếp xúc

với nhau từ rất lâu. Xét về mặt nguồn gốc, tiếng Việt và tiếng Khmer cùng chung nguồn gốc (cùng

thuộc ngữ hệ Nam Á, khối Môn Khmer, nhánh Môn Khmer Đông) nên giữa hai ngôn ngữ vừa có

những điểm tương đồng vừa có những chỗ dị biệt.

Khảo sát sự vay mượn từ vựng lẫn nhau giữa hai ngôn ngữ Việt - Khmer ở một số tỉnh đồng

bằng sông Cửu Long cần thấy được: đặc điểm của chúng xét về loại hình ngôn ngữ, về đặc điểm

phương ngữ Nam Bộ của tiếng Việt, sự chệch chuẩn của tiếng Khmer Nam Bộ so với tiếng Khmer

chuẩn, sự khác biệt mang tính chất phương ngữ của tiếng Khmer ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu

Long (tiếng Khmer Trà Vinh khác với tiếng Khmer ở Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang), những

điểm tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ.

Khảo sát lớp từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt và lớp từ tiếng Việt vay mượn của

tiếng Khmer, chúng tôi nhận thấy rằng, rõ ràng lượng từ tiếng Việt đi vào tiếng Khmer nhiều hơn

rất nhiều so với lượng từ tiếng Khmer vào tiếng Việt. Và các từ gốc Việt có mặt ở hầu hết các lĩnh

vực của đời sống xã hội trong tiếng Khmer. Trong khi đó, lượng từ gốc Khmer trong tiếng Việt

cũng không ít nhưng sự phân bố của nó ở các lĩnh vực lại không đồng đều. Từ Việt gốc Khmer chủ

yếu có mặt ở các tên địa danh – tên ấp, tên chùa, tên lúa; một ít từ chỉ công cụ trong đời sống sinh

hoạt hàng ngày, tên một số loại cây, một số con vật,..

Dựa vào cứ liệu khảo sát được, chúng tôi quy lớp từ tiếng Việt và tiếng Khmer vay mượn của

nhau vào năm phương thức: vay mượn theo kiểu dịch nghĩa; vay mượn từ và phát âm theo cách phát

âm của ngôn ngữ vay mượn; vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm theo nguyên ngữ; vay

mượn bằng cách dịch một hoặc một vài thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn

lại tổ hợp từ của ngôn ngữ được vay mượn; vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ của ngôn ngữ vay

mượn với từ của ngôn ngữ được vay mượn. Cả hai ngôn ngữ đều có ngữ liệu theo năm phương thức

này.

Với các từ hoặc các yếu tố được vay mượn theo cách phỏng âm, ngôn ngữ cho vay tất yếu

phải chịu sự chi phối của ngôn ngữ vay mượn về mặt ngữ âm, tức các từ ngữ này sẽ có sự biến đổi ít

nhiều về mặt ngữ âm từ ngôn ngữ được vay mượn sang ngôn ngữ vay mượn. Sự khác biệt giữa

ngôn ngữ có thanh điệu và ngôn ngữ không có thanh điệu, khác biệt về hệ thống âm vị, khác biệt

giữa ngôn ngữ đơn tiết tính và ngôn ngữ cận đơn tiết tính của tiếng Việt và tiếng Khmer đã làm biến

đổi ngữ âm của nguyên ngữ khi được vay mượn.

Những trường hợp từ ngữ tiếng Việt vào tiếng Khmer, sự biến đổi ngữ âm đầu tiên thể hiện ở

sự biến đổi về thanh điệu, phần nhiều các âm tiết mang các dấu thanh tiếng Việt hoặc sẽ mất thanh

điệu hoặc nhất loạt biến thành thanh huyền. Bên cạnh thanh điệu, một số âm vị phụ âm đầu, âm

đệm, âm chính, âm cuối cũng xảy ra sự biến đổi. Tuy vậy, do sự cọ sát lâu dài giữa hai ngôn ngữ

Việt - Khmer trong quá trình cộng cư, người Khmer Nam Bộ đã có ý thức và quen dần với thanh

điệu của tiếng Việt. Vì thế, đã có một lượng từ ngữ của tiếng Việt khi vào tiếng Khmer vẫn được

phát âm như trong nguyên ngữ, dù các âm tiết của các từ có mang các thanh như thanh sắc hoặc

thanh nặng.

Những trường hợp tiếng Việt vay mượn từ ngữ của tiếng Khmer, đối với các từ có âm tiết

mang tổ hợp phụ âm đầu, sẽ có hai hướng, hoặc cho rụng mất âm vị thứ hai hoặc âm tiết hóa đối với

âm vị thứ nhất của tổ hợp. Các âm vị thuộc các vị trí khác trong cấu tạo của âm tiết cũng ít nhiều

xảy ra sự biến đổi. Cách xử lí thanh điệu của tiếng Việt đối với tiếng Khmer cũng có hai con đường:

một là giữ nguyên không có thanh điệu như nguyên ngữ, tức để cho âm tiết mang thanh ngang; hai

là thanh điệu hóa theo âm sắc của âm tiết trong nguyên ngữ.

Khi vay mượn, có từ, nghĩa của nguyên ngữ vẫn được bảo lưu trong ngôn ngữ vay mượn; có

từ, nghĩa nguyên ngữ bị thu hẹp hoặc giới hạn phạm vi sử dụng; có từ, ngôn ngữ vay mượn phái

sinh nghĩa từ một nét nghĩa nào đó của ngôn ngữ được vay mượn; với các từ đa nghĩa, có hiện

tượng, cùng một từ, khi được vay mượn theo phương thức dịch nghĩa thì ở các tổ hợp khác nhau, từ

được dịch theo các nghĩa khác nhau.

Từ những khảo sát về sự vay mượn từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở một số tỉnh

đồng bằng sông Cửu Long , chúng ta có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu của vấn đề ra tất cả các

bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Vấn đề này có một ý nghĩa rất lớn. Nó giúp cho việc học

tiếng Khmer để giao tiếp với người Khmer của các cán bộ người Kinh được thuận lợi hơn, thiết thực

hơn. Các cứ liệu vay mượn trên các bình diện ngôn ngữ này sẽ góp phần làm cho hai dân tộc xích

lại gần nhau hơn, càng thêm gắn bó với nhau hơn, càng phát huy hơn tinh thần đoàn kết giữa hai

dân tộc Kinh – Khmer.

Vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ nói chung và vấn đề tiếp xúc giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ trên

lãnh thổ Việt Việt Nam, trong đó có sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với tiếng Khmer nói riêng chưa

nhận được sự quan tâm nghiên cứu đúng mức. Thiết nghĩ, đây là “mảnh đất màu mỡ và cần được

khai thác”. Bởi như đã nói, trong một xã hội đa tộc, đa ngữ như nước ta, sự tiếp xúc và ảnh hưởng

lẫn nhau giữa các ngôn ngữ là điều không thể tránh khỏi . Kết quả nghiên cứu các vấn đề này góp

phần minh chứng và cổ vũ cho chính sách ngôn ngữ của nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TIẾNG VIỆT 1. Lê A (chủ biên) (?), Tiếng Việt (tài liệu đào tạo giáo viên), NXB Đại học Sư phạm và NXB Giáo dục 2.Thái Văn Chải (1997), Tiếng Khmer (ngữ âm – từ vựng – ngữ pháp), NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội

3.Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB ĐHQG Hà Nội. 4.Trần Trí Dõi (2003), Chính sách văn hóa ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam, NXB ĐHQG, Hà Nội. 5.Phạm Đức Dương (1982), Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, NXB Khoa

học Xã hội.

6. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hóa, NXB Giáo dục. 7. Vũ Minh Giang chủ biên (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ , NXB Thế giới. 8. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB ĐHQG, Hà Nội. 9. Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ vựng học tiếng Việt, NXB GD, Hà Nội. 10. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng (2005), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đối chiếu Anh – Việt, Việt – Anh, NXB Khoa học Xã hội, Tp.HCM.

11. Lý Tùng Hiếu (2006, 2007), “ Hình thức tổ chức cộng đồng cơ sở của các dân tộc Môn – Khmer, từ góc nhìn ngôn ngữ học nhân học”, Hội thảo khoa học “ Tiếng Việt – Tiếp xúc ngôn ngữ, giao lưu văn hóa”, Tập san Ngoại ngữ - Tin học và Giáo dục, (9).

12. Lý Tùng Hiếu (2010), “Tiếng Việt Nam Bộ: Lịch sử hình thành và các đặc điểm về ngữ âm, từ vựng”, Khoa Văn hoá học, Trường Đại học KHXH & NV TP.HCM

13. Nguyễn Thị Huệ, (2010), Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng Việt (trường hợp tỉnh Trà Vinh), Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh 14. Nguyễn Thị Huệ, (2008), “Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Khmer Trà Vinh”, Tạp chí

Nghiên cứu khoa học và Ấn phẩm Trường ĐH Cần Thơ, (09).

15. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB Giáo dục, Tp. HCM. 16. Huỳnh Công Minh Hùng (1996), “Ngôn ngữ như một đặc trưng quan trọng của văn hóa dân tộc

(Việt Nam) dưới góc nhìn của lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ”, Ngữ học trẻ. 17. Sơn Phước Hoan, Phan Xuân Thành, Sơn Thê, Sơn Ngọc Sang, Danh Hồng (2004), Từ điển Việt – Khmer, NXB Giáo dục, Tp. HCM.

18. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội 20. Nguyễn Văn Khang (2003), “ Vị thế của tiếng Việt đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam: từ chủ trương, chính sách đến thực tế”, Ngôn ngữ, (11).

21. Nguyễn Đăng Khánh (1996), “Sự giao thoa ngữ nghĩa chỉ số phát triển của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học, Trường ĐHTH TP.HCM. 22. Trường Lưu (chủ biên) (1993), Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB Văn hóa Dân tộc.

23. Ngô Chân Lý (2008), Từ vựng Khmer – Việt, NXB Thông tấn 24. Nguyễn Quang Minh (2007), Phương pháp dạy học chữa lỗi dùng từ ngữ, ngữ pháp cho học sinh THPT dân tộc Khmer, Luận văn thạc sĩ Giáo dục học, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 25. Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội.

26. Đoàn Thanh Nô (2002), Người Khmer ở Kiên Giang, NXB Văn hóa Dân tộc. 27.Vũ Đức Nghiệu (2002), “So sánh ngữ nghĩa, ngữ pháp của được, bị, phải trong tiếng Việt với ban, trâu trong tiếng Khmer”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3).

28. Tô Diễn Phong (1999), “ Vài nét về nghiên cứu ngôn ngữ qua văn hóa”, Ngôn ngữ và Đời sống, (4).

29. Đào Thản (2001), “Phương ngữ Nam Bộ - tiếng nói của quê hương vùng cực nam tổ quốc”, Ngôn ngữ và Đời sống, (1+2), . 30. Nguyễn Kim Thản (1984), Về tiếng nói vùng đồng bằng sông Cửu Long; trong Mấy đặc điểm văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội, Viện Văn hóa.

31.Nguyễn Phương Thảo sưu tầm tuyển chọn (1994), Huyền thoại miệt vườn, NXB Văn hóa – Thông tin. 32. Bùi Khánh Thế (2002), Đề cương chi tiết bài giảng môn học Lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn

đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam ( Tài liệu lưu hành nội bộ). 33. Bùi Khánh Thế (2005), Lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 34. Bùi Khánh Thế (2005), Tiếp xúc ngôn ngữ và việc vận dụng tiêu chuẩn về đặc trưng ngôn ngữ

trong khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 35. Bùi Khánh Thế (2006), “Từ ngòi bút sắt đến chiếc máy tính và những vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Xã hội (8) .

36. Bùi Khánh Thế (1993), Ngôn ngữ văn hóa các dân tộc thiểu số từ góc nhìn quan hệ ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 37. Đinh Lê Thư, Trần Thanh Pôn, Nguyễn Khắc Cảnh, Đinh Lư Giang (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, NXB Đại học Quốc gia, Tp.HCM.

38. Huỳnh Công Tín (1996), “Một số đặc điểm phát âm tiếng Việt của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Ngôn ngữ học trẻ 96. 39. Bùi Minh Toán, Đặng Thị Lanh (2006), Tiếng Việt đại cương – Ngữ âm, NXB Đại học Sư

phạm. 40.Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng Văn hóa – Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 41. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, NXB Khoa học

Xã hội Hà Nội. 42. Lê Văn Trung (2010), Hiện tượng chuyển di từ tiếng Hán sang tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ

Ngôn ngữ học, Trường ĐH Sư phạm Thành Hồ Chí Minh, Thành phố Hố CHí Minh 43. Nguyễn Kiên Trường (chủ biên), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội. 44. Nguyễn Kiên Trường (1997), “Địa danh Hải Phòng – nguồn cứ liệu về sự giao thoa và tiếp xúc ngôn ngữ”, Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu Đông nam Á, Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Quốc gia, Hà Nội, (1) .

45. Nguyễn Kiên Trường (1998), “Mã văn hóa và ngôn ngữ của người Việt qua tên làng”, Báo cáo khoa học trong Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học ngày15 – 17/7/1998, NXB Thế giới.

46. Nguyễn Kiên Trường (chủ biên) (2004), Tiếp xúc ngôn ngữ trong quá trình hình thành không gian văn hóa đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài cấp Viện 2003 – 2004, Trung tâm nghiên cứu Ngôn ngữ học.

47. Hoàng Tuệ (1979), “ Một số vấn đề về chuẩn mực hóa ngôn ngữ”, Ngôn ngữ (3,4). 48. Lâm Xai, Thạch Xarắt, Sô Phin (1998), Ngữ pháp tiếng Khmer, NXB Văn hóa Dân tộc. 49. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội 50. Nhiều tác giả (2003), Phát triển giáo dục vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB Đại học Quốc gia,

Tp.HCM.

51. Viện ngôn ngữ học, (2010), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. 52.Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

B. TIẾNG ANH

53. Matthews, P. H. (1997), The concise Oxford dictionary of linguistics, Oxford University Press. 54. Odlin , T. (1989), Language transfer, Cambridge University Press.

55. Trask, R. L. (2000), The dictionary of historical and comparative linguistics, Edinburgh University Press

PHỤ LỤC

TỪ TIẾNG VIỆT TIẾNG KHMER VAY MƯỢN

Xi p – hem Ao/ào wêng/wèng (w bật hơi) Ao/ào lnghia/nghè (ngbật hơi) Num că/cặ Pcà xpei (ph hai môi) Pcà cđặ Xphầy tdôn Xpei mơm/mờm (m bậthơi) Xppei chhơ (ch bật hơi) Xpei xo Xpei khêu Cồ lmị mục Đệk khmâu Khlanh/prêng phlơn Chư (ch bật hơi) phnêk Đệk xo Đêk khiêu Khnơi ôp/ộp Pcà mồn đop/đọp Ầm phộc Cđâu/đầu mục/mục (m bậthơi) Tức cọt/thmo Phòng tưc Khô thnọp(n bật hơi)/thnọp Khô prăng/prằng Cô Ch - âng/ầng

Ăn sáng Áo dài Áo lạnh Bánh đồng tiền Bông cải Bông giấy Cải bắp Cải củ Cải gỗ Cải trắng Cải xanh Cạo lông mặt Đậu đen Dầu lửa Đau mắt Đậu trắng Đậu xanh Gối ôm Hoa mười giờ Móc (treo quần áo) Nóng mặt Nước đá Ống nước Quần lót Quần tây Quậy Xương (mua thịt xương) PHỤ LỤC 1 BẢNG PHỤ LỤC 1.1 Số thứ tự 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

BẢNG PHỤ LỤC 1.2

TỪ TIẾNG VIỆT TIẾNG KHMER VAY MƯỢN

Số thứ tự

ảnh hưởng Bác sĩ Bàn chải Bản đồ Bán rao Ành hường Bac xì Bàn chài Bàn đồ Ban rao 1 2 3 4 5

Bảng cửu chương Băng vệ sinh Báo Bảo lãnh Bao ngạn Bảo tàng Bắt mạch Bến đò Bến phà Bến xe Bệnh viện Bênh vực Bí mật Bí thư Bia lon Biểu diễn thời trang Bổ Bộ đội Bộ giáo dục Bộ nông nghiệp Bộ trưởng Bóng đèn Bóp Bớt (đau) Bực bội Bức rức Bún tàu Cà phê đá Cải lương Cải ngọt (Cái) vỉ Cấm Cấm cản Cắm trại Cảng Cảnh (trong hát tuồng) Cảnh sát Cao su Cấp cứu Chả Chán Chất độc Chính trị Chủ nhật Chủ nhiệm Chủ tịch Chủ tịch xã Chuẩn bị Chung kết Cơ hội Cốm Bàng cùc hương Băng dề xinh Bao Bào lành Bào ngang Bào tàng Băc mạch (m bật hơi) Bênh đò Bênh phà (ph hai môi) Bênh xe Bình diền (d bật hơi) Binh dực (d bật hơi) Bi mật Bi thư Bia lòn Biều diền (d bật hơi) thời trang Bồ Bồ đồi Bồ dao dục Bồ nông nghiệp Bồ trường Bong đèn Bôp Bơt Bực bồi Bưc rưc Bun tàu Cà phe (ph hai môi) đa Cài lương Cài ngọt Dì (d bật hơi) Câm Câm càn Căm trài Càng Cành Cành xat Càu xu Câp cu Chà Chan Chât độc (ô phát âm hẹp hơn) Chinh trì Chù nhực Chù nhiềm Chù tịch Chù tịch xã Chừng bì Chung kêch Cơ hồi Cồm 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 55 56 57

Cơm mẻ Cúm gia cầm Cuốn sách Cuốn sổ Đá bào Đại hội Đại lí Đại úy Đảng ủy Danh dự Đầu đĩa Đầu máy Đậu que Dây cáp Dây chì Dép Đĩa Địa lí Điện Điện giật Điện thoại Diễn viên điện ảnh Điều kiện Dính dấp Đỡ (đau) Dòng họ Đóng vai Dựa (hàng) Dược sĩ Đường tráng nhựa Gấp Ghiền Giả Giải quyết Giám đốc Giành Giấy khen Giỏi Giường Gỏi Hạng nhất Hiệu phó Hiệu trưởng Hình chữ nhật Hình tam giác Ho gà Học bỗng Hội nghị Hội phụ nữ Hộp quẹt Hợp tác hóa Côn mè Cum da cằm Cuôn xach Cuôn xồ Đa bào Đài hồi Đài li Đài wi Đàng wì Danh dừ Đầu đìa Đầu mai Đầu we Dây cap Dì (d bật hơi) chi Dệp Đìa Đìa li Điền Điền dựt Điền thòi Diền diên điền ành Điều kiền Dình (d bật hơi) dọp (d bật hơi) Đờ Dòng hò Đông dai Dừa (d bật hơi) Dược xì Đường trang nhừa Râp Riềng (r bật hơi) Dà (d bật hơi) Dài wiết Dam đôc Dành (d bật hơi) Dây khen Dòi (d bật hơi) Dường (d bật hơi) Ròi (r bật hơi) Hàng nhức Hiều pho (ph hai môi) Hiều trường Hình chừ nhực Hình tam dac Ho rà (r bật hơi) Hộc bồng Hồi nghì Hồi phù (ph hai môi) nừ Cwẹt Hộp tac wa 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108

Hợp tác xã Hột vịt lộn Hột vịt muối Hứa Hứa hẹn Huyện Kế toán Kế toán trưởng Keo dán sắt Khánh thành Khẩu trang Khiếu nại Kỉ luật Kĩ sư Kí tên Kiểm tra Kiến thiết Kiểu Kinh Làm bộ Lăn lộn Lãnh Lắp ráp Lặt vặt Lễ Lịch sử Liếp Liều mạng Lỡ Luận văn Lưới Luôn luôn Mai chuỗi Mắm Mật thám Màu tím Máy Máy cày Máy in Máy quạt Máy sấy Máy vi tính Máy xới Mĩ phẩm Món (ăn) Món tái Một công Mục đích Mứt Mỹ phẩm Năng lượng Hộp tac xà Hột dịt lồn Hột dịt muôi Hưa Hưa hèn Wiền Kê ton Kê ton trường Keo dan xăt Khanh thành Khầu trang Khiêu nài Kì lực Kì xư Ki tênh Kiềm tra Kiên thiêt Kiều Kênh (ênh phát âm giống phương ngữ Bắc) Lầm bồ Lăn lồn Lành (anh phát âm giống phương ngữ Bắc) Lấp rap Lặt dặt (d bật hơi) Lề Lịch xừ Liep Liều màng Lờ Lừng dăn Lưi Luôn luôn (uôn phát âm rộng hơn) Mai chùi Măm Mật tham Mào tiêm Mây Mây cài Mây in Mây quạt Mây xây Mây wi tinh Mây xơi Mì phầm Mon Mon tai Mò công Mục đích Mưc Mì phầm (ph hai môi) Năng lường 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 159 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160

Nem nướng Nghỉ hè Nghĩa vụ Ngũ cốc Ngược ngạo Nguyên chất Nhập khẩu Nhảy đầm Nhảy dù Nhõng nhẽo Nhúc nhích Nịnh bợ Nước ngọt Nước tẩy Ổ điện Ống bơm Phá Phá hoại Phá sản Phái đoàn Pháo Pháp luật Phát Phạt Phát triển Phim Phó chủ tịch xã Phó giám đốc Phòng cháychữa cháy Phỏng vấn Phù hiệu Quan trọng Què Quẹo Quý giá Quýt Rối loạn tiêu hóa Sân vận động Sản xuất Sổ danh bạ Sổ sách Sở thú Sữa Sửa (chữa) Sữa đậu nành Sửa soạn (trưng diện) Suy dinh dưỡng Tác giả Tài khoản Tài liệu Tài sản Nem nương Nghì hè Nghì dù (d bật hơi) Ngù cốc Ngươc ngào Nguyên chất Nhập khầu Nhầy đầm Nhầy dù (d bật hơi, u hẹp hơn) Nhoòng nhèo Nhuc nhic Nình bờ Nước ngòt Nươc tầy Ồ điền Ông bôm Pha (ph hai môi) Pha wài Pha xàn Phai (ph hai môi) đòn Phao (ph hai môi) Phap (ph hai môi) lực Phat ( ph hai môi) Phat (ph hai môi) Phat (ph hai môi) triền Phin (ph hai môi) Pho (ph hai môi) chù tịch xà Pho dam đôc Phồng (ph hai môi) chai chừa chai Phồng dân Phù hiều Wan trồng Cwè Wèo Wi da Cwic Rôi lòn tiêu wa Xân dần đồng Xàn xưc Xồ danh bà Xồ xach Xờ thu Xừa Xưa Xừa đầu nành Xưa xòn Xi dinh dường Tac dà (d bật hơi) Tài khoàn Tài liều Tài xàn 161 162 163 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213

Tâm lí Tạm thời Tạm trú Tấn Tập thể dục Tàu hủ Tay lái Thang máy Thành phố Thành thạo Thất vọng Thầy kí Thêm Theo dõi Thí nghiệm Thị xã Thiếu úy Thỏa thuận Thông báo Thử Thứ ba Thứ bảy Thứ hai Thư kí Thứ năm Thủ quỹ Thứ sáu Thứ tư Thủ tướng Thức ăn (gia xúc) Thuế Thuế hải quan Thùng Thùng vòi Thùng xăng Tỉ mỉ Tiệm (bán hàng) Tiến bộ Tiện nghi Tiết kiệm Tiểu thuyết Tín dụng Tỉnh Tình trạng Tỉnh trưởng Tổ chức Toán Toàn bộ Toán đố Tối đa Tổng cộng Tăm li Tàm thời Tàm tru Tân Tặp thề dục Tào hù Tai lai Thang mây Thành phô (ph hai môi) Thành thào Thất dồng (d bật hơi) Thầy ki Them (phát âm giửa e và ê) Theo dòi (d bật hơi) Thi nghiềm Thì xà Thiêu wi Thò thừng Thông bao Thư Thư ba Thư bầy Thư hai Thư ki Thư năm Thù wì Thư xao Thư tư Thù tương Thưc ăn Thue (e có độ rộng giữa e và ê) Thue hài wan Thung Thung dòi (d bật hơi) Thung xăng Tì mì Tiêm Tiên bồ Tiền nghi Tiêt kiềm Tiều thiết Tin dùng Tình Tình tràng Tình trường Tồ chưc Ton Tòn bồ Ton đô Tôi đa Tồng cồng 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 550 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264

Tổng thống Trà đá Trại lính (Trái) táo Trạm Trạm xá Trán (xi măng) Trang điểm Trang trại Trang trí Trị Triễn lãm Trở ngại Trực tiếp Trừng trị Trung úy Từ điển Tự động Tử hình Tủ lạnh Tự tử Tục tĩu Tức tối Tương ớt Tựu trường Tuyên bố Ủng hộ Ủy ban Ủy quyền Uy tín Vai chính Vai phụ Ván ép Văn phòng Vật lí Vật liệu Vắt sổ Vi khuẩn Viêm phổi Việt kiều Vòi Vốn Vớt (lên) Vượt biên Xã Xà lách Xe máy (xe đạp) Xếp hàng Xét Xích đu Xỉu Tồng thông Trà đa Trài linh (inh phát âm giống phương ngữ Bắc) Tao Tràm Tràm xa Tran Trang điềm Trang trài Trang tri Trì Triền làm Trờ ngài Trực tiêp Trừng trì Trung wi Từ điền Từ đồng Từ hình Tù lành Từ từ Tục tìu Tưc tôi Tương ơt Tù trường Tiên bô Ùng hồ Wì ban Wí wiền Wi tinh Dai chinh Dai phù (ph hai môi) Dan ép (e có đọ rông giữa e và ê) Dăn phồng (ph bai môi) Dật li Dật liều Dắt xồ Wi khuần Diêm phồi (ph hai môi) Diệt kiều Dòi (d bật hơi) Dôn Dơt Dực (d bật hơi) Xà Xlạch (ach phát âm giống phương ngữ Bắc) Chà mầy Xăp hàng Chhec (e có đọ rông giữa e và ê) Xich đu Xìu 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315

316 317 318 319 Xưc khầu Ì Y xì Y ta Xuất khẩu Ỷ (lại) Y sĩ Y tá

BẢNG PHỤ LỤC 1.3

thứ TỪ Số thứ tự TỪ

Li Lịch Liên hoan Liều (thuốc) Lo (lo lắng) Lời Lồng đèn Lớp Luông Màn Màu hồng Màu nâu Mê Mét Mờ mờ Mời Môn thi Mực Nem Ngân hàng Nghề nghiệp Nghẹt xăng Nghi ngờ Ngược chiều Nhà kho Nhà thương Nhân viên Nhờ Nhớt Phân công Phần trăm Phòng Phụ tùng Phức tạp (ph hai môi) Rạp hát Riêng (riêng chung) Rước Sầu riêng Sơn Tập (phim) Tập đọc Tập trung Tem Thanh tra Thầy thông Thịt nạt Thời tiết Thu băng Thực đơn Thước Thuộc bài Thuốc lắc Thuốc tê Thương binh Thường trực Thường xuyên Tình cờ Tình hình Tòa Tôn (Trái) bôm Lê Nho Trung bình Truyền hình Tư nhân Từ từ Tương đương Tuyên truyền Tuyên truyền viên Ung thư Ưu tiên Văn phòng Vật tư Vật tư(ư phát âm hẹp hơn) Viết chì Số tự 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80

39 40 41 42 Xe buýt Xi măng Xích đu Sinh (môn sinh) Sinh nhật Sơ sơ Soạn giáo án 81 82 83 84

BẢNG PHỤ LỤC 1.4

TỪ TIẾNG VIỆT TIẾNG KHMER VAY MƯỢN

Áo mưa Áo sơ mi Áo sọc Bà ngoại Bà nội Bà phước Cá kho Chả cá Chả cá lóc Cơm dĩa Con hà mã Dây điện Đồ giũa móng tay Đổ khuôn Đồng hồ điện Giấy cam kết Giấy chứng minh nhân dân Giấy khai sinh Giấy mời/ thư mời Giấy tạm trú Heo quay Học cấp hai Khoai mì Khuôn hình Kiểu mới Lính nhảy dù Một chỉ vàng Mủ cao su Nhà chung cư Nhà lầu Nhà một tầng Nồi điện Nón bảo hiểm Nước cốt dừa Nước nông thôn Nước phun tên Nước tương Ào mưa Ào xmi Ào xộc Dầy (d bật hơi)ngoài Dầy (d bật hơi) nồi Dầy (d bật hơi) phước ( ph hai môi) Trây kho Chà trây Chà trây pthộc Bài dìa (d bật hơi) Côn hà mà Cxe điền Pđặp dùa cchoọc đầy Chặc khuôn Nè (n bật hơi)/ nia lề ca điền Cđặ cam kêt Cđặ chưng minh nhân dân Cđặ khai xinh Cđặ mời Cđặ tàm tru Chrụt cwầy Riền ( r bật hơi)/ riên câp hai Lôn mây Khuôn ruôp/ ruộp (r bật hơi) Kiều mây ( m bật hơi) Linh nhầy dù ( d bật hơi) Mò chì mẹ ( m bật hơi, ê < e

38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 Tà ngoài Tà nồi Phòng ( ph hai môi) đất Quan lộc ( l ab6t5 hơi) bài Khô rin Lề càng cua Xỗc khmâu Xộc c – hom Xộc xo Xộc p – hut Xộc khiêu Từng crồm Tàu hù chiên Thung chnột (n bật hơi) Thung xầm bach Tiêm ut xooc Cặ chiên chờ Cặ lương Phlê xầu riêng Phlê thanh long Xlà cao đằng Xlà dân tộc nồi tru Chòm cà cà phe ( ph hai môi) Chòm cà cam Chòm cà càu xu Chòm cà cwic À thệ chừ thập đò À thệ du lịch À thệ tốc hành À thệ xích lô

Ông ngoại Ông nội Phòng ngủ Quán bán cơm Quần rin ( zean) Rau càng cua Sọc đen Sọc đỏ Sọc trắng Sọc vàng Sọc xanh Tầng dưới Tàu hủ chiên Thùng phiếu Thùng thư Tiệm uốn tóc Tiền chuyên chở Tiền lương Trái sầu riêng Trái thanh long Trường cao đẳng TrườngDân tộc Nội trú Vườn cà phê Vườn cam Vườn cao su Vườn quýt Xe chữ thập đỏ Xe du lịch Xe tốc hành Xe xích lô

BẢNG PHỤ LỤC 1.5

TỪ TIẾNG VIỆT TỪ TIẾNG KHMER

Ếch kho Tép kho Khô cá khoai Khô cá bống Khô cá dứa Khô cá đuối Khô cá đường Khô cá lù đù Khô cá mặn Khô cá mực Bông huệ Bông hồng Cồng kẹp kho Khè kho Nghiệt khô cá khoai Nghiệt khô cá bông Nghiệt khô cá dưa Nghiệt khô cá đuôi Nghiệt khô cá đường Nghiệt khô cá lù đù Nghiệt khô cá mằn Nghiệt khô cá mực Pcà bông huệ Pcà bông hồng Số thứ tự 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Pcà bông cúc Pcà bông lan Pcà bông trang Pồn tè kho Trây ca ma Trây cá điêu hồng Trây ca ba sa Trây ca bông lau Trây ca bông trưng Trây ca bông xao Trây ca chép Trây ca chỉ vàng Trây ca linh Trây ca mập Trây ca mực Trây ca nục Trây ca phèn Trây ca phi Trây ca tai tường Xách mòn kho Xách chrụt kho Xách thè kho

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 Bông cúc Bông lan Bông trang Hột vịt kho Cá bạc má Cá điêu hồng Cá ba sa Cábông lau Cá bống trứng Cá bống xao Cá chép Cá chỉ vàng Cá linh Cá mập Cá mực Cá nục Cá phèn Cá phi Cá tai tượng Thịt gà kho Thịt heo kho Thịt vịt kho

PHỤ LỤC 2 BẢNG PHỤ LỤC2.1

TỪ TIẾNG VIỆT Vô năm Bánh lá Chùa lớn Số thứ tự TỪ TIẾNG KHMER 1 2 3

Chuôl chnăm thmây Nùm lất Wát Thôm

BẢNG PHỤ LỤC 2.2

Bài chhâu Pphề (ph hai môi, e

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 Cần thô Cần chhe (e

BẢNG PHỤ LỤC 2.3 Số thứ tự TỪ 1 2 Đuông Sên dolta

BẢNG PHỤ LỤC 2.4 Số thứ tự

TỪ TIẾNG KHMER Dầy dèm Trây cần chôh Trây cần thô Trây prà Trây slát Wọt (w bật hơi)Lân Pnằng tuk/thụk ngô Mòn chề Tuk ngô/ngồ (ng bật hơi) TỪ TIẾNG VIỆT Bà giam Cá chốt Cá lò tho Cá tra Cá thát lát Chùa Leng Đua ghe ngo Gà che Ghe ngo 1 2 3 4 5 6 7 8 9

Xrâu pxăc Xrâu bột cthung Xrâu cà àng Xrâu cà bươi Xrâu cđằng bôn châu Xrâu cđằng chhem Xrâu cđằng đôt Xrâu cđằng nhen Xrâu cđằng sol Xrâu tđột Xrâu pđôm Xrâu cđuôi Xrâu cdây Xrâu cmò Xrâu cnhèn Xrâu crôm Xrâu cxach Xrâu cthăng Xrâu ctiêu Xrâu chò chầy Xrâu choc chạp Xrâu chồng bè (e

Xrâu nèng meo Xrâu nèng mẹt (m bật hơi Xrâu nèng mịt (m bật hơi) Xrâu nèng mồ (m bật hơi) Xrâu nèng nẹt (n bật hơi) Xrâu nèng nhèn (nh bật hơi) Xrâu nèng nột (n bật hơi) Xrâu nèng phia (ph hai môi) Xrâu nèng phiêt (ph hai môi) Xrâu nèng phóp (ph hai môi) Xrâu nèng phôt (ph hai môi) Xrâu nèng quốc c - hom Xrâu nèng quốc xo Xrâu nèng quốc Xrâu nèng rùm (r bật hơi) Xrâu nèng xai Xrâu nèng xmach Xrâu nèng samia soth Xrâu nèng xây Xrâu nèng xít Xrâu nèng xuốt Xrâu nèng tay Xrâu nèng the (ê

113 114 115 116 117 118 119 120 Xrâu tbâu Prêk thè/tia Prêk tà cuôl Sróc wot Sróc xre Chặc cliêc Thè xiêm Xoai Thum Lúa tra bau Rạch tìa Sông Trà Cuông Sóc chùa Sóc ruộng Thọt léc Vịt xiêm Xoài Thum

BẢNG PHỤ LỤC 2.5

TỪ TIẾNG KHMER TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN

Số thứ tự

Tà Khâu Tà Kim Tà Mềm Tà Mẹt (m bật hơi) Cà Nọt Tà Ồn Tà Ột Tà Phọt (ph hai môi) Tà Phồ (ph hai môi) Tà Quýt Tà Quýt Tà Sât Tà Sốt Crò Tà Uông Tà Mặc (m bật hơi) Dèm Rây (d, r bật hơi) Xa Phum Xrùm (r bật hơi) X-xi Xphồ (ph hai môi) Xoai Xiêm Xrôc Tức Xa thồ Dầy (d bật hơi) Đèng Chành prich Sô prich Thnôt (n bật hơi) Tà Nì (n bật hơi) Maha cxach Cà chầy (ch bật hơi) Ấp Trà Kháo Ấp Trà Kim Ấp Trà Mềm Ấp Trà Mẹt Ấp Trà Nóc Ấp Trà Ôn Ấp Trà Ốt Ấp Trà Phọt Ấp Trà Pô Ấp Trà Quýt A Ấp Trà Quýt B Ấp Trà Sất Ấp Trà Sốt Ấp Trà Tro Ấp Trà Uôn Ấp Trăng Mặt Ấp Vàm Rây Ấp Xà Phun Ấp Xã Rùm Ấp Xa Xi Ấp Xô Pô Ấp Xoái Xiêm Ấp Xốc Tức Ấp Xóm Tộ Bà Đênh Bài thần chú Chanh – bờ - rích Bài thần chú Sô – bờ - rích Bánh thốt nốt Bền đò Tà Nị Bồ tát Mahô Sâth Bún nước cà chơi 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

Cà làng Cà om/cà òm Cràn Cquầu Neng/chneng (n, chn bật hơi) Xầm lò Cà Nhun Chà Kha Ch bâu Cầm phồ (ph hai môi) he Tà Nèng (n bật hơi) Xa Xiem Ầm bạt Thnôt (n bật hơi) Ành đọp/ đop Rèmmsua (r bật hơi) Cà làng Cà hom Nộp Chằng Bè Xách Maha Khrưt Sróc wềng (w bật hơi) Trọt Wot Ầng Tà Đột Tà Đột Cà Nhun Đờm rồn Chắc còm phằng (ph hai môi) Cồ Khia Tđột dèm (d bật hơi) Rạch Tìa Sróc xlầu Sróc wềng Sróc wềng Sróc Xoai Tà Mùn (m bật hơi) Tà mẹt (m bật hơi) Xa Nhi Xa Nhi Bành bạt Tức Dụp (d bật hơi) Thnốt Cxol Cămmaviết Duôc kê xră Anốti Thnốt (na bật hơi) Tà Câu Tà Ồn Nèng Mâu (m bật hơi) Xno (n bật hơi) Cà lang rơm Cái cà om Cái cà ràng Cái quảu Cái xà/cà neng Canh sâm lo Cầu Cà Nhum Cầu Chắc Kha Cầu Chưng Bầu Cầu Kapohe Cầu Tà Niên Cầu Xà Xim Cây bình bát Cây thốt nốt Chằm đốp Chằn Ramasua Chất cà lang rơm Chiếu cà hom Chiếu nóp Chim Chằng Bè Chim thần Maha Khờrứt Chợ Sóc Ven Chợ Trà Trót Chùa Âng Chùa Cả Đuốc Lớn Chùa Cả đuốc Nhỏ Chùa Cà Nhung Chùa Cây Trôm Chùa Chắc Băng Chùa Cỏ Khía Mới Chùa Đuốc Vàm Chùa Rạch Tìa Chùa Sóc Sau Chùa Sóc Ven Chùa Sóc Ven Cũ Chùa Sóc Xoài Chùa Tà Mun Chùa Tràm Mẹt Chùa Xà Nhi Chùa Xà Nhi Mới (ông lục) đi bal bát Đồi Tức Dụp Đường thốt nốt Gió thiêng Cămmaviết Hát dù kê Hồ Anốti Huyện Thốt Nốt Huyện Trà Cú Huyện Trà Ôn Kinh Nàng Mau Kinh Xà No 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82

83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 Chồng cò Tà Cuôn Cbặp Pr - hoc Pr - ọt Lột (l bật hơi) chanh (ch bật hơi) Hoọc xdam /xdàm Nèng Mêkhala Chồn hôn Dầy banh Acha/chà Lột (l bật hơi) Mê/mề (m bật hơi) Niêc/nẹc (n bật hơi) ta/tà Sombơrom Côđom Xră chịch (ch bật hơi) M - òm thnôt chrạch phlặc (phl bật hơi) Maha Prum pr bật hơi) Prặ (r bật hơi) In Prặ ( r bật hơi) Kao tôn Prặ (r bật hơi) Chanh Pră Atich Riahu Nèng Mâu Chằng Năm Cwach (w bật hơi) Lá chông co Láng Trà Côn Lạt cà bắp Mắm bò hóc Mắm bò ót Mời (đám) ông lục sal Múa sadam Nàng tiên Mêkhala Ngồi chồm hổm Núi Bà Panh Ông Acha Ông lục Ông Mê Ông Tà Phật Sombơrom Côđom Rạch Xã Chích Rau om Rượu thốt nốt Sông Ba Rạch Thần Komphônlác Thần Maha Pờrum Thần Pờ - rặc In Thần Pờ - rặc Kao tôn Thần Pờ rắc Chanh Thần Pờrặc Atít Thần Rìahu Thị trấn Nàng Mau Tổ Chằng Năm Trái quách